100_dieu by Unknown 100_dieu en97393147DC Tân Việt Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam Thông tin sách Thông tin về tựa sách : Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam Tác giả : Tân Việt Nhà xuất bản : Văn hóa dân tộc Năm xuất bản : 2001 Thực hiện ebook : Nguyễn Xuân Bình 1. Nam nữ thụ thụ bất thân nghĩa là gì ? Đây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của nhà nho. Người đà n ông và người đà n bà ngà y xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng ? (Hai chữ “thụ thụ” trái ngược nghĩa: một chữ “thụ” là trao cho, một chữ “thụ” là nhận). Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ têm trầu, xếp và o cơi trầu, đặt giữa bà n, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình yêu trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ còn đôi mắt thầm lén nhìn nhau! Người châu Âu từ nhỏ đến già , theo phép lịch sự bắt tay nhau, nhảy với nhau là chuyện thường. Nhưng, người Việt Nam và người á Đông nói chung, nam nữ vô ý chạm và o da của người khác giới thì coi như có cử chỉ không đứng đắn. Người đà n ông có thái độ suồng sã sẽ bị đà n bà xa lánh, nhưng không đáng lo bằng người con gái lẳng lơ, bị xã hội dèm pha thì khó mà lấy được tấm chồng cho đáng tấm chồng. Vì vậy các nhà quyền quý thường “cấm cung” con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thà nh sự ngăn cách giới tính. Thời phong kiến xưa, chỉ những người có tư tưởng tân tiến mới cho con gái đi học, và có đi học thì con trai ngồi riêng con gái ngồi riêng. Trai gái đi cùng nhau, vui chơi cùng nhau bị bạn bè cùng lứa chế nhạo. Có hội hè đình đám cũng phải phân biệt đà n ông đứng bên trái, đà n bà đứng bên phải. Ở thà nh thị, vợ chồng nằm ngủ với nhau một giường là chuyện bình thường, nhưng xin các bạn lưu ý, ở nông thôn đà n bà nằm nhà trong, đà n ông nhà ngoà i đã trở thà nh nếp rồi. Ngà y xưa, phổ biến mọi nơi đều thế, ngà y nay lệ đó vẫn còn ở nhiều vùng, nhiều nhà . Nếu các bạn có dịp về thăm bà con họ hà ng ở quê thì tốt nhất hai vợ chồng nên tránh nằm chung giường kẻo các cụ còn cảm thấy chướng mà phật ý. 2. Mối lái là gì ? Trong xã hội phong kiến xưa “Nam nữ thụ thụ bất thân” nên hôn nhân cần phải người môi giới. nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê trách là “Phải lòng nhau” “Mắc phải bùa yêu”. Nguyễn Du đã vạch đường cho Kim Trọng. Thuý Kiều cứ yêu nhau rồi sẽ “Liệu bà i mối manh” nên các cụ nhà nho mới kịch liệt phản đối khuyên con cháu rằng: "Đà n ông thì chớ Phan Trần, Đà n bà thì chớ Thuý Vân, Thuý Kiều" Chu Mạnh Trinh vịnh Kiều còn nói: “Chỉ vì một tội mối manh chưa có, thề thốt đã nhiều; trăng gió mắc và o, phồn hoa dính mãi”...Nếu không có “Nhà băng đưa mối” thì nhà trai là m sao biết được người thục nữ trong cửa các phòng khuê. Trong xã hội cũ, có những người chuyên là m nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa thì bà mối sẽ trở thà nh ân nhân suốt đời. lễ tơ hồng xong, tạ bà mối một nửa mâm xôi, nửa con gà kèm theo chiếc áo lụa. Chẵn tháng con đầu lòng thế nà o cũng cố mời bà mối đến dự, để tỏ nghĩa tri ân. Nhưng cũng có nhiều tai hoạ do những bà mối có động cơ bất chính gây nên, để đôi trẻ suốt đời mang mối hận vì phận hẩm duyên hiu: ...“Hoặc là bởi ”Mẹ thầy lộn quýt“, quên những thói mơ tôm mảng cá, qua lại ít nhiều ngọt miệng, ép uổng duyên cô nông nỗi thế, nặng tiền tà i mà nhẹ gánh tình chung. Hay vì chưng ”Mối lái đèo bòng“, chẳng nhằm khi và o lộng ra khơi, nói phô mật ngọt rót và o tai, dỗ dà nh phận gái ngẩn ngơ tình, già nhân sự để non quyền tạo hoá”... (Trích “Văn tế sống người con gái” - Một bà i văn tế khuyết danh được truyền tụng ở Hà Tĩnh và o đầu TKXX). Ở xã hội mới cũng cần có bà mối, bà mối thời nay là người cố vấn, người đỡ đầu cho đôi trẻ xây dựng hạnh phúc lâu dà i. trong tương lai, có lẽ vai trò của bà mối là những phương tiện thông tin đại chúng (như quảng cáo trên Đà i truyền thanh truyền hình, báo chí, chụp ảnh) và những công ty du lịch, câu lạc bộ những người độc thân... Điều 3 : Lễ vấn danh có nghĩa gì ? “Lễ vấn danh” là lễ nhà trai đến nhà gái để hỏi tên tuổi cô gái, ngà y nay gọi là lễ “Chạm ngõ” hay là lễ “Dạm” (có nơi kiêm cả lễ dạm và hỏi cùng một lúc gọi là lễ dạm hỏi). Truyện Kiều có câu “Tiện đưa canh thiếp trước cầm là m ghi”. “Canh thiếp” là giấy ghi họ tên, tuổi, quê quán, con ai. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ở nhiều vùng nông thôn, con gái từ khi sinh đến khi lấy chồng vẫn chưa đặt tên, nếu như gia đình không cho con gái đi học. Con gái không cần và o sổ họ, sổ là ng, không đi học nên cũng không cần dặt tên vội. ở trong nhà con gái mới sinh ra được gọi là con Hĩm, con Mực, con Chắt em...Trong nhà gọi tên gì thì xóm giềng gọi theo tên đó. Đến là m lễ vấn danh, ông bác hoặc bố mới đặt cho cái tên để ghi trong giấy hôn thú, có khi chính người mang tên cũng không biết mình mang tên gì trong giấy hôn thú, vì khi về nhà chồng lại gọi theo tên chồng, khi có con gọi theo tên con, có cháu đích tôn gọi theo tên cháu. Lễ vấn danh không phải để hỏi tên mà chủ yếu là hỏi tuổi, để hai họ quyết định đôi nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, tuổi xung khắc thì thôi. Trong hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi hay không, gia đình nà o thận trọng mới tìm hiểu kỹ “Công, dung, ngôn, hạnh” (thường là các gia đình gia giáo). Chẳng những các chà ng trai, trước khi cưới chưa biết mặt vợ, mà có những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu cũng không biết mặt con dâu, do đó trong gia đình sau nà y mới xảy ra nhiều chuyện oái oăm: -“Cảm ơn ông bà thương đến, tôi xin đồng ý gả, nhưng xin thưa chuyện trước: con tôi mồm mép chẳng bằng ai!” Tưởng như vậy là mình tìm được con dâu hiền hậu, không đanh đá chua ngoa, ai ngờ cưới về mới biết con dâu sứt môi!. Nhưng đã nhỡ việc, biết tính sao ? Lại có trường hợp đánh tráo: Khi đi hỏi thì cho thằng em nhanh nhẹn và “sạch mặt” hơn đóng vai chà ng rể, đến khi cưới thì lại cưới cho thằng anh đần độn, xấu xí. “Miếng trầu để dâu nhà người”, biết tính sao đây ? Dầu sao cũng mang tiếng một đời chồng. Điều 4 : Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống có đúng... Đối với các cụ thì câu hỏi nà y thừa, vì “Nòi nà o giống ấy”,“Cây nà o quả ấy”,“Giỏ nhà ai quai nhà ấy”,“Con nhà công chẳng giống lông cũng giống cánh”, “Tìm nơi có đức gửi thân”, ai chẳng muốn có trai hiền gái đảm, rể thảo dâu hiền. Thời nay, một số bạn trẻ coi thường cho là phong kiến lạc hậu. Có những đôi trai gái mới chỉ gặp nhau trên một đoạn đường, đã vội đính ước, tính chuyện vuông tròn, thậm chí họ đã biết rõ cả “Ngọn nguồn lạch sông”!!!Đà nh rằng cũng có trường hợp “Một ngà y nên nghĩa, chuyến đò nên duyên”, song thà nh công là cá biệt, thất bại là phổ biến. “Tìm tông, tìm họ” không có nghĩa là tìm chốn sang già u, khinh người nghèo khó, mà chủ yếu là tìm nơi có gia giáo, có đức độ. “Cha mẹ hiền là nh để đức cho con”,“Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Con người sinh ra lớn lên do nhiều yếu tố xã hội chi phối, nhưng nam nữ thanh niên mới lớn lên, trường đời chưa từng trải, giáo dục gia đình là yếu tố quan trọng và chủ đạo. Hôn nhân là việc hệ trọng, tác động cả đời, mà con người rất dễ mù quáng trong tình yêu. Qua tuần trăng mật không phải mọi việc trong quan hệ vợ chồng đều suôn sẻ. khi có những việc khó khăn, trục trặc trong cuộc sống, ai cũng muốn tìm điều hay lẽ phải để giải quyết cho thoả đáng. Lúc đó cần dựa và o “Tông”, và o họ hà ng, tìm những tình cảm chân thà nh và tri thức đúng đắn. “Môn đăng hộ đối”, tức là tìm nơi hai gia đình, hai bên thân thuộc, có những mặt cân đối phù hợp với nhau, chứ đâu phải bắc bậc leo thang, kẻ khinh người trọng. Ngoà i ra còn một yếu tố nữa: Tính đến gien di truyền. Ngà y xưa trong một và i hoà n cảnh đặc biệt có ông chồng thoả thuận ngầm với vợ đi “Xin nòi”. Xin lưu ý: những người đà n bà đó không thuộc loại lẳng lơ đâu - ta cũng chỉ cần biết nói nhỏ với nhau thôi và nhấn mạnh “Hoà n cảnh đặc biệt”! Điều 5 : Người trong cùng họ có lấy nhau được không ? Ở các nước Âu Mỹ, anh chị em con chú bác ruột vẫn có quyền lấy nhau, qua tác phẩm “Ơgiêni Grăngđê” ta thấy mối tình giữa hai anh em con chú bác ruột Grăngđe và Ơgiêni sở dĩ trắc trở là do thói keo kiệt biển lẩn của lão Grăngđê, chứ tác giả không đả động đến vấn đề chung huyết thống. Trung Quốc là một nước chịu ảnh hưởng của văn hoá phong kiến nặng hơn ta nhiều, nhưng anh chị em con cô, cậu ruột, con dì ruột vẫn được lấy nhau. Xem Bảo Thoa, Bảo Ngọc... trong “Hồng Lâu Mộng” yêu nhau, lấy nhau là chuyện bình thường. Ở nước ta, dưới triều Trần, con cháu nhà vua chỉ được lấy người trong Hoà ng tộc (lấy sang họ khác sợ bị nạn ngoại thích cướp ngôi). Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn lấy Thiên Thà nh công chúa, tức là cô ruột của mình. Vua Trần Thánh Tông lấy Thiên Cảm Hoà ng hậu, tức chị con bác ruột. Vua Trần Minh Tông lấy Lệ Thánh Hoà ng hậu, tức con chú ruột, đều là cháu nội vua Trần Nhân Tông vv... Còn trong dân gi­an từ triều Lê về sau, nếu trong họ nội thân cùng quê mà lấy nhau gọi là hôn thú, họ hà ng không chấp nhận. Nếu cùng họ nhưng đã xa đời, thuộc chi khác nhau hay đã xa quê (gọi là biệt tổ ly tông) thì vẫn lấy nhau được. Thời xưa, do trọng nam khinh nữ, hoặc thiếu hiểu biết về gien di truyền, nên anh chị em con cô, cậu ruột coi như khác họ vẫn có quyền là m thông gia với nhau. Ca dao tục ngữ trong dân gi­an còn ca ngợi trường hợp cháu cậu mà lấy cháu cô, coi như “Thóc lúa trong bồ, giống má nhà ta”. Nhưng di truyền học đã khẳng định rằng người có chung huyết thống mà có con với nhau thì qua nhiều đời dòng giống bị thoái hoá, có trường hợp bị quái thai, vì vậy anh em họ lấy nhau, kể cả họ nội hay họ ngoại đều không có lợi. Luật pháp nước ta qui định cùng chung huyết thống ba đời, kể cả bên bố hay bên mẹ, đều không được lấy nhau. Điều 6 : Sự tích tơ hồng “Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên” dựa theo tích Vi Cố gặp ông lão trong một đêm trăng, ngồi kiểm sách hướng về phía mặt trăng, sau lưng có cái túi đựng đầy dây đỏ. Ông lão bảo cho biết đây là những văn thư kết hôn của toà n thiên hạ. Còn những dây đỏ để buộc chân những đôi trai gái sẽ thà nh vợ thà nh chồng. Một hôm, Vi Cố và o chợ gặp một bà già chột mắt ẵm đứa bé đi qua. Bỗng ông già lại hiện lên cho biết đứa bé kia sẽ là vợ anh. Vi Cố giận, bảo đà y tớ tìm giết đứa bé ấy đi. Người đầy tớ lẻn đâm đứa bé giữa đám đông rồi bỏ trốn. Mười bốn năm sau, quan Thứ Sử Trương Châu là Vương Thái gả con gái cho Vi Cố. Người con gái dung nhan tươi đẹp, giữa lông mà y có đính một bông hoa và ng. Vi Cố gạn hỏi, vợ mới bảo: Thuở còn bé, một bà vú họ Trần bế và o chợ bị một tên cuồng tặc đâm phải. Vi Cố hỏi: Có phải bà vú đó chột mắt không ? người vợ bảo: Đúng thế! Vi Cố kể lại chuyện trước, hai vợ chồng cà ng quý trọng nhau cho là duyên trời định sẵn. Mẩu chuyện vui: Tình yêu là m cho con người lú lẫn. ...“Tâu Thượng đế, theo hạ thần thì thượng đế không cần đòi lại trí khôn của con người. là m như thế không khỏi mang tiếng là trời nhỏ nhen. Điều mà thượng đế nên là m là hạn chế trí khôn của con người.” -“Bằng cách nà o”? -“Chỉ có tình yêu-​Không có gì là m con người lú lẫn đi như trong tình yêu. Trời chỉ cần phái một vị thần mang vòng dây xuống trần, cứ đôi trai gái nà o ở gần nhau thì quăng cho một vòng. Người nà o cà ng thông minh thì cần quăng thêm cho nhiều vòng. Con người chỉ luẩn quẩn trong những vòng ấy mà chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện lên quấy nhiễu nhà trời nữa”. Trời khen “Thật là diệu kế”!, bèn truyền cho ông tiên già mang những chiếc vòng của trời xuống trần gi­an. Từ ngà y bị ông tiên già khoác và o người mình những vòng dây tình ái, con người chỉ luẩn quẩn với nhau, không còn nghĩ tới chuyện đánh nhau với trời nữa. Ông tiên già ấy được gọi là ông “Tơ” . Điều 7 : Tục thách cưới hay dở ra sao ? Đã “Thách” là dở hoặc dở nhiều mà hay ít. Thời nay tôn trọng tự do luyến ái hôn nhân, luật hôn nhân trong chế độ mới đã giải phóng cho nam nữ thanh niên, nhưng luật tục còn gò bó, trói buộc. thách cưới cũng là một lệ tục lạc hậu rơi rớt lại, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái, có khi là m cho chà ng rể phải bỏ cuộc mà nỗi thiệt thòi nhất lại rơi và o thân phận người con gái, dẫu sao cũng mang tiếng một đời chồng, dẫu sao cũng là m cho những chà ng trai khác phải ngại, xui nên phận hẩm duyên hiu. Ngay thời trước cũng đã có câu: “Giá thú bất luận tà i”. Đáng lẽ nên vợ nên chồng, thà nh gia thà nh thất, là mừng cho cả hai gia đình, nhưng gặp phải một và i bà cô, ông bác bên nhà gái khó tính, thách cưới nà o quần áo, nón dép, nà o rượu bánh cau trầu, che thuốc, nà o nếp tẻ, lợn gà , nà o nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt, lại còn tính đủ cỗ dâu cỗ cưới bao nhiêu mâm, nên nhà trai phải bỏ cuộc. Cũng có đám nhà trai phải chạy ngược chay xuôi, lo xong việc rồi kéo cà y trả nợ; song, ngay từ buổi thà nh hôn, nghĩa vợ chồng, tình thông gia đã bị sứt mẻ, đó là mầm mống gây nhiều bất trắc về sau. Cũng có trường hợp, nhà gái túng thiếu không đủ tự lực cung cấp cho đủ cái lệ là ng “Trả nợ miệng”, đòi hỏi nhà trai phải lo chu toà n. Cũng có trường hợp, bố mẹ cô dâu còn phải xuất ra gấp năm gấp mười lần và sau khi thà nh thân còn cho con gái, con rể nhiều thứ, nhưng cũng thách cưới cao để tránh tiếng xì xà o, đà m tiếu, cho rằng con mình dở duyên rồi, nên phải cho không. “Hay ít” là để dà nh cho những gia đình có học thức, không thách tiền, thách của mà thách chữ nghĩa văn chương với ý đồ chọn rể con nhà gia thế, với hy vọng tương lai con mình còn được “Lọng anh đi trước võng nà ng theo sau” chứ không đến nỗi phải rơi và o những anh chà ng “Vai u thịt bắp” nơi “Nước mặn đồng chua”. Điều 8 : Bánh su sê hay bánh phu thê ? Trong lễ cưới có nhiều lễ vật, nhưng không thể thiếu bánh “Su sê”, nguyên xưa là bánh “Phu thê”, một số địa phương nói chệch thà nh bánh “Su sê”. Bánh su sê là m bằng bột đường trắng, dừa, đậu xanh và các thứ hương ngũ vị, nặn hình tròn, bọc bằng hai khuôn hình vuông úp lại với nhau vừa khít, khuôn là m bằng lá dừa, lá cau hoặc lá dứa, vỏ để nguyên không luộc để giữ mà u xanh thắm. Sở dĩ gọi là bánh phu thê (chồng vợ) vì đó là biểu tượng của đôi vợ chồng phận đẹp duyên ưa: vuông tròn, trong trắng mềm dẻo, ngọt ngà o, thơm tho, xanh thắm, đồng thời cũng là biểu tượng của đất trời (trời tròn, đất vuông) có âm dương ngũ hà nh: Ruột trắng, nhân và ng, hai vỏ xanh úp lại buộc bằng sợi dây hồng. Điều 9 : Tiền nạp theo (hay treo) là gì ? Tiền “cheo” là khản tiền nhà trai nạp cho là ng xã bên nhà gái. Trai gái cùng là ng xã lấy nhau cũng phải nạp cheo song có giảm bớt. Xuất xứ của lệ “Nạp cheo” là tục “Lan nhai” tức là tục chăng dây ở dọc đường hoặc ở cổng là ng. Đầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta chúc tụng, có nơi còn đốt pháo mừng. Để đáp lễ, đoà n đưa dâu cũng đưa trầu cau ra mời, đưa quà , đưa tiền biếu tặng. Dần đần có những người là m ăn bất chính, lợi dụng cơ hội cũng chăng dây, vòi tiền, sách nhiễu, trở thà nh tục lệ xấu. Vì thói xấu lan dần, gây nhiều cản trở, triều đình phải ra lệnh bãi bỏ. Thay thế và o đó, cho phép là ng xã được thu tiền cheo. Khi đã nạp cheo cho là ng, tức là đám cưới được là ng công nhận có giấy biên nhận hẳn hoi. Ngà y xưa, chưa có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Nạp cheo so với chăng dây là tiến bộ. Khoản tiền cheo nà y nhiều địa phương dùng và o việc công ích như đà o giếng, đắp đường, lát gạch, xây cổng là ng...Nhưng nhiều nơi chỉ cung đốn cho lý hương chè chén. Đã hơn nửa thế kỷ, lệ nà y bị bãi bỏ rồi. Thanh niên ngà y nay chỉ còn thấy bóng dáng của tiền cheo qua ca dao- tục ngữ. - Nuôi lợn thì phải vớt bèo Lấy vợ thì phải nộp cheo cho là ng. - Cưới vợ không cheo như tiền gieo xuống suối. - Ông xã đánh trống thình thình Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo. - Lấy chồng anh sẽ giúp cho Giúp em... Giúp em quan tám tiền cheo Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau. Thật quá cường điệu, Chứ tiền cheo không thể vượt quá tiền cưới. Điều 10 : Những cách gỡ bí cho bạn trẻ khi lo đám cưới Đáng lẽ mừng đám cưới như tục lệ trói buộc thà nh ra lo đám cưới. Tục cũ đã truyền nhiễm lâu không dễ một mai đổi ngay được. Vậy phải là m thế nà o? Để giúp các gia đình cưới dâu, một số gia vùng nông thôn có tục góp lễ cưới: đầu năm gia đình báo cho họ hà ng xóm giềng biết dự định cưới dâu và o tháng nà o, thông thường và o sau vụ thu hoạch. Lần lượt các gia đình đóng góp các khoản gạo nếp, gạo tẻ, đậu xanh, rượu hoặc tiền theo định lượng. Còn lợn gà thì gia đình nà o tự liệu cho gia đình ấy. Tục góp cưới cũng giống như hội tương tế tương trợ, hội cà y cấy, hội lợp nhà ... luân phiên các gia đình. Đây là một tục hay, cùng nhau lo dần đến lượt mình đỡ phải lo những khoản lớn. Tiền, quà cưới của khách, bạn đưa tới thực chất cũng là hình thức góp lễ cưới, nhưng không chủ động được kế hoạch, thứ có không cần, thứ cần không có, thà nh ra tốn kém. Lệ chơi họ ngà y nay, chung vốn để kinh doanh buôn bán cũng là xuất phát từ hình thức góp tiền nhau để là m nhà cưới vợ, tậu trâu bò ở nông thôn. Vì xuất phát từ họ hà ng giúp nhau nên mới gọi là chơi họ. Nếu Đoà n Thanh niên địa phương nà o vững mạnh, cán bộ đoà n công tâm liêm khiết tháo vát, tổ chức “Hội chơi họ cưới vợ” có kế hoạch quản lý kinh doanh sử dụng phân phối chặt chẽ, ắt được nhiều bạn thanh niên hưởng ứng, tham gia...Bước đầu cũng đã có một số địa phương tổ chức “Dịch vụ đám cưới” như mua sắm cho thuê quần áo cưới, bát đĩa, ấm chén bà n ghế, phông mà n, tổ chức trang trí, chụp ảnh, ca nhạc...vừa kinh doanh gây quỹ, vừa phục vụ thuận tiện, có chế độ ưu đãi với người góp cổ phần,với Đoà n viên. Điều 11 : Cô dâu trước khi về nhà chồng phải có những... Khi nhà trai bắt đầu đến đón dâu thì cô dâu cùng với chú rể đến trước bà n thờ gia tiên, khấu đầu là m lễ, tự khấn niệm xin tổ tiên chấp nhận kể từ nay nên vợ nên chồng, phù hộ cho trăm năm duyên ưa phận đẹp, cầm sắt gi­ao hoà . Cũng có thể nhờ gia trưởng khấn hộ cho có bà i bản hẳn hoi. Lễ xong, hai người đưa hộp trầu, bao thuốc, đi mời chà o thân nhân, khách, bạn khắp một lượt, người nhà sau, những đám cưới có tổ chức thường đã có sự sắp xếp vị trí sẵn. Trong khi chà o mời, cô dâu phải giới thiệu cho chà ng rể biết mối quan hệ để biết cách xưng hô. Sau cùng, trước khi bước ra cửa để về nhà chồng là lễ tạ cha mẹ: Cha mẹ ngồi sẵn một phía ở cửa chính, nếu ông bà nội ngoại còn thượng tại có đến dự thì ông bà cũng ngồi chung một phía, nhưng ở ghế cao hơn. Thời xưa cả đôi tân hôn phải lạy hai lạy, ngà y nay châm chước, cúi đầu cung kính “Xin phép ông bà , cha mẹ con về nhà chồng”, “Xin phép ông bà , cha mẹ con xin đón em X về”. Lúc đó, cha mẹ ban phát cho con gái, con rể một vật gì đó là m kỉ niệm, có thể là nột cái bút, một gương soi nho nhỏ, một cuốn sách hoặc một chiếc khăn, chiếc quạt....Nhà giầu còn cho thêm hoa tai, nhẫn cưới hoặc quan tiền... (Chú ý, những thứ nà y nhà trai đã đưa đến hôm lễ nạp tà i. Trong gói quà của bà mẹ cho con gái có cái châm cà i tóc, hoặc bảy chiếc kim đính tóc hoặc kim khâu gói trong khăn vuông). Đối với ông bà cũng có những động tác tương tự. Điều 12 : Lễ xin dâu có ý nghĩa gì ? Lễ nà y rất đơn giản: Trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường là bà bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoà n đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sà ng đón tiếp. Phong tục nà y có nhiều ý nghĩa hay: Mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngà y giờ và thà nh phần đưa đón rồi, nhưng để đề phòng mọi sự bất trắc, mọi tin thất thiệt, nên mới định ra lễ nà y, biểu hiện sự cẩn trọng trong hôn lễ. Thời gi­an nà y chú rể và cha mẹ chú rể rất bận rộn không thể sang nhà gái, nên nhờ người đại diện sang báo trước như bộ phận “Tiền trạm”. Để trong trường hợp vạn nhất hoặc do thời tiết, hoặc do trở ngại gi­ao thông, gần qua giờ quy ước mà đoà n đón dâu chưa đến, nhà gái biết để chủ động là m lễ gia tiên hoặc phái người sang nhà trai thăm dò. Trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thoả thuận với nhau miễn là bớt lễ nà y, hoặc nhập lễ xin dâu và đón dâu là m một. Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hà nh như sau: Khi đoà n đón dâu đến ngõ nhà gái, đoà n còn chỉnh đốn tư trang, sắp xếp lại ai đi trước, ai đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu họ cùng với một người đội lễ (một mâm quả trong đựng trầu cau, rượu... ) và o trước,đặt lên bà n thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn toà n đoà n và o là m lễ chính thức đón dâu. Lễ nà y phải tiến hà nh rất nhanh. Thông thường nhà gái vái chà o xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cùng ra luôn để đón đoà n nhà trai và o. Điều 13 : Mẹ chồng là m gì khi con dâu về đến nhà ? Phong tục ở mỗi địa phương một khác, trái ngược nhau nhưng đều có ý nghĩa hay: Ngà y xưa ở nhiều địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh có lệ tục mẹ chồng ra cất nón cho con dâu: Nhà trai đặt sẵn trước ngõ một cái nồi đồng, một cái gáo, trong nồi đặt sẵn một quan tiền đồng và đựng đầy nước trong. Cô dâu và o đến cổng dùng gáo múc nước rửa mặt mũi, chân tay, mẹ chồng bước ra cất nón cho con dâu. Con dâu, một tay cầm lấy quan tiền, một tay vẫn cầm quạt che mặt. Mẹ chồng dắt con dâu và o nhà đặt quan tiền và cái quạt lên bà n thờ, cúi đầu lễ gia tiên (bốn lạy ba vái theo tư thế của nữ). Sau đó mẹ chồng dắt cô dâu cầm cả tiền và quạt và o buồng. Trong buồng đã chuẩn bị sẵn trầu nước hoa quả, giường chiếu mới. Đôi chiếu trải úp và o nhau, do một người thân trong họ có tuổi tác, vợ chồng song toà n, con cháu đông, là m ăn nên nổi, được gia đình mời đến trải chiếu; nếu mẹ chồng có đủ tiêu chuẩn trên thì mẹ chồng trực tiếp dọn giường trải chiếu, nhưng bố chồng thì không được. Khi con dâu nghỉ ngơi xong, khăn yếm chỉnh tề mới bưng hộp trầu ra chà o họ. Trường hợp mẹ chồng đã mất thì một bà cô hay bà dì thay thế. Phong tục nà y có nhiều ý nghĩa: - Thời xưa, con dâu trước khi về là m dâu, còn hoà n toà n xa lạ, bỡ ngỡ, chưa biết đâu là buồng đâu là bếp, ai là bố mẹ chồng. Trừ trường hợp xóm giềng quen biết nhau từ trước không tính, là thân phận con gái chưa cưới đã về nhà trai thì bị dư luận gièm pha là con nhà hư đốn. Có người chồng lại rụt rè e lệ, có trường hợp trước lễ cưới chưa hề tỏ mặt nhau, vậy nên mẹ chồng niềm nở ra đón dâu, dắt dâu và o nhà là hay, là phải lẽ. Mới bước về nhà chồng đã được tổ tiên, ông bà , cha mẹ chồng ban phước lộc, dồi dà o như nước quan tiền là biểu tượng vốn liếng của riêng mà mẹ chồng trao cho. Nhiều địa phương lại có tục khác: Khi con dâu vừa và o đến nhà thì mẹ chồng cầm chiếc bình vôi tạm lánh sang hà ng xóm ít phút. Tục đó cũng có ý nghĩa hay: Tức là mẹ chồng đã xác định vai trò, trách nhiệm con dâu sẽ về là m chủ, mẹ chồng sẵn sà ng trao quyền công việc trong nhà trong cửa cho con dâu, nhưng không phải trao toà n quyền đẩy hết trách nhiệm mà bà vẫn là người nắm quyền điều hà nh, vì bình vôi là vật tượng trưng cho bà Chúa trong nhà . Điều 14 : Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa cô... Trong chế độ phong kiến cũ, hôn nhân cưỡng ép, thường là cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Thực ra, trong nhiều gia đình, người cha quyết định mọi việc, người mẹ chỉ biết tuân theo. Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái oăm: Ngà y con gái vu quy đáng lẽ là ngà y vui nhất trong đời nhưng người thì khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc, người thì lo sợ cảnh là m dâu, là m vợ, từ tấm bé chưa rời mẹ, nay tự nhiên mẹ con xa nhau; mẹ thương con còn thơ dại, cũng mủi lòng sụt sùi khóc. Thế là , trong khi hai họ đang vui mừng yến ẩm ở nhà ngoà i thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về. Tan tiệc, nhà trai chẳng tìm thấy cô dâu đâu nữa. Qua một và i đám đại loại như vậy người ta rút kinh nghiệm không nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu, dần dần bắt chước nhau, trở thà nh tục lệ. Một và i địa phương, cả bố cô dâu cũng không đi đưa dâu với lý do con mình đã gả bán cho người. Tuy rằng trong văn sách có ghi “Giá thú bất luận tà i” nghĩa là không bà n đến tiền tà i trong việc cưới hỏi, nhưng không hiểu vì sao trong ngôn ngữ Việt Nam lại kết hợp “Gả bán” liền nhau. Thời nay hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau kết hôn trên cơ sở tình yêu đôi lứa, cha mẹ chỉ tham gia góp ý, hướng dẫn, vậy thì cha mẹ có nên đến dự lễ vui của hai con không? Đã có nhiều đám cưới ngà y nay bỏ tục kiêng nà y. Điều 15 : Tại sao trong gói quà mẹ cho con gái trước giờ... Chúng tôi chưa được biết một tà i liệu thà nh văn nà o nói về tục nà y, có lẽ vì các cụ nhà nho ngà y xưa đã cầm bút là phải viết những lời thanh nhã. Tục nà y chỉ là một thứ bí truyền do người mẹ thủ thỉ “tâm sự” ngầm với con gái và o buổi trước khi về nhà chồng. Thời trước, cô dâu quấn khăn nhiễu trên đầu, có đính mấy chiếc kim trên khăn là đủ hiểu rồi. Vì không có tà i liệu thà nh văn, vì có những trường hợp mẹ mất sớm hoặc đám cưới xa quê vắng mẹ, nên nhiều bà mẹ thời nay (vốn là cô dâu ngà y trước) không biết để truyền tiếp cho con gái. Xuất sứ của tục nà y là đề phòng tai biến “Phạm phòng”. “Phạm phòng”là gì? Nói thô tục là chết ngay trên bụng vợ ngay khi quan hệ vợ chồng. Ca dao tục ngữ có câu “nhất phạm phòng, nhì lòng lợn” có nghĩa là : Được ăn lòng lợn ngon miệng, dẫu chết cũng sướng. Chà ng rể qua mấy ngà y đêm lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, bận rộn, vất vả, đêm tân hôn là đêm xao xuyến, rạo rực nhất, lại thêm mấy chén rượu ngà ngà say, đến một thời điểm cảm xúc quá đà , nếu người có thể chất và tâm thần suy tổn nhiều thì lúc xuất tinh, thần kinh từ trạng thái hưng phấn quá độ chuyển thà nh ức chế quá độ, dễ bị phạm phòng, nếu người vợ không biết xử lý kịp thời có thể người chồng chết trên bụng vợ. Hầu như không có trường hợp người phụ nữ bị phạm phòng. Trong lúc gi­ao hợp, cửa buồng đóng kín, thân thể loã lồ, lại thêm tâm lý e thẹn xấu hổ, sợ hãi, nếu người vợ thả người chồng ra, để dương vật thoát ra ngoà i, mất sự điều hoà khí âm khí dương thì khó lòng cứu chữa. Lúc đó, sẵn có cái trâm cà i trên đầu hoặc mấy chiếc kim đính ở và nh khăn, người đà n bà một tay vẫn ôm riết lấy phía dưới lưng chồng một tay lấy chiếc trâm hoặc kim chích và o phía dưới hố xương chậu, phía trên hậu môn, kích thích đến lúc nà o người chồng tỉnh lại. Người con trai nà o có lông ở đít thì giật lông. Nếu chưa tỉnh thì tiếp tục châm kim, lấy mùi xoa trắng hoặc lấy giấy bản chấm thử, hễ thấy có máu chảy là chữa được. Trong phòng đôi tân hôn nên để ngọn đèn con nhằm tạo thêm khoái cảm, mặt khác cũng vì mục đích đó nữa, nhưng vẫn chú ý phải ôm riết chồng trên bụng. Chúng tôi không đi sâu và o lĩnh vực y dược, song có phương thuốc được lưu truyền trong dân gi­an: Cứt chuột và lá hẹ giã nhỏ, người đà n bà ngậm rồi trúm và o miệng chồng, vì lúc đó người chồng đang nằm sấp rất khó đổ thuốc. Trường hợp nhẹ, người đà n ông vẫn còn tỉnh nhưng cơ thể liệt nhược sau khi gi­ao hợp, gọi là phòng thất, phải uống thuốc bổ dương một thời gi­an sau mới hồi phục sức khoẻ. Còn tại sao lại 7 chiếc kim: Theo quan niệm cổ truyền “ Nam thất nữ cửu” (đà n ông 7 vía, đà n bà 9 vía). Vì để phòng xa , dùng cho con rể nên bà mẹ vợ chỉ đưa 7 chiếc kim - chứ không phải dùng cho con gái vì con gái không bị phạm phòng. Trong hà ng vạn trường hợp mới có một trường hợp là phạm phòng, nhưng các bạn trẻ cũng nên biết trước để khi ngộ sự biết chủ động xử lý. Điều cần thiết là phải cùng nhau hiểu biết, thông cảm mà phòng ngừa, nhất là trong tuần trăng mật hoặc vợ chồng cách xa nhau lâu ngà y về gặp nhau. Các bạn gái vì e thẹn xấu hổ nhất thời mà mang lại mối ân hận suốt đời. Giới thiệu thêm phương thuật chữa tai biến phạm phòng: Khi nam nữ gi­ao hợp với nhau, khoái cảm lên đến cực độ, tinh khí xuất quá nhiều, có thể chết (chết trên bụng vợ). Khi xảy ra như thế, nhất thiết không được đẩy rời nhau ra (dù là xấu hổ cũng phải để nguyên như tư thế đang gi­ao hợp). Nếu đà n ông xuất tinh quá nhiều bị thoát, thì người đà n bà phải chúm miệng thổi hơi nóng của mình và o miệng chồng, nếu đà n bà bị thoát hết khí, thì đà n ông cũng là m như vậy, để tống hơi nóng của mình và o miệng vợ. Tống hơi nóng như vậy mấy chục lần, dương khí sẽ dần trở lại. Trong khoảnh khắc cấp bách già nh giật giữa cái sống và cái chết như vậy, để bảo vệ điều hoà hai khí âm dương, chẳng những không được hoảng hốt rời khỏi giường, mà không để cho dương vật thoát ra khỏi âm hộ, nên phải ôm chặt lấy phần nửa mình phía dưới. Người đã ngất lịm rồi không biết gì nữa, hoà n toà n phải do người sống chủ động ôm riết lấy, để cho khí không tuyệt hẳn, phải tống khí liên tục cho đến khi sinh khí của người kia tỉnh lại mới thôi. Cách tống khí: Phải chúm miệng lại, đưa được khí từ hạ đan điền(1) lên, truyền qua miệng tống khí và o đến yết hầu người kia theo nhịp thở. Cách nà y cả trai và gái đều nên biết. Sau khi dương khí đã hồi phục phải dùng bà i “Nhân sâm phụ tử thang”(2). Nếu nhà nghèo không có nhân sâm, thì cấp tốc dùng 4 lạng hoà ng kỳ, 2 lạng đương quy, 5 đồng cân phụ tử, sắc uống cũng có thể cứu sống được. Trường hợp người đà n ông xuất tinh quá nhiều khí hết, mà đã nhỡ đẩy ra rồi, thì phải cấp tốc vực ngồi dậy ôm choà ng lấy mà tống khí và o miệng, nếu khí qua miệng khó và o thì dùng ống thông hơi hai đầu đút và o miệng mà thổi, miễn sao hơi và o được qua cuống họng. Có thể mượn người đà n bà , con gái mạnh khoẻ khác hà hơi, không nhất thiết phải là người vợ hoặc người đà n bà vừa gi­ao hợp. Đó là cách lấy người để chữa người, khả năng sắp chết vẫn cứu sống được. (1) Hạ đan điền: vùng bụng dưới rốn. (2) Nhân sâm phụ tử nhang: Phụ tử: 1 đồng cân. Phục linh: 7,5 phân. Nhân sâm: 1 đồng cân. Bạch truật: 1 đồng cân. Bạch thược: 1,5 đồng cân Điều 16 : Tại sao phải có phù dâu ? Tục lệ xưa cần có phù dâu vì hôn ngân cưỡng ép, do cha mẹ định đoạt, nhiều nơi lại có nạn tảo hôn, thông thường thì “Nữ thập tam nam thập lục”, con giá mười ba tuổi về nhà chồng đã biết gì đâu! do đó cô dâu phải có người dẫn dắt. Người dắt cô dâu gọi là phù dâu. Ngà y xưa phù dâu phải là người cô, người dì hay chị em thân thiết của cô dâu, có khả năng thuyết phục, bà y vẽ cho cô dâu, được cô dâu kính nể, mến phục, được bố mẹ cô dâu ủy thác. Người phù dâu phải là người may mắn, tốt phúc, duyên ưa, phận đẹp, con gái là nh mạnh ngoan ngoãn, gia đình êm ấm, đề huề có thể truyền kinh nghiệm là m dâu, là m mẹ, là m vợ cho em, cho cháu mình. Phù dâu nhiều khi còn phải ở lại năm bảy ngà y sau để cho cô dâu đỡ buồn và để chỉ bảo kinh nghiệm. Thông thường phù dâu cũng trở lại với dâu rể trong lễ lại mặt. Đám cưới ngà y xưa phải có phù đâu, không định lệ, và cũng không có danh từ “Phù rể”. Đám cưới ngà y nay, nhiều nơi có cả phù dâu, phù rể, có đám mời đến năm sáu đôi phù đâu phù rể toà n là trai thanh, gái lịch, chưa vợ chưa chồng. Có lẽ chủ yếu để cô dâu thêm bạn, chú rể thêm bầu. Hay phải chăng ngà y nay chà ng rể bẽn lẽn e thẹn hơn xưa, nên phải có người dẫn dắt. Hay đám cưới trước thường sinh ra nhiều đám cưới sau nên phải chăm lo đà o tạo những cô dâu, chú rể tương lai. Điều 17 : Lễ lại mặt có ý nghĩa gì ? Lễ thà nh hôn, tơ hồng, hợp cẩn xong xuôi, hai vợ chồng tân hôn trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên ông bà cha mẹ, đi chà o họ hà ng thân nhân bên nhà gái sau đó đón bố mẹ và và i thân nhân sang nhà chú rể. Kể từ buổi đó, mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà chú rể và nhà thông gia, vì trong lễ cưới, mẹ cô dâu (có nơi cả bố) không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hà nh và o ngà y thứ hai hoặc thứ tư sau ngà y cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ) tuỳ theo khoảng cách xa gần và hoà n cảnh cụ thể mà định ngà y. Thà nh phần chủ khách rất hẹp, chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình. Phỏng theo tục cổ Trung Quốc: nếu trong lễ lại mặt, có cái thủ lợn cắt lỗ tai tức là ngầm báo với nhà gái rằng nhà trai trả lại, vì con gái ông bà đã mất trinh (Đêm tân hôn có lót giấy bản, gọi là giấy thám trinh, để xem người con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì trên giấy bản sẽ có mấy giọt máu. Mã Giám Sinh sau khi cưỡng ép phá trinh nà ng Kiều xong dùng “Nước vỏ Lựu”, “Máu mà o gà ” hòng lường gạt là ng chơi tưởng nhầm là Kiều vẫn còn trinh). Trường hợp hai nhà xa xôi cách trở, ông già bà lão thì nên miễn cho nhau, cô dâu chú rể nếu bận ông tác cũng nên được miễn thứ. Nếu điều kiện cho phép thì nên duy trì, vì lễ nà y mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp: - Nhắc nhủ con đạo hiếu, biết tạ ơn sinh thà nh, coi bố mẹ vợ cũng như bố mẹ mình. -Thắt chặt và mở rộng mối quan hệ thông gia, họ hà ng ngay từ buổi đầu, tình cảm được nhân đôi. - Hai gia đình cùng trao đổi rút kinh nghiệm về việc tổ chức hôn lễ và bà n bạc về trách nhiệm của hai bên bố mẹ trong việc tác thà nh cuộc sống cho đôi trẻ trong tương lai. Điều 18 : Trả lời câu hỏi không rõ câu hỏi Tại sao kỳ quặc thế ? Vì các bạn trẻ muốn hỏi nhưng ngại không đặt thà nh câu hỏi, hoặc không biết để mà hỏi vì những vấn đề nà y thời trước chỉ do người mẹ thầm với con gái, người đà n ông chỉ thầm hiểu mà không bao giờ nói tới. Đó là những bí mật trong phòng giữa đôi trai gái. Chúng tôi cũng chỉ xin nói thầm với các bạn trẻ, xin chớ hiểu lầm là chuyện khiêu dâm, thiết nghĩ vì hạnh phúc đôi lứa, vì tương lai nòi giống, trước khi thà nh hôn cần có những kiến thức sơ đẳng: Tuổi dậy thì từ lứa tuổi nà o ? Có những biểu hiện gì về tâm sinh lý ? “ Nữ thập tam nam thập lục”. Theo đánh giá của các cụ ngà y xưa, gái mười ba trai mười sáu đúng tuổi dậy thì. Trong tuổi phát dục đó, cơ thể lớn nhanh như thổi, chỉ đầu năm đến cuối năm đã biến đổi rất nhiều: má hồng, ngực nở, mông phát triển, nhú âm mao, nam mọc ria mép, một số thì mặt nổi trứng cá, nữ đã hà nh kinh, có tâm lý e thẹn khi tiếp xúc với người khác giới, ánh mắt tế nhị kín đáo, kể cả tiếp xúc với người thân trong gia đình nhưng khác giới đã bắt đầu có sự ngăn cách. Cả nam và nữ ở tuổi nà y đã ham là m dáng. Có trường hợp tuổi dậy thì đến sớm hơn hoặc muộn hơn và i năm. Thời xưa, tảo hôn, có cô gái mười ba tuổi đã bắt đầu sinh nở. Nên chú ý, mặc dù con gái đã có dục tính nhưng gi­ao hợp sớm cơ thể sẽ suy nhược nhanh chóng dẫn tới hậu quả là m cho nòi giống bị suy thoái. Trai gái gi­ao hợp là thuận theo quy luật điều hoà âm dương nhưng chỉ nên khi nà o cả hai bên đều có khoái cảm mạnh. Người đà n bà thường khoái cảm chậm hơn đà n ông, các bạn trai nên chú ý kiên trì chờ đợi, kích dục nhẹ nhà ng, đừng để xảy ra tâm lý lo sợ. Một đặc điểm nữa là khoái cảm đà n bà đến chậm hơn nhưng lâu hơn vậy nên có trường hợp người đà n bà chán nản vì người đà n ông không đáp ứng được yêu cầu sinh lý, có khi dẫn tới ngoại tình hoặc ly hôn. Vì hạnh phúc lâu dà i, nhiều khi người đà n ông biết tự kiềm chế. Ví dụ trường hợp vợ chồng xa vắng lâu ngà y gặp nhau, gặp phải thời kỳ hà nh kinh của vợ, có khi người vợ nể chồng phải chiều theo ý chồng nhưng rất có hại đến vệ sinh phụ nữ. Trong trường hợp mới sinh nở cũng vậy. Người đà n bà có thai gần tới kỳ sinh nở thì chẳng những đà n ông mà đà n bà cũng vậy, phải tự kiềm chế dục cảm, tốt nhất là nên tạm thời dừng lại để bảo vệ cho sản phụ và thai nhi: Nam nữ thanh niên chưa lấy vợ lấy chồng, hoặc tình duyên không mãn nguyện thường có thói thủ dâm để đạt khoái cảm nhất thời nhưng rất hại cho sức khoẻ lâu dà i về sau. Nến biết trước để tránh hậu quả không hay, nhất là đối với nam giới. Trước lúc động phòng, cả nam và nữ đều phải sạch sẽ, tâm hồn thư thái, kiêng kỵ lúc mới lao động nặng nhọc hoặc mới đi xa về chưa kịp nghỉ ngơi. Coi việc hiểu biết về những kiến thức vệ sinh gi­ao hợp là cần thiết, vợ, chồng nên nhỏ nhẹ tâm tình, chớ coi đó là chuyện dâm ô. Điều 19 : Khi người đà n bà tái giá có những thủ tục... Đà n ông lấy vợ gọi là thú, đà n bà lấy chồng gọi là giá. Có nhiều trường hợp đà n bà phái tái giá: Một là duyên không ưa, phận không đẹp phái ly hôn; hai là nửa đường đứt gánh, goá bụa khi tuổi còn xoan... Ở đây chúng tôi không nói đến sự khác biệt giữa luật hôn nhân thời xưa và thời nay, và những quy định bất công về phụ nữ thời phong kiến mà chỉ nói về phong tục, trong đó một số phong tục còn duy trì tới nay: -Cha mẹ chỉ gả bán một lần, lần sau không tham gia cưới hỏi. -Đà n bà goá, tục gọi là “Nạ dòng” ít có trường hợp lấy được trai tân, phần lớn là m vợ kế hay vợ lẽ, nói chung là chắp nối tơ duyên, “Rổ rá cạp lại”, nên lễ cưới hỏi chỉ bó hẹp trong phạm vi thân nhân gia đình và và i bà con xóm giềng. Điều 20 : Tại sao gái « nạ dòng » không lấy được... Không phải tác giả đặt câu hỏi để giải đáp, mà chính tác giả thắc mắc mong được giải đáp vì sao có sự bất công đó? Ngà y xưa những người đà n bà goá chồng hay bị chồng bỏ thì chỉ còn cách lấy lẽ hay lấy kế, mặc dầu còn trẻ, còn xoan cũng ít ai lấy được trai tân (trai tơ). Những ai là trai chưa vợ mà kết duyên với gái đã có một đời chồng, dù ít tuổi hơn mình, cũng bị là ng trên xã dưới cười chê. Ngược lại có những đức lang quân đã ngoại tứ tuần, đã hai ba đời vợ vẫn lấy được con gái tơ chỉ bằng tuổi con mình. Như vậy mà thiên hạ vẫn khen là đẹp đôi vừa lứa. Những người đà n bà duyên phận hẩm hiu, qúa lứa lỡ thì, ngà y xưa chỉ là m vợ lẽ nà ng hầu, thời nay rất khó lấy chồng. Luật hôn nhân phong kiến có nhiều điều bất công đối với phụ nữ, luật hôn nhân sau Cách mạng đã thực hiện đúng nam nữ bình quyền, nhưng tập tục dư luận xã hội vẫn còn bất công đối với nữ. Vậy muốn thực sự giải phóng phụ nữ, phụ nữ phải tự đấu tranh đòi giải thoát khỏi những mặc cảm vô lý nói trên. Xin kiến nghị các cấp lãnh đạo, trước hết là cán bộ đoà n thể phụ nữ hướng dẫn dư luận xoá bỏ dần những mặc cảm bất công nói trên. Điều 21 : Quan hệ vợ cả, vợ lẽ ra sao ? Ngoại trừ chế độ mẫu hệ, còn như trong chế độ phụ hệ người đà n bà chẳng mấy khi có chồng cả, chồng lẽ; ngược lại đà n ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường, cà ng quyền quí cao sang cà ng lắm vợ: Minh Mạng có 142 con, “Nhất dạ ngũ gi­ao, tam hữu dựng” (trong một đêm ngủ với năm bà thì ba bà có thai) còn bao nhiêu vợ thì không thể thống kê được. Nguyễn Công Trứ 73 tuổi, lấy vợ lẽ thứ 10, đêm tân hôn cảm tác: “Tân nhân dục vấn: Lang niên kỷ? - Ngũ thập niên tiền nhị thập tam” (Dịch nghĩa: Nà ng muốn hỏi anh: chà ng mấy tuổi - Năm mươi năm trước mới hăm ba) Đạo Thiên chúa chỉ cho phép con chiên một vợ một chồng. Thông thường vợ cả lấy trước, vợ lẽ lấy sau. Nhưng có trường hợp người con trai là m ăn xa nhà , tự ý lấy vợ, chưa được cha mẹ và họ hà ng chấp nhận, ở quê nhà cha mẹ đã dạm hỏi sẵn cho một cô vợ khác bắt về cưới. Người vợ do cha mẹ cưới hỏi, dẫu rằng lấy sau vẫn là vợ cả. Người vợ tự ý chọn, nếu sau nà y được cha mẹ chấp thuận, mặc dù con gái con trai đều đã lớn, vẫn phải chịu phận là m em. Con vợ bé dẫu nhiều tuổi hơn vẫn phải chà o đứa con bà cả đang ăm ngửa bằng anh bằng chị. Trường hợp vợ cả chết sớm, không có con trai thì con trai vợ kế đẻ sau vẫn là trưởng nam, là đích tôn thừa trọng chứ con trai vợ lẽ vì phận thiếp không môn đăng hộ đối , không phải do ông bà trực tiếp cưới hỏi nên không đủ quyền kế vị. Muốn cho gia đình êm thấm, người chồng phải khéo đối xử để vợ cả đi hỏi vợ lẽ cho chồng, thì người vợ lẽ và bố mẹ cô ta mới yên tâm. Điều 22 : Nên nhìn nhận vấn đề ly hôn như thế nà o ? Nhiều cụ cao tuổi thường phà n nà n: Thời nà y bọn trẻ yêu nhau quá dễ dà ng nên bỏ nhau cũng dễ. Ngược lại lớp trẻ lại cho rằng: Ngà y xưa các cụ chẳng biết