(c) CBG's txt ebook Địa Đồ Di Cốt Tác giả: James Rollins Dịch giả: Đinh Thế Lộc Đánh máy: PhongAnh , PhaLe , bạn Meobeo88, cunhoi, Kim Liên Trinh , nhucanhhacbay, only_want_love , whings , cocan11 , Nguồn: PhongAnh- VNthuquan - Thư viện Online Tạo Ebook: motsachgia Lời tác giả Thân tặng Alexandra và Alexander, cầu chúc cho cuộc sống của họ sáng lấp lánh như những vì sao Trong khuôn khổ cuốn sách này, tôi đã được rất nhiều người giúp đỡ từ bạn bè, gia đình, nhà phê bình, thủ thư, linh mục, nhân viên du lịch đến các cô bảo mẫu. Lời đầu tiên, tôi xin được cảm ơn Carolyn McCray, người đã đọc mỗi trang sách tôi viết ra trước tất cả mọi người và Steve Prey vì những ý tưởng và những điều phâ tích của ông đã hình thành nên một tác phẩm qua những trang viết này Phần Mở Đầu Chương 1 NGÀY THỨ NHẤT Đằng sau quả cầu thứ Tám Chương 1 (tt) Chương 2 Thành phố vĩnh hằng Chương 2 (tt) Chương 3 Bí mật Chương 4 Cát bụi về cát bụi. Chương 4 (tt) Chương 5 Điên cuồng Chương 5 (tt) Chương 6 Lại chậm chân Phần Mở Đầu Tháng Ba, 1162 Binh lính của ngài tổng giám mục đã tản ra nấp trong thung lũng phía dưới. Phía sau, trên con đường mòn là tiếng ngựa hí, tiếng cung nỏ rin rít. Những gã lính hò hét ầm ĩ, gào lạc cả giọng. Tiếng va chạm loảng xoảng của sắt thép nghe rõ mồn một như những hồi chuông nhà thờ. Nhưng đây không phải những kiệt tác của Chúa đang được tái tạo. Tốp lính phía sau được giao chốt trận địa. Friar Joachim nắm chặt dây cương khi con ngựa của gã tụt xuống ngọn đồi thoai thoải. Cỗ xe kéo chất nặng đã xuống tới chân dốc an toàn, nhưng để đi thoát được vẫn còn phải đi qua một chặng đường nữa. Nếu như họ có thể đến được nơi đó... Tay nắm chặt dây cương, Joachim thúc con ngựa cái tập tễnh xuống dưới thung lũng. Gã lao qua một con suối nhỏ đóng băng rồi ngoái lại phía sau. Dù mùa xuân đã đến rồi nhưng đây đó dấu vết của mùa đông vẫn còn rất rõ nét. Những vòm cây như tỏa ánh sáng lấp lánh dưới nắng chiều. Tuyết trắng hắt trở lại ánh sáng trời khi trên kia những mỏm núi trọc lốc, sương mù vẫn bao phủ. Còn dưới này trong vòm cây, tuyết tan đã biến cả bìa rừng thành một bãi lầy nhớp nhúa. Những con ngựa mỗi bước đi làm bùn bắn tứ tung, dường như muốn khuỵu chân xuống vì mệt nhọc. Ngay trước cỗ xe kéo lại tiếp đến một bãi lầy lõng bõng. Joachim thúc ngựa cố đuổi kịp đám lính ở cỗ xe. Một lũ ngựa khác bị sa lầy trong bùn. Tụi lính đang cố thúc chúng từ phía sau. Họ cố đến bằng được con đường mòn trải dài phía trước. "Ey-ya!" - Gã đánh xe ngựa hét lên, quật roi vun vút. Con ngựa đi đầu ngoái lại rồi gò lưng kéo cái ách. Chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Những dây xích lại căng lên, đám ngựa thở phì phò phả vào không khí, đám lính văng ra đủ những câu tục tĩu. Rồi thì cũng chầm chậm... thật quá chậm, cỗ xe được kéo ra khỏi vũng bùn với tiếng ì oạp như một vết thương lồng ngực mở toang hoác. Cuối cùng nó vẫn được đẩy lên phía trước. Mọi sự chậm trễ đều phải trả giá bằng máu. Những tên lính ngắc ngoải chờ chết trên mỏm đèo phía sau vẫn tiếp tục rên rỉ. Tốp lính chặn hậu phải cố trụ thêm một thời gian nữa. Chiếc xe vẫn nhích dần lên từng bước về phía trước. Người ta có thể thấy ba cỗ quan tài lớn bằng đá được cột với nhau bằng dây chão đặt trong lòng cỗ xe. Chỉ cần một trong ba cái quan tài đã vỡ ra thôi... Friar Joachim tiếng tới cỗ xe. Người em của y, Franz, áp con ngựa sát vào, nói nhỏ: "Đã trinh sát rồi, đường mòn phía trước an toàn." "Di vật này không thể nào bị lấy lại về Italy. Chúng ta phải đến biên giới" Franz gật đầu, tỏ vẻ như hiểu. Di vật không còn an toàn trên đất Italy nữa, chừng nào vị giáo hoàng thực sự đang còn phải tá túc ở nước Pháp, và kẻ đội lốt giáo hoàng còn đang trị vì ở Roma. Cỗ xe được kéo lên nhanh hơn mỗi bước đi càng chắc hơn. Tuy vậy tốc độ của nó vẫn không thể nhanh hơn so với người đi bộ. Joachim tiếp tục dõi nhìn về mỏm đồi phía xa. m thanh của trận chiến nay đã thu gọn lại ở những tiếng rên rỉ, khóc lóc đau đớn vọng qua thung lũng. Tiếng lách cách của những lưỡi gươm khua đã ngưng hẳn cho thấy tốp lính chặn hậu đã bị đánh bại hẳn. Joachim căng mắt nhìn vào khoảng tối đã bao trùm mỏm đồi phía trước. Bóng đen sẫm đã bao phủ tất cả những ngọn cây thông. Đột nhiên Joachim phát hiện một ánh lóe bạc. Một bóng hình đơn độc xuất hiện tập tễnh trên con đường độc đạo, giáo áo sáng lấp lánh. Joachim chả cần nhìn hình hiệu con rồng đỏ gắn trên ngực gã cũng biết ngay gã là cận vệ của vị giáo hoàng da đen. Gã là một người khổng lồ, cao hơn đám lính hẳn một cái đầu. Gã Sacaren bẩn thỉu đã lấy tên Thiên chúa Fierabras đặt cho mình giống như một trong những người tùy tùng của Đại đế Saclơmanh. Bàn tay của gã nhuốm máu của những người Thiên chúa giáo nhiều hơn bất kỳ kẻ nào khác. Vậy mà gã cũng được tấn phong từ năm ngoái, giờ thì Sacaren đang đứng cạnh Hồng y Octavius, vị Giáo hoàng da đen dưới danh hiệu Victor IV. Fierabras vẫn đứng trên con đường ngập bóng nắng, không có vẻ gì như muốn đuổi theo. Tên Saracen này biết rằng y đã chậm mất rồi. Cỗ xe đã chạm đỉnh đèo rồi tiến vào con đường mòn khô ráo phía trước. Giờ thì họ có thể lao đi với tốc độ tối đa. Ngay phía trước đã là đất Đức. Trận phục kích của Saracen đã thất bại. Tuy nhiên, một hành động của gã làm Joachim chú ý. Fierabras lấy ra chiếc cung lớn từ một bên vai, đen như bóng đêm. Gã chậm rãi lắp một mũi tên vào, từ từ kéo cong cánh cung rồi nhả ra. Joachim chau mày. Liệu gã hy vọng sẽ giành lại chiến thắng bằng ngón đòn này chăng? Mũi tên lao đi vọt qua thung lũng dường như nhợt nhòa dưới ánh mặt trời trên đỉnh núi. Joachim ngước mắt lên bầu trời, căng thẳng. Rồi thật lặng lẽ giống như một con diều hâu lao xuống, mũi tên cắm thẳng vào chính giữa thùng cỗ xe. Thật không thể tin nổi, nắp của chiếc quan tài bằng đá bỗng bật tung ra cùng với một tiếng nổ nghe như tiếng chớp. Dây chão bị đứt làm cho cả ba khối đá nặng nề trôi trượt về phía sau của cỗ xe. Những tên lính chạy vội lên, cố giữ cho cái quan tài đá khỏi lao xuống đất. Những bàn tay chới với. Cỗ xe dừng lại hẳn. Tuy vậy, một trong ba khối đá đã bị nghiêng lệch hẳn đi. Nó lăn xuống, va vào một tên lính đứng ở phía dưới tiện phăng luôn chiếc giò của y. Tiếng kêu thét của kẻ khốn khổ chói cả tai. Franz hấp tấp nhảy xuống ngựa. Hắn xúm vào cùng đám lính cố nâng cái quan tài đá khỏi vai họ để đẩy nó trở lại vào cỗ xe. Cái quan tài đá đã được nhấc lên, nhưng lại quá nặng để có thể đưa lên ngang tầm với cỗ xe. “Dây chão đâu?” Franz hét lên: “Chúng ta cần có dây chão”. Một trong những tên lính bị trượt chân. Cái quan tài bằng đá lại rớt xuống lần nữa, lật nghiêng về một phía. Cái nắp bằng đá bật tung ra. Những tiếng ngựa kêu nghe thấy rõ mồn một phía sau họ. Trên con đường mòn. Đang tiến đến rất nhanh. Joachim quay lại, biết ngay được điều gì sẽ xảy ra. Những con ngựa đẫm mồ hôi, sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời đang chồm lên người họ. Lại có them nhiều binh lính từ chỗ gã Saracen. Cuộc phục kích thứ hai. Joachim ngồi yên vị trên lưng ngựa. Không còn đường lui nữa rồi. Franz há hốc mồm, không phải vì tình trạng tuyệt vọng của mình mà vì những thứ bên trong quan tài đá văng ra ngoài. Hay đúng hơn là chả có gì cả. “Trời, rỗng không!”. Hắn kinh ngạc thốt lên: “Rỗng tuếch”. Nỗi kinh ngạc làm hắn đứng bật dậy. Hắn lăn qua một bên thùng xe rồi nhìn chằm chằm vài khối đá bị mũi tên của gã Saracen làm bật tung. “Lại rỗng không nữa rồi”. Franz nói, như khuỵu hẳn xuống. “Thế di vật được cất ở đâu? Cái quái quỷ gì đây?:. Hắn nhìn thẳng vào đôi mắt của Joachim rồi nhận ra y chẳng tỏ vẻ gì ngạc nhiên. “Ngài biết rồi ư?” Joachim nhìn chằm chằm vào những con ngựa đang lao tới. Cỗ xe của họ chỉ là một màn kịch, một trò hề để đánh lừa những tên lính của vị Giáo hoàng da đen. Món đồ thực sự đã được một tốp lừa chở đi từ ngày hôm trước. Di vật thật được bọc bằng vải dầu thô giấu trong một đống rơm. Joachim quay lại nhìn Fierabras. Gã Saracen có thể có được một ngày tha hồ tắm máu, nhưng vị Giáo hoàng da đen sẽ chẳng bao giờ có được món di vật đó. Không bao giờ! Ngày hiện tại Ngày 22-7, lúc 11h 46 phút Cologne, Đức Sắp tới 12h đêm, Jason chuyển chiếc máy nghe ipod của mình cho Mandy. “Mandy, nghe thử xem này. Tác phẩm mới ra lò của Godsmack đấy. Ngay ở Mỹ băng này cũng chưa phát hành… nghe mùi đấy chứ?” Phản ứng của cô gái lại không như cậu mong đợi. Mandy nhún vai, vẻ mặt vô cảm, nhưng cô vẫn cầm lấy tai nghe. Cô lấy tay vén mái tóc nhuộm màu đỏ của mình rồi đeo cặp tai nghe vào. Động tác của cô làm bung chiếc áo khoác để lộ ra bộ ngực đầy đặn trong chiếc T-shirt màu đen. Jason nhìn chằm chằm vào cô gái. “Mình chả nghe thấy gì cả”. Mandy nói giọng mỏi mệt, đôi lông mày nhíu lại “Ồ!” Jason quay xuống nhìn chiếc ipod một lần nữa rồi ấn nút play. Cậu hơi ngả những tựa đầu vào hai cánh tay. Cả hai đang ngồi trên một thảm cỏ ở quảng trường Domvorplatz dành cho người đi bộ. Quảng trường được bao bọc bởi nhà thờ Kolner Dom có kiểu kiến trúc gô-tích rất hoành tráng. Nằm trên ngọn đồi Cathedral nó có thể nhìn bao quát cả thành phố. Jason ngước mắt nhìn lên ngọn tháp đôi, được trang trí bằng những bức tượng đá, khắc thành từng dãy trên nền đá cẩm thạch mô tả từ tôn giáo đến nghi thức bí ẩn. Giờ đây, khi được chiếu sáng vào ban đêm, ngọn tháp đem lại một cảm giác thật huyền bí như một cái gì đó thật cổ kính hiện lên từ lòng đất sâu thẳm không thuộc về thế giới này. Nghe những âm thanh lọt ra từ chiếc ipod, Jason chăm chú nhìn Mandy. Cả hai đều theo học ở trường đại học Boston, đeo balô đi du lịch ngày hè qua nước Đức và Áo. Họ đi cùng với hai người bạn nữa là Brenda và Karl, nhưng hai người kia xem ra lại thích thú các quán rượu địa phương hơn là đi dự lễ thánh vào lúc nửa đêm. Mandy lớn lên từ một gia đình theo đạo Thiên chúa chính thống. Các buổi lễ thánh về đêm tại nhà thờ này thường chỉ giới hạn vào một số ngày lễ, đều do ngài Tổng giám mục Cologne chủ trì, giống như buổi lễ đêm nay có tên Bữa ăn tối của Ba Vua. Mandy không muốn vắng mặt ở buổi lễ này. Dù Jason theo đạo Tin lành, nhưng cậu vẫn đồng ý đi với Mandy. Trong lúc họ vẫn đang ngồi chờ cho đến nửa đêm, đầu của Mandy vẫn đều gật lên gật xuống theo tiếng nhạc. Jason rất thích cung cách này của cô bạn gái cũng như cách cô hay trễ môi dưới khi nghe nhạc. Bỗng nhiên, Jason thấy như có ai chạm vào tay mình. Mandy đã ngồi xích gần lại rồi đặt tay lên cánh tay cậu. Dù vậy, đôi mắt của cô vẫn gắn chặt vào nhà thờ. Jason cảm thấy như ngừng thở. Mười ngày qua, cả hai đã luôn tìm cách gần gụi nhau, mỗi ngày một nhiều hơn. Trước chuyến đi, họ chỉ là chỗ quen biết thông thường. Mandy là bạn thân của Brenda từ hồi trung học, và Karl là bạn cùng phòng với Jason. Hai người bạn của họ, những kẻ mới yêu nhau không muốn đi du lịch một mình vì sợ biết đâu mối tình của họ có khi lại tồi tệ đi trong chặng hành trình. Điều đó đã không xảy ra. Vì vậy, Jason và Mandy vẫn thường phải đi dạo chơi với nhau. Thực ra thì Jason cũng chả quan tâm đến chuyện này. Cậu đang theo học môn lịch sử nghệ thuật ở đại học, còn Mandy thì học môn nghiên cứu về châu u. Tại đây, những bài học khô khan của họ đã có dịp được minh họa bằng xương bằng thịt, mang thêm linh hồn và thực chất. Chia sẻ nỗi say mê khám phá, cả hai đều tìm thấy ở nhau một người bạn đồng hành dễ chịu. Jason tránh không nhìn vào cánh tay của Mandy, nhưng cậu cũng cố dịch gần đến cô, gần hơn đôi chút. Liệu bóng đêm có làm cho tình hình sáng sủa hơn không? Không may, bản nhạc đã kết thúc nhanh quá. Mandy ngồi thẳng dậy, bỏ cánh tay ra để gỡ tai nghe, “Chúng ta phải vào trong nhà thờ”. Cô thầm thì, gật đầu về phía dòng người đang xếp hàng trước cánh cửa nhà thờ đang mở rộng. Cô đứng dậy, với tay cài khuy áo khoác, một cái măngtô dạ màu đen kiểu rất bảo thủ choàng bên ngoài chiếc T-shirt nền nã. Jason bước theo Mandy trong khi cô gái cố vuốt vuốt lại chiếc váy dài đến mắt cá chân rồi dung tay túm mái tóc màu đỏ của mình gọn ghẽ sau vành tai. Chốc lát, từ một thiếu nữ sành điệu, cô đã trở thành một nữ sinh ngoan đạo. Jason há hốc mồm trước sự thay đổi nhanh chóng này. Mặc chiếc quần gin màu đen và áo khoác mỏng, cậu thấy mình ăn mặc thật không chỉnh chu để dự buổi lễ tôn giáo. “Ồ, trông cậu cũng ổn đấy”. Mandy nói vẻ như đọc được ý nghĩ của bạn. “Cảm ơn”. Cậu lẩm bẩm Họ thu gọn các thứ lại, ném mấy vỏ lon coca vào thùng rác gần đấy rồi đi ngang qua quảng trường lát đá. “Chào buổi tối!”. Người gác cửa mặc y phục màu đen gật đầu chào họ. “Cảm ơn”. Mandy lầm bầm khi họ trèo lên bậc thang nhà thờ. Phía trước họ, ánh nến lập lòa hắt ra qua cáh cửa mở rộng, chiếu xuống các bậc lên xuống bằng đá. Nó làm tăng thêm cảm giác vừa già cỗi vừa cổ kính. Ngay từ lúc đi tham quan nhà thờ lúc ban ngày, Jason đã biết rằng viên đá đầu tiên của nhà thờ này đã được đặt từ thế kỷ thứ XIII. Thật khó có thể hình dung nhà thờ đã trải qua một thời gian dài như vậy. Trong ánh nến kỳ ảo, Jason bước tới những cánh cửa lớn được chạm trổ khổng lồ rồi bước theo Mandy vào sảnh ngoài. Cô nhúng tay vào chậu nước thánh rồi làm dấu. Jason bỗng lúng túng, thấy một cách rất rõ ràng đây đâu phải là tín ngưỡng của mình. Mình là một kẻ ngoại đạo, một kẻ xâm nhập. Cậu sợ mình lỡ bước nên quay ngay về phía Mandy. “Hãy đi theo mình”. Mandy nói. “Mình muốn tìm một chỗ ngồi tốt, đừng quá gần”. Jason bước theo cô. Khi bước qua khuôn viên bên trong nhà thờ, ngay lập tức cậu đã thấy có một cảm giác thật không thoải mái. Mặc dù cậu đã vào trong nhà thờ và dù đã học rất nhiều về lịch sử và nghệ thuật của cấu trúc này nhưng vẫn thấy ngạc nhiên trước không gian hoành tráng nhưng cũng rất giản dị của nhà thờ. Gian giữa của giáo đường dài tới bốn trăm feet phía trước mặt cậu, bị ngăn cách bởi một cái khung dài hơn ba trăm feet tạo thành một chữ thập với bàn thờ nằm chính giữa. Nhưng thật ra không phải chiều dài và chiều rộng của nhà thờ thu hút sự chú ý của Jason, mà chính là chiều cao không thể tưởng tượng được của nó. Cặp mắt của cậu cứ ngước mãi lên cao tới vòm nhà thờ với đường cong nhọn hoắt và hình chóp. Một nghìn ngọn nến chiếu lung linh tỏa ra những làn khói mỏng vươn lên trời, hắt bóng lập lòe trên tường Mandy dẫn cậu về phía ban thờ, Phía trước khoang giữa hai dãy bên đã bị hai hàng dây ngăn cách nhưng vẫn có nhiều ghế trống ở ngay gian giữa. “Ngồi đây được không?”. Cô hỏi, dừng lại ngay giữa lối đi. Cô khẽ nở một nụ cười nửa như cảm ơn nửa như ngượng nghịu. Cậu gật đầu, choáng ngợp trước vẻ đẹp thánh thiện của cô, một Madona mặc áo choàng đen. Mandy kéo tay cậu đi về cuối dãy ghế sát bức tường. Cậu ngồi xuống ghế, thật mừng thấy họ tìm được chút ít riêng tư. Mandy vẫn nắm tay cậu. Jason cảm nhận được bàn tay nóng hổi của cô. Bóng đêm chắc sẽ sáng dần. Rồi một tiếng chuông vang lên, dàn đồng ca cất tiếng hát. Lễ thánh bắt đầu. Jason tách khỏi Mandy khi thấy cô đứng dậy rồi vội quỳ xuống, trong một vũ điệu thật rối rắm của đức tin. Cậu chả muốn làm theo cô, cảm thấy thật mệt mỏi và lạc lõng trong sự phô bày đẹp mắt này: những linh mục mặc áo choàng đung đưa trong làn khói hương, đám rước tháp cùng nhập với vị tổng giám mục đội chiếc mũ tháh cao, mặc bộ quần áo dát vàng, những bài hát đồng ca được những người dự lễ hòa nhịp cùng với những cây nến được thắp trong đêm lễ. Khắp nơi đây, nghệ thuật đã trở thành như một phần của buổi lễ cũng như người tham dự. Một bức tượng thánh Mary bồng chúa Jesu hài đồng bằng gỗ có tên là Madona của Milan lấp lánh năm tháng và sự duyên dáng. Ngay bên kia là một bức tượng thánh St.Christopher bằng thạch cao đang bế một đứa trẻ nhỏ trên tay với nụ cười thánh thiện. Từ trên cao nhìn xuống tất cả là những cáh cửa sổ to tướng vùng Bavaria giờ tuy hoen ố, xám xịt nhưng vẫn lung linh dưới ánh nến chiếu vào tạo ra muôn màu ánh sáng kỳ ảo. Nhưng không có tác phẩm nghệ thuật nào hoành tráng hơn một chiếc quan tài bằng vàng phía sau ban thờ, được khóa kỹ trong lồng bằng thủy tinh và sắt thép. Tuy có kích cỡ chỉ bằng một chiếc rương lớn có hình dáng như một cái nhà thờ thu nhỏ, cái hòm đựng thánh tích này trở thành điểm nhấn của nhà thờ, nguyên cớ cho việc một giáo đường khổng lồ đến như vậy đã được xây cất. Làm bằng vàng ròng, chiếc hòm đựng thánh tích đã được chế trước khi nhà thờ này đặt móng. Do Nicolas của Verdun thiết kế từ thế kỷ XIII, quan tài được suy tôn như chuẩn mực của tác phẩm bằng vàng thời trung cổ còn sót lại. Trong khi Jason vẫn tiếp tục ngẫm nghĩ, buổi lễ dần dần trôi vào giai đoạn kết, được đánh dấu bằng những hồi chuông và lời cầu nguyện. Cuối cùng là lễ ban bánh thánh. Những người hành lễ chầm chậm rời các dãy ghế của mình xếp hang thứ tự theo dọc theo hành lang lên nhận lộc thánh. Khi đến lượt mình, Mandy vội đứng dậy với những người khác cùng dãy ghế. Cô rút cánh tay mình khỏi Jason: “Mình sẽ quay lại ngay thôi”. Cô khe khẽ nói. Jason ngắm nhìn hang ghế trống không của mình và đám đông đang chậm chạp tiến lên phía bàn thờ. Sốt ruột chờ Mandy quay trở lại, cậu đứng dậy duỗi chân. Lúc này cậu mới có dịp để ngắm nghía bức tượng đứng cạnh phòng xưng tội. Vào trong này rồi cậu mới thấy tiếc vì đã uống hết lon coca thứ ba mang theo. Cậu cố nhìn ngoái ra sảnh ngoài của nhà thờ, ở đó có một toalét công cộng bên ngoài gian giữa. Ngoái lại một lần nữa, Jason là người đầu tiên phát hiện một nhóm linh mục đi hàng một tiến vào từ tất cả các cửa hậu của nhà thờ. Mặc dù họ mặc quần áo linh mục màu đen dài lụng thụng, choàng thắt lưng nhưng dường như có điều gì đó làm cậu thấy lạ. Họ đi quá nhanh với dáng vẻ dứt khoát của nhà binh, tuồn vào bên trong nhà thờ như những chiếc bóng. Liệu đây có phải là một phần của buổi lễ không? Nhìn thoáng qua nhà thờ thấy đã có những bóng khoác áo choàng đen khác nữa ở các cửa ra vào, thậm chí đứng ngay cả trên bục cạnh ban thờ. Dù cho họ cúi đầu xuống với vẻ ngoan đạo nhưng hình như tất cả đang đứng gác thì phải. Điều gì đang diễn ra vậy? Cậu thấy Mandy đứng gần ban thờ. Cô vừa nhận xong bánh thánh, vẫn còn một đám người đứng phía sau cô. Bánh thánh, Jason có thể đọc thấy từ đó trên đôi môi mấp máy của họ. “Lạy Chúa!”. Cậu tự trả lời mình. Buổi lễ thánh kết thúc. Người đi lễ cuối cùng đã quay về chỗ ngồi của mình, kể cả Mandy. Jason vẫy vẫy cô vào hàng ghế rồi ngồi xuống bên cạnh. “Tất cả những linh mục kia làm gì vậy?” Cậu hỏi, nhoài người ra phía trước. Cô đã quỳ rồi gục đầu xuống. Trả lời duy nhất của cô là một tiếng suỵt khẽ. Cậu ngồi lui lại. Hầu hết những người dự lễ đều đã quỳ lạy, đầu cúi xuống. Chỉ còn một ít người giống như Jason không nhận bánh thánh vẫn ngồi. Ở phía trước, vị linh mục đã kết thúc công việc thu dọn trong khi ngài tổng giám mục già cả vẫn ngồi thẳng đuỗn trên ghế, đầu cúi gập xuống sát ngực nửa như ngủ gật. Nét huyền bí và sự phô bày gần như đã mất hẳn trong tâm trí của Jason. Có chăng chỉ là áp lực của cái bàng quang, tất cả những gì cậu muốn chỉ là nhanh chóng rời khỏi đây. Jason thậm chí còn khẽ chạm vào khuỷu tay Mandy giục cô đứng dậy. Bỗng nhiên hành động phía trước làm cậu dừng lại. Những linh mục ở hai bên ban thờ rút vũ khí ra từ dưới các lớp áo choàng. Ánh thép của nòng súng loang loáng vết dầu qua áh sáng từ các ngọn nến, những khẩu Uzis, được gắn nòng giảm thanh đen sì. Một phát súng nổ, tiếng không to hơn tiếng ho của một người nghiện nhổ toẹt thuốc ngang qua ban thờ. Những cái đầu ngẩng lên từ các hàng ghế. Sau ban thờ, người linh mục mặt trắng bệch luống cuống. Dường như đau nhói vì bị thương, ông ta ngã vật xuống ban thờ, nôn ộc ra rượu vang trộn lẫn máu của chính mình. Tiếp đó là một phút im lặng đến ghê người. Tiếng gào thét từ đám người đi lễ, Mọi người đứng phắt dậy. Ngài tổng giám mục già cả run rẩy, rê rê đôi chân khiếp sợ. Tiếng động bất thần đã làm rớt chiếc mũ thánh của ngài xuống nền nhà. Những linh mục lướt đi dọc theo lối đi, từ phía sau và hai bên cánh gà. Mệnh lệnh được phát ra từ các thứ tiếng Đức có, Pháp có, Anh có. “Im, không được động đậy!”. Giọng nói như bị chặn lại, các khuôn mặt giấu trong những chiếc mũ choàng, bị che khuất thêm nữa bởi thứ giống như mặt nạ bằng lụa đen. Chỉ có những khẩu súng đang giơ lên ngắt quãng mệnh lệnh của họ. “Ngồi yên hay muốn chết!” Mandy ngồi xuống cạnh Jason. Bàn tay cô nắm lấy tay cậu. Jason nắm chặt những ngón tay của cô gái, nhìn xung quanh không chớp mắt. Tất cả các cánh cửa đều bị đóng, canh gác chặt. Điều gì đang xảy ra vậy? Từ trong đám linh mục mang súng gần cửa ra vào chính, một bóng người xuất hiện, ăn mặc giống hệt như những người khác, chỉ có điều cao hơn, hay nói chính xác cao vọt hơn. Áo choàng của gã trông giống như cái choàng trùm đầu hơn. Rõ ràng đây là một kẻ cầm đầu nào đó. Gã không mang theo vũ khí, bước đi đầy tự tin dọc lối giữa giáo đường. Y gặp ngài tổng giám mục ở ban thờ. Một cuộc tranh cãi gay gắt diễn ra. Phải mất mấy phút, Jason mới nhận ra rằng hai người đang trao đổi với nhau bằng tiếng Latinh. Đột nhiên, ngài tổng giám mục ngã vật ra sau, hoảng hốt. Kẻ cầm đầu lùi sang một bên. Hai tên tiến lên phía trước. Lại có tiếng súng nổ. Nhưng lần này mục đích không phải là giết chóc. Chúng bắn vào nắp trên của cái rương bên ngoài chiếc quan tài bằng vàng. Lớp thủy tinh bên ngoài dường như chùn lại nhưng vẫn có vẻ chịu được sức công phá của những viên đạn. Rõ ràng nó có khả năng chống đạn xuyên thủng. “Đồ kẻ cướp…” Jason lẩm bẩm. Đây là một vụ cướp lên kế hoạch hoàn hảo đến từng chi tiết. Ngài tổng giám mục có vẻ như đã hồi tỉnh lại sau khi thấy cái nắp thủy tinh chịu được những phát đạn. Gã cầm đầu nhóm linh mục giả danh huơ huơ tay, nói bằng tiếng Latinh. Ngài tổng giám mục lắc đầu. Gã lại quay sang nói bằng tiếng Đức: “Ngài phải chịu trách nhiệm về sinh mạng của những bề tôi của ngài”. Y vẫy thêm hai linh mục giả danh lên phía trước. Chúng đứng cạnh cái rương bị bọc kín, nhấc những chiếc đĩa lớn bằng kim loại sang hai bên quan tài. Việc đó có hiệu quả ngay lập tức. Mặt thủy tinh vốn chống được đạn bắn xuyên, phải hứng một loạt đạn lúc nãy, đã bị biến dạng yếu đi nhưng bỗng phát tiếng nổ bung ra ngoài như thể bị đẩy mạnh vì một cơn gió vô hình nào đó. Trong ánh nến nhợt nhòa, cái quan tài chao đi chao lại, lắc rất mạnh. Jason cảm thấy như có một áp lực bất ngờ, tai bỗng ù đi như thể các bức tường của nhà thờ bị đẩy mạnh xô vào bên trong. Áp lực làm tai cậu điếc hẳn, góc nhìn dường như bị vặn xoắn lại. Cậu quay lại phía Mandy. Cô vẫn nắm chặt tay cậu, nhưng cổ của cô gái như bị lật ngược về phía sau, mồm há hốc. “Mandy…” Từ khóe mắt, Jason cũng thấy nhưng người đi lễ khác cũng ở vào tư thế bất thường tương tự. Bàn tay của Mandy bỗng run bần bật trong tay cậu. Những giọt nước mắt lăn trên mặt cô, dần biến thành máu khi cậu nhìn vào. Cô không thở được nữa. Cô bỗng giãy lên vài cái rồi cứng đờ, giật tung khỏi cánh tay của Jason. Ngay lúc ấy, cậu cũng cảm thấy như bị điện giật truyền qua từ ngón tay của cô. Cậu đứng phắt dậy, quá sợ để ngồi yên. Một vệt khói mỏng bốc lên từ cái miệng há hốc của Mandy. Đôi mắt của cô chuyển từ màu đen sang trắng bợt. Rồi từ đôi mắt đã thấy có ánh đen. Chết! Jason, câm lặng vì sợ hãi tìm kiếm vô vọng trong nhà thờ. Tất cả diễn ra đúng như thế, ở khắp nơi. Chỉ có vài ba người thoát: một vài đứa trẻ bám chặt vào cha mẹ, khóc lóc rền rĩ. Jason nhận ra ngay ai là người không bị. Đó là những người không tham gia vào vụ ăn bánh thánh. Giống như cậu. Cậu ngồi thụt vào bóng tối của bức tường. Hành động của cậu lúc này chẳng ai để ý. Lưng cậu chạm vào một cánh cửa, không bị các linh mục canh giữ. Thực ra đó không phải là một cái cửa. Jason đẩy mạnh để có thể trườn vào bên trong phòng xưng tội. Cậu ngã khuỵu xuống, khom khom người rồi lấy hai tay ôm chặt. Từ đôi môi cậu mấp máy lời cầu nguyện. Bỗng nhiên tất cả chấm dứt, Jason cảm thấy như có cái gì đó ở trong đầu. Một bản nhạc pop. Giảm áp lực. Những bức tường của nhà thờ chao đảo. Cậu đang khóc, những giọt nước mắt lạnh lẽo lăn trên gò má. Jason đánh liều ngó nhìn qua một cái lỗ ở cánh cửa phòng xưng tội. Jason không tin nổi vào mắt mình nữa, cậu đã nhìn thấy rõ gian giữa của giáo đường và ban thờ. Không gian khét lẹt mùi tóc cháy. Những tiếng kêu gào, rên rỉ vẫn văng vẳng đâu đó, nhưng chỉ nghe thấy ư ử từ cổ họng một vài nạn nhân. Đó là những người vẫn còn sống. Một bóng người với bộ quần áo rách tả tơi, đúng ông ta là một kẻ vô gia cư, tập tễnh bước ra khỏi dãy ghế cầu nguyện đi dọc theo hành lang cạnh. Vừa kịp đi được mươi bước, đã bị bắn từ sau gáy. Một phát súng, thân hình ông ta đổ vật xuống. “Ôi lạy Chúa…” Gắng kìm nén khỏi òa lên khóc, Jason cố nhìn vào phía ban thờ. Bốn linh mục nhấc cái quan tài bằng vàng ra khỏi cái rương lớn đã bị vỡ toang. Xác chết của vị linh mục vừa bị hạ sát, bị gạt ra khỏi ban thờ, thế vào chỗ đó là chiếc hòm đựng di thánh. Gã cầm đầu gỡ miếng vải đen lớn quàng quanh chiếc áo choàng của y. Các linh mục mở nắp quan tài đựng di thánh rồi trút những thứ bên trong vào một chiếc túi. Trống rỗng, cái quan tài giờ đây chẳng còn giá trị gì nữa bị quẳng xuống nền nhà thờ, chẳng ai để tâm đến nữa. Gã chỉ huy khoác chiếc túi lên vai rồi quay đầu hướng ra phía cửa, giữ chặt những di vật vừa đánh cắp. Ngài tổng giám mục gọi y. Lại bằng tiếng Latinh, nghe như một câu chửi. Câu trả lời duy nhất của gã là một cái vẫy tay. Một linh mục khác bước tới phía sau ngài tổng giám mục, gí khẩu súng lục vào gáy ngài. Jason khuỵu xuống, chả muốn nhìn thấy cảnh này nữa. Cậu nhắm mắt lại. Lại nghe thấ những phát súng khác ở khắp nơi trong nhà thờ. Lẻ tẻ, rời rạc. Những tiếng kêu bỗng tắt hẳn. Cái chết đang bao phủ nhà thờ khi những linh mục tàn sát nốt vài người ít ỏi sống sót. Jason nhắm mắt lại và cầu nguyện. Một chút trước đó, cậu thoáng thấy cái gù vai phía bên trong áo khoác của gã cầm đầu. Cái áo khoác đen phanh ra khi gã nhấc tay lên để lộ một phù hiệu bên trong: một con rồng cuộn tròn đuôi quấn xung quanh cổ. Hình hiệu này thật xa lạ với Jason, nhưng nó cho người ta một cảm giác giật gân, có vẻ như Ba Tư nhiều hơn là châu u. Phía bên ngoài cánh cửa phòng xưng tội, nhà thờ bỗng trở nên im lặng. Những bước chân đi ủng tiến gần lại chỗ cậu đang nấp. Jason nhắm mắt thật chặt cố vượt qua nỗi sợ hãi, một điều khó có thể có được. Tất cả chỉ vì một túi xương. Dù cho nhà thờ đã được xây dựng quanh những nắm xương khô đó, có biết bao nhiêu vị đế vương đã cúi mình trước chúng, và ngay cả chính lễ hội này, để tôn vinh những người đã từ lâu đi vào cõi vĩnh hằng - Bữa tiệc của Ba Vua. Một câu hỏi bỗng hiển hiện thật rõ ràng trong đầu cậu: “Tại sao??”. Hình ảnh Ba vị Vua có thể được tìm thấy trong khắp nhà thờ, cái thì được làm bằng đá, cái thì bằng thủy tinh, cái thì bằng vàng. Trên một bức tường, những nhà thông thái đã dẫn đàn lạc đà đi qua sa mạc, nhờ được ngôi sao của Bethelehem dẫn đường. Trên một bức khác mô tả lễ tôn vinh chúa Jesus hài đồng, cho thấy những bóng người đang quỳ xuống dâng lên những món quà bằng vàng và trầm hương. Nhưng Jason đã khép lại trong tâm trí mình tất cả những thứ đó. Những gì cậu có thể hình dung ra bây giờ là nụ cười cuối cùng của Mandy, và bàn tay cô chạm vào thật mềm mại. Tất cả đã mất đi rồi. Bước chân dừng lại ở cánh cửa chỗ cậu ngồi. Cậu lầm lũi khóc, cố tìm ra câu trả lời cho vụ tắm máu này. Tại sao vậy? Tại sao lại lấy cắp hài cốt của ba vị Tiên tri? Chương 1 NGÀY THỨ NHẤT Đằng sau quả cầu thứ Tám Ngày 24 tháng 7, 4 giờ 34 phút Federick, Marryland Kẻ phá hoại đã tới Grayson Pierce áp chiếc xe mô tô của mình lọt vào giữa các tòa nhà màu xám xịt vốn là trung tâm của căn cứ Ford Detrick. Anh vẫn để cho chiếc xe nổ máy. Tiếng động cơ của nó không lớn hơn một chiếc tủ lạnh là bao. Anh đeo đôi găng tay màu đen giống hệt màu sơn của chiếc xe, vốn là một loại sơn đen tổng hợp có tên là NPL. Màu sơn này giúp hấp thụ ánh sáng mắt thường có thể nhìn thấy, làm cho những vật thông thường màu đen như sáng hơn. Bộ quần áo anh đang mặc trên người và cái mũ bảo hiểm đang đội cũng màu sắc tương tự. Vẫn ngồi chồm hỗm trên chiếc mô tô, anh đã tiến gần đến cuối đường rẽ. Một cái sân nhỏ hiện ra trước mặt, bị chắn bởi chắn bởi những tòa nhà được xây bằng gạch vữa là Viện Nghiên cứu ung thư Quốc gia, một bộ phận trực thuộc của Viện Nghiên cứu y học quân đội về các bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ, có tên tắt là USAMRIID. Từ nơi đây, cuộc chiến tranh của nước Mỹ chống nạn khủng bố sinh học đã được phát động thông qua một loạt phòng thí nghiệm xây cất trên diện tích sáu mươi nghìn feet vuông. Gray tắt máy nhưng vẫn ngồi trên xe. Đùi gối trái của anh tỳ lên trên cái túi đựng bảy mươi nghìn đôla. Anh vẫn ở bên trong đoạn đường hẻm, tránh không đi vào cái sân trống. Anh thích bóng tối hơn. Trăng đã lặn từ lâu nhưng mặt trời chắc cũng chưa kịp mọc ít nhất trong vòng 20 phút nữa. Ngay cả các ngôi sao vẫn đang bị các đám mây còn rơi rớt lại sau trận mưa mùa hè đêm qua che khuất. Liệu mẹo của anh có trụ được không? Anh nói khẽ vào chiếc micro đeo dưới cằm: “Lừa gọi chim ưng. Tôi đã tới chỗ hẹn. Sẽ đi bộ tiếp”. “Roger, chúng tôi thấy anh từ vệ tinh rồi”. Gray cố cưỡng lại ý định ngưpức nhìn lên và vẫy tay. Anh ghét không muốn bị người khác quan sát và dò xét, nhưng việc lần này lại quá lớn. Anh đành phải nhân nhượng: thực hiện cuộc gặp đơn độc. Đối tác của anh vốn là kẻ đồng bóng hay thay đổi. Phải mất sáu tháng mới kiếm được mối này thông qua trung gian từ các quan hệ ở Liby và Sudan. Chẳng dễ dàng chút nào cả. Tiền bạc không đem lại sự tin cậy, đặc biệt trong phi vụ này. Anh cúi xuống cầm lấy chiếc túi rồi khoác lên vai. Chán chường, anh tạt xe vào một ban công trong bóng tối, gạt chân chống rồi bước ra khỏi chiếc xe. Anh vượt qua con hẻm. Lúc này vẫn còn vài ba cặp thức giấc, hầu hết chỉ là mắt điện tử. Tất cả nhận dạng của anh đã được kiểm tra ở cửa Old Farm, canh gác lối ra vào của căn cứ. Anh nhìn ánh dạ quang lấ lánh trên chiếc kim giây của chiếc đồng hồ thợ lặn đang đeo trên tay mác Breitling. 4h 45 phút. Còn 15 phút nữa mới tới cuộc gặp. Tất cả phụ thuộc rất nhiều vào thành công của anh ở đây. Gray đã đến tới điểm hẹn. Tòa nhà số 470. Vào giờ này, tòa nhà hoàn toàn trống toang vì tháng tới đã có kế hoạch phá dỡ nó rồi. Chả ai quan tâm, tòa nhà trở thành một điểm hẹn lý tưởng, dù cho việc chọn nơi này cũng có phần hài hước. Vào những năm 60 người ta đã dùng địa điểm này làm nơi chế biến tác nhân gây ra bệnh than rồi đựng chúng vào những phùy phuy lớn. Việc sản xuất loại virut gây chết người tiếp tục mãi cho đến khi người ta chấm dứt sản xuất chất độc hóa học và năm 1971. Từ đó đến nay, tòa nhà bị bỏ không, trở thành một nhà kho chứa hàng khổng lồ của Viện nghiên cứu ung thư quốc gia. Nhưng một lần nữa câu chuyện liên quan đến virut bệnh thanh lại được tiến hành trong ngôi nhà này. Anh ngước nhìn lên, tất cả các cửa sổ đều có một màu tối sẫm. Anh sẽ phải gặp gỡ kẻ bán trên tầng bốn. Bước tới cửa ngách, anh dùng thẻ từ để mở khóa vốn được đối tác từ căn cứ cung cấp. Anh theo trên vai một nửa số tiền để trả cho người đàn ông. Một nửa kia đã được chuyển qua ngân hàng nửa tháng trước đây. Gray cũng mang theo một con dao nhựa dài một feet (khoảng 30cm) giấu kỹ dưới khuỷu tay áo. Thứ vũ khí duy nhất của anh. Anh chả dại gì đem thêm thứ gì khác nữa qua cửa an ninh. Gray khép cửa lại rồi bước tới khu vực cầu thang được hắt ra từ biển chữ EXIT màu đỏ. Anh vớ lấy chiếc mũ xe máy và đeo kính nhìn ban đêm. Mọi vật trở nên sáng bừng với màu xanh lá cây và màu bạc. Anh leo lên cầu thang và nhanh chóng trèo lên tầng bốn. Lên đến nơi, anh đẩy mạnh cánh cửa ở hành lang. Anh cũng không biết mình sẽ gặp đối tác ở điểm nào. Anh chỉ có thể chờ tín hiệu của kẻ đó. Anh dừng lại ở ngưỡng cửa để thở rồi quan sát phía trước. Anh chả thích chuyện này tý nào. Khu vực cầu thang nằm ở góc tòa nhà. Một hành lang chạy dài ở phía trước, còn hành lang kia chạy về bên trái Những cánh cửa văn phòng lắp kính mờ nằm dọc theo tường trong, còn cửa sổ quay ra hướng đối diện. Anh chậm rãi bước thẳng lên phía trước, căng mắt xem có dấu hiệu gì bất thường. Một luồng ánh sáng rọi qua một cửa sổ, chiếu thẳng vào người Gray. Bị lóa mắt vì đeo kính nhìn đêm, anh lăn vội vào một góc tường, tựa lưng vào bóng tối. Liệu mình đã bị phát hiện rồi chăng? Ánh đèn lại quét sang chiếc cửa sổ khác, chiếu ngang qua gian phòng phía trước anh. Nhoài người ra, anh nhòm qua một trong những chiếc cửa sổ. Chỗ này nhìn ra cái sân rộng ngay trước tòa nhà. Bên kia đường một chiếc xe tuần tra chậm chạp lăn trên đường phố. Ngọn đèn pha phía trước chiếc xe chiếu sáng cả cái sân. Lính tuần tra. Liệu chuyện này có làm đối tác chột dạ không? Khẽ văng tục, Gray chờ đến khi chiếc xe quay đầu lại. Tốp tuần tra biến mất trong chốc lát, đi ngang qua một vật như thể lù lù nhô lên ở giữa sân phía dưới. Trông giống như một con tàu vũ trụ cũ nát nhưng thực ra nó là một bồn bằng thép có thể chứa được tới một triệu lít dung dịch lỏng, cao ba tầng dựa trên hàng chục cái chân đế. Xung quanh giờ đây ngổn ngân thang và giàn giáo, người ta đang cố gắng khôi phục cho nó trở lại thời hoàng kim trước kia khi còn là một thiết bị nghiên cứu thời Chiến tranh lạnh. Ngay cả lối đi bộ hẹp trước đây vốn chạy vòng quanh chính giữa quả cầu khổng lồ này cũng đã bị thay thế. Gray biết người ta đã đặt tên cho quả cầu khổng lồ này tại căn cứ. Quả cầu thứ Tám. Một nụ cười miễn cưỡng trên vành môi khi anh nhận ra vị trí chẳng lấy gì làm may mắn của mình lúc này. Bị vây bọc phía sau Quả cầu thứ Tám. Cuối cùng đám tuần tra cũng xuất hiện trở lại phía trước, chậm rãi đi qua trước sân rồi đi khuất. Hài lòng, Gray đi tiếp đến cuối hành lang. Một bộ cửa đẩy hai lớp đã chặn lối hành lang lại, nhưng những chiếc cửa sổ hệp trên đó đã cho thấy một căn phòng rộng hơn phía trước. Anh thấy những chiếc hộp đựng mảnh mai, bằng thủy tinh và kim loại. Một trong số những phòng thí nghiệm cũ. Không có cửa sổ, tối om. Việc anh đến đây chắc đã bị phát hiện. Một luồng ánh sáng mới chói lòa bên trong, sáng đến mức buộc Gray phải tránh không nhìn vào kính nhìn ban đêm. Ánh đèn flash. Nhấp nháy ba lần. Một tín hiệu. Anh bước đến cửa ra vào, dùng một ngón chân để đẩy cánh cửa mở toang ra. Anh khẽ lách vào qua một khe hẹp. “Hãy tới đây” Một giọng nói vang lên điềm tĩnh. Lần đầu tiên Gray nghe thấy giọng của đối tác của mình. Cho đến tận thời điểm này, mọi thứ vẫn luôn là sự im lặng đến thật khó chịu. Đó là giọng của một phụ nữ. Điều này làm cho anh chán chường. Anh chả hề muốn có sự ngạc nhiên nào hết. Gray men theo một đống bàn được xếp ghế lên trên. Cô gái ngồi trên một trong số những chiếc bàn. Những chiếc ghế còn lại vẫn được xếp lên trên. Trừ một cái. Đối diện với cái bàn. Chiếc bàn động đậy khi cô đá chân vào một chân ghế. “Ngồi xuống.” Gray những tưởng sẽ gwpj một nhà khoa học dang run rẩy, một người nào đó tìm cách có được một ngân khoản thêm. Phản bội để được thuê mướn ngày càng trở nên phổ biến trong các cơ sở nghiên cứu hàng đầu. USAMRIID cũng không phải là trường hợp ngoại lệ… chỉ có điều là hàng ngàn lần nguy hiểm chết người hơn. Mỗi ly ống nghiệm đem bán nếu như được sử dụng phun vào không gian ở ga xe điện ngầm hoặc trạm xe buýt có thể giết chết hàng nghìn sinh mạng. Và cô ta đang bán mười lăm cái ly như vậy. Anh ngồi xuống ghế, đặt túi tiền lên trêm bàn. Đó là một phụ nữ châu Á… Ồ không phải, lai châu Á. Đôi mắt cô ta mở to, nước da ngăm ngăm, xạm nắng như đồng hun. Cô mặc một bộ áo liền quần cổ khoét tròn trông chả khác bộ quần áo y đang mặc, ôm lấy thân hình thon thả, duyên dáng. Một chiếc dây chuyền bằng bạc đeo trên cổ lấp lánh có hình một con rồng nhỏ đang cuộn tròn lại. Gray nhìn kỹ cô gái. Trông cô ta có nét của Long nương, cũng có vẻ hiếu chiến như mình, thật chán. Tất nhiên, khẩu Sig Sauer 9 ly có gắn thiết bị giảm thanh chĩa vào ngực anh có thể làm cô ta tự tin. Nhưng câu nói tiếp của cô gái mới làm anh ớn lạnh. “Chào buổi tối, chỉ huy Pierce.” Gray giật mình khi nghe thấy tên mình. Nếu như cô ta đã có thể biết được điều đó.. Anh né người…nhưng đã quá muộn.. Viên đạn được bắn ở cự ly gần nhất. Phát súng làm anh bật ngửa người ra phía sau kéo theo cả chiếc ghế. Anh ngồi phệt tựa lưng hẳn vào ghế. Ngực đau nhói làm anh không thở nổi. Gray cảm thấy trong miệng mình như có máu. Bị lừa rồi… Cô gái bước vòng quanh chiếc bàn, gần như nằm lên trên thân hình nằm bệt của anh, súng vẫn chĩa vào người không để anh một cơ may nào chống cự. Cái dây chuyền bạc vẫn tòng teng và sáng lấp lánh. “Tôi đoná là ông đang ghi âm tất cả câu chuyện này qua chiếc mũ xe máy của mình phải không, Chỉ huy Pierce? Thậm chí truyền về tận Washington… đến Sigma. Chỉ huy không phiền nếu tôi mượn sóng một lúc được không?” Anh chẳng có cách để phản kháng. Cô gái xích lại gần chút nữa. “Chỉ mươi phút nữa thôi, Hiệp hội sẽ đóng cửa toàn bộ căn cứ FortDetrick. Rải virus bệnh Than xuống toàn bộ căn cứ. Trả món nợ cho việc Sigma đã can thiệp vào hoạt động của chúng tôi ở Oman. Nhưng tôi còn thiếu ngài giám đốc của chỉ huy, Painter Crowe, một thứ nữa. Một thứ rất riêng tư. Việc này liên quan đến chị tôi cũng hoạt động trong nghề, Cassandra Sanchez”. Nòng súng chĩa thẳng vào mặt anh. “Máu trả máu” Cô bóp cò. * ** 5 giờ 2 phút Washington D.C. Cách đó bốn mươi hai dặm, đường liên lạc với vệ tinh bị tắt ngóm. “Thế người trợ thủ cho anh ta ở đâu?” Painter Crowe cố ghìm không văng tục, vẫn giữ giọng bình tĩnh. Sợ hãi không giải quyết được gì cả. “Vẫn còn mười phút nữa” “Liệu cậu có tái lập lại đường link không?” Người nhân viên kỹ thuật lắc đầu. “Chúng ta mất đường link chính với máy quay gắn ở mũ của anh ta rồi. Nhưng chúng ta vẫn quan sát được từ vệ tinh NRO xuống cắn cứ”. Anh ta chỉ vào một màn hình khác. “Có thể thấy hình ảnh đen trắng của FortDetrick, tiêu điểm là cái sân nằm giữa các tòa nhà”. “Thư ngài?” Câu hỏi xuất phát từ nhân vật số 2, Logan Gregory. Painter hiểu lý do vì sao người phó của mình Logan Gregory do dự. Chỉ có một nhóm vài ba người nắm quyền lực tối cao biết về Sigma và các nhân viên thuộc quyền: đó là Tông thống, Chủ tịch Hội đồng Liên quân, Tổng tham mưu trưởng và các sếp trực tiếp của ông ta tại DAPRA. Sau vụ thay đổi nhân sự đối với những nhân vật chủ chốt năm ngoái, tổ chức này bị đặt dưới sự kiểm tra gắt gao. Bất cứ thiếu sót nào đều không được phép xảy ra. “Tôi không thể mạo hiểm tính mạng của một nhân viên được.” Painter nói.