yêu đương là gì, lấy vợ lấy chồng thì sinh con đẻ cháu, chứ mấy ai được hưởng hạnh phúc. Họ không bỏ nhau chẳng qua do lễ giáo và phong tục xã hội trói buộc. Trai là m nên năm thê, bảy thiếp, gái chính chuyên chức tiết một chồng. Chỉ có người đà n bà phải cam chịu thiệt thòi bị gi­am lỏng chứ đà n ông không ưng vợ nà y thì lâý thêm vợ khác, chẳng cần phải ly hôn với vợ cũ. Tất nhiên trong chế độ cũ cũng như mới, không ai khuyến khích việc ly hôn. Có những trường hợp quan hệ vợ chồng gặp nhiều trắc trở, nhưng vì nghĩ đến tương lai của con cháu hoặc vì nguyên cớ nà y, lý do nọ, họ đà nh chấp nhận nỗi thiệt thòi chung sống vì phận sự, mà thiếu tình yêu. Không phải mọi trường hợp ly hôn đều đáng chê trách. Ngược lại có những vụ án sử ly hôn được coi như trận thắng giải phóng cho cả hai bên. Ly hôn lại trở thà nh cơ sở tái tạo hạnh phúc. Vậy ta không nên có thái độ nhìn nhận quá khắt khe đối với mọi trường hợp ly hôn. Tuy nhiên, ngà y xưa các cụ thường có một câu “Một ngà y là nghĩa”, thời nay quan hệ xã hội mới cà ng thêm tươi đẹp, vậy nên đôi vợ chồng sau khi chia tay chớ nên coi nhau như thù địch, cho dù duyên không ưa, phận không đẹp, và nên coi nhau như bạn bè. Bạn bè có thân mà có sơ, vậy nên nhắn những ai sau nà y là đối tượng của người vợ hay người chồng đã ly hôn chớ có ghen bóng ghen gió. Còn con cái, do tình trạng ly hôn, tái thú, tái giá, nên trong một gia đình có cả con anh, con tôi, con chúng ta. Chúng nó đối xử với nhau hoà thuận là hiếm, mâu thuẫn với nhau là phổ biến. Điều đó đòi hỏi người là m cha là m mẹ, là m dì ghẻ, bố dượng phải thu xếp sao cho công minh, êm thấm mọi bề. Điều 23 : Dạy con từ thửa bà o thai Tục ngữ Việt Nam có câu: “Dạy con từ thủa còn thơ - Dạy vợ từ thủa bơ vơ mới về”. ở đây chúng tôi muốn nêu: Không những dạy con từ thủa còn thơ mà phải dạy con ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Bởi vì cuộc sống vật chất lẫn tinh thần của người phụ nữ mang thai ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tinh thần của đứa trẻ sau nà y. Người xưa thường nói: “Đà n bà hiền dịu, thì dễ có con. Thai sản là lẽ tự nhiên của trời, đất. Người không bệnh thì không cần phải uống thuốc”. Theo y học cổ truyền “...Tâm khí kinh sợ thì con bị điên, thận khí không đủ thì con hở thóp, tì khí không hoà thì con gầy còm, tâm khí hư kém thì con nhút nhát. Con là theo khí mẹ, mẹ không cẩn thận sao được! Mẹ chớ uống nhiều thứ thuốc, uống nhiều rượu, chớ châm cứu xằng xiên, chớ đi đại, tiểu tiện và o chỗ không thường đi, chớ trèo cao xông pha hiểm trở, chớ gánh vác nặng nhọc, chớ gi­ao cấu phóng túng, chớ nằm ngủ nhiều, chớ mặc áo quần quá ấm, chớ ăn cơm quá no. Tinh thần phải chấn tĩnh, không phạm đến thất tình ( mừng quá, giận quá, đau thương quá, ghen ghét quá, yêu quá, ham muốn quá v.v...). Muốn con sau nà y sinh ra thẳng thắn nghiêm trang thì người mẹ nên miệng nói lời ngay thẳng, là m việc ngay thẳng. Đà n bà rắp tâm là m việc ác thì không sinh đẻ được, người ta cứ tưởng là tại trời ghét bỏ, biết đâu rằng: Đó chính là do tự mình gây ra. Vì khí ở gan ruột bị uất kết, ba bộ mạch: tâm, tì, thận đều bị uất nên khó sinh...” (Theo “Phụ đạo sán nhiên” của Hải Thượng lãn ông). Vì lẽ đó dân gi­an có câu: “Cây khô không có lộc, người độc không có con”. Cần phải giáo dục con từ trong bụng mẹ mà thuật ngữ khoa học gọi là “Thai giáo”. Ngà y xưa các bậc tiền bối đã răn dạy người mẹ tương lai (sản phụ) không được giận dữ, hoảng hốt, không được nghĩ điều xấu, là m việc xấu, nghe chuyện dở, nhìn cảnh tang thương, cần nói năng, đi đứng khoan thai... Có mối liên hệ khăng khít giữa thai nhi với sức khoẻ và tâm trạng người mẹ, giữa thai nhi với thế giới bên ngoà i, có những phản ứng “Tiếp nhận” hoặc “Chối bỏ” của thai nhi trước các tác động của ngoại cảnh. Theo tà i liệu nghiên cứu khoa học: Nhân cách con người được hình thà nh rất sớm, ngay từ trước khi ra đời. ý nghĩ, cảm xúc và những nỗi buồn vui của người mẹ truyền và o đứa con. Nhiều phụ nữ có thai đã biết giữ gìn tình cảm cân bằng do đó giữ được sức khoẻ cho đứa con. Những nỗi đau của người mẹ phải chịu đựng trong thời gi­an thai nghén ảnh hưởng mạnh tới đứa trẻ sơ sinh. Lòng thiết tha đối với đứa trẻ chưa ra đời là một biện pháp giữ gìn sức khoẻ cho đứa trẻ tốt nhất, và có ảnh hưởng quyết định tới quan hệ mẹ con sau nà y"... Điều 24 : Tại sao có tục xin quần áo cũ cho trẻ sơ sinh ? Cách trả lời đơn giản nhất là xin để lấy “khước” (lấy may). Người mẹ từ khi mới thụ thai đã chú ý xem trong bà con, họ hà ng, là ng xóm nhà ai có con cái bụ bẫm, hay ăn chóng lớn, ít khóc ít quấy, ao ước sắp tới con mình đẻ ra cũng được như thế thì xin một cái áo, hay cái quần, cái tã cũ của đứa bé về sửa sang lại để dùng cho con mình. Xuất xứ là do một và i người là m, rồi bắt trước nhau, dần dần là truyền ra thà nh phong tục. Nguyên ngà y xưa, ta chưa có những thứ vải mỏng mịn bán rộng rãi trong dân gi­an, thị trường toà n những vải thô bố lại nhuộm nâu, thô cứng, trẻ sơ sinh da còn non mặc dễ bị xây xát, hà i nhi cà ng mặc đồ mới cà ng đau yếu. Nhà nghèo không sẵn tiền mua đã đà nh, nhà già u cũng xin áo cũ cho trẻ sơ sinh là vì lẽ ấy. Trẻ thì chóng lớn, quần áo thì lâu mới rách, chỉ và i tháng sau đã quá cỡ, người ta không nỡ phá đi dùng và o việc khác nên cất giữ lại, dà nh cho em út. Vì vậy, người cho áo cũng cảm thấy vinh dự được người khác quý mến con mình và coi đứa bé sắp ra đời cũng có phần hơi hướng của mình. Điều 25 : « Con so về nhà mạ , con dạ về nhà chồng“... Con so là con sinh đầu lòng, con rạ là những đứa con sinh sau. Nếu nuôi được cả thì con so là trưởng, con rạ là thứ. Phong tục nà y phổ biến ở Bình Trị Thiên và một số địa phương ngoà i Bắc, còn ở Nghệ An, Hà Tĩnh thì trừ trường hợp ở rể, nói chung con gái không được sinh đẻ ở nhà cha mẹ mình. Con gái mới lớn lên, mới sinh lần đầu tiên, trẻ người non dạ, chưa biết đi đứng, ăn uống, tắm giặt, kiêng khem ra sao, hơn nữa trong người yếu khoẻ ra sao muốn nhờ vả mẹ chồng hoặc chị em nhà chồng cũng ngần ngại, khó nói hơn với mẹ đẻ và em út mình. Còn những lần sinh sau đã có kinh nghiệm, có thể tự mình giải quyết được nhiều việc. Phong tục, “Con so về nhà mạ” là một phong tục hay nhưng muốn giải quyết được êm đẹp cũng phải có thu xếp: Gần ngà y ở cữ, mẹ chồng hoặc chà ng rể sang quê ngoại thưa chuyện trước, nếu có khó khăn về kinh tế hoặc đường xá xa xôi cách trở cũng cần thảo luận với nhau về trách nhiệm cho thoả đáng, sau khi mẹ tròn con vuông, cháu cứng cáp, chà ng rể cũng cần sắm một số lễ vật, nhằm ngà y tốt sang tạ ơn gia tiên bên ngoại và ông bà ngoại để xin đón vợ con về. Ông bà ngoại còn cẩn thận đánh dấu vôi hoặc nhọ nồi ở trán cho cháu và các thứ bùa phép khác để các thứ tà ma ác quỷ không dám đến quấy rối cháu dọc đường. ở Nghệ Tĩnh lại có phong tục ngược lại: Cho là sinh dữ tử là nh, ngoà i con dâu ra, không ai được quyền sinh trong nhà . Con gái về nhà mạ, nếu nhỡ đến kỳ động thai, trở dạ, không kịp trở về nhà chồng, sợ sinh nở dọc đường thì bố mẹ phải dựng tạm chiếc lều ở góc vườn, hoặc nếu không kịp, thì ra chuồng trâu mà đẻ. Thiết nghĩ không cần phân tích, bạn đọc cũng thấy được phong tục nà o hợp tình lý hơn. Trường hợp đã mồ côi mạ, về nhà mạ thiếu người chăm nom thì con so cũng về nhà chồng. Điều 26 : Tại sao mới đẻ chưa đặt tên chính ? Theo phong tục, một người từ sinh ra đế khi chết mang rất nhiều tên gọi: Mới lọt lòng thì thằng Cu, thằng Cò, con Hĩm, thằng Mực, con Cún, thằng Chắt em, con Chắt ả... thường là đặt tên xấu cho dễ nuôi, đến khi lớn lên thì anh Hai, anh Ba, chị Bảy... lấy vợ lấy chồng thì anh Nhiêu, anh Đồ, chị Xã...Có con gọi theo tên con, có cháu đích tôn gọi theo tên cháu, đến khi chết thì đặt tên hèm gọi là hiệu để cúng, người có học thì tự đặt tên tự, người có chức tước thì đặt tên thuỵ, người có chức tước học vị cao sang thường được xưng tôn theo họ, hay tên địa phương: Cụ án Mai, Cụ Tam Nguyên Yên Đổ, ông Trạng Trình, ông Tú Vĩ Xuyên, Quan Thám Nam Sơn... Đó là theo phong tục xưng hô của Trung Quốc. Trong nhiều tên gọi nhưng chỉ có tên huý là chính: Tên huý là tên đặt khi và o sổ họ, khi và o là ng ghi trong sổ hộ, khi đi học đặt khi và o sổ họ, khi và o là ng ghi trong sổ hộ, khi đi học. Tại sao mới đẻ chưa đặt tên chính (tên huý) ? Ngà y nay đẻ ra la khai sinh, có thủ tục quản lý hộ tịch chặt chẽ. Ngà y trước mỗi là ng xã cúng có hương hộ lo sổ sách sinh tử, giá thú nhưng không quản lý chặt chẽ, Nhà nước chỉ quan tâm đến sổ đinh (từ 18 tuổi), sổ điền để thu thuế và bắt lính, bắt phu, vì vậy và o sổ là ng cà ng muộn cà ng hay, lớn lên đỡ được và i năm thuế thân, phu phen tạp dịch. Trong xã hội cũ, tình trạng hữu sinh vô dưỡng khá phổ biến, ít có gia đình sinh năm đẻ bảy được vuông tròn, vì vậy qua các tuần cữ mới tạm yên tâm, khi đó mới đặt tên huý. Các họ mỗi năm tế tổ một lần. Trong dịp tế tổ, các gia đình có con cháu mới sinh sắm sửa cơi trầu, chai rượu, hương hoa, lễ vật đến nhà thờ họ yết cáo tiên tổ và và o sổ họ cho các con trai trước lễ yết cáo, ngà y đó mới có tên huý chính thức, được họ hà ng công nhận. Trong khi và o sổ họ phải đối chiếu gia phả để xem có trùng tên các vị tiên tổ hoặc ông bà chú bác trong nội thân hay không. Nếu có tức là phạm huý thì phải đổi tên. Không những phải tránh phạm huý tổ tiên bên nội mà còn phải tránh phạm huý can cụ ông bà ngoại mặc dầu khác họ, tránh phạm huý hiệu của thà nh hoà ng, thánh mẫu, linh thần từng địa phương. ở nông thôn, các vị có uy vọng trong là ng, trong họ thường được dân chúng biếu trầu rượu và nhờ đặt tên cho con. Người đặt tên được gia đình đó nhớ ơn suốt đời. Điều 27 : Tại sao tuổi trong khai sinh không đúng với... Điều nà y cũng gây khá nhiều rắc rối, phức tạp cho các nhà khảo cứu sử học, biên soạn gia phả. Đã có trường hợp anh em cùng cha cùng mẹ sinh ra mà em nhiều tuổi hơn anh. Chỉ có lá số tử vi là chính xác nhất, chính xác đến từng giờ, nhưng ít người còn giữ được lá số tử vi, phần lớn ông bố bà mẹ chỉ nhớ được con mình câm tinh con gì, qua đó mà tính ra tuổi thực (tuổi mụ). Như trên đã nói, có ba lý do khai bớt tuổi: - Để chậm được và i năm khỏi phải đóng thuế thân và đi phu, đi lính. - Dưới thời Pháp thuộc, để tránh hạn định quá tuổi không được đi học, không được thi. - Do việc và o sổ họ chậm gần một năm còn việc và o sổ là ng, hà ng phe, hà ng giáp, có khi chậm đến năm sáu năm. Trường hợp nâng tuổi lên cũng có ba lý do nhưng không phổ biến lắm: - Để nhanh đến tuổi lấy vợ (theo lệ “nữ thập tam, nam thập lục”). Nhiều gia đình muốn cưới con dâu về sớm để có kẻ ăn người là m và để sớm có cháu nối dõi tông đường. - Dưới thời Pháp thuộc, các công sở không tuyển người dưới 18 tuổi nên phải khai tăng tuổi. - Một số địa phương, có lệ là ng cho tăng thêm tuổi để chóng đến tuổi lên lão mừng thọ. Mẩu chuyện vui: Sê­cu­ture với Hồ Chí Minh: Sê­cu­turê, Tổng thống Ghi Nê sang thăm Việt Nam theo lời mời với tư cách là khách của Hồ Chủ Tịch. Trong buổi mít tinh tiễn đưa tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, Sê­cu­turê hết lời ca ngợi và khâm phục Hồ Chủ Tịch Ông phát biểu đại ý: Vợ tôi sắp sinh, nếu sinh con trai, tôi sẽ đặt tên con là Hồ Chí Minh. Tôi được dự buổi lễ đó, thầm nghĩ: Ông nà y quả thật rất chân thà nh và rất cảm phục Hồ Chí Minh nhưng ông ta chưa hiểu câu “nhập gia vấn huý” của phong tục nước ta, câu đó có gì khác chửi người ta. Liền đó Hồ Chủ Tịch trả lời lại rất khôn khéo, tà i tình “Bác không có vợ nên không có con, vậy Bác đề nghị các cháu thanh niên, nếu sắp tới, cháu nà o có con trai thì đặt tên cháu là Sê­cu­turê!” Mọi người dự lễ đều vui cười thoải mái, phục tà i đối đáp của Bác, vừa được lòng khách nước ngoà i, vừa phù hợp với phong tục nước ta trong hoà n cảnh đó. Điều 28 : Là m lễ yết cáo tổ tiên, xin đặt tên cho con... Vấn đề nà y đã có lệ từ xưa, chẳng có gì mới mẻ. “Họ nà o đã có nề nếp sẵn thì cứ theo lệ cũ tiến hà nh”. Đối với những họ mới phục hồi lại việc họ, chưa và o nền nếp, chúng tôi xin mách một và i kinh nghiệm: Yết cáo tổ tiên: Theo lệ cũ chỉ sau khi đối chiếu gia phả, kiêng kị các trường hợp phạm huý (đặt tên trùng với tên huý của tổ tiên và thân nhân gần gũi nhất, kể cả nội ngoại) mới chính thức đặt tên huý cho trẻ sơ sinh, yết cáo tổ tiên và xin và o sổ họ. Ngà y nay phải là m thủ tục khai sinh kịp thời, trường hợp ở xa quê, không kịp về đối chiếu gia phả, nhỡ trùng tên huý tổ tiên trực hệ, thì tìm cách đổi, hoặc tránh gọi thường xuyên trong nhà . Lễ yếu cáo tổ tiên rất đơn giản, nén hương, cơi trầu, chén rượu cũng xong, thường kết hợp lễ tế tổ hà ng năm mà yết cáo chung tất cả con cháu trong họ sinh trong năm cùng một lượt. Lễ và o số họ cũng đơn giản, cốt sao cho gia đình nghèo nhất trong họ cũng không gặp phải điều gì phiền phức. Và o sổ họ: Thứ tự sổ họ ghi theo năm sinh, ai sinh trước ghi trước, sinh sau ghi sau. Trường hợp nhiều năm bị phế khoáng nay mới lập lại sổ họ, thì phải thống kê theo đơn vị hộ gia đình hoà n chỉnh cả họ, sau đó mới lập số tiếp đối với những trẻ sơ sinh. Mẫu số: Họ Tên (Tên Huý. Tên thường gọi) con ông bà , thuộc đời thứ mấy, chi thứ mấy? Con trưởng hay con thứ mấy? Ngà y tháng, năm, sinh, ngà y và o sổ họ. Con gái và o sổ họ: Bất cứ trai hay gái, sau khi sinh đều có yết cáo tổ tiên, đã được tổ tiên phù trì phù hộ, nhưng nhiều họ ngà y xưa không và o sổ họ đối với con gái, cho rằng “Nữ nhân ngoại tộc”, con gái là con người ta, lớn lên đi là m dâu lo cơ nghiệp nhà chồng vì thế không công nhận con gái và o họ. Tuy vậy, ngay trước CM T8-1945 một số họ đã xoá bỏ điều bất công đó, con gái cũng có mọi quyền lợi nghĩa vụ như con trai. Ngà y nay, trong phong trà o khôi phục việc họ, xin kiến nghị các họ đặc biệt quan tâm đến con gái và nà ng dâu của họ, họ nà o coi trọng vai trò phụ nữ, và coi trọng vai trò người mẹ, người vợ, người cô, người chị, thì họ đó mới vững mạnh. Cả nước đang ra sức vận động kế hoạch hoá gia đình, con gái cũng như con trai, vậy nên vận dụng phong tục cũng phải phù hợp với tư duy thời đại. Điều 29 : Có mấy loại con nuôi ? Có ba loại con nuôi: Con nuôi chính thức, con nuôi danh nghĩa và con nuôi giả vờ. Con nuôi chính thức: Có hai loại : - Con lập tự : Gia đình không có con trai, nuôi con anh em ruột hoặc con anh em chú bác ruột. Có thể nuôi từ bé, hoặc lớn rồi mới nuôi, thậm chí có người đã thà nh gia thất, có con rồi mới nhận là m con nuôi. Người con nuôi lập tự đó chịu trách nhiệm săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ nuôi lúc tuổi già và hương khói tang tế sau khi mất, nên khi được hưởng quyền thừa kế gia tà i hơn cả những người con gái do chính cha mẹ sinh ra, vì con gái là “con người ta”, sau khi gả chồng lo cơ nghiệp nhà chồng. Con nuôi lập tự được hưởng ruộng hương hoả nếu cha nuôi là tộc trưởng, được họ hà ng chấp nhận là cùng huyết thống nội thân. Nếu người con nuôi lập tự là con thứ của ông em thì con người con trưởng của ông em vẫn phải gọi người con nuôi lập tự đó bằng bác (đáng lẽ gọi là chú) . Khi cha mẹ nuôi chết, tang chế của vợ chồng người lập tự cũng ba năm như cha mẹ đẻ. Trường hợp cha mẹ chết trước, phải xin phép cha mẹ nuôi mới được về chịu tang, nhưng không được phép mặc áo khâu gấu, khăn ngang không được để hai giải bằng nhau. Khi cha mẹ nuôi đã sinh con trai thì thôi quyền lập tự nhưng vẫn là con nuôi được hưởng quyền thừa kế như các người con khác. - Con nuôi hạ phóng tử: Có mấy trường hợp: + Con hoang thai nuôi từ lÃ;ºc mới sinh. Có nhà hiếm hoi dặn từ trước, khi sinh nở thì đón về, sản phụ được bồi dướng một ít tiền và sau đó không được quyền nhận hay thăm con. + Con mồ côi hay con nhà nghèo khó, đem về nuôi là phúc, mặc dầu không hiếm hoi. Nếu nuôi thực sự từ lúc còn nhỏ cũng được hưởng mọi quyền lợi trong gia đình. Cha mẹ nuôi cũng có trách nhiệm dựng vợ gả chồng, sống nuôi chết chôn, cũng được cha mẹ nuôi chia cho một phần gia tà i khi ra ở riêng. Trường hợp cha mẹ nuôi không có con trai cũng có thể lập người con nà y là m thừa tự, song không được can dự và o phần hương hoả, tự điền cũng như việc họ, bởi lẽ khác dòng máu, không được họ chấp nhận. Tang chế đối với cha mẹ nuôi cũng ba năm như cha mẹ đẻ, đối với anh em nuôi cũng một năm như anh em ruột, nhưng đối với họ hà ng bên bố mẹ nuôi thì không tang. Trừ một trường hợp con nuôi đã mang họ của bố nuôi, không biết bố đẻ (hoang thai) và đã được họ hà ng chấp nhận thì mọi lễ nghi hiếu hỷ, tang chế đều như người trong họ, song vẫn không được hưởng hương hoả, tự điền. Nếu bố nuôi là tộc trưởng vẫn không được kế thế tộc trưởng mà vai trò tộc trưởng thuộc con trai trưởng của chú em. Theo phong tục một số địa phương “vô nam dụng nữ” thì người con rể cũng có quyền lợi và nghĩa vụ như con nuôi hạ phóng tử nói trên, nhưng chỉ để tang bố mẹ vợ một năm, anh em ruột của vợ chín tháng, ngoà i ra không để tang cho ai bên nhà vợ. Lập tự chỉ lập tự cho cháu ngoại, không lập tự cho con rể. Cháu ngoại cũng không được là m tộc trưởng (như trên). Con nuôi danh nghĩa: Có mấy trường hợp: - Nhà hiếm con qua mâý lần tảo sa, tảo lạc, hữu sinh, vô dưỡng, hoặc theo số tử vi lỗi giờ sinh, xung khắc với cha mẹ nên phải bán là m con nuôi cho dễ nuôi. Khi sinh nở xong bố đẻ sẵn một chai rượu, cơi trầu đến nhà bố nuôi, là m lễ gia tiên bên bố nuôi xin cho ghé cửa nương nhờ, sau đó mời bố mẹ nuôi đến nhà xem mặt đứa trẻ và nhường quyền cho bố nuôi đặt tên cho đứa bé. Sau nà y khi lớn lên thì mồng 5 (đoang ngọ) ngà y Tết dắt đứa bé đến tết nhà bố mẹ nuôi. Đứa bé cũng xếp theo vị trí anh em ruột một nhà theo quan hệ lứa tuổi. Sau nà y lớn lên, trong huyết thống ba đời anh em cháu cháu không được quyền lấy nhau. Nếu vi phạm cũng coi như mắc tội loại luân. Chọn Bố mẹ nuôi thì chọn gia đình phúc hậu, lắm con nhiều cháu, là m ăn thịnh vượng. - Do cảm ân đức, nghĩa tình nhận là m con nuôi. - Anh em kết nghĩa với nhau thân tình, nhận bố mẹ của anh em cũng như bố mẹ của mình và ngược lại bố mẹ cũng nhận người anh em kết nghĩa với con mình như con cái trong nhà . Trong những trường hợp đó, người Việt thì gọi chung là con nuôi, bố mẹ nuôi nhưng âm Hán gọi là “nghĩa phụ nghia tử” khác với “nghĩa phụ tử”, tang chế không quy định cho trường hợp “dưỡng phụ dưỡng tử”, nếu có gả con cho nhau thì cà ng tốt đẹp “thân thượng gia thân”. Con nuôi giả vờ: Vì con khó nuôi, sợ ma ta quấy nhiễu người mẹ đem con bỏ đường bỏ chợ, nhưng dặn trước người trực sẵn đưa về nuôi, sau và i giờ hoặc và i ngà y đến chuộc nhận là m con nuôi. Đây là cách đánh tráo con đẻ thà nh con nuôi, con nuôi là con đẻ để lừa ma. Trường hợp nà y đà nh rằng phải thông cảm y ước trước, nhưng cũng phải chọn người mắn đẻ, con không sà i đẹn, nuôi súc vật mát tay... Ngoà i ba loại con nuôi dương trần nói trên, còn có tục “bán khoán” con cho thần linh như bán con cho Đức Thánh Trần, Đức thánh Mẫu... Đã là con thần thánh, có tấu, có sớ, có bùa, có dấu ấn hẳn hỏi thì mà quỷ không dám bén mảng đến đã đà nh mà bố mẹ nuôi con cũng phải đặc biệt chú ý: Không cho con ăn uống những thứ uế tạp, phải mặc đồ sạch sẽ, không được vá chằng vá đụp, không để con bò lê la, không được chửi rủa xỉ vả con, sợ ngà i gọi về trời. Con chỉ được gọi cha đẻ bằng thầy, bằng cậu... Gọi mẹ bằng mợ, bằng chị, bằng u, bằng đẻ. Hai từ “Cha, mẹ” chỉ được tôn xưng với thần thánh. Bán cho Đức Thánh Trần chỉ được xưng họ Trần khi khấn vái, bán cho phật phải xưng Mầu, nhưng bán cho đức thánh mẫu là Liễu Hạnh không phải đổi họ. Sở dĩ gọi là “bán khoán” vì chỉ bán thời gi­an còn nhỏ để dễ nuôi. Đến tuổi 13 tuổi tức hết tuổi đồng ấu, đến tuổi và o sổ là ng xã thì là m lễ xin chuộc về. Chính thể mới hiện nay công nhận con nuôi cũng có quyền lợi và nghĩa vụ ngang con đẻ, đó là con nuôi thực sự được chính quyền địa phương công nhận trên cơ sở thoả thuận giữa người nuôi và người đẻ hoặc giữa người nuôi và thân nhân đỡ đầu trong trường hợp bố mẹ đẻ không còn. Đứa bé đếm tuổi thiếu niên cũng được quyền tự nguyện xin là m con nuôi, chọn bố mẹ nuôi. Bố mẹ nuôi có thể nuôi nhiều con tuỳ theo khả năng, nhưng không thể nhận là m con nuôi của nhiều gia đình. Tuổi bố mẹ nuôi phải cao hơn tuổi con nuôi ít nhất 20 tuổi. Điều 30 : Xưng hô thế nà o cho đúng ? Vấn đề nà y thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học, giáo dục học, nhưng dính dáng nhiều đến phong tục cổ truyền. Mới nghe tưởng đơn giản quá, đứa bé lên ba cũng biết. Quả vậy, trẻ con vừa học nói đã được cha mẹ, anh chị bà y cho cách xưng hô, thế nhưng đến lớn đến già vẫn còn sai sót. Nhiều khi chỉ vì một sai sót nhỏ trong các xưng hô mà gây nên thà nh kiến nặng nề. Đối với các nước khác châu á, đại từ nhân xưng có 3 ngôi: Người nói, người nghe và người, vật, sự việc được đề cập đến trong câu nói. Chỉ có sáu từ cơ bản nếu dịch mộc mạc ra tiếng Việt là : tao, mà y, nó, chúng nó, chúng tao, chúng mà y. Ví dụ: “Bố mẹ cháu bảo cháu đưa ba cháu sang thăm hai cụ”. Câu nà y nếu dịch từ đối ra tiếng nước ngoà i thì như sau: “Chúng nó bảo tao đưa nó sang gặp chúng mà y”. Ở Việt Nam ta đã quen từ nhỏ, đáng tuổi ông thì gọi là ông, đáng tuổi bác thì gọi là bác không đươc “mà y tao chí tớ”, “cá mè một lứa”. Chúng ta nên thông cảm với người nước ngoà i học tiếng Việt. Đại từ nhân xưng tiếng Việt rất đa dạng phong phú nhưng cũng rất phúc tạp, điều khó khăn phức tạp nhất là , ngay trong đại từ nhân xưng của ta đã mang sắc thái tình cảm, thể hiện sự yêu thương tức giận, kính trọng, khinh ghét, khách sáo, thân mật... Trong cách xưng hô của ta có phân biệt tôn ti trật tự rõ rà ng. Cháu bé hỏi rằng: Tại sao ông bảo cháu thưa bẩm, thế mà cháu gọi ông ông lại không thưa bẩm cháu. Cháu cũng không hiểu sao cha mẹ gọi con thì gọi thằng Giáp con ất được còn con gọi tên cha mẹ thì không được. Tại sao ông chú già rồi lại còn gọi là “ông trẻ”. Cách dùng từ để xưng hô của ta còn tuỳ thuộc và o mức độ thân sơ giữa người nói và người nghe. Ví dụ, thật thân tình bạn bè gọi nhau bằng mà y tao, hắn thì quí; gọi nhau bằng thưa quí anh hoặc bằng ông thì coi như giễu cợt kích bác nhau. Ngược lại, mới quen biết sơ sơ mà mà y tao thì coi như bất lịch sự, đôi khi nghe bực mình bỏ đi không thèm trả lời. Cụ già và Lão già đồng nghĩa nhưng khi nói “Tôi hỏi cụ già ” thì rất khác “Tôi hỏi lão già ”. Cũng có trường hợp “lão” chưa hẳn đã già , mà là cách gọi thân mật. Nếu có quan hệ họ nội, họ ngoại thì gọi theo quan hệ thân thuộc gắn bó tình thân thiết hơn; mặc dầu ít tuổi hơn mình nhưng ngang hà ng cha mẹ mình thì gọi bằng chú, bác, cô, dì theo đúng vai vế trong họ. Ngược lại, đối với người đã lớn tuổi mặc dầu là bậc cháu nhưng để cho khỏi “chướng” nên gọi bằng anh, ông, bác ông... Coi như gọi thay con, cháu mình, như vậy thanh nhã và lịch sự hơn. Thuần tuý quan hệ xã hội, không có quan hệ họ hà ng nhưng theo phép xã gi­ao “trưởng nhất tuế vi huynh, trưởng thập tuế vi phụ” (hơn một tuổi là m anh, hơn mười tuổi là m cha), tức là tôn lên ngang bằng với cha mà gọi chú, bác. Đây là phép tôn xưng. Điều 31 : Vợ chồng xưng hô với nhau như thế nà o ? Người Việt Nam ta từ nhỏ đến lớn, đến già nói chuyện với nhau đã quen tai nhưng nếu diễn giải cho người nước ngoà i biểu đạt được đầy đủ sắc thái ngôn ngữ kể thật lý thú . Ví dụ: “Nhà tôi” dịch ra tiếng Pháp là “Ma mai­son” thì người Pháp là m sao hiểu nổi. Thời nay vợ chổng trẻ xưng hô với nhau “anh anh em em” âu yếm thân thiết biết bao! Dẫu chồng ít hơn dăm ba tuổi vẫn là anh. Lùi lại bốn mươi năm trước, những gia đình ít nhiều được Âu hoá, vợ chồng gọi nhau bằng “mình” cũng thể hiện được tình cảm đậm đà , gọi nhau bằng “cậu, mợ” cũng thanh nhã, nhưng những từ đó còn xa lạ với nông thôn, một số tân tiến muốn gọi nhưng vẫn còn ngượng ngùng với hà ng xóm, chỉ thầm kín tỏ tình với nhau trong buồng, thỏ thẻ chỉ đủ hai người nghe với nhau. Cách gọi nhau bằng tên “trống không”cũng là một bước cải tiến lớn, chứ các cụ ngà y xưa, thời trẻ chỉ gọi nhau bằng “bố thằng cu”, “u nó”, “mẹ hĩm”... Người mới lấy nhau chưa có con, chồng chẳng có chức vị gì mà gọi thì là m sao ? Bí quá, có cô mới về là m dâu, muốn gọi chồng đang chơi bên nhà hà ng xóm về, chẳng biết xưng hô ra sao bèn ra ngõ gọi thật to “ai ơi! Về nhà ăn cơm”. Từ “ai” ở đây không phải là đại từ nghi vấn, hay đại từ phiếm chỉ mà có nghĩa là “chồng tôi ơi”. Còn khi nói chuyện với người khác thì giới thiệu vợ mình hay chồng mình là “nhà tôi”. Từ “nhà tôi” thật là đậm đà gắn bó, “mình ” và “tôi” tuy hai nhưng một. “Nhà tôi” tức là “chồng tôi” hay “vợ tôi” chứ không thể nói “vợ anh”, “chồng nó” là “nhà anh nhà nó”. Vợ chồng nói chuyện với nhau thường hay nói trống không “Nà y! Ra tôi bảo!” hoặc “nà o ai bảo mình”... Điều 32 : Cách xưng hô trong họ Có xem sơ đồ gia phả toà n họ mới biết được: Mình thuộc đời thứ mấy, đời trên mình là những ai, mình thuộc chi nà o, nhánh nà o, bằng vai với mình trong họ là những ai? Có sơ đồ gia phải mới phân biệt được thế thứ trong họ mỗi người tự xác định được quan hệ trong nội tộc mà xưng hô cho đúng, chú ra chú, bác ra bác, anh ra anh, em ra em v.v.... Xưng hô trong nội tộc khác với xưng hô ngoà i xã hội, để khỏi mang tiếng “Cá mè một lứa”. Ngoà i xã hội dựa theo tuổi tác và chức vụ địa vị, trong gia tộc dựa theo thế thứ, nhưng khi gi­ao thiệp với từng cá nhân cụ thể lại phải kết hợp theo cách xưng hô ngoà i xã hội theo quan hệ tuổi tác. Có thể đúng theo huyết thống thì anh A phải gọi tôi bằng ông chú, nhưng tôi cũng gọi anh A bằng bác, vì anh A đã là người tuổi cao, gọi bằng cháu bất tiện và bất lịch sự. Tôi gọi anh A bằng bác đó là gọi thay cho cháu chắt tôi, mặc dầu tôi ít tuổi hơn anh nhưng về thế thứ ngang với ông nội anh A. Tuy nhiên nếu ít tuổi quá mà gọi bằng ông cũng bất tiện, có khi phải hạ xuống một bậc mà gọi bằng chú mới thân mật. Trong khi chúng tôi biên soạn gia phả có người bà con trong họ thắc mắc: Gia phả có nhầm lẫn gì giữa các chi trong họ ta hay không ? Tại sao anh X. Còn ít tuổi hơn cháu nội tôi, mà tôi lại phải gọi anh X. bằng ông. Xin trả lời: đó là hiện tượng phổ biến không có gì đặc biệt. Ngay trong một gia đình anh cả đã có con, mà chú út chưa ra đời: hiện tượng “Em bú chị dâu, cháu bú bà ” là chuyện bình thường trong xã hội cũ, chỉ mới qua hai đời đã có sự chênh lệch 1 đời, vậy thì trong họ hà ng qua nhiều đời, chênh lệch dăm ba đời không có gì là lạ. Ở nông thôn còn mối quan hệ giây mơ rễ má chằng chịt qua giữa thông gia, giữa bà con nội ngoại, nên cách xưng hô lại cà ng phức tạp, thông thường thì vợ chồng thống nhất cách xưng hô với ông chú bà bác bên nội bên ngoại như nhau, nhưng cũng có trường hợp do quan hệ huyết thống thân sơ khác nhau chồng gọi bằng em, vợ gọi bằng bác hay ngược lại. Nhưng dầu sao “Máu thoảng còn hơn nước lã”, gọi nhau theo quan hệ gia tộc vẫn thân mật hơn gọi theo quan hệ xã hội. Điều 33 : Phải chăng lời chà o cao hơn mâm cỗ ? Trong tiếng Việt từ “chà o” thường đi đôi với từ “hỏi” và từ “mời”, cách chà o hỏi, chà o mời, chà o thưa ở mỗi địa phương có một phong tục khác, lại còn lệ thuộc và o đối tượng được chà o và phong cách người chà o. Đối với các cụ già , khúm núm kính cẩn đứng lại “bẩm cụ ạ” thì cụ có cảm tình ngay nhưng đối với người lớp trung niên tân tiến mà là m như vậy thì người ta tưởng chế giễu “Đi qua nghiêng nón không chà o” không phải vì ghét nhau hờ hững với nhau mà vì quá yêu nhau bằng lời nói mà còn bằng khoé mắt nụ cười, có trường hợp mắt nói rõ hơn miệng. Chà o hỏi đi đôi với nhau, hỏi để chà o: “ông khoẻ không ?” “ông đi đâu đấy ?” Nhiều khi hỏi bâng quơ, hỏi không cần trả lời, nhưng nếu không chà o hỏi thì ra điều lạnh nhạt khinh người. Chà o mời đi đôi với nhau: Cần phân biệt mời thực sự hay mời để thay lời chà o. Nực cười! Hà nh khách trên hai chiếc thuyền đi dọc sông, ngược chiều nhau cũng mời nhau ăn cơm lời mời thuần tuý thay lời chà o chứ có ai nhảy sang thuyền kia mà ăn đâu! lời chà o có thức sự cao hơn mâm cỗ không. Có khi không có mâm cỗ, chỉ chà o xuông, e không ổn, nhưng quả thực, mâm cao cỗ đầy mà lời chà o nhạt nhẽo, khinh khi, kiêu kỳ thì mâm cỗ cũng bỏ đi. Lời chà o biểu hiện phong cách con người, biểu hiện nề nếp của gia đình, thuần phong mỹ tục của điạ phương và của cả dân tộc ta. Song, ở mỗi nơi một khác, mỗi thời một khác. Ngà y xưa chà o bằng cách vái lạy; ngà y nay chà o bằng cách bắt tay. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề nà y trong câu hỏi “Ai vái lạy ai”. Điều 34 : « Nhập gia vấn húy » là gì ? Theo phép xã gi­ao, trước khi đến thăm một gia đình cần tìm hiểu tên Huý của ông bà cha mẹ và bản thân tên người mình định đến thăm, để tránh trong khi nói chuyện hoặc xướng hoạ thơ từ động đến tên huý gia tiên người ta “Huý” đồng nghĩa với “kỵ” (tức là kiêng kỵ). Ngà y giỗ tức là huý nhật hay kỵ nhật. Tên huý là tên chính nhưng lại là tên kiêng nói đến, khi giận nhau người ta đè tên huý ra mà chửi. Ông bà , cha mẹ, chú bác có thể gọi con cháu bằng thằng nọ con kia theo tên huý, kể cả những người cao tuổi trong là ng xóm. Trong ngôn ngữ thông thường có trùng âm cũng phải nói tránh đi, nếu không sẽ bị coi là hỗn. Thời nay, gi­ao thiệp rộng rãi, trong quan hệ bạn bề đồng chí gọi tên nhau là chuyện bình thường. Song về các vùng nông thôn phải tuỳ theo phong tục từng vùng mà xưng hô, nếu cứ theo họ tên ghi trong địa chỉ thư tín và giấy tờ hà nh chính mà gọi thì chưa chắc hẳn các vị cao tuổi đã vui lòng. Trừ những người đã thoát ly, công tác, còn thông thường người ta vẫn hay gọi nhau bằng tên con trưởng hoặc tên cháu đích tôn. Ở miền nam nước ta hay gọi tên theo thứ tự sinh ra trong gia đình, nếu đã ra ngoà i xã hội thì thường gắn tên huý. Ví dị : Ông Bảy Lửa, chị Ba Tịch ... Điều 35 : Ai váy lạy ai ? Vái lạy là phép xã gi­ao thời xưa, không chỉ dùng khi cúng tế mà người sống cũng lạy nhau...“Đời xưa vua đối với bà y tôi, bố vợ đối với chà ng rể, người tôn trưởng với kẻ ti ấu đều phải lạy đáp lễ... Đến đời nhà Tần mới đặt ra lễ ”tôn quân ti thần", nên thiên tử không đáp lạy bà y tôi nữa... Ngà y xưa từ quan khanh sĩ trở xuống đều theo cổ lễ mà đáp lễ kẻ ti ấu, nếu kẻ ti ấu (bề dưới) chối từ, mới dùng lễ túc bái đáp lại. Còn vái là nghi thức lúc đã lễ xong....Nước ta xưa kia có chốn công đường có lễ tông kiến, kẻ hạ quan cũng vái bậc trưởng quan... Gần đây những kẻ hiếu sự không biết xét đến cổ điênr lại cho là lễ của tôn trưởng đối với kẻ ti ấu, còn kẻ ti ấu đối với tôn trưởng không được vái, chỉ lạy xong là cứ đứng thẳng và lùi ra..."(Trích Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ trang 174). Xem đoạn văn trích dẫn trên ta thấy vái lạy là một phép xã gi­ao, không chỉ vái lạy người trên mà người trên cũng vái lạy đáp lễ. Từ lạy nhau chuyền sang vái nhau trong buổi tương kiến, đến nay ta tiếp thu văn hoá Âu Tây vẫn giữ được phép tôn ti (tôn trưởng ti ấu). Theo phong tục lễ giáo của ta, bề dưới phải chủ động chà o bề trên trước, trẻ chà o già trước, trò chà o thầy trước . Nếu bề trên không chà o lại người dưới, thầy không chà o lại trò, tức là không đáp lễ, thì cũng bất lịch sự chẳng khác gì từ chối người khác, là m cho người đưa tay trước ngượng ngùng và bất bình. Không biết vái, chà o lại người khác là đã tự là m mất đi phong cách lịch duyệt của chính mình. Chúng tôi xin trích kể lại câu chuyện “Tam nguyên Tổng đốc lạy ông Nhiêu”. Ông Nhiêu Chuồi người cùng là m ăn mừng lên thọ 80 Cụ Tam Nguyên cũng tới mừng. Khi là m lễ chúc thọ, cụ Tam cũng như mọi người lễ ông Nhiêu hai lễ rất kính cẩn. “Ai đời cụ Tam Nguyên Tổng Đốc lại lạy một người dân thường. Ông Nhiêu vội và ng sụp xuống lạy tạ. Cụ Tam đỡ ông Nhiêu dậy, ôn tồn nói: Ta lễ là lễ cái thiên tước của ông Nhiêu đấy...” (Trích Nguyễn khuyến và gi­ai thoại _ Bùi. V. Cường biên soạn_Hội VH­NT Hà Nam Ninh xuất bản- tr 123) Điều 36 : Đạo thầy trò Quan hệ thầy trò nói riêng về mặt phong tục cũng cần có một tập sách rêng. Để trả lời cho những câu hỏi về đạo thầy trò, chúng tôi thiết nghĩ mấy dòng sơ lược thì chưa thể nà o nói cho hết được. Dân tộc ta vốn tôn sư trọng đạo, dưới chính thể nà o cũng vậy. Vai trò thầy giáo luôn luôn tiêu biểu cho tầng lớp trí thức, tiên tiến được toà n thể xã hội công nhận. Nghề giáo vốn là nghề cao quí nhất. Nền giáo dục thời phong kiến cũng như thời dân chủ đều thống nhất một phương châm “tiên học lễ hậu học văn” “nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội”... Nhân tà i phục vụ xã hội, điều hà nh bộ máy Nhà nước đều được “ông thầy”, tức là khuôn mẫu, đà o tạo nên, “không thầy đố mà y là m nên”. Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức đều thống nhất dựa và o chế độ thi cử, có học vị, cấp bậc rõ rà ng. Vì tất cả những lẽ trên, có người đặt vấn đề: Vậy đặt thầy cao hơn cha có quá đáng không ? Cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng mình, thầy giáo là người truyền thụ kiến thức cho mình. Sở dĩ hiển đạt, thi thô được tà i năng với đời đều nhờ thầy. Ngà y xưa, từ nhỏ đến khi đi thi đậu cử nhân, tiên sĩ thường cũng chỉ học một thầy cùng lắm là và i ba thầy, chứ không như ngà y nay mỗi năm một lớp rồi mỗi môn một thầy. Ngà y xưa có nhiều trường hợp thầy trò cùng lều chóng đi thi nhưng học tà i thi phận , trò đậu thầy hỏng. Có những ông thầy đà o tạo được nhiều ông Nghè, ông Cống nhưng bản thân ông thầỳ lại chẳng đậu đạt gì, chẳng nhận quan tước gì, có người thi đậu cũng không ra là m quan mà chỉ tiếp tục dạy học. Có những thầy giáo đạo cao đức trọng được môn sinh nể trọng hơn cha. Thầy Chu Văn An là người thầy tiêu biểu nhất được liệt thờ ở Văn Miếu. Ngà y xưa, thầy đồ dạy đỗ được một số học sinh đậu đạt cử nhân, tiến sĩ thì tự nhiên vai vế trong xã hội được nâng lên rõ rệt, quan tỉnh quan huyện cũng phải kính nể, chẳng những đối với thầy giáo mà cả gia đình thầy. Quang Trung ba lần mời Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử) ra là m quân sư, chính là để thu phục nhân sĩ Bắc Hà , vì Nguyễn Thiếp là thầy giáo của nhiều triều thần Lê Trịnh đương thời. Ngà nh giáo dục tuy có chế độ thi hương, thi hội, thi đình rất nghiêm rất chặt, song rất ít giáo chức rất ít trường công, ở cấp huyện , cấp phủ chỉ có một và i huấn đạo giáo thụ ăn lương nhà nước, hầu hết là các lớp tư thục. Một nhà khá giả trong vùng nuôi thầy cho con ăn học , xóm là ng chung quanh gửi ôn đến thụ giáo không phải nộp học phí, chỉ đến ngà y mồng 5 tháng 5 ngà y Tết... cha mẹ học trò mới đưa lễ tết đến tết thầy tuỳ tâm. Già u có thì thúng gạo nếp, bộ quần áo...Nghèo thì một cơi trầu một be rượu cũng xong. Môn sinh của một thầy thường tổ chức nhau lại gọi là Hội đồng môn, có trưởng trà ng, giám trà ng và một số cán trà ng giúp việc trưởng trà ng. Con thầy mặc dầu ít tuổi hơn cũng được gọi là thế huynh. Thầy nà o có tiếng dạy giỏi, dạy nghiêm thì được nhiều sĩ tử đến theo học , Hội đồng môn vận động các gia đình môn sinh đóng góp tiền của tạo ruộng, tạo trâu bò rồi phân công cà y cấy, đến mùa mà ng gặt tự gánh về gia đình nhà thầy để gia đình thầy chi dụng. Khi thầy mất lại dùng rụông đó lo tang ma cho thầy, cho vợ thầy và giỗ tết tế tự về sau. Học trò để tang thầy cũng ba năm như tang cha mẹ, nhưng không mặc tang phục, gọi là tâm tang tức là để tang trong lòng. Cụ Thượng Niên về lễ tang vợ thầy: Nguyễn Khắc Niên (1889-1954) người Sơn Hoà , Hương Sơn, Hà Tĩnh đậu Đệ nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoà ng Giáp) khoa Đinh Mùi 1907 là m Thượng thư bộ Cải lương hương chính triều Bảo Đại. Nguyễn Khắc Niên là học trò cụ Nguyễn Duy Dư người Sơn Tiến, một người nổi tiếng hay chữ ở huyện Hương Sơn, đã được hội Tư văn hà ng huyện tôn xưng là “Hương Sơn tứ hổ”. Nguyễn Khăc Niên thụ giáo cụ Dư ở cách nhà mình trên 4 km. Đến kỳ thi Hương hai thầy trò cùng lều chõng đi thi, học trò đậu cử nhân, được và o Huế thi Hội đậu luôn Hoà ng giáp, thầy chỉ đậu Tú tà i. Theo chế độ thi cử thời trước: Cử nhân mới được dự thi Hội, còn Tú tà i thì phải 3 khoa Tú tà i mới được thi. Ba năm mới có một khoa, thầy Tú chưa kịp chờ để thi lại khoa sau thì đã từ trần- 1909. Hơn 30 năm sau, bà Tú Dư mất, lúc đó Nguyễn Khăc Niên đã lên đến chức Thượng thu trong triều. Nghe tin vợ thầy học cũ mất, ông đánh xe từ Huế về Hà Tĩnh để phúng viếng. Nhà cách sông và đường quốc lộ, Tri huyện tiếp điện đã lệnh cho Tổng lý địa phương đem kiệu và võng lọng ra tận bờ sông đón rước cụ thượng về quê lễ vợ thầy. Nhà ông bà Tú trên đỉnh đồi Sơn Trại, người trai tráng leo lên cũng cảm thấy mệt, hơn nữa sỏi đá lởm chởm. Nhưng để tỏ lòng cung kính nhớ ơn thầy, cụ thương Niên đã xuống cáng, đi chân đất có hai người lính hầu dìu hai bên, lên tận nhà thầy gần đỉnh đồi . Tất nhiên cụ Thượng thư đã đi chân đất thì từ tuần phủ tri huyện đến tổng lý cũng phải tháo hia hà i cắp nách mà leo lên. Người con trưởng cụ Tú và một số gia nân khăn áo chỉnh tề đã xếp hà ng đứng ở cổng. Mặc dầu chỉ là dân thường ít hơn một và i tuổi, nhưng con trai cụ Tú cũng được Cụ Thượng Niên vái chà o rất cung kính (vì được coi là thế huynh). Học trò cũ mà thầy lại mất từ lâu, nay về lễ tang vợ thầy, đây là chuyện thực mắt thấy tai nghe, kể lại dẫu có lỗi thời, nhưng cũng hy vọng các bạn đọc chắt lọc được trong phong tục xưa chút hương vị ngọt ngà o chăng ? Điều 37 : Miếng trầu là đầu câu chuyện Theo phong tục Việt Nam, miếng trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều tình cảm ý nghĩa, già u nghèo ai cũng có thể có, vùng nà o cũng có. Miếng trầu đi đôi với lời chà o, người lịch sự không ăn trầu cách mặt nghĩa là đã tiếp thì tiếp cho khắp: Tiện đây ăn một miếng trầu Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là “Đầu trò tiếp khách” là trầu, ngà y xưa ai mà chẳng có, hoạ chăng riêng Tú Xương mới “Bác đến chơi nhà ta với ta” Quí nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự cũng mời nhau ăn trầu nhưng “cau sáu ra thà nh mười”. Đặc biệt “trầu là đầu câu chuyện” gi­ao duyên giữa đôi trai gái: “Lân la điếu thuốc miếng trầu, đường ăn ở dễ chiều lòng bạn lứa”. Trầu và ng nhá lẫn trầu xanh Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời. Mời trầu không ăn thì trách móc nhau: Đi đâu cho đổ mồ hôi Chiếu trải không ngồi trầu để không ăn. Thưa rằng bác mẹ tôi răn Là m thân con gái chớ ăn trầu người. Khi đã quen hơi bén tiếng, trai gái cũng mượn miếng trầu để tỏ tình, nhất là các chà ng trai nhờ miếng trầu mà tán tỉnh: Từ ngà y ăn phải miếng trầu Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu.  Một thương, hai nhớ, ba sầu Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi. “Có trầu, có vỏ, không vôi” thì môi không thể nà o đỏ được, chẳng khác gì “có chăn, có chiếu không người năm chung”. Cho anh một miếng trầu và ng Mai sau anh trả cho nà ng đôi mâm.  Yêu nhau chẳng lấy được nhau Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già . Miếng trầu không đắt đỏ gì “ba đồng một mớ trầu cay” nhưng “miếng trầu nên dâu nhà người”. Ngà y nay để răng trắng nhiều người không biết ăn trầu nữa, nhất là ở thà nh phố, nhưng theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng, sau khi ăn hỏi xong cũng đem cau trầu cau biếu hà ng xóm và bà con nội ngoại. Vì miếng trầu là tục lệ, là tình cảm nên ăn được hay không cũng chẳng ai chối từ Thời xưa, ăn trầu còn sợ bị bỏ “bùa mê”, “bùa yêu” nên người ta có thói quen: Ăn trầu thì mở trầu ra Một là thuốc độc hai là mặn vôi. Các cụ cà ng già cà ng nghiện trầu, nhưng không còn răng nên “đi đâu chỉ những cối cùng chà y” (Nguyễn Khuyến). Cối chà y giã trầu là m bằng đồng, chỉ bỏ vừa miếng cau, miếng trầu, miếng vỏ nhưng trạm trổ rất công phu, ngà y nay không còn thấy có trên thị trường nên các cụ quá phải nhở con cháu nhá hộ. Vì trầu cau là “đầu trò tiếp khách” lại là biểu tượng cho sự tôn kính, phổ biến dùng trong các lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, lễ thọ, lễ mừng... Nên têm trầu cũng đòi hỏi phải có mỹ thuật, nhất là lễ cưới có trầu têm cánh phượng có cau vỏ trổ hoa, “cau già dao sắc” thì ngon. Bà y trầu trên đĩa, hạt cau phải sóng hà ng, trầu và o giữa, đĩa trầu bà y 5 miếng hoặc 10 miếng, khi đưa mời khách phải bưng hai tay. Tế gia tiên thì trầu têm, còn tế lễ thiên thần thì phải 3 là trầu phết một tí vôi trên ngọn lá và 3 quả cau để nguyên. Điều 38 : Xuất xứ của tục nhuộm răng và cách nhuộm răng Tục nhuộm răng là tục cổ xưa của dân tộc Việt, có từ thời các vua Hùng với tục ăn trầu. Sứ thần của nước Văn Lang (gi­ao chỉ) trả lời vua nhà Chu (Trung Quốc) vè tục ăn trầu “Chúng tôi có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen...”