“Gọi họ vào cuộc”. “Vâng, thưa ngài.” Logan bước tới chỗ máy điện thoại. Trông anh ta có vẻ giống kẻ đi tắm nắng ở California hơn là một nhà chiến lược hàng đầu:tóc vàng, da xạm nắng, rắn chắc nhưng bụng có vẻ hơi xệ một chút. Painter thì ngược lại, nửa gốc Mỹ, tóc đen, mắt xanh. Ông không hề xạm nắng. Ông không nhớ lần cuối cùng đi tắm nắng là lúc nào. Painter đã muốn ngồi xuống, vùi đầu vào hai đầu gối. Ông mới nhận công việc điều hành tổ chức này được tám tháng trước đây. Hầu hết thời gian đó được dành để sắp xếp lại bộ máy, củng cố tình hình an ninh sau khi bị một tổ chức gián điệp nước ngoài có tên là Hiệp hội xâm nhập. Người ta chưa biết đã có những thông tin nào bị rò rỉ, bán hoặc lưu truyền vào lúc này vì vậy mọi thứ đều đã bị xóa sạch và làm lại từ đầu. Ngay cả ban chỉ huy trung tâm cũng bị đưa ra khỏi Arlington di dời tới một cứ điểm ngầm tại đây, ở Washington. Thực ra, hôm nay Painter đã đến đây từ sớm để tháo dỡ và sắp xếp các hộp tài liệu vào văn phòng mới của mình khi nhận được cú điện thoại khẩn cấp từ vệ tinh trinh sát. Ông đã nghiên cứu màn hình truyền từ vệ tinh NRO. Một cái bẫy. Ông đã biết Hiệp hội đang làm gì. Bốn tuần trước đây, Painter đã bắt đầu tung các điệp viên vào hành động tiếp tục, lần đầu tiên trong một năm nay. Đó cũng giống như một sự thử thách. Hai đội. Một ở Los Almos điều tra việc một cơ sở dữ liệu hạt nhân bị mất tích…và một vụ khác ở ngay sân nhà ông tại căn cứ Fort Detrick, chỉ cách Washington chưa đầy một giờ ô tô. Vụ tấn công của Hiệp hội đã được toan tính làm chuyển tổ chức Sigma và những người lãnh đạo của nó. Để chứng tỏ rằng Hiệp hội vẫn còn đủ hiểu biết và kiến thức để phá hoại Sigma. Đó là một cú hat- trick để buộc Sigma phải co cụm, tập hợp lại hay thậm chí tan rã. Chừng nào nhóm của Painter bị loại ra khỏi vòng chiến, Hiệp hội sẽ rảnh tay để trắng trợn hành động. Điều này không thể xảy ra được. Painter đã ngưng không đi đi lại lại nữa rồi quay về phía nhân vật số 2, câu hỏi đã hiện lên trên khuôn mặt của ông. “Tôi sẽ cắt nó đi.” Logan nói rồi gật đầu sau khi nghe qua tai nghe. “Liên lạc đã bị mất liên tục ở khắp cả căn cứ”. Chắc rằng đây lại là một tác phẩm nữa của Hiệp hội. Thất vọng, Painter tựa vào bàn nhìn chăm chú vào tập hồ sơ của phi vụ. In ngay trên bìa ngoài của tập hồ sơ là một chữ Hy Lạp đơn độc.Sigma Trong môn toán học, từ sigma bao gồm một tổng của tất cả các phần, sự hợp nhất các phần tử riêng rẽ thành một. Đó cũng là biểu tượng của tổ chức do Painter chỉ huy: Lực lượng Sigma. Hoạt động dưới sự bảo trợ của DAPRA- Nhánh Nghiên cứu và phát triển của Bộ Quốc phòng- Sigma phụ vụ cho nhánh công khai của Bộ Quốc phòng trên thế giới, được cử đi để bảo vệ, thu nhập và vô hiệu hóa các công nghệ thiết yếu đối với an ninh của nước Mỹ. Những thành viên của nó là một đội ngũ cán bộ tuyệt mật gồm những cựu binh sĩ của lực lượng đặc biệt- những người đã được tuyển mộ và đưa vào những chương trình đào tạo bác học nhanh chóng trong một loạt các môn khoa học, tạo ra một đội ngũ quân sự hóa những nhân viên được huấn luyện về kỹ thuật. Hoặc nói đơn giản hơn: Các nhà khoa học giết người. Painter mở tập hồ sơ trước mặt. Hồ sơ của viên chỉ huy nhóm công tác ngay trên cùng. Tiến sĩ - Chỉ huy Grayson Pierce. Tấm ảnh của anh ta như nhìn chằm chằm vào ông dán ngay góc trên cùng bên phải. Bức ảnh này được chụp trong thời gian anh bị tù một năm ở Leavenworth. Tóc đen cạo trọc lởm chởm, đôi mắt vẫn đầy vẻ hận thù. Cạo trọc đến tận đỉnh đầu, nét di truyền từ gốc Welsh vẫn lồ lộ với đôi gò má cao, mắt to và cái cằm bạnh. Nhưng nước da đỏ au lại mang dáng vẻ Texas, xạm đen vì nắng của vùng đồi núi hạt Browns. Painter chả buồn liếc tập hồ sơ dày tới một inch này nữa. Ông đã thuộc lòng từng chi tiết. Gray Pierce gia nhập quân đội từ năm mười tám tuổi, vào biệt kích năm hai mươi mốt tuổi, vài ba lần được tặng thưởng trong khi tại ngũ. Vào tuổi hai mươi ba anh ta bị tòa án binh kết án do đánh một sĩ quan thượng cấp. Painter thuộc hết các chi tiết và câu chuyện xảy ra hồi đó đối với hai người ra sao lúc ở Bosnia. Nếu ở trong hoàn cảnh đó, Painter nghĩ, rất có thể mình cũng hành động như vậy. Dù sao thì trong lực lượng vũ trang quy chế vẫn như vậy. Người lính đầy huân chương này mất một năm trong tù ở Leavenworth. Dù sao thì Gray Pierce vẫn quá có giá trị để bị vứt ra ngoài. Quá trình đào tạo và tài năng của anh ta không thể bị phí phạm. Sigma đã tuyển dụng anh ta ba năm trước đây, ngay sau khi mãn hạn tù. Giờ thì Gray trở thành một con tốt trong ván cờ giữa Hiệp hội và Sigma. Một con tốt sẽ phải thí. “Tôi đã liên lạc được với an ninh ở căn cứ!” Logan cho biết với giọng nhẹ nhõm. “Hãy liên lạc với họ.” “Thưa ngài!” Viên kỹ thuật đứng phắt dậy, dây tai nghe vẫn dính lằng nhằng vào vàn trộn. Anh ta liếc nhìn Painter. “Giám đốc Crowe, tôi bắt được dấu vết giọng âm thanh phản hồi.” “Cái gì cơ?” Painter tiến sát đến nhân viên kỹ thuật. Ông giơ một bàn tay ngăn Logan lại. Viên kỹ thuật đã vặn to cái loa vừa thu được lên. Họ nghe được một giọng rất khẽ mặc dù đường truyền video bị trục trặc. Một câu chửi thề “Mẹ kiếp…” * ** 5 giờ 07 phút Federick, Maryland Gray vung một gót chân lên, đạp vào bụng cô gái. Anh nghe như có tiếng bịch đập vào thịt nhưng chỉ thế thôi không còn gì nữa. Tai anh ong lên sau cú đập của viên đạn vào cái mũ bảo hiểm Kevlar anh đang đội. Phát đạn đã làm rạn mặt nạ che mặt. Tai bên trái bỏng rát… Anh bất chấp tất cả. Co chân lại, anh khẽ rút con dao ngắn dấu trong cổ tay áo rồi chúi xuống dãy bàn bên canhjm Một phát súng nữa, nghe như một tiếng ho lớn, như khoan vào vành tai. Gố bắn tung tóe từ mép bàn. Anh nhìn ra rồi ngồi thụp xuống trong tư thế sẵn sàng, căng mắt tìm kiếm khắp căn phòng. Cú đá của anh đã làm cô gái đánh rơi chiếc đèn pin, lăn lông lốc trên sàn, vung ánh sáng khắp nơi. Anh xoa bóp ngón tay trên ngực. Phát súng đầu của kẻ sát nhân làm người anh vẫn nóng bỏng, đau rát. Nhưng không thấy vết máu. Người đàn bà gọi Gray từ trong bóng tối: “Áo giáp tránh đạn bằng tinh thể lỏng.” Gray cúi thấp xuống hơn nữa cố tìm ra vị trí của ả. Do cúi xuống duới gầm bàn nên màn hình bên trong cái mũ bị mờ tịt. Những hình ảnh ba chiều nhảy múa lộn xộn phía bên trong chiếc mũ ngăn cản tầm nhìn nhưng anh không dám tháo bỏ chiếc mũ vì nó đã trở thành vật phòng bị tốt nhất với thứ vũ khí mà người đàn bà kia đang cầm trong tay. Vật đó và bộ quần áo tránh đạn. Kẻ sát nhân đã nói đúng. Áo giáp tránh đạn bằng tinh thể lỏng được phòng thí nghiệm nghiên cứu quân đội Mỹ sản xuất năm 2003. Những sợ dệt áo tránh đạn được nhúng vào một chất lỏng cô đặc gồm các phân tử silic tan trong dung dịch polyetilen glycol. Khi vận động bình thường nó giống như một thứ chất lỏng nhưng khi một viên đạn bắn vào, vật liệu này rắn đanh lại thành một áo giáp ngăn không cho viên đạn xâm nhập vào. Chính cái áo tránh đạn này đã cứu tính mạng của y. Ít nhất là lúc này. Người đàn bà lại nói tiếp, bình tĩnh một cách lạnh lùng khi ả chầm chậm đi vòng tới cửa ra vào. “Ta đã gài chất nổ C4 và TNT vào tòa nhà này rồi. Việc đó chẳng khó khăn gì vì người ta dự kiến phá hủy căn cứ này rồi. Quân đội thật đáng khen khi đã bố trí cài đặt dây dẫn vào đây từ trước. Chỉ cần điều chỉnh một lượng thuốc nổ nhỏ thôi cũng có thể thay đổi phương thức làm nổ tung từ bên trong tòa nhà.” Gray đã hình dung ra một cột khói và đám gạch vụn nổ tung, bốc cao lên trên bầu trời sớm mai. “Những chiếc ly đựng virut bệnh than…” Anh khẽ lẩm bẩm nhwung cũng đủ để người khác nghe được. “Có vẻ như chuyện đó phù hợp với việc dùng chính kế hoạch phá hủy tòa nhà này để biến nó thành một hệ thống vận chuyển chất độc thì phải” Lạy Chúa, con điếm này đã biến cả tòa nhà thành một quả bom sinh học rồi. Chỉ cần những cơn gió mạnh, không chỉ là cái căn cứ này hiểm nguy mà toàn bộ thành phố Frederick kề bên bị đe dọa nữa. Gray vận động. Phải tìm cách chặn nó lại. Nhưng ả đang ở đâu nhỉ? Anh nhích về phía cửa ra vào, hiểu rất rõ ả đang cầm súng nhưng không thể vì điều đó mà dừng lại. Chuyện này quá mạo hiểm. Anh cố gắng chỉnh sáng lại để nhìn được trong đêm, nhưng tất cả những gì nhận được lại là một cú đập nữa tóe lửa bên tai. Màn hình phía trên mũ vẫn tiếp tục những hình ảnh nhảy múa hỗn loạn làm rối cả mắt. Mẹ kiếp! Anh tháo chiếc khóa cài rồi giật chiếc mũ vứt đi. Một luồng gió mát lành thật dễ chịu như được khử trùng cùng một lúc. Gray nằm sấp xuống, một tay cầm chiếc mũ tay kia cầm con dao. Anh quay trở lại bờ tường sau rồi vội vã ra cửa. Gray đã nhìn thấy rõ ràng là chiếc cửa xoay chưa hề được đụng đến. Kẻ sát nhân vẫn còn ở trong phòng. Nhưng ở đâu? Mình có thể làm gì để ngăn cản ả lại? Anh nắm chặt cán dao. Súng đối với dao. Không phải là chuyện hay. Tháo mũ ra rồi anh phát hiện bóng đen lướt nhẹ gần cửa ra vào. Anh dừng phắt lại, rồi bước đi yên lặng. Cô ả đang ngồi đó chỉ cách cánh cửa chưa đầy một mét được một cái bàn che chắn. Ánh sáng ấm ướt át tràn vào lối vào sảnh, chiếu qua các của sổ của chiếc cửa xoay. Rạng đông gần tới, làm sáng bừng hành lang phía trước. Kẻ sát nhân nhất định phải lộ mình trước khi thoát ra được. Vào lúc này, ả bám chặt bóng tối của cái phòng thí nghiệm không có cửa sổ, cũng không biết là đối thủ của mình có vũ khí hay không. Gray nghĩ phải chấm dứt trò chơi ú tim với ả này thôi. Quay ngoắt một vòng, anh vung chiếc mũ ném về phía đối diện phòng thí nghiệm. Nó rơi đánh bộp một cái, đập vô một trong những lọ thủy tinh cũ ở đó. Gray chạy đến chỗ ả ngồi. Anh chỉ có vài giây thôi. Ả đã thoát khỏi chỗ ẩn nấp, xoay người để nhả đạn vào hướng phát ra tiếng động. Đồng thời ả lao vội về phía cửa ra vào, dường như sử dụng sức bật từ khẩu súng để lấy đà. Gray không thể không cảm phục nhưng cũng không vì thế mà chậm bước. Với cánh tay đã khoanh lại, anh vung mạnh con dao qua không khí. Đủ nặng và cân bằng đến độ hoàn hảo, con dao lao với tốc độ chính xác phi thường. Con dao dâm trúng giữa họng cô ả. Gray lao tiếp về phía trước. Chỉ lúc đó anh mới nhận ra sơ suất của mình. Con dao đâm xoẹt vô hại rồi rơi đánh xoảng xuống sàn nhà. Lại là thứ áo giáp chết tiệt đó rồi. Không còn nghi ngờ gì nữa ả biết về chiếc áo giáp chống đạn bằng chất lỏng anh đang mặc và ả cũng mặc một chiếc áo như vậy. Vụ tấn công dù sao cũng làm ả loạng choạng. Ả nhao người xuống, quỳ xuống gối. Là một kẻ giết người đầy kinh nghiệm, ả không bao giờ rời mắt khỏi mục tiêu của mình. Chỉ cách đó một bước, ả nhắm thẳng nòng súng khẩu Sig Saucer vào mặt Gray. Và lúc này, anh lại không đội mũ bảo hiểm. * ** 5 giờ 09 phút Washington D.C “Chúng ta lại mất liên lạc rồi” Viên kỹ thuật làu bàu. Painter đã nghe được tiếng xoẹt từ lúc nãy rồi tất cả bỗng trở nên im lặng trên màn thu vệ tinh. “Tôi vẫn liên lạc được với an ninh tại căn cứ.” Nhân vật số 2 nói. Painter cố tập họp các mẩu đối thoại vừa nghe trên mạng lại. “Y ném chiếc mũ bảo hiểm đi rồi” Hai người kia nhìn chằm chặp vào ông. Painter đã nghiên cứu tập hồ sơ trước mặt. Grayson Pierce không phải là một anh chàng đần. Bên cạnh khả năng tuyệt vời về quân sự, anh ta đã giành được sự quan tâm của Sigma do khả năng bẩm sinh và những cuộc thử thông minh. Anh ta chắc chắn vượt trên mức bình thường, hơn hẳn, nhưng cũng có những người lính thậm chí còn đạt điểm cao hơn nhiều. Điều trở thành yếu tố cuối cùng để anh ta được tuyển mộ chính là những hành động kỳ cục của anh ta thời gian bị giam ở Leavenworth. Mặc dù phải lao động khổ sai trong tù, Grayson vẫn tạo cho mình một chế độ học tập nghiêm ngặt: Sự khác biệt trong việc lựa chọn các môn học này đã làm Painter và viên giám đốc trước kia của Sigma trở nên bất đồng với nhau. Trong nhiều lúc, anh ta tự chứng minh mình là một mớ mâu thuẫn: một người gốc Welsh sống ở bang Texas, một tín đồ của đạo Lão nhưng vẫn mang theo tràng hạt, một người lính lại nghiên cứu hóa học trong tù. Chính sự độc đáo về tâm tưởng đó đã đưa anh đến địa vị là thành viên của Sigma. Nhưng chính sự nổi trội đó cũng đem lại cái giá phải trả. Gray Pierce không phải là người dễ hòa đồng với người khác. Anh ta rất khó chịu khi phải hành động trong một nhóm. Giống như bây giờ. Đi một mình. Ngược với thông lệ. “Thưa ngài?” Nhân vật số 2 nài nỉ. Painter thở mạnh “Vẫn còn hai phút nữa” * ** 5 giờ 10 phút Federick, Marryland Gray thật may mắn. Kẻ giết người đã bắn quá nhanh trước khi chỉnh mục tiêu cẩn thận. Gray vẫn đang vận động, chỉ cố chúi xuống khỏi chỗ ban nãy. Một phát đạn trúng vào đầu đâu phải dễ dàng như xem trên phim. Gray tiến sát cô ả, cố gạt mũi súng vào khoảng giữa hai người. Và cho dù cô ả cứ bắn thì anh vẫn còn cơ may sống sót. Chỉ có điều sẽ bị thương nặng. Cô ả bắn, đúng như vậy. Viên đạn trúng vào đùi trái. Phát súng giống như một nhát rìu, làm đau buốt tận xương. Gray hét lên. Và tại sao lại không nhỉ? Đau kinh khủng. Nhưng anh thể để ả thoát. Anh trút căm hận bằng cách giáng mạnh cùi trỏ vào họng ả. Nhưng chiếc áo giáp của ả đã cứng lại, giúp ả thoát. Mẹ kiếp. Ả lại bóp cò. Anh nặng hơn, khỏe hơn ả rất nhiều, nhưng ả đâu có cần đến sức mạnh của nắm đấm và đầu gối. Cô ả đã có sức mạnh của khẩu pháo hiện đại trong tay. Phát đạn đạp mạnh vào bụng Gray. Đập xuyên đến tận xương sống, anh cảm thấy như ngưng thở. Chậm rãi, cô ả lại giơ khẩu súng ra phía trước. Khẩu Sig Sauer có băng đạn mười lăm viên. Cô ả đã bắn bao nhiêu viên rồi? Chắc chắn vẫn còn đủ để biến Gray thành một đống thịt bầy nhầy. Anh cần phải chấm dứt chuyến đi này. Gray ngẩng đầu lên rồi dùng trán đập thật mạnh vào mặt cô ả. Nhưng ả đâu có phải là kẻ lần đầu tiên vào những vụ đánh lộn như vậy. Ả liền quay mặt tránh cú đòn sang một bên đầu. Dù sao anh cũng có đủ thời gian để giật một sợi dây thòng xuống từ chiếc bàn kề bên. Chiếc đèn đọc sách nối với sợi dây rơi xoảng xuống nền làm vỡ tung cái chao đèn bằng thủy tinh màu xanh. Ôm thật chặt, anh đẩy ả lăn người lên trên cái đèn. Thật khó mà hy vọng những mẩu thủy tinh vỡ sẽ xuyên qua cái áo giáp. Nhưng đó đâu phải là ý đồ của anh. Gray nghe thấy tiếng bóng đèn nổ bụp dưới sức nặng của hai người. Được rồi. Co chân lại, anh nhảy ra ngoài. Đó là một trò chơi. Gray lao như bay đến chỗ công tắc đèn cạnh cái cửa đẩy. Một tiếng súng cùng với cú đập vào phía dưới lưng của Gray. Cổ anh như khựng lại. Người anh đập mạnh vào tường. Khi ngã xuống, bàn tay anh đã kịp với được bảng điện để bật công tắc. Ánh điện sáng bừng phòng thí nghiệm, lập lòe, dây điện tồi. Gray lui lại về phía kẻ sát nhân. Anh không hy vọng có thể dùng điện giật chết kẻ thù của mình. Điều đó chỉ có thể xảy ra trong phim ảnh mà thôi. Đó không phải là ý định của anh. Dù vậy, anh vẫn nuôi hi vọng ai đó sử dụng lần cuối cái đèn bàn đó vẫn chưa tắt điện. Khẽ nhổm dậy, anh vòng lại. Cô ả vẫn ngồi lên trên chiếc đèn vỡ, cánh tay dang ra về phía Gray, nòng súng chĩa thẳng. Ả bóp cò nhưng trượt. Một cánh cửa sổ của cái cửa xoay bị vỡ tan. Gray bước vòng sang một bên lui ra xa khỏi tầm bắn. Ả ta không thể nhào theo anh được nữa. Ả như bị đông cứng tại chỗ không thể di chuyển được. “Áo chống đạn tinh thể lỏng.” Gray nhắc lại lời của ả lúc nãy. “Chất lỏng làm chiếc áo giáp cơ động được nhưng cũng có nhược điểm”. Gray tiến đến phía ả, giật lấy khẩu súng.”Chất propylene glycol là một loại cồn. Một chất dẫn tuyệt với đối với dòng điện, ngay cả một dòng điện nhỏ từ một chiếc bóng đèn vỡ ra cũng có thể dẫn điện ra khắp cả chiếc áo trong vài giây. Giống như bất cứ đòn tấn công nào, chiếc áo phải hứng chịu”. Anh đá vào ống quyển chân cô ả. Chiếc áo giáp cứng như đá. “Thật cứng đối với mày phải không?” Chiếc áo giáp đã biến ả thành tù nhân. Gray nhanh chóng lục soát khi thấy ả bắt đầu cựa quậy. Cố gắng lắm thì ả có thể vận động chậm chạp nhưng thật vô vọng. Ả đành buông xuôi. Mặt đỏ lự vì căng thẳng. “Mày sẽ không tìm thấy kíp nổ đâu. Tất cả đã được hẹn giờ, vào lúc…” Đôi mắt của ả nhìn xuống chiếc đồng hồ đang đeo trên tay.” Chỉ hai phút nữa thôi. Mày sao có đủ thời gian để phá chỗ thuốc nổ”. Gray để ý đồng hồ trên tay ả đã chạy dưới vạch 02.00. Tính mạng của ả cũng gắn với con số đó. Anh nhìn thấy ánh mắt sợ hãi trong đôi mắt của ả- dù là kẻ giết người đi chăng nữa ả cũng là con người, sợ chính cái chết của mình- những phần còn lại khuôn mặt của ả lại cứng lên giống như chiếc áo tránh đạn cứng quèo đang mặc. “Vậy mày giấu những chiếc ly đó ở đâu?” Gray biết ả sẽ không nói cho mình biết. Nhưng anh nhìn chòng chọc vào đôi mắt của ả. Vào lúc này đôi trong mắt ngước lên cao rồi hạ xuống nhìn vào Gray. Mái nhà. Có lý. Anh không cần sự khẳng định nào khác. Loại vi khuẩn bệnh than rất nhạy cảm với độ nóng. Nếu ả muốn loại hóa chất này nhanh chóng phát tán sau vụ nổ, thì những chiếc ly phải đặt ở trên cao, tác động bởi những chấn động đầu tiên của vụ nổ sẽ bắng tung lên cao. Ả không thể mạo hiểmđể cho độ nóng của vụ nổ cháy rụi thứ vi khuẩn đã trở thành vũ khí được. Trước khi Gray bước đi, ả nhổ vào anh, đánh vào má. Anh cũng chẳng buồn lấy tay gạt đi nữa. Anh không còn thời gian. 01.48 Gray đứng thẳng dậy lao vụt ra cửa. “Mày không thể nào kịp được!” Cô ả gọi với. Tuy nhiên ả cũng hiểu anh đang lao rất nhanh đến chỗ quả bom vi trùng, chứ không phải chạy thoát thân. Giống như việc ả đã hiểu Gray quá rõ để nghi giả thuyết đó. Gray chạy xuống hành lang bên ngoài rồi rẽ vào khu cầu thang. Anh bước vội xuống hai bậc thang để có thể với tay tới cửa trên mái nhà. Một cái then đã chốt chiếc cửa được sử dụng sơ tán khi xảy ra hỏa hoạn. Nỗi sợ hãi quyết định giây phút này đây. Gray lấy tay gạt cái then, đánh cạch mọt cái rồi lao vào khoảng không gian mờ mờ trước rạng đông bên ngoài. Có biết bao nhiêu chỗ có thể dấu được những chiếc ly: lỗ thông hơi, ống thoát, chảo vệ tinh…? Ở đâu vậy? Thời gian không còn nhiều. Chương 1 (tt) 5 giờ 13 phút Washington D.C. “Anh ta đang ở trên mái nhà kìa.” Người nhân viên kỹ thuật chỉ tay vào màn hình vệ tinh NRO. Painter nhìn gần vào màn hình hơn để thấy một hình người bé tí hiện ra. Grayson đang làm gì trên mái nhà vậy? Painter cố nhìn sang khu vực chung quanh: “Liệu có thấy dấu hiệu gì của việc truy đuổi không?” “Thưa ngài, tôi chẳng thấy gì cả.” Nhân viên kỹ thuật đáp lại. Logan nói tay cầm điện thoại: “An ninh trong căn cứ báo cho biết có tín hiệu báo cháy xuất hiện ở tòa nhà 470.” “Rất có thể người ta đã bỏ tín hiệu thôi báo cháy rồi.” Nhân viên kỹ thuật đốp lại. “Liệu có thể cho nhìn gần thêm nữa không?” Painter hỏi. Nhân viên kỹ thuật gật đầu rồi chỉnh một cái nút. Hình ảnh Grayson Pierce to dần lên. Cái mũ bảo hiểm của anh ta đã biến mất rồi. Tai trái anh ta trông như có vết máu sẫm. Anh ta tiếp tục đứng ngay phía cửa. “Anh ta đang làm gì vậy?” Nhân viên kỹ thuật hỏi. “An ninh căn cứ đang trả lời”, Logan báo cáo. Painter lắc đầu nhưng một ý nghĩ thoáng qua làm ông lạnh cả người. “Hãy bảo an ninh căn cứ tránh xa ra. Liệu họ đã xơ tán bất kỳ người nào ở gần tòa nhà đó không nhỉ?” “Thưa ngài?’ “Hãy làm như vậy đi.” * * * 5 giờ 14 phút Federick, Marryland Gray nhìn kỹ mái nhà một lượt nữa. Còi cấp cứu tiếp tục vang lên. Anh phớt lờ tiếp tục nhìn ra ngoài. Anh vẫn ngẫm nghĩ về tình trạng bế tắc của mình. Gray ngồi thụp xuống. Đã có trận mưa đêm qua. Anh hình dung cô ả chắc vừa mới kịp đặt những chiếc ly, sau trận mưa rào, rồi nhìn kỹ một lượt nữa và chú ý xem chỗ nào trên nền cát mỏng mịn màng sau trận mưa bị xới tung. Thật chẳng khó khăn gì vì anh biết ả nhất định phải đi qua cửa này. Đây là cánh cửa duy nhất. Anh lần theo các vết chân của ả. Chúng dẫn đến lỗ thông hơi bị bịt kín trên nóc. Tất nhiên. Lỗ thông hơi này sẽ được dùng như một thứ ống khói tuyệt vời để phát tán khí độc khi phần dưới của tòa nhà bị nổ tung, tạo ra một quả bom khí độc. Quỳ xuống, Gray phát hiện ra chỗ ả loay hoay với cái nắp đậy rũ tung lớp bụi phía ngoài. Anh chẳng còn thời gian kiểm tra xem có cạm bẫy gì không. Anh giật mạnh làm tung cái lỗ thông hơi ra. Quả bom nằm ngay bên trong cái ống. Mười lăm cái ly thủy tinh được sắp xếp theo hình ngôi sao chung quanh một thỏi chất nổ C4 nằm chính giữa đủ sức để làm tung chiếc hộp. Gray nhìn chăm chú vào chất bột mầu trắng được nén đầy trong mỗi cái ống nhỏ. Bặm môi thật chặt Gray thò tay vào, thận trọng bưng quả bom ra ngoài ống. Một chiếc đồng hồ đo thời gian đang đếm ngược 00.54 00.53 00.52 Không còn gì vướng víu nữa, Gray đứng thẳng dậy. Anh kiểm tra thật nhanh quả bom. Nó được cài chống phá. Anh chẳng còn thời gian để giải mã các thứ dây và thiết bị điện tử. Quả bom sẽ nổ tung trong giây lát. Anh phải đưa nó ra xa tòa nhà này, khỏi khu vực phát nổ, tốt nhất là xa bản thân mình. 0.41 Chỉ còn một cơ hội. Gray gói quả bom vào một cái túi nylon bẩn khoác lên vai rồi tiến ra phía trước tòa nhà. Những ngọn đèn pha soi rọi tòa nhà sau khi còi báo động rú lên. An ninh của căn cứ không thế nào tới đây lúc này được. Gray không còn sự lựa chọn nào khác. Anh phải dọn sạch…dù cho tính mạng mình ra sao. Lui vài bước khỏi lan can nóc nhà, Gray hít một hơi thật dài rồi quay ngoắt về phiá trước tòa nhà. Đến chỗ hàng lan can nóc nhà bằng gạch, anh lấy đà rồi nhảy qua. Gray nhảy xuống từ tầng thứ Sáu. * * * 5 giờ 15 phút Washington, D.C. “Lạy Chúa!’ Logan thốt lên khi thấy Grayson nhảy từ mái nhà xuống. “Thằng cha này chắc điên quá.” Viên kỹ thuật thốt lên, đứng bật dậy. Painter chỉ chăm chú quan sát cú nhảy tự sát của người đàn ông. “Anh ta đang làm việc cần phải làm”. * * * 5 giờ 15 phút Federick, Marryland Gray gập chân lại, hai cánh tay mở rộng để lấy thế thăng bằng. Anh đang lao xuống đất. Anh cầu mong quy luật của vật lý, sự phân tích của vận tốc, đường đạn và tốc độ đừng phản bội mình. Gray đã sẵn sàng cho mọi hậu quả. Hai tầng phía dưới và hai mươi yard nữa, cái mái có hình cầu của Quả cầu thứ Tám vươn lên để đón nhận. Cái quả cầu tròn chứa được một triệu lít chất lỏng này sáng long lanh sương sớm. Anh vặn người giữa không trung, cố giữ cho đôi chân lao xuống trước. Thời gian trôi nhanh. Hay anh đang làm như vậy. Đôi chân đi giày của anh đập vào bên ngoài quả cầu. Chiếc áo giáp thân nhiệt bao bọc quanh mắt cá chân bảo vệ khỏi va đập. Rồi anh đập mặt xuống người xoài ra. Nhưng anh không tới được chính giữa của đỉnh quả cầu mà chỉ là đoạn cong chìa ra gần sát tòa nhà số 470.Ngón tay đánh cục nhưng không gãy. Thân hình anh trôi tuột theo vỏ ngoài bằng thép của quả cầu khổng lồ đẫm sương. Gray dang rộng đôi chân kéo lê ngón chân tránh bị va đập. Khi y đã quá ngưỡng không thể quay trở lại rồi thì rơi đánh bịch xuống bên quả cầu. Khi má chạm vào quả cầu thép, Gray đã không thể nhìn thấy lối đi bộ hẹp cho đến khi lao vào đó. Chân trái bị va đập mạnh rồi cả thân hình đổ theo. Gray ngã xuống bằng hai chân và hai tay trên giàn giáo bằng kim loại được người ta dựng xung quanh phía giữa của quả cầu thép. Anh nhỏm dậy chân tê dại vì cú va đập và nỗi sợ hãi. Bản thân anh cũng không tin được mình vẫn còn sống. Gray cố kiếm chỗ cong của quả cầu trong khi kéo quả bon ra khỏi cái túi ngắn. Bề mặt của khối thép khổng lồ này bị lỗ chỗ những lỗ thủng có thời đã được các nhà khoa học sử dụng để quan sát các thí nghiệm bên trong. Trong tất cả những năm được sử dụng liên tục không có một loại vi khuẩn gây hại nào có thể thoát ra ngoài. Gray cầu mong mọi việc vẫn sẽ được như vậy sáng hôm nay. Anh liếc nhìn quả bom đang cầm trong tay. 0.18 Không còn thời gian để văng tục nữa, Gray chạy quanh lối hẹp để đi bộ, hi vọng tìm kiếm được một khe để nhét vào. Anh đã tìm thấy nó ngay phía bên kia quả cầu thép. Một cái cửa thép có lỗ nhỏ. Gray dừng lại, nắm lấy cái cần gạt và lắc. Cái cần gạt ì ra không nhúc nhích. Đã bị khóa. * * * 5 giờ 15 phút Washington, D.C. Painter quan sát Grayson nắm lấy tay cầm của quả cầu thép khổng lồ. Ông nhận thấy nét căng thẳng tột độ và hiểu được sự khẩn cấp của tình hình. Painter cũng đã nhìn thấy vật nổ được lấy ra từ lỗ thông hơi. Ông biết mục tiêu của phi vụ của cả nhóm của Grayson: Lừa bằng được kẻ khả nghi buôn bán loại vi khuẩn biến thành vũ khí. Painter không còn nghi ngờ gì nữa về hậu quả tại hại chết người kiểu gì bên trong quả bom. Chất gây bệnh Than. Rõ ràng là Grayson không thể tháo được kíp nổ, chỉ còn cách vứt nó đi mà thôi. Anh ta không gặp may. Liệu anh ta còn bao nhiêu thời gian nữa? * * * 5 giờ 15 phút Federick, Marryland. 0.18 Grayson lại tiếp tục chạy. Biết đâu lại còn một cái khe nữa. Anh lom khom quanh lối đi bộ. Anh cảm thấy như mình đang chạy bộ trong bộ đồ trượt tuyết, mắt cá chân vẫn cứng như đá trong bộ áo giáp. Gray vòng tiếp phần còn lại của quả cầu. Một cái khe xuất hiện ngay trước mặt. “Này, gã kia, dừng ngay lại!” An ninh của căn cứ. Vẻ dữ tợn và tiếng hú của còi gần như làm anh phải tuân theo. Gần như vậy. Gray lại tiếp tục chạy. Một ánh đèn pha rọi vào người. “Dừng lại!Nếu không chúng tôi sẽ bắng!” Anh không còn thời gian để thương lượng nữa. Tiếng súng nổ chói tai khi chạm vào bề mặt quả cầu, một vài viên khác trúng vào lối đi bộ. Chả có viên nào gần cả. Bắn cảnh cáo. Anh tiến đến chỗ khe thứ hai, giật lấy tay gạt và đẩy mạnh. Cái chốt khựng lại một chút rồi mở ra. Tiếng nấc vì xúc động thoát ra từ Gray. Anh quẳng ngay quả bom vào lỗ hổng bên trong quả cầu, đóng chặt cửa lại rồi tựa lưng vào quả cầu, ngồi khuỵu xuống. “À mày đây rồi, ở nguyên chỗ đó!” Gray cũng chả có ý định đi đâu nữa. Anh chỉ cảm thấy thật hạnh phúc, bụng cồn cào. Quả cầu vang lên như có một quả chuông được gõ. Thiết bị đã nổ ở bên trong, giữ an toàn. Nhưng đó mới chỉ là màn đầu tiên để những chuyện lớn hơn sẽ đến. Giống như tiếng vỗ tay của những vị thần vĩ đại, hàng loạt tiếng nổ lớn làm rung chuyển mặt đất. Bum…bum…bum Đã được tính toán, thời gian và sắp xếp kỹ lưỡng. Đó là sự phá hủy qua hệ thống dây dẫn đối với tòa nhà 470. Mặc dù đứng ở phía xa tận bên kia quả cầu, Gray vẫn cảm thấy hơi ngột thở, rồi tiếng bục mạnh như thể tòa nhà hít hơi thở lần cuối cùng và hắt ra. Một bức tường dày đặc bụi, đất đá vung ra khi tòa nhà xụp xuống. Gray nhìn lên chỉ kịp thấy một cột khói và bụi vung lên cao rồi tản theo gió. Nhưng không có cái chết nào đi cung với cơn gió này. Một tiếng nổ cuối cùng nghe như sấm từ tòa nhà đang chết. Một tiếng rầm của gạch, đá, một trận đất trồi. Mặt đất như nghiêng ngả dưới chân, rồi anh nghe một tiếng động lớn. Tiếng rít của kim loại. Bị đẩy mạnh vì vụ nổ, chân đế của quả cầu thép bị lung lay. Hai trong số chân đế của Quả cầu thứ Tám bị cong gập lại như thể quả cầu bị khuỵu đầu gối xuống. Cả quả cầu nghiêng hẳn từ phía tòa nhà hướng về phía đường. Chân đế lại bị gục tiếp. Một khi nó đã bị gục không thể ngăn lại được nữa. Quả cầu có dung tích mộ triệu lít đã bị lật nhào về phía hàng rào gồm những chiếc xe tải của lực lượng an ninh. Và chính Gray đang ở phía dưới. Anh vươn dậy loạng choạng định theo dọc lối đi bộ, cố thoát ra. Anh chạy được vài bước nhưng quãng đường vòng vèo do quả cầu tiếp tục lao xuống dưới. Lối đi bộ trở thành cái thang. Gray bám tay vào những thanh thép, đạp chân vào giá đỡ lối đi. Anh phải cố vượt ra khỏi tầm rơi ụp xuống của quả cầu khổng lồ này. Gray làm một cú lao tuyệt vọng cuối cùng, tay vẫn bám một thanh tay nắm và đạp chân. Quả cầu thứ Tám lao vào bãi cỏ trước mặt và đập vào khoảng đất sũng nước mưa. Tác động của nó dội tới lối đi bộ làm văng Gray ra khỏi chỗ tay vịn. Anh bay người đi một quãng rồi rơi bịch đặt lưng xuống trước thảm cỏ êm ái. Chỉ cách đó có chưa tới một mét. Dựa tay vào một khuỷu tay, Gray ngồi dậy, Hàng rào xe an ninh đã lùi lại khi quả cầu khổng lồ lăn về phía họ. Nhưng chắc chắn họ không đi đâu xa. Và anh không thể để họ bắt. Gray cố đứng dậy, xuýt xoa vì đau đớn rồi loạng choạng đi về phía khói mù của tòa nhà bị sập. Chỉ tới lúc này anh mới nghe thấy tiếng còi báo động rú lên khắp căn cứ. Gray lột bỏ chiếc áo giáp khi đang di chuyển đeo thẻ căn cước vào bộ quần áo dân sự mặc bên trong. Anh vội vã tới phía bên kia của cái sận nơi đã dựng chiếc xe mô tô. Anh thấy chiếc xe còn nguyên vẹn. Đặt chân lên bàn đạp, anh mở công tắc điện. Động cơ khẽ rùng mình trước khi nổ. Nhả tay ga rồi dựng lại. Có cái gì đó vướng vào tay lái. Gray gỡ ra, nhìn vật đó rồi đút vào túi. Mẹ kiếp… Anh nhả tay ga rồi lao xe vào phố nhỏ bên cạnh. Đường xá lúc này vắng vẻ. Anh cúi rạp xuống lao xe vút qua các tòa nhà đen kịt. Tới phố Porter, anh rẽ nhanh sang bên trái, quay ngoắt lại rất nhanh, chìa chân trái ra để lấy thăng bằng. Lúc này trên phố chỉ còn lác đác vài chiếc ô tô. Không có chiếc xe tuần nào của quân cảnh. Gray vòng vèo quanh một lát rồi lao đến khu vực đông dân của căn cứ nằm bao bọc Nallin Pond, vốn là khu vực của những ngọn đồi thoai thoải và cánh rừng gỗ tếch. Anh phải chờ cho đến lúc hết hỗn loạn rồi chuồn. Bây giờ thì anh đã an toàn. Bỗng nhiên Gray cảm nhận được sức nặng của vật vừa mới đút vào túi, giống như một thứ trang trí trên chiếc mô tô của mình. Một dây chuyền bằng bạc có mặt gắn phù điêu con rồng. * * * Washington, D.C. Painter quay lại từ phía màn hình vệ tinh. Kỹ thuật viên đã bắt được hình ảnh Grayson thoát bằng xe mô tô khi anh ta nhô ra từ đám khói và bụi bặm. Logan vẫn tiếp tục điện thoại, truyền lệnh tới những kênh công khai mọi việc đã ổn. Được rửa sạch từ trên, vụ phiền toái ở căn cứ chắc sẽ bị đổ tội do thông tin không chuẩn xác, đường dây trục trặc và chất nổ kém phẩm chất. Người ta sẽ không bao giờ nghe nhắc đến Sigma. Viên kỹ thuật áp ống nghe vào tai “Thưa ngài, có điện thoại từ giám đốc DARPA” “Nối máy vào đây.” Painter cầm lấy một ống nghe khác. Ông chăm chú lắng nghe khi đường dây lạo xạo. Nhân viên kỹ thuật gật đầu khi đường dây hoạt động trở lại. Mặc dù chả ai nói câu nào, Painter vẫn có thể cảm nhận được người đỡ đầu và vụ chỉ huy của mình: “Giám độc McKnight đây.” Ông nghi người sếp trực tiếp của mình sẽ yêu cầu giải trình rõ vụ này. Sự nghi ngờ của ông tỏ ra sai. Ông nghe thấy một giọng nói chắc nịch từ bên kia đầu dây. ‘Painter, tôi vừa nhận được tin tình báo từ Đức. Những cái chết kỳ lại ở một nhà thờ. Chúng ta cần cử ngay một nhóm tới đó vào lúc nửa đêm nay.” “Nhanh vậy kia ạ.” “Các chi tiết sẽ được cung cấp trong vòng mười lăm phút nữa. Nhưng chúng ta cần một nhân viên giỏi nhất của anh cầm đầu tốp này.” Painter nhìn chăm chú vào màn hình vệ tinh. Ông thấy chiếc xe mô tô lượn qua các ngọn đồi, thấp thoáng dưới bóng vòm lá cây. “Có thể tôi đã chọn được người đó rồi. Nhưng ngài cho phép hỏi việc này có khẩn cấp lắm không ạ?” “Sáng nay đã có một cú điện thoại yêu cầu Sigma điều tra vụ này ở Đức. Nhóm của anh được đặc biệt yêu cầu” “Yêu cầu? Do ai vậy?” Để làm cho tiến sĩ McKnight giật mình, chắc phải là ai đó cao ở cấp tổng thống. Nhưng một lần nữa sự phỏng đoán của ông lại là sai. Giám đốc giải thích: “Từ Vatican”. Chương 2 Thành phố vĩnh hằng Ngày 24 tháng 7, buổi trưa Roma, Italy Mất quá nhiều thời gian để sắp xếp một bữa ăn trưa. Trung úy Rachel Verona leo xuống bậc thang hẹp chạy sâu dưới lòng nhà thời San Clemente. Việc khai quật phía dưới nhà thờ đã được một nhóm nhà khảo cổ học thuộc trường Đại học Naples giám sát từ hai tháng nay. “Lasciate ogni speranza…” Rachel lẩm bẩm. Dẫn đường cho Rachel là giáo sư Lena Giovanna, phụ trách dự án, quay lại phía sau liếc nhìn cô. Giáo sư là một người đàn bà cao lớn, tuy mới ở độ tuổi năm mươi nhưng cái dáng vẻ cúi gập thường xuyên làm cho bà già và thấp đi hẳn. Bà cười với Rachel giọng mệt mỏi: “Vậy là cô đọc Dante Alighieri. Và chắc chắn đọc bằng văn bản gốc tiếng Latinh. Lasciate ogni speranza, hãy từ bỏ hy vọng, hỡi những ai bước vào đây”. Rachel cảm thấy bối rối. Theo Dante, những từ đó được viết trên những cánh cửa dẫn vào Địa ngục. Thực ra cô chả muốn ai nghe được câu nói của mình cả nhưng do ở đây độ truyền âm quá tốt nên chả có gì là riêng tư được cả. “Không sao, thưa giáo sư”. Một cái chặc lưỡi trả lời cô. “Không có gì, thưa trung úy. Tôi chỉ ngạc nhiên khi phát hiện thấy có người trong quân cảnh lại thành thạo tiếng Latinh như vậy. Thậm chí ngay cả người làm việc cho cảnh sát di sản văn hóa…. Rachel hiểu được quan niệm sai trái này. Quả là rất thông thường khi vẽ lê tất cả lực lượng quân cảnh bằng một chiếc bút vẽ. Hầu hết dân thường chỉ nhìn thấy những người đàn ông hay đàn bà mặc cảnh phục trang bị với khẩu súng thường đứng gác trên hè phố và các tòa nhà. Nhưng cô lại gia nhập quân cảnh không phải như một người lính mà là một cử nhân tốt nghiệp đại học về môn tâm lý và lịch sử nghệ thuật. Cô được tuyển mộ vào quân cảnh ngay sau khi ra trường, dành thêm hai năm tại trường huấn luyện sĩ quan về luật quốc tế. Chính cô đã được Rende, chỉ huy lực lượng đặc biệt chuyên điều tra các vụ đánh cắp tranh nghệ thuật và đồ cổ có tên là Tutela Patrimonio Culturale lựa chọn. Đi đến cuối cầu thang, Rachel giẫm vào một vũng nước bẩn. Cơn bão từ mấy hôm trước đã làm ngập tầng ngầm. Cô nhìn xuống ngán ngẩm. Ít nhất phải ngập đến mắt cá chân. Rachel đang xỏ một đôi ủng cao su đi mượn nhưng hơi rộng, thực ra là ủng đàn ông. Cô cầm trên tay đôi giày mới mác Ferragamo, một món quà sinh nhật của mẹ. Cô không dám để đôi giày ở cầu thang. Kẻ cắp hầu như có mặt khắp nơi. Nếu cô đánh mất đôi giày hoặc chỉ làm bẩn thôi cũng suốt ngày sẽ phải nghe mẹ cằn nhằn. Ngược lại, giáo sư Giovannan lại mặc một chiếc áo khoác thật khắc khổ, trông có vẻ hợp với những di vật bị ngập nước hơn là chiếc quần lính thủy và áo khoác bằng lụa vẽ hoa của Rachel. Máy nhắn tin của cô đã réo rắt từ mười lăm phút trước đây nên Rachel đã phải hộc tốc đến chỗ hẹn ăn trưa với mẹ và chị. Cô cũng chả chó thời gian về căn hộ của mình để mặc bộ cảnh phục. Ngay cả nếu như cô có cơ hội thực hiện bữa trưa đó đi chăng nữa. Vậy cô đã đến thẳng đây, gặp gỡ vài cảnh sát địa phương. Cô chia tay với họ ngay ở chỗ nhà thờ để tiến hành điều tra sơ bộ vụ trộm. Thực ra về mặt nào đó, Rachel cũng thở phào nhẹ nhõm là tạm chưa phải ăn trưa với mẹ nữa. Cô đã cố để một thời gian dài không cho mẹ biết cô và Ginô đã chia tay. Thực tế, người bạn trai cũ đã dọn đi được hơn một tháng rồi. Rachel có thể hình dung được nỗi thất vọng trong đôi mắt mẹ cùng câu ca cẩm như mọi lần: mẹ đã nói với mày như vậy rồi và thường lại nói rất to. Còn bà chị,d đã kết hôn được hơn ba n ăm, sẽ lại ngồi vặn vẹo chiếc nhẫn kim cương đeo ở ngón tay, gật gật đầu một cách thật ngoan đạo. Cả hai đều chưa bao giờ hài lòng với sự lựa chọn nghề nghiệp của Rachel. “Cậy thì mày làm sao có thể giữ được chồng, hả con bé ngốc nghếch kia?” Mẹ cô ca cẩm, hai tay giơ lên trời: “Mày lại còn để tóc ngắn thế này à. Ai lại đi ngủ với một khẩu súng…Chả có thằng đàn ông nào chấp nhận chuyện này cả…” Chính vì vậy, Rachel không mấy khi rời Roma để đi thăm gia đình ở vùng nông thôn Castel Gandolfo, nơi gia đình họ định cư từ sau Thế chiến thứ Hai bên bóng cây rợp mát của lâu đài nghỉ hè của Giáo hoàng. Chỉ có bà ngoại cô hiểu được Rachel. Cả cô và bà đều chia sẻ niềm say mê với đồ cổ và súng đạn. Từ khi lớn, Rachel đã biết chăm chú lắng nghe khi bà kể chuyện về thời chiến tranh: những câu chuyện kinh khủng xen lẫn chuyện hài hước ma quỷ. Bà cụ thậm chí còn giữ một khẩu Luger P-08 luôn được lau dầu và đánh bóng kỹ lưỡng từ thời phát xít trong ngăn bàn cạnh giường, chiến dịch từ vụ lấy trộm của gã lính biên phòng khi gia đình đi tản cư. Đối với bà cụ chưa bao giờ thấy có món chiến lợi phẩm nào bằng sợi đan lát cả. “Ngay ở trên kia kìa”. Vị giáo sư nói. Bà vươn người đi trước ra cửa. “Các sinh viên của tôi đang canh gác ở chỗ công trường”. Rachel đi sau bà, lom khom chui qua một cái cửa thấp. Cô đứng thẳng bên trong một căn phòng giống như cái hang. Ánh sáng đèn măng-sông, rồi đèn ắc quy rọi vào vòm cuốn trên mái do các tảng nham thạch núi lửa gắn kết bằng vôi vữa với nhau một cách vụng về. Một loại hang động do con người làm ra. Rõ ràng đây là một ngôi đền thời La Mã. Khi Rachel bước vào bên trong, cô rất hiểu sức nặng của cả toàn nhà thờ ở trên nóc. Để thờ Thánh Clement vào thế kỷ thứ XII, nhà thờ hiện nay được xây cất trên một ngôi nhà thờ cổ đại từ tận thế kỷ IV. Nhưng ngay cả ngôi nhà thờ cổ đại này cũng ẩn chứa một bí mật sâu thẳm: Vết tích của một vương triều từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, gồm những tòa nhà thời La Mã trong đó có ngôi đền này. Những ngôi đền được xây dựng đè lên nhau như vậy không phải là hiếm hoi, một thứ tôn ngào này chôn vùi tôn giáo khác, một sự giai tầng hóa lịch sử La Mã. Rachel nhận thấy rõ sự háo hức đang dâng lên trong cô, giống như sức ép của thời gian cũng như sức nặng của đá. Dù cho thế kỷ này đã vùi lấp thế kỷ khác nhưng chúng vẫn ở đây. Lịch sử cổ xưa của nhân loại được lưu giữ trong đá cùng với sự im lặng. Đây là một nhà thờ cũng phong phú và súc tích như nhà thờ hiện hữ phía trên kia. “Đây là hai sinh viên trong trường đại học của tôi, Tia và Robetto”. Bà giáo sư giới thiệu. Rachel cuối cùng cũng để ý đến chàng trai và cô gái đó, cả hai đều tóc đen, ăn mặc giống nhau với những bộ quần áo lem luốc. Họ đang moi lên những mảnh gốm vỡ. Một tay vẫn cầm đôi giày, Rachel dùng tay kia bắt tay họ. Dù đang học đại học nhưng trông họ như chưa đến mười lăm tuổi. Chắc là như vậy vì cô vừa kỉ niệm ngày sinh thứ ba mươi của mình mới đây thôi và mọi người xem ra đều trẻ ra trừ cô. “Lại đây”, giáo sư nói rồi dẫn Rachel tới góc tường bên kia. “Những kẻ ăn cắp chắc phải hành động lúc xảy ra cơn bão đêm qua”. Giáo sư Giovanna soi ngọn đèn pin vào một bức tường cẩm thạch đứng ở góc phía xa. Nó cao khoảng một mét, có vẻ như vậy nếu như cái đầu pho tượng không bị mất. Những gì còn lại là cái thân tượng, đôi chân và cái dương vật thòi ra ngoài. Một vị thần sinh đế thời La Mã. Giáo sư lắc đầu: “Một thảm kịch. Đây là bức tượng duy nhất nguyên vẹn còn lại được tìm thấy ở đây”. Rachel hiểu được nỗi bực bội của bà. Cô lấy bàn tay không cầm giày xoa quanh vết cắt trên cổ pho tượng. Ngón tay của cô cảm thấy sự thô ráp như ở những ca tương tự. “Rìu cưa” cô lẩm bẩm. Thứ công cụ đó những kẻ trộm mồ mà chuyện nghiệp thời nay thường sử dụng, dễ giấu và dễ hành động. Với loại công cụ đơn giản như vậy, bọn kẻ cắp đã ăn trộm, phá hủy, cướp đi không biết bao nhiêu kiệt tác nghệ thuật khắp vùng Roma. Chỉ có một loáng là có thể thực hiện được vụ trộm, thậm chí vào ban ngày khi nhân viên bảo tàng quay lưng lại. Và phần thường thường cũng tương xứng với sự mạo hiểm bỏ ra. Buôn bán đồ cổ ăn cắp vẫn là một nghề béo bở, chỉ thua buôn ma túy, rửa tiền và bán vũ khí. Chính vậy mà quân đội đã thành lập lực lượng cảnh sát chuyên về di sản văn hóa, từ năm 1992. Cộng tác với Interpol, họ cố gắng ngăn chặn cơn đại dịch này. Rachel ngồi xổm trước pho tượng, người cô như cảm thấy nóng bừng. Dần dà từng thứ, từng thứ một, lịch sử La Mã đang bị xóa sổ. Đây là một thứ tội ác chống thời đại. “Ars longa, vita brevis, cuộc sống thì ngắn ngủi nhưng nghệ thuật lại vĩnh hằng.” Rachel khẽ thầm thì, một câu dẫn Hippocrates, một trong những tác gia yêu thích của cô. “Đúng vậy”. Giáo sư nói giọng mệt mỏi. “Đây quả là một phát hiện có giá trị. Một công trình của cưa, rìu, những chi tiết tinh tế, một tác phẩm của một nghệ thuật bậc thầy. Vậy mà đã bị phá hoại một cách dã man…” “Thế tại sao bọn khốn kiếp đó không ăn trộm cả pho tượng?” Một trong hai sinh viên, Tia nói:”Ít nhất cũng còn giữ được pho tượng nguyên vẹn”. Rachel lấy một chiếc giày khẽ đập vào pho tượng. “Dù cho chúng lấy trộm thật thuận tiện ở đây nhưng di vật này quá lớn. Tên trộm chắc đã được một kẻ buôn bán tầm cỡ quốc tế đặt. Cái đầu pho tượng dễ di chuyển ra khỏi biên giới hơn”. “Liệu có cơ may thu hồi lại được không?” Giáo sư Giovanna nói. Lúc này Rachel chưa thể đưa ra lời hứa hẹn vội vã nào cả. “Trong số sáu nghìn cổ vật bị mất cắp năm ngoái người ta chỉ lấy lại được rất ít. Tôi cần ảnh của pho tượng nguyên thể để gửi cho Interpol, tốt nhất nên tập trung vào phần bản thân của pho tương”. “Chúng ta đã có cơ sở dữ liệu”. Giáo sư Giovannan nói. “Tôi có thể gửi các bức ảnh qua email”. Rachel gật đầu nhìn chăm chú vào pho tượng mất đầu. “Liệu Roberto đứng đằng kia có thể nói cho chúng ta biết anh ta đã làm gì với cái đâu tượng?” Giáo sư quay sang nhìn cậu thanh niên. Roberto lui lại một bước. “Cái…cái gì?”. Cặp mắt của cậu ta đảo quanh căn phòng rồi dừng lại ở chỗ người thầy mình. “Thưa giáo sư…thật ra, em chả biết gì cả. Thật là điên rồ”. Rachel tiếp tục nhìn chăm chăm vào pho tượng bị mất đầu, rồi một dấu vết xuất hiện với cô. Cô đã cân nhắc chuyện tiến hành ngay ở đây hay tại đồn. Nhưng điều đó có nghĩa sẽ phải phỏng vấn tất cả mọi ngươi, thu thập hết lời khai, một đống các thứ giấy tờ. Cô nhắm mắt lại, nghĩ đến bữa ăn trưa đã quá muộn. Hơn nữa, nếu như có chút cơ may lấy lại được cái đầu pho tượng thì phải hành động thật nhanh. Mở to đôi mắt, cô như nói với pho tượng: “Ngươi có biết rằng sáu mươi tư phần trăm số vụ trộm cổ vật đều được số công nhân làm việc trực tiếp tại hiện trường hỗ trợ không?” Cô quay về phía ba người. Giáo sư Giovanna chau mày: “Này thực sự cô không tin Roberto…” “ Các vị phát hiện ra pho tượng khi nào?” Rachel hỏi. “Hai hôm trước đây. Nhưng tôi đã đưa phát hiện của chúng tôi lên mạng internet của trường Đại học Naple. Nhiều người đã biết.” “Nhưng liệu bao nhiêu người biết cổng trường này không có người gác trong trận bão đêm qua?” Rachel vẫn tập trung vào một người. “Roberto, anh có gì để nói không?” Khuôn mặt cậu ta trông y như chiếc mặt nạ đông cứng lại. “Tôi…không…tôi chả liên quan gì đến chuyện đó cả.” Rachrl lấy chiếc máy bộ đàm từ thắt lưng ra. “Vậy cậu không phiền nếu chúng tôi lục soát đồ nhé. Biết đâu khi tìm thấy lưỡi cưa người ta phát hiện vết đá cẩm thạch sót lại khớp với pho tượng này…” Một ánh mắt ngây dại lóa lên trong cặp mắt cậu ta. “Tôi…tôi”. “Mức phạt tối thiểu là năm năm tù giam.” Cô tiếp tục ép. “Obbligatprio. Theo luật như vậy”. Dưới ảnh đèn ác quy, mặt cậu ta tái dại. “Luật phát thì như vậy nhưng nếu cậu chịu hợp tác. Chúng tôi có thể khoan hồng.” Cậu ta lắc đầu, nhưng không rõ là cậu ta đang từ chối cái gì. “Cậu vẫn còn cơ hội.” Cô giơ chiếc máy bộ đàm lên ngang miệng. Tiếng rin rít của máy chiếc bộ đàm có thể nghe vọng rất rõ trên vòm cong khi Rachel mở nút. “Không!” Roberto giơ tay lên như thể muốn ngăn cô lại. Im lặng kéo dài. Rachel không muốn phá vỡ. Cô cứ để sức ép tăng dần. Cuối cùng thì Roberto òa lên khóc nức nở. “Em trót sa vào cảnh nợ nần… nợ vì đánh bạc. Em không còn cách nào khác”. “Mio Dio” giáo sư văng tục vỗ vỗ tay lên trán. “Roberto, tại sao cậu lại...?” Cậu sinh viên không trả lời. Rachel hiểu sức ép đè nặng lên cậu. Điều đó chả có gì là lạ cả. Cậu ta chỉ là một con ốc vít nhỏ trong một tổ chức lớn hơn, trải rộng và có nhiều chân rết, thật khó có thể nhổ đi tất cả. Điều tốt nhất Rachel hy vọng là có thể vặt đi những cỏ dại. Cô nhấc chiếc máy bộ đàm lên: “Cảnh sát Gerad, tôi đang cùng ở với một người có thêm thông tin bổ sung” “-capito, Tenente-“ Cô tắt máy bộ đàm. Roberto đứng đó, hai tay ôm mặt, sự nghiệp của cậu đã tan thành mây khói. “Làm sao cô biết được…?” Giáo sư gặng hỏi. Rachel chả muốn giải thích với bà rằng không có gì lạ khi những thành viên của tố chức tội phạm luôn tìm cách lôi kéo, van nài hoặc dọa dẫm số công nhân làm việc ở các điểm khai quật.Tình trạng tham nhũng vì vậy trở nên phổ biến, thường rơi vào những kẻ không mấy ai nghi ngờ,những kẻ ngây thơ. Cô quay ngoắt khỏi Roberto. Điều đó luôn luôn chỉ là tìm ra ai trong tốp làm khảo sát là khâu yếu nhất> Với gã thanh niên này,cô chỉ làm một phỏng đoán có tính toán rồi dùng áp lực để thể nghiệm xem mình có đúng không. Thật ra quả là hơi mạo hiểm khi cô ra tay hơi sớm. Nếu đó là Tia thì mọi việc sẽ ra sao? Trong lúc Rachel theo đuổi dấu vết sai lầm thì Tia có thể đánh tín hiệu với những kẻ muốn mua đồ. Còn nếu như đó là giáo sư Giovannna, muốn tìm cách tăng thêm nguồn thu bên cạnh đồng lương giáo sự bằng cách bán chính khai quật của mình? Vậy có nhiều cách làm cho sự việc có thể tồi tệ đi. Nhưng Rachel đã biết được rằng phải mạo hiểm thì mới có thể giành được phần thưởng. Giáo sư Giovanna vẫn nhìn cô, vẫn một câu hỏi trong đôi mắt của bà. Làm sao cô ta biết được để buộc tội Roberto. Rachel nhìn vào cái dương vật bằng đá. Chỉ cần có một dấu vết nhưng chí ít là một dấu vết quan trọng. “Không chỉ có cái đầu tượng được bán rất đắt ở thị trường chợ đen. Đang có một nhu cầu rất lớn đối với nghệ thuật cổ xưa, những mặt hàng có tình chất tình dục. Cái đó còn bán chạy hơn những mặt hàng chính thống gần gấp bốn lần. Mình không nghi ngờ ai trông số hai người phụ nữ này họ sẽ chẳng gặp khó khăn gì khi cưa cái món đồ rất có giá đấy, nhưng vì lý do nào đó, những kẻ đàn ông lại tỏ ra rất ngần ngại. Họ coi điều đó rất con người”. Rachel lắc đầu đi ngang tới cầu thang dẫn lên nhà thờ “Họ thậm chí không thiến cả những con chó của mình.” * * * 1 giờ 34 phút. Vẫn rất muộn, muộn lắm rồi… Nhìn đồng hồ, Rachel lao vội qua quảng trường đá trước cửa nhà thờ San Clement. Cô trượt chân trên một hòn đá lát ghập ghềnh, hụt mất vài bước nhưng vẫn cố gắng giữ thẳng người. Cô ngoái lại nhìn viên đá như thể chính nó có lỗi rồi lại nhìn xuống mũi giày. Merda! Một vết ố lớn làm xấu cả phía bên ngoài mũi giày của cô. Chớp chớp mắt nhìn lên trời, cô phân vân không biết mình phạm lỗi với vị thành nào. Vào lúc có lẽ họ đang xếp hàng để lấy số. Cô tiếp tục đi ngang qua quảng trường, cố tránh một đám trẻ đạp xe vọt ra xung quanh cô như những chú bồ câu hốt hoảng. Cô bước thận trọng hơn, tự nhắc mình câu châm ngôn của Hoàng đế Augustus. Festina lente. Hãy làm cho vội vàng chậm lại. Một lần nữa Hoàng đế Augustus không có bà mẹ có thể giằng lại miếng da con ngựa. Cuối cùng cô cũng đến được chiếc xe Mini Cooper của mình đậu ở ngách quảng trường. Ánh nắng trưa làm chiếc xe ánh lên màu bạc. Một nụ cười, nụ cười đầu tiên trong ngày. Chiếc xe là quà sinh nhật nữa. Món quà của chính cô. Bạn chỉ có thể lên ba mươi mốt tuổi một lần trong đời. Kể ra thì cũng hơi tốn kém đặc biệt khi phải nâng cấp bộ ghế bằng da và chọn kiểu xe mui có thể gập được. Nhưng đó cũng là thú vui trong cuộc đời cô. Biết đâu cái đấy cũng là một trong lý do khiến Gino bỏ cô tháng trước đó. Chiếc xe làm cô sung sướng hơn là người đàn ông chung giường với mính. Đó cũng là một điều thú vị. Chiếc xe khiến cô thường xuyên thấy ngất ngây. Rồi chuyện này nữa…đó là một chiếc xe có mui đóng mở được. Cô là một phụ nữ tôn thờ những gì là linh hoạt- nếu như cô không có được điều đó ở một người đàn ông thì lại có nó ở chiếc xe. Mặc dù hôm nay trời quá nóng để không mặc áo ngực. Thật xấu hổ. Cô mở khóa, nhưng trước khi trèo vào xe, máy điện thoại di động của cô đeo ở thắt lưng lại réo chuông. Bây giờ thì chuyện gì đây? Có thể là viên cảnh sát Gerard người cô vừa bàn giao Roberto. Cậu sinh viên đang trên đường bị đưa đi thẩm vấn ở đồn Parioli. Cô tròn mắt nhìn vào số điện thoại gọi đến. Cô nhận ra mã quốc tế -39-06- nhưng không phải con số. Vậy ai ở Vatican đang gọi cô nhỉ? Rachel áp máy điện thoại vào tai. “Trung úy Verona đang nghe”. Một giọng quen thuộc trả lời: “Thế nào cô cháu yêu dạo này ra sao rồi…bên cạnh chuyện làm mẹ tức giận?” “Bác Virgo đấy ạ?” Một nụ cười trên môi. Bác cô, có lẽ nên gọi là Ngài Virgo Verona, Viện trưởng Viện Khảo cổ Thiên chúa giáo thuộc Giáo hoàng. Nhưng không phải ông đang gọi từ văn phòng của ông ở trường đại học. “Bác gọi cho mẹ cháu, nghĩ rằng cháu đang ở đó với mẹ.Nhưng xem ra thì côn việc của một cảnh sát chẳng bao giờ có giờ giấc gì cả. Một sự thật mà bác nghĩ bà mẹ than yêu của cháu chẳng bao giờ chấp nhận.” “Cháu đang trên đường đến quán ăn ngay bây giờ đây ạ.” “Hay là cháu sẽ làm như thế…nếu như bác không gọi.” Rachel dựa tay vào thành xe. “Thưa bác Virgo, bác có việc gì…” “Bác đã kịp chuyển lời xin lỗi của cháu đến mẹ cháu rồi. Mẹ và chị cháu sẽ gặp cháu vào bữa tối nay ở tiệm II Matriciano. Tất nhiên cháu sẽ phải thanh toán vì sự trục trặc vừa rồi”. Không chút nghi ngờ gì cô sẽ phải trả tiền và chỉ bằng đồng tiền Lia. “Thế bác gọi cháu có chuyện gì thế ạ?” “Bác cần cháu đến đây với bác ở Vatincan. Ngay lập tức, Bác có giấy ra vào cho cháu tại cửa St. Anne” Cô nhìn lại đồng hồ. Cô sẽ phải vượt qua một nửa thành Roma.” Cháu sẽ phải quay lại đồn để gặp tướng Rende tiếp tục vụ điều tra.” “Bác đã nói chuyện với chỉ huy của cháu rồi. Ông ta đồng ý về chuyến đi của cháu tới đây. Thực ra, bác đã xin cháu cả một tuần rồi.” “Có thể hơn nữa. Bác sẽ giải thích khi cháu tới đây.” Ông cung cấp cho cô những chỉ dẫn sẽ gặp nhau chỗ nào. Lông mày cô nhíu lại nhưng trước khi cô có thể hỏi thêm ông bác cô đã cúp máy. “Tạm biệt, cháu yêu nhé.” Một tuần lâu hơn nữa? Hình như khi nào Vatican nói ngay cả quân đội cũng phải lắng nghe. Rồi hơn nữa tướng Rende lại là bạn của gia đình cô, đã cả hai thế hệ nay rồi. Ông và bác Vigor thân thiết với nhau như anh em. Không phải do sự tình cờ mà cô đã dành được sự quan tâm của viên tướng để được tuyển mộ ngay từ trường đại học Roma. Bác cô đã trông nom Rachel từ khi cha cô bị mất trong một tai nạn xe buýt mười lăm năm trước đây. Dưới sự bảo trợ của ông, cô đã dành những mùa hè để khám phá các viện bảo tàng ở Roma, đến ở với các bà sơ ở Saint Brigida không xa trường đại học Gregorian là bao, được biết đến như II Greg nơi bác Vigor đã từng học tập và hiện đang dạy tại đó. Và trong khi bác Vigor đã rất muốn cô đi vào tu viện để theo bước ông, ông đã nhận ra rằng Rachel là một cô gái quá năng nổ để theo một nghề nghiệp rất ngoan đạo như vậy nên đã khuyến khích cô theo đuổi mong ước của mình. Ông đã đem đến cho cô một món quà khác trong những mùa hè dài dằng dặc đó: sự tôn trọng và tình yêu đối với lịch sử và nghệ thuật, nơi những biểu đạt vĩ đại nhất của nhân loại được gắn vào đã cẩm thạch, thủy tinh và đồng cũng như tranh sơn dầu. Còn bây giờ thì hình như bác cô cũng chưa phải đã xong với cô thì phải? Đeo đôi kính mát Revo lên mắt, cô lao xe vào Via Labicano rồi hướng thẳng đến khu vực Colliseum nguy nga. Xe cộ bị nghẽn tắc quanh đây nhưng cô tìm cách đi vòng qua những con phố nhỏ hẹp bị xe tải đỗ chật hai vên đường. Cô cua lượn như một tay đua xe tài năng. Cô nhấn ga khi lao vào đường lượn nơi năm con phố gặp nhau tạo nên một vòng đua tròn điên cuồng. Khách du lịch đến thành phố Roma vẫn luôn coi các tay lái xe ở đây là những người khó tính, thiếu kiên nhẫn và chân tay nặng nề. Còn Rachel lại thấy họ chậm như rùa. Cô lao vào giữa một chiếc xe tải chất đầy hàng và một chiếc Merceders G500. Chiếc xe Mini Cooper trông như một con chim sẻ lao bên cạnh hai con voi. Cô lượn vượt lên trên chiếc Merceders chiếm luôn khoảng trống nhỏ nhoi phía trước giữa những tiếng còi cáu kỉnh nhưng cô đã kịp vọt đi mất. Cô lao qua của đường vòng vào đại lộ rồi chạy về phía sông Tiber. Trong khi lướt trên đường mắt cô vãn dán chặt vào dòng xe chạy như mắc cửi từ mọi phía đổ về. Tuy nhiên đi lại an toàn trên đường phố Roma cũng không đòi hỏi quá nhiều sự cẩn trọng vì đã được thiết kế rất hợp lý. Chính nhờ sự chú ý đặc biệt như vậy nên Rachel đã nhận thấy mình đang bị bám đuôi. Một chiếc xe BMW đang chạy ở vị trí, cách cô chừng năm chiếc xe. Ai đang bám đuôi cô vậy và vì sao? Chương 2 (tt) 2 giờ 5 phút 15 phút sau Rachel dừng xe trước bãi đỗ xe ngầm ngay bên ngoài bức tường ngăn cách Vatican. Khi bước ra xe cô đảo mắt tìm kiến trên đường phố phía sau. Chiếc xe BMW màu đen đã biến mất ngay sau khi cô vượt qua sông Tiber. Chẳng để lại dấu vết gì cả. “Cảm ơn.” Cô nói vào máy di động. “Chiếc xe đã biến mất rồi.” “Chị có thấy an toàn không?” Viên sĩ quan trực ban hỏi trong máy. Cô đã gọi khi thấy chiếc xe bám đuôi và từ lúc đó vẫn để máy mở. “Có vẻ như vậy” “Chị muốn cử tổ tuần tra đến không?” “Thôi không cần đâu. Trên quảng trường có cảnh sát đứng gác rồi. Ở đây tôi thấy ổn rồi. Cảm ơn.” Cô thấy chẳng có gì đáng xấu hổ khi đã báo động nhầm. Cũng chả ai chê trách hay nhạo báng cô cả. làm việc trong lực lượng cảnh sát luôn làm cho các nhân viên cảnh sát nam cũng như nữ có tính đa nghi. Cô tìm thấy chỗ đỗ e, trèo qua rồi khóa xe lại. Tuy vậy, cô vẫn cầm chiếc di động trên tay mặc dù thâm tâm cô vẫn ưa sử dụng khẩu 9 ly của mình hơn. Đến đoạn cuối dốc, cô ra khỏi chỗ đậu xe đi ngang về phía quảng trường nhà thờ St. Peter. Dù đang trên một trong những tác phẩm kiến trúc bậc thầy của thế giới, cô vẫn để mắt đến các đường phố và ngõ xung quanh. Vẫn không thấy dấu vết gì của chiếc BMW. Người lái chiếc xe đó có thể chỉ là du khách đang mải lái theo những điểm dừng chân ở thành phố trên chiếc xe sang trọng có gắn điều hòa nhiệt độ hơn là đi bộ lang thang vào giữa trưa nắng gắt. Mùa hè là mùa cao điểm và tất cả du khách đều đổ về Vatican. Cũng có khi chính điều này làm cho cô nghĩ mình bị theo dõi. Người ta chả có câu nói “Tất cả mọi ngả đường đểu đổ về thành Roma” rồi kia mà? Hoặc chí ít cũng trong trường hợp này, tất cả các xe… Cảm thấy yên tâm, cô nhét máy di động vào túi rồi vượt qua quảng trường St. Peter đi về phía bên kia. Cũng giống như mọi khi, cô luôn để mắt khắp chiều dài của quảng trường. Phía bên kia quảng trường là nhà thờ Thánh Peter, được dựng trên lăng mộ của vị thánh đã trở thành bất tử. Vòm nhà thờ do Michelango thiết kế đã trở thành điểm cao nhất của thành Roma. Hai bên là lối đi bộ hàng đôi tỏa ra trên một khu vực giống như hai cánh tay của Thánh Peter vươn ra ôm lấy những tín đồ trung thành. Phía trên những cánh tay khổng lồ này là một trăm bốn mươi bức tượng thánh bằng đá đứng vắt vẻo nhìn xuống cảnh quan phía dưới. Quả là một cảnh tượng hùng vĩ. Nơi trước kia là một rạp xiếc dưới thời Nero nay vẫn là rạp xiếc. Người ta có thể nghe thấy đủ các loại ngôn ngữ từ tiếng Pháp, Ả Rập, Ba Lan, Hebrew, Hà Lan đến tiếng Hoa…Các nhóm du khách đứng túm tụm từng tốp như những hòn đảo xung quanh các hướng dẫn viên; những người khách đi tham quan đứng khoác vai nhau, nở những nụ cười giả tạo để chụp ảnh; một số ít mộ đạo đứng ngoài nắng tay cầm quyển Kinh thánh đầu cúi xuống cầu nguyện. Một nhóm hành hương người Hàn Quốc mặc áo dài vàng quỳ trên các phiến đá. Trên khắp quảng trường nhưungx người bán hàng đang chèo kéo gạ bán những đồng xu có hình Giáo hoàng, tràng hạt có mùi thơm và những cây thánh giá. Cô cảm thấy thật may nắm đã tới được phía bên kia quảng trường tiến đến một trong năm cửa dẫn vào khu nhà chính, cửa Sant Anna, cửa gần với chỗ cô nhất. Rachel bước tới một lính gác người Thụy Sĩ. Như truyền thống đứng gác ở cửa này, anh ta mặc quân phục xanh sẫm cổ trắng đội mũ nồi đen. Người lính gác sau khi nghe Rachel xưng tên, kiểm tra căn cước rồi nhìn một lượt thân hình mảnh dẻ của cô dường như không tin lắm cô là một trung úy cảnh sát. Hài lòng, anh ta chỉ cô sang một bên tới một cận vệ Vatican để cấp cho cô một thẻ ra vào bọc plastic. “Cô nhớ luôn mang thẻ theo người.” Người cảnh vệ nhắc nhở. Cầm chiếc thẻ ra vào, cô đi theo dòng người đi tham quan qua cửa rồi đi xuống Via del Pellegrino. Hầu hết các khu vực ở Vatican đều hạn chế đi lại. Công chúng chỉ được phép vào những nơi như nhà thờ Basilica, bảo tàng Vatican và khu Vườn hoa. Những khu vực còn lại rộng hàng trăm mẫu Anh đều bị hạn chế không được vào nếu không có giấy phép đặc biệt. Nhưng có một khu vực lại cấm tất cả trừ một số rất ít. Lâu đài Apostolic, nơi ở của Giáo hoàng. Đó chính là nơi cô sẽ tới. Rachel đi giữa những doanh trại ốp gạch màu vàng của đội cận vệ Thụy Sĩ và bức tường màu xám của nhà thờ St. Anne. Đây chẳng hề có nét uy nghi, thần thánh của các khu vực thiêng liêng mà chỉ có những vỉa hè chật cứng người và những dòng đông nghẹt xe cộ, gây tắc đường ngay trong thành phố Vatican. Đi ngang qua văn phòng nhà in của Giáo hoàng và bưu điện, cô thẳng đến lối vào của lâu đài Apostolic. Vừa bước đi, cô vừa ngắm nghía kiến trúc gạch xám xịt này. Nó giống như một tòa nhà khắc khổ của chính phủ hơn là nơi trị vì của Giáo hoàng. Nhưng cái nhìn bên ngoài chỉ đánh lừa con mắt. Ngay cả cái mái nhà. Trông thật tẻ nhạt và vô vị, không có gì đáng để ý. Nhưng cô đã biết rằng trên nóc tòa lâu đài Apostolic là một vườn hoa kín đáo với những đài phun nước, hàng cây và pho tượng được chạm trổ tinh vi. Tất cả đều được che kín bởi một tòa nhà giả để che chắn cho đức Giáo hoàng khỏi những cặp mắt tò mò ở phía dưới và bất kỳ kẻ sát nhân nào thuộc tầng lớp chóp bu bên ngoài thành phố. Đối với chính cô, chính điều đó đã đặc trưng cho Vatican: thật bí hiểm, bí mật, thậm chí hơi chán ngắt nhưng tận trong sâu thẳm một lâu đài với vẻ đẹp giản dị và ngoan đạo. Và đó có lẽ cũng là những gì có thể nói về cô. Là một tín đồ công giáo ở mức vừa phải, chỉ đi nhà thờ lễ vào những ngày lễ quan trọng nhưung cô vẫn có một niềm tin thánh thiện. Để tới trạm gác trước lâu đài, cô đã phải trình thẻ ra vào tới ba lần nữa cho đội cận vệ Thụy Sĩ. Khi làm chuyện đó, cô cứ phân vân tự hỏi không biết liệu có giống như chuyện Thánh Peter đã ba lần từ chối Đức chúa Jesu trước khi con gà trống cất tiếng gáy. Cuối cùng thì cô cũng vào được bên trong cung điện. Một người dẫn đường đã đứng chờ cô, một sinh viện chủng viện người Mỹ tên là Jacob. Anh ta khoảng hai mươi lăm tuổi, người rắn rỏi, mái tóc vàng đã bắt đầu hói, khoác bộ áo choàng đen chùng, sơ-mi trắng cài khuy đến tận cổ. “Mời cô đi theo tôi, tôi đã được dặn đưa cô đến gặp ngài Verona.” Có vẻ như anh tao hơi tủm tỉm cười khi nhìn tấm giấy ra vào. Tiếng Ý của anh ta thật hoàn hảo làm cô giật mình. “Trung úy Verona? Chắc cô có họ hàng với ngài?” “Ông ấy là bác tôi” Một cái gật đầu rất nhanh sau khi trấn tĩnh lại. “Xin lỗi, tôi chỉ được dặn là đón một sĩ quan cảnh sát.” Anh vẫy cô đi theo. “Tôi là sinh viên và trợ lý của ngài Verona ở học viện.” Cô gật đầu. Hầu hết số sinh viên của bác cô đều kính trọng ông. Mặc dù ông rất mộ đạo nhưng vẫn có một cách nhìn rất khoa học. Thậm chí ông còn đặt một tấm bảng gắn trên cửa ra vào văn phòng của ông ở trường Đại học, mang dòng chữ giống như đã viết trước cửa buồn của Plato: Ai không biết môn hình học xin đừng vào đây. Rachel được dẫn qua cửa ra vào cung điện. Nhanh chóng cô bị lạc đường. Dạo trước, cô mới vào đây một lần khi bác Vigor được đề bạt chức Viện trưởng Viện Khảo cổ Thiên chúa giáo của Vatican. Cô cũng có mặt trong buổi tiếp riêng của Giáo hoàng. Nhưng cung điện thật quá lớn với mười lăm nghìn buồng, một nghìn cầu thang và hai mươi sân điện. Ngay đến bây giờ lẽ ra phải dẫn đến nơi ở của Giáo hoàng ở tầng trên cùng thì chúng ta lại hướng xuống. Cô cũng không biết tại sao bác Vigor lại hẹn gặp cô ở đây thay vì đến văn phòng của ông ở trường đại học. Liệu đã xảy ra vụ trộm nào chăng? Nếu vậy, sao lại không nói với cô qua điện thoại. Một lần nữa cô lại nhận ra ở Vatican vẫn luôn tồn tại một quy định rất ngặt nghèo về bí mật. Nó đã được viết thành luật. Giáo hội rất biết giữ gìn những bí mật của mình. Cuối cùng họ cũng tới một gian phòng nhỏ không có nét gì đặc biệt cả. Jacob mở cánh cửa. Rachel bước qua một phòng chờ kiểu Kafkaesque thật kỳ cục. Được chiếu sáng một cách vừa đủ, căn phòng vốn dài và hẹp, trần lại rất cao. Sát tường là các loại tủ đựng tài liệu bằng thép màu xám với những ô ngăn kéo cao suốt từ sàng đến tận trần. Một chiếc thang thư viện dài đặt dựa vào tường, đủ để có thể leo đến ô cao nhất. Dù không có lấy một hạt bụi nhưng căn phòng vẫn toát lên không khí mốc meo, cũ kỹ. “Rachel!” Bác cô gọi từ một góc phòng. Ông đang đứng với một vị linh mục ở đó. Cô vẫy vẫy tay. “Cháu đến đúng giờ đấy, con gái ạ, bác nhớ rồi, trước bác đã có lần ngồi xe cháu lái. Thế lần này có thương vong gì không?” Cô mỉm cười với ông, đi đến chiếc bàn. Cô để ý ông bác không mặc quần gin áo phông như mọi khi mà hôm nay lại rất trịnh trọng trong bộ áo choàng đen cài khuy nghiêm chỉnh. Thậm chí bác còn chải mái tóc muối tiêu của mình bóng lộn và tỉa đi bộ ria nhọn hoắt của ông tận sát da mặt. “Đây là cha Torres,” bác cô giới thiệu. “Người quản lý chính thức các di cốt.” Người đàn ông có tuổi đứng dậy. Ông ta thấp và béo lùn, mặc bộ áo choàng đen, cổ đứng. Một nụ cười thoáng ẩn trên khuôn mặt. “Bác muốn nói đến chức vụ chính thức quản lý các di cốt”. Rachel ngắm nhìn bức tường cao vút với những ô ngăn kéo. Cô đã nghe nói về chỗ này, nơi lưu trữ những hài cốt của Vatican, nhưng cô chưa bao giờ đặt chân tới đây. Cô cố nén cảm giác ghê rợn. Được phân loại và lưu giữ trong các ô kéo và kệ trên kia là những di hài của các vị thánh và những người tử vì đạo: các mẩu xương ngón tay, lùm tóc, cốc tro hài cốt, mảnh quần áo, mẩu da, mẩu móng chân tay, máu… Ít người biết rằng theo luật của nhà thờ Thiên chúa giáo, mỗi một và tất cả các ban thờ Cơ đốc giáo phải chứa một di vật thiêng liêng. Và với những nhà thờ hoặc tu viện mới được xây dựng trên khắp thế giới, công việc của vị linh mục này là đóng hộp và gửi chuyển phát nhanh những mẩu xương và những di vật thiêng liêng của biết bao vị thánh. Rachel chưa bao giờ hiểu được sự cuồng tín của nhà thờ về những di vật. Điều đó chỉ làm cô cảm thấ ghê tởm. Nhưng ở Roma thì lại tràn ngập với những thứ đó. Một số những thứ rất hoành tráng và dị thường được tìm thấy ở đây: một bàn chân của Mary Magdalene, thanh quản của Thánh Anthony, lưỡi của Thánh John Nepomucene, những viên sỏi thận của Thánh St.Claire. Ngay cả toàn bộ thân thể của Giáo hoàng St.Pius X được đặt quàn trong chiếc quan tài bằng đồng ở nhà thờ St.Peter. Có lẽ phiền toái nhất chính là di vật được lưu giữ trong một đền thờ ở Calcate: cái được người ta gọi là “bao da quy đầu” của Đức chúa Jesu. Cô thấy mình thốt lên: “Thế có cái gì bị mất ở đây?” Ông bác Vigor giơ tay ra hiệu cho cậu sinh viên của mình: “Jacob, liệu cậu có thể lấy cho chúng ta mấy cốc cà phê sữa nóng được không?” “Chắc chắn được ạ”. Bác Vigor chờ đến khi Jacob đi ra ngoài khép cửa lại. Đôi mắt của bác dừng lại ở Rachel. “Cháu đã từng nghe về vụ thảm sát ở Cologne chưa?” Rachel bị bất ngờ vì câu hỏi của ông bác. Cô đã chạy suốt ngày hôm nay chả có mấy cơ hội ở xem tin tức nhưng cũng không thể không biết tới bản tin nói về vụ thảm sát ở Đức đêm qua. Các chi tiết xem ra rất rời rạc. “Cháu chỉ biết qua về những gì được phát trên radio”. Cô trả lời. Ông gật đầu: “Văn phòng của bác đã nhận được tin tức tình báo trước khi những gì được người ta đưa tin. Tám mươi tư người bị chết, trong đó có cả vị Tổng giám mục Cologne. Nhưng thật ra vào lúc này cách chết của những con người đó tạm thời vẫn chưa thông tin cho công chúng”. “Bác nói vậy có ý gì ạ?” “Một số bị bắn, nhưng số đông hơn hình như lại bị giết bằng cách cho điện giật”. “Điện giật?” “Đó mới chỉ là phân tích sơ bộ. Vẫn còn phải chờ xét nghiệm tử thi. Một vài cái xác vẫn còn bốc khói khi nhà chức trách tới”. “Lạy Chúa, tại sao…” “Chắc phải chờ câu trả lời. Nhà thờ đó lúc này đang tràn ngập nhân viên điều tra các loại: tội phạm học, thám tử, nhà khoa học chuyên về các loại đạn… thậm chí cả các chuyên gia về điện. Có các tốp BKA của Đức, chuyên gia chống khủng bố của Interpol và nhân viên của Europol. Nhưng vì tội ác diễn ra ở một nhà thờ Cơ đốc giáo, lãnh điạn của Chúa nên Vatican đã cho áp dụng Omerta.” “Tức là qui định về Im Lặng” Ông làu bàu khẳng định: “Nhà thờ đang hợp tác với nhà cầm quyền Đức, nhưng cũng áp dụng việc hạn chế tiếp cận, cố gắng giữ cho nơi đó không trở thành một rạp xiếc”. Rachel lắc đầu: “Nhưng tất cả chuyện đó liên quan gì đến việc bác gọi cháu đến đây?” “Theo điều tra ban đầu hình như chỉ có một động cơ duy nhất. Cái hộp đựng hài cốt bằng vàng ở nhà thờ đã bị chúng đập vỡ toang.” “Chúng ăn trộm hộp đựng di hài.” “Không, không phải vậy. Bọn chúng bỏ lại cái hộp bằng vàng ròng. Một di chỉ vô giá. Chúng chỉ lấy đi cái ở bên trong. Di cốt” Cha Torres nói chen” “Không phải chỉ là di hài. Mà là xương của những nhà thông thái trong Kinh thánh?” “Magi… được biết như là Ba nhà Thông thái trong Kinh thánh?” Rachel cảm thấy không thể tin được qua giọng nói của mình: “Chúng ăn cắp di cốt nhưng để lại cái hộp bằng vàng. Chắc chắn cái hộp đó có giá gấp nhiều lần trên thị trường chợ đen so với đám xương.” Bác Vigor thở dài: “Theo thỉnh cầu của ngài Bộ trưởng Ngoại giao, bác phải tới đây để đánh giá xuất xứ của các di vật đó. Chúng đã có một quá khứ thật huy hoàng. Những di cốt đó đến châu u qua sự nhiệt tình sưu tập những di chỉ của thánh St. Helena, mẹ của nhà vua Constantine. Là vị vua Thiên chúa giáo đầu tiên, Constantine đã gửi mẹ đi hành hương để thu thập những di tích thiêng liêng. Vật nổi tiếng nhất tất nhiên là Cái Thánh giá thực sự của Đức chúa Jesu". Rachel đã đi thăm nhà thờ Santa Croce ở Jerusalem trên đồi Lateran. Trong một căn phòng ở phía sau bên trong kính pha lê là những di tích nổi tiếng nhất được thánh Helena thu thập: Một chiếc đòn của Cây thánh giá thực sự, một chiếc đinh dùng để hành hình Đức chúa Jesu và hai cái gai lấy từ cái vương miện đầy đau đớn của Ngài. Tại đó vẫn tiếp tục có các cuộc tranh cãi về tính chân thực của các di vật trên. Hầu hết đầu cho rằng Thánh Helena đã bị bịp. Bác cô vẫn tiếp tục: “Nhưng không phải ai cũng biết rằng Quận chúa Helena đã hành hương xa hơn Jerusalem, trỏe về trong những hoàn cảnh bí hiểm với những hòm bằng đá lớn, tuyên bố rằng bà đã thu thập được thân thể của Ba Vua. Di hài được giữ trong một nhà thở ở Constantinope nhưng sau khi nhà vua Constantine băng hà, chúng được chuyển đến Milan và chôn ở một nhà thờ.” “Nhưng bác nói là Đức…’ Bác Vigor giơ tay lên: “Vào thế kỷ XII, Đại đế Frederick Barbarosa của nước Đức cướp bóc Milan và ăn trộm các di vật. Hoàn cảnh xung quanh chuyện này vẫn còn mù mịt bởi hàng loạt những lời đồn đoán. Nhưng tất cả mọi chuyện đều kết thúc với việc di chỉ ở Cologne.” “Cho đến tối hôm qua.” Rachel bổ sung. Bác Vigor gật đầu. Rachel nhắm nghiền đôi mắt lại. Chả ai nói gì câu nào, cứ để cô tiếp tục suy nghĩ. Cô nghe có tiếng mở cửa căn phòng. Cô vẫn nhắm nghiền mắt, không muốn mất đi dòng suy nghĩ. “Thế còn về vụ thảm sát?” Cô hỏi. “Tại sao chúng không lấy trộm di cốt khi nhà thờ vắng vẻ? Hành động này cũng có nghĩa như một đòn tấn công trực tiếp vào nhà thờ. Bạo lực đối với những người đi dự lễ cho thấy động cơ thứ hai là trả thù, không chỉ là lấy cắp.” “Rất hay.” Một giọng nói mới được nghe thấy từ phía cửa ra vào. Giật mình, Rachel mở choàng cặp mắt. Cô lập tức nhận ra bộ áo choàng màu đen với gù ở vai, cái đai lớn thắt quanh hông, màu đỏ sẫm cùng màu với cái mũ cao. Cô cũng nhận ra người đàn ông trong cái áo choàng. “Hồng y Spera.” Cô nói, cúi gập đầu chào. Ngài vẫy cô đứng lên, ngón tay đeo nhẫn vàng sáng lấp lánh. Cái nhẫn cho thấy ngài là Hồng y, nhưng ngài cũng đeo chiếc nhẫn thứ hai, y như chiếc kia ở bàn tay bên còn lại, cho thấy chức vụ của ngài là Bộ trưởng Ngoại giao Vatican. Ngài người gốc Sisin, tóc đen và nước da ngăm ngăm. Ở tuổi chưa đến năm mươi, ngài có thể được coi là trẻ so với vị trí cao quý như vậy. Ngài nở một nụ cười ấm áp. “Tôi thấy ngài Verona đã không lầm về cô cháu gái của mình.” “Thật không phải nếu tôi lại đi nói dối một Hồng y, đặc biệt người là cánh tay phải của đức Giáo hoàng.” Bác cô đi tới, thay vì hôn vào bàn tay đeo nhẫn của Hồng y mà lại ôm chặt lấy ngài. “Thế Đức ngài phản ứng thế nào khi nghe tin này?” Khuôn mặt của vị Hồng y nhăn lại cùng với cái lắc đầu. “Sau cuộc gặp của chúng ta sáng nay, tôi đã tiếp xúc với Đức ngài đang ở St. Peterburg. Đức ngài sẽ bay về đây sáng ngày mai…” Sau khi chúng ta gặp nhau, giờ thì Rachel đã hiểu vì sao bác Vigor lại mặc bộ quần áo đại lễ này. Bác đã có cuộc hội kiến với ngài Bộ trưởng Ngoại giao. Hồng y Spera tiếp tục nói: “Tôi sẽ thu xếp buổi gặp gỡ chính thức của Đức ngài với Hội đồng Giám mục và Hồng y. Sau đó tôi sẽ chuẩn bị cho buổi hành lễ ngày mai. Sẽ được tổ chức vào lúc hoàng hôn.” Rachel cảm thấy kinh ngạc. Trong khi Giáo hoàng là người đứng đầu Vatican, một vị quân vương tối cao, quyền lực thực sự lại nằm trong tay con người này, vị thủ tướng chính thức. Cô để ý ánh mắt mệt mỏi của ngài cũng như cách ngài khẽ nhún vai. Rõ ràng ông ta quá mệt mỏi. “Thế công cuộc tìm kiếm của ngài có cho thấy điểm gì không?” Hồng y hỏi. “Cũng có.” Bác Vigor đáp lại. “ Bọn kẻ cắp không sở hữu tất cả chỗ di cốt.” Rachel bật dây. “Thế còn gì nữa ạ.” Bác cô quay lại. “Điều đó chúng tôi đã gặp nhau ở đây để khẳng định. Hình như đối với thành phố Milan sau khi di cốt bị vua Barbarrosa cướp đi, họ đã dành hàng thế kỷ để tìm cách thu hồi. Để giải quyết một cách dứt khoát vấn đề này, một phần di cốt của Ba nhà Thông thái đã được trả về Milan vào năm 1906, đưa vào nhà thờ St. Eutorgio.” “Tạ ơn Chúa.” Hồng y Spera nói. “ Như vậy là đã không bị mất hết.” Cha Torres bỗng chen vào: “Lẽ ra chúng ta phải sắp xếp để chuyển thứ đó đến đây ngay lập tức. Giữ gìn ở nơi này.” “Cho đến khi có thể thu xếp được chuyện ấy, tôi sẽ ra lệnh tăng cường an ninh ở nhà thờ.” Hồng y nói. Ông ra hiệu bác Vigor. “ Khi nào ngài từ Cologne quay về, tôi muốn ngài ghé lại Milan để thu hồi chỗ di cốt ở Milan.” Bác Vigor gật đầu. “Ồ, tôi cũng có thể thu xếp một chuyến bay sớm hơn.” Hồng y tiếp tục. “Máy bay trực thăng sẽ đưa cả hai người ra sân bay trong vòng ba giờ nữa”. Cả hai? “Như vậy càng tốt.” Bác Vigor quay lại phía Rachel. “Có vẻ như chúng ta lại làm mẹ cháu không hài lòng một lần nữa rồi. Chắc không kịp ăn bữa tối gia đình, có lẽ vậy.” “Cháu… chúng ta sẽ đi Cologne?” ‘Với tư cách là Đại sứ của Vatican.” Bác cô nói. Rachel cố giữ cho đầu óc mình thật bình tĩnh. Là Đại sứ hải ngoại của Vatican. “Đại sứ hỉa ngoại bất thường.” Hồng y Spera sửa lại. “Tạm thời, bao gồm vụ thảm họa đặc biệt này. Cả hai sẽ được giới thiệu như các nhà quan sát viên thụ động đại diện quyền lợi của Vatican và sẽ báo cáo trở lại. Tôi cần cặp mắt sắc sảo của các người ở nơi ấy. Một ai đó quen xử lý các vụ ăn trộm đồ cổ.” Một cái gật đầu với Rachel. ‘Và một người có kiến thức rộng rãi về các món đồ cổ ấy.” “Tất nhiên đó là vỏ bọc của chúng ta.” Bác Vigor nói. “Vỏ bọc?” Hồng y Spera chau mày, một giọng cảnh cáo vang lên. “Vigor…” Bác cô quay lại ngài Bộ trưởng Ngoại giao. “Cháu nó có quyền biết. Tôi nghĩ điều đó đã được quyết đinh.” “Ngài quyết định.” Hai người chằm chằm nhìn nhau. Cuối cùng, Hồng y Spera thở dài, phẩy tay, chấp nhận. Bác Vigor quay về phía Rachel. “Việc nhận nhiệm vụ Đại sứ hải ngoại chỉ là màn che đậy.” “Vậy thế chúng ta là …” Ông nói với cô * ** 3 giờ 35 phút Vẫn chưa hết ngạc nhiên, Rachel chờ cho ông bác kết thúc câu chuyện riêng với Hồng y Spera ngoài cửa. Bên phía kia, cha Torres bận bịu sắp lại hàng đống sách bày thành hàng trên bàn. Cuối cùng bác cô quay lại. “Bác đã hi vọng được ăn món bánh mì ngọt với cháu nhưng do thời gian biểu lại bị đẩy lên, cả hai bác cháu mình phải đẩy nhanh nhịp độ lên. Cháu phải chuẩn bị túi hành lý qua đêm và hộ chiếu, cũng như tất cả những gì cần thiết cho một hay hai ngày ở nước ngoài.” Rachel đứng sững như trời trồng. “Làm gián điệp cho Vatican? Chúng ta sẽ đến đó như những gián điệp của Vatican?” Bác Vigor nhíu cặp lông mày. “Cháu ngạc nhiên đến thế ư? Vatican là một đất nước có chủ quyền, cũng có một cơ quan tình báo với đủ các quan chức cùng nhân viên. Họ cũng đã quen với việc thâm nhập các nhóm hận thù, xã hội đen, những nước thù địch nơi những quyền lợi của Vatican bị đe dọa. Walter Ciszek, một linh mục hoạt động dưới bí danh Vladimir Lipinski, đã chơi ú tim với KGB hàng năm trước khi bị bắt và mất hai năm trong nhà tù của Liên Xô.” “Và chúng ta vừa được tuyển mộ vào hoạt động này à?” “Cháu vừa được tuyển mộ. Bác đã hoạt động cho cơ quan tình báo được mười lăm năm rồi.” “Cái gì cơ?” Rachel gần như nghẹn lại ở từ đó. “Đối với một nhân viên tình báo có gì tốt hơn là một nhà khảo cổ được kính trọng và hiểu biết trong sự phục vụ khiêm tốn cho Vatican..” Bác Vigor vẫy cô ra cửa. “Thôi đi nào. Chúng ta hãy thu xếp mọi việc thứ tự đã.” Rachel lập bập bước theo ông bác, nhìn ông với con mắt khác hẳn. “Chúng ta sẽ gặp một nhóm các nhà khoa học Mỹ. Giống như chúng ta, họ cũng đang nghiên cứu vụ tấn công một cách kín đáo, quan tâm nhiều đến những cái chết, để mặc cho chúng ta xử lý vụ ăn cắp các di vật.” "Cháu không thể hiểu được”. Nói ra câu nói này có phần hơi cách điệu. “Tại sao tất cả đều phải dưới cái vỏ ngụy trang ạ?” Bác cô dừng lại và kéo cô vào một nhà thờ nhỏ bên cạnh. Nhỉnh hơn cái tủ một chút, không khí đặc quánh mùi hương cũ. “Chỉ có một nhóm rất ít người biết về điều này.” Ông nói. “Nhưng vẫn còn một người sống sót sau vụ tấn công. Một đứa trẻ. Nó vẫn bị sốc song đang dần dần phục hồi. Nó đang ở một bệnh viện ở Cologne được canh gác cẩn mật.” “Nó đã chứng kiến vụ tấn công?” Một cái gật đầu thay câu trả lời. “Điều này được cậu bé mô tả giống như một sự điên khùng, nhưng điều đó không thể bỏ qua được. Tất cả các cái chết, hay nói đúng hơn chết vì bị điện giật đều xảy ra ở thời điểm đơn lẻ. Những người sắp chết đều gục xuống khi họ đang ngồi hoặc quỳ. Cậu bé không thể giải thích được tại sao chuyện đó xảy ra song cậu ta có chắc chắn là ai.” “Là ai giết những người đi lễ?” “Không, là ai gục xuống, những người nào trong số những người đi lễ đã chết khủng khiếp như vậy.” Rachel chờ câu trả lồi. “Những người bị điện giật chết, vì hiện còn thiếu một từ hay hơn, chỉ là những người tham gia vào bữa tối cuối cùng của Chúa trong lễ ban bánh thánh.” “Cái gì cơ?” “Chính là vụ ăn bánh thánh đã giết chết họ.” Khắp người cô ớn lạnh. Nếu như có lời nói lan truyền rộng rãi rằng chính những chiếc bánh thánh đã là nguyên nhân gây ra cái chết thì sẽ tạo ra một xung đột lớn như thế nào trên toàn thế giới. Toàn bộ hoạt động lễ hội sẽ bị đe dọa.” Liệu những chiếc bánh đó có bị tẩm độc hoặc làm nhiễm khuẩn không?” “Điều này vẫn chưa biết được. Nhưng Vatican cần câu trả lời ngay lập tức. Hội đồng Giáo hội muốn có đầu tiên. Và do không đủ nhân lực cần thiết cho loại công việc điều tra bí mật ở nơi đất khách quê người này nên bác đã phải thoải thuận với một người bạn trong giới tình báo Mỹ, một người bác hoàn toàn tin cậy. Anh ta sẽ đi cùng với một nhóm tới địa điểm tối nay.” Rachel chỉ có thể gật đầu, hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trong suốt giờ qua. “Rachel, bác nghĩ cháu nói đúng.” Bác Virgo nói: “Những kẻ giết người ở Cologne đã tấn công trực tiếp vào nhà thờ. Tuy nhiên, bác tin đây mới chỉ là màn đầu cho một cuộc chơi rộng lớn hơn. Vậy chúng đang chơi trò gì đây? Rachel gật đầu. “Vậy thì những di côt của Ba nhà Thông thái liên quan gì đến chuyện này?” “Chính xác là như vậy. Trong khi cháu chuẩn bị đồ đạc, bác sẽ tới các thư viện và nơi lưu trữ tư liệu. Bác đã cử một nhóm học giả đang ngồi đọc hết những tài liệu tham khảo liên quan đến Ba Vua. Khi máy bay lên thẳng cất cánh, chắc là bác sẽ có đầy đủ hồ sơ về họ.” Bác Vigor nắm tay Rachel rồi ôm cô cháu giọng thì thầm. “Cháu vẫn có thẻ tù chối, bác sẽ không nghĩ gì đâu.” Bác Vigor nhắc lại, hôn nhẹ lên má cô. “Nếu bác có một cô con gái như cháu”. “Bác sẽ bị rút phép thông công”. Cô hôn lên má ông bác. “Thôi chúng ta đi nào.” Bác dẫn cô ra khỏi cung điện Apostolic; rồi họ chia tay. Ông đi đến thư viện còn cô đi về phía cửa St. Anna. Không biết mất bao nhiêu thời gian mà thực ra cô cũng không buồn để ý nữa, Rachel tới chỗ xe đỗ, chui trong cốp xe. Cô rời khỏi bãi đỗ xe ngầm dưới đất rồi đi quanh một cua hẹp để vào đường cái. Cô tiếp tục vừa đi vừa suy nghĩ. Cô đi dọc theo sông Tiber và hướng về phía trung tâm thành phố. Mải tập trung vào lái xe Rachel không để ý là cô lại tiếp tục có cái đuôi. Có điều nó bám sát theo cô. Tim cô đập thình thịch. Chiếc xe BMW màu đen giữ khoảng cách bằng chiều dài của năm chiếc xe, theo kịp mỗi nhịp đi của cô từ việc lượn vòng quanh những chiếc xe chạy chậm hơn hay thậm chí đi chậm hơn cả người đi bộ. Cô làm vài cú rẽ ngoặt không nhanh quá để kẻ bám đuôi không biết rằng hắn đã bị phát hiện mà cho rằng đõ chỉ là tính liều lĩnh có kiềm chế thông thường của cô. Cô cần biết điều này một cách chắc chắn. Chiếc BMW vẫn giữ khoảng cách. Bây giờ thì cô đã biết. Mẹ kiếp. Cô lái xe đến những phố nhỏ và đường hẻm hẹp hơn. Đường bị tắc nghẽn. Nó đã trở thành một cuộc truy đuổi bằng ô tô tốc độ chậm. Cô đỗ lại bên một vỉa hè để thoát một luồng xe. Tạt vào đường rẽ ngang tiếp theo, tới một con đường cho người đi bộ cô rẽ vào đó. Những người đẩy xe nôi giật bắn mình, lao vọt tránh đường cô, những chiếc xe bán hàng bị lật nhào. Những câu chửi thề văng ra. Một tảng bánh mì ném vào cửa sổ sau xe cô bởi một người bán hàng rất cáu kỉnh. Ở đoạn đường tiếp theom cô lao nhanh vào một dãy nhà, quay ngoắt lại cứ tiếp tục như thế. Khu vực này của Roma là một ổ nhện của những đường hẻm. Không có cách nào cho cái đuôi của cô có thể bắt kịp được. Thoát ra đường Via Alddrovnai, cô phóng rất nhanh chung quanh phía ngoài vườn thú Giardino. Cô liên tục nhình vào tấm gương chiếu hậu. Cô đã thoát kẻ đuổi theo cô… ít nhất là cho đến lúc này. Có một cơ hội để một tay rảnh, cô nhặt lấy chiếc điện thoại di động rồi bấm máy gọi về đồn Parioli. Cô cần có sự trợ giúp. Khi máy đã nối được, cô rời đại lộ và lại lao vào đường hẻm, không muốn mạo hiểm thêm nữa. Cô đã bỏ rớt kẻ nào vậy? Là nhân viên cảnh sát di sản văn hóa, cô cũng có không ít kẻ thù trong những gia đình tội ác có tổ chức, những kẻ buôn bán đồ cổ bị đánh cắp. Đường dây điện thoại lạo xạo, chuông reo nhưng tất cả những gì cô nghe được là im lặng. Kiểm tra màn hình máy điện thoại, cô thấy dòng chữ “Poor reception”. Bảy ngọn đồi ở Roma và những thung lũng các tòa lâu đài cẩm thạch và gạch đá đã triệt tiêu tín hiệu điện thoại. Cô ấn nút gọi lại. Vừa cầu mong có người nào đó nghe điện thoại, cô vẫn phân vân không biết có nên quay trở về nhà hay không, rồi quyết định không về nữa. Có lẽ cô sẽ an toàn hơn tại Vatican cho đến khi rời đi Đức. Lao vào Via Salaria, một con đường cũ vốn là mạch giao thông chính chạy ngang qua Roma cuối cùng cô nghe thấy máy đã được nối. “Trung tâm đây” Trước khi cô kịp trả lời, Rachel đã nhìn thấy một khối đen lù lù. Chiếc BMW chạy song song với chiếc Mini Cooper của cô. Một chiếc nữa xuất hiện ở thành bên này xe. Y trang, chỉ có điều chiếc này lại màu trắng. Cô không chỉ có một cái đuôi… mà là hai. Mải chăm chú vào chiếc xe chết tiệt màu đen cô đã không phát hiện ra chiếc xe màu trắng. Một lỗi chết người. Hai chiếc xe lao sầm vào cô, ép cô vào giữa với tiếng rít của thép và sơn. Cánh cửa sau của cả hai xe đã hạ xuống. Những mũi tiểu liên thô kệch thò ra ngoài. Cô đạp mạnh phanh, tiếng thép rít lên nhưng cô ghì chặt. Không còn đường thoát. Chương 3 Bí mật Ngày 24 tháng, 10 giờ 25 phút Washington, D.C. Mình phải ra khỏi chỗ này thôi. Trong phòng đựng tủ quần áo ở chỗ tập thể dục, Grayson Pierce lôi ra một quần sóc đi xe đạp màu đen, rồi mặc vào cùng với một cái áo thu chẽn. Anh ngồi xuống ghế đi đôi giày thể thao. Phía sau,cánh cửa phòng bật mở. Ngoái lại, Gray nhìn thấy Monk Kokkalis bước vào tay cầm một quả bóng rổ, tay kia cầm chiếc mũ. Chỉ cao hơn năm feet đôi chút, Monk trông giống như một con bò mộng mặc áo chẽn. Dù sao gã cũng là một đấu thủ cừ khôi. Nhiều người đánh giá thấp gã, nhưng gã có biệt tài đoán được ý đồ của đối thủ khiến kẻ đó bị bất ngờ, chính vì vậy ít khi các thủ thuật của gã không đem lại hiệu quả. Monk ném quả bóng rổ vào thùng đựng đồ, lại là một cú ném tuyệt vời rồi tiến đến ngăn tủ của mình. Gã lột chiếc áo thun cuộn tròn lại rồi nhét vào bên trong. Gã nhìn Gray. “Này anh ăn mặc như thế để đến gặp ngài chỉ huy Crowe à?’ Gray đứng dậy. “Tôi đến chỗ mấy người nhà.” “Tôi nghĩ rằng chỉ huy hành quân yêu cầu chúng ta phải ở trong doanh trại?” “Kệ mẹ chuyện đó” Monk tròn mắt nhìn. Đôi lông mày rậm là thứ duy nhất còn lại không được cạo trên chiếc sọ cạo nhẵn thín của gã. Gã rất mê hình ảnh đã được nhồi nhét vào đầu hắn bởi những lính mũ nồi xanh. Gã phải hứng chịu khá nhiều những vết tích sót lại từ cuộc đời binh nghiệp trước đây: những vết sẹo do đạn bắn, ba vết thương ở vai, ngực và đùi trên. Gã là người duy nhất sống sót sau một trận phục kích ở Afghanistan. Trong lượt về Mỹ nghỉ dưỡng sức, Sigma đã tuyển mộ gã với chỉ số IQ trên tuyệt vời và đào tạo gã trong một chương trình rất bài bản về y học tội phạm. “Anh đã điều trị xong các vết thương chưa?” Monk hỏi. “Vẫn còn những vết bầm dập và vài cái xương sườn ê ẩm.” Cùng với sự thương tổn, Gray khẽ bổ sung thêm, tay nhè nhẹ xoa chỗ xương sườn thứ bảy bị đau. Gray đã qua phiên giải trình được thu video. Anh đã cứu được quả bom nhưng không bắt được người đàn bà có biệt hiệu Lady Dragon. Dấu vết duy nhất dẫn đến chỗ rò rỉ lớn về buôn bán vũ khí sinh học đã tẩu thoát. Anh đã gửi cái dây chuyền có mặt gắn hình con rồng đến chỗ lấy vân tay xem có thể lấy được chút dấu vết gì không. Tuy nhiên, cũng chả hy vọng có thể lấy được gì. Anh giật lấy chiếc balô trên ghế: “Mình sẽ cầm theo máy nhắn tin. Chắc là chỉ đi khoảng 15 phút bằng xe điện ngầm thôi”. “Thế anh để cho giám đốc phải đợi à?” Gray nhún vai. Anh cảm thấy đã quá đủ: phiên giải trình sau phi vụ, kiểm tra toàn diện y tế, và bây giờ là bị giám đốc Crowe triệu tập một cách bí hiểm. Anh chắc là sẽ phải đối mặt với một trận khiển trách. Lẽ ra anh không nên đi một mình vào FortDerick. Thật là một việc tồi tệ. Anh biết điều đó. Nhưng dư âm của việc suýt gặp tai họa buổi sớm nay vẫn còn đang âm ỉ trong người anh, anh không thể chỉ thụ động ngồi chờ. Giám đốc Crowe đã đi họp ở trụ sở DARPA tại Arlington. Gray thấy mình cần phải vận động để xả hơi. Anh cầm lấy chiếc balô nhỏ. “Anh có biết có người nào nữa được giám đốc triệu tập tới họp không?” Monk hỏi. “Ai cơ?” “Kat Bryant” “Thật à?” Một cái gật đầu. Đại úy Kathryn Bryant chỉ mới gia nhập Sigma mười tháng trước đây, nhưng cô đã hoàn thành một chương trình cấp tốc về địa chất học. Có tin đồn rằng cô cũng đang hoàn thành một khóa về cơ khí. Cô sẽ trở thành nhân viên thứ hai có hai bằng cùng một lúc. Grayson là người đầu tiên. “Chắc đó không phải là chuyện giao nhiệm vụ” Gray nói. “Họ không cử những người mới tinh ra địa bàn”. “Không ai trong số chúng ta là mới toanh cả” Monk vớ lấy cái khăn tắm đi về phía vòi sen. “Cô ấy đã từng hoạt động trong tình báo Hải quân. Những cuộc hành quân đen, họ nói vậy”. “Họ nói nhiều thứ” Gray làu bàu đi ra cửa. Mặc dù yêu cầu chỉ số thông minh IQ rất cao, nhưng Sigma vẫn nổi tiếng là một cỗ máy buôn chuyện hơn là một công ty. Ngay buổi giao ban sáng nay đã chứng kiến một loạt các văn bản và những lời nhắc nhở các điệp viên. Tất nhiên, vài trong số đó là kết quả trực tiếp từ phi vụ của Gray. Hiệp hội đã tấn công một trong số các thành viên của họ. Lại rộ lên tin đồn đoán. Liệu có sự rò rỉ hoặc là vụ phục kích đã được lên kế hoạch căn cứ vào tin tức tình báo cũ, trước khi Sigma rời từ trụ sở của DARPA ở Arlington đến Washington cùng với việc ngưng các hoạt động ở đó. Mặt khác, lại có tin đồn nữa dai dẳng trong các phòng của Sigma: một phi vụ mới đang được hoạch định, vụ này được chỉ đạo từ tận cấp cao có tầm quan trọng quốc gia. Nhưng chả có gì được biết thêm cả. Gray từ chối không tham gia trò chơi đồn đoán. Anh chỉ nghe từ chính miệng chỉ huy. Hơn nữa, nếu như anh không phải ra ngoài một lúc chắc anh sẽ ngồi thêm một lát nữa. Vậy anh cũng có thể hoàn thành nghĩa vụ khác của mình. Bước ra khỏi phòng tập, Gray sải dài ngang qua ma trận của các phòng tới chỗ cầu thang. Nơi này sặc sụa mùi sơn mới và ximăng cũ. Căn cứ dưới mặt đất, đại bản doanh của Sigma, đã từng là một cứ điểm ngầm và một nơi trú ẩn. Đây đã là nơi để các chiến lược gia quan trọng trú ẩn trong Thế chiến thứ hai. Nó đã bị bỏ hoang và đóng cửa khá lâu. Ít ai biết được sự tồn tại của nó, bị chôn vùi dưới thánh địa của cộng đồng khoa học ở Washington: nơi tập trung các viện bảo tàng và phòng thí nghiệm, tạp thành viên Smithsonian. Giờ thì cái hầm ngầm này đã có người ở mới. Đối với bên ngoài, đó chỉ là một bộ phận nghiên cứu chiến lược nữa. Nhiều thành viên của nó làm việc ở các phòng thí nghiệm trong khắp viện Smithsonian (SI), tiến hành các nghiên cứu và sử dụng các tài nguyên sẵn có. Địa điểm mới của Sigma được chọn vì sự gần gũi của nó với các phòng thí nghiệm nghiên cứu, bao gồm một dãy rộng lớn về mọi lĩnh vực. Vì vậy sẽ không quá tốn kém phải tăng gấp đôi số thiết bị đa dạng. Chính vì vậy nên Sigma được chôn ngay dưới trung tâm của cộng đồng khoa học ở Washington. Viện Smithsonian đã trở thành vừa là nguồn cung cấp vừa là vỏ bọc. Gray đặt bàn tay vào bảng mã khóa ở cửa cầu thang. Một vệt màu xanh chạy qua bàn tay của anh. Cửa cầu thang mở. Anh bước vào trong rồi ấn nút lên tiền sảnh. Cầu thang im lặng đưa anh lên tầng thứ tư. Anh vẫn có cảm giác là mình không chỉ bị kiểm tra khắp người mà còn để cho người ta xem có giấu theo các dữ liệu điện tử không. Việc này giúp ngăn không cho các thông tin bị đánh trộm ra khỏi sở chỉ huy, tuy nhiên nó cũng có hạn chế nhất định. Tuần đầu tiên đến đây, Monk đã gây ra báo động toàn bộ khi anh ta đãng trí cầm theo chiếc máy nghe MP3 chưa đăng ký vào cơ quan sau khi chạy bộ giữa trưa. Cánh cửa mở dẫn đến một tiền sảnh trông rất bình thường, có hai lính vũ trang đứng gác cùng một nữ nhân viên lễ tân. Người ta nghĩ nơi đây giống như tiền sảnh của một ngân hàng. Nhưng số thiết bị trinh sát và chống trinh sát tại đây có thể ngang ngửa với những gì được lắp đặt ở FortKnox. Lối thứ hai vào hầm ngầm, một khu dịch vụ rộng cũng được bảo vệ nghiêm ngặt tương tự, nằm kín đáo ở một tổ hợp gara tư nhân cách đây nửa dặm. Anh đang để chiếc mô tô ở đó để sửa chữa. Vì vậy đành phải đi bộ tới ga xe điện ngầm. Tại đây anh dựng một cái xe đạp để sử dụng khi cần thiết. “Chào buổi sáng, tiến sĩ Pierce” Nhân viên lễ tân chào. “Chào Melody”. Người phụ nữ trẻ này cũng không biết khu vực phía dưới kia là cái gì, hoàn toàn tin vào câu chuyện đã được bịa ra về một cơ sở nghiên cứu có tên là Sigma. Chỉ có những người bảo vệ mới biết được sự thật. Họ gật đầu chào Gray. “Anh đi cả ngày à?” Melody hỏi. “Chắc là khoảng một giờ”. Anh nhét chiếc thẻ căn cước vào máy đặt trên bàn rồi áp ngón trỏ lên màn hình, báo với trung tâm mình ra ngoài. Anh vẫn luôn nghĩ rằng những biện pháp bảo vệ an ninh ở đây là hơi quá mức cần thiết. Không còn cần nữa. Cánh cửa ngoài bật chốt. Một trong những người bảo vệ đẩy cửa, bước ra ngoài giữ cánh cửa cho Gray. “Chúc ngài một ngày tốt lành!” Anh ta chào khi Gray bước đi. Đối với Gray hôm nay khó có thể coi là một ngày tốt lành. Một hành lang ốp lát trải dài trước mặt, tiếp đó là cầu thang, một lối dẫn đến khu vực công cộng của tòa nhà. Bước vào một gian sảnh rộng, anh đi ngang qua một nhóm du khách người Nhật được một phiên dịch và người dẫn đường hướng dẫn. Chả ai buồn để mắt đến anh cả. Khi đi ngang qua, anh nghe hướng dẫn viên đang thuyết trình nội dung chắc cũng phải được phát đến hàng nghìn lượt: “Lâu đài Smithsonian được hoàn thành vào năm 1855, do tổng thống James Polk là người đặt viên đá đầu tiên. Đây là lâu đài rộng nhất và cũng là cổ nhất trong các kiến trúc của viện, đã có thời kỳ sử dụng làm bảo tàng khoa học thời kỳ đầu tiên và các phòng thí nghiệm nghiên cứu, hiện nay được sử dụng như văn phòng hành chính và Trung tâm thông tin của mười lăm bảo tàng của Viện, vườn thú quốc gia và rất nhiều cơ sở nghiên cứu, các gallery. Xin mời các vị theo tôi…” Gray đã tới cánh cửa bên ngoài, một lối ra ngách của lâu đài Smithsonian. Anh đẩy mạnh cửa bước ra, anh nheo mắt trước ánh sáng mặt trời rồi quay nhìn lại lâu đài. Được biết qua những tay vịn, lối đi và các tòa tháp bằng gạch màu đỏ, đây có thể coi như một trong những kiến trúc tuyệt vời nhất của nền phục hưng Gothich ở nước Mỹ. Là trái tim của viện Smithsonian. Hầm ngầm đã được xây cất phía dưới khi tòa tháp đông nam bị cháy rụi vào năm 1866, buộc người ta phải xây lại từ dưới lòng đất trở lên. Đường địa đạo nhằng nhịt như mạng nhện này đã được cách tân lại rồi dần trở thành một nơi trú ẩn ngầm dưới lòng đất nhằm bảo vệ những bộ óc tinh túy nhất của thế hệ này… hay ít nhất là những người ở Washington DC. Giờ thì nó là chỉ huy sở của tổ chức Sigma. Liếc nhìn lần cuối lá cờ Mỹ treo trên cột cờ cao nhất, Gray đi ngang qua một tòa nhà lớn để tới ga xe điện ngầm. Anh còn trách nhiệm khác bên cạnh việc giữ nước Mỹ an toàn. Một thứ mà anh đã lãng quên từ lâu rồi. * ** 4 giờ 25 phút (giờ địa phương) Rome, Italy Hai chiếc BMW tiếp tục ép chiếc Mini Cooper. Dù cho Rachel cố gắng thế nào đi nữa cô cũng không thể vượt ra được. Những khẩu súng ở các hàng ghế dưới đã giương nòng lên phía trước. Trước khi những kẻ tấn công kịp nổ súng, Rachel lao chiếc xe vào công viên rồi phanh gấp. Chiếc xe khựng lại, có tiếng kim loại vỡ, gương chiếu hậu xe cô vỡ nát. Động tác này đã làm chệch hướng những tay súng nhưng không giúp cô thoát khỏi chiếc xe bị ép chặt được. Hai chiếc BMW vẫn cố thúc chiếc xe của cô lên phía trước. Giờ thì khi chiếc Mini Cooper đã không di chuyển được nữa. Rachel nằm bẹp dưới sàn xe, tựa bên trái vào cần gạt. Một loạt đạn nã vào cửa sổ trước của xe, đi ngang qua chỗ lúc nãy cô vừa ngồi. Cô không còn may mắn lần thứ hai! Chờ cho tốc độ của chúng chậm lại, cô ấn nút điều khiển mui xếp của xe. Cánh cửa vừa hạ xuống, tấm vải che mui cuộn lại, gió rít từ bên trong. Cô cầu mong chuyện này sẽ cho cô thời gian cần thiết. Co gập chân lên, cô nhảy vọt rồi bám lấy cửa xe đu người vọt lên qua mui chiếc xe lúc này đã hé ra một nửa. Chiếc xe màu trắng vẫn tiếp tục áp vào bên hông trái xe cô. Rachel vọt lên nóc chiếc xe đó rồi lăn một nửa vòng. Lúc này tốc độ của hai chiếc xe đã chậm lại, chỉ dưới ba mươi km một giờ. Đạn nổ ở phía dưới. Cô tung người ra khỏi chiếc xe rồi lao như bay vào hàng xe đang đỗ ở bên lề đường. Cô chạm vào nóc của một chiếc Jaguar sau xoài bụng xuống, đầu tiên là vượt qua thành xe rồi nhảy một cú rợn người xuống phía xa. Choáng váng, cô nằm bất động. Những chiếc xe đang đậu đã che chở cô khỏi đoạn đường trống trải. Chỉ cách đó một quãng ngắn, hai chiếc BMW không kịp phanh gấp, đành rồ máy lao đi. Từ phía xa, Rachel đã nghe tiếng còi rú của xe cảnh sát. Nằm lật trở lại, cô cố tìm kiếm máy di động cài ở thắt lưng. Vỏ bao rỗng không. Khi những tên lạ mặt tấn công Rachel vẫn đang gọi điện thoại. Ôi lạy Chúa… Cô cố đứng dậy. Cô không còn lo sợ bọn chúng quay lại nữa. Nhiều chiếc xe, đủ loại bị chiếc Mini Cooper chắn ngang đã làm tắc nghẽn đoạn đường. Rachel còn một điều lớn hơn phải quan tâm. Không giống như lúc đầu, cô đã thoáng nhìn được biển số xe của chiếc BMW màu đen. SCV 03681. Chả cần phải cất công điều tra để biết xem chiếc xe xuất phát ở đâu, những loại biển số đặc biệt này chỉ do một nơi cung cấp. SCV có nghĩa là Sato Citia Vaticano. Thành phố Vatican. Rachel loạng choạng đứng dậy, đầu đau như búa bổ. Cô thấy có vệt máu trên đôi môi bầm dập. Chả sao cả, nhưng nếu như cô bị kẻ nào đó có liên hệ với Vatican tấn công… Cô gập chân lại, tim đập thình thịch. Một nỗi sợ hãi bỗng nhiên ùa tới làm cô thêm sức mạnh. Một mục tiêu khác rõ ràng đang bị nguy hiểm. “Bác Vigor…” * ** 11 giờ 3 phút Công viên Takoma, Maryland. “Gray, con đấy phải không?” Grayson Pierce vác chiếc xe lên một vai rồi leo lên bậc dẫn tới lối vào nhà cha mẹ, một biệt thự vườn có cánh cổng gỗ và mái nhọn. Anh đứng đó gọi mẹ qua chiếc cửa đẩy: “Vâng, con đây thưa mẹ”. Gray dựa chiếc xe đạp vào lối dẫn lên cửa, xương sườn đau nhói. Anh đã gọi điện cho mẹ từ ga xe điện, báo trước sẽ ghé qua nhà. Anh đã giữ chiếc xe đạp hiệu Trek chuyên dùng leo núi khóa lại ở ga xe điện ngầm để thỉnh thoảng về nhà. “Mẹ sắp bữa trưa gần xong rồi con ạ”. “Gì vậy? Mẹ đang nấu nướng à?”. Anh xô chiếc cửa đẩy làm bản lề kêu cọt kẹt. Nó đóng sập lại sau lưng anh: “Liệu những phép màu có bao giờ hết không ạ?”. “Thôi đừng tán nữa, con trai. Mẹ hoàn toàn có thể làm được món bánh xăng úych, giăm bông và pho mát”. Gray bước ngang qua phòng sinh hoạt với những thứ đồ đạc làm bằng gỗ sồi, chọn lọc rất tinh tế, kết hợp giữa kiểu cũ và mới. Anh cũng kịp nhìn thấy lớp bụi dày trên mặt. Mẹ anh chưa bao giờ là một người nội trợ đảm đang, luôn dành phần lớn thời gian để giảng dạy. Đầu tiên là một trường trung học Thiên chúa giáo ở Texas, còn bây giờ là trợ lý trưởng khoa bộ môn sinh vật ở trường Đại học George Washington. Từ ba năm trước, bố mẹ anh đã chuyển tới khu phố cổ xưa và cũng rất yên tĩnh này của công viên Takoma với những ngôi nhà kiểu Victoria cổ lỗ và những căn nhà tranh già cỗi. Gray có một căn hộ cách đây vài dặm trên đường Piney Branch Road. Anh luôn muốn ở gần bố mẹ để xem có thể giúp đỡ được gì chăng. Đặc biệt bây giờ. “Bố đâu hả mẹ?” Anh hỏi khi bước vào bếp, tay cầm hộp sữa. “Đang ở ngoài gara, đang làm một cái nhà cho chim nữa”. “Thế không phải là một cái khác nữa à?” Mẹ anh chau mày: “Bố thích thế. Công việc làm cho ông bớt buồn phiền. Bác sĩ chữa bệnh cho bố nói nếu như ông có được một thú chơi gì đó thì rất tốt”. Mẹ anh quay lại cầm hai đĩa xăng uých trên tay. Mẹ anh đi thẳng từ văn phòng trường về nhà. Bà vẫn mặc chiếc áo khoác màu xanh bên ngoài bộ váy trắng, mái tóc vàng đốm bạc buộc gọn gàng ở phía sau. Ngăn nắp, chuyên nghiệp. Nhưng Gray để ý cặp mắt quầng thâm của mẹ. Bà trông ngày càng gầy, hốc hác. Gray đỡ những chiếc đĩa: “Làm nghề mộc có thể tốt cho bố nhưng không biết cứ nhất thiết phải làm ra những tổ chim không ạ? Ở Maryland này đã có biết bao nhiêu chim rồi”. Bà mỉm cười: “Ăn bánh đi con. Con có muốn ăn món dưa góp không?” “Không ạ”. Vẫn là cách như vậy. Nói chuyện lặt vặt để tránh những vấn đề lớn hơn. Nhưng có những chuyện không thể né tránh mãi được: “Thế họ tìm thấy bố con ở đâu ạ?” “Ở một tiệm 7/11 giờ trên phố Cedar. Ông ấy bị lẫn, đi lạc đường. Bố chả còn đủ minh mẫn để phân biệt giữa John và Suz nữa”. Chắc là hàng xóm đã gọi điện cho bà, rồi bà lại điện cho Gray, lo lắng và hoảng sợ. Năm phút sau bà gọi lại. Bố anh đã trở về nhà và khỏe. Tuy nhiên Gray biết rằng tốt nhất anh vẫn phải ghé qua nhà một chút. “Thế bố vẫn uống thuốc Aricept chứ ạ?” Anh hỏi “Tất nhiên, mẹ vẫn bắt bố uống thuốc vào mỗi buổi sáng”. Bố anh được chuẩn đoán mắc bệnh suy giảm trí nhớ ở giai đoạn đầu, ngay sau khi gia đình anh chuyển đến đây. Căn bệnh bắt đầu với những lãng quên nho nhỏ: cất chìa khóa ở đâu, số điện thoại, tên của những người hàng xóm. Bác sĩ nói việc di chuyển từ Texas tới đây có thể thúc đẩy các triệu chứng vốn đã có từ lâu. Đầu óc của bố anh thật khó có thể tiêu hóa được những thông tin mới sau khi chuyển nhà qua suốt nước Mỹ. Nhưng với tính ương bướng và lòng quyết tâm, ông quyết không quay trở lại. Đối với bố anh, không có ranh giới gì mà ông không vượt qua được. “Thế sao con không mang đĩa bánh này cho bố?” Mẹ anh nói “Mẹ phải đi gọi điện cho cơ quan”. Gray cầm lấy đĩa bánh, đặt bàn tay lên tay mẹ: “Mẹ, có khi chúng ta phải nói chuyện về việc thuê người chăm sóc”. Bà lắc đầu, từ chối “Tốt nhất là không bàn chuyện đó nữa”. Mẹ rút tay khỏi tay anh. Gray đã chạm phải bức tường như vậy lần trước. Bố anh không đồng ý chuyện đó và mẹ anh thấy mình có trách nhiệm phải lo cho ông. Nhưng như vậy là tất cả công việc nội trợ của cả nhà dồn lên vai mẹ. “Lần cuối cùng Kenny đến là khi nào?” Anh hỏi. Cậu em trai anh mở một cửa hàng máy tính tận phía biên giới bang Virginia, nối gót theo bố anh là một kỹ sư điện, mặc dù không phải ngành dầu mỏ. “Con biết Kenny rồi đấy…” Mẹ anh nói “Để mẹ lấy cho bố con một ít dưa góp”. Gray lắc đầu. Gần đây Kenny đã nói đến chuyện di chuyển đến Cupertino, California. Cậu ta biện minh chuyện đó là cần thiết, nhưng đằng sau tất cả, Gray hiểu hết sự thật. Em trai anh chỉ muốn bỏ đi, lẩn tránh. Cuối cùng thì Gray cũng được được suy nghĩ đó. Chính anh cũng đã làm như vậy với việc gia nhập quân đội. Có lẽ đây cũng là truyền thống của gia đình Pierece. Mẹ anh đưa cho anh lọ dưa góp để mở: “Thế công việc ở phòng thí nghiệm ra sao?” “Tốt đẹp ạ” Gray nói. Anh bật nắp hộp, lấy ra một ít rồi cho vào cái đĩa. “Mẹ đã đọc báo nói về việc cắt giảm ngân sách ở DARPA”. “Công việc của con không sao đâu ạ” Anh trấn an mẹ. Chả ai trong nhà biết vai trò của anh trong Sigma. Họ nghĩ anh tiến hành một nghiên cứu nào đó cho quân đội. Họ không được phép biết sự thật. Cầm chiếc đĩa trong tay, anh đi về phía cửa sau. Mẹ anh nhìn anh “Chắc là ông ấy phải mừng lắm khi thấy con”. Nếu như con cũng có thể nói được điều đó…. Gray đi đến gara ở vườn sau. Anh nghe vẳng tiếng nhạc đồng quê vọng ra từ cánh cửa mở. Nó gợi nhớ lại những kỷ niệm của các điệu vũ xếp hàng ở Mulleshoes, và những kỷ niệm ít vui hơn. Anh đứng trước lối vào của gara. Bố anh ngồi xổm trên một mảnh gỗ, tay đang vạch vạch một đường kẻ. “Bố” Anh nói. Bố anh quay lại. Cao lớn như Grayson nhưng người ông đậm hơn, vai và lưng cũng to hơn. Ông đã từng làm việc trên các giếng dầu rồi tự học qua đại học, đạt được tấm bằng loại ưu kỹ sư thực hành về cơ khí dầu. Vì di chuyển nơi ở và không phù hợp nên ông phải về hưu ở độ tuổi bốn mươi bảy. Chuyện đó xảy ra cách đây mười lăm năm rồi. Bố anh quay lại “Gray đấy à?”. Ông lấy tay gạt mồ hôi trên đôi lông mày làm dính bẩn mùn cưa. Một cái chau mày “Không cần thiết phải mang đến tận đây đâu”. “Thế làm sao những cái bánh xăng uých này đến chỗ bố được?” Anh giơ chiếc đĩa lên. “Anh biết mẹ anh đấy. Mẹ luôn cố hết sức mình”. “Thế thì tốt nhất bố nên ăn chúng đi. Không nên làm mất đi thói quen đó”. Ông gạt đống đồ mộc sang một bên rồi khom khom người quay ra chiếc tủ lạnh nhỏ ở phía sau “Uống bia không?” “Chút nữa con phải trở về làm việc rồi”. “Một chai bia chẳng chết gì đâu. Bố có loại bia Sam Adam mà anh vẫn thích”. Bố anh lại thích loại bia Budweiser. Nhưng một sự thật, bố anh đã nhét trong tủ lạnh loại bia anh vẫn thích giống như cái vỗ tay vào lưng. Thậm chí còn giống như một cái ôm hôn nữa. Anh không thể từ chối được. Gray cầm lấy chai bia rồi với tay lấy cái mở bia. Bố anh bước đến gần, tựa một bên hông vào chiếc ghế. Ông giơ chai bia Budweiser như thể chào “Thật chán khi về già… may mà vẫn còn bia”. “Vâng, đúng như vậy ạ” Gray uống một hơi. Anh không biết chắc có cần trộn Codein với cồn không, nhưng anh nhận ra rằng buổi sáng nay đã dài quá rồi. Bố anh vẫn nhìn vào anh. Im lặng rất dễ trở thành thô thiển. “Vậy mà bố lại không tìm được đường về nhà” Gray nói. “Bố anh chứ” Ông vờ cáu, cười toác miệng và lắc lắc đầu. Bố anh luôn thích nói chuyện thẳng thắn. “Bắn thẳng” như cách ông vẫn nói. “Ít nhất thì ta cũng không phải là một thằng tồi”. “Bố nhớ đừng quên dạo con ở Leavenworth nhé. Chuyện đó sẽ làm bố nhớ đấy”. Bố anh cụng chai bia vào người Gray: “Bố sẽ nhớ đến chừng nào còn có thể”. Đôi mắt của họ gặp nhau. Anh thấy có gì ánh lên phía sau vẻ giễu cợt của ông, một điều anh rất hiếm khi nhìn thấy ở ông trước đây: Sự sợ hãi. Hai bố con chưa bao giờ có được mối quan hệ tốt đẹp. Bố anh đã nghiện rượu sau vụ tai nạn kèm với một loạt chuyện tồi tệ. Thật khó khăn cho một người làm nghề dầu mỏ Texas như ông lại trở thành người nội trợ trông nom hai đứa con trai khi vợ đi làm. Đổi lại, ông đã điều hành nhà mình như một trại tân binh. Và Gray luôn phản ứng, một kẻ nổi loạn từ trong trứng. Chờ cho đến mười tám tuổi, Gray thu xếp hành lý vào quân đội, bỏ nhà ra đi vào lúc nửa đêm. Sau đó hai năm liền, hai bố con không bao giờ nói chuyện với nhau. Rồi mẹ anh tìm cách hàn gắn hai người lại với nhau. Tuy vậy đó vẫn là một sự hoà hoãn chẳng thoải mái gì. Có lần mẹ nói. “Hai bố con ông giống nhau hơn là hai người tưởng”. Grayson chưa bao giờ nghe thấy lời nào đáng nể sợ hơn. “Thằng chết tiệt đó bú …” Bố anh nói khẽ khàng, phá vỡ sự im lặng. “Budweiser chắc chắn làm điều đó.” Gray nâng chai bia lên. “Vì vậy con chỉ uống loại bia Sam Adams”. Bố anh toét miệng cười. “Anh đúng là thằng chết tiệt.” “Thì bố đã nuôi con mà lại.” “Vậy thì bố cũng thích một thứ để hiểu một thứ.” “Con có bao giờ nói điều đó đâu.” Bố anh chớp chớp mắt. ‘Tại sao anh lại mất công về đây?’ Vì con không biết khi nào bố còn nhớ đến con, anh nghĩ nhưng không dám nói ra điều đó. Vẫn còn điều gì đấy giấu kỹ trong lòng, nỗi ấm ức cũ trước đây chưa giải toả được. Có những lần ông đã rất muốn nói, muốn nghe… và một phần trong ông hiểu rằng mình đang mất dần thời gian. “Anh kiếm chỗ bánh xăng- đuých này ở đâu ra vậy?” Bố anh miệng nhồm nhoàm vì đã ăn một miếng bánh lớn. “Bánh ngon đấy”. Gray nói cố giữ vẻ mặt vô cảm. “Mẹ làm đấy”. Một thoáng bối rối rồi tiếp đó. “Ồ thế à…” Cặp mắt họ lại nhìn nhau, Sự sợ hãi bùng lên trong cái nhìn của bố anh kèm theo nỗi xót xa. Ông đã mất đi một phần cuộc sống của người đàn ông mười lăm năm trước đây, giờ ông đối mặt với chuyện mất đi trí nhớ của mình. “Pop…tao…” “Bố hãy uống bia đi đã.” Anh thấy mình như đang đến bờ của sự tức giận như mọi khi nên tìm cách đánh trông lảng. Anh uống nốt chỗ bia, ngồi im lặng, hai bố con chẳng nói gì. Có thể mẹ nói đúng. Họ quá giống nhau. Máy nhắn tin của anh phát tín hiệu. Gray vội nhìn vào thấy tín hiệu từ Sigma. “Văn phòng gọi.” Anh càu nhàu. “Chiều nay con có cuộc họp…” Bố anh gật đầu. “Bố cũng phải quay trở lại với cái nhà chim chết tiệt này.” Họ bắt tay nhau, hai đối thủ đều mệt mỏi nhưng đều cố không để xảy ra tranh chấp. Gray quay vào nhà, tạm biệt mẹ rồi dắt xe đạp đi. Anh leo lên xe, nhanh chóng đạp về phía ga xe điện ngầm. Số phôn trên máy nghe của anh hiện lên tiếp sau một ký tự: Sigma911. Khẩn cấp Lạy Chúa. * ** 5 giờ 3 phút (giờ địa phương) Thành phố Vatican Công cuộc tìm kiếm sự thật chung quanh Ba nhà Thông thái đã trở thành một cuộc đào bới khảo cổ mệt mỏi nhưng thay vì chân tay lấm lem bùn đất, ngài Vigor Verona và nhóm của mình gồm toàn những tay thủ thư lục lọi trong hàng đống sách và tài liệu. Nhóm thủ thư đã tiến hành công việc đào bới cơ bản ở thư viện Vatican; giờ đây Vigor ngồi phân loại lọc ra xem có vết tích gì liên quan đến Ba nhà Thông thái ở một trong những nơi được canh gác cẩn mật nhất ở địa phận Giáo hoàng: Viện Cơ mật nổi tiếng của Vatican. Vigor sải những bước dài trong một gian phòng dài nằm ngầm dưới đất. Những ngọn đèn được bật lên khi ông bước tới và tự tắt khi đi qua, tạo ra một khoảng sáng chung quanh ông và cậu sinh viên Jacob. Họ đi ngang qua chiều dài của nơi lưu trữ các văn bản chính được gọi tắt là hầm ngầm. Xây từ năm 1980, gian phòng này có hai tầng, mỗi tầng được phân cách bởi sàn kim loại nối với nhau bằng các bậc thang uốn lượn. Ở mỗi bên biết bao nhiêu là giá thép chứa đựng tài liệu gồm đủ các loại giấy tờ. Ở tường đối diện cũng là những giá đựng bằng thép, có điều là chúng được niêm phong khoá lại cẩn thận sau nhưũng cánh cửa lưới, bảo vệ những tài liệu nhạy cảm hơn. Có câu nói về Vatican. Vatican có rất nhiều bí mật nhưng không bao giờ đủ. Vigor cân nhắc đến vế thứ hai khi ông bước qua gian phòng lưu trữ rộng lớn. Vatican giữ quá nhiều bí mật ngay cả đối với nó. Jacob cầm theo chiếc laptop trong đó có cư sở dữ liệu về đề tài của họ. “Vậy là không phải chỉ có ba nhà Tiên tri?” ông nói khi bước ra khỏi hầm ngầm. Họ ngồi xuống đây để số hoá một tấm ảnh chụp một lọ hoa được giữ ở bảo tàng Kircher. Trên lọ hoa có mô tả không chỉ ba nhà Tiên tri mà là tám. Nhưng ngay cả con số đó cũng khác nhau. Một bức tranh ở nghĩa địa lâu đài Thánh Peter lại chỉ có hai, còn một cái ở Domiotilla lại vẽ những bốn. “Kinh thánh không nói cụ thể về số nhà thông thái,” Vigor nói, cảm thấy mệt bã người sau một ngày cật lực. ông cảm thấy nếu nói ra những điều mình suy nghĩ sẽ có lợi hơn vì ông vốn là đệ tử theo đuổi các phương pháp của Socrat. “Chỉ có tập Kinh thánh về Mathew trực tiếp đề cập đến họ mà cũng chỉ nói loáng thoáng. Giả thuyết thông thường về con số ba xuất phát từ chuyện số quà tặng được các nhà Tiên tri cầm đó là vàng, trầm và xạ hương. Thực ra, họ cũng có thể không phải là vua. Từ Magi xuất phát từ tiếng Hy Lạp magoi hay phù thuỷ.” “Vậy họ là những phù thuỷ.” “Không phải như chúng ta nghĩ. Từ magoi không ám chỉ phù thuỷ, mà chỉ là những người thực hành các phép mầu bí ẩn. Cũng vì vậy có từ nhà thông thái. Hầu hết các nhà khoa học thuật Kinh thánh bây giờ tin rằng họ là những nhà chiêm tinh học từ Persia hoặc Babylon. Họ diễn đạt về những ngôi nhà và tiên đoán sự ra đời của một ông vua từ phía Tây, được báo hiệu bởi một ngôi sao đơn độc xuất hiện.” “Ngôi sao Bethlehem” Ông gật đầu. “Bất chấp tất cả các bức hoạ, ngôi sao không phải là một sự kiện đặc biệt. Theo Kinh thánh, thậm chí ngay cả ở Jerusalem cũng không ai để ý đến điều đó. Mãi cho tới khi các nhà Tiên tri đến với vua Herod và lưu ý Ngài chú ý điều này. Các nhà Tiên tri hình dung một vị vua mới được sinh ra đã được các ngôi sao báo trước và đứa bé phải được sinh trong hoàng tộc. Nhưng vua Herod thấy sốc khi nghe tin đó và hỏi họ khi nào thấy ngôi sao xuất hiện. Rồi họ sử dụng các cuốn sách Tiên tri bằng tiếng Hebrew để xem vị vua mới có thể được sinh ra ở nơi nào. Nhà vua đã chỉ thị cho họ đi Bethlehem.” “Vậy là Herod bảo họ nơi phải tới.” “Ông ta làm như vậy, cử họ đi như những gián điệp. Chỉ có điều trên đường tới Bethlehem theo như cuốn Kinh thánh Mathew, ngôi sao lại xuất hiện và hướng dẫn các nhà tiên tri tới chỗ đứa trẻ. Sau đó do được một thiên thần cảnh báo họ đã rời mà không nói cho Herod biết đứa trẻ là ai và ở đâu. Vì vậy đã bắt đầu những vụ tàn sát những người vô tội”. Jacob bước vội vã theo. “Thực ra Mary, Josep và đứa trẻ mới sinh đã rời đi Ai Cập ngay sau khi được thiên thần cảnh báo. Vậy điều gì đã xảy ra với các nhà thông thái?”. “Điều gì thực sự…” Vigor đã dành hầu hết thời gian một tiếng đẻ rồi theo đuổi các văn bản về những gì liên quan đến ba nhà thông thái… Nếu di cốt của họ bị ăn trộm vậy thì động cơ của bọn cũng là gì ngoài việc kiếm lợi thông thường. Chỉ có kiến thức mới có thể trở thành vũ khí tốt nhất trong trường hợp này. Vigor nhìn đồng hồ. Ông không còn thời gian nữa nhưng người đứng đầu Viện Cơ mật sẽ tiếp tục tìm kiếm, xây dựng cơ sở dữ liệu cùng với Jacob rồi gửi email cho ông những phát hiện của họ. “Thế còn những cái tên lịch sử của ba vị Tiên tri?” Jacob hỏi “Gaspa, Melchior và Balthazar”. “Đó chỉ là giả thuyết. Những cái tên đó đầu tiên xuất hiện trong thế kỷ thứ VI. Sau đó các sách tham khảo đều đi theo hướng đó, nhưng tôi nghĩ điều này giống như những câu chuyện cổ tích nhiều hơn là những tường trình thực sự, tất nhiên nó cũng đang được quan tâm. Tôi để lại cái đó cho cậu và ngài đứng đầu Viện Cơ mật nghiên cứu.” “Cháu sẽ làm hết sức mình.” Vigor khẽ nhíu mày. Đây là một công việc nặng nhọc. Rồi nữa, những chuyện này có ý nghĩa gì đây? Tại sao chúng lại lấy cắp di cốt của các nhà Tiên tri? Vẫn chưa có câu trả lời đối với ông. Và Vigor cũng không hiểu liệu sự thật có được tìm thấy trong ba mươi dặm chiều dài giá sách trong Viện Cơ mật. Nhưng đã có sự thoả thuận là bắt đầu truy từ các dấu vết. Thật hay không thật, những câu chuyện về các nhà Tiên tri đã gợi ý một kho tàng rộng lớn kiến thức cất giấu mà có lẽ chỉ có một bộ phận nào đó của magi biết được. Nhưng vậy họ là ai? Các vị phù thuỷ, nhà chiêm tinh hay linh mục? Vigor đi qua phòng văn thư, bỗng ngửi thấy mùi thuốc trừ sâu và thuốc chống mối mọt. Chắc là nhân viên ở đây mới phun. Ông biết rằng một số tài liệu trong phòng văn thư do bị mối mọt đục khoét, có khả năng bị phá huỷ vĩnh viễn. Cũng như vậy có biết bao nhiêu cái khác nữa ở đây cũng bị đe doạ…Không chỉ vì lửa, mối mọt hay sự lãng quên mà còn vì chính tầm cỡ lớn lao của nó. Chỉ có một nửa trong số tài liệu ở đây được thống kê. Và mỗi năm lại được bổ sung thêm, ngập tràn từ các đại sứ Vatican, các giáo xứ và xứ đạo đơn lẻ. Không thể theo kịp. Chính bản thân Viện Cơ mật cũng phát triển phình ra như một khối u ác tính. Từ những căn phòng lúc ban đầu đến những phòng trên gác, hầm ngầm rồi những toà tháp rỗng. Vigor đã dành hơn nửa năm để tìm kiếm hồ sơ của những gián điệp của Vatican trong quá khứ, những người đi trước ông, những nhân viên được đưa vào các vị trí chính phủ trên khắp thế giới, nhiều tên được viết theo lối mật mã nói lên sự tranh chấp về chính trị đã kéo dài hàng nghìn năm nay. Vigor biết rằng Vatican là một thức thể chính trị cũng như tinh thần. Và những kẻ thù của cả hai loại đó đều tìm cách phá hoại giáo hội. Ngay cả hôm nay, những linh mục như Vigor. Những chiến binh thầm lặng giữ phòng tuyến. Và trong khi Vigor có thể không đồng ý với tất cả những gì đã làm trong quá khứ hoặc thậm chí cả hiện nay, niềm tin của ông vẫn chắc chắn…giống như chính Vatican. Ông tự hào về sự tận tuỵ của ông với Giáo hoàng. Các đế chế có thể xuất hiện và lụi tàn. Các triết lý có thể đến rồi đi. Nhưng cuối cùng, Vatican vẫn tồn tại, vững vàng và kiên định. Đó là lịch sử, thời gian và đức tin - tất cả đuợc giữ gìn trong đá. Ngay cả ở đây, nhiều trong số những báu vật lớn nhất của nhân loại được lưu trữ trong những chiếc tủ, két, hòm và ngăn kéo có lá thư của Mary Tudor một ngày trước khi bị chặt đầu, còn trong một ngăn khác là bức thư tình của vua Henry III gửi Ann Boleyn. Có những tài liệu thuộc vè Toà án dị giáo, các vụ xét xử, Thập tự chinh, những lá thư của một vị Khan của Persia đến nữ hoàng thời nhà Minh. Và có lẽ bí hiểm nhất trong số đó được cất giữ trong một chiếc hộp bằng kim loại khoá kín là Điều bí mật thứ ba của Fatima. Chỉ có chính đức Giáo hoàng mới được đọc nội dung lời Tiên tri thứ ba của Lucia dos Santos từ Fantima. Nó đã tiên đoán Đại chiến Thế giới lần thứ 2 và đưa ra ngày tận thế của thế giới này. Những cái mà Vigor tìm kiếm giờ đây lại không được canh gác như vậy. Nó chỉ đòi hỏi việc phải trèo lên cao. Ông đã có thêm một bằng chứng nữa mà ông muốn điều tra trước khi đi Đức cùng Rachel. Vigor tiến đến cầu thang nhỏ dẫn lên những căn phòng phía trên của Viện Cơ mật gọi là sàn quý tộc. Ông mở cánh cửa cho Jacob, khép lại rồi ấn chốt. Khẽ rung một chút, cái lồng nhỏ vụt lên cao. “Chúng ta đi đâu thế này?” Jacob hỏi. “Đến Torri dei Venti.” “Đến tháp Gió ngàn? Tại sao vậy?” “Có một tài liệu cổ được giữ tít ở trên đó. Một bản copy của cuốn Mô tả thế giới từ thế kỷ thứ 18.” “Cuốn sách của Marco Polo?” Ông gật đầu khi thang máy dừng lại. Họ đi ra một hành lang dài. Jacob bước vội theo kịp ông. “Thế chuyến mạo hiểm của Marco Polo có liên quan gì đến ba nhà Tiên tri?” “Trong cuốn sách này, ông ta đã liên hệ nhưũng chuyện thần thoại liên quan đến các vị Tiên tri và điều gì xảy ra với họ. Tất cả chung quanh một món quà được đức chúa Jesu hài đồng ban cho họ. Một hòn đá có phép mầu. Trên hòn đá đó, các nhà Tiên tri đã tìm thấy một loạt những trí tuệ bí ẩn. Ta thích theo đuổi huyền thoại đó.” Hành lang dẫn đến Tháp Gió ngàn. Những căn buồng rỗng của cái tháp này được nối với Viện Cơ mật. Thật không may, căn phòng Vigor muốn tìm lại ở trên đỉnh cao nhất. Ông chửi bới chuyện không có thang máy rồi đi vào chiếc cầu thang tối om. Ông thôi không giảng giải thêm nữa để lấy sức trèo lên bậc thang dài. Chiếc thang xoáy cứ lượn tròn lượn tròn mãi. Họ tiếp tục trèo trong im lặng cho đến khi cầu thang dẫn tới một trong những căn phòng độc đáo và lâu đời nhất của Vatican. Phòng Kinh tuyến. Jacob ngó nghiêng nhìn những bức hoạ trên tường về trên mái và trần, mô tả các cảnh trong cuốn Kinh thánh vối các đám mây bay lượn phía trên. Một chiếc giáo đơn độc xuyên qua một lỗ nhỏ, đâm qua nền đá cẩm thạch khắc với những dấu của mười hai ngôi sao. Một đường đánh dấu kinh tuyến cắt ngang qua đó. Đó là đài quan sát mặt trời từ thế kỷ thứ XVI được sử dụng để định ra Dương lịch và là nơi Galileo đã sử dụng để chứng minh nhận định của ông rằng trái đất quay chung quanh mặt trời. Thật không may ông đã thất bại- chắn chắn đó là điểm thua giữa Nhà thờ Thiên chúa giáo và cộng đồng khoa học. Kể từ đó, Nhà thờ đã cố gắng để bù đắp cho sự thiển cận của mình. Vigor dừng lại lấy hơi sau một chuyến leo dài. Ông lấy tay lau mồ hôi rồi chỉ cho Jacob gian phòng bên của Phòng Kinh tuyến. Một cái giá sách khổng lồ phủ kín phía tường sau của căn phòng chật cứng những sách và tài liệu. “Theo tổng danh mục, cuốn sách chúng ta tìm phải ở trên ngăn thứ ba.” Jacob bước qua, giật mạnh sợi dây cuốn quanh cửa. Vigor nghe thấy một tiếng bục, không còn thời gian để cảnh báo nữa, Một thiết bị gây cháy nổ, hất mạnh Jacob ra phía ngoài cửa xô vào Vigor. Họ ngã rụi ra sau khi một tường lửa bùng lên qua người họ giống như một con rồng lửa đang hà hơi. Chương 4 Cát bụi về cát bụi. Ngày 24 tháng 7, 12 giờ 14 phút Washington D.C. Phi vụ đã được giao ưu tiên màu da cam, phân công màu đen và quy chế an ninh màu bạc. Giám đốc Painter Crowe lắc đầu trước cách mã hóa theo màu sắc như vậy. Vị quan chức nào đó chắc phải đến thăm cửa hiệu Sherwin- Williams nhiều lần lắm thì phải. Tất cả mọi tính toán đều hướng về một đích: Không được thất bại. Khi đã dính đến những vấn đề có tầm an ninh quốc gia sẽ không có vị trí thứ hai, không có huy chương bạc, không có kẻ tụt hậu. Painter ngồi cạnh bàn làm việc, đọc lại báo cáo của người điều hành tác chiến. Tất cả có vẻ như ổn. Gây dựng lòng tin, nâng cấp mật mã điểm an toàn, hoàn tất các thiết bị kiểm tra, phối hợp lịch trình vệ tinh và hàng nghìn các chi tiết