. Khiếu thẩm mỹ của con người cũng tuỳ thuộc theo đặc điểm dân tộc và tuỳ thuộc theo thời đại mà thay đổi. Đối với các dân tộc ở châu Phi hay ấn Độ thì da cà ng đen cà ng đẹp. Nước ta ngà y nay, chẳng ai nhuộm răng đen nữa, nhưng ngà y xưa “bõ công trang điểm má hồng răng đen”. Đến như Phan Kế Bính là một nhà trí thức tiến bộ đầu thế kỷ, chủ trương cải tạo phong tục còn có nhận xét: “Đà n ông răng trắng thì chẳng sao, chớ đà n bà nhà tử tế bây giờ mà răng trắng thì coi khí ngộ một đôi chút. Nhưng lâu dần cũng phải quen mắt, có lẽ quen mắt rồi thì trắng lại đẹp hơn đen nhiều”. Năm quan mua lấy miệng cười Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen. Tục nhuộm răng đã lỗi thời, nhưng xin giới thiệu cách nhuộm răng cổ truyền của dân tộc ta, để các bạn trẻ được biết: (có thể vận dụng trong ngà nh mỹ nghệ, kẻ vẽ, nhuộm các chế phẩm bằng xương bằng ngà voi và nhựa). Trước hết dùng các cánh kiến tán nhỏ, vắt nước chanh để kín 7 ngà y, chờ tối đi ngủ phết thuốc ấy và o hai mảnh lá dừa hoặc mo cau rồi ấp và o hai hà m răng. Trong khi nhuộm răng thì phải kiêng nhai. Nhuộm như thế 5, 7 ngà y cho răng đỏ già ra mà u cánh gián thi bôi thuốc răng đen. Thuốc răng đen là m bằng phen đen trộn với cánh kiến, nhuộm 1, 2 miếng là đen kịt lại, đoạn lấy cái sọ dừa để con dao mà đốt cho chảy nhựa ra, lấy nhựa ấy phết và o răng cho không phải ra được nữa. (Trích Phong tục VN của Phan Kế Bính, tr 351). Điều 39 : Tại sao gọi là « tóc thề » ? Các cô gái cô mái tóc thề trông thêm duyên dáng. Tóc thề vốn là một và i sợi tóc ngắn phất phơ hai bên trán và và nh tai. Có những bạn trai nghe nói các cô gái có mái tóc thề, tưởng là các cô đã có người yêu, nhưng thực tế nà o các cô đã thề thốt cùng ai ? Nguyên xưa, các đôi trai gái yêu nhau hoặc có những đôi đã nên vợ nên chồng, đang mặn nồng đằm thắm bỗng vì một lý do gì đó là m cho tình duyên dang dở, đôi lứa xa nhau. Họ quyết một lòng, dẫu cho sông cạn đá mòn, năm tháng chờ đợi vẫn một lòng thuỷ chung. Trước khi lưu luyến chia tay, họ cắt trao cho nhau một mớ tóc để ầm tin và luôn giữ trong mình như kỷ vật. Mớ tóc đó gọi là tóc thề. Chỗ tóc bị cắt đó dần mọc lại và dà i dần, mái tóc mới mọc đó gọi là tóc thề. Trong chuyện Kiều có câu: Tóc thề đã chấm ngang vai Nà o lời non nước, nà o lời sắc son. Có nghĩa là dăm ba năm sau, chỗ tóc bị cắt cụt đã mọc dà i chấm ngang vai rồi vẫn chưa thấy bóng dáng người yêu. Nên nhớ, thời xưa con trai cũng để tóc dà i, cũng búi tóc, và vì vậy cũng có tóc thề. Điều 40 : Mà u sắc với truyền thống văn hóa dân tộc Ở mỗi dân tộc việc vận dụng mầu sắc có tập quán khác nhau. Thí dụ ở các nước phương Tây, mầu đen là mầu tang tóc, còn ở Việt Nam và các nước phương Đông thì phổ biến mà u tang là mầu trắng. Mầu sắc còn mang đặc trưng sắc thái của các tầng lớp xã hội khác nhau: Thí dụ mầu và ng là của vua, từ các quan đại thần cho đến thường dân, cấm không ai được mặc quần áo hoặc xây dựng nhà cửa mà u và ng. Mầu tím là sắc phục của các quan đại thần. Mầu điều, mầu đỏ dà nh riêng để tế thần và là m sắc phục cho các cụ thượng thọ. Mầu nâu sòng là của cửa Thiền dà nh cho những kẻ quy y Phật tổ, cũng như mầu đen là sắc phục của linh mục đạo Ky-​Tô. Mầu xanh là của những người còn theo đòi Cửa Khổng sân Trình, của học trò chưa đậu đạt: Trong bà i thơ La-​sơn phu-​tử Nguyễn Thiếp gửi Tiến sĩ Nguyễn Khản có câu: Quân kim bà o hốt trung triều sĩ, Cố ngã lâm tuyền khâm thượng thanh.... (Có nghĩa là : Nay ngà i đã là khanh tướng trong triều, mà còn nhớ đến bạn học ngà y xưa áo vẫn xanh). “áo vẫn xanh” tức là chưa hiển đạt, vẫn còn là bộ quần áo của người hà n sĩ. Mầu đà o tức mầu hoa đà o là của các nà ng ca sĩ, cho nên mới có danh từ “Hát ả đà o”. Mầu đen, mầu nâu là trang phục rẻ tiền nhất của quần chúng nông dân. Mầu xanh nhập nội từ đất nước Trung hoa sau giải phóng gọi là xanh công nhân. Ở Việt Nam, từ xưa tới nay, mầu đỏ, mà u và ng, mà u hồng, dùng trong trướng đối chỉ dà nh để chúc tụng, khao lão, mừng rỡ, còn trong lễ tang chỉ có thể dùng mầu trắng, mầu xanh, mầu đen, mầu tím.... không hiểu vì sao, gần đây nhan nhản ở các cửa hà ng, trướng điếu (lễ tang) cùng dùng mầu đỏ, mầu và ng rực rỡ, phải chăng các cụ già chết là đáng mừng, không cần phải an ủi, lưu luyến, nên chẳng cần dùng mầu đen, trắng, xanh, tím như ngà y xưa. Vì thế mới xẩy ra câu chuyện oái oăm: Có người đi mừng ông ban 70 tuổi lại mua một bức trướng điếu mầu đỏ thêu 4 chữ và ng “Tiên cảnh nhà n du”, có khác gì chúc cho bạn mình mau chết để chóng được lên dạo chơi trên cảnh Bồng Lai. Nguyên “Tiên cảnh nhà n du”, (Nghĩa là thanh nhà m dạo chơi trên cảnh tiên) là để an ủi người mới mất từ nay hết nợ trần gi­an lên hưởng cảnh tiên. Điều 41 : Vì sao có tục bán mở hà ng ? Bán mở hà ng thế... Trong phong tục ngà y Tết, chúng tôi đã trình bà y: đầu năm ai cũng muốn vận hội hanh thông, là m ăn suôi sẻ, là m quan có ngà y khai ấn, kẻ sĩ có ngà y khai bút, nhà nông có ngà y khai canh, là m thợ có ngà y khai công, người là m nghề buôn bán có ngà y mở hà ng. Theo tâm lý chung mọi việc khởi đầu đều khó khăn, mà “Đầu đi thì đuôi lọt!”. Riêng trong nghề buôn bán lại cà ng bấp bênh, có ngà y mua may bán đắt, có ngà y ngồi suốt buổi chẳng ai ngó tới, có tháng lời lãi nhiều, lợi lộc lớn, có tháng thua lỗ mất cả chì lẫn chà i, vì vậy không những chọn ngà y mở hà ng đầu năm, mà cả đầu tháng, đầu tuần, từng ngà y còn phải để ý đến chuyện mở hà ng: mở hà ng và o lúc nà o ? Bán cho ai “Nhẹ vía” để cả ngà y bán đắt hà ng ? Thông thường muốn được đông khách đến mua thì thái độ người bán hà ng phải niềm nở, vồn vã, ân cần, bán nới giá hơn bình thường để cầu được đông khách và giữ được chữ Tín đứng hà ng đầu. Song có người lại tưởng nhầm bán mở hà ng phải bán cho đắt, người mua mặc cả chê đắt không mua bỏ đi, rốt cuộc ngồi lì suốt buổi không ai hỏi đến, thậm chí còn có thái độ và ma thuật bỉ ổi cho là tại người mở hà ng nặng vía, chửi rủa ngầm và “Đốt vía” người mở hà ng. Người bán hà ng như vậy không biết rằng: chính mình là người nặng vía nhất. Ngà y trước người ta muốn đi chợ sớm để được mau mở hà ng có giá rẻ hơn chút ít, nhưng ngà y nay nhiều người ngại mở hà ng vì sợ vướng phải hạng người không biết mình bán hà ng nặng vía lại đòi “Đốt vía” người mua mở hà ng. Đến đây ta có thể kết luận được: Bán mở hà ng nên bán đắt hơn hay rẻ hơn giá bình thường ? Chuyện vui: “Mở hà ng nhẹ vía ” hay “Nợ như Chúa Chổm” “Nợ như Chúa Chổm”. Đó là thà nh ngữ phổ biến để chỉ người lắm nợ. Nhưng tại sao Chúa Chổm lại lắm nợ như vậy ? Truyền thuyết kể rằng: “Chổm” là hà ng cùng dân ở miền Thanh Hoá, chẳng có gia tà i điền sản hay nghề ngổng gì, quanh năm chỉ có đánh dậm, mò cua, bắt ốc nuôi thân. “Chổm” tên thật là gì, quê quán ở đâu, bà con họ hà ng thân thích có những ai ? Chẳng ai để ý đến. Một con người “Tứ như Chúa Chổm” được. Nguyên do: có mấy lần sáng sớm, Chổm và o một quán nhỏ ăn lót dạ, tự nhiên những hôm dó chủ quán bán rất đắt hà ng. Vì vậy, một đồn mười, mười đồn trăm, các chủ quán ai gặp Chổm, cũng có nà i Chổm và o ăn quà lấy may. Ai được Chổm hôm nà o chiếu cố và o ăn thì hôm ấy đều bán được đắt hà ng. Nhưng Chổm là m gì có nhiều tiền để trả, người ta vui lòng mời Chổm ăn, bao giờ có tiền trả cũng được, mà không có cũng thôi, do đó trong khắp vùng không ai mắc nợ nhiều bằng Chổm. Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi của vua Lê Cung Hoà ng, dựng nên nhà Mạc. Đến nay 1532 Nguyễn Kim khởi nghĩa phò Lê chống Mạc, đi tìm hậu duệ tôn của vua Lê, tìm được Chổm, mặc dầu khố rách áo ôm, nhưng có khí tướng đế vương (người ta còn đồn đại rằng: Chổm đi đâu cũng có đám mây che trên đầu, trời đang nắng gắt cũng trở nên dâm mát...) Chổm được phò lên ngôi vua mở đầu thời Lê Trung Hưng đóng đô ở Thanh Hoá (tức Tây đô) để chống với nhà Mạc ở Hà Nội (tức Đông đô). Sau khi lên là m vua, không có điều kiện gần gũi quần chúng như trước, và cũng không nhớ nợ ai bao nhiêu mà trang trải nợ nần nữa, Chúa Chổm (thực ra là Vua Chổm) đà nh phải hạ lệnh đúc thật nhiều tiền, rồi Chổm đi đến đâu rải tiền ra đến đấy, cho công chúng ai nhanh tay, mạnh bước thì nhặt lấy. Vì thế nên mới có thà nh ngữ “Nợ như Chúa Chổm”. Điều 42 : Đạo hiếu là gì ? Các bạn biết chữ Hán thấy rõ: Chữ “Hiếu” là chữ viết tắt của hai chữ “Lão” ở trên (lượt bớt phần dưới) và chữ “Tử” ở dưới. “Hiếu” tức là mối quan hệ cha trên, con dưới; suy rộng ra là đạo nghĩa của con cháu đối với cha mẹ, ông bà , tổ tiên. Đọc bà i “Đạo hiếu” của Nhất Thanh (Tr.331 cuốn “Đất lề quê thói”- NXB Đồng Tháp) cùng với một số bà i nói về lễ Mừng lão,Yến lão, tôi rất nhất trí và không lặp lại, chỉ xin nói thêm và i lời. Đạo hiếu xuyên suốt trong mọi phong tục của nhân dân ta, không thể không nói đến chữ hiếu khi viết về phong tục cổ truyền của ta. Lễ tế, lễ tang, lễ cưới, kể cả sinh đẻ, xây nhà dựng cửa, hội hè đình đám, việc nước, việc là ng, thuần phong mỹ tục đã đà nh mà trong số những phong tục đã lỗi thời, ngà y nay bị xếp và o loại đồi phong bại tục, ta cũng chắt lọc được một phần tinh hoa của đạo hiếu. “Hiếu” là thiên kinh địa nghĩa, là gốc của mọi đức tính. Ca dao tục ngữ đã nói nhiều, ngay trong bà i học vỡ lòng, trong “Luân lý giáo khoa thư” các em đã hiểu: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”... Những chân lý đó, ai không chấp nhận, song quan niệm về chữ “Hiếu” ngà y nay cũng có phần khác thời xưa. Tôi không dám lên mặt dạy đời, chỉ xin thuật lại một buổi tranh luận trong nội bộ gia đình tôi: Trước hết tôi hỏi“ ”Hiếu“ là gì? Cháu nhanh nhảu trả lời: ”Hiếu“ là hiếu với dân, Bác Hồ khuyên” “Trung với nước, hiếu với dân”. Đà i báo cũng nhắc luôn: “ Hiếu với chân, tức là cán bộ phải chăm lo cho dân, đừng ăn hôi lộ, đừng hách dịch với dân”. - “Việc hiếu” là gì ? - “Việc hiếu ” là việc ... là việc... là việc cán bộ chăm lo cho nhân dân mà không ăn của đút, không... Đến đây cháu lúng túng. Thằng con út tôi trả lời thay: - “Việc hiếu” là việc đưa đám ma, vì hôm trước, đưa đám ma xong, ông hà ng xóm đứng lên cảm ơn thân bằng cố hữu đã giúp gia đình lo xong việc hiếu.... Đến đây, được chú em tôi phụ hoạ thêm: - Cháu nói có lý đấy anh ạ! “Việc hiếu” là việc đối với người chết, cho nên người ta thường nói “Hiếu”, “Hỷ”, tức là chỉ việc tang, việc cưới. Nhưng cháu ạ, việc hiếu phải ba năm chứ không phải đưa ma xong là xong đâu ! Đến như tiến sĩ Lý Trần Quán, một người tận trung tận hiếu cuối triều Lê, trước khi chết còn viết đôi câu đối “Tam niên chi hiếu dĩ hoà n. Thập phần chi trung vị tận” (Chữ “Hiếu” 3 năm đã xong, chữ “Trung” mười phần chưa trọn). - Hiếu đối với người chết, còn đối với người sống thì sao? “Sự tử như sự sinh” kia mà ? - Ồ, anh muốn biết con anh có hiếu hay không, xin anh hãy ráng chờ sau khi anh chết sẽ rõ. Ca dao có câu “Khi sống thì chẳng cho ăn. Đến khi chết xuống là m văn tế ruồi”. Thời xưa còn thế nữa là bây giờ. Nhưng anh cũng đừng lo ruồi ăn hết phần, vì thanh niên ngà y nay có biết đọc văn nữa đâu mà tế ruồi. Đến đây lại chuyển sang mục tranh cãi giữa tôi và chú em về quan niệm chữ “Hiếu” thời xưa và c thời nay. - Thời nay lớp trẻ chẳng biết “Chín chữ cù lao” là cái gì. Công ơn mang nặng đẻ đau, nuôi con khôn lớn tốn bao nhiêu tâm lực, đến nay chúng nó có lớn mà chẳng có khôn. - Tôi phà n nà n - Đã thế còn hỗn láo, bướng bỉnh... - Đó chẳng qua là cái món nợ đồng lần, mình nuôi con rồi nuôi cháu cũng thế. Lớp trẻ bây giờ nhiều người nói ngược: “Sinh ra ta, nuôi ta lớn lên, đó là trách nhiệm của các ông bô bà bô”. Có đứa còn trách bố mẹ: “Sao người ta ăn sung mặc sướng, được chiều chuộng. Bố mình thì ”Khắt khe“, ”Ky bo' mà còn kể ơn huệ!" - Chú em tôi kể thêm. Đối với những ông bố bà mẹ có những đứa con như vậy, quả thật là bất hạnh, song cũng phải khẳng định số người đó rất ít, vả lại khi đến tuổi trưởng thà nh, được tiếp thu sự giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội và qua khảo nghiệm thực tế của cuộc đời, chúng sẽ thay đổi tính tình. Bố mẹ bao giờ cũng sẵn sà ng tha thứ, nước mắt chảy xuôi là lẽ thường tình. Bà n đến câu ca dao: “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư”, rồi “Trứng khôn hơn vịt”... được dịp, con cả tôi xen và o: - Con xin phép cha mẹ và chú, con cãi cha mẹ không phải trăm phần trăm con hư cả. Nếu cha mẹ nghĩ sai là m sai, con can ngăn thì đó có phải là bất hiếu đâu! Ông chú gật gù tán thà nh: - Cháu nói có lý. Câu “Con cãi cha mẹ trăm phần con hư” chỉ đúng khi đứa con còn thơ ấu, chứ khi đã trưởng thà nh có nhiều cô cậu còn khôn hơn cha mẹ. “Con hơn là nhà có phúc” mà ! Thời đại ngà y nay, khoa học kỹ thuật tiến vùn vụt, tư duy chính trị, kinh tế bây giờ cũng đổi mới mà cánh già chúng ta thường hay thủ cựu, bảo thủ cố chấp. Âu cũng là mâu thuẫn giữa hai thế hệ... - Theo chú, câu tục ngữ “Có con tội sống, không có con tội chết” có đúng không ? - Đúng thời xưa nhưng không đúng thời nay. Thời xưa có câu “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (có 3 điều bất hiếu với cha mẹ, trong đó không có con là điều nặng nhất). Cha mẹ ông bà tuy đã qua đời nhưng không còn sống trong ta, nếu ta không có con thì sau khi ta chết, ta cũng là m tiêu tan nốt giòng máu của bao đời tổ tiên, ông cha lưu lại. Nhưng còn tội sống thì sao ? Có ít người cho rằng nuôi con chẳng qua chỉ mang thêm tội vạ. Đã vậy sao nhiều người ghét con lại thương cháu. Có lẽ họ nghĩ rằng chon họ đã không nối được nghiệp cha ông thì hy vọng cháu mình sẽ nối. Trong cuốn “Một nghìn lẻ một đêm” một nhà thông thái đã trả lời đám đông: “Nỗi khổ nhất và dai dẳng nhất trên đời là có đứa con hư”. Nhưng còn một mặt khác, mà là mặt tích cực và phổ biến “Con khôn nở mặt mẹ cha” “Một con một của”, có ai từ. Gặp nhau người ta hỏi thăm nhau: “Mấy trai máy gái rồi ?”, chứ có hỏi: “Mấy của rồi ?”đâu. Còn như câu “Trẻ cậy cha, già cậy con” ngà y nay liện còn đúng không ? Nhân nhắc đến những gương hiếu kính thời xưa được nhà vua ban biển và ng như thời vua Lê Huyền Tông cách đây gần ba trăm năm (1663-1671), ban biển đỏ với bốn chữ và ng “Hiếu hạnh khả phong” như thời vua Hà m Nghi cách đây hơn một trăm năm (1885-1888) chú em tôi thắc mắc có tính chất gợi ý: “Thời nay thiếu gì gương hiếu kinh sao từ trung ương đến địa phương chưa thấy có hình thức khen thưởng biểu dương gì ?. Trong quyển ”Nhị thập tứ hiếu“ có Lục Tích người quận Cửu Chân mới 6 tuổi đến nhà họ Viên ăn tiệc xong dấu quả quýt mang về cho mẹ Quận Cửu Chân là đất Thanh Hoá ngà y nay. Lục Tích cũng được liệt trong số ”Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu", sao trong sử sách ta, không thấy nói đến. Ông chú vừa dứt lời, cậu con trai thứ của tôi xen ngay : - Tưởng ai nổi danh, chứ như Lục Tích giấy quýt về cho mẹ cũng đưa và o sử sách, thì ở nước ta giấy mực đâu mà thống kê cho hết, ở một vùng cũng đến hà ng ngà y hà ng vận người. Ngay như cháu đây, lúc nhỏ cùng đi ăn giỗ với chú ở nhà thờ họ, hẳn chí còn nhớ, lúc đó cháu mới bốn, năm tuổi, cháu còn nhớ chú xé sẵn cho cháu một tà i lá chuối trước khi ăn cỗ, thế rồi phần giò, phần nêm, chả, xôi, hoa quả của cháu, cháu đều gói cả lại mang về phần mẹ, phần em, mặc dầu cháu rất thèm, cháu hơn hẳn Lục Tích chứ chú! Nghe con nhắc lại chuyện cũ, vợ tôi nhoẻn miệng cười gật đầu tán thưởng. Tôi liếc thấy vợ tôi còn rơm rớm nước mắt vì cảm động. Cậu con thứ của tôi, bỗng quay lại phía chú, đột ngột hỏi: - Vua ban bằng 'Hiếu hạnh“ gì gì đó có đúng đối tượng không chú ? Hay lại nghe dưới tâu báo lên, chỉ phong cho bọn lắm tiền, khéo nịnh, để được ăn khao cho to ? Chú ạ, ngà y xưa các cụ ngốc lắm” “Đức Đại thánh họ Ngu vua Thuấn” thì đúng là không khôn: hiếu với cha mẹ đã đà nh một nhẽ, chứ với mụ gì ghẻ cay nghiệt như kiểu mẹ con Cám, gặp phải cháu thì ăn đám chứ đừng hòng “Trăm cay đắng một niềm ngon ngọt”. Đời nhà ai, có người chôn con nuôi mẹ như Hán Quách Cự mà cũng được “Thơm nghìn muôn thu”. Đáng lý ra triều đình phải ngiêm trị tội giết người, hơn nữa lại là tội giết hại trẻ con. Cuối cùng chú em tôi quay sang hỏi tôi: - Theo ý anh, thế nà o là “Có hiếu”, thế nà o là “Bất hiếu”. Giữa hai đứa con, anh chọn đứa nà o, một như cháu đây: Con nhà nghèo, mới 4, 5 tuổi đã biết già nh phần ngon về biếu mẹ, một là đưa già u sang, không đúng ngà y giỗ cha cũng lấy cớ bịa ra ngà y giỗ, cỗ bà n linh đình để khoản đãi, cầu cạnh những kẻ cao sang, lmà ra vẻ người con chí hiếu, trong khi đó thì hắt hủi người mẹ quê mùa, lam lũ nghèo hèn như trong chuyện “Báo hiếu cha” của Nguyễn Công Hoan. Thế nà o, giữa “Lục Tích nhà ta” mặc dầu có lúc còn hỗn láo bướng bỉnh và nhân vật “Chủ hãng ô tô con cọp” của Nguyễn Công Hoan, anh chọn đứa nà o? Dường như để tránh dung dưỡng cho những điều không phải, chú em tôi quay lại, nhỏ nhẹ bảo cháu: - Cháu ạ, cháu có thể tranh luận với cha mẹ nhưng phải lễ độ, từ tốn, phải biết lựa lời, chọn lúc, tuyệt đối không được có thái độ nóng nảy, cáu gắt, hỗn láo, nhất là khi có khách, khi ra đường, giữa công chúng, hoặc trước mặt vợ con, đừng để ông bà trên bà n thờ quở mắng bố mẹ cháu rằng không biết dạy con; đừng để vợ con cháu, em út cháu khinh nhờn bố mẹ cháu, tất nhiên cũng khinh nhờn cả cháu. Sau nà y cháu sẽ rõ: có nuôi con mới biết lòng cha mẹ. Từ nãy đến giờ nhà tôi chỉ ngồi nghe, bây giờ mới lên tiếng: “Nghe cha con, chú cháu nhà ông nói thì ai cũng có lý ”! Xin mượn câu đó là m câu kết cho bà i nà y. Điều 43 : Tục khao lão Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ, Có rượu thì ông chống gậy ra. (Nguyễn Khuyến) Lên lão cũng phải khao. “Khao lão” không khó khăn như khao vị thứ đình trung. Lo đủ lệ là được, có mời thì mời phe giáp hay thôn xóm khắc đến, vì lên lão là quyền đương nhiên không phải cậu cạnh. Những nhà già u có thường nhân dịp bà y tiệc mừng thọ tế lễ, ăn uống linh đình. Tế sống cha mẹ, có văn chúc thọ với ban tư văn hà nh lễ trợ tế. Cha mẹ ngồi phía trong, con trái, gái, dâu, rể, cháu chắt, phân thứ bậc trên dưới đứng hai bên, nam bên trái, nữ bên phải, là m lễ tế ba tuần rượu, có tấu nhạc trọng thể , vui vẻ. Tế sống cha mẹ mỗi lần hai lạy, khác tế thần, tế tổ mỗi lần bốn lạy. ở đất văn vật, bà i văn tế chúc thọ thường là cả một công trình bút mực, có khi người trong vùng nô nức đến xem tế và nghe đọc văn. Có đám mừng thọ mời bà con họ hà ng là ng tổng, tiệc tùng hát xướng hai ba bốn ngà y. “Phú quý sinh lễ nghĩa”, có nhiều nhà là m lễ mừng thọ cha mẹ lên lão 70,80,90 tuổi...Không phải tục lệ bắt buộc, già u có bà y ra thết đãi mời mọi người đến chia vui với mình, đồng thời là m vui lòng cha mẹ, tưởng cũng là một tục hay, có thể khiến cho những kẻ nhẹ tình hiếu thảo, không lo phụng dưỡng cha mẹ cho được tuổi thọ như người, phải lấy là m suy nghĩ và hổ thẹn. Điều 44 : Yến lão “Yến” là tiệc rượu. Nhiều là ng có tục yến lão, hà ng năm hay hai ba năm một lần, thết tiệc mừng thọ các quan lão. Có thể nói đây là một thịnh điển thời thái bình, không phải là một hủ tục đã gây nên nhiều tệ đoan như tục ngôi thứ hương ẩm. “Sống lâu lên lão là ng”, tự nhiên có vinh dự tuổi thọ, không phải tranh dà nh mới có, chẳng phải có tiền mà mua được, có quyền thế mà tạo nên được. Mỗi năm cứ đến dịp là ng mở hội hoặc ngà y đại lễ có định kỳ, các quan lão tụ hội ở chùa hay nơi công quán hay một đương cai, là ng đem cờ quạt với phường bát âm đến rước ra đình. Những là ng trù phú thường sắm đủ võng lọng rước lão, lão 100 tuổi đi