khác đã được hoàn tất. Painter đọc lại bản phân tích chi phí của phi vụ. Ông sẽ có một cuộc họp về ngân sách tuần tới với Tham mưu Liên quân. Ông dụi mắt. Đó là một phần của cuộc sống của ông: công việc bàn giấy, những lệnh triển khai và sức ép. Hôm nay qủa là một ngày vất vả. Đầu tiên là vụ phục kích của Hiệp hội, còn bây giờ là một phi vụ quốc tế phải tiến hành. Tuy nhiên một phần trong ông vẫn luôn say mê thách thức và trách nhiệm mới. Ông đã được giao tổ chức Sigma từ người sáng lập ra nó, Sean MsKnight, giờ đây đã là giám đốc của tổ chức DAPKA. Painter không hề muốn làm người đỡ đầu mình phải thất vọng. Suốt buổi sáng, cả hai đã bàn bạc về vụ tấn công vào FortDetrick và phi vụ sắp tới, sâu chuỗi toàn bộ công việc giống như ngày trước. Sean ngạc nhiên trước việc Painter lựa chọn người chỉ huy nhóm, nhưng cuối cùng đó vẫn là quyết định của ông ta. Như vậy, phi vụ được chấp thuận. Tất cả những gì còn lại là thông báo cho các điệp viên. Giờ chuyến bay được định vào lúc 0 giờ 20 phút. Không còn nhiều thời gian. Một chiếc máy bay tư nhân, được Oil Kensington nạp nhiên liệu và thu xếp miễn phí, quả là một vỏ bọc tuyệt vời. Chính Painter đã sắp xếp chuyện này sau một cú điện nhờ vả phu nhân Kara Kensington. Bà ta rất hài lòng, sẵn sàng giúp đỡ Sigma lần nữa. “Liệu những người Mỹ các ông có thể tự mình làm nổi việc gì không?” Bà chọc ông. Máy điện thoại nội bộ reo trên bàn. Ấn nút máy, ông ra lệnh “Nói đi.” “Thưa giám đốc Crowe. Tôi đã có được tiến sĩ Kokkali và Bryant ở đây rồi.” “Cho họ vào”. Một tiếng chuông cửa rồi tiếng khóa cửa bật tách. Monk Kokkali đẩy cửa vào trước rồi giữ cánh cửa cho Kathryn Bryant. Cô ta cao hơn hẳn anh chàng mập cựu biệt kích mũ nồi xanh một cái đầu. Cô di chuyển duyên dáng như một con báo đầy sức mạnh tiềm ẩn. Mái tóc màu hạt dẻ xõa đến vai được túm lại gọn gàng giống như bộ quần áo cô đang mặc: áo màu xanh lính thủy, váy màu trắng, giày da cao cổ. Chỉ có một thứ duy nhất lấp lánh đó là chiếc kẹp gắn mẩu đá quý có hình một con cóc nhỏ. Mạ vàng trên đá quý. Thật tương xứng với cặp mắt xanh của cô. Painter biết tại sao cô lại đeo chiếc kẹp mạ vàng. Con cóc là một món quà của nhóm lính thủy đánh bộ cô từng tham gia trong một cuộc hành quân trinh sát để thu thập tin tức tình báo hải quân. Cô đã dùng sức mạnh phi thường của mình cứu được hai người. Có điều là một đồng đội của cô không bao giờ quay trở lại. Cô đeo chiếc kẹp để kỷ niệm người xấu số, Painter tin rằng còn có nhiều tình tiết trong câu chuyện đó nữa nhưng hồ sơ của cô không cho biết gì hơn nữa. “Xin mời ngồi” Painter chào cả hai bằng cái gật đầu. “Thế chỉ huy Pierce đâu rồi?” Monk cựa quậy trên ghế “Gray… chỉ huy Pier có việc gia đình đột xuất. Anh ta vừa về đến nơi. Sẽ lên ngay bây giờ”. Nói đỡ cho nhau. Tốt. Đó là lý do vì sao ông đã dọn Monk Kokkali vào phi vụ này, xếp anh ta đi cùng với Grayson Pierce. Họ bổ sung tài năng cho nhau nhưng quan trọng hơn, tính cách họ hợp nhau. Trong khi Monk là một kẻ sách vở thì Gray lại là người ưa hành động. Song Gray lại chịu nghe Monk hơn bất kỳ thành viên nào trong Sigma. Anh ta đã thổi chất thép vào con người Gray. Monk có cách nói đùa và pha trò tếu rất thuyết phục, cũng như những lập luận đưa ra rất thấu đáo. Họ làm thành một cặp hoàn hảo. Và một mặt khác… Painter để ý Kat Bryan vẫn ngồi thẳng đuột, rất chăm chú. Cô không hề tỏ ra e sợ, thậm chí trông còn có vẻ hung hăng phấn khích. Nhìn cô thấy toát ra sự tự tin. Có thể hơi quá. Ông quyết định đưa cô vào phi vụ này do cô xuất thân là một nhân viên tình báo hơn ;à việc cô đang theo học cơ khí. Cô có kinh nghiệm với các quy chế ở các nước EU, đặc biệt khu vực Địa Trung Hải. Cô biết về hoạt động do thám siêu điện tử và phản gián. Quan trọng hơn nữa, cô đã từng hợp tác với một trong các nhân viên tình báo Vatincan, ngài Verona, người rất có thể giám sát công việc điều tra. Hai người đã từng hợp tác với nhau trong vụ phá á nhóm quốc tế chuyên ăn cắp tranh nghệ thuật. “Có khi chúng ta nghiên cứu hồ sơ trong lúc chờ chỉ huy Pierce”. Painter chuyển hai tập hồ sơ dày cộp gáy màu đen, một tập cho Bryant, tập kia cho Kokkali. Tập hồ sơ thứ ba đợi Pierce. Monk liếc nhìn dòng chữ bạc Sigma được gắn trên bìa tập hồ sơ. “Cái này sẽ điền những chi tiết hay hơn cho cuộc hành quân”. Painter nói, gõ nhẹ vào những màn hình xoa trên bàn. Ba màn hình Sony phẳng – một cái ở sau vai, một cái bên phải, một cái bên trái cho thấy cảnh của phong cảnh rừng núi được thu với độ nét cao cũng gắn chữ Sigma. “Tôi sẽ đích thân làm công việc thông báo thay vì giao cho người chỉ huy hành quân như mọi khi”. “Tách biệt tin tức tình báo” Kat nói khẽ, chất giọng phía nam của cô đã được mềm đi từ những âm được phát ra. Painter hiểu cô có khả năng xóa hết mọi dấu vết trong giọng nói của mình nếu cần thiết. “Do xảy ra trận phục kích”. Painter gật đầu. “Mọi thông tin đều bị hạn chế trước khi có việc kiểm tra rộng rãi hệ thống các quy trình an ninh”. “Và chúng ta vẫn tiếp tục một phi vụ mới?” Monk hỏi. “Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác. Do có lời…”. Tiếng điện thoại nội bộ chen ngang. Painter nhấn nút. “Thưa ngài giám đốc” Tiếng cô thư ký “Tiến sẽ Pierce đã đến”. “Cho anh ta vào” Lại có tiếng nhạc, cửa mở và Grayson Pierce bước vào. Anh mặc chiếc quần bò Levi’s màu đen, đi giày da, chiếc áo trắng kẻ, tóc chải rẽ, vẫn còn đẫm nước sau khi tắm. “Tôi xin lỗi”. Grayson nói, dừng lại ở giữa hai nhân viên kia. Nét cứng cỏi trong cặp mắt như muốn che giấu nỗi buồn thực sự. Anh đứng thẳng. Sẵn sàng nghe lời quở trách. Kể ra thì cũng đáng bị như vậy. Sau khi an nịnh bị chọc thủng giờ đây đã đến lúc phải véo mũi anh ta tại sở chỉ huy. Trước đây một số việc làm sai vẫn luôn được tha thứ tại sở chỉ huy Sigma. Họ vẫn thuộc vào loại những người đàn ông và đàn bà giỏi giang nhất trong những người giỏi giang. Người ta không thể đòi hỏi họ phải hành động độc lập trên trận địa rồi lại mong họ uốn mình chịu đựng kỷ luật sắt ở đây. Điều đó đòi hỏi một bàn tay thầm lặng để cân bằng hai thứ. Painter nhìn chăm chú vào Grayson. Với hệ thống an ninh được tăng cường, Painter thừa biết là anh ta đã nhận được một cú điện thoại khẩn từ bà mẹ và đã xin phép trung tâm ra ngoài. Đằng sau nét cứng cỏi trong đôi mắt Painter cũng nhận thấy có sự mệt mỏi. Liệu đó có phải bắt nguồn từ trận bị phục kích hay từ chuyện gia đình? Liệu anh ta có thích ứng với nhiệm vụ mới này hay không? Grayson vẫn đứng chịu trận, mắt không hề chớp. Anh ta tiếp tục chờ đợi. Cuộc gặp này còn có một mục đích nữa, không chỉ là thông báo tình hình, đó cũng là một cuộc thử thách. Painter vẫy tay chỉ vào chiếc ghế: “ Gia đình là quan trọng.” Ông nói, tha cho anh chàng. “Nhưng đừng để chuyện đó thành thói quen đấy.” “Không đâu ạ, thưa ngài.” Gray đi ngang qua rồi ngồi xuống nhưng cặp mắt anh vẫn đảo từ màn hình monitor phẳng đến tập hồ sơ trên đùi các cộng sự. Cặp mắt anh hơi nhíu lại. Việc không bị quở trách đã làm anh ta bối rối. Tốt. Painter đẩy tập hồ sơ thứ ba về phía Grayson. “chúng tôi vừa mới bắt đầu thông báo về nhiệm vụ”. Anh ta cầm tập hồ sơ. Một thoáng chán chường hiện lên trong mắt nhưng anh vẫn giữ im lặng. Painter tựa lưng gõ màn hình ở bàn. Một nhà thờ Gô- tích hiện lên trên màn hình trái, một tấm ảnh chụp bên ngoài. Cảnh bên trong hiện lên ở màn hình trái. Những xác chết nằm ngổn ngang khắp nơi. Phía sau lưng, ông biết là một tấm hình có vạch phấn đánh dấu ban thờ vẫn còn những vệt máu, rồi cảnh vị linh mục bị sát hại, cha Georg Breitman.. Painter vẫn chăm chú nhìn các nhân viên của mình không rời mắt khỏi các hình ảnh. “Vụ thảm sát ở Cologne.” Kat Bryan nói. Painter gật đầu. “Nó diễn ra lúc gần cuối buổi lễ nửa đêm kỷ niệm ngày ăn mừng của những nhà Tiên tri Babilon. Tám mươi lăm người bị chết. Động cơ xem ra là một vụ án trộm thông thường. Cái hòm đựng di cốt vô giá của nhà thờ đã bị đập vỡ.” Painter chuyển qua hình ảnh chiếc quan tài bằng vàng và những mảnh vỡ còn lại của hộp bảo vệ. “Những thứ duy nhất bị mất là báu vật của nhà thờ. Cái gọi là di cốt của các nhà Tiên tri Babilon.” “Di cốt?” Monk hỏi. “Chúng để lại một cái hòm bằng vàng ròng để lấy một nắm xương khô, ai làm chuyện đó?” “Điều đó vẫn còn chưa được biết. Chỉ có một người duy nhất sống sót sau vụ thảm sát.” Painter chiếu hình một cậu thanh niên đang được khênh trên cáng, ảnh người đó ở trên giường bệnh viện, đôi mắt mở to nhưng vẫn còn ngây dại vì sốc. “Jason Pendleton. Người Mỹ. Hai mươi mốt tuổi. Cậu ta được tìm thấy trong phòng xưng tội. Khi được tìm thấy, cậu ta như kẻ mất hồn nhưng sau khi được một liều thuốc an thần cậu ta đã có thể cung cấp một bản báo cáo chi itết Nhóm hành động ăn mặc như những nhà tu. Nhưng không khuôn mặt nào được nhận ra. Chúng xô vào trong nhà thờ. Trang bị súng trường. Một vài người bị bắn, trong đó có vị linh mục và ngài tổng giám mục”. Thêm nhiều hình ảnh nữa xuất hiện trên màn hình: vết thương do đạn bắt, những ảnh khái quát có vạch phấn, một bản vẽ nhằng nhịt những vạch đỏ mô tả đường đi của các phát súng. Nó giống như cảnh gây tội ác thông thường, có điều là khung cảnh thật khác thường. “Tại sao chuyện này lại liên quan đến Sigma?” Kat hỏi. “Còn có những cái chết khác nữa, không thể giải thích được. Để phá chiếc hộp bảo vệ, những kẻ tấn công đã sử dụng một thiết bị gì đó mà không chỉ làm nát vụn cái hộp vốn có khả năng chống đạn bắn xuyên qua, và đồng thời cứ như theo lời người sống sót lại gây ra một làn sóng tử vong khắp nhà thờ. Painter với tay ấn nút. Cả ba màn hình đều hiện lên những xác chết khác nhau. Khuông mặt của các nhân viên đều vô cảm. Họ đã chứng kiến quá nhiều cái chết. Những thân thể bị biến dạng, đầu ngoảnh về phía sau. Một tấm hình chụp cận cảnh một trong những gương mặt của người chết. Mắt mở trừng trừng, còn ngươi chuyển sang màu hổ phách trong khi những dấu vết đen kịt của những giọt nước mắt đã biến thành máu đọng ở khóe mắt. Môi trề ra, như đông cứng vì đau đớn, răng ngậm chặt, lợi rỉ máu, lưỡi sưng vù, giập nát và đen sẫm ở góc. Monk với năng lực đã được đào tạo về ngành y và pháp y nheo nheo đôi mắt. Anh ta có thể đóng vai trò kẻ đãng trí nhưung lại là một quan sát viên sắc sảo, thế mạnh nhất của anh ta. “Báo cáo đầy đủ xét nghiệm tử thu nằm trong tập hồ sơ của mọi người.” Painter nói. “Kết luận ban đầu của các bác sĩ cho rằng những cái chết đó là do một biểu hiện nào đấy của cơn động kinh co thắt. Tất cả đều chết trong tình trạng tim bị co bóp mạnh, quá mạnh đến mức không thể tìm thấy máu trong ngực. Một người đang ông mang theo chiếc máy trợ tim bị vỡ tan trong ngực ông ta. Một người phụ nữ mang theo một cái kẹp bằng kim loại được tìm thấy trong chân vẫn còn cháy hàng giờ sau đó, âm ỉ từ trong ra ngoài.” Các nhân viên giữ vẻ mặt bình thản, nhưng Monk hấp háy một mắt, còn nước da của Kat hình như chuyển sang màu trắng nhợt. Ngay cả Gray vẫn nhìn quá chăm chú vào những tấm ảnh, không chớp mắt. Nhưng Gray là người đầu tiên lên tiếng. “Liệu chúng ta có nên tin rằng những cái chết này có liên quan đến một thiết bị do những tên trộm gây ra không?” “Chắc chắn là như vậy. Người sống sót cho biết cảm giác bị sức ép ghê gớm trong đầu khi thiết bị này được bật lên. Anh ta mô tả điều đó như lúc xuống máy bay. Cảm thấy ở tai. Những cái chết xảy ra vào lúc đó.” “Nhưng Jason vẫn sống.” Kat nói, thở một hơi. “Nhưng một số khác cũng vậy. Còn những người không bị tác động sau đấy lại bị những kẻ đó bắn chết. Tàn sát một cách dã man.” Monk cựa quậy. “Một số người cam chịu, một số khác không. Tại sao? Liệu có gì chung cho những nạn nhân của tình trạng co thắt đột ngột này không?” “Chỉ có một. Một sự thật được Jason Pendleton lưu ý. Những người phải chịu tình trạng co thắt hình như là những người đã ăn bánh thánh.” Monk chớp mắt. “Chính vì lý do đó nên Vatican đã liên hệ với các giới chức Hoa Kỳ. Và chúng ta là người phải hứng chịu chuỗi mệnh lệnh đó.” “Vatican”, Kat nói. Painter đọc được sự hiểu biết trong mắt cô. Cô đã hiểu ra vì sao mình được chọn tham gia phi vụ này và tạm ngưng chương trình học tiến sĩ về cơ khí. Painter tiếp tục “Vatican sợ sự việc này nếu được lan truyền rộng ra ngoài sẽ tác động đến lễ ban bánh thánh. Rất có thể là chuyện đầu độc vào những mẩu bánh. Họ muốn có câu trả lời càng nhanh càng tốt, thậm chí nếu cần cũng phải nắn lại luật pháp quốc tế. Nhóm của các bạn sẽ hoạt động cùng với hai nhân viên tình báo có liên hệ với Vatican. Họ sẽ tập trung vào việc tại sao tất cả các cái chết có vẻ như hướng tới việc che chắn chuyện ăn cắp di cốt của các nhà tiên tri. Liệu đấy có phải là một cử chỉ tượng trưng khong? Hay biết đâu còn có điều gì liên quan đến vụ đánh cắp?” Thế còn mục tiêu cuối cùng của chúng ta?” Kat hỏi. Tìm ra kẻ nào gây tội ác và chúng sử dụng phương tiện gì. Nếu như cái đó có thể giết người với phương cách đặc biệt và tập trung như vậy, chúng ta cần biết đang phải đối phó với ai và ai kiểm soát cái đó?”. Grayson vẫn ngồi yên lặng, nhìn chăm chú vào những hình ảnh ghê rợn như muốn phân tích mổ xẻ. “Chất độc nhị phân” cuối cùng anh lẩm bẩm. Painter liếc nhìn anh ta. Cặp mắt họ bắt gặp nhau, như nhìn thấu vào nhau, cả hai cặp mắt đều có màu xanh thẫm. “Cái đó là gì vậy?” Monk hỏi. “Những cái chết” Gray nói, quay lại anh ta: “Không bị gây ra bởi một sự kiện đơn lẻ. Nguyên nhân là song trùng, đòi hỏi cả hai yếu tố bên trong và bên ngoài. Thiết bị - yếu tố ngoại lai đã gây ra tình trạng co thắt tập thể. Nhưng chỉ những người nào tham gia vào ăn bánh thánh mới bị tác động. Như vậy phải có một yếu tố bên trong chưa được biết.” Grayson quay lại phía Painter: “Thế trong buổi hành lễ người ta có uống rượu vang không?” “Chỉ một nhóm người dự lễ. Nhưng họ cũng ăn bánh thánh”. Painter chờ đợi những bánh đà kỳ lạ chuyển vận trong đầu anh chàng, sau khi thấy anh ta đã có một kết luận mà những chuyên gia phải mất rất nhiều thời gian mới thấy. Có một lý do vượt quá vấn đề cơ bắp và sự tinh tế để tại sao Grayson lại lọt vào mắt của Painter. “Bánh thánh chắc chắn phải bị đầu độc” Grayson nói. “Không còn điều gì phải giải thích nữa. Có một thứ gì đấy đã đưa vào các nạn nhân một cách tự nhiên thông qua việc sử dụng bánh thánh. Một khi chúng đã bị nhiễm độc, chúng sẽ liên quan đến bất kỳ sức mạnh khởi phát nào bởi thiết bị đó”. Cặp mắt của Grayson lại bắt gặp cái nhìn của Painter: “Thế đã kiểm tra xem món bánh kem có bị nhiễm độc không?”. “Những gì còn sót lại trong dạ dày của các nạn nhân không còn đủ để phân tích một cách thích hợp, nhưng vẫn còn những mẩu bánh kem sót lại sau buổi lễ. Chúng đã được gửi đến phòng thí nghiệm khắp EU để xét nghiệm”. “Còn gì nữa?” Giờ đây, trong cặp mắt của người đàn ông không còn thấy nét mệt mỏi nữa mà thay vào đó là sự tập trung sắc sảo. Anh ta vẫn hoàn toàn thích hợp với phi vụ. Tuy nhiên cuộc thử vẫn chưa kết thúc. “Không tìm thấy gì cả” Painter tiếp tục “Tất cả các phân tích không cho thấy gì khác ngoài bột lúa mạch và chất làm bánh thông thường để chế biến món bánh bột kem”. Cặp lông mày của Grayson dường như hằn sâu hơn “Chuyện đấy là phi lý”. Painter nghe thấy nét bướng bỉnh trong giọng nói của anh ta, gần như ngoan cố. Anh chàng vẫn rất tự tin vào nhận định của mình. “Phải có một cái gì đó” Grayson dồn ép. “Các phòng thí nghiệm của DARPA cũng được đề nghị tham ggia. Họ cũng đưa ra kết quả như vậy”. “Họ sai”. Monk đưa tay ra như cố kiềm chế. Kat khoanh tay lại, vẻ thỏa mãn với chuyện này. “Vậy thì phải có một sự giải thích nữa cho…” “Vớ vẩn” Grayson cắt lời cô “Các phòng thí nghiệm đều sai”. Painter cố nín cười. Đây chính là một thủ lĩnh chờ để xuất hiện trong con người anh ta: đầu óc sắc sảo, tin một cách bướng bỉnh, sẵn sàng lắng nghe nhưng cũng không dễ thay đổi một khi đã quyết”. “Anh nói đúng”. Cuối cùng Painter mới nói. Trong khi cặp mắt của Kat và Monk tròn xoe vì kinh ngạc, Grayson chỉ ngồi yên tựa lưng vào ghế. “Phòng thí nghiệm của chúng ta đã tìm thấy một thứ”. “Cái gì vậy?” “Họ các cacbon hóa mẫu xét nghiệm đến tận từng phần cấu thành rồi tách rời phần cấu thành hữu cơ. Sau đó họ loại mỗi phần tử dấu vết khi máy tổng phổ đo đếm. Nhưng sau khi tất cả mọi thứ bị loại bỏ vẫn còn một phần tư trọng lượng khô của cái đó còn lại. Một thứ bột khô trăng trắng”. “Tôi chả hiểu gì cả” Monk nói. Grayson giải thích: “Chỗ bột còn lại không bị thiết bị phân tích phát hiện”. “Nó vẫn ở đó, nhưng các thiết bị lại nói với các nhân viên kỹ thuật rằng không có gì ở đó cả”. “Điều ấy là không thể” Monk nói, “Chúng ta có ở đây những thiết bị tốt nhất trên thế giới” “Nhưng chúng vẫn không phát hiện được”. “Chất bột đó chắc phải hoàn toàn không có phản ứng gì” Grayson nói. Painter gật đầu: “Vì vậy các chàng trai ở phòng thí nghiệm của chúng ta thử tiếp. Họ đun nóng chúng đến nhiệt độ nung chảy.1,160 độ. Nó chảy và tạo thành một chất lỏng trong suốt khi nhiệt độ hạ xuống, rắn lại thành một loại hổ phách trong suốt. Nhưng nếu đem thứ thủy tinh ấy giã trong cối, nó lại hình thành bột màu trắng. Song mỗi một giai đoạn nó vẫn không phản ứng, không thể bị phát hiện bởi thiết bị hiện đại”. “Vậy sẽ phải làm thế nào?” Kat hỏi “Có một điều tất cả chúng ta đều biết, nhưng trong trạng thái chỉ mới được phát hiện cách đây vài chục năm”. Painter nhấn tiếp những hình ảnh. Đó là hình đầu dẫn điện cacbon trong một phòng hơi ngạt không phản ứng. “Một trong những kỹ thuật viên làm việc ở trường Đại học Cornell nơi thí nghiệm này được tiến hành. Họ tiến hành cho bốc hơi từng phần của chất bột đi kèm với quang phổ phóng ra. Dùng kỹ thuật mạ, họ có thể lấy được chất bột rắn trở lại trạng thái thông thường”. Ông gõ gõ tấm ảnh cuối cùng. Đó là một bức ảnh cận cảnh của một điện cực màu đen, chỉ có điều là nó không còn màu đen nữa. “Họ có khả năng tách được chất dính vào sợi cacbon”. Điện cực màu đen đã được tách ra tỏa sáng lấp lánh dưới ánh đèn không thể nhầm lẫn được. Grayson nhoài người về phía trước: “Vàng”. * ** 6 giờ 24 phút (giờ địa phương) Rome, Italy. Còi báo động của chiếc xe rền rĩ trong tai Rachel. Cô ngồi ở hàng ghế dưới chiếc xe tuần tra của cảnh sát, xây xước, đau ê ẩm, đầu nhức như búa bổ. Nhưng tất cả những gì cô có thể cảm nhận được là một sự chắc chắn đến lạnh lùng là bác Vigor đã chết. Nỗi sợ hãi làm cô như nghẹt thở, mắt cô hoa lên. Rachel nghe loáng thoáng viên cảnh sát nói trong máy bộ đàm. Xe của anh ta là chiếc xe đầu tiên nhìn thấy cảnh cô bị phục kích trên đường phố. Cô không chịu cho chăm sóc y tế rồi dùng quyền của một trung úy ra lệnh anh ta đưa cô về Vatican. Chiếc xe tới cây cầu bắc ngang qua sông Tiber. Rachel tiếp tục nhìm chăm chú điểm đến của mình. Qua con kênh, tháp chuông được chiếu sáng của nhà thờ St.Peter xuất hiện trên cao vượt tất cả mọi thứ khác. Mặt trời lặn tỏa ánh sáng lấp lánh màu vàng ánh bạc. Nhưng những gì cô nhìn thấy nhô lên phía sau nhà thờ làm cô đứng dựng khỏi cái ghế, tay cô nắm chặt thành ghế. Một cột khói đen đang bốc cao trên bầu trời tối sẫm. “Bác Vigor…” Rachel nghe thấy những tiếng còi báo động nữa vọng từ phía mặt sông. Những chiếc xe cứu hỏa và các loại xe cấp cứu. Cô nắm lấy tay viên cảnh sát tuần tra. Cô rất muốn đẩy anh ta ra để giật lấy vôlăng. Nhưng người cô vẫn còn đang run rẩy: “Liệu anh đi nhanh hơn nữa được không?”. Cảnh sát Norre gật đầu. Anh ta còn trẻ, mới gia nhập cảnh sát. Anh mặc bộ cảnh phục màu đen với ống quần nẹp đỏ, chiếc phù hiệu bạc trên ngực. Anh ta quẹo tay lái rồi leo lên hè để tránh dòng xe cộ. Càng đến gần Vatican, tình trạng tắc xe lại càng tồi tệ hơn. Sự xuất hiện của các xe cấp cứu đã làm giao thông ở khu vực này bị tắc nghẽn lại. “Hãy đến cửa Saint Ana” Rachel ra lệnh. Anh ta quay xe lại rồi cố lao vào một ngõ hẻm để có thể đến gần tới cửa Saint Ana. Ngay trước mặt, nơi ngọn lửa phát ra đã có thể thấy rõ. Bên trong tường thành Vatican, Tháp Gió Ngàn là đểm cao thứ hai ở đây. Tầng trên cùng của tháp bùng lên ngọn lửa như một ngọn đuốc bằng đá. Ồ, không… Tháp này chứa một phần của Viện cơ mật. Cô biết bác Vigor đang tìm kiếm trong các thư viện của Vatican. Sau vụ tấn công cô, vụ cháy này không thể là một tai nạn thông thường. Chiếc xe dừng lại đột ngột hất tung Rachel lên hàng ghế trước. Mắt cô không thể nhìn tiếp vào ngọn tháp đang bốc lửa được nữa. Giao thông phía trước tắc nghẽn. Rachel không thể chờ được nữa. Cô giật mạnh cánh cửa xe rồi lao ra ngoài. Một cánh tay đã giữ chặt vai cô lại: “Chờ chút Verona” Cảnh sát Norre nói: “Này, có thể cô cần thứ này”. Rachel cúi đầu nhìn khẩu Beretta 92 màu đen, súng dành cho đàn ông. Cô cầm lấy, gật đầu cảm ơn. “Nhờ cảnh báo hộ Trung tâm. Báo cho tướng Rende biết tôi đã quay về Vatican. Ông ấy có thể liên lạc với tôi qua văn phòng thư ký”. Viên cảnh sát gật đầu: “Hãy cẩn thận, trung úy”. Còi báo động rền rĩ khắp nơi. Rachel bước đi. Cô nhét khẩu súng lục vào thắt lưng, buông chiếc áo choàng ra ngoài khẩu súng. Không mặc quân phục. Thật chẳng hay ho gì nhìn thấy cảnh chạy tới khu vực đang có báo động lại mang theo vũ khí. Những đám đông chật cứng trên vỉa hè. Rachel cố gắng lách qua những chiếc ô tô bị tắc nghẽn giữa đường, thậm chí còn trèo cả lên nóc một chiếc xe để đi lên trước. Phía trước cô nhìn thấy một chiếc xe chữa cháy màu đỏ của thành phố đang chạy qua cửa St. Ana. Lối đi thật chật. Một tốp đông cận vệ Thụy Sĩ đã làm thành rào chắn ở cả hai bên, trong tư thế sẵn sàng. Không còn chút lễ nghi nào ở đây. Mỗi người đều cầm khẩu súng trường lăm lăm trong tay. Rachel xô về phía hàng rào lính gác. “Trung úy Verona thuộc lực lượng cảnh sát”. Cô hét lên, tay giơ cao vẫy chiếc thẻ căn cước. “Tôi cần phải gặp Hồng y Spera”. Thật khó có thể thuyết phục được. Rõ ràng họ đã được lệnh ngăn tất cả mọi lối vào Vatican, cấm cửa tất cả trừ một số rất ít người thực thi nhiệm vụ khẩn cấp. Một trung uý cảnh sát không hề có quyền lực gì đối với lính cận vệ Thụy Sĩ. Nhưng từ phía sau hàng rào, một người lính mặc áo màu xanh sẫm nhao ra trước. Rachel nhận ra anh ta chính là người lính gác đã nói chuyện với mình lúc trước. Anh ta chen qua hàng rào để gặp cô. “Trung úy Verona”, anh ta nói: “Tôi được lệnh tháp tùng cô vào bên trong. Hãy đi với tôi”. Anh ta quay gót lại rồi dẫn cô đi. Cô rảo bước để theo kịp, rồi họ đi ngang qua cửa: “Bác tôi… ngài Verona…” “Tôi không biết gì trừ việc tháp tùng cô vào bên trong”. Anh ta chỉ cô trèo vào một chiếc xe chạy điện chuyên chở những người làm vườn đỗ ở phía sau cổng. “Lệnh từ Hồng y Spera”. Rachel leo vào trong. Chiếc xe cứu hỏa đang chạy phía trước họ. Cuối cùng lối vào củng rộng ra khi chiếc xe tiến vào sân trong đối diện Bảo tàng Vatican. Nó tiến vào chỗ các xe cấp cứu khác trong đó có hai chiếc xe quân sự có gắn súng tiểu liên. Người lính gác quay xe sang bên phải, đi vòng qua những chiếc xe cấp cứu đông nghẹt đậu phía trước các viện bảo tàng. Phía trên nóc ngọn tháp lửa vẫn tiếp tục cháy bùng. Từ một nơi nào đó ở tít phía sau, một vòi nước cực mạnh phun lên cao, cố chạm tới đỉnh cao nhất của tầng cao nhất của tháp. Những ngọn lửa vẫn đang phụt ra từ cửa sổ ba tầng tháp trên cùng. Những đám khói đen cuồn cuộn bốc lên cao. Ngọn tháp như một bao diêm, chất đầy sách vở, tài liệu và giấy tờ. Đó là một thảm họa ở phạm vi lớn. Những gì lửa không phá hủy được, nước và khói cũng sẽ phá đi. Hàng thế kỷ tư liệu, vẽ lên lịch sử phương Tây biến mất. Tuy nhiên, nỗi lo của Rachel vẫn tập trung vào một điều. Bác Vigor. Chiếc xe chạy ngoằn nghèo qua gara của thành phố rồi đi xuống đoạn đường rải đá. Nó chạy song song với tường Leonine, một khối bằng đá và ximăng bao bọc thành phố Vatican. Bức tường bao bọc khu vực bảo tàng và chạy đến những vườn rộng chiếm một phần nửa sau của thành phố quốc gia này. Những vòi phun nước nhảy múa phía xa. Thế giới được vẽ dưới bóng của màu xanh lá cây. Cảnh tượng trông thật thanh bình nếu như không có khói, lửa và còi báo động đang rú lên ở phía sau. Họ tiếp tục đi trong im lặng tới ngay phía sau của khu vườn. Điểm đến của họ đã ở phía trước. Nằm nép trong một khu tường bao bọc kín là sân bay trực thăng Vatican. Được sửa sang lại từ những sân quần vợt cũ, sân bay rộng hơn một acre với toàn là ximăng và những nhà ngoài trời. Trên đường băng, một chiếc máy bay lên thẳng đơn độc đang đỗ, cách biệt khỏi khu vực. Cánh quay bắt đầu quay tăng dần tốc độ. Động cơ rú lên. Rachel biết chiếc máy bay màu trắng này. Đó là trực thăng của Giáo hoàng có tên là “Trực thăng thánh thần”. Cô cũng nhận ra chiếc áo chùng màu đen có đai đỏ của Hồng y Spera. Ông ngồi bên cánh cửa ở khoang khách, đầu hơi cúi xuống như những cánh quạt đang quay. Cô vội chạy đến bên Hồng y. Nếu có ai đó biết được số phận của bác cô thì người đó phải là Hồng y. Hoặc một người khác nữa. Từ phía sau chiếc trực thăng, một người bước ra, chạy vội về phía cô. Cô vội vàng lao đến, ôm chặt ông dưới cánh quạt đang xoay mạnh của chiếc trực thăng. “Bác Vigor…” Những giọt nước mắt lăn trên gò má, nóng bỏng, làm tan đi băng giá trong tim cô. Ông lùi lại. “Con gái, cháu đến trễ rồi”. “Cháu bị tấn công” Cô trả lời. “Bác đã nghe rồi. Tướng Rende đã nói về việc cháu bị tấn công”. Rachel nhìn lại ngọn tháp đang cháy. Cô ngửi thấy mùi khói ở tóc ông. Đôi lông mày của ông cháy xém. “Hình như không phải chỉ có một mình cháu bị tấn công. Ơn chúa, bác không sao cả”. Mắt ông bác tối sầm đi, giọng đanh lại: “Thật bất hạnh không phải ai cũng được Chúa che chở”. Cô bắt gặp đôi mắt của ông. “Jacob bị chết trong vụ nổ. Thân thể cậu ấy đã che cho bác, cứu sống bác”. Cô nghe thấy nỗi đau xót trong giọng nói của bác cô dù cho có tiếng gầm gào của máy bay lên thẳng. “Thôi nào, chúng ta phải đi thôi”. Ông dẫn cô ra chỗ máy bay. Hồng y Spera gật đầu với ông bác cô. “Bọn chúng phải bị chặn lại” Ông nói một cách dứt khoát. Rachel theo bác trèo lên máy bay. Họ buộc dây an toàn khi cánh cửa máy bay đóng lại. Bộ phận giảm âm đã làm bớt đi rất nhiều tiếng động cơ nhưng cô vẫn nghe tiếng máy bay rít mạnh. Ngay lập tức máy bay cất cánh, dâng lên cao hòa vào không trung. Bác Vigor ngồi tựa đầu vào lưng ghế, đầu gục xuống, mắt ông nhắm lại, đôi môi ông mấp máy đọc một lời cầu nguyện, cho Jacob, cho chính họ. Rachel chờ cho đến khi ông mở mắt ra. Lúc này, họ đã bay qua Vatican và đang ở phía trên dòng Tiber. “Những kẻ tấn công…” Rachel bắt đầu “chúng lái xe với biển xe từ Vatican”. Bác cô gật đầu, không có vẻ gì ngạc nhiên. “Hình như Vatican không chỉ có gián điệp ở bên ngoài và cũng có cả những kẻ ngay ở phía bên trong”. “Ai vậy?” Khẽ kêu lên một tiếng, Bác Vigor ngắt lời cô. Ông ngồi phắt dậy, thò tay vào túi rồi lấy ra một mẩu giấy gập đôi. Ông đưa cho Rachel. “Người sống sót trong vụ thảm sát Cologne đã mô tả vật này cho một người vẽ ký họa. Cậu ấy đã nhìn thấ thứ đó được thêu trên ngực áp một trong những kẻ gây tội ác”. Rachel vội mở tờ giấy. Được vẽ trên tờ giấy một các chi tiết đến ngạc nhiên là hình một con rồng màu đỏ cuộn tròn, những cái vây giương ra, có cái quấn tròn quanh cổ. Cô hạ thấp bức hình liếc nhìn ông bác. “Một hình tượng cổ xưa” bác cô nói “Từ thế kỷ thứ 14”. “Đó là hình tượng gì vậy?” “Long Đình”. Rachel lắc đầu không hiểu ý nghĩa của cái tên nà. “Đây chính là tên một giáo phái thời trung cổ được tạo ra do có sự ly giáo của nhà thờ, cũng từ sự ly giáo này đã có sự xuất hiện của các Giáo hoàng và những người chống Giáo hoàng”. Rachel rất quen thuộc với sự tồn tại của những kẻ chống Giáo hoàng trong Vatican, những người đã từng đứng đầu nhà thờ Thiên Chúa giáo nhưng sau này việc bầu họ bị coi là không đúng chuẩn mực. Họ xuất hiện do nhiều lý do, song thông thường nhất là do một phái quân phiệt được một vị vua hoặc Hoàng đế hỗ trợ đã tiếm quyền, rồi đầy đi biệt xứ vị Giáo Hoàng đã được bầu một cách chính tắc. Từ thế kỷ thứ 3 đến thứ 15, đã có đến bốn mươi kẻ chống Giáo Hoàng ngóc dậy ngồi lên ngai giáo hoàng. Tuy vậy, thời kỳ hỗn loạn nhất là vào thế kỷ thứ 9, khi vị Giáo hoàng chính thức bị đẩy ra khỏi Rome đến nước Pháp. Suốt bảy mươi năm, giáo hoàng trị vì tại hải ngoại trong khi những kẻ chống giáo hoàng tồi tệ lại cai trị ở Rome. “Thế thì những giáo phái cổ xưa đó có liên quan gì tới tình hình hiện nay?” Cô hỏi. “Tổ chức Long Đình hiện vẫn tích cực hoạt động. Thậm chí EU còn công nhận chủ quyền của nó, giống như tổ chức các hiệp sĩ Malta được giữ vị trí quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc. Cái tổ chức bóng ma này cũng liên hệ với hôi đồng Công chúa châu u, tổ chức các hiệp sĩ… Nó cũng công khai kết nạp thành viên trong cả nhà thờ Thiên Chúa giáo. Ngay cả tại đây: Vatican”. “Tại đây?” Rachel không giấu nổi vẻ kinh ngạc trong giọng nói của mình. Cô và ông bác trở thành mục tiêu, bởi một ai đó ngay tại Vatican. “Một vài năm trước đây” bác Vigor tiếp tục “đã xảy ra một vụ xì căng đan nghiêm trọng. Một linh mục Thiên Chúa giáo, cha Malachi Martin đã viết về một nhà thờ bí mật trong nhà thờ. Ông ta là một học giả, nói được mười bảy thứ tiếng, là tác giả của nhiều cuốn sách học thuật và là cộng sự gần gũi của Giáo hoàng thứ 23. Ông ta làm việc ở Vatican được hai mươi năm. Cuốn sách cuối cùng của ông viết ngay trước khi chết đã đề cập đến một giáo phái theo đuổi thuật giả kim ngay tại Vatican, thực hành các nghi lễ một cách bí mật”. Rachel bỗng cảm thấy trong người ngột ngạt dù chẳng liên quan gì đến chiếc trực thăng đang bay về phía sân bay quốc tế gần Fiumicino. “Một nhà thờ bí mật trong nhà thờ. Những phần tử đó có thể đã tham gia vào vụ thảm sát ở Cologne. Tại sao? Vậy mục đích của họ là gì?” “Để ăn cắp di cốt của các nhà Tiên tri? Mình chưa có bằng chứng”. Đầu óc cô cứ lan man với những suy nghĩ tương tự. Để bắt kẻ tội phạm, việc đầu tiên là phải hiểu biết về chúng. Nắm được động cơ thông thường mang lại nhiều thông tin hơn bằng chứng cụ thể. “Thế bác biết thêm gì nữa về Long Đình?” Cô hỏi. “Mặc dù lịch sử của nó dài như vậy, nhưng không có gì nhiều. Trở lại thế kỷ thứ XVIII, Hoàng đế Sáclơmanh chinh phục châu u cổ đại dưới danh nghĩa nhà thờ thần thánh, đã đập tan các dị giáo rồi thay thế các đức tin của họ bằng Cơ đốc giáo”. Rachel gật đầu, cô rất thông hiểu về những thủ đoạn tàn bạo của Sáclơmanh. “Nhưng cơn thủy triều đã đảo ngược”, bác Vigor nói tiếp “những gì một thời đã lỗi mốt lại trở thành thời trang. Vào thế kỷ thứ XVIII chứng kiến sự quay trở lại của thuyết ngộ đạo được áp dụng bởi ngay những vị vua đã một thời đàn áp nó. Ly giáo dần hình thành khi Nhà thờ di chuyển Cơ đốc giáo như ngày nay mọi người đều biết trong khi các vị Hoàng đế tiếp tục theo đuổi các tập tục ngộ đạo của họ. Ly giáo tiếp tục ngóc đầu dậy vào cuối thế kỷ thứ XIV. Vị Giáo hoàng bị lưu đầy ở Pháp vừa trở về. Để dàn hòa, hoàng đế La Mã thần tháh Sigismund của Luxemboug đã hỗ trợ Vatican về mặt chính trị, thậm chí công khai xóa bỏ tập tục hành lễ ngộ đạo ngay trong tầng lớp bình dân. “Chỉ có ở tầng lớp bình dân thôi à?” “Giai cấp quý tộc được loại trừ. Trong khi Hoàng đế đàn áp những đức tin tà giáo trong dân thường, ông ta lại tạo ra một hội bí mật trong các hoàng gia châu u. Long Đình hoàng gia. Nó tồn tại cho đến tận ngày nay. Nhưng có nhiều giáo phái ở các nước, một số thì hiền lành chỉ theo đuổi lễ nghi hoặc thân hữu, trong khi những số khác do những kẻ quá khích cầm đầu lại mọc lên như nấm. Bác cũng phân vân không biết Long Đình có dính vào không, đó là một trong những nhánh giáo phái rất cực đoan”. Rachel bỗng tự hỏi. “Cần phải biết kẻ thù của mình”. Vậy mục tiêu của những giáo phái xấu xa này là gì? “Là một tín ngưỡng tôn thờ tầng lớp quý tốc, những tên cầm đầu cực đoan này tin là chúng và những kẻ đi theo là người xứng đáng và được chọn lọc để trị vì loài người. Rằng chúng được sinh ra để cai trị với sự tinh khiết trong dòng máu của chúng”. “Hội chứng chủng tộc thượng đẳng của Hitler”. Một cái gật đầu. “Nhưng chúng tìm kiếm xa hơn thế nữa. Không chỉ là làm vua, chúng tìm kiếm mọi hình thức cổ xưa để đẩy xa hơn mục tiêu của chúng là thống trị vào ngày tận thế”. “Bước tới nơi mà ngay cả Hitler cũng không dám đi”. Rachel làu bàu. “Đa phần bọn chúng theo đuổi một mục tiêu giành ưu thế khổ hạnh trong khi lạm dụng chính trị sau màn bí mật và hành lễ. Hợp tác với những nhóm thượng thặng kiểu như Sọ và Xương người ở Mỹ, Chiến lược gia Bilderburg ở châu u. Nhưng giờ thì một kẻ nào đó đã thò mặt, trắng trợn và đẫm máu”. “Điều đó có nghĩa thế nào?” Bác cô lắc đầu. “Bác sợ rằng giáo phái này đã phát hiện ra một điều gì đó khá quan trọng, một điều gì có thể đưa chúng ra khỏi chỗ núp, bước ra ngoài ánh sáng”. “Thế còn chuyện giết chóc?” “Một lời cảnh báco với Nhà thờ. Giống như vụ tấn công vào hai bác cháu mình. Chuyện tiến hành hai vụ mưu sát đồng thời ngay hôm nay không phải là tình cờ. Bọn chúng đã được Long Đình ra lệnh, hòng làm chúng ta chậm lại, dọa chúng ta sợ. Đó đâu phải là chuyện ngẫu nhiên. Tổ chức này đang xù lông ra dọa Nhà thờ phải lui lại, vứt bỏ cái mặt nạ chúng đã đeo hàng thế kỷ nay”. “Vậy thì đích của chúng là gì?” Bác Vigor ngả người ra sau, thở dài “Để đạt được mục tiêu của những kẻ điên khùng”. Rachel vẫn chăm chú nhìn ông. “Armageddon” ông trả lời “Trận quyết đấu cuối cùng giữa thiện và ác”. * ** 4 giờ 4 phút Bay trên Đại Tây Dương Gray lắc chiếc cốc làm những thỏi đá kêu leng keng. Kat Bryant liếc nhìn từ hàng ghế của cô trong khoang chiếc máy bay tư nhân. Cô không nói gì, nhưng cặp lông mày nhíu lại của cô đã nói lên rất nhiều. Cô đang tập trung vào hồ sơ của phi vụ… lần thứ hai. Gray đã đọc nó từ đầu đến cuối, anh không cần nghiền ngẫm lại. Thay vì đó, anh đang ngắm nhìn mặt biển xanh đen sẫm của Đại Tây Dương, cố hình dung ra tại sao mình lại được chọn là người chỉ huy. Ở vào độ cao bốn mươi lăm nghìn feet, anh vẫn chưa có câu trả lời. Đẩy chiếc ghế lui lại, anh bước tới cái tủ rượu bằng gỗ hồng đào nằm ở phía cuối khoang. Anh lắc đầu một lần nữa trước sự xa hoa ở nơi đây: thủy tinh pha lê, sàn cách âm, bàn ghế bằng da. Trông giống như một quán bar của người Anh. Nhưng ít nhất anh cũng quen người bồi rượu. “Làm một Coca nữa nhé?” Monk hỏi. Gray đặt chiếc cốc lên bàn “Mình nghĩ uống như vậy đã đủ”. “Loại hạng ruồi” Bạn anh làu bàu. Gray quay lại vào cabin. Bố anh đã có lần nói với anh rằng đóng một vai đã là một nửa để trở thành vai đó. Tất nhiên, ông đang nói về việc Gray đóng thế như một thợ khoan ở mỏ dầu, một đứa trẻ được cha mình là kỹ sư giám sát. Lúc đó anh mới chỉ mười sáu tuổi, đã trải qua cả một mùa hè nóng bức ở đông Texas. Đó quả là một công việc nặng nhọc trong khi lũ bạn cùng trường với anh đang tận hưởng những ngày hè trên bãi biển ở hòn đảo Nam Parde. Lời dạy của bố anh vẫn văng vẳng bên tai “Để trở thành một người đàn ông, đầu tiên phải hành động như đàn ông”. Có lẽ cũng có thể nói như vậy khi trở thành người chỉ huy. “Ok, nghiền ngẫm sách vở như vậy là đủ rồi”. Anh nói, nhìn vào mắt Kat. Anh liếc nhìn Monk “Cậu đã nghiên cứu cái quầy bar biết bay này đủ chưa?”