võng điều che bốn lọng xanh, lão 90 tuổi đi võng điều hai lọng xanh, lão 80 tuổi vọng xanh (đòn cong) một lọng, lão 70 võng xanh (đòn ống) một lọng. Trai tráng cầm cờ khiêng võng đều nón dấu áo nẹp. Đám rước rất trọng thể. Tại đình là ng, nơi giữa thiết lập bà n thờ tiên lão, các quan lão ngồi hai gi­an bên theo thứ bậc tuổi, có là ng yến cả lão bà thì gi­an trái lão ông ngồi, gi­an bên phải lão bà ngồi. Tuỳ theo lệ là ng, có nơi lão 90 tuổi hoặc lớn hơn nữa ngồi một mình chiếu nhất, có nơi chưa đến 60 tuổi đã là bậc cao niên nhất, cũng ngồi một mình chiếu nhất. Tế lão cũng đủ nghi thức như tế thần, ba tuần rượu với văn tế tiên lão, văn chúc thọ quan lão, có ban tư văn hà nh lễ, phường bát âm tấu nhạc. Lúc tế, quan lão ngồi trước những mâm cỗ đặt giữa chiếu, chỉ uống rượu suông không ăn, là thủ ý trang nhã, trịnh trọng đối với dân là ng, ngồi chứng kiến cuộc lễ diễn hà nh và chăm chú nghe văn tế, văn chúc thọ. Những mâm cỗ kia sẽ được mang đến từng nhà biếu các cụ. Cỗ yến lão thường là rất thịnh hậu cả về phẩm lẫn lượng, có nơi mỗi cỗ hai bánh dà y, hai bánh chưng với những món giò, nem và nhiều thứ bánh khác là m rất công phu. Chiếu nhất, một cụ ngồi thì được biếu cả một cỗ gọi là cỗ một, chiếu nhì, hai cụ ngồi là cỗ đôi thì được biếu mỗi cụ một nửa cỗ, những cỗ dưới là đồng hạng cứ bốn cụ một cỗ. Từ ngà n xưa, những khi có việc là ng, không hề có bóng phụ nữ nơi đình trung. Ngà y yến, sự hiện diện của các lão bà đem lại cho dân là ng một cảm giác đặc biệt vui vể đầm ấm. Mỹ tục yến lão là do đạo hiếu mà ra, một đặc tính dân tộc, có ý nghĩa rất trọng hậu, trẻ vui đạo trẻ, già vui tuổi già , trái ngược hẳn với cái thảm cảnh ở mấy nước văn minh cường thịnh cứ đến tuổi già là bị liệt và o hạng người vô dụng, ăn hại xã hội, con cháu ít chăm nom, người đời lạnh nhạt. Lúc vãn niên, tóc bạc da mồi, với cuộc sống buồn tẻ nơi thôn dã năm tháng trôi, các cụ hẳn cũng cảm thấy sung sướng đã được cả là ng tỏ tình quý trọng, quý trọng rất mực trong cuộc rước đón những buổi yến ẩm, con cháu các cụ thì được hãnh diện là gia đình có phúc mới được tuổi thọ, cho nên nhiều nhà , dù ngèo cũng ráng may sắm cho ông bà đi dự yến. Cụ thì mũ ni nhung đen, áo vóc đại hồng, cụ thì khăn nhiễu tam gi­ang, giầy văn hà i, cụ thì áo đoạn huyền quần lụa bạch, có những cụ nhà bần hà n, quanh năm quần nâu áo vải lúc nà y cũng quần chúc bâu, áo the thâm, áo láng chéo go, dép mới thay quai... Y phục tuỳ hoà n cảnh mỗi nhà , không có lệ định nà o, chỉ trừ mà u và ng của nhà vua, quan dân đều không được mặc Trước ngực, dưới vòng dây thao quà ng cổ là túi gấm mà u lam, mà u huyền đựng trầu, thuốc, cối, chà y... Đám rước quan lão, y phục mà u sắc như vậy với võng lọng... Điều 45 : Tại sao những năm gần đây có phong trà o khôi phục việc họ ? Từ năm 1975 lại nay, nhất là những năm gần đây. Từ Bắc chí Nam đều có phong trà o khôi phục việc họ, với nội dung: Diễn dịch, biên soạn, phổ biến gia phả, sửa sang tôn tạo tổ mộ, từ đường tổ chức tế tự, giỗ tổ hà ng năm và gắn bó tình cảm gia tộc hơn trước. Đó là một phong trà o tự phát, chưa có một văn bản chỉ thị nà o của cơ quan trung ương địa phương, hay ngà nh văn hoá có hướng dẫn khuyễn khích. Vậy nhân tố nà o chỉ đạo, thúc đẩy phong trà o lan rộng nhanh như vậy ? Đây là quy luật phát triến xã hội khách quan. Trong thời kỳ kháng chiến. Mọi người dân, trên cương vị của mình đều phải dồn toà n bộ tâm sức và o sự nghiệp bảo vệ Tổ Quốc, mọi người khi đó còn phải lo những vấn đề bức xúc nhất : Ăn ở, sống chết ... và những việc không thể đình hoãn được. Sau khi hoà bình, cuộc sống vật chất đã tương đối ổn định thì nhu cầu về đời sống tinh thần văn hoá lại nổi lên. Việc đi lại, thăm viếng nhau trong gia đình họ hà ng thân thuộc, việc củng cố, gắn bó mối quân hệ gia tộc, việc thờ phụng tổ tiên, ông bà , cha mẹ từ ngà n xưa đẵ trở thà nh tâm linh của mọi người. Đây là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống văn hoá và tư tưởng. Dưới bất kỳ xã hội nà o, dù xu hướng chính trị, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, tình cảm gia đình vẫn vậy. Tĩnh gia tộc là khái niệm mở rộng của tình gia đình, máu thoảng hơn nước lã. Đó là tình cảm tự nhiên mọi người đều thừa nhận . Vì vậy. Khôi phục việc họ là việc là m hợp với tâm tư... Điều 46 : Quan hệ giữa họ hà ng và là ng xã như thế nà o ? Phục hồi việc họ lợi hay hại ? Phục hồi việc họ là một cách đúng đắn, vô tư, tức là phát huy được thuần phong mỹ tục. Nếu cán bộ cơ sở biết khéo léo vận dụng đường lối, loại trừ được 3 chiều hướng tiêu cực sau đây thì cà ng có nhiều dòng họ vững mạnh cà ng có lợi cho phong trà o chung: • Ngăn ngừa một số phần tử lợi dụng tình cảm họ hà ng thân thuộc để kéo bè, kéo cánh. • Phục hồi việc họ, đồng thời nhân đó phục hồi luôn cả những thủ tục, mê tín dị đoan. • Dựa và o thế có người nhà , người trong họ có chức có quyền để bóp méo luật pháp, là m ăn sai trái. Ngoà i ra, nếu tổ chức hội hè đình đám không đúng lúc, đúng chỗ gây lãng phí, nhiều thì giờ và tiền của, ảnh hưởng đến công việc, thời vụ sản xuất, thì nên khéo léo hướng dẫn hạn chế mặt tiêu cực. Họ hà ng thà nh đạt thì là ng xã phồn vinh . Trước Cách Mạng Tháng Tám, bộ máy hương lý có quyền điều hà nh những công việc về hà nh chính, pháp lý, trật tự trị an, còn những việc xây dựng nông thôn, chấn hưng phong hoá như là m đường sá, đà o giếng, sửa sang đình chùa, hội hè ... hội đồng hà o mục muốn huy động công sức, tiền của của dân phải dựa và o các họ, nên mỗi xã, thôn có một Hội đồng tộc biểu bao gồm những người có vai vế trong các họ. Chỉ những vị đó mới có khả năng vận động con cháu trong các họ ra là ng xã là m những việc công ích. Phục hồi việc họ, nếu được hướng dẫn đúng đắn sẽ có lợi nhiều mặt đối với phong trà o địa phương: • Phục hồi luân lý, đạo đức kỷ cương xã hội, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá mới. • Góp phần trong việc giáo dục tư tưởng cha mẹ hiền từ, con trung hiếu, cháu thảo hiền, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan. • Vận dụng kinh nghiệm của các họ thời xưa, có đặt binh điền, học điền, tổ chức lễ họ, hội tương tế. Vận động đặt các giải thưởng cho con cháu trong họ học khỏi, lên lớp, lên cấp, hoà n thà nh nghĩa vụ quân sự, nêu cao ý thức tôn trọng người già , thương yêu giúp đỡ người cơ nhỡ, ốm đau, tà n tật ... • Nếu khéo tổ chức, các họ còn có thể có tủ sách, câu lạc bộ văn hoá ... Điều 47 : Ruộng « hương hỏa » có ý nghĩa gì ? “Ruộng hương hoả ” là ruộng dà nh riêng gi­ao cho tộc trưởng lo việc phụng thờ hương khói cho cha ông, tổ tiên. Ruộng hương hoả lưu truyền từ đời nà y sang đời khác. Ruộng hương hoả không được chia, không được bán. Luật phong kiến cấm bán ruộng hương hoả. Chừng nà o cánh cửa trưởng không còn người nối dõi tông đường hoặc đi biệt xứ xa quê, họ khuyết tộc trưởng thì người con trưởng hoặc đích tôn thừa trọng của cánh hai lên thay, tiếp tục hưởng ruộng hương hoả và lo việc giỗ tết hương khói. Chừng nà o toà n bộ con cháu trong họ đều phiêu cư bạt quán ( con gái không được tính đến ) thì người cuối cùng đang hưởng hương hoả nếu có khó khăn đặc biệt là m đơn xin bán, lý trưởng nà o là m sai luật lệ trên sẽ bị quan xử phạt, nếu trong họ có người thưa kiện. Vì có ruộng hương hỏa nên việc tế tự được duy trì bền... Điều 48 : Vai trò của tộc trưởng xưa và nay Ngà y xưa việc họ là cứ và o tộc trưởng. Họ lớn có tộc trưởng họ lớn; các chi có trưởng chi . Tộc trưởng có quyền lợi, nghĩa vụ rõ rà ng. Ruộng hương hoả và tự điền có nhiều thì lễ to, nhà thờ họ lớn, tế khí đầy đủ và ngược lại. Khi và o tế lễ, tộc trưởng đầu còn trẻ tuổi vẫn là chủ tế, các ông chú dẫu cao tuổi vẫn là bồi tế. Nếu nhỏ quá thì một ông chú kế trưởng thay thế, cũng như ông vua trẻ chưa thà nh niên có phụ chính đại thần. Thời nay ruộng đất thuộc sở hữu toà n dân, không còn ruộng hương hoả, không còn chế độ thu tô như trước, quyền lợi của tộc trưởng hoặc người thay tộc trưởng, đối với tổ tiên và họ hà ng cũng tuỳ thuộc và o nhận thức; tâm tư, trình độ hiểu biết, hoà n cảnh sinh sống của từng người, không có một chế độ quy định nà o rà ng buộc. Có nhiều họ, tộc trưởng ngụ cư hoặc không thoát ly công tác ở phương xa cũng không gi­ao (hoặc không gi­ao được) việc họ cho ai. Trong hoà n cảnh đó, việc hương khói tế tự tổ tiên và quan hệ họ hà ng bị phế khoáng. Thể theo nguyện vọng, tâm tư, tình cảm “Uống nước nhớ nguồn”, ngà y giỗ ngà y tết con cháu muốn dâng lên Tổ tiên bát nước, nén hương. Để bổ cứu tình trạng trên nhiều họ đã có sáng kiến thà nh lập một hội đồng gồm những người có uy tín, nhiệt tình trong họ để chăm lo việc họ. Chưa có một văn bản hay có một tiền lệ nà o qui định đó là ban nghi lễ. là hội đồng gia tộc hay hội đồng tộc biểu ... Trước mắt, họ nà o mạnh hay yếu, thà nh đạt hay suy vi, tình cảm họ hà ng gắn bó hay không, tác động tốt xấu tới phong trà o chung, còn tuỳ thuộc và o nhiệt tình, khả năng tổ chức lãnh đạo của một số cá nhân, đóng vai trò chủ chốt, chứ chưa có một cơ chế nà o bảo đảm sự bền vững lâu dà i. Trong thời kỳ kháng chiến con cháu tản mác, nhiều họ bị... Điều 49 : Bà n thờ vọng là gì ? Cách lập bà n thờ vọng ? Bà n thờ vọng ngà y nay khá phổ biến, áp dụng cho con cháu sống xa quê, hướng vọng về quê, thờ cha mẹ ông bà tổ tiên, hương khói trong những ngà y giỗ, tết. Ngà y xưa, với nền kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp, người nông dân suốt đời không rời quê cha đất tổ, chuyển cư sang là ng bên cạnh cũng đã gọi là biệt quán, ly hương, vì vậy bà n thờ vọng chỉ là hiện tượng cá biệt và tạm thời, chưa thà nh phong tục phổ biến. “Vọng bái ”, nghĩa là vái lạy từ xa. Ngà y xưa, khi triều đình có những điển lễ lớn, các quan trong triều tập trung trước sân rồng là m lễ, các quan ở các tỉnh hoặc nơi biên ải, thiết lập hương án trước sân công đường, thắp hương, nến, hướng về kinh đô quỳ lạy Thiên tử. Khi nghe tin cha mẹ hoặc ông bà mất, con cháu chưa kịp về quê chịu tang, cũng thiết lập hương án ngoà i sân, hướng về quê là m lễ tương tự. Các bà n thờ thiết lập như vậy chỉ có tính chất tạm thời, sau đó con cáo quan xin về cư tang ba năm (xem bà i Lễ Cư tang). Các thiện nam tín nữ hà ng năm đi trẩy hội đền thờ Đức Thánh Trần ở Vạn Kiếp, đức Thánh Mẫu ở Đền Sòng v.v... dần dần về sau, đường sá xa xôi, cách trở, đi lại khó khăn, cũng lập bà n thờ vọng như vậy. Nơi có nhiều tín đồ tập trung, dần dần hình thà nh tổ chức. Các thiện nam tín nữ quyên góp nhau cùng xây dựng tại chỗ một đền thờ khác, rồi cử người đến bà n thờ chính xin bát hương về thờ. những đền thờ đó gọi là vọng từ (thí dụ ở số nhà 35 phố Tôn Đức Thắng Hà Nội có “Sùng Sơn vọng từ” nghĩa là Đền thờ vọng của núi Sòng, thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh). Bà n thờ vọng ông bà cha mẹ chỉ được tập trung trong trường hợp sống xa quê. Những người con thứ, bất cứ già u nghèo, sang hèn thế nà o, nếu ở gần cánh cửa trưởng trên đất tổ phụ lưu lại, thì đến ngà y giỗ, ngà y tết, con thứ phải có phận sự hoặc góp lễ, hoặc đưa lễ đến nhà thờ hay nhà con truởng là m lễ, cho dù cửa trưởng chỉ thuộc hà ng cháu, thì chú hoặc ông chú vẫn phải thờ cúng ông bà tại nhà cửa trưởng. Do đó không có lệ lập bà n thờ vọng đối cửa thứ ngay ở quê nhà . Nếu cửa trưởng khuyết hoặc xa quê, thì người con thứ 2 thế trưởng được lập bà n thờ chính, còn bà n thờ ở nhà người anh cả ở xa quê lại là bà n thờ vọng. Phong tục rất hay và rất có ý nghĩa. Bởi lẽ chữ Hiếu đi đôi với chữ Đệ. Khi sống cũng như đã mất, ông bà cha mẹ bao giờ cũng mong muốn anh chị em sống hòa thuận, một nhà đầm ấm. Thỉnh vong hồn về cầu cúng lễ bái, mà anh chị em ở gần nhau không sum họp, mỗi người cúng một nơi, thì đó là mầm mống của sự bất hoà , vong hồn là m sao mà thanh thản được. Cách lập bà n thờ vọng: Chưa phải là phong tục cổ truyền, chưa có nghi lễ nhất... Điều 50 : Hợp tự là gì ? Tại sao phải hợp tự ? Hợp tự có nghĩa là : rước các tiên linh các đời và o thờ chung trong cùng một nhà thờ của đại tôn hay của từng tiểu chi. Theo phong tục cổ truyền: Năm đời tống giỗ, hay “Ngũ đại mai thần chủ” (Đến 5 đời thì chôn thần chủ). Thực chất chỉ có bốn đời, tức là là m giỗ cha mẹ (đời 2), ông bà (đời 3), cụ ông cụ bà (hay cố 4 đời) và kỵ (hay can 5 đời). Cao hơn kỵ gọi chung là tiên tổ, thì không cúng giỗ nữa, mà rước chung tất cả thuỷ tổ, tiên tổ các đời và o chung một nhà thờ mỗi năm tế một lượt. Thần chủ con cúng cha mẹ, đề là Hiền khảo, Hiền tỷ, đến khi người con trưởng chết, cháu đích tôn cúng ông bà , đối thần chủ là Hiền tổ khảo, Hiền tổ tỷ, đến lượt cháu trưởng mất, chắt trưởng tiếp tục thờ cụ là Hiền Tằng tổ khảo (hoặc tỷ), chít (chiu) trưởng thờ kỵ là Hiền Cao tổ khảo (hoặc tỷ). Sau năm đời thì rước và o nhà thờ tổ rồi chôn thần chủ đó đi. Trong nhà thờ tổ chỉ để duy nhất có một ngôi thần chủ cao nhất (thuỷ tổ hoặc tiên tổ bậc cao nhất của nhà thờ chi đó) gọi là “Vĩnh thế thần chủ”. Gộp chung tất cả tiên tổ của nhiều đời lại để tế chung... Điều 51 : Gia phả là gia bảo có đúng không ? Đúng và rất đúng với những người có ý thức tôn kính tổ tiên và quý trọng tình cảm họ hà ng gia tộc. Gia phả là lịch sử của một dòng họ, một gia đình lớn. Thiết tưởng không cần phải nói nhiều về ý nghĩa mà mỗi cuốn gia phả của từng dòng họ đều đã nói rõ trong từng lời tựa. Đà nh rằng cái ăn, cái mặc để nuôi sống gia đình và bản thân là việc hà ng đầu. Nhưng có thấy nỗi day dứt của những người có tâm huyết muốn truyền cho con cháu biết đời cha mình do ai sinh ra, từ đâu đến, tổ tiên công đức ra sao, ngặt vì gia phả đã mất; có thấy được nỗi niềm của những người trú ngụ ở phương xa không được cha ông truyền cho biết gốc gác của mình từ đâu, họ hà ng là ai, khi đó mới thấy đầy đủ ý nghĩa của hai chữ “Gia phả-​Gia bảo”. Giọt nước rất quý đối với người sống trên sa mạc, còn đối với người sống ven sông, dễ gì mỗi lần “Uống nước” lại phải “Nhớ nguồn”. Thời trước họ nà o cũng có gia phả, có họ từng nhà còn có gia phả. Nếu vì thuỷ, hỏa, đạo tặc để mất và ng bạc- của cải gì thì mất, chứ không để mất gia phả. Ngặt vì gia phả ngà y xưa viết bằng chữ Hán, hơn nữa từng chi từng nhà chỉ nối phần trực hệ của chi mình, nhà mình, thảng hoặc mới có một cuốn gia phả ghi đời tiếp nối của chi anh, chi em, đến đời hai đời ba là cùng, do đó nếu một chi mất gia phả thì chi khác không thể bổ cứu. Hiện nay, do mất gia phả nên nhiều họ tuy cùng ở với nhau trong một địa phương vẫn không biết nhau, không nhận được quan hệ họ hà ng. Về một ý nghĩa khác, gia phả sở dĩ gọi là gia bảo vì đó là lịch sử của tổ tiên nhiều đời truyền lại, là điều tổ tiên muốn gửi gắm lại cho đời sau. Bất cứ họ nà o, bất cứ con người nà o trong họ, có tà i năng lỗi lạc đến đâu, cá nhân cũng không thể viết được toà n bộ gia phả mà chỉ có kế thừa đời trước và truyền dẫn đời sau. Gia phả các họ là các nguồn bổ sung tư liệu rất quý, rất dồi dà o cho quốc sử, nếu các nhà sử học biết khai thác cũng có khả năng từ gia bảo trở thà nh quốc bảo. Điều 52 : Gia phả hoà n chỉnh có những mục gì ? Gia phả được coi là hoà n chỉnh trước hết phải là một gia phả được ghi chép rõ rà ng, chữ nghĩa chân phương có ghi rõ tên người sao lục, biên soạn thuộc đời thứ mấy, năm nà o, triều vua nà o, căn cứ và o bản nà o, tên người tục biên qua các đời cũng có cước chú rõ rà ng. Đầu gia phả có lời tựa ghi được nguồn gốc xuất xứ của thủy tổ có cứ liệu thà nh văn hay truyền ngôn. Mở đầu là thuỷ tổ, lần lượt đến tiên tổ các đời, nối dòng đến lớp con cháu mới sinh. Đối với tiền nhân có các mục sau đây: • Tên: Gồm tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên gọi thông thường theo tập quán địa phương? Thuộc đời thứ mấy ? • Con trai thứ mấy của ông nà o? Bà nà o ? • Ngà y tháng năm sinh (có người còn ghi được cả giờ sinh). • Ngà y, tháng, năm mất ? Thọ bao nhiêu tuổi ? • Mộ táng tại đâu? (có người ghi được cả nguyên táng, cải táng, di táng tại đâu ? Và o tháng, năm nà o ?). • Học hà nh, thi cử, đậu đạt, chức vụ, địa vị lúc sinh thời và truy phong sau khi mất: Thi đậu học vị gì? Khoa nà o? Triều vua nà o? Nhận chức vị gì? năm nà o? Được ban khen và hưởng tước lộc gì ? Sau khi mất được truy phong chức gì ? Tước gì ? (Đối với những vị hiển đạt thì mục nà y rất dà i. Ví dụ trong Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả, chỉ riêng Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, mục nà y đã trên mười trang) • Vợ: Chánh thất, kế thất, thứ thất... • Họ tên, con gái thứ mấy của ông nà o, bà nà o ? Quê ở đâu ? Các mục ngà y, tháng, năm sinh, ngà y, tháng, năm mất, tuổi thọ, mộ, đều ghi từng người như trên. • Nếu có thi đậu hoặc có chức tước, địa vị, được ban thưởng riêng thì ghi thêm. • Con: Ghi theo thứ tự năm sinh, nếu nhiều vợ thì ghi rõ con bà nà o ? Con gái thì cước chú kỹ: Con gái thứ mấy, đã lấy chồng thì ghi tên họ chồng, năm sinh, con ông bà nà o, quê quán, đậu đạt, chức tước ? Sinh con mấy trai mấy gái, tên gì ? (Con gái có cước chú còn con trai không cần vì có mục riêng từng người thuộc đời sau). • Những gương sáng, những tính cách, hà nh trạng đặc biệt, hoặc những công đức đối với là ng xã, họ hà ng, xóm giềng... Ngoà i những mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại nhiều sự tích đặc biệt của các vị tiên tổ, những đôi câu đối, những áng văn hay, những bà i thuốc gia truyền...đó là những tà i sản quý giá mà chúng ta để thất truyền, chưa biết khai thác. Những nội dung ghi trên chỉ có tính chất gợi ý với các... Điều 53 : Thọ mai gia lễ là gia lễ nước ta hay gia lễ... “Thọ mai gia lễ” là gia lễ nước ta, có dựa theo Chu Công gia lễ tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc nhưng không rập khuôn theo Tầu. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thà nh luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoà i Bắc vẫn còn phổ biến áp dụng, nhất là tang lễ. Tác giả của “Thọ mai gia lễ” là Hồ Sỹ Tân (1690-1760) hiệu Thọ Mai người là ng Hoà n Hậu, huyện Quỳnh Lưu, đậu Tiến sĩ năm 1721 (năm thứ 2 triều Bảo Thái), là m quan đến Hà n lâm Thị chế. Trong "Thọ mai gia lễ" có trích dẫn một phần của Hồ... Điều 54 : « Ba cha tám mẹ » là những ai ? Theo “Thọ mai gia lễ”: Ba cha là : 1. Thân phụ: Cha sinh ra mình. 2. Kế phụ: Sau khi cha chết, mẹ lấy chồng khác, chồng mới của mẹ là kế phụ hay, bố dượng. 