. Monk nhún vai rồi quay trở về khoang chính. “Chúng ta còn chưa đến bốn giờ bay” Gray nói. Với chiếc máy bay phản lực loại Citation X này bay với tốc độ siêu âm, họ sẽ hạ cánh vào lúc 2 giờ đêm, giờ Đức. “Tôi nghĩ chúng ta nên ngả lưng một chút. Khi đặt chân xuống đất, chắc là sẽ phải chạy đôn chạy đáo”. Monk ngáp dài “Ngài chỉ huy, khỏi cần phải nhắc tôi tới lần thứ hai đâu”. “Nhưng đầu tiên chúng ta cần trao đổi một chút. Người ta đã cung cấp cho chúng ta rất nhiều thứ”. Gray chỉ vào hàng ghế. Monk ngồi xuống một trong những chiếc ghế đó. Gray cũng ngồi xuống, đối mặt với Kat qua chiếc bàn. Trong khi Gray đã biết Monk từ lúc gia nhập Sigma, đại úy Kathryn Bryan vẫn thuộc vào loại được ít người biết. Cô quá chăm chú vào việc học hành nên không mấy người ở Sigma biết về cô. Kat đã nổi tiếng ngay từ khi được tuyển mộ. Một nhân viên đã mô tả cô như một chiếc máy tính biết đi. Nhưng tiếng tăm của cô cũng bị ảnh hưởng đôi chút do trước kia đã từng là một nhân viên tình báo. Dư luận đồn rằng cô giám sát các phi vụ bí mật. Nhưng chả ai biết chắc cả. Quá khứ của cô không được công khai ngay cả đối với các đồng đội tại Sigma. Điều bí mật đó chỉ càng làm cô khác biệt những đàn ông, đàn bà được đề bạt, cất nhắc lên chức ở các đơn vị, nhóm và trung đội. Gray cũng có những vấn đề với quá khứ của cô. Anh có lý do cá nhân để không ưa những người trong ngành tình báo. Họ hoạt động tách biệt, xa cách trận địa, xa hơn cả những phi công ném bom nhưng lại nguy hiểm chết người hơn. Gray đã mất máu từ cánh tay mình vì những thông tin tình báo sai lệch. Những giọt máu vô tội. Anh không thể từ bỏ mức độ nào đó của sự không tin tưởng. Anh nhìn Kat chăm chú. Đôi mắt của cô màu xanh thẫm. Cả thân hình khô cứng. Anh gạt quá khứ của cô sang một bên. Giờ đây cô đã là đồng đội của anh. Gray hít mạnh một hơi. Anh là chỉ huy của cô. Hãy hành động theo… Anh đằng hắng. Đã đến lúc phải bắt tay vào công việc. Anh giơ một ngón tay lên: “Ok, chúng ta sẽ làm gì bây giờ?” Monk trả lời, khuôn mặt rất nghiêm túc: “Không nhiều”. Kat vẫn giọng đều đều: “Chúng ta biết rằng những kẻ gây tội ác về mức độ nào đấy tham gia vào tổ chức giáo phái, hội có tên là Long Đình”. “Như vậy cũng giống như nói chúng có quan hệ với Hari Krishnas”.. Monk phản bác: “Nhóm này cũng vẫn còn mờ nhạt và lẩn như trạch. Chúng ta không có chứng cứ rằng ai thực sự đứng đằng sau tất cả điều này”. Gray gật đầu. Họ đã nhận được bản fax cung cấp thông tin trên máy bay. Nhưng, lại phiền toái hơn khi tin tức đến với họ rằng những cộng tác ở Vatican đã bị tấn công. Vậy đó có phải là bàn tay của Long Đình một lần nữa không? Nhưng tại sao? Và họ đang bay vào loại khu vực chiến sự bí mật nào?Anh muốn có câu trả lời. “Chúng ta hãy phân tích xem nào”, Gray nói, nhận ra giọng mình nghe giống giám đốc Crowe. Hai người kia nhìn anh chăm chú. Gray hắng giọng: “Trở lại những điều cơ bản nhất. Phương tiện, động cơ và cơ hội”. “Họ có rất nhiều cơ hội”, Monk nói “Tiến công vào ban đêm, khi đường phố gần như vắng tanh. Nhưng tại sao không chờ cho đến khi nhà thờ cũng vắng nốt?” “Để truyền đi một thông điệp”, Kat trả lời “Một đòn đánh vào nhà thờ Cơ đốc giáo”. “Chúng ta không thể giả thuyết như vậy”, Monk nói “Hãy nhìn vào đó một cách rộng hơn. Có thể đây lại là trò gắp lửa bỏ tay người, nhằm đánh lạc hướng. Gây ra một tội ác thật đẫm máu để mọi sự chú ý bị đánh lạc khỏi việc ăn cắp một đám xương mục nát chẳng có ý nghĩa gì”. Kat có vẻ như không mấy bị thuyết phục, nhưng cô là người khó đoán được, luôn giấu con bài trong ngực. Giống như cô đã được đào tạo. Gray giải quyết vụ này: “Cách này hoặc cách khác, vì thăm dò cơ hội không mang lại chỉ dẫn xem ai là kẻ gây ra vụ thảm sát. Bây giờ chúng ta tính đến động cơ”. “Tại sao lại ăn cắp di cốt?” Monk nói, lắc lắc cái đầu rồi ngồi xuống. “Biết đâu chúng lại muốn đòi tiền chuộc với nhà thờ Cơ đốc giáo”. Kat lắc đầu: “Nếu như vì chuyện tiền nong, chúng đã ăn cắp cái hòm đựng bằng vàng. Như vậy phải có một cái gì nữa về chỗ di cốt. Một cái gì chúng ta chưa có manh mối gì. Hay tốt nhất là chúng ta để sợi chỉ đó dành cho các cộng sự ở Vatican”. Gray nhăn mặt. Anh vẫn thấy không thoải mái khi làm việc với một tổ chức như Vatican, một tổ chức được xây dựng trên những bí mật và sự cố chấp về tôn giáo. Tuy lớn lên từ một gia đình Cơ đốc giáo La Mã và trong anh vẫn có những sự xao động mạnh mẽ về đức tin. Anh vẫn đồng thời nghiên cứu các đạo giáo và triết lý khác như đạo Phật, đạo Lão, đạo Juda… Tuy đã học được rất nhiều nhưng anh vẫn chưa bao giờ trả lời d một câu hỏi nảy ra trong quá trình nghiên cứu: Mình đang tìm kiếm cái gì? Gray lắc đầu: “Bây giờ chúng ta sẽ đánh dấu động cơ cho tội ác này với một dấu hỏi lớn nữa. Chúng ta sẽ phân tích sâu hơn khi gặp những người kia. Điều đó giúp dẫn đến phương cách để thảo luận”. “Điều trở lại với việc thảo luận toàn bộ về tài chính” Monk nói “Cuộc hành quân này được hoạch định tuyệt vời và thực hiện nhanh chóng. Chỉ riêng về người thôi đã là một cuộc hành quân tốn kém. Tiền bạc hỗ trợ cho vụ cướp đó”. “Tiền và mức độ công nghệ là những điều chúng ta không hiểu” Kat nói. Monk gật đầu: “Thế còn chuyện số vàng kỳ quặc trong bánh thánh thì sao?” “Vàng hóa trị một” Kat lẩm bẩm, bĩu môi. Gray hình dung ra cái điện cực mạ vàng. Họ đã được cung cấp khá nhiều thông số trong hồ sơ về thứ vàng kỳ quái này, tinh lọc từ các phòng thí nghiệm khắp nơi trên thế giới: từ cơ quan hàng không Anh đến phòng thí nghiệm của hãng Boeing ở Seattle, rồi viện Niels ở Copenhagen. Chất bột đó không chỉ là bột bụi vàng thông thường, ở dạng vụn của vàng kim loại. Đó là tình trạng nguyên sơ mới của vàng, được phân loại như trạng thái –m. Thay vì ma trận kim loại thông thường, chất bột trắng là vàng bị vỡ ra thành những phân tử riêng biệt. Hóa trị một hoặc trạng thái –m. Mãi đến gần đây, các nhà khoa học vẫn không hiểu tại sao vàng có thể biến đổi cả về tự nhiên cũng như nhân tạo thành dạng bột màu trắng trơn. Vậy điều này có nghĩa gì? “Ok”, Gray nói “Tất cả chúng ta đã đọc hồ sơ. Chúng ta hãy thảo luận bàn tròn chủ đề này, thử xem dẫn đến đâu”. Monk nói đầu tiên: “Đầu tiên, không phải chỉ có vàng được làm như vậy. Chúng ta cần nhớ chuyện này, hình như bất kỳ một kim loại truyền dẫn nào trên bảng định kỳ: platinum, rhodium, iridium và các loại khác – có thể cũng hòa tan thành bột”. “Không phải hòa tan” Kat nói. Cô liếc xuống tập hồ sơ với những bài được photocopy từ các tạp chí như Tạp chí về kim loại Platinum, Khoa học Mỹ… Như thể cô ta muốn mở tập hồ sơ ra. “Từ đó có nghĩa là tách ra” Cô nói tiếp “Trạng thái –m kim loại vỡ tan thành những phân tử riêng biệt và siêu chùm. Từ góc độ nhà vật lý, tình trạng này xảy ra khi thời gian quay tới và quay lui của nguyên tử xung quanh hạt nhân, làm cho mỗi phân tử mất sức hút với xung quanh”. “Cô muốn nói là chúng không kết dính với nhau” Đôi mắt của Monk chớp chớp vẻ giễu cợt. “Đó là nói một cách thô thiển” Kat nói với tiếng thở dài “Chính sự thiếu kết nối đã làm cho kim loại mất hình dạng ở thể rắn của nó và tan thành bột. Một chất bột không thể bị phát hiện bởi những phòng thí nghiệm có trang thiết bị thông thường”. “Ái chà…” Monk kêu lên. Gray cau mày nhìn Monk. Anh nhún vai, biết rằng ông bạn đang diễn trò. “Tôi nghĩ rằng” Kat tiếp tục, không quan tâm đến chuyện đó “Những kẻ gây ra việc này đã biết về sự thiếu dính kết hóa học và tin rằng chất bột vàng sẽ không bao giờ bị phát hiện. Đó là lỗi thứ hai của chúng”. “Lỗi thứ hai của chúng?” Monk hỏi. “Chúng đã để lại một nhân chứng sống sót. Anh chàng Jason Pendleton.” Kat mở tập hồ sơ của cô ra. Cuối cùng cô không cưỡng nổi ý định này nữa “Quay trở lại câu chuyện vàng. Thế mảnh giấy này nói gì về tình trạng siêu dẫn?”. Gray gật đầu. Anh phải khen cô ta. Cô ta đã đặt trọng tâm vào khía cạnh rắc rối nhất của kim loại ở trạng thái –m. Ngay cả Monk cũng ngồi thẳng dậy. Kat tiếp tục: “Khi chất bột tỏ ra trơ lỳ với thiết bị phân tích, trạng thái nguyên tử còn cách xa năng lượng thấp. Có vẻ như mỗi nguyên tử đều thu nhận toàn bộ năng lượng nó sử dụng để phản ứng với nguyên tử bên cạnh và đưa trở lại vào chính nó. Năng lượng làm biến dạng hạt nhân của nguyên tử, làm nó biến thành hình cong, được biết như…” Cô tìm kiếm một bài viết trên các ngón tay. Gray chú ý nó đã được gạch bằng bút đánh dấu màu vàng. “Trạng thái quay tốc độ nhanh không đồng nhất” Cô nói “Các nhà vật lý biết rằng các nguyên tử có tốc độ quay nhanh như vậy có thể dịch chuyển năng lượng từ nguyên tử này sang nguyên tử khác mà không bị mất đi năng lượng”. “Tình trạng siêu dẫn” Monk nói “Năng lượng chuyển thành chất siêu dẫn có thể tiếp tục chuyên qua vật liệu mà không mất đi năng lượng. Một chất siêu dẫn hoàn hảo có thể cho phép năng lượng này chạy vô tận đến khi chấm dứt giai đoạn của chính nó”. Giữa họ lúc này là sự im lặng khi cân nhắc về những điều khác biệt. Cuối cùng Monk nói “Tuyệt vời! Chúng ta đã đưa được bí mật đó xuống mức của hạt nhân nguyên tử. Giờ thì chúng ta sẽ quay trở lại. Vậy điều này liên quan gì đến vụ giết người ở nhà thờ? Tại sao phải tẩm độc vào các bánh xốp với loại bột vàng quái gở này? Loại bột này giết người ra sao?” Đó là những câu hỏi thật sắc sảo. Kat đóng tập hồ sơ lại, nghĩ rằng không thể tìm ra những câu trả lời trong đó. Gray đã bắt đầu hiểu ra rằng tại sao giám đốc lại cử cho anh hai cộng sự như vậy. Họ đã vượt quá vai trò của mình như một nhân viên tình báo hay chuyên gia tội phạm học. Kat có khả năng tập trung vào từng chi tiết để nhặt ra những điểm mà người khác có thể bỏ qua. Còn Monk cũng không kém phần sắc sảo, thường nhìn vào một bức tranh toàn cảnh, phát hiện ra được xu hướng dẫn tới một khung cảnh rộng lớn hơn. Những cái đó đưa anh đến đâu? “Hình như chúng ta vẫn còn nhiều thứ phải điều tra” Anh kết thúc. Monk nhướn lông mày “Như đã nói từ đầu, chúng ta không có gì nhiều để đi tiếp”. “Chính vậy, chúng ta được điều động để giải quyết những gì là không thể”. Gray nhìn đồng đội, cố ghìm cơn buồn ngủ, “Và để làm được điều đó, chúng ta phải tận dụng thời gian còn lại cho đến khi hạ cánh xuống đất Đức”. Hai người kia gật đầu. Gray đứng lên bước tới một cái ghế gần đó. Monk với lấy chăn và gối. Kat buông mành cửa sổ làm cả khoang tối hẳn đi. Gray nhìn họ. Nhóm của anh. Trách nhiêm của anh! Muốn là một con người, trước hết anh phải hành động giống như vậy. Gray cầm lấy chiếc gối của mình và ngồi xuống. Anh không dựa lưng vào ghế. Mặc dù rất mệt nhưng anh không nghĩ mình sẽ ngủ được nhiều. Monk tắt những ngọn đèn trần. Bóng đêm buông xuống. “Chúc ngủ ngon, chỉ huy” Kat nói qua khoang cabin. Khi hai người koa đi ngủ. Gray ngồi trong bóng tối phân vẫn không hiểu vì sao mình lại ở đây. Thời gian trôi qia. Tiếng động cơ thật êm, nhưng anh vẫn không thể nào chợp mắt được. Trong khoảnh khắc riêng tư, Gray thò tay vào túi quần jean đang mặc. Anh lấy ra một tràng hạt, cầm lấy cái thánh giá ở một đầu rồi nắm thật chặt đến đau cả tay. Đó là món quà tốt nghiệp ông nội tặng anh. Hai tháng sau, ông cụ mất. Gray lúc đó đang đi dã ngoại không kịp về dự lễ tang. Anh ngồi dựa vào ghế, sau cuộc giao ban hôm nay, anh đã gọi điện cho gia đình, nói dối về chuyến đi công tác đột xuất này. Lại tiếp tục đi… Những ngón tay cứ lần lượt chạm vào dây tràng hạt cứng. Anh chả đọc lời cầu nguyện nào. Chương 4 (tt) 10 giờ 24 phút Lausanne, Thụy Sĩ. Lâu đài Sauvage nằm trên một ngọn đèo thuộc dãy nói Alp trông giống như một người khổng lồ bằng đá. Bức tường đá dày tới mười feet. Cái tháp bốn góc độc nhất của lâu đài đứng nhô cao hơn hẳn so với bức tường. Lối đi duy nhất đến cổng lâu đài là chiếc cầu đá chạy ngang qua đèo. Tuy không phải là lâu đài lớn nhất ở địa phận Thụy Sĩ, nhưng chắc chắn nó là lâu đài cổ nhất. Móng của lâu đài còn cổ hơn nữa. Tường lâu đài được xây dựng trên nền cũ của một pháo đài cổ từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Nó cũng là một trong những lâu đài tư nhân cổ nhất, đã thuộc về gia đình Sauvage từ thế kỷ thứ XV khi quân đội Bernese giành lại quyền kiểm soát vùng Lausannne từ tay vị giám mục hư hỏng trong thời kỳ Phục hưng. Từ ban công của lâu đài có thể nhìn xuống hồ Geneva nằm tít ở phía dưới và bên mặt đá lởm chởm của thành phố Lausanne, từng một thời là ngôi làng đánh cá. Giờ đây Lausanne là một thành phố xinh đẹp với những công viên ven hồ, bảng tàng, nhà nghỉ, câu lạc bộ và quán cà phê. Người chủ hiện nay của lâu đài, Bá tước Raoul de Sauvage, chả thèm để ý đến khung cảnh lấp lánh ánh đèn của thành phố vào đêm, bước xuống cầu thang dẫn tới hầm lâu đài. Y được người ta triệu tập. Đằng sau y, một con chó lông xù to lớn phải tới bảy mươi kg chạy theo. Loại chó Bernese vùng núi này có bộ lông đen sẫm nhảy từng bước xuống bậc thang đá. Rauol cũng nuôi hàng đàn chó dữ với nhiều chủng loại, có con nặng tới hàng trăm kg. Y cũng gây giống nhiều loại chó đua ăn thịt. Nhưng giờ đây, Rauol còn có những việc thậm chí còn đẫm máu hơn phải giải quyết. Y đi ngang qua hầm đá của lâu đài. Những gian hầm cất giữ một bộ sưu tập khổng lồ các loại vang, một cái hầm rượu tuyệt vời, đặc biệt có một gian hầm được xây cất từ những ngày xa xưa. Bốn căn hầm đá được gia cố bằng những cửa thép không rỉ, khóa điện tử và hệ thống quan sát video. Gần những gian hầm, một căn phòng lớn vẫn còn chứa những dụng cụ tra tấn từ thời trung cổ, cùng một số phương tiện hiện đại. Gia đình y đã từng chưa chấ những tên trùm phát xít trốn thoát khỏi nước Áp sau Đại chiến thế giới thứ hai từ những gia đình có dây mơ rễ má đến tận vùng Hapsburg. Bọn chúng đã ẩn náu tại đây. Để trả công, ông nội của Rauol đã nhận phần của mình, thứ “đồ chơi” như cách gọi của gã, đã giúp giữ lại được cái lâu đài cho gia đình. Lúc này, tuy mới vào tuổi ba mươi hai, Rauol đã có thể vượt qua ông nội của y. Rauol, một gã vô lại đối với cha y, đã được thừa hưởng quyền thừa kế cả hai dinh thự khi y mới mười sáu tuổi lúc ông chết. Y là con trai độc nhất của gia đình. Trong dòng họ Sauvage, việc nối dõi tông đường luôn được coi như thứ tự ưu tiên trong mọi cuộc hôn nhân. Ngay cả sinh ra y cũng được tính toán thu xếp. Một con rối nữa của ông nội. Bá tước Sauvage trèo xuống sâu nữa dưới vách núi, con chó vẫn lẽo đẽo đi theo sao. Ánh sáng đèn pin chiếu rọi bước chân y. Những bậc thang bằng đá đã trở thành những tảng đá tự nhiên được đẽo gọt. Nơi đây vào thời Trung cổ, những tên lính lê dương La Mã đã từng đặt chân đến, thường dẫn đến các vụ tế thần bằng bò hay dê ở cái hang sâu phía dưới. Cái hang này đã được chuyển đổi thành đền thờ thần Mithra, thần mặt trời du nhập từ Iran, được những tên lính nhà Vua cầu nguyện. Ngày sinh của thần Mithra được cúng bái vào ngày 25 tháng 12. Lễ cúng thần có lễ đặt tên và dự một bữa tiệc thiêng gồm bánh mỳ và rượu vang. Mithra có mười hai tín đồ lấy ngày Chủ nhật là ngày thiêng liêng, mô tả thiên đường và địa ngục. Khi chết, thần Mithra cũng được chôn vào một ngôi mộ, chỉ ngồi dậy ba ngày sau. Từ đó, một số học giải cao rao rằng đạo Thiên chúa giáo hòa quyện với huyền thoại Mithra thành một thứ đạo riêng. Nó không giống như kiểu cái lâu đài ở đây, cái mới đứng trên đôi vai của cái cũ, cái mạnh vượt qua cái yếu. Rauol chả thấy có gì sai trái với chuyện đó cả, thậm chí còn kính phục nữa. Đó là trật tự tự nhiên. Raoul xuống bậc thang cuối cùng rồi đi vào một hang đá ngầm rộng rãi. Nóc hang là một vòm đá tự nhiên, trổ lên đó một cách thô kệch các ngôi sao và mặt trời. Một bàn thờ Mithra cổ nơi đặt những con bò để tế thần đứng ở một góc xa. Phía trước là một dòng suối sâu lạnh lẽo, một con sông nhỏ. Rauol hình dung ra những xác súc vật vứt xuống tế thần bị dòng sông nhấn chìm rồi cuốn đi. Y cũng đã tế thần một vài con vật của mình bằng cách đó, những con vật mà lũ chó của y không ăn được. Bước vào cửa, y cởi cái áo choàng bằng da. Bên trong, y mặc một cái áo sơmi cũ có thêu hình con rồng uốn mình, biểu tượng của Ordinis Draconis, Long Đình, dòng giống từ bao thế hệ nhà Sauvage. “Drakko, ở lại đây” Y ra lệnh. Con chó núi loại Bernese nằm xuống, tuân lệnh. Cũng giống như chủ của nó… Rauol cúi khom người lúc đứng ở trong hang rồi bước lên phía trước. Vị Hoàng đế tối cao của Long Đình đợi y trước ban thờ, mặc bộ quần áo đi mô tô bằng da đen. Mặc dù ông ta hơn y hơn hai thập kỷ nhưng trông cao lớn, đôi vai rộng không hề kém y. Ở ông ta không thấy biểu hiện gì của tuổi già, vẫn rắn chắc, khỏe mạnh. Ông ta vẫn đội chiếc mũ xe máy, chụp tấm kính che mặt. Vị lãnh tụ đi vào bằng lối cửa sau bí mật của hang cùng với một người lạ mặt. Có quy định là cấm ngặt những người ngoài Long Đình được nhìn mặt Hoàng đế. Người lạ bị bịt mắt theo đúng quy định. Raoul cũng chú ý đến năm người cận vệ đứng gác sau động, tất cả đều cầm súng tiểu liên tự động, những lính gác trung thành của vị Hoàng đế. Raoul sải bước lên phía trước, tay phải để lên ngực. Y quỳ một chân xuống trước mặt Hoàng đế. Raoul là người đứng đầu cánh quân sự của Long Đình, một vinh dự đã có từ thời của Vlad, Người Xuyên Qua, ông cố tổ của gia đình Sauvage. Tất cả đều cúi chào Hoàng đế. Một tước hiệu mà Raoul hy vọng một ngày nòa đó y sẽ giành được. “Đứng dậy” Vị Hoàng đế ra lệnh. Raoul đứng lên. “Người Mỹ đã đến rồi” Hoàng đế nói. Giọng của ông ta dù nói qua mũ bảo hiểm vẫn đầy mệnh lệnh. “Các người đã sẵn sàng chưa?” “Rồi, thưa ngài. Tôi đã tuyển mộ được một tá rồi. Chúng tôi chỉ chờ lệnh của ngài”. “Tốt lắm. Đồng minh của chúng ta cho mượn một nhân vật có thể hỗ trợ phi vụ này. Một người biết về các nhân viên tình báo Mỹ”. Raoul nhăn mặt. Y không cần sự trợ giúp nào. “Nhà ngươi có vấn đề gì không?” “Không, thưa ngài”. “Một chiếc máy bay sẽ chờ ngươi và đồng bọn tại sân bay Yverdon. Hãy nhớ là không có lần thứ hai nữa đâu nếu thất bại”. “Tôi sẽ không thất bại”. Y khẳng định. Hoàng đế nhìn chằm chặp vào y, một cái nhìn lạnh thấy đến ghê người dù qua mặt kính chiếc mũ đã hạ xuống. “Nhà ngươi biết nhiệm vụ của mình rồi chứ?” Cái gật đầu cuối cùng. Hoàng đế rảo bước, đi ngang qua Raoul cùng những gã cận vệ tháp tùng. Ông ta hướng tới lâu đài, sẽ ngự tại đây cho đến khi trò chơi chấm dứt. Nhưng trước tiên, Raoul phải kết thúc việc dọn dẹp mớ bòng bong y đã để lại. Điều đó có nghĩa là một chuyến đi nữa tới Đức. Y chờ đến lúc Hoàng đế bước đi. Con Drakko cum cúp đi phía sau những người kia như thể nó đánh hơi được quyền lực thực sự ở đây. Thế là một lần nữa, nhà lãnh đạo lại đến lâu đài trong vòng mười năm qua khi những chìa khóa cho sự nguyền rủa và cứu rỗi đã rơi vào lòng họ. Tất cả bắt nguồn từ một sự phát hiện tình cờ ở bảo tàng Cairo… Giờ thì chúng đã đến rất gần. Cuối cùng sau khi vị chỉ huy đi ra rồi, Raoul mới đối mặt với người lạ. Những gì nhìn được, y thấy thiếu, mặc cho sự bực bội của mình bộc lộ. Nhưng ít ra bộ quần áo của người lạ tất cả màu đen, rất vừa khít. Giống như một phần thưởng bằng bạc. Từ sợi dây chuyền của người phụ nữ là một con rồng cuộn tròn. Chương 5 Điên cuồng Ngày 25 tháng 7, 2 giờ 14 phút sáng. Cologne, Đức. Đối với Gray, vào nhà thờ ban đêm luôn có vẻ như bị ma ám. Ở ngôi nhà của Chúa này có lẽ không có nơi nào hơn. Từ sau vụ thảm sát vừa rồi, nhà thờ Cologne với cấu trúc Gô- tích lại càng toát ra vẻ thê lương. Khi nhóm của anh đi qua quảng trường, Gray đã nhìn kỹ cái nhà thờ ở Cologne này, hay như dân địa phương vẫn gọi là Dom. Nhà thờ được những ngọn đèn pha chiếu sáng từ bên ngoài, lấp lánh giữa ánh sáng bạc và bóng tối. Nằm trọn bên mặt phía tây của nhà thờ là hai cái tháp khổng lồ. Cái tháp sinh đôi này cùng một độ cao, càng lên cao càng nhỏ lại, ở mỗi bên tháp có các cửa sổ lớn chỉ cách nhau vài mét. Trên tận đỉnh là những hình chữ thập trông ở dưới lên nhỏ xíu. Một tầng của cấu trúc cao năm trăm feet này đều được trang trí bằng các bức phù điêu. Các cửa sổ còm cong trèo lên tẩn đỉnh tháp, tất cả đều hướng lên bầu trời đêm và mặt trăng tít ở trên cao. “Trông giống như họ chiếu sáng cho chúng ta.” Monk nói, kinh ngạc trước cảnh nhà thờ được thắp đèn sáng trưng. Anh ta xiết ba lô chặt vào vai hơn nữa. Cả ba người đều mặc quần áo dân sự màu sẫm, nhằm tránh không ai để ý. Nhưng bên trong, mỗi người họ đều mặc loại áo giáp chống đạn bằng tinh thể lỏng. Những chiếc ba- lô của họ đều màu đen, nhãn hiệu Arcteryx được nhét đầy dụng cụ nghề kể cả vũ khí được một nhân viên CIA chuyền cho tại sân bay: Súng lục M-27 với loại đạn 40 ly trang bị ống ngắm ban đêm. Monk còn mang thêm khẩu súng ngắn loại Scattergun cột vào đùi bên trái trong chiếc áo khoác dài. Vũ khí họ mang theo đã được tính toán như thông lệ cho những phi vụ đặc biệt, trong đó có cả loại đặc biệt có ông kính ngắm chính xác chuyên dùng vào ban đêm. Kat lại thích tloại không cần công nghệ cao. Cô mang theo tám con dao giấu trong người. Bất cứ lúc nào một lưỡi dao cũng có thể xuất hiện trong tay dù cho cô ở vị trí nào. Gray kiểm tra lại chiếc đồng hồ thợ lặn Breitling của mình. Kim đồng hồ chỉ 2 giờ 15 phút. Họ đến đúng giờ. Họ vượt qua quảng truờng. Gray nhìn một lượt xem trong góc tối có gì khả nghi không. Tất cả có vẻ yên ắng. Vào lúc khuya khoắt như thế này trong tuần, khu vực quảng trường gần như vắng tanh. Chỉ có một vài kẻ lang thang. Bọn họ đều say sỉn sau khi bước ra từ các quán bar, loạng choạng đi trên hè phố. Nhưng cũng có dấu vết của các cuộc tụ tập trước đó. Những bó hoa của những người đến viếng nằm lăn lóc ở góc quảng trường cùng với những vỏ lon bia. Đây đó còn sót lại các mẩu nến chưa cháy hết sau buổi lễ tưởng niệm những người vừa chết, còn có cả những tấm hình của nạn nhân. Một vài dây nến vẫn cháy, lửa lập loè trong đêm, đơn độc và buồn thảm. Một buổi lễ thắp nến được tổ chức ở một nhà thờ kế bên cùng với lễ tưởng niệm cả đêm, có cả phần truyền dẫn trực tiếp lời cầu nguyện của Giáo hoàng. Tất cả đã kết hợp lại làm cho quảng trường vắng không một bóng người đêm nay. Mặc dù vậy, Gray và đồng đội vẫn cảnh giác nghe ngóng mọi động tĩnh xung quanh. Họ không muốn mạo hiểm. Đỗ trước cửa nhà thờ là một chiếc xe thùng có dán lô-gô cảnh sát thành phố ở hai bên. Chiếc xe được sử dụng như chỉ huy sở của các nhóm điều tra. Ngay sau khi vừa xuống sân bay, Gray đã được Logan Gregory, chỉ huy hành quân và là nhân vật số hai của Sigma, thông báo rằng tất cả các nhóm điều tra địa phuơng vào lúc nửa đêm đã bị điều ra ngoài nhưng họ sẽ trở lại vào sáng hôm sau, lúc 6 giờ. Từ giờ đén lúc đó sẽ chỉ có bọn họ trong nhà thờ. Nhưng, thực ra không phải chỉ có bọn họ. Một trong những chiếc cửa ngách của nhà thờ được mở ra khi họ tới gần. Một bóng người cao, gầy đứng trước nền ánh sáng hắt ra từ bên trong nhà thờ. Một cánh tay giơ lên. “Ngài Verona”. Kat khẽ thì thầm, khẳng định đúng ông ta. Vị linh mục đi qua hàng rào do cảnh sát dựng quanh nhà thờ. Ông nói với một trong hai lính gác, đứng ở đó để chắn mọi con mắt tò mò vào nơi xảy ra vụ án mạng, rồi ra hiệu ba người đi vào. Họ theo ông vào bên trong. “Đại uý Bryant,” ông khẽ nói với nụ cười đôn hậu. “Mặc dù hoàn cảnh thật khủng khiếp nhưung tôi rất vui được gặp lại cô”. “Cảm ơn, giáo sư”. Kat đáp lại với nụ cười thân thiện. Vẻ mặt cô dịu lại trước tình bạn thật sự. “Hãy gọi tôi là Vigor”. Họ bước vào gian tiền sảnh nhà thờ. Ông khép cửa, khoá lại rồi nhìn chăm chú hai đồng đội của Kat. Gray cảm thấy sức nặng của cái nhìn. Người đàn ông này cũng cao gần bằng anh nhưng tầm thước hơn. Mái tóc muối tiêu của ông trải ngược phía sau, hơi cuộn sóng. Ông mặc một chiếc áo khoác cắt rất mốt, bên trong là chiếc quần gin xanh thẫm và áo sơ mi cổ khoét hình chữ V, kiểu của cá linh mục Vatican. Tuy nhiên, chính cái nhìn chằm chặp của ông khiến Gray để ý. Mặc dù điệu bộ vồn vã nhưng ở con người này vẫn có cái gì đó thật lạnh lùng. Ngay cả Monk cũng phải nhô đôi vai lên trước cái nhìn của linh mục. “Vào trong đi” Vigor nói “Chúng ta phải bắt đầu ngay lập tức”. Ông dẫn mọi người đến gian thờ, mở cánh cửa đang khép lại rồi vẫy họ vào bên trong. Bước vào chính giữa gian thờ, Gray ngay lập tức để ý hai thứ. Đầu tiên là mùi vị. Dù nồng nặc hương trầm nhưng vẫn cảm nhận được thoang thoảng mùi khét của thứ gì đó bị đốt cháy. Đấy cũng chưa phải là tất cả những gì thu hút sự chú ý của anh. Một phụ nữ đứng dậy từ chỗ hàng ghế cầu nguyện để chào họ. Cô trông giống như Audrey Hepburn hồi còn trẻ: da trắng như tuyết, mái tóc nâu sẫm xòa ra hai bên được cài sau vành tai, đôi mắt màu caramen. Cô không cười. Cặp mắt cô nhìn cả nhóm một lượt, dừng lại lâu hơn ở chỗ Gray. Anh nhận ra nét hao hao giống nhau giữa hai người, chủ yếu ở cách nhìn chăm chú của cô hơn là khuôn mặt. “Cháu gái tôi” Vogor giới thiệu “Trung úy Rachel Verona”. Họ xong phần giới thiệu rất nhanh. Dù cho không có sự phân cách nào bên ngoài nhưng hai nhóm vẫn tiếp tục tách biệt. Rachel vẫn giữ một khoảng cách, thậm chí cứ như sẵn sàng sử dụng khẩu 9 ly của cô nếu cần thiết. Gray cũng để ý bao súng lục của cô bên trong áo vét. Khẩu Berretta 9 ly. “Chúng ta cần bắt đầu ngay” Vigor nói. “Vatican đã tạo điều kiện cho chúng ta đôi chút riêng tư, thời gian riêng để cầu nguyện tại giáo đường sau khi những xác chết cuối cùng được mang đi”. Ông dẫn họ đến chỗ lối đi giữa. Gray chú ý những chỗ được đánh dấu bằng băng dính trên các hàng ghế. Mỗi mẩu giấy nhỏ xíu được đính vào, ghi lên đó tên của người chết. Anh bước quanh những đường vạch bằng phấn trắng trên sàn nhà thờ. Máu tuy đã được lau sạch nhưng vẫn còn những vệt sẫm trên nền đá của nhà thờ. Những mẩu nhựa màu vàng đánh dấu vị trí vỏ đạn đã được những chuyên gia tội phạm nhặt đi rồi. Anh nhìn ngang qua giáo đường, phân vân không hiểu trông nó như thế nào nếu bước chân vào lần đầu tiên. Những xác chết nằm ngổn ngang khắp nơi, mùi máu cháy nồng nặc. Anh cũng gần như cảm nhận được tiếng vọng của nỗi đau còn lưu giữ trong nền đá hay trên vòm mái. Cảm nhận đó làm anh thấy ớn lạnh. Dù gì anh cũng là một người theo đạo Cơ đốc. Thật đau lòng khi thấy vụ thảm sát đã vượt qua ngưỡng bạo lực thông thường. Đấy là điều báng bổ đối với Chúa. Lũ quỷ Satan. Liệu có phải đó là một phần động cơ không? Biến một buổi lễ thành một vụ thảm sát đen tối. Câu nói của linh mục thu hút sự chú ý của anh “Kia là nơi tìm thấy cậu bé đang lẩn trốn”. Ông chỉ vào phòng xưng tội sát bức tường phía bắc, nằm giữa giáo đường dài hút. Jason Pendlenton, người sống sót duy nhất. Phần nào Gray cũng cảm thấy hài lòng vì không phải mọi người đều bị giết hết trong cái đêm đẫm máu đó. Bọn gây tội ác đã mắc một sai lầm. Chúng đều có thể sai lầm. Con người mà. Anh tập trung vào suy nghĩ ấy. Mặc dù hành động của chúng là của quỷ dữ nhưng bàn tay gây tội ác là của con người như những điều khác. Vậy chúng là quỷ dữ dưới hình dạng con người. Nhưng con người đều có thể bị bắt và trừng phạt. Họ đã tới gian thờ riêng được xây cao hơn xung quanh trên đó có ban thờ bằng đá cẩm thạch và cái ghế cao của vị giám mục. Vigor và cô cháu làm dấu thánh giá. Vigor quỳ một chân làm lễ rồi đứng dậy. Ông dẫn họ đi qua một cái chắn ngang. Phía sau cái chắn, ban thờ cũng được đánh dấu bằng phấn, mắt đá cẩm thạch bị hoen ố. Cảnh sát đã ngăn chỗ này lại. Lật nghiêng một bên trên sàn, làm vỡ cả chỗ đá lát nền là cái hòm đựng quan tài bằng vàng. Mặt trên của nó tựa vào hai bậc đá. Gray tháo balô ra rồi ngồi xuống. Cái quan tài được làm bằng vàng trông như một nhà thờ thu nhỏ, với những cửa sổ vòm cong và cảnh sắc khắc trạm bằng vàng và đá quý các loại mô tả cuộc đời của đức chúa Jesu từ khi ban thưởng cho các vị Tiên tri đến khi bị đóng đinh câu rút. Gray đeo đôi găng tay cao su. “Có phải di cốt đã được táng ở đây không?” Vigor gật đầu. “Từ thế kỷ thứ XIII” Kat đén cạnh anh, “Tôi tháy họ đã lấy dấu vân tay rồi, “Cô chỉ vào chỗ bột màu trắng còn sót lại ở một số nét khắc chạm. “Không tìm thấy dấu vân tay nào.” Rachel nói. Monk nhìn quanh nhà thờ. “Cũng không có gì nữa bị lấy đi?’ “Nười ta đã tiến hành kiểm kê toàn bộ,” Rachel tiếp tục. “Họ đã có dịp phỏng vấn tất cả nhân viên, kể cả các linh mục.” “Tôi muốn gặp nói chuyện với họ.” Gray khẽ nói, vẫn quan sát cái hộp. “Họ ở phía bên kia sân.” Rachel đáp, giọng như rắn lại. “Chả ai nghe hoặc nhìn thấy gì cả. Nhưng nếu anh muốn mất thời gian của mình, xin cứ việc.” Gray ngước nhìn cô. “Tôi chỉ nói có thể tôi muốn nói chuyện với họ”. Cô nhìn lại không chớp mắt. “Tôi cảm thấy vụ này là một sự phối hợp chung. Nếu như chúng ta kiểm tra lại công việc của nhau mỗi bước đi, e rằng sẽ không đi đến đâu cả.” Gray hít một hơi dài. Mới vào cuộc được một phút, anh đã giẫm vào ngón chân người khác. Lẽ ra mình phải đọc được sự hiếu thắng của cô ta từ trước và bước đi thận trọng hơn. Vigor đặt tay lên vai cô cháu gái. “Tôi đoán chắc với anh rằng cuộc thẩm vấn rất triệt để. Trong các đồng nghiệp của tôi, những câu nói thô lỗ luôn thái quá so với ý thức tốt, tôi sợ anh có thể phải hứng thêm điều gì đó không hay nhất là khi họ bị thẩm vấn bởi một ai đó không mặc áo linh mục”. Monk nói: “Thôi được rồi. Nhưng liệu mọi người có muốn nghe tôi nói không nào?” Mọi cặp mắt đều đổ dồn về anh ta. Anh ta cười ranh ma. “Tôi tin là mình đang hỏi xem còn có cái gì nữa bị lấy đi không?” Rachel nhìn anh chàng không khoan nhượng. “Như tôi đã nói, không có…” “Vâng, cảm ơn trung uý. Nhưng tôi tò mò muốn biết liệu còn có những di vật khác được giữ ở nhà thờ này. Một vật nào đó bọn ăn cắp không đem đi.” Rachel chau mày, bối rối. “Tôi đồ rằng,” Monk giải thích, “rằng những gì bọn ăn cắp không đem đi không được thông tin như những gì chúng đã lấy.” Anh ta nhún vai. Mặt cô bỗng hơi dãn ra khi nghe điều đó. Sự cáu giận biến mất. Gray thầm nghĩ sao Monk lại làm vậy. Linh mục trả lời Monk. “Ở đây có một gian đựng đồ quý. Nó chứa những thứ giá trị từ thời nhà thoằ Rô- măng, từ cây thánh giá của Thánh Peter. Cùng với vài mẫu thánh giá của đức chúa Jesu. Cũng có những thứ của một vị giám mục Gô- tích vào thế kỷ XIV và một thanh kiếm khảm ngọc của Elector từ thế kỷ XV.” “Và không có gì bị lấy đi từ gian chứa đồ đó?” “Tất cả đều được kiểm kê.” Rachel trả lời. Mắt cô vẫn tập trung. “Không có gì nữa bị lấy cắp”. Kat ngồi xuống cùng với Gray nhưung mắt cô vẫn nhìn nhóm người đang đứng. “Vậy chỉ có chỗ di cốt bị lấy trộm đi. Tại sao?” Gray hướng sự chú ý của mình vào cái quan trài đang mở. Anh lấy ra một cái bút soi rồi kiểm tra bên trong. Không có đường chạm vạch, chỉ là bề mặt bằng vàng nhẵn nhụi. Anh nhận thấy có một chút bột trắng rớt xuống bên dưới. Bột? Tro hài cốt? Chỉ có một cách để tìm ra. Anh quay lại ba-lô, lấy ra bộ đồ thu thập chứng cứ. Anh bật một cái máy hút nhỏ xíu chạy bằng pin để hút chất bột đó vào một ống nghiệm vô trùng. “Anh đang làm gì vậy?” Rachel hỏi. “Nếu đây là bột từ chỗ di cốt, có thể trả lời được vài câu hỏi.” “Ví dụ như?” Anh ngồi xuống kiểm tra ống nghiệm. Có tới hơn một gam chất bột màu xám. “Chúgn ta có thể thử xem thứ bột đó có đúng là di cốt đã có từ lâu không. Sẽ biết liệu thứ di cốt bị đánh cắp có phải thuộc về người đã sống từ thời đức chúa Jesu. Hoặc không phải. Biết đâu tội ác này được thực hiện nhằm thu hồi di cốt của ai đó trong Long Đình. Một vị lãnh chúa già hoặc hoàng tử nào đấy” Anh niêm phong ống nghiệm rồi cất đi. “Tôi ũng muốn lấy ít mẫu nắp hộp thuỷ tinh bị đập vỡ trong cái vỏ đựng an toàn bên ngoài quan tài. Có thể sẽ cho biết tại sao thiết bị đó lại đập vỡ được thuỷ tinh chống đạn bắn xuyên. Các phòng thí nghiệm của chúng tôi có thể kiểm tra các thứ này để tìm ra phương thức đập”. “Tôi sẽ làm điều đó.” Monk nói và tháo cái balô ra. “Thế còn đá?” Rachel hỏi. “Hoặc các vật liệu khác bên trong nhà thờ?” “Cô định nói gì?” Gray hỏi. “Thứ gì đấy đã gây ra những cái chết cho nhưũng người đi lễ có thể đã tác động đến đá, cẩm thạch và nhựa. Cái mà mắt thường không nhìn thấy.” Gray đã không lưu ý điều này. Lẽ ra anh phải làm chuyện đó. Monk nhìn anh rồi nháy mắt. Nữ trung uý cảnh sát đang chứng tở mình không chỉ là một cô gái đẹp. Gray quay lại Kat để tổ chức phương án thu thập. Nhưng xem ra cô còn đang bận tính toán điều gì. Từ nãy Gray đã để ý cô có vẻ rất quan tâm đến cái quan tài bằng vàng, tất cả hình như vẫn trong đầu cô. Giờ thì cô ngồi xổm trên nền đá cẩm thạch của nhà thờ, gập người xuống vật gì đó. “Kat?” Cô giơ một tay lên. “Chờ một chút.” Tay kia cầm cái đèn pin nhỏ như khẩu súng. Cô bóp cò, một ngọn lửa nhỏ màu xanh phụt ra. Cô gí ngọn lửa vào một đám bột, rõ ràng vừa được quét ra từ chiếc hộp bằng một bàn chải nhỏ xinh xinh. Sau vài giây, thứ bột màu xám tan ra, sủi bong bóng và chảy thành một chất lỏng màu hổ phách. Nó lan ra trên nền đá cẩm thạch rồi đông cứng lại thành thuỷ tinh. Một lớp mỏng trên sàn đá cẩm thạch màu trắng nhìn rất rõ. “Vàng.” Monk nói. Tất cả mọi con mắt đều đổ dồn vào thí nghiệm. Kat ngồi xệp xuống, tắt ngọn lửa. “Chất bột trong quan tài, nó cũng chính là thứ trong bánh xốp bị tẩm độc. Nguyên tử đơn hoặc vàng ở trạng thái-m.” “Đó là vàng?” Rachel hỏi. “Giống như một thứ kim loại quý?” Sigma đã cung cấp cho Vatican thông tin về bánh thánh bị đầu độc để sau này việc sản xuất và cung cấp có thể được kiểm tra chặt chẽ. Cả hai nhân viên đã được thông báo, nhưng rõ ràng họ vẫn nghi ngờ. “Liệu cô có chắc không?” Rachel hỏi. Kat đang bận rộn chứng minh điều giả thuyết của mình. Cô đang thu thập mọi thứ cho vào một vật bằng thuỷ tinh. Gray biết được tính năng của cái lọ đó. Tất cả đều do các phòng thí nghiệm của Sigma cung cấp để thực hiện phi vụ này. Đã bao năm rồi, những người thợ mỏ đã sử dụng thứ này để phát hiện xem vàng có lẫn trong đất đá hay không. Sau một hồi, thuỷ tinh co lại như bị đốt bằng a-xít rồi dần lộ ra vết tích của vàng nguyên chất, một vệt trong chiếc lọ thuỷ tinh. Không còn nghi ngờ gì nữa. Ngài Verona trố mắt nhìn không chớp, một tay vẫn cầm cái cổ áo linh mục của mình. Ông lẩm bẩm. “Và những đường phố Jerusalem sẽ được lát bằng vàng thật tinh khiết như thuỷ tinh trong suốt.” Gray liếc nhìn vị linh mục bực bội. Vigor lắc đầu. “Đó là trích dẫn từ một cuốn sách...đừng trách tôi” Nhưng anh đã thấy cách ông ta thu vào tận trong rồi quay đi và tiếp tục nghĩ ngợi. Liệu ông ta có biết nhiều hơn không? Gray cảm giác có lẽ vị linh mục cũng chả biết nhiều lắm mà anh cũng cần có thời gian để tập trung suy nghĩ. Kat ngắt lời. Cô vẫn cúi gập người xem mẫu qua chiếc kính lúp khuếch đại và đèn soi cực tím. “Tôi cho rằng ở đây còn có thứ ngoài vàng nữa. Tôi đã thấy những vạch li ti của chất bạc trong chỗ vàng.” Gray dịch đến gần hơn. Kat nhường cho anh nhìn qua ống kính thí nghiệm, lấy tay che cái lọ thuỷ tinh để có thể hấp thụ tia cực tím tốt hơn. Đúng là có những hạt lấm tấm màu bạc trong đương vạch vàng kim loại. “Có thể là platinum,” Kat nói, “Nên nhớ rằng trạng thái đơn nguyên tử không chỉ xảy ra với vàng mà còn đối với bất kỳ kim loại có khả năng truyền dẫn nào trong bảng tuần hoàn, bao gồm cả platinum.” Gray gật đầu. “Thứ bột này không chỉ là vàng nguyên chất mà còn là một hỗn hợp của vài loại platinum. Hỗn hợp nhiều kim loại ở trạng thái-m.” Rachel tiếp tục nhìn chăm chú vào cốc thí nghiệm. “Liệu có phải thứ bột này bị rơi ra từ cái vỏ hộp đựng quan tài? Vàng có bị phân rã theo năm tháng hay một thứ gì đó không?” Gray lắc đầu. “Quá trình chuyển hoá từ vàng kim loại sang trạng thái –m rất phức tạp. Năm tháng không thôi không thể làm được điều này.” “Nhưng trung uý có thể đã đề cập tới điều gì đó. “Kat đáp lại. “Có thể thiết bị ấy tác động vào vàng trong hòm làm cho một số vàng nào đó bị tan chảy ra. Chúng ta vẫn chưa hiểu thiết bị tác động ra sao?” “Có thể tôi có một dấu vết.” Monk ngắt lời cô. Anh ta đang đứng cạnh cái hộp bị đập vỡ nơi anh đang cố thu thập những mảnh vỡ. Anh bước tới một cây thánh giá bằng sắt sần sùi không xa cái hộp. “Có vẻ như trong số các chuyên gia điều tra tội phạm đã bỏ qua một quả đại bác.” Monk nói. Anh cúi xuống nhặt lên một cái vỏ rỗng dưới chân tượng đức chúa Jesu bị đóng đinh. Anh lui một bước, đặt cái vỏ rỗng về phía cây thánh giá rồi bỏ tay ra. Nó rơi quá sáu feet không khí rồi bùm một cái dính chặt vào cây thánh giá. “Nó có nam châm.” Monk nói. Một tiếng nổ nữa vang lên. To hơn. Sắc nhọn. Cây thánh giá bị quần đi một nửa. Trong nửa giây, Gray không hiểu có chuyện gì xảy ra. Monk cúi xuống ban thờ. “Nằm xuống.” Anh thét lên. Những phát súng khác nổ. Gray cảm thấy như vai mình bị ai đánh, làm anh bật ngửa ra, nhưng cái áo giáp chống đạn bằng chất lỏng đã cứu anh khỏi bị thương. Rachel nắm lấy tay anh kéo vào hàng ghế. Những viên đạn bắn vào ghế làm tung các mẩu gỗ rơi xuống nền đá cẩm thạch. Kat chúi xuống cùng với vị linh mục, lấy thân mình che cho ông ta. Cô nhận một phát đạn vào đùi, chân gập khuỵu xuống nhưng cả hai đều ngã xuống sau ban thờ cùng với Monk. Gray chỉ kịp nhìn thoáng những kẻ tấn công họ. Những kẻ mặc áo choàng tu sĩ che mặt. Một tiếng giật khẽ. Gray liếc nhìn thấy một vật tròn như nắm tay được tung ra phía khoảng rộng của nhà thờ. “Lựu đạn”. Anh hét lên. Anh giật lấy cái ba-lô rồi đẩy Rachel chúi xuống dưới hàng ghế. Họ khom người chạy ra phía bức tường phía nam. * ** 3 giờ 20 phút Monk chỉ kịp phản ứng khi nghe Gray hét lên. Anh nắm lấy tay Kat và linh mục rồi nằm rạp xuống phía sau ban thờ đá. Quả lựu đạn trúng vào phía bên kia rồi nổ, nghe như trái đạn cối. Một trận mưa những mảnh đá cẩm thạch tung lên cao rồi rơi rào rào xuống những hàng ghế của người đi lễ. Khói toả ra bốc lên cao. Tai như bị điếc sau tiếng nổ, Monk chỉ biết kéo Kat và Vigor đứng dậy. “Theo tôi”. Nếu còn nằm ở đây trong khoảng trống này có nghĩa là chờ cái chết. Ném một quả lựu đạn vào phía sau ban thờ thật dễ như trở bàn tay. Họ cần tìm một vị trí có thể tự vệ được. Monk lao ra phía trước tới bức tường phía bắc. Phía sau anh, tiếng súng vẫn nổ chát chúa. Gray vọt đến bức tường đối diện. Cũng tốt. Một khi vào vị trí, họ có thể tạo ra bắn chéo cánh sẻ vào khoảng giữa nhà thờ. Thoát khỏi ban thờ, Monk chạy dọc ngang quanh khu cấm. Anh hướng tới chỗ nấp đầu tiên, nhìn thấy một cánh cửa gỗ to. Những kẻ tấn công cuối cùng cũng phát hiện việc họ đã thoát. Đạn bắn xối xả dọc theo nền đá cẩm thạch, lúc thì đan nhau thành hàng rồi bắn tung vào các hàng ghế. Đạn bắn từ bốn phía. Những kẻ sát nhân đã chiếm được vị trí sâu hơn bên trong nhà thờ, chúng đi vào từ các cửa, bao bọc họ. Họ cần có yển trợ. Monk giật khẩu súng giắt sau lưng. Khẩu súng lục nòng tù. Giương súng lên, anh bóp cò thật mạnh. Cùng với tiếng nổ chát chúa, anh nghe tiếng ngã bịch từ hàng ghế gần đó. Với khẩu súng Scattergun, sự chính xác không thật cần thiết lắm. Nắm chặt báng súng anh lại ngắm tới tay nắm cửa. Thực ra hy vọng tìm được lối thoát ra bên ngoài thật mong manh, nhưng ít nhất cũng cần phải dọn quang khu vực giữa. Cách đó vài bước, anh bóp cò khi nghe tiếng phản đối yếu ớt từ ngài Verona. Không còn thời gian để tranh cãi nữa. Phát súng tạo ra một lỗ thủng to bằng nắm tay trên cánh cửa. Nó mở toang sau khi chạm vào vai anh. Anh ngã vào trong, theo sau là Kat và linh mục. Kat quay lại, khập khiễng rồi đẩy cửa lại. “Không.” Linh mục nói. Monk giờ đây hiểu lý do tại sao ông phản đối. Căn phòng chỉ rộng cỡ cái gara nhỏ đủ chứa một chiếc xe. Anh trố mắt nhìn vào những chiếc hộp lớn bằng thuỷ tinh lèn chặt áo choàng cũ, phù hiệu, tượng… Có ánh lấp lánh vàng từ một vài cái hòm. Nơi đây chính là gian phòng đựng báu vật của nhà thờ. Không có lối thoát. Bị kẹt rồi. Kat ngồi dậy, chiếm vị trí, tay cầm khẩu súng tự động chọc qua cái lỗ vừa bị phá. “Chúng đã đến rồi”. * ** 3 giờ 22 phút Rachel tiến đến cuối hàng ghế, thở không ra hơi, tim đập thình thịch. Những phát súng tiếp tục hướng vào vị trí của họ, đến từ mọi phía, làm những mảnh gỗ nhỏ bắn tung toé. Đầu cô vẫn ong ong sau tiếng nổ của trái lựu đạn lúc nãy, nhưng tai cô đã nghe lại được bình thường. Chắc chắn những linh mục và nhân viên ở khu nhà bên kia đã nghe thấy tiếng nổ và báo cảnh sát tới. Tiếng súng nổ như chậm lại một chút khi những kẻ mặc áo choàng chỉnh lại vị trí, hướng về lối đi ở giữa. “Hãy chạy về bức tường kia.” Gray giục cô, “Nấp vào cột, tôi sẽ yểm trợ cho cô”. Rachel phát hiện một chỗ có những con trăn bằng đá lớn dùng để đỡ mái vòm. Nấp ở đây có lẽ tốt hơn ở dưới những cái ghế. Cô quay lại nhìn anh chàng người Mỹ. “Theo tín hiệu của tôi.” Anh nói, co chân lại. Cặp mắt họ gặp nhau. Cô thấy một thoáng sợ hãi nhưng nhiều hơn vẫn là vẻ tập trung kiên quyết. Anh gật đầu nhìn cô, nhô người ra rồi hét. “Chạy”. Rachel vọt ra khỏi dãy ghế trong khi những phát súng nổ chát chúa phía sau át cả tiếng súng của bọn tấn công. Đó là từ khẩu súng của viên chỉ huy không có giảm thanh. Cô lướt trên nền đá cẩm thạch rồi lẩn ra sau phía ba chiếc cột. Cô thu chân lại rồi lập tức quay lại sau cái cột lớn nhất. Thận trọng nhìn ra ngoài, cô thấy viên chỉ huy Pierce giật lùi về phía cô, hai khẩu súng trong tay vẫn nhả đạn. Một kẻ mặc áo choàng ở cuối hàng ghế ngã ngửa ra sau, trúng đạn. Một tên khác ở lối vào giữa hét lên đỡ lấy cổ hắn khi những tia máu vọt ra. Những tên khác phải chúi người xuống tránh đòn tấn công của anh chàng Mỹ. Bên trong nhà thờ, Rachel phát hiện có tới năm, sáu tên đang bò lổm ngổm trên sàn nhà thờ, bắn liên tục vào gian phòng đựng báu vật. Rồi cô cũng thấy chỉ huy Pierce tới đựoc chỗ mình, thở hổn hển. Quay lại nhìn sang phía bên kia cột dọc theo bức tường, Rachel thấy đến giờ vẫn chưa có kẻ nào bao vây đường này cả. Nhưng chắc chắn, chúng sẽ tới rất nhanh, cô giả định. “Bây giờ làm gì đây?” Cô hỏi, rút khẩu súng lục từ bao trên vai, khẩu Beretta anh cảnh sát đưa cho cô từ lúc ở Rome. “Hàng cột này chạy song song với bức tường. Chúng ta phải bám lấy, bắn tất cả những gì động đậy.” “Mục tiêu của chúng ta?” “Ra bằng được khỏi cái bẫy chết người này.” Rachel chau mày. Thế còn những người khác thì sao? Anh chàng người Mỹ hình như hiểu được sự băn khoăn của cô. “Chúng ta cố ra được ngoài đường rồi tìm cách kéo ra ngoài càng nhiều tên khốn kiếp càng tốt.” Cô gật đầu. Họ sẽ đóng vai trò nghi binh. “Chúng ta đi nào”. Những chiếc cột chạy dọc theo tường phía nam cứ cách hai mét lại có một cái. Họ lao rất nhanh, đầu cúi thấp, lợi dụng hàng ghế bên giáo đường như cái chắn bổ sung. Chỉ huy Pierce bắn phía bên trong khi Rachel làm nản lòng bất kỳ kẻ nào tiến vào từ lối đi giữa bức tường và hàng cột, nhắm vào bất cứ bón đen nào chuyển động. Chiến thuật đó tỏ ra hiệu quả. Nhiều tiếng súng hướng về phía họ. Nhưng cũng đặt họ vào nỗi hiểm nguy của một cuộc tấn công thứ hai bằng lựu đạn. Họ chỉ mới đi tới nửa đường và thật khó có thể nhảy từ cột này qua cột khác. Anh chàng Mỹ bị một phát vào lưng, ngã vật xuống sàn, Rachel hét lên nhưng anh lại ngồi dậy được. Rachel tiếp tục dịch xuống lối đi, sát vào bức tường hơn, chĩa súng phía trước rồi lại quay về sau. Do cô quá tập trung phía ngoài nên lại mắc đúng sai sót như những kẻ tấn công đêm hôm trước. Phía sau cô, căn phòng xưng tội mở tung. Trước khi kịp né tránh thì một cánh tay thò ra xiết chặt lấy cổ cô. Vũ khí của cô bị giật khỏi tay. Một nòng súng lạnh ngắt đã gí sát vào người. “Không được động đậy!” Một giọng trầm ra lệnh khi chỉ huy Pierce quay lại. Cánh tay của kẻ lạ mặt như chiếc thoàng lọng xiết chặt làm cô thấy ngạt thở. Gã cao quá, một kẻ khổng lồ nhấc cô lên cao.” Vứt vũ khí xuống”. Tiếng súng chấm dứt. Thế là rõ vì sao không có quả lựu đạn thứ hai được quẳng về phía họ Trong khi hai người nghĩ rằng mình đang thoát được thì những kẻ tấn công đã dồn họ vào bẫy. “Nếu là tôi thì sẽ làm như ông ta ra lệnh”. Một giọng nói mềm mại từ phòng con kế bên phòng xưng tội. Cánh cửa mở rồi người thứ hai bước vào, mặc toàn đồ da đen. Đó không phải là linh mục. Mảnh dẻ, lai u- Á. Cô ta nhấc súng lục, khẩu Sig Sauer. Chĩa thẳng vào mặt Gray. “Chúng ta đã gặp nhau rồi, phải không chỉ huy Pierce?” * ** 3 giờ 26 phút Chính cái cửa lại là vấn đề. Giờ đây khi ổ khóa bị vắn tung ra, mỗi viên bắn vào hình như đều xuyên qua cái lỗ đó. Và họ không dám giữ nó khép lại. Hầu hết các phát súng đều bắn nã vào cửa gỗ nhưng vài viên tìm được chỗ yếu xuyên thủng cánh cửa. Monk dùng một chân ghì chặt khung cửa, còn gót chân giữ lấy cánh cửa trong khi né gười sang một bên. Những viên đạn bắn trúng cánh cửa làm đầu gối anh rung lên bần bật. “Hãy giúp tôi nào.” Anh cầu cứu. Anh thò khẩu súng nhằm qua cái lỗ cửa bắn mò. Vỏ đạn trở lại đập vào một trong những chiếc hộp lớn đựng báu vật. Bên ngoài cánh cửa, những phát súng Scattergun liên tục làm cho bọn tấn công e ngại nên chỉ dám nằm bắn từ xa. Hình như chúng cũng biết những con mồi đã sa bẫy. Vậy chúng còn đợi gì nữa? Monk chờ một quả lựu đạn được ném qua cánh cửa vào bất cứ lúc nào. Anh cầu nguyện bức ngăn mong manh này có thể giúp mình sống sót. Nhưng giờ sẽ là cái gì đây? Rồi khi cánh cửa bị bung ra, họ chẳng còn cơ may nào nữa. Và việc ứng cứu cũng là vô vọng. Monk đã nghe thấy tiếng súng của Gray vang trong nhà thờ. Nghe như anh ta đang rút về phía cửa chính. Monk hiểu rằng chỉ huy đang thu hút hỏa lực của đối phương. Đó là lý do duy nhất vì sao họ vẫn sống sót. Nhưng giờ đây, tiếng súng của Gray đã im lặng. Họ phải đối mặt chính mình. Một loạt đạn nữa bắn vào cánh cửa, làm nát khung cửa, cái chân chắn cửa của Monk đau ê ẩm. Đùi anh bắt đầu run. “Mọi người, cố lên” Tiếng khóa loảng xoảng đập vào tai anh. Ngài Verona đang đánh vật với chùm chìa khóa người gác nhà thờ đưa cho. Ông cố mở bằng được cái hộp lớn thứ ba có khả năng chống đạn. Cuối cùng là tiếng thở phào nhẹ nhõm. Ông tìm thấy chìa khóa và nắp hộ bật tung giống như một cánh cửa. Kat với tay qua vai ông lấy ra một chiếc kiếm dài ở trong hộp. Chiếc kiếm từ thế kỷ XV được mạ vàng và đính hạt ngọc ở chuôi. Nhưng lưỡi kiếm dài tới ba feet, bằng thép sáng loáng. Cô giằng lấy thanh kiếm rồi đâm chiếc kiếm xuyên qua cánh cửa và khung, giữ chặt chúng lại. Monk kéo chân lại, lấy tay xoa cái đầu gối mỏi nhừ. “Đã đến lúc rồi.” Anh lại chĩa súng ngắn qua lỗ cửa rồi bóp cò- chủ yếu vì bực tức hơn là hy vọng có thể bắn trúng tên nào. Loạt đạn bất ngờ làm cho chúng phải lui lại. Monk mạo hiểm liếc ra ngoài. Một tên nằm vật ngửa trên lưng một nửa đầu bị bắn nát văng đi đâu mất, máu tóe khắp nơi. Một trong những phát súng anh bắn ra đã kiếm được mục tiêu. Nhưng giờ đây những kẻ tấn công thôi không bắn qua lỗ nữa. Một trái dứa màu đen nhẵn nhụi lăn qua hàng ghế hướng về cánh cửa chỗ họ trú. Monk nằm ẹp xuống sàn đá. “Hãy bắn qua cái lỗ đó!” Chương 5 (tt) 3 giờ 28 phút Tiếng nổ rung cả nhà thờ thu hút mọi cặp mắt trừ Gray. Anh chả có thể làm gì được cho những người khác. Một nụ cười hiểm ác thoáng trên gương mặt của gã đàn ông cao kều. “Hình như đồng đội của mày…” Rachel cựa quậy. Lợi dụng khi gã đang hể hả, nới lỏng tay với cô vì xem thường người phụ nữ mảnh dẻ này. Rachel ngửa đầu đập vào cằm hắn một cái thật mạnh để nghe hai hàm răng của gã đập vào nhau cộp một tiếng. Quay nhanh một vòng thật tốc độ, cô đá thật mạnh gót chân vào cánh tay gã rồi vung tay ra đưa cùi chở đánh mạnh vào hạ bộ của hắn. Gray vung khẩu súng về phía Long nương. Nhưng cô ả nhanh hơn, bước lên trước, gí khẩu súng vào đôi mắt anh, cách chưa đầy vài centimet. Bên kia, gã cao kều ngã khuỵu xuống. Rachel lấy chân gạt khẩu súng của y sang một bên. “Chạy đi!” Gray hét lên với cô, nhưng anh vẫn nhìn vào ả Long nương. Ả nhân viên hiệp hội nhìn anh- và rồi một việc thật kỳ quặc. Ả quay nòng súng về phía cửa rồi gật đầu ra hiệu. Ả để cho anh đi. Ả không bắn nhưng vẫn giữ khẩu súng hướng vào anh sẵn sàng nhả đạn nếu có hành động gì chống lại. Thay vì ngẫm nghĩ về sự không thể này, Gray xoay người lại rồi bắn thắng vào những tên linh mục ở đó, hạ gục hai tên đứng gần nhất. Chúng bị tiếng nổ của trái lựu đạn làm phân tâm và bất ngờ trước sự thay đổi ở đây. Gray nắm lấy tay Rachel rồi kéo cô ra phía cửa thoát. Một phát súng ngay sau lưng anh. Anh bị bắn vào cùi tay, vật người lại, trượt bước. Khẩu súng của Long nương có vệt khói. Cô ả đã bắt Gray khi cố vực gã cao kều đúng dậy. Máy chảy trên mặt ả. Một vết thương tự gây ra che giấy thân thế của ả. Cô ta đã cố tình bắn trượt. Rachel vực Gray đứng dậy rồi lao ra phía sau cái cột cuối cùng. Cánh cửa ra ngoài tiền sảnh đã nằm ngay phía trước. Không ai chắn đường họ cả. Gray mạo hiểm quay lại về phía tiếng súng nổ bên trong nhà thờ. Khói bốc lên từ cánh cửa nổ tung. Những kẻ tấn công vẫn bắn liên tục qua lối vào, để chắc chắn không cho ai có thể thoát được. Rồi một trong số chúng ném quả lựu đạn thứ hai ngay qua cánh cửa đã bị phá hủy. Những tên khác nằm chúi đầu xuống khi quả lựu đạn nổ. Khói và các mảnh vụn tung tóe khắp nơi. Gray quay đi. Rachel cũng chứng kiến vụ tấn công. Nước mắt trào ra trên đôi mắt cô. Anh thấy cô dựa vào anh, đôi chân như mềm đi. Có cái gì bên trong anh cũng đau đớn trước sự đau khổ của cô. Anh đã mất những người đồng đội trong quá khứ. Anh đã được đào tạo để khóc lúc sau đó. Nhưng cô đã mất gia đình. “Chạy tiếp đi”, anh nói kiên quyết. Đó là những gì anh có thể làm được. Anh phải đưa cô đến nơi an toàn. Cô liếc nhìn anh, hình như lấy lại sức mạnh từ vẻ mặt rắn rỏi của anh. Đó là điều cô cần. Không có sự thương xót. Sức mạnh. Anh đã thấy nó ở chiến trường trước đây, những người lính trong lửa đạn. Cô đứng thẳng dậy. Anh nắm cánh tay cô. Cô gật đầu. Sẵn sàng. Họ cùng nhau chạy, lao vọt qua cửa ngoài. Hai kẻ sát nhân đang đứng gác ở phía ngoài, cạnh ngay xác chết của hai nhân viên cảnh sát Đức. Những người lính gác chỗ rào chắn. Cặp linh mục này không làm ai ngạc nhiên. Một tên trong bọn chugns bắn ngay lập tức, làm Gray và Rachel phải dạt sang một bên. Họ không thể chạy ra cửa ngoài nhưng một chiếc cửa nữa nằm ngay ở phía trái họ. Không còn cách nào khác, họ khom người qua. Gã thứ hai giương súng lên. Một quả cầu lửa lao về phía họ. Gã có một khẩu súng phun lửa chết tiệt. Gray đóng sập cửa lại, nhưng ngọn lửa đã liếm xuống phía dưới. Gray lui lại. Không có khóa ở cửa. Anh liếc nhìn phía sau. Những bậc thang dẫn lên trên. “Cầu thang lên tháp.” Rachel nói. Thêm những phát súng nã vào cánh cửa. “Lên thôi”, anh nói. Anh đẩy Rachel đi trước anh rồi họ leo lên chiếc cầu thang cuốn. Đằng sau và ở phía dưới, cánh cứa bị đạp bật tung ra. Anh nghe một giọng quen thuộc hét lên bằng tiếng Đức. “Bắt bằng được bọn chúng! Thiêu sống chúng đi!” Đó là gã cao kều, kẻ cầm đầu bọn linh mục. Những tiếng bước chân vọng trên các bậc thang bằng đá. Do chiếc cầu thang xoáy chôn ốc nên không bên nào có thể dễ dàng nã đạn vào bên kia nhưng dù sao những kẻ truy đuổi vẫn có lợi thế hơn. Trong khi Gray và Rachel đang chạy, một ngọn núi lửa đuổi theo họ, liếm xung quanh đoạn ngoặt của cầu thang. Lượn vòng rồi lại lượn vòng, cứ thế họ chạy. Các bậc thang ngày càng hẹp dần khi họ leo tới cái cổ chai của tháp. Những cánh cửa sổ cao nhem nhuốc nằm trên lối đi nhưng quá mỏng manh để trèo lên. Cuối cùng thì cầu thang cũng dẫn đến ngọn tháp. Một cái chuông lớn đung đưa trên tháp chuông. Quanh quả chuông lớn là một bao lơn. Ở đây ít ra các cửa sổ cũng đủ rộng để trèo qua nhưng những chấn song lại rất hẹp. Một cái chòi quan sát. Không còn đường nào nữa. Quang cảnh thành phố hiện ra trước mắt anh: dòng sông Ranh lấp lánh dưới ánh đèn; cây cầu Hohenzollen bắc ngang qua, bảo tàng Ludwig được chiếu sáng thật lộng lẫy, cũng giống như những cánh buồm màu xanh lơ trên Nhạc viện Cologne. Nhưng không có cách nào có thể thoát xuống dãy phố phía dưới. Từ xa đã có thể nghe thâý tiếng còi báo động vẳng tới, rền rĩ, xa xôi và buồn tẻ. Gray giương mắt lên nhìn, tính toán. Một tiếng thét từ Rachel. Gray quay lại, thấy một ngọn lửa đang bùng lên như ngoạm lấy chỗ cầu thang dẫn đến tháp chuông. Rachel lui lại, chạm vào anh. Họ đã không còn thời gian. * ** 3 giờ 34 phút Phía dưới, bên trong nhà thờ, Yaeger Grell bước vào căn phòng bị tàn phá, súng trong tay. Hắn đợi đến lúc khói từ quả lựu đạn thứ hai tan đi hết. Hai đồng bọn của hắn đã nhập với những tên khác để tạo ra những trái bom lửa cuối cùng gần lối vào nhà thờ. Hắn cũng muốn nhập với tụi đó nhưng lúc này hắn muốn nhìn tận mắt sự tàn phá đối với những kẻ đã giết Renard, đồng chí của hắn. Hắn bước qua, chuẩn bị cho việc tiếp cận với máu tươi và những cái bụng bị vỡ toang. Phần còn lại của cánh cửa làm cho việc tròe qua rất đáng ngại. Hắn giơ khẩu súng ra phía trước. Khi hắn đến bước thứ hai, có cái gì đó đập mạnh vào tay hắn. Hắn lui lại một bước, giật mình không hiểu có chuyện gì xảy ra. Nhìn xuống đã thấy cổ tay hắn đứt rời, máu vọt ra. Không đau đớn gì cả. Hắn đứng lên đúng lúc để thấy một lưỡi kiếm - cái kiếm - vung lên trên không trung. Nó chạm đến cổ hắn trước khi vẻ ngạc nhiên biến mất trên khuôn mặt. Hắn không còn cảm thấy gì nữa khi người đổ xuống trước còn cái đầu thì bị lật ngược ra phía sau. Rồi hắn vật xuống, cứ thế ngã mãi khi trái đất tối sầm lại. * * * 3 giờ 35 phút Kat lui lại rồi hạ thấp chiếc kiếm có đính hạt ngọc. Cô cúi xuống, giật lấy cánh tay rồi kéo cái xác ra khỏi tầm mắt ở phía cửa. Đầu cô vẫn ong ong sau khi quả lựu đạn nổ. Cô thì thào với Monk- ít nhất cô cũng hi vọng mình nói rất khẽ. Cô cũng không nghe được chính giọng của mình nữa. “Hãy giúp ngài linh mục.” Monk tròn mắt nhìn từ cái xác bị chặt đầu đến thanh kiếm đẫm máu trong tay cô, ánh mắt anh mở to nửa vì sốc mạnh nửa vì thán phục. Anh bước tới một trong những chiếc hòm đựng châu báu rồi đưa tay giúp linh mục bước ra ngoài. Cả ba người đã chui vào trong một chiếc hòm chống đạn bắn xuyên, biết rằng thế nào chúng cũng ném quả lựu đạn thứ hai vào. Đúng như vậy. Cái hòm đó đã làm tròn nhiệm vụ của mình, bảo vệ thứ báu vật quý giá nhất: Tính mạng của họ. Những mảnh lựu đạn bắn tung khắp gian phòng nhưng nhờ nấp dưới tấm thủy tinh tránh đạn họ đã sống sót. Đó là ý kiến của Kat. Sau rốt, dù cho tai vẫn bị ù nhưng Kat cố lăn ra khỏi cái hòm và tìm thấy thanh kiếm gắn đá quý nằm trên sàn. Nó trở thành một thứ vũ khí thật thích hợp lúc này với cô hơn là khẩu súng lục. Cô không muốn có tiếng nổ báo động những tên khác. Tuy nhiên, tay cô vẫn còn run. Cô vẫn còn nhớ trận chiến đấu bằng dao cuối cùng ở… và hậu quả. Cô nắm chặt kiếm, lấy thêm sức mạnh từ lưỡi thép. Đằng sau cô, ngài Verona loạng choạng đứng dậy. Ông nhìn xuống hai chân mình như không tin là chúng vẫn còn dính vào đó. Kat quay ra phía cửa. Trừ tên bị chết, không đứa nào trong số kẻ tấn công để ý. Chúng tụ tập ở cửa. “Chúng ta phải rời thôi”. Kat ra hiệu. Đi sát vào tường, cô dẫn họ lao ngang qua lối thoát phía trước, tránh bọn gác. Cô tới đoạn vòng nơi giáo đường cắt ngang rồi vẫy họ đi vòng ra phía trước. Sau khi đã qua khỏi tầm nhìn của bọn gác, linh mục chỉ tay ra phía trước. “Đi lối này.” Ông thì thào. Còn những cánh cửa phía sau nữa. Lối thoát nữa. Không có ai gác. Cầm chặt chiếc kiếm từ thế kỷ XV trong tay, Kat vội vã thúc họ lên phía trước. Họ đã sống sót. Thế còn những người khác thì sao? * ** 3 giờ 38 phút Rachel nã súng xuống lối cầu thang xoáy chôn ốc, đếm từng viên trong ổ đạn. Chín viên. Họ vẫn còn đạn nhưng không còn thời gian để nạp nữa. Chỉ huy Pierce đang rất bận rộn. Không còn cách nào khác, cô bắn bừa bãi, thỉnh thoảng lại nã một phát làm cho bọn chúng phải cảnh giác. Ngọn lửa phụt lên tiếp tục tấn công cô, vươn ra như lưỡi của con rồng lửa. Tình trạng nguy hiểm này không thể kéo dài mãi. “Gray.” Cô hét lên, bỏ qua cả chức vụ của anh. “Chờ một chút.” Anh trả lời từ phía bên kia tháp chuông. Khi ngọn lửa lan đến chỗ tháp chuông, Rachel nhắm bắn rồi bóp cò. Cô phải giữ chân chúng lại. Viên đạn trúng vào tường đá rồi bật trở lại cầu thang. Băng đạn trong khẩu súng của cô bật mở. Hết đạn. Cô lui lại rồi đi vòng sang bên kia tháp chuông. Gray đã tháo cái ba-lô xuống rồi buộc sợi dây thừng vào chấn song cửa sổ. Anh buộc đầu kia vào thắt lưng còn một tay cầm chiếc túi. Anh lấy ra chiếc tô-vít lớn rồi cố sức cậy cho hai chấn song cửa rộng ra để người chui qua được. “Giữ lấy đầu dây.” Anh nói. Cô nắm lấy cái dây ni lông dài khoảng năm mét. Đằng sau cô, một ngọn lửa mới vừa được bắn ra. Gray nắm lấy ba- lô rồi tiếp tục cố chui qua hai chấn song cửa sổ. Ra đến chỗ bao lơn bằng đá, anh ném chiếc túi rồi quay lưng lại phía cô. “Dây thừng”. Cô đưa cho anh. “Cẩn thận đấy”. “Hơi chậm mất rồi”. Anh nhìn xuống dưới qua những ngón chân. Không phải là một việc khôn ngoan nên làm, Rachel suy nghĩ. Cú nhảy xuống từ hai trăm mét chắc chắn sẽ làm yếu đầu gối của bất cứ ai, còn bây giờ sức mạnh của chân là điều quan trọng nhất. Gray hướng mặt về cái tháp phía nam của nhà thờ. Cách đó bốn mét, qua một cú nhảy chết người là tới tháp phía bắc. Anh xem sinh đôi với tháp này. Chẳng phải ngăn cản người chui qua nên không có những chấn song ngang ở cửa sổ tháp bên kia. Nhưng thật khó có hy vọng nhảy được từ cửa sổ này sang cửa sổ khác nhất là khi đang ở tư thế đứng thẳng. Thay vào đó, Gray hy vọng có thể lao ra ngoài rồi nắm lấy bất cứ cái gì có thể túm được ở bề mặt được trang trí của tháp đối diện. Họ phải nhảy tàu. Gray khom người xuống. Rachel nín thở, lấy một tay che ngực. Không chút chần chừ, Gray nhoai ra rồi nhảy cong người lại, treo lơ lửng trên đầu sợi dây. Anh bay qua khoảng không rồi đạp mạnh vào khung cửa sổ. Anh nhoai người ra giơ cả hai tay cố túm lấy một vật gì đó…thật may mắn đã tóm được. Nhưng cũng bị phản ứng đập trở lại. Cánh tay anh không thể giữ thân người anh được, anh bắt đầu rơi. “Chân trái của anh.” Cô hét lên thật to. Anh nghe tiếng cô hét. Ngón chân trái bám lấy mặt đá bên ngoài và chạm được vào tượng một con vật mặt quỷ ở phía dưới. Anh đặt chân lên đầu nó. Rồi anh lại thò tay ra tóm lấy một vật nữa, tiếp tục đặt chân phải. bám lấy như một con ruồi dính lên tường. Anh lấy một hơi thật sâu, cố giữ thật vững rồi leo qua cửa sổ. Rachel không thể đợi được nữa. Cô chui qua những chấn song cửa sổ. Nơi đây đầy cứt chim bồ câu, gió thổi vù vù. Sang qua được bên kia, Gray xiết chặt đầu dây ở chỗ anh làm thành một cái cẩu. “Nhanh lên, tôi sẽ giúp cô”. Cô bắt gặp cặp mắt của anh qua khoảng trống rồi tìm thấy sức mạnh cũng như sự tự tin. “Tôi sẽ đỡ.” Anh nhắc lại. Nuốt một hơi, cô nhoài ra. Không được nhìn xuống, cô suy nghĩ rồi nắm lấy sợi dây. Tay nọ tiếp tay kia. Đó là tất cả những gì cô phải làm. Cô nghe thấy tiếng chuông phía sau. Giật mình cô quay lại rồi nhìn thấy một vật hình như trái bom đang lao ra từ phía cái bao lơn bằng đá. Cô chưa hiểu đó là cái gì, nhưng chắc không phải là điều hay. Cũng chả cần phải có thêm những lời động viên nữa, Rachel đu vào sợi dây, chân tay đạp lung tung. Gray thò tay ra với được cô. “Bom” Cô kêu lên, ngoái đầu hướng về phía tháp bên kia. “Cái gì?’ Tiếng nổ ngắt tất cả mọi từ. Bị dồn đẩy từ phía sau, Rachel được kéo vào bên trong, ngã vào ngực Gray. Cả hai ngã xuống sàn của tháp chuông. Một bức tường lửa tràn qua họ từ phía cửa sổ, nóng rực. Gray ôm cô thật chặt, lấy thân mình che cho cô. Nhưng ngọn lửa nhanh chóng bị gió thổi tạt đi. Gray xoay người khi Rachel nhỏm dậy. Cô nhìn lại tháp phía nam. Ngọn tháp vẫn còn bốc cháy. Những lưỡi lửa thè ra từ bốn cánh cửa sổ. Cái chuông vẫn còn ở phía bên trong đám cháy lớn. Gray đến chỗ cô. Anh kéo sợi dây. Nút buộc ở phía bên kia đã bị cháy rụi, cắt đứt luôn cái cầu. Nhìn qua khoảng trống, chấn song cửa đỏ rực. “Thiết bị cháy.” Anh nói. Ngọn lửa gặp gió mạnh như ngọn nến trong đêm. Ca tưởng niệm cuối cùng đối với những người đã chết đêm hôm trước và đêm nay. Rachel hình dung nụ cười đau đớn của bác cô. Chết. Nỗi buồn chạy trong người cô, cùng với cái gì đó nóng hơn, sắc nhọn hơn. Cô loạng choạng nhưng Gray đã đỡ cô. Tiếng còi cảnh sát rền rĩ trong thành phố, vọng lên chỗ họ nghe rõ mồn một. “Chúng ta phải đi thôi.” Anh nói. Cô gật đầu. “Họ nghĩ là chúng ta đã chết. Hãy cứ để mọi việc như vậy đã.” Cô để mặc anh dẫn mình đi xuống cầu thang. Họ vội vã đi xuống qua cầu thang ngoằn nghèo. Tiếng còi báo động nghe rõ hơn và cũng gần hơn, một tiếng động cơ ô tô gầm lên rồi vụt đi, tiếp đó là tiếng chiếc thứ hai. Gray kiểm tra qua cửa sổ. “Chúng đang chuồn.” Rachel nhìn ra. Ba tầng dưới kia, hai chiếc xe màu đen đang rời, lao nhanh qua quảng trường người đi bộ. “Tôi có cảm giác chuyện này chẳng hay ho gì.” Gray nói. Anh vội vã lao xuống, nhảy qua nhiều bậc thang. Rachel chạy theo, hoàn toàn tin vào khả năng của anh. Họ xuống đến tầng dưới cùng. Một trong những cánh cửa dẫn đến giáo đường mở hé. Rachel liếc nhìn vào trong nhà thờ, ở nơi đó bác cô đã chết. Nhưng có vật gì đó thu hút sự chú ý của cô, gần hơn trên nền nhà thờ, nằm chình ình ở lối đi giữa. Những quả chuông bạc. Khoảng một tá hay nhiều hơn. Được quấn chung quanh bằng những sợi dây màu đỏ. “Chạy.” Cô hét lên, quay gót chạy. Cùng nhau chạy, họ đến cửa chính rồi lao vào quảng trường. Không nói một lời cả hai chạy đến chỗ nấp duy nhất. Chiếc xe thùng của cảnh sát Đức đậu trên quảng trường. Họ núp phía sau chiếc xe khi các thiết bị phát nổ. Giống hệt như buổi đốt pháo bông, cái nọ nối tiếp cái kia, liên tục. Tiếng thủy tinh vỡ rào rào, tiếng nổ bốp bốp. Rachel ngước nhìn lên. Cái cửa sổ kính vĩ đại kiểu Bavarian nằm ngay trên cửa ra vào, được xây dựng từ thời Trung cổ vỡ tung thành một đống các mảnh vỡ vụn, thủy tinh pha lê. Cô nằm ẹp xuống dưới chiếc xe khi cơn mưa thủy tinh đổ xuống quảng trường, chung quanh họ một cơn mưa chết người. Một thứ gì đó đập mạnh vào bên kia chiếc thùng xe nghe đánh rầm một cái. Rachel cúi xuống, nhìn qua những bánh xe. Từ phía kia, một trong những cánh cửa lớn bằng gỗ của nhà thờ đổ sập xuống hè phố, cháy âm ỉ. Rồi nghe có giọng nói mới. Giọng ngạc nhiên. Bị nghẹn lại. Đến từ trong chiếc xe. Rachel liếc nhìn Gray. Đột nhiên anh cầm một con dao trong tay, đột nhiên xuất hiện như có phép màu. Họ vòng chung quanh chiếc xe. Trước khi họ kịp chạm tay vào nắm cửa, cửa mở toang. Rachel nhìn không thể tin vào mắt mình khi thấy anh chàng đồng đội béo mập của Gray bước ra. Theo sau là đồng đội nữ tay cầm chiếc kiếm dài. Và cuối cùng là một bóng người quen thuộc, thân thương. “Bác Vigor.” Rachel reo lên ôm chặt ông. Ông ôm hôn cô cháu gái. “Này tại sao,” ông hỏi, “mọi người hình như đều muốn cho tôi nổ tung lên nhỉ?” * ** 4 giờ 45 phút Một giờ sau, Gray đi đi lại lại trong căn phòng khách sạn, vẫn bực bội, thần kinh căng thẳng. Họ đã sử dụng căn cước giả để đăng ký phòng, nhanh chóng làm sao rời khỏi nhà thờ thật nhanh. Khách sạn Cristall trên quảng trường Ursulaplatz nằm cách nhà thờ khong xa, chỉ khoảng nửa dặm, một ngôi nhà nhỏ xinh xắn mang dáng dấp Scandinavia. Họ đến đây để tập hợp nhau lại, lập kế hoạch hành động. Nhưng điều đầu tiên họ cần có thêm những thông tin mới. Có tiếng chìa khóa mở cửa. Gray đặt tay lên khẩu súng. Anh không muốn bị bất ngờ. Nhưng chính là ngài Verona vừa trở về sau khi đi tuần tra. Vigor đẩy cửa bước vào. Vẻ mặt rất nghiêm trọng. “Có gì vậy?” “Cậu bé đã chết.” Ông nói. Những người khác tiến đến gần hơn. Vigor giải thích, “Jason Pendleton. Cậu bé sống sót sau vụ thảm sát. BBC vừa đưa tin. Cậu bé bị giết chết ngay trong phòng bệnh viện. Nguyên nhân của cái chết hiện nay vẫn chưa được biết, nhưng người ta nghi ngờ có sự gian trá. Đặc biệt khi nó diễn ra cùng một lúc với vụ đánh bom nhà thờ.” Rachel lắc đầu buồn bã. Trước đó, Gray đã thấy nhẹ nhõm khi thấy mọi người trở về an toàn, chỉ bị sây sát và hoang mang đôi chút. Anh đã quên mất không để ý đến người sống sót của vụ thảm sát thứ nhất. Nhưng nó mang một ý nghĩa thật kinh khủng. Vụ tấn công vào nhà thờ thực ra chỉ là một màn kịch nhằm xóa sạch những dấu vết gì còn lại. Và tất nhiên, điều đó bao gồm cả chuyện cho nhân chứng duy nhất câm lặng vĩnh viễn luong. “Ngài có biết thêm gì nữa không?” Gray hỏi. Anh đã cử vị linh mục xuống dưới nhà sau khi họ đăng ký phòng tại khách sạn để đánh giá tình hình thực tế tại nhà thờ. Linh mục là người thích hợp nhất. Ông ta nói tiếng Đức nhuần nhuyễn và cái áo linh mục của ông sẽ không làm ai nghi ngờ cả. Ngay đến tận bây giờ, còi báo động và xe cảnh sát vẫn rền vang trên đường phố. Nhìn qua cửa sổ, họ thấy quang cảnh của Cathderal Hill. Một đám xe cứu hỏa và các xe cấp cứu khác đang tập trung ở đó. Khói vẫn cuộn lên trên bầu trời đêm. Đường phố đông nghịt người đến xem và xe nhà báo. “Tôi cũng không biết gì thêm ngoài những điều chúng ta đã biết.” Vigor nói. “Trong nhà thờ lửa vẫn tiếp tục cháy. Nó vẫn chưa bị dập tắt nhưng không lan rộng ra nữa. Tôi có nói chuyện với một linh mục ở chỗ ở. Không ai bị thiệt mạng. Nhưng họ lo lắng về số phận của tôi và cháu gái tôi.” “Tốt”. Gray nói, liếc nhìn Rachel. “Như tôi nói lúc nãy, bọn chúng nghĩ là lúc này chúng ta đã bị tiêu diệt. Hãy để cho chuyện đó cứ như vậy càng lâu càng tốt. Chừng nào chúng chưa biết chúng ta còn sống, chúng sẽ chưa đi lùng sục tìm kiếm khắp nơi.” “Và chúng ta cũng không phải nã súng nữa.” Monk nói. “Tôi đặc biệt thích điều đó”. Kat đang làm việc trên máy tính xách tay nói với một chiếc máy ảnh số. “Những tấm ảnh đang được đưa lên.” Cô nói. Gray đứng dậy bước tới cái bàn. Monk và những người khác không phải chỉ lo kiếm chỗ trú ẩn trong chiếc xe sau khi họ trốn thoát mà còn tranh thủ địa điểm này để chụp một vài tấm ảnh của những kẻ tham gia vụ tấn công. Anh thấy thật ấn tượng với sự tháo vát của họ. Những tấm hình nho nhỏ đen trắng hiện dần trên màn hình. “Đây rồi.” Rachel nói chỉ vào một tấm hình. “Đây là cái gã đã tóm lấy tôi.” “Hắn là chỉ huy của nhóm.” Gray nói. Kat nhấp đúp để phóng to tấm ảnh. Gã đang lao ra khỏi nhà thờ. Tóc đen, để dài gần đến vai. Không để râu, sống mũi thẳng. Trông bụi bặm không có nét gì đặc biệt. Ngay cả trong ảnh trông y vẫn có vẻ chỉ huy. “Nhìn thằng chó chết này,” Monk nói. “Con mèo ăn con chuột.” “Có ai nhận ra hắn không?” Gray hỏi. Tất cả lắc đầu. “Tôi có thể gửi bức ảnh đó về bộ phận nhận dạng của Sigma.” Kat nói. “Chưa được.” Gray nói, trả lời cái chau mày của cô. “Chúng ta cần tiếp tục chưa nối liên lạc vội.” Anh nhìn quanh phòng. Thông thường anh thích hoạt động đơn chiếc, thoát khỏi sự kiềm tỏa của đại ca dòm ngó, giờ đây anh không thể đóng vai con sói cô độc. Anh đã có cả nhóm, trách nhiệm đè nặng trên vai. Cặp mắt của anh hướng sang Vigor và Rachel. Không phải chỉ có riêng nhóm của anh thôi. Tất cả bọn họ đều hướng về anh. Đột nhiên, anh cảm thấy quá sức. Anh không muốn gì hơn là liên lạc với Sigma, trao đổi với Giám đốc Crowe, rũ trách nhiệm của mình. Nhưng anh không thể… ít nhất là lúc này. Gray tập hợp các suy nghĩ và quyết tâm của mình. Anh hắng giọng. “Một ai đó đã biết chúng ta một mình có mặt trong nhà thờ. Rất có thể là chúng đã do thám nhà thờ hoặc đã có tin tình báo trước.” “Một lỗ rò” Vigor nói, xoa bộ râu dưới cằm. “Có khả năng, nhưng điều tôi chưa thể nói được là nó từ đâu ra.” Gray liếc nhìn Vigor. “Từ chỗ chúng tôi hay ở chỗ các ngài.” Vigor thở dài và gật đầu. “Tôi e rằng chính chúng tôi phải lãnh trách nhiệm. Long Đình luôn tìm cách lôi kéo thành viên trong Vatican. Và vụ phục kích này nối gót sau những cuộc tấn công vào Rachel và bản thân tôi làm tôi không thể không nghĩ rằng vấn đề có thể nằm ngay ở Giáo hội.” “ Không nhất thiết phải như vậy,” Gray trả lời. Anh quay trở lại máy xách tay và chỉ vào một tấm ảnh nhỏ nữa. “Hãy phóng to bức này xem nào.” Kat nhấn đúp chuột. Hình ảnh một phụ nữ mảnh dẻ trèo vào bên trong một trong hai chiếc xe hiện dần lên trên màn hình. Khuôn mặt của cô ta chỉ mờ nhạt. Gray liếc nhìn những người khác. “Có ai biết cô ta không?” Lại những cái lắc đầu. Monk nhìn gần vào hơn. “Nhưng tôi không quan tâm đến chuyện biết cô ta.” “Đây chính là người phụ nữ đã tấn công tôi ở Fort Detrick.” Monk lui lại, bỗng nhiên thấy người phụ nữ kém hấp dẫn hẳn đi. “Nhân viên của Hiệp hội à?’ Vigor và Rachel đều thấy bối rối. Gray không có thời gian để đi sâu vào toàn bộ lịch sử của Hiệp hội, anh chỉ nói tóm tắt những nét chính về tổ chức này: một tổ chức khủng bố có liên hệ với tổ chức Maphia Nga và sự quan tâm của nó đối với các công nghệ mới. Sau khi anh kết thúc, Kat hỏi. “Vậy anh có nghĩ vấn đề có thể ở chỗ chúng ta không?” “Sau vụ Fort Detrick…” Gray chau mày. “Ai có thể nói an ninh bị rò rỉ ở chỗ nào? Nhưng sự thật là Hiệp hội đang ở đây, hành động cùng với Long Đình, tôi không thể không nghĩ rằng chúng hợp tác với nhau vì sự tham gia của chúng ta. Nhưng tôi nghĩ chúng đã muộn trong trò chơi cũng như chúng ta…” “Tại sao anh lại nói điều đó?” Rachel hỏi. Gray chỉ vào màn ảnh. “Long nương để cho tôi thoát.” Sự kinh ngạc bao trùm. “Anh có chắc vậy không?” Monk hỏi. “Chắc như đinh đóng cột”. Gray xoa cùi tay nơi cô ả đã bắn khi anh chạy. “Tại sao cô ta lại làm chuyện đó?” Rachel hỏi. “Bởi vì cô ta đang chơi trò với Long Đình. Như tôi đã nói, lý do duy nhất Hiệp hội được huy động vào vụ mạo hiểm này vì Sigma đã tham gia. Long Đình muốn Hiệp hội giúp đỡ để bắt sống hoặc tiêu diệt chúng ta.” Kat gật đầu. “Và nếu chúng ta chết thì Hiệp hội không còn cần thiết nữa. Mối liên minh sẽ chấm dứt và Hiệp hội sẽ không bao giờ biết được Long Đình muốn điều gì.” “Nhưng bây giờ Long Đình nghĩ rằng chúng ta đã chết.” Rachel nói. “Chính xác như vậy. Đó là một lý do nữa để cho chuyện này cứ tiếp tục như họ tưởng. Nếu chúng ta đã chết, Long Đình sẽ cắt đứt mối quan hệ với Hiệp hội.” “Bớt đi một đối thủ.” Monk nói. “Vậy chúng ta sẽ làm gì tiếp?” Kat hỏi. Chuyện đó vẫn còn bí hiểm. Họ không còn chỉ dẫn nào… trừ một điểm. Gray liếc nhìn vào chiếc balô của anh. “Thứ bột chúng ta lấy được ở hòm quan tài. Nó trở thành chìa khóa cho mọi chuyện. Nhưng tôi không biết nó hợp với chìa khóa nào. Và nếu chúng ta không thể gửi về Sigma để thử…” Vigor nói chen vào. “Tôi nghĩ anh nói đúng. Câu trả lời nằm ở chỗ bột đó. Nhưng có một câu hỏi hay hơn là nó là cái gì” Linh mục đột nhiên dừng lại, cặp mắt ông nheo nheo. Ông vỗ vỗ tay lên trán. “Cái gì nhỉ…” Ông lẩm bẩm. “Bác?” Rachel hỏi với vẻ băn khoăn. “Có cái gì đó… trong đầu mà không thể nhớ được.” Gray nhớ lại biểu hiện tương tự của ông khi ông trích một câu nói trong một cuốn sách. Linh mục nhăn nhó. “Tôi không thể nào nghĩ ra được, giống như cố đuổi bắt bong bóng xà phòng trên tay. “Ông lắc đầu. “Có thể tôi quá mệt mỏi.” Gray cảm giác ông ta thực lòng ở hầu hết mọi chuyện. Nhưng ông ta cũng vẫn còn giấu điều gì đó, một điều gì bắt đầu từ chữ cái. Trong một thoáng, Gray nhìn thấy sự sợ hãi phía sau sự bối rối. “Vậy thì câu hỏi tốt hơn là gì?” Monk hỏi, quay trở lại dòng suy nghĩ ban đầu. “Ông vừa bắt đầu nói gì đó về một câu hỏi tốt hơn thứ bột ấy là gì?” Vigor gật đầu, tập trung trở lại “Đúng rồi. Có thể chúng ta cần hỏi tại sao thứ bột này có thể tới đây. Mỗi năm một lần, di cốt được nhấc cẩn thận ra khỏi quan tài và toàn bộ được lau chùi sạch sẽ. Tôi chắc rằng chúng được phủi bụi và lau chùi sạch cả ở bên ngoài. Kat ngồi thẳng dậy. “Trước cuộc tấn công, chúng ta băn khoăn không biết có phải thiết bị đã làm thay đổi chỗ vàng trong cái hộp biết thành thứ bột trắng.” “Có phải là đấy là cách chúng được đưa vào không?” Rachel hỏi. “Có thể,” Monk nói. “Hãy nhớ cây thập tự có nam châm ở nhà thờ. Một điều gì đó kỳ quặc đã xảy ra ở đấy và nó tác động đến kim loại. Vậy tại sao không phải là vàng?” Gray hy vọng anh đã có thêm nhiều thời gian để thu thập các mẫu, tiến hành thêm một số phép thử nữa. Nhưng với việc nhà thờ bị đánh bom xăng…” “Không.” Kat nói thở dài cáu kỉnh. “Hãy nhớ rằng chất bột không chỉ là vàng. Chúng ta cũng đã phát hiện các chất khác. Có thể là platinum hoặc cái gì khác nữa trong nhòm kim loại có khả năng truyền dẫn những chất có thể chuyển hóa thành bột ở trạng thái -m.” Gray chậm rãi gật đầu, nhớ lại bạc lẫn trong chỗ vàng bị chảy. “Tôi không tin là bột đến từ cái hộp đựng.” Monk chau mày. “Nhưng nếu như nó không đến từ chỗ vàng trong hộp và nếu như được lau chùi mỗi năm… thì còn thêm cái gì nữa?” Mắt Gray mở to ra vì anh đã hiểu ra. Anh hiểu sự kinh ngạc của Kat. “Nó đến từ chỗ di cốt.” “Không còn sự giải thích nào khác nữa.” Kat đồng ý. Monk đốp lại, lắc đầu. “Điều đó nói thì dễ. Chúng ta không có chỗ di cốt ở đây để chứng minh giả thuyết của cô. Chúng đã đem đi tất cả.” Rachel và Vigor tự dưng nhìn nhau. “Cái gì?” Gray hỏi. Rachel bắt gặp ánh mắt của anh. Anh đọc được sự phấn khích trong điệu bộ của cô. “Chúng không phải có toàn bộ chỗ di cốt.” Đôi lông mày của anh nheo lại. “Ở đâu?” Vigor trả lời. “Ở Milan”. Chương 6 Lại chậm chân Ngày 25 tháng 7, 10 giờ 14 phút Hồ Como, Italy Gray và những người khác bước ra khỏi chiếc xe Mercedes E55 rồi tập tễnh đi vào quảng trường dành cho người đi bộ của thành phố ven hồ Como. Người đi dạo buổi sáng và kẻ chuyên đi ngắm cửa hàng chen vai đi trên quảng trường lát đá dẫn đến một con đường bộ quanh hồ nước xanh thẫm. Kat ngáp một cái rồi duỗi chân, một con mèo đang uể oải thức dậy. Cô nhìn đồng hồ, lẩm bẩm. “Chỉ có bốn tiếng giờ mà đi qua ba nước.” Họ lái xe suốt đêm. Ngang qua nước Đức đến Thụy Sỹ, rồi trèo qua dãy Alps đến nước Ý. Họ đi bằng xe hơi, đi thế hơn là đi bằng tàu hỏa hay máy bay, sử dụng hộ chiếu giả để tránh lộ diện đi qua cửa khẩu. Họ không muốn báo động cho những kẻ khác biết nhóm của họ vẫn sống sót sau vụ tấn công ở Cologne. Gray dự kiến sẽ liên lạc với trung tâm của Sigma sau khi lấy được chỗ di cốt ở Milan và đến Vatican. Một khi đã ổn ở Rome, họ sẽ tập hợp lại và thảo luận kế hoạch với chỉ huy của mình. Mặc dù có mối hiểm nguy về rò rỉ thông tin nhưng Gray vẫn thấy cần phải trao đổi với Washington về sự kiện ở Rome để đánh giá lại diễn biến của phi vụ. Bây giờ thì phải thay nhau lái xe trên đường từ Cologne đến Milan, để mọi người có thể chợp mắt một chút. Chuyện đó thực hiện được. Ra khỏi xe, Monk ghé vào bên hè quảng trường, người hơi cúi, tay ôm đầu mặt xanh nhợt. “Con bé phóng xe ghê quá.” Vigor vỗ vào vai Monk. “Tôi đã ở trên những chiếc máy bay chiến đấu, lao lên rồi lại chúi xuống,” anh càu nhàu “ nhưng kiểu đi này chết mất…” Rachel bước ra khỏi ghế xe, đóng mạnh cửa chiếc xe đi thuê. Cô đã lái như điên toàn bộ quãng đường, lao xuống tuyến đường ô tô ở Đức rồi quanh co trên mỏm núi Alps với vận tốc ghê người. Cô hất chiếc kính mát lên trán. “Chỉ cần ăn sáng xong là ổn thôi.” Cô an ủi Monk. “Tôi biết có một quán bistro rất ngon ở dọc đường Cavour”. Dù lưỡng lự nhưng rồi Gray cũng đồng ý cho nghỉ lại ăn sáng. Xe họ cần đổ thêm xăng, hơn nữa chỗ này cũng khuất nẻo. Hơn nữa, vụ tấn công mới xảy ra cách đây sáu tiếng, lúc này ở Cologne còn đang hỗn loạn. Khi chúng phát hiện trong số xác chết tìm thấy ở nhà thờ không có họ thì cả nhóm đã tới Rome rồi. Có lẽ trong vài giờ nữa vẫn phải để người ta tin rằng họ đã chết. Lúc này, họ cũng quá mệt mỏi và đói sau chặng đường dài. Rachel dẫn họ đi qua quảng trường về phía bờ hồ. Gray nhìn theo cô. Mặc dù lái xe suốt đêm như vậy Rachel vẫn rảo bước, không chút mệt mỏi. Thực ra cô lại thấy hào hứng khi lao xe trên đỉnh Alps, giống như kiểu cô tập yoga. Sự mệt mỏi của cô sau vụ tấn công đêm qua dường như biến dần sau mỗi dặm đường. Anh thấy nhẹ nhõm trước sự dẻo dai của cô dù cũng đôi chút thất vọng. Anh vẫn nhớ bàn tay ấm áp của cô khi họ nắm chặt tay nhau cùng chạy trốn. Vẻ mặt băn khoăn của cô khi cuống cuồng leo lên tháp chuông nhà thờ. Đôi mắt tin cậy của cô nhìn anh lúc đó như muốn có anh. Người phụ nữ đó đã biến mất. Phong cảnh trước mắt hiện ra thu hút sự chú ý của anh. Hồ Como quả là một chuỗi ngọc trong rặng Alps hiểm trở. Những ngọn núi phủ đầy tuyết trắng, hắt bóng xuống mặt hồ xanh. “Lago di Como”, Vigor nói, sải bước bên cạnh Gray. “Virgil đã có lần mô tả nơi đây như một cái hồ vĩ đại nhất thế giới”. Họ bước tới đường đi bộ trong vườn. Khu vườn trông thật vui mắt với các loài hoa trà, đỗ quyên, mộc lan…Con đường đi bộ lát đá uốn lượn quanh hồ dọc theo hàng cây dẻ, tùng bách của Ý và nguyệt quế thân trắng. Trên mặt hồ, những chiếc thuyền buồm nhỏ xíu lướt trên sóng nhấp nhô. Cheo leo trên các sườn núi đá dựng đứng là những căn nhà mái ngói sặc sỡ đủ màu sắc. Gray nhận thấy dường như vẻ đẹp thiên nhiên và không khí trong lành buổi sớm đã làm Monk tươi tỉnh hẳn hay ít nhất cũng làm anh bước đi như vững chãi hơn. Kat cũng mải mê ngắm nghía cảnh sắc bên hồ. “Tiệm Imbarcaderro.” Rachel chỉ tay vào tiệm ăn bên kia quảng trường. “Có khi đi bằng xe đến tiệm này còn hơn.” Gray nói vừa nhìn đồng hồ. “Chỉ tiện đối với anh thôi.” Monk nói một cách buồn thảm. Vigor bước đến bên. “Chugns ta đi nhanh đấy, chắc sẽ đến Milan trong một giờ nữa.” “Thế còn chỗ di cốt?” Vigor chau mày nhìn anh. “Thưa chỉ huy! Vatican rất hiểu về sự mạo hiểm khi để chỗ di cốt tại nhà thờ thánh Eustorgio. Tôi đã được lệnh dừng lại ở Milan để thu hồi cái đó trên đường trở về Rome. Vào lúc này, Vatican đã bảo quản cẩn thận chỗ di cốt trong két an toàn của nhà thờ. Còn nhà thờ đã được khóa lại và cảnh sát địa phương đã được báo động.” “Chuyện đó cũng không ngăn nỏi tụi Long Đình đâu.” Gray nhớ lại sự tàn phá ghê gớm ở Cologne. “Tôi không tin chúng dám tấn công vào ban ngày. Bọn chúng thích bóng tối hoặc ban đêm hơn. Hơn nữa, chúng mình lại đến Milan vào trước buổi trưa cơ mà.” Kat nói chen vào. “Mình đừng lo bị chậm vì dừng lại, đặt đồ ăn sẵn rồi đi ngay.” Chẳng còn cách nào khác, Gray đành nhân nhượng. Mọi người cũng phải nạp năng lượng giống như chiếc xe của họ. Tới nhà hàng, Rachel mở cửa đưa họ đến sảnh đầy hoa tường vi nhìn xuống hồ. Quán Imbarcadero phục vụ món ăn địa phương tuyệt vời nhất. Các bạn phải thưởng thức món cá vàng với cơm ý”. Vigor nói thêm. “Món này ở đây rất ngon. Thịt cá philê tẩm bột, sấy khô ăn cùng với món cơm Ý có bơ.” Rachel mời họ ngồi quanh chiếc bàn ăn. Gray cũng lây cái vui với nét hồ hởi của Rachel. Cô nói rất nhanh bằng tiếng Ý với một người đàn ông đứng tuổi đeo tạp dề vừa cười vừa gật đầu chào họ. Cô cười dễ dãi. Chuyện phiếm một lát rồi ôm hôn ông ta. Rachel quay lại sau khi tất cả đã ngồi xuống ghế. “Nếu các bạn muốn ăn món gì nhẹ hơn, hãy thử món hoa bí nhồi bánh mì và lá quế. Nhưng dứt khoát phải ăn một đĩa nhỏ món agnolotti.” Vigor gật đầu. “Món ravolli[1] ăn ới cà tím thật tuyệt vời.” Ông hôn vào ngón tay chỏ tán thưởng. “Tôi đoán hai người chắc đã ăn ở đây vài ba lần rồi.” Monk nói, vừa nhìn Gray. Sao mà họ giống nhau thế. Vigor vỗ vai Monk. “Chủ tiệm ăn này là bạn của gia đình chúng tôi, đã qua ba thế hệ rồi. Nghỉ ngơi thoải mái, họ biết cách giữ mồm miệng.” Ông quay lại một người phục vụ béo tròn. “Chào Mario! Có món gì ăn được không?” “Có ngay thưa ngài, nhà hàng vừa có mấy thứ mới được đưa qua phà tối qua” Các món thực đơn được gọi xen lẫn tiếng cười nói vui vẻ; sa lát cá hồi với dấm, đuôi bò. Mario bê ra một bàn đầy các món ăn cùng với hai chai vang đỏ và trắng. “Chúc ngon miệng!” Anh ta nói. Hình như người Ý có thói quen mỗi bữa ăn đều