3. Dưỡng phụ: Bố nuôi. Tám mẹ là : 1. Đích mẫu: Vợ cả của bố. 2. Kế mẫu: Khi còn nhỏ mẹ đã mất, cha lấy vợ khác để nuôi nấng mình. 3. Từ mẫu: Mẹ chết từ tấm bé, cha sai người vợ lẽ nuôi mình bú mớm. 4. Dưỡng mẫu: Mẹ nuôi, cha mẹ nghèo cho mình để người khác nuôi. 5. Xuất mẫu: Là mẹ sinh ra mình nhưng bị cha ruồng rẫy. 6. Giá mẫu: là mẹ sinh ra mình, nhưng khi cha mất thì đi lấy chồng khác. 7. Thứ mẫu: Là mẹ sinh ra mình nhưng là vợ lẽ của cha. 8. Nhũ mẫu: Mẹ vú, cho mình bú mớm từ khi còn tấm bé. Trên đây là định nghĩa theo "Thọ mai gia lễ", chưa nói... Điều 55 : Chúc thư là gì ? “Chúc” là lời dặn dò, phó thác. “Chúc thư” hay “Di chúc” là lời dặn dò của người chủ gia đình, người lãnh đạo đất nước trước khi mất. Chúc thư, di chúc viết thà nh văn bản có giá trị hà nh chính, pháp lý. Nếu không biết chữ, hoặc yếu quá không viết được nữa thì nhờ người khác viết, đọc lại cho nghe rồi ký tên hoặc điểm chỉ và o dưới. Di chúc của nhà vua thì gọi là di chiếu. Nội dung chính của chúc thư thường là việc chia gia tà i. Nhà có bao nhiêu ruộng đất, nhà cửa, chia cho con trai con gái, ai được hưởng khoảnh nà o, mấy mẫu, mấy sà o ở đâu, còn lại bao nhiêu dà nh cho mẹ là m của dưỡng lão, gi­ao người nà o chăm nom. Nếu còn bao nhiêu nợ là ng, nợ họ cũng gi­ao phó cho con nà o phải đòi, phải trả. Quy định già nh bao nhiêu là m ruộng hương hỏa, gi­ao cho con trưởng hoặc cháu đích tôn. Di chiếu của nhà vua gi­ao cho ai là đại thần có mệnh phò thái tử lên ngôi. Nếu ngôi thái tử chưa định thì chuyền chỉ cho hoà ng tử nà o nối ngôi... Thời nay, nam nữ bình quyền, nếu cha mất trước đã có mẹ nắm toà n bộ quyền hà nh. Thời trước, người mẹ, người vợ sau 3 năm tang chồng nếu muốn tái giá thì đi tay không, nếu ở lại nuôi con cũng không được nắm toà n quyền, còn phải lệ thuộc các ông chú, ông bác trong họ. Nếu còn có nợ thì phải trả hết. Thế nên, có những gia đình già u có nhưng vô phúc, bạc đức: Cha mẹ nằm xuống anh em đùn đẩy nhau, chưa lo việc chôn cất, chỉ chăm chú tranh già nh tà i sản, để thiên hạ xỉ vả. Vì vậy, khi còn khoẻ, các cụ đã phải lo xa: Chia gia tà i trước, định trách nhiệm sẵn, mua sắm bộ hậu sự (áo quan) có người còn dặn trước cả việc chôn cất, tang chế, cỗ bà n, đình đám.. Trích di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh: “...Suốt đời tôi hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ Cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới nà y, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân...” Ngà y 10-5-1969 Di chúc của Tam nguyên Yên Đổ: "Kém hai tuổi xuân đầy chín chục Số thầy sinh phải lúc dương cùng Đức thà y đã mỏng mòng mong Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy Học chẳng có rằng hay chi cả Cưỡi đầu người kể đã ba phen Tuổi là tuổi của gia tiên Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngà y. ấy thủa trước ông mà y chẳng đỗ Hoá bây giờ cho bố là m nên Ơn vua chửa chút báo đền Cúi trông hổ đất, ngửng lên thẹn trời Sống không để tiếng đời ca thán Chết được về quê quán hương thôn Mới hay trăm sự vưông tròn Sống lâu đã trải chết chôn chờ gì? Đồ khâm niệm chớ nề xấu tốt Kín chân tay đầu gót thời thôi Cỗ đừng to lắm con ơi Hễ ai chạy lại con mời người ăn Tế đừng có viết văn mà đọc Trướng đối đừng gấm vóc là m chi Minh tinh con cũng bỏ đi Mời quan đề chủ con thì không nên Môn sinh chớ bỏ tiền đạt giấy Bạn của thầy cũng vậy mà thôi Khách quen chớ viết thiếp mời Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu Chẳng qua nợ để cho người sống Chết đi rồi còn ngóng và o đâu Lại mang cái tiếng to đầu Khi nay bà y biện, khi sau chê bà n Cờ biến của vua ban ngà y trước Khi đưa thà y con rước đầu tiên Lại thuê một lũ phường kèn Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng Việc tống táng nhung nhăng qua quýt Cúng cho thầy một chút rượu hoa Đề và o mấy chữ trong bia, Rằng: “Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu” Điều 56 : « Cư tang » là gì ? Thời xưa, dẫu là m quan đến chức gì, theo phép nước, hễ cha mẹ mất đều phải về cư tang 3 năm trừ trường hợp đang bận việc quân nơi biên ải hay đi sứ nước ngoà i. Lệ nà y không quy định đối với binh lính và nha lại. Nếu ai vì tham quyền cố vị, giấu diếm không tâu báo để về cư tang, bị đà n hặc vì tội bất hiếu, sẽ bị triều đình sử phạt biếm truất. Trong thời gi­an cư tang, lệnh vua không đến cửa. Ba năm cư tang là ba năm chịu đựng gi­an khổ, nhẫn nhục, không dự mọi cuộc vui, không dự lễ cưới, lễ mừng, không uống rượu (ngoà i chén rượu cúng cha mẹ), không nghe nhạc vui, không ngủ với vợ hoặc nà ng hầu, trừ trường hợp chưa có con trai để nối dõi tông đường, ngoà i ra ai sinh con trong thời kỳ nà y cũng bị coi là bất hiếu. Không được mặc gấm vóc, nhung lụa, không đội mũ đi hia, thường đi chân không, cùng lắm chỉ đi guốc mộc hoặc già y cỏ. Dầu là m đến tể tướng trong triều, khi khách đến viếng cha mẹ mình, bất kể sang hay hèn cũng phải cung kính chà o mời và lạy tạ (hai lạy hay ba vái dà i). Khi ra đường, không sinh sự với bắt cứ người nà o. ở trong nhà , đối với kể ăn người ở cũng không được to tiếng. Ba năm sầu muộn, tự nghiêm khắc với chính mình, rộng lượng với kẻ dưới, cung kính với khách bạn, để tỏ lòng thà nh kính với cha mẹ. Thời nay không còn lệ cư tang, nhất là các cán bộ chủ... Điều 57 : Vì sao có tục đội mũ gai, đai chuối và chống gậy ? Tục đội mũ rơm quấn thật to quanh đầu, thắt lưng bằng dây gai, dây chuối ngà y nay đã lỗi thời, nhiều nơi đã bãi bỏ, còn tục chống gậy chỉ áp dụng đối với con trai tang cha (gậy tre) tang mẹ (gậy vông),vẫn còn ở nhiều địa phương. Nguyên do: Đời xưa, đường đi lại còn hẹp, có khi còn phải leo núi cao, người mất dược chôn cất ở nơi xa khu dân cư, trong rừng núi, có nơi chôn ở triền núi đá có nhiều hang động. Đã có trường hợp, người con vì quá thương xót cha mẹ, khóc lóc thảm thiết, đến nỗi không kể gì đến sinh mạng của mình, đập đầu và o vách đá, khi leo núi đi về vì thương cảm quá mất cả thăng bằng ngã lăn xuống vực. Để tráng tình trạng trùng tang thảm hại đó, người ta mới đặt ra lệ phải quấn quanh đầu những vật liệu mềm, xốp để nếu va vấp đỡ gây tổn thương và đặt ra lệ phải chống gậy để đi đứng an toà n hơn. Vật liệu dễ kiếm nhất, già u nghèo ai cũng có thể tự liệu được và ở đâu cũng có thể kiếm được để là m chất đệm, đó là rơm, lá chuối, dây gai, dây đay. Xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của một số người, dần dần trở thà nh phong tục phổ biến. Vì ngà y thường đi lao động ở đồng ruộng, núi rừng hoặc... Điều 58 : « Năm hạng tang phục » là gì ? Theo “Thọ mai gia lễ”, có năm hạng tang phục tuỳ theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình phân biệt thân sơ: 1.Đại tang: Trảm thôi và tề thôi. • Quần áo sổ gấu gọi là trảm thôi: Con để tang cha. • Quần áo không sổ gấu gọi là tề thôi: Con để tang mẹ, vợ để tang chồng khi cha chưa mất. • Thời hạn: 3 năm, đời sau giảm bớt còn 2 năm 3 tháng (sau lễ giỗ đại tường 2 năm, thêm 3 tháng dư ai). • áo xô, khăn xô có hai giải sau lưng (gọi là khăn ngang). Nếu cha mẹ đều đã mất thì hai giải bằng nhau, nếu còn mẹ hoặc còn cha thì hai giải dà i ngắn lệch nhau. • Con trai chống gậy: Tang cha gậy tre, tang mẹ gậy vông, mũ rơm quấn đầu, dây chuối, dây đai thắt lưng. Thời nay, nhiều nơi đã bãi bỏ những tang phục nà y. ở thà nh phố nhiều nhà dùng băng đen theo tang chế châu Âu, theo ý chúng tôi, tiện hơn. • Con trai, con gái, con dâu đều để tang cha mẹ. (Kể cả đích mẫu, kế mẫu, dưỡng mẫu, từ mẫu và dưỡng phụ). • Vợ để tang chồng. • Nếu con trưởng mất trước thì cháu đích tôn để tang ông bà nội cũng đại tang thay cha. 2. Cơ niên: Để tang một năm. Từ niên cơ trở xuống dùng khăn tròn, vải trắng, không gậy. • Cháu nội để tang ông bà nội. • Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở cùng, nếu không ở cùng thì không tang; trước có ở cùng sau thôi thì để tang 3 tháng. • Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị bố rẫy (xuất mẫu), hoặc cha chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu). • Chồng để tang vợ cả có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy. • Cháu để tang bác trai bác gái, chú, thím và cô ruột. • Anh chị em ruột để tang cho nhau (cùng cha khác mẹ cũng tang một năm, cùng mẹ khác cha thì tang 5 tháng). • Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi là m con nuôi nhà người. • Chú, bác, thím cô ruột để tang cho cháu ( con anh em ruột). • Ông bà nội để tang cho cháu trưởng (đích tôn). • Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu tang các con chồng, thứ mẫu tang con mình và con chồng như nhau đều một năm. Tang con dâu cả cũng một năm. • Con dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức vợ lẽ cha chồng). • Rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã láy vợ khác cũng vậy). • Nà ng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng cũng như con mình (các họ hà ng bà ng thân bên nhà chồng đều không tang). 3. Đại công: để tang 9 tháng. • Anh chị em con chú con bác ruột để tang cho nhau. • Cha mẹ để tang con dâu thứ hoặc con gái đã lấy chồng. • Chú, bác thím ruột để tang cháu (con gái đã xuất giá, con dâu của anh em ruột). • Cháu dâu để tang ông bà của chồng, chú, bác, thím ruột, hoặc cô ruột của chồng. • Mẹ để tang con dâu thứ và con gái riêng của chồng. • Con gái đã xuất giá để tang bác trai, bác gái, chú thím, cô ruột. 4. Tiểu công: Để tang 5 tháng. • Chắt để tang cụ. (Hoà ng tang: Chít khăn và ng) • Cháu để tang anh chị em ruột của ông nội (ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô). • Con để tang vợ lẽ, nà ng hầu của cha ( nếu cha gi­ao cho nuôi mình thì để tang 3 năm như mẹ đẻ). • Cháu để tang đường bá thÃNew ºc phụ mẫu và đường cô (anh chị em con chú bác ruột của cha). • Anh chị em con chú, bác ruột để tang cho vợ của nhau. • Anh chị em chung mẹ khác cha để tang cho nhau (vợ con của anh chị em ấy thì không tang). • Chú bác ruột để tang cho cháu dâu (con dâu của anh em ruột). • Ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô để tang cho cháu (tức là cháu nội của anh em ruột). • Ông bà nội để tang cho vợ cháu đích tôn hoặc cháu gái xuất giá. • Cháu ngoại để tang ông bà ngoại và cậu ruột, dì ruột (anh chị em ruột của mẹ, kể cả đối với anh chị em ruột của đích mẫu, thứ mẫu, kế mẫu). • Cháu dâu để tang cô ruột của chồng. • Chị dâu, em dâu để tang anh chị em ruột của chồng và con của những người đó (tức là cháu gọi bằng bác, bằng thím). 5. Ty ma Phục: Tang 3 tháng. • Chít để tang can (kỵ) nội (ngũ đại : Hồng tang chít khăn đỏ). • Chắt để tang cụ nhà bác, nhà chú (tằng tổ bá thúc phụ mẫu và tằng tổ cô, tức là anh em ruột với cụ nội). • Cháu để tang bà cô đã lấy chồng (chị em ruột với ông nội). • Cháu để tang cô bá (chị em con chú bác ruột với bố). • Con để tang bố dượng (nếu trước có ở cùng, sau mới về bên nội). • Con để tang nà ng hầu của cha. • Con để tang bà vú (cho bú mớm). • Cháu để tang tộc bá thúc phụ mẫu (anh em cháu chú, cháu bác với cha). • Chồng để tang vợ lẽ nà ng hầu. • Anh chị em họ nội 5 đời để tang cho nhau. • Bố mẹ vợ để tang con rể. • Ông bà ngoại để tang cháu ngoại và cháu dâu ngoại. • Ông của chồng để tang cháu dâu. • Cụ để tang cho chắt nội. • Cháu để tang vợ cậu, chồng cô, chồng dì có cùng ở một nhà . • Anh chị em con cô ruột và bạn con dì ruột để tang cho nhau. • Cậu ruột để tang vợ của cháu trai • Cháu dâu để tang ông bà ngoại của chồng, cậu ruột, dì ruột chồng • Cháu dâu để tang các ông bà anh chị em ruột với ông nội chồng. • Chắt dâu để tang cụ nội của chồng. • Cụ để tang chắt nội trai gái. • Ông bà để tang các cháu gái của con nhà chú, nhà bác. Tang bên cha mẹ nuôi: 1. Kỵ bên cha nuôi thì 3 tháng, cụ bên cha nuôi thì 5 tháng, ông bà thì một năm. 2. Cha mẹ nuôi thì áo bằng gấu, hoặc sổ gấu 3 năm có cả gậy. 3. Từ ông bà trở lên nếu mình thừa trọng cũng sổ gấu 3 năm. 4. Ông bà sinh ra mẹ nuôi thì 5 tháng, còn thì đều không có. Tang họ nhà mình (Đã là con nuôi người khác, để tang bên họ của mình): 1. Ông bà sinh ra cha thì 9 tháng. 2. Cha mẹ sinh ra mình thì 1 năm có gậy. 3. Bác trai bác gái, chú, thím và cô là anh chị em ruột với cha thì đều 9 tháng. Cô đã giá thì 5 tháng. 4. Anh chị em ruột thì 9 tháng, chị dâu, em dâu thì 3 tháng, chị em đã xuất giá thì 5 tháng. 5. Ông bà sinh ra mẹ thì 3 tháng. Xét trong lễ nói rằng: Con gái đã xuất giá thì các tang có giáng, song đi lấy chồng, hoặc phải chồng rẫy bỏ, hoặc chồng chết, con lại chẳng có, lại trở về nhà cũng như chưa lấy chồng, tang chẳng có giáng Nếu đương để tang cha mẹ được một năm mà chồng rẫy bỏ thì phải tang cha mẹ 3 năm, hoặc để tang cha mẹ được 1 năm đã trừ phục đoạn thì chẳng được để lại 3 năm, dù phải chồng dẫy trước, sau mới để tang cha mẹ chưa đủ 1 năm mà chồng mới gọi về thì chẳng nên về vội phải nên để trọn 3 năm. Trường phục: có ba loại: 1. Trưởng trường: Từ 16-19 tuổi 2. Trung trường: Từ 12-15 tuổi 3. Hạ trường: Từ 8-11 tuổi (Đều lấy thứ tự giáng một bậc). Ví dụ: Gi­ai đã lấy vợ, gái đã lấy chồng, dẫu còn trẻ cũng không thể gọi là trường được, nhưng vốn mình phải tang 1 năm trưởng trường giáng xuống 9 tháng, trung trường giáng xuống 7 tháng, hạ trường giáng xuống 5 tháng. Như vốn tang 9 tháng, trưởng trường giáng 7 tháng, trung... Điều 59 : Cha mẹ có để tang con không ? Tang phục là thể hiện tình nghĩa, có phân biệt thân sơ “Họ đương 3 tháng, láng giềng 3 ngà y”, thể hiện lòng thương xót giữa kẻ mất người còn. Vì thế, chẳng những thân thích mà người ngoà i đến phúng viếng cũng nên đeo băng tang. Theo “Thọ mai gia lễ” thì chẳng những cha mẹ để tang con mà ông bà và cụ kỵ cũng để tang hà ng cháu, hà ng chắt. "Thọ mai gia lễ" quy định như vậy nhưng một số địa phương... Điều 60 : Tại sao cha mẹ không đưa tang con ? Tử biệt sinh ly, ai không thương xót, nhưng theo quy luật... Điều 61 : Đám tang trong ngà y tết, liệu tính ra sao ? Ngà y Tết Nguyên Đán là ngà y vui của toà n dân tộc, ngà y mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toà n dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngà y Tết. Nhà có đại tang kiêng không đi chúc tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh. Trường hợp gia đình có người chết và o ngà y 30 hoặc... Điều 62 : Lễ cưới đã chuẩn bị sẵn vấp phải lễ tang, tính sao đây ? Đó là trường hợp “Ưu hỷ trùng phùng”. Vui và buồn dồn và o một lúc. “Sinh hữu hạn, tử vô kỳ”, cuộc đời thì có hạn nhưng ai biết trước chết và o lúc nà o. Theo lễ nghi thì khi trong nhà còn tang, trên đầu còn có và nh khăn trắng, nhất là đại tang thì tránh mọi cuộc vui. Nhưng lễ cưới đã chuẩn bị sẵn, nếu quá câu nệ thì quả gay go cho cả hai gia đình, nhiều trường hợp tình duyên đôi lứa dở dang, nhất là các gia đình cả đôi bên đều ông già bà cả, có khi đợi đến bảy, tám năm sau chưa hết tang. Vì vậy tục lệ xưa cũng có khoản “trừ hao” : “Cưới bôn tang, tức là cưới chạy tang”. Khi đó người chết nằm tạm trên giường, đắp chăn chiếu lại, chưa nhập quan, hoặc gia đình có thể tự là m thủ tục khâm liệm, nhập quan nhưng chưa là m lễ thà nh phục. Theo nghi lễ, nếu chưa thà nh phục thì trong nhà chưa ai được khóc. Hà ng xóm tuy có biết nhưng gia đình chưa phát tang thì chưa đến viếng, trừ thân nhân ruột thịt và những người lân cận tối lửa tắt đèn có nhau, coi như người nhà . Trong khi đó, cả hai gia đình chuẩn bị gấp đám cưới cũng là m đủ lễ đưa dâu, đón dâu, yết cáo gia tiên, lễ tơ hồng... nhưng lễ vật rất đơn sơ, thà nh phần giản lược, bó hẹp trong phạm vi gia đình và một và i thân nhân. Khách, bạn đã mời cũng miễn, sẽ thông cảm sau. Công việc cưới, gả xong xuôi mới bắt đầu phát tang. Cô dâu chú rể mới, trở thà nh thà nh viên của gia đình, chịu tang chế như mọi con cháu khác. Nếu hai gia đình thông cảm cho nhau, có thể trong một ngà y, từ sáng đến trưa cưới dâu, chiều tối phát tang cũng xong. Trường hợp nhà có đám cưới mà hà ng xóm lân cận có đám tang thì sao ? Người biết phép lịch và lòng nhân ái không bao giờ... Điều 63 : Người đi dự đám tang nên như thế nà o ? Dù thân hay sơ, đã đến dự đám tang phải nghiêm túc, biểu lộ lòng thà nh kính đối với người đã khuất, tình ưu ái đối với tang quyến. Thật là bất lịch nếu bô bô cười nói, đùa giỡn trong lúc tang chủ đau buồn. Ở nông thôn, nhiều nơi còn tục lệ cỗ bà n ăn uống linh đình trong đám tang, thực không hợp tình, hợp cảnh chút nà o. Đà nh rằng việc ăn uống là không tránh khỏi, nhưng chỉ nên hạn chế trong số người đến giúp việc và thân nhân ở xa về. Đối với bà con, là ng xóm, khách, bạn thì tang lễ không phải là dịp để “Trả nợ miệng”. Có vui vẻ gì trong lúc tang gia bối rối. Nếu như chưa bỏ được thủ tục rượu chè đình đám thì trong lễ tang, mọi người cũng nên tự kiềm chế mình, giúp được việc gì thì tận tình giúp đỡ, không tiện về nhà ăn cơm thì cũng không nên hạch sách, trách móc. Thói cũ “Ma chê, cưới trách” có hay ho gì ! Cũng cần lưu ý các bạn trẻ : Khi đi dự đám tang không... Điều 64 : Đi đường gặp đám tang nên như thế nà o ? Hồi mới tiếp quản thủ đô (1954) chúng tôi đã chứng kiến nhiều đám tang rất nghiêm túc, trật tự. Mọi người đi đường đều tự giác tuân thủ kỷ cương xã hội, trật tự gi­ao thông. Nếu gặp đám tang ngược chiều, không ai bảo ai, dù vội đến đâu cũng đều xuống xe, kể cả người đi xe máy, xích lô đều ngả mũ nón, dắt bộ qua đám tang rồi mới lên xe. Ô tô thì chậm lại, không bóp còi. Nếu đi cùng chiều, không tiện xuống xe thì đi chậm lại và ngả mũ. Thân nhân đi tiễn đưa đều tự giác đi có hà ng lối, trật... Điều 65 : Người sắp chết có dấu hiệu gì báo trước ? Thật kỳ lạ, xưa nay đã ai chết hai lần đâu mà biết trước rút kinh nghiệm, thế nhưng, có những cụ cao tuổi có kinh nghiệm “Tri thiên mệnh”, biết trước được ngà y mất của mình, mặc dầu ngà y hôm trước vẫn khoẻ mạnh, thậm chí có người còn tính trước được giờ mất, đánh điện cho con cháu xa về. Trong trường hợp đó gia đình phần nà o đã chủ động chuẩn bị tang lễ, nhưng những trường hợp đó rất ít. Đối với những người già yếu, có những dấu hiệu gì báo trước giờ hấp hối mà ta có thể quan sát được ? • Xem thần sắc : chủ yếu xem hai đáy mắt còn tinh anh không hay đã đục mờ. • Sờ chân tay xem còn nóng hay đã lạnh, người sắp chết thường lạnh từ đầu đến chân. Có người còn nhận biết mình đã chết đến đâu. • Mạch rất trầm, có khi người còn sống nhưng không bắt mạch được nữa. Đối với người suy tim, sờ tưởng như tim đã ngừng đập, nhưng vì đập yếu nên không phát hiện được. • Để một ít bông và o lỗ mũi mà bông không còn động đậy tức là đã tắt thở. Có người đau ốm lâu dà i, bỗng nhiên mạnh khoẻ trở lại rất tỉnh táo, nhiều khi đó là dấu hiệu của ngọn đèn hết dầu loé sáng lên để rồi tắt ngấm. Các cụ già thường bỏ ăn, hoặc là rất muốn ăn nhưng ăn được rất ít trước khi mất. Cũng có trường hợp, mệnh đã tuyệt nhưng có lẽ vì nuối... Điều 66 : Trong giờ phút thân nhân hấp hối, người nhà cần phải là m gì ? - Dời người sắp mất sang phòng chính tẩm, đầu hướng về phía Đông. - Hỏi xem có dặn dò trối trăng gì không - Đặt thuỵ hiệu (tức tên hèm) rồi hỏi người đó có đồng ý không. - Luôn luôn có người túc trực bên cạnh. - Người có theo tôn giáo thì là m lễ cầu nguyện theo phép của từng tôn giáo. - Chuẩn bị mọi thứ để tắm gội (là m lễ mộc dục) và khâm... Điều 67 : Khi thân nhân mất, gia đình cần phải là m những gì ? Chúng tôi chỉ nêu lên những việc là m đối những trường hợp người già yếu, mất tại nhà , theo phong tục cổ truyền. Trường hợp mất tại bệnh viện hoặc mất dọc đường, quán trọ, chết vì tai nạn, gươm súng, xe cộ, rắn độc, thuỷ hoả tai, chưa đúng kỳ đáng chết... không đủ điều kiện để thực hiện toà n bộ thao tác và nghi lễ, vậy nên châm chước, tuỳ nghi vận dụng: 1. Lễ mộc dục : (tắm gội) Lúc tắm gội cho người vừa chết thường vừa để sẵn một con dao nhỏ, một vuông vải (khăn), một cái lược, một cái thìa, một ít đất ở ông đồ rau, một nối nước ngũ vị hương và một nồi nước nóng khác. lúc tắm, vây mà n cho kiến, tang chủ quỳ xuống khóc, người hộ việc cũng quỳ rồi cáo từ rằng; “nay xin tắm gội để sạch bụi trần”, xong phục xuống, đứng dậy. Cha thì con trai và o tắm, mẹ thì con gái và o tắm. Lấy vuông vải dấp và o ngũ vị, lau mặt, lau mình cho sạch rồi lấy lược chải tóc lấy sợi vải buộc tóc, lấy khăn khác lau hai tay hai chân, lại lấy dao cắt móng tay móng chân,mặc quần áo cho chỉnh. Móng tay móng chân gói lại trên để trên, dưới để dưới, để và o trong quan tà i; dao, lược thìa và nước đem đi chôn; rước thi thể đặt lên giường. 2. Sau lễ mộc dục thời gi­an chưa nhập quan: Đắp chăn hoặc chiếu, buông mà n, đặt một chiêc ghế con phía trên đầu, trên đó đặt một bát cơm úp, một quả trứng, dựng một đôi đũa trên bát cơm và thắp hương. Có địa phương còn có tục để thêm một con dao trên bụng, (có lẽ để trừ tà ma hay quỷ nhập trà ng). 