biến thành đại tiệc, ngay cả món đặt nhanh cũng vậy. Vang sủi bọt. Chạm cốc. Món salami và phomat được chuyền tay nhau quanh bàn. “Chào, Mario!” Rachel nâng cốc, vui vẻ khi họ kết thúc. Monk ngồi dựa lưng vào ghế, cố làm yên cái bụng. “Chỉ riêng món này mà đã căng diều rồi.” Kat cũng ăn rất nhiều, nhưng hiện cô đang nghiên cứu thực đơn món tráng miệng, chăm chú không kém gì như khi đọc hồ sơ vụ án. “Thưa, cô dùng món gì ?” Mario hỏi Kat. Cô lấy tay chỉ vào một món. Monk cười toét miệng. “Đây là món salat hoa quả với kem.” Cô nhìn những người khác, mắt tròn xoe. “Món này ăn nhẹ” Gray ngồi xuống. Anh cảm thấy vui vui. Tất cả bọn họ đều cần phút thư giãn hiếm hoi này. Một khi đã lên đường, hôm nay sẽ lại là một ngày vất vả. Họ sẽ tới Milan, thu hồi chỗ di cốt rồi đám chuyến tàu tốc hành một giờ một chuyến để đến Roma trước nửa đêm. Anh cũng muốn có chút thời gian để ngẫm nghĩ về ngài Verona. Mặc dù họ đang ngồi vui vẻ như vậy nhưng dường như linh mục vẫn chìm đắm trong suy tư. Gray có thể đọc thấy những dòng suy nghĩ đang hiện lên trong đầu óc ông. Bỗng nhiên Vigor nhìn anh. Ông đẩy chiếc ghế lui ra rồi nói.” Chỉ huy Pierce, trong khi chúng ta chờ nhà bếp, tôi có chuyện riêng muốn nói với anh. Hay là chúng ta ra ngoài đi dạo một lát”. Gray uống hết chỗ vang của mình rồi đứng dậy. Mấy người kia nhìn nhau tò mò nhưng anh gật đầu bảo cứ ngồi nguyên tại chỗ. Vigor dẫn anh ra khu vườn bao quanh hồ. “Có điều này tôi muốn thảo luận với anh xem ý kiến của anh thế nào.” “Được thôi.” Họ đi qua một căn nhà rồi Vigor bước vào chỗ cái kè đá nhô ra từ một cây cầu nhỏ. Họ hoàn toàn riêng biệt ở đây. Vigor vẫn chăm chú nhìn xuống mặt hồ, gõ tay lên thành cầu. “Tôi hiểu rằng vai trò của Vatican trong tất cả chuyện này tập trung vào chuyện ăn cắp báu vật. Một khi chúng ta trở về Rome, tôi e là các vị sẽ cắt quan hệ với chúng tôi và tự mình truy đuổi Long Đình.” Gray tính định trả lời vòng vo cho xong nhưng người đàn ông này xứng đáng được có một câu trả lời trung thực. Anh không thể đùa với ông ta và cô cháu gái. “Tôi nghĩ như vậy là tốt nhất.” Gray đáp. “Tôi nghĩ thượng cấp hai bên chắc chắn sẽ đồng ý thôi”. “Nhưng tôi lại không.” Giọng nói của ông có phần bực bội. Gray chau mày. “Nếu như các anh đúng khi coi chuyện di cốt là nguồn gốc của chất bột hỗn hợp kỳ lạ thì tôi tin rằng vai trò của chúng ta ở đây càng gắn bó với nhau hơn hai bên tưởng.” “Tôi chưa hiểu” Vigor nhìn anh đăm đăm, dường như đó là kiểu của nhà Verona thì phải. “Vậy anh hãy nghe tôi nói nhé. Trước tiên, chúng ta biết rằng Long Đình là một hội quý tộc chuyên tìm kiếm những bí mật hoặc kiến thức bị thất lạc. Họ tập trung vào các văn bản cổ xưa của thuyết ngội đạo.” Vigor tiếp tục nói đầu hơi cúi xuống. “Chỉ huy Pierce, tôi tin anh đã từng nghiên cứu các tín ngưỡng và triết học khác nhau. Từ đạo Lão đến các giáo phái Hindu”. Gray thấy hơi bối rối. Thật không dễ quên rằng ngài linh mục là một nhân viên tình báo có nghề của Vatican. Rõ ràng ông ta đã đọc kỹ hồ sơ về anh. “Tìm kiếm sự thật về tinh thần không bao giờ sai.” Vị linh mục nói tiếp.” Bất kể đường đi thế nào. Thực ra, định nghĩa của từ gnosis là tìm kiếm sự thật để tìm ra thánh. Tôi không cho rằng Long Đình đã sai khi theo đuổi việc tìm kiếm này. Thuyết ngộ đạo đã trở thành một phần của Nhà thờ từ khi ra đời. Ngay cả thời kỳ trước đó.” “Được.” Gray nói, không giữ mãi vẻ cáu kỉnh trong giọng nói của mình nữa.” Vậy vụ thảm sát Cologne có liên quan gì đến chuyện này?” Linh mục thở dài. “Về mặt nào đó, vụ này có thể truy nguồn từ chuyện đối đầu giữa hai vụ thánh Tông đồ - Thomas và John.” Gray lắc đầu. “Ngài đang nói đến điều gì vậy?” “Ngay từ thuở ban đầu, Thiên chúa giáo là một thứ đạo giáo bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Một niềm tin mới mẻ lúc đầu bao giờ cũng như vậy. Không như các tín ngưỡng khác, gia đình Thiên chúa giáo trẻ tuổi tự nguyện quyên góp tiền. Số tiền đó đã được dùng để nuôi dưỡng những đứa trẻ mồ côi. Việc giúp đỡ người dân cùng đinh đã lôi cuốn số đông người dù cho có những hiểm nguy của thứ đạo giáo bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.” “Vâng, tôi hiểu. Thiên chúa là tốt lành và tất cả là vậy. Nhưng điều gì?” Gray bị ngắt lời vì một bàn tay giơ lên. “Có khi anh cứ để tôi nói tiếp, biết đâu lại có thể học thêm được điều gì.” Gray đành yên lặng. Ngoài chuyện là một điệp viên của Vatican, ông còn là một giáo sư đại học. Rõ ràng, không bao giờ ông muốn bài giảng của mình bị cắt ngnang. “Những năm đầu của Nhà thờ, bí mật luôn bao trùm, đòi hỏi phải tổ chức các cuộc họp lén lút ở hang động, hầm mộ… Điều đó đã đưa đến sự hình thành các phe nhóm khác nhau, chia rẽ với nhau. Đầu tiên là về khoảng cách, với những giáo phái lớn như ở Alexandria, Antioch, Carthage rồi đến Rome. Sau đó, do bị cô lập như vậy, các tập tục riêng biệt đã dẫn đến những triết lý khác nhau. Phúc âm xuất hiện ở nhiều nơi. Những bản được tập hợp trong Kinh thánh như Matthew, Mark, Luke và John… và rất nhiều bản khác. Với tất cả các bản phúc âm, các giáo phái khác nhau bắt đầu đua nhau phát triển. Nhà thờ non trẻ bắt đầu tách biệt.” Gray gật đầu. Anh đã tham dự trường Trung học Thiên chúa, chỗ mẹ anh dạy. Anh biết đôi chút về lịch sử của nó. “Nhưng đến kỷ thứ II,” Vigor tiếp tục, “vị giám mục của Lyon, thánh Irenaeus viết năm tập dưới nhan đề Sự chống lại Haereses. Tít đầy đủ là Sự phá hủy và Lật đổ của cái gọi là Kiến thức giả dối. Đó chính là thời điểm mà tất cả các niềm tin của phái Ngộ đạo trước đó bị đào thải khỏi đạo Thiên chúa, tạo ra bốn Phúc âm, giới hạn Mathew, Mark, Luke và John. Những cái khác đều bị coi là dị giáo. Theo lập luận đó, thì cũng giống như bốn vùng của vũ trụ và bốn ngọn gió chính, nhà thờ chỉ cần bốn cột trụ” “Vậy tại sao lại chọn bốn Phúc âm này trong số những cái khác?” “Tại sao như vậy? Đó chính là điều tôi quan tâm.” Gray thấy mình chăm chú hơn. Mặc dù bực bội vì bị lên lớp, nhưng anh rất tò mò xem tất cả chuyện này dẫn đến đâu. Vigor nhìn ra xa trên mặt hồ “Ba bản phúc âm Mathew, Mark và Luke- tất cả đều kể một câu chuyện. Nhưng bản Phúc âm của John lại kể một câu chuyện khác hẳn, ngay cả những sự kiện trong đời của đức chúa Jesu cũng không tương ứng với các bản khác. Nhưng có một lý do cơ bản hơn là tại sao John được đưa vào Kinh thánh chuẩn.” “Tại sao?” “Vì thánh Tông đồ Thomas.” “Như trong Thomas Nghi ngờ?” Gray thuộc lòng câu chuyện một vị thánh Tông đồ không chịu tin rằng đức chúa Jesu đã tái sinh cho đến khi chính mắt mình nhìn thấy.” Vigor gật đầu. “Nhưng anh có biết rằng chỉ có Phúc âm của John mô tả Thomas là kẻ đần độn, một tín đồ thiếu đức trung thành. Những vị thánh Tông đồ khác lại sùng kính Thomas. Anh có biết tại sao John lại đưa ra câu chuyện gièm pha này không?” Gray lắc đầu. Trong những năm là tín đồ đạo Cơ đốc giáo, anh chưa bao giờ chú ý đến sự lệch lạc trong quan điểm. “John tìm cách bôi nhọ Thomas, hay nói cụ thể hơn những tín đồ của Thomas lúc đó rất đông. Ngay cả hiện nay anh vẫn thấy số rất đông người theo đạo Thiên chúa Thomas ở Ấn Độ. Ngay cả ở Nhà thờ lúc sơ khai cũng có sự dị biệt giữa Phúc âm Thomas và John. Chúng khác nhau đến nỗi rằng chỉ có một phúc âm có thể tồn tại.” “Ông nói như vậy có ý nghĩa gì? Chúng khác nhau thế nào?” “Nó quay lại thuở đầu tiên của Kinh thánh, đến cuốn sách đầu tiên của Kinh Cựu ước, sách Sáng thế, tới dòng mở đầu. “Hãy có ánh sáng”. Cả John và Thomas đều đưa Jesu ra dưới ánh sáng nguyên thủy đó, ánh sáng của tạo hóa. Nhưng từ đấy, sự giải thích của họ khác biệt hẳn. Theo Thomas, ánh sáng không chỉ sinh ra vũ trụ mà vẫn tồn tại bên trong tất cả mọi thứ, đặc biệt trong con người được sinh ra trong hình ảnh của Thánh và rằng ánh sáng được ẩn trong mỗi người, chỉ đợi để được tìm thấy.” “Thế còn John?” “John lại có một quan điểm nhìn nhận hoàn toàn khác. Giống như Thomas, Ngài tin rằng ánh sáng nguyên thủy được tượng trưng bởi Jesu nhưng John lại tuyên bố rằng chỉ có chúa Jesu mới giữ ánh sáng đó. Phần còn lại của thế giới sẽ vĩnh viễn chìm trong bóng tối, bao gồm cả nhân loại. Và chỉ còn con đường dẫn đến ánh sáng đó, quay trở lại cứu rỗi và Thánh mới có thể tìm thấy qua cầu nguyện đức chúa Jesu.” “Một quan điểm hẹp hòi hơn.” “Và cũng thực dụng hơn đối với nhà thờ non trẻ. John đã đưa ra một phương pháp cứu rỗi chính thống hơn việc đi đến ánh sáng, chỉ có thông qua việc cầu nguyện đức chúa Jesu. Chính từ sự đơn giản và trực tiếp này đã lôi cuốn những lãnh tụ trẻ của nhà thờ trong thời kỳ hỗn loạn. Trái ngược lại Thomas gợi ý con người có khả năng bẩm sinh để tìm thấy Thánh qua việc nhìn vào bên trong, không cần phải cầu nguyện.” “Chuyện đó cần phải loại bỏ.” Một cái nhún vai. “Nhưng điều gì là đúng?” Vigor cười. “Ai mà biết đuợc? Tôi cũng chả có câu trả lời. Như chúa Jesu đã nói: “Hãy tìm đi và sẽ thấy…” Gray nhíu mày. Câu này nghe ngộ giáo quá. Anh nhìn ra mặt hồ, ngắm những thuyền buồm lướt qua. Ánh sáng lấp lánh trên mặt hồ. Hãy tìm đi và sẽ thấy… Liệu đó có phải là con đường anh vẫn đi theo, đã nghiên cứu không biết bao nhiêu triết lý? Nếu như vậy, anh vẫn chưa có câu trả lời thích hợp. Và nói đến những câu trả lời không thỏa mãn… Gray quay lại Vigor, nhận ra họ đã đi một đoạn khá xa. “Tất cả những điều này liên quan gì đến vụ thảm sát ở Cologne?” “Tôi phải nói với anh.” Ông giơ một ngón tay lên. “Đầu tiên, tôi nghĩ rằng vụ tấn công đưa trở lại cuộc chiến hàng thế kỷ dai dẳng giữa đức tin chính thống của John và truyền thống ngộ đạo cổ xưa của Thomas.” “Như vậy là giữa Nhà thờ Cơ đốc giáo một bên và Long Đình ở bên kia?” “Nó là như vậy. Tôi đã suy nghĩ suốt đêm về điều này. Trong khi tìm kiếm kiến thức qua những bí mật của ngộ giáo, Long Đình không nhất thiết tìm kiếm Thánh mà là quyền lực. Chúng muốn một trật tự thế giới mới, sự trở lại của chủ nghĩa phong kiến với chúng ở hàng đầu, tin tưởng rằng chúng là giai tầng thượng đẳng, sinh ra để lãnh đạo con người. Vì vậy, tôi không nghĩ là Long Đình đại diện cho bên ngộ đạo trong cuộc chiến thời xa xưa. Tôi cho rằng chúng là những kẻ suy đồi, khát khao quyền lực. Nhưng tất nhiên chúng có nguồn gốc từ truyền thống đó.” Gray miễn cưỡng chấp nhận điều này. Vigor cảm thấy như vậy. Ông giơ ngón tay thứ hai. “Điểm thứ hai. Trong kinh Cựu Ước Thomas có câu chuyện rằng một hôm đức Chúa Jesu đã kéo Thomas ra một bên và kể cho Ngài ba điều bí mật. Khi các vị Thánh Tông đồ hỏi Chúa đã nói những gì, Ngài trả lời: “Nếu như tôi chỉ kể cho các ngài một điều thôi thì các ngài cũng nhặt đá lên ném và tôi và một ngọn lửa sẽ bung ra từ những viên đá đó thiêu chết các ngài.”. Vigor nhìn anh chờ đợi như thể đấy là một thử thách. Gray đã sẵn sàng chấp nhận. “Một ngọn lửa từ những viên đá sẽ bùng cháy. Giống như những gì đã xảy ra đối với những người đi lễ ở nhà thờ”. Ông gật đầu. “Tôi đã nghĩ về câu trích dẫn đó ngay khi nghe về vụ thảm sát.” “Đó là một sự liên kết rất mỏng manh.” Gray nói, không mấy tin tưởng. “Có thể như vậy nếu tôi không có điều lịch sử thứ ba tạo ra.” Vigor giơ ngón tay thứ ba. Gray cảm thấy mình giống như một con cừu bị đưa ra làm thịt. “Theo như những văn bản lịch sử,” Vigor giải thích, “Thomas đi truyền bá Phúc âm ở Phía Đông, chủ yếu tới Ấn Độ, Ngài làm lễ rửa tội cho hàng ngàn người, xây dựng nhà thờ, truyền bá đức tin và cuối cùng chết ở Ấn Độ. Nhưg tại khu vực này, ngài trở thành rất nổi tiếng cho một việc làm: việc rửa tội.” Gray chờ đợi. Vigor kết thúc bằng cách nhấn mạnh, “Thomas đã rửa tội cho ba vị Tiên tri.” Mắt Gray tròn xoe. Anh thấy rối tung với những mỗi liên hệ: Thomas và truyền thống ngộ đạo của Ngài, những điều bó mật Chúa Jesu nói thầm với Ngài, ngọn lửa chết người bắn từ những viên đá… Tất cả những điều đó quay trở lại liên quan đến ba vị Tiên Tri. Liệu sự liên hệ này còn mở rộng nữa không? Anh hình dung tấm ảnh những người chết ở Đức. Những thân thể bị hủy hoại. Và báo cáo của nhân viên pháp y về sự hóa lỏng của lớp bên ngoài bộ não các nạn nhân. Anh cũng nhớ mùi thịt cháy khét ở nhà thờ. Về mặt nào đó, di cốt cũng liên quan đến những cái chết đó. Nhưng thế nào? Nếu như có một sợi dây lịch sử chắp nối các dấu vết, nó sẽ vượt quá khuôn khổ phạm vi kinh nghiệm và kiến thức của anh để lần ra. Anh nhận ra điều này và đối mặt với linh mục. Vigor nói, tự tin với lập luận của mình. “Như đã nói lúc nãy, tôi nghĩ có nhiều điều xảy ra đối với những cái chết ở nhà thờ hơn công nghệ. Tôi nghĩ bất kỳ điều gì xảy ra đều gắn kết chặt chẽ với nhà thờ Cơ đốc giáo, lịch sử lâu đời của nó và có thể ngay cả trước khi nó ra đời. Và tôi đoán chắc rằng tôi có thể là một công cụ giúp cho cuộc điều ra này.” Gray ngẫm nghĩ. “Nhưng không phải cháu gái tôi.” Vigor kết thúc, cuối cùng lộ ra lý do tại sao ông lại kéo Gray ra ngoài. Ông giơ tay ra. “Một khi chúng ta trở về Rome, tôi sẽ gửi trả nó về cảnh sát. Tôi không mạo hiểm với tính mạng của nó nữa.” Gray đưa tay ra bắt tay linh mục. Cuối cùng hai người cũng đã có thể đồng ý với nhau về một điểm gì đó. * ** 10 giờ 45 phút Rachel nghe có bước chân phía sau, đoán là Mario quay trở lại. Ngước mắt lên, cô gần như suýt trượt khỏi ghế ngồi khi nhìn thấy người đàn bà già nua đứng trước mặt, trong bộ quần áo mùa hè mát mẻ tay chống gậy. Mái tóc bạc lượn làn sóng, đôi mắt hấp háy như cười. Mario đứng đằng sau bà cụ, cười toét miệng. “Thế nào, bất ngờ chưa?” Rachel cố trấn tĩnh lại khi thấy hai đồng đội của Gray nhìn mình. “Bà, bà đang làm gì ở đây thế ạ?” Bà ngoại lấy bàn tay âu yếm xoa lên má cô, nói bằng tiếng Ý. “Mẹ cha cô!” Cụ hoa tay giải thích. “Mẹ cháu đến gặp cháu ở Roma, bỏ mặc ông Babari trông nom bà. Làm như ta cần có người chăm sóc lắm. Hơn nữa người ông ta lúc nào cũng sực nức mùi pho- mát.” “Bà…” Lại tiép tục hoa tay bà nói tiếp. “Vì vậy bà đến biệt thự nhà mình. Bà lên tàu hỏa. Và rồi Mario gọi điện bảo là cháu và Vigor đang ở đây. Bà bảo ông ấy đừng nói gì với cháu. “Thế nào ngạc nhiên chưa?” Mario nhắc lại, vẻ mặt hớn hở. Anh chàng chắc phải bấm bụng không dám cười từ lúc nãy. “Thế đây là các bạn cháu à?” Bà cụ hỏi. Rachel giới thiệu với họ. “Đây là bà tôi.” Bà cụ bắt tay, chuyển sang nói tiếng Anh. “Hãy gọi tôi là Camilla”. Bà cụ nhìn Monk một lượt.” Tại sao cậu lại cắt tóc trụi hết thế này. Thật đáng xấu hổi. Nhưng cậu lại có đôi mắt đẹp. Cậu có phải là người Ý không?” “Không, người Hy Lạp ạ.” Bà cụ gật đầu. “Cũng không đến nỗi tồi. “Bà quay sang Kat. “Thế Monk có phải là bạn trai của cháu không?” Kat nhăn mặt ngạc nhiên. “Không”. Cô khẳng định tiếp. “Chắc chắn là không.” “Nào.” Monk phản ứng. “Hai đứa trông đẹp đôi đấy” Bà cụ tuyên bố, làm như chuyện là như vậy. Bà cụ quay sang Mario: “Nào Mario, làm ơn rót cho mỗi người một ly Chiaretto”. Anh chàng vội chạy đi, nét mặt rạng rỡ. Rachel ngồi xuống ghế, nhìn thấy Gray và ông bác quay trở lại sau cuộc nói chuyện tay đôi. Khi họ đi ngang qua, cô nhận thấy Gray không nhìn mình. Cô đã hiểu vì sao bác cô lại nói chuyện riêng với chỉ huy Pierce. Và khi thấy anh chàng tránh nhìn mình như vậy, cô đã đoán được chuyện gì. Bỗng nhiên, Rachel thấy mất cả hứng chả muốn uống nữa. Vigor cũng nhận thấy có thêm khách ở bàn mình. Ông rất ngạc nhiên, thậm chí còn sốc nữa. Sự ngạc nhiên lại được giải thích cùng với những lời giới thiệu. Khi nghe giới thiệu Gray Pierce, bà cụ quay sang nhìn Rachel. Rõ ràng cụ thích những gì đã thấy: mắt xanh thẳm, tóc đen bóng. Rachel biết bà mình rất thích chuyện mối manh, một căn bệnh di truyền của tất cả các mệnh phụ Italy. Cụ ghé tai cô trong khi mắt không rời Gray: “Bà nhìn thấy những đứa trẻ bụ bẫm…” “Bà này…” Cô bối rối. Bà cụ nhún vai, cất giọng: “Ngài Pierce có phải là những Ý không?” “Không ạ, tôi sợ là không phải”. “Thế ngài có muốn thế không? Cháu gái tôi…” Rachel ngắt lời bà cụ: “Bà, bọn cháu không có nhiều thời gian đâu”. Cô nhìn vào đồng hồ: “Chúng cháu còn có công việc ở Milan”. Mắt bà cụ sáng ngời: “Công việc của cảnh sát. Theo đuổi các vụ trộm cổ vật?” Bà cụ nhìn Vigor: “Lấy trộm thứ gì từ nhà thờ?” “Đại khái là như vậy, thưa mẹ, nhưng mà chuyện điều tra không nói công khai được đâu”. Bà cụ làm dấu: “Thật tệ hại! Ăn cắp của nhà thờ. Tôi có đọc về vụ giết người ở Đức. Thật kinh khủng”. Bà cụ nhìn xung quanh bàn, toàn thấy người lạ. Đôi mắt bà cụ nheo lại nhìn thẳng vào Rachel. Rachel thấy được đôi mắt sắc sảo của bà đã nhận ra vấn đề. Mặc dù tuổi cao nhưng chẳng có gì lọt qua được mắt cụ. Vụ ăn cắp di cốt của ba nhà Tiên tri được đăng tải đầy trên các báo. Còn bây giờ con và cháu cụ đang đi với một nhóm người Mỹ gần biên giới Thụy Sỹ về Italy. Liệu bà của cô có đoán được mục đích của họ không? “Thật kinh khủng” Bà cụ nhắc lại. Một người phục vụ tới, xách theo hai cái làn đầy ắp đồ ăn. Hai cái bánh mỳ dài ngoẵng thò ra ngoài trông như cái mái chèo. Monk đứng dậy nhận lấy, cười toét miệng. Bác Vigor hôn vào má bà cụ: “Chúng con phải đi đây, gặp lại mẹ ở nhà tại Gandolffo mấy hôm nữa sau khi xong việc”. Khi Gray đi ngang qua, bà cụ liền kéo tay anh đến gần khẽ nói: “Nhờ cậu trông nom hộ cháu gái tôi”. Gray nhìn Rachel: “Cháu sẽ cố. Nhưng cô ấy rất biết cách tự chăm sóc cho mình”. Rachel bỗng thấy lúng túng khi bắt gặp đôi mắt của anh. Thật là lạ. Cô nhìn sang bên. Mình đâu còn là một cô bé học sinh. Còn lâu nhé! Bà cụ đưa tay xoa má Gray: “Những phụ nữ dòng họ Verona đều biết chăm lo cho mình. Cậu hãy nhớ điều đó”. Gray cười: “Cháu nhớ ạ”. Bà cụ vỗ vai anh chàng rồi quay đi: “Tạm biệt!”. Khi mọi người đã ra ngoài, bà cụ ra hiệu cho Rachel ở lại. Bà cụ đưa tay vạch ra bao súng rỗng không của cô. “Cháu mất gì phải không?” Rachel quên biến mất mình vẫn đeo cái bao súng không. Cô đã để lại khẩu súng Beretta đi mượn ở chỗ nhà thờ. Nhưng bà cô đã để ý điều đó. “Một người phụ nữ không bao giờ để ngôi nhà của mình trần trụi cả”. Bà cúi xuống lấy cái túi xách rồi mở ra đưa cho cô khẩu súng P-08 nòng đen bóng loáng của mình “Cháu cầm lấy khẩu súng của bà”. “Bà, lẽ ra bà không nên mang súng theo người”. Bà cụ gạt ngay nỗi băn khoăn của cô cháu gái bằng cái vẫy tay: “Tàu hỏa không an toàn đối với phụ nữ đi một mình. Có quá nhiều dân Digan. Nhưng bà nghĩ cháu cần cái này hơn”. Bà cụ nhìn chăm chú cô cháu gái yêu, rất hiểu nhiệm vụ nguy hiểm cô phải đối mặt. Rachel thò tay, đậy cái túi xách lại: “Bà, cháu ổn thôi, không sao đâu ạ”. Bà cụ nhún vai. “Một việc khủng khiếp ở Đức”, nói tiếp “Tốt nhất vẫn nên cẩn thận”. “Cháu sẽ vậy, bà ạ”. Rachel bước đi nhưng cổ tay cô vẫn ở trong tay bà. “Cậu ấy thích cháu, ngài Pierce”. “Bà này…” “Cháu sẽ có những đứa trẻ bụ bẫm”. Rachel thở dài. Ngay cả lúc này khi mối hiểm nguy đang treo lơ lửng như vậy mà bà cô vẫn tỉnh táo. Những đứa trẻ. Báu vật của bà ở mọi nơi. Cuối cùng khi Mario mang hóa đơn tới cô mới thoát được. Cô bước sang một bên rồi thanh toán bằng tiền mặt, để ra một khoản kha khá để trả bữa ăn cho bà cụ. Rồi cô thu thập các thứ, hôn tạm biệt bà, đi ra quảng trường tới chỗ mọi người. Nhưng cô vẫn mang theo tinh thần của bà cụ bên mình. Những phụ nữ dòng Verona chắc chắn biết tự chăm sóc mình. Cô gặp ông bác và những người khác ở chỗ đậu xe. Cô gườm gườm nhìn Gray. “Nếu muốn hất tôi ra khỏi cuộc điều tra này, có thể anh phải đi bộ tới Rome”. Cầm chìa khóa trong tay, cô đi vòng quanh chiếc Mercedes, hài lòng về cái ngơ ngác trên khuôn mặt Gray khi thấy anh chàng quay nhìn lại bác Vigor. Cô đã bị phục kích, tấn công bằng bom xăng và bị bắn. Không đời nào cô để người ta gạt mình ra lề đường. Cô mở cánh cửa buồng lái nhưng không mở khóa các cửa xe khác: “Cháu cũng nói thế với bác đấy, bác Vigor ạ”. “Rachel…” Ông năn nỉ. Cô ngồi vào buồng lái, đóng sầm cửa lại bật công tắc. “Rachel” Ông bác đập mạnh vào cửa xe. Cô gạt cần khởi động. “Thôi chúng ta sẽ đi cùng nhau vậy” Bác cô hét lên trong khi chiếc xe chuẩn bị lao đi. “Bác thề đi!” Cô nói với lại, vẫn để tay trên cần lái. “Mio Dio”. Ông ngước mắt nhìn lên trời “Chắc cháu phân vân không hiểu vì sao bác lại trở thành linh mục…” Bác Vigor đặt một bàn tay lên cửa xe “Tôi xin chịu rồi. Tôi thề là tôi sẽ không bao giờ chống lại người phụ nữ Verona nào”. Rachel quay ngoắt lại nhìn chằm chằm vào Gray. Anh vẫn im lặng, khuôn mặt bất động. Trông anh như thể sẵn sàng đi thuê ngay một chiếc xe khác. Liệu mình có quá đáng quá không? Nhưng cô thấy mình vẫn phải mạnh tay mới được. Thế rồi đôi mắt vô cảm của anh cũng chuyển dần sang vẻ ấm áp nhìn từ ông bác sang Rachel. Khi họ nhìn nhau, Rachel cảm thấy thật hoan hỉ. Thế là anh ấy hiểu. Gray đã bao giờ miễn cưỡng gật đầu như vậy đâu, một chuyện quả là hiếm thấy. Điều đó quả là sự nhân nhượng. Cô mở khóa cửa xe. Những người khác chui vào. Monk là người cuối cùng. “Tôi thấy đi bộ cũng được thôi”. * ** 11 giờ 5 phút Ngồi ở hàng ghế sau, Gray ngắm nhìn Rachel. Cô đã kéo đôi kính mát đen sụp xuống mắt, thật khó đoán ý nghĩ của cô. Mặc dù vậy, đôi môi của cô vẫn bậm chặt. Cơ sau gáy dường như gồng lên, nổi u mỗi khi cô quay đầu quan sát xe cộ bên ngoài. Dù cho họ đã hoà hoãn nhưng cô vẫn cảm thấy bực bội. Làm sao Rachel lại biết được những gì anh và bác cô đã quyết định? Khả năng đoán biết của cô thật đáng nể cùng với cách cô xử lý không khoan nhượng chuyện đó. Nhưng anh cũng vẫn nhớ khoảnh khắc cô tỏ ra mỏng manh thế nào trên tháp nhà thờ, cặp mắt cô nhìn qua khoảng không giữa hai cái tháp. Nhưng ngay giữa lửa đạn, cô vẫn không nao núng. Thoáng lúc đó, anh bắt gặp Rachel liếc nhìn mình qua gương chiếu hậu. Dù đeo kính mát nhưng anh cũng biết cô đang chăm chú nhìn mình. Rất nhạy cảm với chuyện bị chiếu tướng, anh vội nhìn đi chỗ khác. Anh gõ tay xuống đầu gối như một phản ứng. Chưa bao giờ Gray gặp một phụ nữ làm anh bối rối như vậy. Trước đây anh cũng có bạn gái nhưng chẳng có gì kéo dài quá sáu tháng và cũng chỉ diễn ra khi học trung học. Lúc đó đầu óc anh còn quá bận rộn với chuyện học hành, rồi khi nhập ngũ thì lại quá tập trung cho chuyện nhà binh, lúc đầu ở lục quân rồi sau là biệt kích. Anh chưa bao giờ ở đâu lâu quá sáu tháng, vì vậy những cuộc tình cũng chỉ kéo dài không quá những ngày nghỉ cuối tuần. Trong tất cả những bông hoa biết nói đó chưa bao giờ anh gặp một người phụ nữ làm anh khó xử như cô ta, một phụ nữ đã cười rất dễ dàng lúc ăn trưa rồi lại quay ngoắt rắn như kim cương được mài nhẵn. Anh ngồi tựa lưng vào đệm xe, bên ngoài kia những hình ảnh làng quê cứ thế vụt lao qua. Họ để lại phía sau vùng hồ ở miền Bắc nước Ý, rồi đi xuống chân rặng Alps. Chuyến đi không còn dài, Milan chỉ cách đây bốn mươi phút ô tô.. Gray rất biết mình để hiểu được phần hấp dẫn của anh đối với Rachel. Anh không hề thích kiểu phụ nữ đứng giữa chừng, thơ ngây hay không biết tự quyết định. Nhưng anh cũng không thích loại cực đoan, hay e thẹn, nói năng the thé, không hòa hợp với những người khác. Anh ưa sự hòa hợp, hợp nhất được các thái cực khi cân bằng đạt tới nhưng lại không mất đi sự độc đáo. Đó chính là quan điểm m và Dương của đạo Lão. Ngay chuyện nghề nghiệp của anh cũng nói lên điều này: nhà khoa học và người lính. Lĩnh vực nghiên cứu của anh cũng tìm cách kết hợp giữa sinh học và vật lý. Anh đã có lần mô tả sự lựa chọn này với Painter Crowe: “Tất cả các môn hóa học, sinh học, toán học đều dẫn tới cái tích cực và tiêu cực, con số 0 và con số 1, ánh sáng và bóng tối”. Gray lại thấy sự chú ý của mình hướng tới Rachel. Triết lý đó phải chăng cũng đúng với phái yếu? Như không để cho Gray mải mê suy nghĩ tiếp, cú lượn cua đột ngột của Rachel đã làm anh đập mạnh vào thành xe. Cô buông tay, tăng ga cho xe vọt nhanh hơn nữa. Gray bừng tỉnh. Monk rên rỉ. Rachel chỉ hơi nhếch mép cười. Ai sẽ bị lôi cuốn bởi người phụ nữ này vậy? * ** 6 giờ 7 phút Washington D.C. Tám giờ đã trôi qua không có lấy một lời nào. Painter đi đi lại lại trong văn phòng. Ông đã ở đây từ 10 giờ đêm hôm trước, ngay khi tin tức về vụ nổ ở nhà thờ Cologne đến với ông. Từ đó đến giờ thông tin đến thật chậm chạp. Quá chậm. Nguồn gốc của vụ cháy trụi này: những quả bom nhồi đầy chất bột màu đen, phốt pho trắng và dầu cháy LA-60. Phải mất ba giờ sau khi khống chế được ngọn lửa mới vào bên trong được. Vào đó toàn là khói, hơi ngột ngạt cháy đến tận tường đá và sàn. Người ta phát hiện những mẩu xương cháy rụi. Có phải đó là nhóm của ông không? Hai giờ nữa trôi qua, đến lúc có tin về cho biết đã tìm thấy những phần còn lại của vũ khí cùng với hai thi thể. Những khẩu súng trường không thể xác định được. Nhóm của ông không hề sử dụng loại vũ khí này. Vậy ít nhất cũng thấy được thi thể của một số kẻ tấn công lạ mặt. Vậy còn những người khác thì sao? Trinh sát qua vệ tinh N.R.O xem ra vô dụng. Không cặp mắt nào trên bầu trời có thể lấy được ảnh chụp khu vực này vào giờ đó cả. Dưới mặt đất, những camera thương mại và hệ thống ghi hình công cộng vẫn đang được xem xét. Nhân chứng quá ít ỏi. Một kẻ vô gia cư ngủ gần Cathedral Hill cho biết có nhìn thấy một nhóm người chạy thoát khỏi nhà thờ lúc đang cháy. Nhưng độ cồn trong máu của y cho thấy vượt quá ngưỡng 1-5, một gã say rượu. Còn những cái khác đều im lặng. Điểm hẹn ở Cologne chưa ai động chạm đến. Và giờ vẫn còn chưa có một lời nào từ thực địa. Không có gì cả! Painter không thể không nghĩ đến khả năng xấu nhất. Tiếng gõ vào cánh cửa đang mở hé làm cắt ngang dòng suy nghĩ của ông. Ông quay lại, vẫy Logan Gregory vào văn phòng. Nhân vật phụ tá của ông cầm một tập giấy tờ trong tay, trên mắt anh ta cũng xuất hiện những quầng thâm. Logan cũng không về nhà, ngồi cùng với ông suốt đêm. Painter nhìn Logan đầy hy vọng có tin tức gì chăng. Logan lắc đầu: “Vẫn chưa có gì từ họ cả. Người ta đã kiểm tra tất cả sân bay, nhà ga xe lửa và đường xe bus”. “Vượt biên giới?” “Không thấy gì. Nhưng EU là một không gian mở, họ có thể vượt qua biên giới Đức bằng nhiều cách”. “Thế Vatican cũng không nghe được gì à?”. Một cái lắc đầu nữa: “Tôi đã nói chuyện với Hồng y Spera cách đây chỉ mười phút”. Có tín hiệu trên máy tính. Ông đến bàn làm việc, gõ phím để nối mạng đối thoại bằng video. Ông nhìn lên màn hình plasma treo trên tường trái. Một khuôn mặt hiện ra, sếp của ông, người đứng đầu DARPA. Tiến sĩ McKnight vẫn đang ở văn phòng mình ở Arlington. Ông ta đã trút bỏ bộ comple thường lệ, xắn tay áo sơmi, không cavat. Ông ta dùng tay vuốt mái tóc nâu lốm đốm bạc, dấu hiệu của sự mệt mỏi. “Tôi đã nhận được yêu cầu của anh” Ông sếp mở đầu. Painter ngồi thẳng người trên chiếc ghế. Logan lui ra phía cửa, tránh tầm ống kính camera. Logan muốn ra ngoài để cuộc nói chuyện tự nhiên hơn nhưng Painter đã ra hiệu cho anh ta ở lại. Yêu cầu của ông không phải là vấn đề có tính chất an ninh. Sean lắc đầu: “Tôi không thể đồng ý được”. Painter chau mày. Ông đã yêu cầu cấp trên cho phép thực hiện ngay lập tức một chuyến đi khẩn cấp đến thực địa. Có mặt ở Đức trong vụ điều tra. Có thể còn có những chi tiết những người khác bỏ sót. “Logan có thể trông nom công việc ở đây”. Painter lập luận. “Tôi có thể thường xuyên liên lạc với sở chỉ huy”. Khuôn mặt của Sean như đanh lại: “Painter, chính anh đang là người chỉ huy hiện nay”. “Nhưng…” “Anh không còn là điệp viên trên thực địa nữa”. Khuôn măt của ông bộc lộ rõ sự thất vọng. Sean thở dài: “Anh có biết đã bao nhiêu lần tôi phải ngồi ở văn phòng chờ tin của anh không? Phi vụ cuối cùng của anh ở Oman? Lúc đó tôi tưởng anh đã chết”. Painter nhìn xuống bàn làm việc. Ngổn ngang là tài liệu và hồ sơ, chẳng thể tìm thấy chút thư giãn nào trong đống giấy tờ này cả. Ông chưa bao giờ nghĩ rằng việc này đã làm ông sếp mình trước kia mệt mỏi như thế nào. Painter lắc đầu. “Chỉ có một cách xử lý như vậy thôi”. Ông sếp nói. “Hãy nghe tôi, những chuyện đó vẫn xảy ra như thông lệ”. Painter đối mặt với màn hình. Đau âm ỉ trong lồng ngực, phập phồng và nóng bỏng. “Anh phải tin vào các nhân viên của mình. Anh đã tung họ vào thực địa và một khi họ ở ngoài, anh phải có lòng tin. Anh đã lựa chọn người chỉ huy cuộc hành quân và ủng hộ anh ta. Liệu anh có tin rằng họ có đủ khả năng xử lý một tình huống thù địch không?” Painter cố hình dung Grayson Pierce, Monk Kokkalis và Kay Bryant. Họ là những người tốt nhất và tinh túy nhất trong lực lượng. Nếu như có người nào đó có thể sống sót… Painter chậm rãi gật đầu. Anh thực sự tin họ. “Hãy để cho họ thực hiện cuộc chơi của chính họ. Giống như anh đã làm. Một con ngựa chạy tốt nhất chỉ khi nào cầm dây cương nhẹ nhất”. Sean nhô người ra phía trước. “Những gì anh cần làm bây giờ là chờ đợi họ liên lạc. Đó là trách nhiệm của anh đối với họ. Sẵn sàng để trả lời. Không cần phải chạy sang Đức”. “Tôi hiểu”. Ông nói, khuôn mặt vẫn rầu rĩ. Vết đau tiếp tục âm ỉ bên mạng sườn. “À, anh đã nhận được cái gói tôi gửi tuần trước chưa?” Painter nhìn lên, đã thấy cười một nửa. Ông đã nhận được một gói quà từ ngài giám đốc. Một gói thuốc Turn để chữa bệnh đầy hơi, khó tiêu. Sean ngồi xuống ghế. “Đó chính là van xả hơi anh cần có trong công việc này”. Painter nhận ra sự thật trong lời nói của người bảo trợ. Đó quả là gánh nặng của người lãnh đạo. “Thật ra đi chiến trường vẫn dễ chịu hơn”, cuối cùng ông lẩm bẩm. “Không phải lúc nào cũng vậy” Sean nhắc ông, “Về lâu dài chắc cũng vậy thôi”. * ** 12 giờ 10 phút Milan, Italy. “Cửa bị khóa trái” Monk nói “Đúng như ngài đã nói”. Gray không tranh luận. Mọi việc xem ra có vẻ ổn. Anh chỉ muốn mau chóng vào trong, lấy được chỗ di cốt rồi nhanh chóng rời khỏi đây. Họ đứng ở một bên vỉa hè rợp mát chạy quanh mặt ngoài nhà thờ St. Eustorgio, gần một cửa ngách. Mặt trước nhà thờ được điểm xuyết khiêm tốn bằng gạch đỏ, phía sau là tháp chuông đồng hồ duy nhất, ở trên cùng là một cây thập tự. Quảng trường nhỏ tràn đầy ánh nắng lúc này vắng tanh. Năm phút trước, một chiếc xe tuần tra đi ngang qua, chậm chạp quan sát xung quanh. Tất cả xem ra có vẻ yên ắng. Theo gợi ý của Kat, từ một vị trí thích hợp ở xa họ đã xem xét toàn bộ khu vực ngoại vi nhà thờ. Gray cũng sử dụng bộ ống kính quan sát từ xa nhìn vào mấy cái cửa sổ. Xem ra không một bóng người ở gian thờ và gian giữa. Ánh nắng chói chang trên hè phố. Trời trở nên nóng hơn. Nhưng không hiểu sao Gray vẫn cảm thấy lạnh. Nếu chỉ có một mình anh sẽ ít thận trọng hơn chăng? “Chúng ta vào việc đi” Anh nói. Vigor bước vào cửa ngách, giơ tay định với cái đập cửa vốn là một cái chuông gắn cây thập tự. Gray ngăn lại: “Không, chúng ta nên im lặng vào thì hơn. Hãy làm như vậy”. Anh quay lại Kat chỉ cái khóa cửa: “Cô có thể mở cái này được không?”. Kat khom người rồi quỳ chân xuống. Monk và Gray đứng che cho cô. Chính xác như một nhà phẫu thuật, cô bắt tay vào chiếc khóa cửa. “Chỉ huy” Vigor nói. “Vi phạm nhà thờ…”. “Nếu như ngài đã được Vatican cho phép vào, thì điều đó chả có gì là vi phạm cả”. Một tiếng cạch đã chấm dứt ngay chuyện này. Cánh cửa hé mở. Kat đứng dậy rồi khoác balô lên. Gray vẫy những người khác: “Sẽ chỉ có tôi và Monk đi thôi. Hãy cảnh giới xung quanh”. Anh dựng cổ áo lên rồi cài tai nghe vào vị trí. “Hãy bật máy khi có thể. Kat, cô hãy ở đây cùng với Rachel và Vigor”. Gray gõ vào chiếc mic nhỏ để thử tiếng. Vigor bước lên trước: “Như tôi đã nói lúc trước, linh mục dễ nói chuyện với nhau hơn. Tôi sẽ đi với các anh”. Gray chần chừ, nhưng rõ ràng ngài linh mục có lý: “Vậy ngài phải luôn ở phía sau chúng tôi”. Kat không phản đối khi bị phân công giữ cửa nhưng mắt Rachel đã có ánh lửa. “Chúng ta cần phải có ai đó che chắn phía sau lưng nếu như sự việc tồi tệ đi”. Anh giải thích, nói trực tiếp với Rachel. Môi cô bặm lại, nhưng rồi cũng gật đầu. Thỏa mãn, anh quay đi, mở hé cửa rồi lách vào. Gian tiền sảnh tối om nhưng thật mát mẻ. Cánh cửa vào giáo đường đóng chặt, anh không phát hiện được gì. Sự im lặng của nhà thờ mang lại cảm giác thật nặng nề. Monk đóng cửa ngoài, phanh cái áo khoác ra để nắm báng súng. Vigor tuân theo chỉ dẫn của Gray, bước sau Monk. Gray đi tới cánh cửa giữa gian trong. Anh lấy một tay đẩy cửa mở, tay kia cầm khẩu Glock. Giáo đường sáng hơn hẳn tiền sảnh, tràn đầy ánh sáng tự nhiên từ các cửa sổ nhà thờ chiếu xuống. Sàn đá cẩm thạch bóng loáng như có nước khi phản chiếu ánh sáng mặt trời. Thực ra nhà thờ này nhỏ hơn nhiều so với nhà thờ Cologne. Thay vì có hình chữ thập, giáo đường ở đây dài dẫn thẳng đến ban thờ. Gray đứng im quan sát. Mặc dù sáng choang như vậy nhưng cũng còn nhiều chỗ có thể nấp được. Một hàng cột đỡ vòm mái cong. Năm ngôi đền nhỏ gắn vào bức tường bên phải để chứa đựng những ngôi mộ của các vị thánh và người tử vì đạo. Không có sự di chuyển nào. m thanh duy nhất vọng lại từ dòng xe cộ đi lại ngoài kia nghe như vọng về từ một thế giới khác. Gray bước vào, tiến tới giữa giáo đường, súng lăm lăm trong tay. Monk bước sang bên, vào vị trí có thể khống chế toàn bộ giáo đường. Họ im lặng đi ngang qua giáo đường. Không thấy bóng dáng nhân viên nào. “Có thể bọn họ đi ăn bữa trưa muộn”. Monk nói qua máy bộ đàm. “Kat, cô có nghe rõ không?” Gray hỏi. “Nghe rõ, thưa chỉ huy”. Họ đến cuối giáo đường. Vigor chỉ vào ngôi đền nhỏ nằm gần với ban thờ nhất. Trong góc của ngôi đền là một cái quan tài lớn, một nửa nằm trong bóng tối. Giống như cái quan tài ở Cologne, ngôi đền của ác vị Tiên tri có hình dạng như một nhà thờ, nhưng thay vì bằng vàng và đá quý, cái quan tài này lại được tạo ra bằng một phiến đá cẩm thạch duy nhất. Gray dẫn đường tới đó. Ngôi đền chỉ cao mười hai feet từ chân đến đỉnh, rộng bảy feet và dài mười hai feet. Chỗ duy nhất có thể nhìn vào bên trong là cái cửa sổ nhỏ có lưới che. Vigor thì thào, chỉ vào cửa sổ: “Qua đây có thể quan sát di vật trong khi hành lễ”. Gray tiến lại. Monk canh gác. Anh chẳng thích gì tình huống này. Anh cúi xuống nhìn qua cửa sổ. Sau tấm kính, một cái hộp nhỏ lót lụa trắng mở toang. Di cốt đã bị lấy đi. Vatican không còn cơ hội nữa. Và ông ta cũng vậy. “Người quản lý ở bên trái nhà thờ” Vigor nói, nghe hơi to. “Đó là chỗ văn phòng và nơi nghỉ, nối với phòng để đồ thờ”. Ông ta chỉ ngang qua nhà thờ. Sau câu nói của ông, cánh cửa mở hé ra trước giáo đường. Gray cúi khom người. Monk đẩy linh mục ra phía sau cái cột, vung súng lên. Một bóng người, không hề biết đã có người đột nhập. Đó là một người đàn ông trẻ, mặc áo chùng đen. Một linh mục. Ông ta vào một mình. Ông đi châm những ngọn nến lên trên bàn thờ. Gray chờ đến khi người đàn ông chỉ cách anh vài bước. Yên lặng, chưa có người nào khác xuất hiện. Chậm rãi, anh thẳng người bước ra phía ánh sáng. Vị linh mục sững người khi phát hiện ra Gray, cánh tay ông đang giơ lên định châm một ngọn nến khác. Khuôn mặt ông bỗng chuyển sang sợ hãi khi nhìn thấy khẩu súng trên tay Gray. “Che cosa vuoi?”. Gray phân vân. Vigor bước ra từ chỗ nấp: “Padre” Vị linh mục nhảy dựng lên, cặp mắt ông đảo sang phía Vigor. Ngay khi nhận ra đó là một linh mục, nỗi sợ hãi ở ông ta biến mất. “Tôi là Monsignor Verona”. Vigor giới thiệu, bước lên trước. “Đừng sợ”. “Ngài Verona?” Sự bối rối hiện rõ trên khuôn mặt. Ông ta lui lại một bước. “Có chuyện gì vậy?” Gray hỏi bằng tiếng Ý. Linh mục lắc đầu: “Không thể là ngài Verona”. Vigor bước lên chìa cho ông ta xem thẻ căn cước Vatican. Người đàn ông liếc nhìn cái thẻ rồi nhìn Vigor. “Nhưng có một người đàn ông đến đây từ sáng nay, ngay sau rạng đông. Một người đàn ông cao, rất cao. Ông ta cũng mang giấy tờ của Vatican chứng nhận là ngài Verona, dấu má cẩn thận để lấy đi chỗ di cốt”. Gray liếc nhìn ngài linh mục, Họ đã bị chậm chân rồi. Thay vì hành động một cách man rợ, lần này Long Đình lại chơi trò ranh ma. Vì sự cần thiết, do an ninh được tăng cường. Do tin chắc ngài Verona đã chết, Long Đình đã đảm đương vai trò của ông. Giống như những điều khác, chúng chắc phải biết nhiệm vụ bổ sung của Vigor là tới đây thu hồi chỗ di cốt. Chúng đã khôn khéo tuồn chỗ di cốt cuối cùng qua mặt an ninh được tăng cường ở đây. Gray lắc đầu. Họ lại tiếp tục chậm chân. “Mẹ kiếp” Gray văng tục. Vị linh mục cau mày nhìn anh. Rõ ràng ông ta hiểu tiếng Anh để không vừa lòng với ngôn ngữ của người đàn ông này trong ngồi nhà của Chúa. “Lũ chó đẻ” Monk văng tiếp. Gray hiểu được sự bực bội của Monk, nhất là ở địa vị anh là nhiều chỉ huy phi vụ. Anh cố kìm nén sự tức giận. Họ đã di chuyển quá chậm, hành động quá thận trọng. Máy bộ đàm reo. Kat ở đầu dây, có thể cô đã nghe rõ cuộc đối thoại. “Nghe có rõ không, chỉ huy?” “Rõ… nhưng quá chậm” Anh trả lời, chua chát. Kat và Rachel đến chỗ họ. Vigor kể lại sự việc. “Như vậy là số di cốt đã biến mất”. Rachel nói. Vị linh mục gật đầu. “Thưa ngài Verona, nếu như ngài muốn xem chỗ giấy tờ, chúng tôi để nó trong két phòng chứa đồ. May ra điều đó có thể giúp gì”. “Chúng ta có thể kiểm tra vân tay”. Rachel nói, giọng mệt mỏi. Cuối cùng thì sự mệt mỏi cũng đến với cô. “Có thể chúng bất cẩn, không chờ chúng ta theo chân chúng. Điều đó có thể chỉ ra ai là kẻ phản bội ở Vatican. Có thể đây là đầu mối duy nhất của chúng ta”. Gray gật đầu: “Được, chúng ta xem có thể tìm được gì chăng”. Rachel và ngài Verona đi ngang qua giáo đường. Gray quay lại chỗ quan tài. “Có ý tưởng gì không?” Monk hỏi. “Chúng ta vẫn còn chỗ bột màu xám thu được từ chiếc quan tài bằng vàng”. Gray nói “Chúng ta sẽ tập hợp nhau lại ở Vatican, báo động mọi người về những chuyện đã xảy ra và thử chỗ bột kỹ càng hơn”. Khi cánh cửa căn phòng chứa đồ đóng lại, Gray quỳ xuống cánh cửa sổ nhỏ lần nữa, phân vân nếu như cầu nguyện có thể giúp được. “Chúng ta cần phải hút chân không chỗ bên trong”. Anh cố gắng nói một cách khoa học “ Thử xem chúng ta có thể khẳng định được sự tồn tại của chất bột hỗn hợp ở đây không”. Anh tựa vào sát hơ, nhòm vào bên trong, không chắc chắn mình định tìm cái gì. Nhưng anh cũng tìm thấy nó. Một dấu vết ở phía nóc bọc lụa của quan tài. Một dấu đỏ ấn vào vải lụa trắng. Một con rồng cuộn đuôi nhỏ xíu. Vết mực trông rất mới, quá mới. Nhưng nó không phải vẽ bằng mực. Máu! Một lời cảnh cáo do Long nương để lại. Gray đứng thẳng người, đột nhiên hiểu ra sự thật.