3. Lễ phạn hà m: Lễ nà y theo tục xưa, bỏ gạo và tiền và o miệng tránh tà ma ác quỷ đến cướp đoạt, để tiễn vong hồn đi đường xa được siêu thoát. Lễ nà y ngà y nay nhiều nơi đã bỏ, có nơi thay thế bằng may một cái túi, trong túi đựng một ít tiền gạo và một và i đồ lặt vặt mà khi sống, người đó hay dùng đến. Theo “Thọ mai gia lễ”, lễ nà y được tiến hà nh như sau: Lấy ít gạo nếp xát cho sạch, ba đồng tiền mà i cho sáng (nhà già u thì dùng và ng hoặc viên ngọc trai). Tang chủ và o khóc quỳ, người chấp sự cũng quỳ, cáo từ rằng: “ nay xin phạn hà n, phục duy hâm nạp”. Người chấp sự lần lượt xướng “Sơ phạn hà m, tái phạn hà m, tam phạn hà m”. Tang chủ ba lần, mỗi lần xúc một ít gạo và một đồng tiền tra và o mồm bên phải, rồi đến bên trái, cuối cùng và o giữa. Xong, bóp mồm lại, phủ mặt như cũ. 4. Lễ khâm liệm nhập quan: Các con và o, con trai bên trái, con gái bên phải. Người chấp sự xướng. Tự lập (đứng gần và o), cử ai (khóc cả lên), quỳ. Chấp sự cũng quỳ mà cáo từ rằng “Nay được giờ là nh, xin rước nhập quan”. “Cẩn cáo” xong lại xướng: phủ phục (lễ xuống), hưng (dậy), bình thân (đứng thẳng). Sau đó các con cháu tránh ra hai bên, người giúp việc quay và đều cầm tạ quan nâng lên để đưa người và o cho êm ái, đặt cho chính giữa quan tà i, nếu có hở chỗ nà o cần lấy áo cũ của người vừa mất bổ khuyết cho đầy đủ, rồi gấp dưới lên đầu trước, bên trái gấp trước, bên phải gấp sau, trên đầu gấp sau cùng, sơn nẹp đóng lại. Chú ý: Những quần áo của người đang sống, hoặc quần áo mà người đang sống có mặc chung thì kiêng không được bỏ và o áo quan. Đồ khâm niệm: nhà già u dùng vóc nhiễu, tơ, lụa; nhà thường dùng vải trắng may là m đại liệm (1 mảnh dọc, 5 mảnh ngang) hoặc tiểu liệm (1 mảnh dọc 3 mảnh ngang). Ngà y trước, quy định đại liệm hay tiểu liệm vì khổ vải nhỏ. Ngà y nay, dùng vải khổ rộng, miễn kín chân, tay, đầu, gót là được. “Tục ta nhiều người tin theo thầy phù thuỷ, trong quan tà i thường có mảnh ván đục sao Bắc Đẩu thất tinh. Trước khi nhập quan thường chọn giờ, tránh tuổi rồi dùng bùa nọ bùa kia dán ở trong, ngoà i quan tà i. Có người cho là chết phải giờ sấu thì bỏ cỗ bà i tổ tôm hoặc quyển lịch hoặc tà u lá gồi để trấn át ma quỷ” (Trích “Việt Nam phong tục”- Phan Kế Bính - tr.31) Mọi việc xong thì sơn gắn quan tà i cho kỹ cà ng, đặt chính giữa gi­an giữa, hoặc nhà còn người tôn hơn thì đặt sang gi­an cạnh. 5. Lễ thiết linh: (Sau khi nhập quan) Là lễ thiết lập linh vị, đặt bà n thờ tang. Khi chưa chôn cất thì lấy lễ thờ người sống mà lễ, nên mỗi lần lạy chỉ lạy hai lạy, trong linh vị và khăn vấn dùng chữ “Cố phụ”, “Cố mẫu” thay cho “Hiền thảo”, “Hiền tỷ”. 6. Lễ thà nh phục: Tức là con cháu mặc đồ tang để cúng tế và đáp lễ khi khách đến viếng. Trước khi thà nh phục, nếu có khách đến thì người chủ tang chưa ra tiếp mà người hộ tang thay mặt tiếp khách và thông cảm với khách. Sau lễ thà nh phục mới chính thức phát tang. Sau đó... Điều 68 : Tại sao có tục hú hồn trước khi nhập quan ? Vì đã có những trường hợp bị choáng, ngất, bất tỉnh... Điều 69 : Trường hợp chết đã cứng lạnh, người co rúm không bỏ lọt áo quan thì là m thế nà o ? Theo kinh nghiệm dân gian: Hơ lửa và nắn dần cho thẳng... Điều 70 : Người xưa dùng những vật liệu gì lót và o áo quan ? Trong các ngôi mộ cổ khai quật được, ngoà i các đồ trang... Điều 71 : Tại sao trước khi khâm niệm, nhập quan có tục đưa người chết nằm xuống chiếc chiếu giải dưới đất ? Theo Phan Kế Bính :“Lấy nghĩa, người ta bởi đất sinh thì chết lại về với đất”. Chúng tôi cho rằng tục đó phát sinh từ kinh nghiệm thực... Điều 72 : Sau lễ thà nh phục trước lễ an táng phải là m gì ? Thời nay đơn giản, để giữ vệ sinh không nên để quá 24 giờ. Thời xưa, có những nhà già u sang để năm bảy hôm trong nhà , chờ con cháu về đông đủ, để họ hà ng, là ng xã, hà ng tổng hà ng huyện đến phúng viếng; để dựng rạp trước sân, dựng nhà trạm dọc đường từ nhà đến mộ để chuẩn bị mọi thứ khí tế và cỗ bà n thết đãi linh đình; để thà y cúng chọn ngà y, thà y địa lý chọn đất an táng, phân kim lập hướng hẳn hoi. Có nhà còn sắm đủ trong quan ngoà i quách, quà n tạm trong vườn, và i tháng sau mới là m lễ an táng. Trong thời gi­an chưa chôn có “Lễ triêu tịch điện” : Buổi sáng dậy bưng khăn lược và o linh sà ng, các con quỳ khóc ba tiếng rồi quấn mà n lên cáo từ rằng: “Ngà y đã sáng rồi xin rước linh bạch ra linh toạ”. Sau đó rước hồn bạch ra đặt và o ỷ, vắt mà n, dọn chăn gối, chiều tối lại rước linh bạch và o, đắp chăn thả chiếu, mà n xuống. Thờ như lúc sống, chỉ lạy hai lạy (chỉ sau khi an táng, là m lễ thà nh phâng xong mới lạy bốn lạy theo nghi lễ người chết). Các buổi tối trước khi chưa chôn, có “Lễ chúc thực” (Trồng bó đuốc trước sân): phường bát âm tấu nhạc, con cháu thay nhau túc trực bên linh cữu, trong nhà ngoà i sân đèn đuốc sáng trưng. Khi thân bằng cố hữu đến phúng điếu, người chủ tang và người chủ phụ đứng cạnh linh toạ và ngoảnh mặt về phía khách, hễ khách lạy hai lạy thì chủ lễ tạ lại một lạy. Khách vái cha mẹ mình ba vái thì vái tạ một vái. Trách nhiệm tiếp trầu, nước, cỗ bà n thuộc về người hộ tang. Nếu có người con trai nà o đi vắng chưa kịp về thì để mũ, khăn xô và gậy cạnh hương án. Trước khi là m lễ chuyển cữu để chuẩn bị phát dẫn thì áo quan vẫn trở đầu và o trong, coi như lễ người sống, đọc văn cũng chưa dùng chữ “Hiển thảo” (cha) “Hiển tỷ” (mẹ) mà con dùng chữ “Cố phụ” (cha), “Cố mẫu” (mẹ) ở thà nh phố ngà y nay đã có nhà ướp lạnh, ở nông thôn để dăm bảy ngà y trong nhà , phải là m sao cho khỏi nhiễm uế khí ? - Điều quan trọng nhất là người trị tang phải có kinh nghiệm : áo quan vỏ dà y, gỗ tốt, trám thật kín, không để một khe hở nà o. Đáy áo quan lót những chất chống ẩm như lá chuối, giấy bản, than, vôi, bỏng nếp... Các khe hở của áo quan được bịt kín trước bằng sơn ta, nhựa đường, dán giấy tráng kim. Nếu để lâu phải có trong quan ngoà i quách, giữa quan và quách đổ cát và ng rang khô nóng. Phủ trên thi hà i có các thứ hương vị để khử uế khí. Trước ngà y an táng còn có thÃ#786ªm tục "Lễ yết cáo tổ... Điều 73 : Những người điều hà nh công việc trong tang lễ Trong lúc tang gia bối rối không có người chủ đạo điều hà nh, công việc sẽ rất lúng túng và phạm nhiều sai sót. Khi thân nhân sắp từ trần, việc đầu tiên tang gia phải mời được người hộ tang. Người hộ tang phải là người thân thích gần gũi, có tuổi tác, kinh nghiệm, tháo vát, có uy tín trong họ. Người hộ tang thay mặt tang chủ điều hà nh mọi công việc, đối nội đối ngoại. Nếu người hộ tang biết cúng lễ thì kiêm luôn, nếu không thì mời người chấp sự, Người chấp sự lo việc hướng dẫn về mặt nghi lễ từ mộc dục, khâm liệm, thiết linh, thà nh phục đến an táng. Thà nh phần và tế ngu (lễ 3 ngà y sau khi chôn). Người chấp sự thường là người có văn hoá (chữ Hán, chữ Quốc ngữ) nên có thể kiêm luôn cả việc tư vấn (viết văn cúng tế, bà i vị, long triệu, đối, trướng, cáo phó...). Người thu lễ: Sau khi thà nh phục cho đến hết 3 ngà y sau khi an táng phải có người thu lễ. Người đó chuyên túc trực ở nhà ngoà i, hễ có khách đến phúng viếng thì tiếp khách nhận lễ đặt lên bà n thờ, báo cho thân chủ ra bái tạ. Người thu lễ phải ghi đầy đủ danh sách người đến viếng và số lễ vật, để sau nà y tang chủ biết mà tạ ơn. Người thu lễ kiểm tra lễ vật sau khi khách đã cúng lễ xong ra về. Vì vậy phải chọn người thân tín của tang gia. Người chấp hiệu: Thông thường các ban hà nh lễ đã có người chấp hiệu chuyên trách. Người chấp hiệu là chỉ huy đám phu kiệu đưa quan tà i từ nhà ra xe tang hoặc đại dư (tuy không có xe nhưng khiêng kiệu hay xe gọi là đại dư), điều kiển việc đi đứng, nâng lên hạ xuống, sang trái sang phải, bằng hiệu lệnh hai thanh gỗ ngắn cầm tay, cho đến lúc hạ huyệt, tháo giây đòn mà chén rượu, đĩa dầu lạc đặt trên nắp áo quan không sánh ra ngoà i. Người chấp hiệu ngồi trên đại dư ở phía sau, hoặc đi bộ giật lùi trước quan tà i để điều khiển. Nếu gia đình nà o tự thu xếp để con cháu kiêng áo quan thì phải chú ý chọn người chấp hiệu nhiều kinh nghiệm. Chủ tang và chủ phụ: Là con trai trưởng và con dâu trưởng. Nếu tang cha mà mẹ còn sống thì mẹ là chủ phụ. Nếu cháu đích tôn thừa trọng (thay thế cha đã mất, khi là m lễ tang ông bà ) thì cháu đích tôn là chủ tang, các ông chú đứng hai bên chỉ là bồi tế vợ của người cháu là chủ phụ khi bà chồng và mẹ chồng đã mất, còn các bà thím chỉ là phụ. Nếu cháu đích tôn còn bé quá, chưa chống gậy lễ tạ được thì chú thứ hai thay thế, nhưng vẫn phải nhân danh cháu mà bái lễ và bái tạ. Những tục nghi lễ ngà y xưa khá phức tạp, ngà y nay đã... Điều 74 : Lễ an táng tiến hà nh như thế nà o ? Tuỳ từng địa phương, từng tôn giáo, mỗi nơi nghi lễ phong tục một khác. Thời trước có thôn ấp cử những người trai tráng trong là ng xóm ra khiêng vác chôn cất. Nơi có hội tư văn, thì hội tư văn đứng ra lo liệu điều hà nh công việc theo hương ước định sẵn. Hiện nay ở nông thôn có các hội trợ tang, thà nh phố thị xã có ban quản lý nghĩa trang, một số chi hội trọng thọ các phường xã hoạt động, đứng ra lo liệu chu đáo. Lễ an táng tiến hà nh tuỳ theo hoà n cảnh từng nhà , “Già u là m kép, hẹp là m đơn”. ở đây chỉ nói phần tang gia cần là m gì: • Khi có người thân mất, tang chủ cần đến báo gấp, để cùng bà n bạc theo quy ước đã định. • Thời xưa, tang chủ có khoản tiền thưởng cho người chấp hiệu và những phu kiệu. Nếu từ khi đưa áo quan lên kiệu, đi đến huyệt mà chén rượu, đĩa dầu lạc để trên áo quan không sóng sánh ra ngoà i thì tang chủ đưa tiền thưởng rất hậu. • Thân nhân, theo thứ tự nhân sơ quy định, tang phục theo gia lễ, đều xếp hà ng đi theo sau linh cữu. Thời xưa có cái bạt bằng vải trắng che trên đầu gọi là bạch mạc. Người con trưởng đi trước hoặc kèm sau xe quan tà i theo tục “Cha đưa mẹ đón”. • Hạ huyệt xong, tất cả người đi đưa đều đi vòng quanh mộ một vòng, mỗi người ném xuống một hòn đất. • Đắp mộ xong, mọi người đứng vòng quanh mộ, người hộ tang, người chấp sự tiến hà nh lễ thà nh phần. • Nghi thức chung như trên, nhiều... Điều 75 : Hơi lạnh ở xác chết, cách phòng chống ? Hơi lạnh hay âm khí, tà khí có ở xác người chết không ? Chưa ai đo nhiệt độ cụ thể trong thi thể người chết nhưng nhiều người đã công nhận rằng, theo cảm giác thì người mới chết lạnh hơn nhiều so với nhiệt độ bình thường của con người cũng như của môi trường xung quanh. Hiện tượng đó được giải thích như sau: Con người đang ở nhiệt độ bình thường (37oC), tự nhiên mất nhiệt thì nhiệt độ không chỉ hạ xuống tới hoà đồng với nhiệt độ môi trường mà còn tụt xuống thấp hơn, sau đó một thời gi­an nhiệt độ mới nhích dần lên tới thể ổn định. Dân gi­an công nhận hiện tượng hơi lạnh ở nhà người chết mới chết là hiện tượng có thực, hiện tượng vướng phải hơi lạnh bị ốm cũng là hiện tượng phổ biến, nhất là đối với những người bị các chứng kinh niên như phong thấp, huyết áp cao, tâm thần... còn đối với những thanh niên mạnh khoẻ thì không mấy ai bị ảnh hưởng. Có thuyết cho rằng: Những người đồng khí huyết (con cái với cha mẹ, anh chị em ruột hoặc gần huyết thống) thì không bị nhiễm hơi lạnh, không có phản ứng gì kể cả khi ôm ấp thi hà i và khâm liệm. Tuy nhiên, để phòng xa, người ta vẫn kiêng không cho các bậc cao lão, phụ nữ có thai sắp đến ngà y sinh hoặc sản phụ hà i nhi đến dự khậm liệm, an táng và cải táng. Có người hấp thụ phải hơi lạnh thì phản ứng tức thì. Có... Điều 76 : Tại sao, tại sao và tại sao ? - Tại sao có tục đặt một bát cơm úp, một quả trứng, dựng đôi đũa trên bát cơm, cà i quả trứng và o giữa hai chiếc đũa rồi thắp hương đặt lên trên đầu người chết suốt trong thời gi­an chưa nhập quan? -Tại sao người ta cắm một cái cọc bằng kim loại suốt chân giường người chết ? -Tại sao khi chưa nhập quan, người ta luôn luôn thắp hương nến (nếu không có nến thì thắp ngọn đèn dầu) cho đến khi hạ huyệt không để tắt hương đèn? -Tại sao hai bên hương án, phía gần kề áo quan, người ta đặt hai cây chuối con ? -Tại sao có tục dựng bó đuốc to ở giữa sân và o ban đêm trước lễ an táng (nếu để qua đêm), con cháu và thân nhân túc trực quanh linh cữu (lễ “Chúc thực” ban đêm, nghĩa là “lễ trồng bó đuốc” ?) - Tại sao có tục kiêng ngăn người nhà không được đứng cạnh thi hà i mà khóc, tránh nhỏ nước mắt và o thi hà i? - Tại sao sau lễ nhập quan phải đốt lỗ hung (lỗ đà o ở chính giữa giường người mới chết nằm khi chưa nhập quan. Chất đốt có thể dùng trấu, than , củi hoặc giẻ rách...). - Tại sao lễ tang là việc buồn lại đốt pháo ? (Tục nà y chỉ có ở thà nh phố đối với người già ). - Tại sao phải nhốt mèo khi nhà có người mới chết ? - Tại sao khi người chết trong nhà , người ta phải trèo lên mái nhà dỡ một và i viên ngói, hoặc lá tranh (đối với nhà bịt nóc và ít cửa)? Những câu hỏi trên cùng có chung một câu trả lời: Đó là kinh nghiệm dân gi­an,dùng phép thuật điều hoà khí âm dương, thu hút tà khí để phòng chống hơi lạnh và phòng xa hiện tượng “Quỷ nhập trà ng”. Xuất phát từ kinh nghiệm, dần dần bắt trước nhau trở thà nh phong tục. Dùng khói lửa, ánh sáng mặt trời (đốt hương, nến, đèn, đuốc, than, trấu, dỡ mái nhà , mở rộng cửa, đà o lỗ hung, đốt pháo...) để triệt tiêu hơi lạnh. Dùng bát cơm, quả trứng, cây chuối... để thu hút hơi lạnh (nếu bổ đôi quả trứng, có nhiều lòng đỏ đã trở nên xanh thẫm giống như những quả trứng dùng để đánh gió.). Nhốt mèo để đề phòng mèo nhảy qua xác chết, kiêng khóc nhỏ nước mắt và o thi hà i hoặc cắm cọc kim loại dưới giường người chết, dỡ mái nhà ... là những thuật triệt tiêu luồng điện âm dương hút nhau. Ngoà i ra, những người đến dự lễ tang, nhất dự khâm liệm... Điều 77 : Hiện tượng « quỷ nhập trà ng » Đó là hiện tượng xác chết tự nhiên bật dậy. Hiện tượng nà y rất hiếm nhưng đã xảy ra, do đó trong phong tục đã có sự kiêng cự để phòng xa, gọi là “Quỉ nhập trà ng” nhưng thực ra không có ma quỷ nà o nhập và o xác chết. Nguyên nhân: Do điện âm tích tụ trong thi thể người mới chết chưa kịp thoát ra hết, gặp phải luồng điện dương cực mạnh cuốn hút. Xác chết tự nhiên bật dậy là do sự cuốn hút bởi một... Điều 78 : Lễ 3 ngà y tính từ sau khi mất hay sau khi chôn cất ? Tục nà y không thống nhất, có nơi tính ba ngà y sau khi mất, có nơi tính ba ngà y sau khi chôn. Xét trong điển lễ thì không có “lễ ba ngà y” mà chỉ có “lễ tế ngu” gồm có “sơ ngu”, “tái ngu”, “tam ngu”. “ngu” nghĩa là “yên”, tức là ba lần tế lễ cho yên hồn phách, theo “Thọ mai gia lễ” thì khi chôn xong, rước linh vị về đến nhà tế sơ ngu. Là m sơ ngu xong gặp ngà y nhu, (tức là ất, kỷ , tân, quí) là m lế tái ngu, gặp ngà y cương (tức là ngà y giáp, bính, mậu, canh, nhâm) là m lễ tam ngu. Phan Kế Bính cũng dẫn giải như trên. Dần dần về sau người ta giảm lược, kiêm cả ba lễ luôn, chỉ là m lễ tam ngu, vì thế nên gọi là lễ ba ngà y. Vậy là tính ba ngà y từ sau khi chôn, theo tục gọi là lễ mở cửa mả. Ngà y đó con cháu ra sửa lại mồ mả, đắp cỏ, khơi rãnh thoát nước... Ngu là tế ngu, tế chỉ tế người chết, tế thần. Theo phong tục cũ thì ít khi chết xong chôn ngay, thường còn để năm bảy ngà y trong nhà . Khi chưa chôn là m lễ triêu tịch điện, tức cúng cơm hà ng ngà y vẫn theo lễ thờ người sống. Vậy tế ngu phải tính từ sau khi chôn. Còn có một lập luận khác: Có ba điều không yên khiến phải là m lễ tế ngu: - Đang sống hoạt động nay mọi hoạt động bỗng nhiên đình chỉ. - Đang nhìn thấy bóng dáng, khi đã nhập quan không nhìn thấy bóng dáng nữa. - Đang ở trên dương thế, nay xác về cõi âm, hồn vất vưởng lìa khỏi xác. Âm dương hoà n toà n cách biệt từ sau lễ thà nh phần. Sơ ngu, tái ngu, tam ngu là tế để là m cho yên hồn phách, vậy phải tế sau khi mất, sau khi lễ nhập quan và sau khi lễ thà nh phần xong. Thời nà y cũng có trường hợp sau khi chết 4-5 ngà y còn... Điều 79 : Tại sao có lễ cúng cơm trong 100 ngà y ? Gia đình Việt Nam nhà nà o cũng vậy, mỗi ngà y có hai bữa cơm là giờ phút đầm ấm nhất. Trong nhà có người về muộn, mọi người cũng cố chờ về ăn cơm một lúc cho vui vẻ, đầm ấm. Con cháu cầm bát cơm lên, trước hết mời ông bà , cha mẹ, chờ ông bà , cha mẹ rồi mới bắt đầu mới dám ăn. Có nơi xới bát cơm lần thứ hai còn mời nữa. Nếu có khách, trước khi buông bát đũa đứng dậy­còn phải xin phép và mời khách tiếp tục xơi cơm. Cuộc sống gia đình đang vui vẻ, êm đẹp như vậy, vắng mặt trong bữa cơm còn nhắc, huống chi vĩnh viễn đi xa. Do đó, trước bữa ăn người thân dâng lên bà n thờ một bát cơm úp, một và i món ăn bình thường, nhà ăn thứ gì cúng thứ đấy, thường là tinh khiết, không đòi hỏi cầu kỳ, nhà nghèo thì lưng cơm, đĩa muối cũng xong. Thắp hương xong, dựng đôi đũa và o giữa bát cơm, có rượu thì rót chén rượu. Khấn vái xong cũng rót chén nước. Thờ cúng vong linh cũng giống như đang sống, cũng là để thoả nguyện tâm linh, “Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương”. Nhưng tại sao lại cúng 100 ngà y ? - Cũng tuỳ địa phương, có nơi chỉ cúng 49 ngà y (tức là lễ chung thất). Theo thuyết của Phật giáo: qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngà y đi qua một điện ở âm ty(tức 1 tuần, nhưng không phải tuần lễ theo dương lịch); sau 7 tuần vong hồn đã siêu thoát. Có nơi cúng hết 100 ngà y (tức lễ tốt khốc nghĩa là thôi khóc). Theo giải thích của các cụ ngà y xưa thì thời gi­an nà y âm hồn vẫn còn phảng phất luẩn quẩn trong nhà chưa đi xa. Chúng tôi cho rằng, phong tục nà y có căn cứ khoa học:... Điều 80 : Là m lễ chung thất (49 ngà y) và tốt khốc (100 ngà y), có phải chọn ngà y không ? Theo “Thọ mai gia lễ”, thì cứ đúng ngà y quy định trong gia lễ mà là m, không có sự chuyển dịch tuỳ tiện theo lời thầy lễ hay thầy bói nà o cả. Chỉ trừ ngà y là m lễ an táng và ngà y là m lễ trừ phục (hết tang) trong gia lễ có ghi chọn ngà y là nh. Người ta không ai có thể chọn ngà y chết, vậy nên từ xưa tới nay, hà ng năm cứ đến ngà y mất thì là m giỗ, dù cho có những năm, ngà y đó rất xấu, có cả trùng phục, trùng tang, sát chủ, quả tú, cô thần.v.v... theo gia lễ: Lễ chung thất, Tốt khốc, Tiều tường, Đại tường cứ theo đúng ngà y mà là m lễ. Con cháu ở xa nhớ ngà y về là m lễ, thân nhân ở chỗ... Điều 81 : Lễ nà o là lễ trọng ? Đây là câu hỏi phổ biến của nhiều gia đình: - Trong một năm có nhiều lễ giỗ: Giỗ cha, mẹ ,ông , bà , cụ , kỵ .v.v...thì giỗ nà o quan trọng hơn cả ? - Sau khi an táng xong, có lễ ba ngà y , 49 ngà y, 100 ngà y, lễ giỗ đầu, lễ giỗ thứ hai.v.v... lễ nà o là lễ chính ? Đáp: Thời xưa chưa thấy ghi trong điển lễ, nhưng thời nay lại là vấn đề rất thiết thực, vì nhà nà o cũng vậy con cháu nội ngoại công tác cư trú phân tán mỗi người một nơi, không mấy gia đình không có người đi xa, trong một năm chỉ có điều kiện tụ hội gia đình một hoặc hai lần nhân ngà y lễ trọng của gia đình, hoà n cảnh kinh tế eo hẹp, muốn mời bà con khách bạn trước là tới dự lễ gia tiên cùng thoả nguyện tâm linh, sau là để tỏ tình thân hiếu, không thể rải ra nhiều lần, vậy phải xác định tập trung và o lễ chính. Về lễ giỗ thì phong tục các nơi nói chung đều thống nhất lấy giỗ cha mẹ là chính (chú ý cha mẹ của người tôn trưởng nhất trong nhà ) còn lễ tang thì phong tục mỗi nơi một khác. Có nơi chú trọng lễ 49 ngà y là chính, có nơi lễ 100 ngà y là chính, có nơi là m lễ 3 ngà y xong xuôi tốt đẹp là được, bởi lẽ trong khi tang gia bối rối, việc thù đáp đối với thân bằng cố hữu và những người đến hộ tang có thể còn nhiều khiếm khuyết nên lấy lễ ba ngà y là m lễ trọng, để nhân lễ nà y tang gia tạ ơn những người săn sóc cha mẹ mình khi đau yếu và giúp đỡ gia đình lo xong phần an táng. Có nơi coi trọng lễ giỗ đầu (gọi là “Tiểu tường”) có nơi coi trọng lễ giỗ thứ hai (gọi là “Đại tường”, còn gọi là “giỗ hết”). Có lập luận cho rằng: Đã gọi là “Tiểu tường”. Xét theo lễ nghi thì ngà y nay kết hợp đại tường và đà m tế có nhiều nghi tiết phức tạp hơn tiểu tường (xem phần: “Cách tiến hà nh đà m tế”). Tóm lại: Hoà n cảnh kinh tế, hoà n cảnh sinh hoạt thời xưa... Điều 82 : Khi hết tang là m lễ trừ phục (đà m tế) như thế nà o ? Sau hai năm chọn một ngà y tốt trong vòng ba tháng dư ai, để là m lễ trừ phục. Trừ phục gồm 3 lễ: 1. Lễ sửa mộ: Đắp sửa mộ thà nh mộ tròn. 2. Lễ đà m tế: Cất khăn tang. Huỷ đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước linh vị và o bà n thờ chính. Bỏ bà n thờ tang. Thu cất các bức trướng. câu đối viếng. 3. Lễ rước linh vị và o chính điện và yết cáo tổ tiên: Chép sẵn linh vị mới, phủ giấy hay vải đỏ, khi đà m tế ở bà n thờ tang xong thì đốt linh vị cũ cùng với băng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung (nếu có) đưa lên bà n thờ chính, đặt ở hà ng dưới. Trường hợp nhà con thứ không thờ gia tiên bậc cao hơn... Điều 83 : Vì sao có tục đôt và ng mã ? Theo quan niệm của người đời xưa, người chết cũng cần ăn uống, nhà cửa, quần áo, hút thuốc, ăn trầu, cũng cần tiền xe, cần tiền đi lại và mọi khoản chi dùng như khi còn sống... Người chết cũng được chia một phần gia tà i. ở Sơn La, Lai Châu, nhiều nơi còn dựng các nhà mồ, trong nhà mồ cũng có đầy đủ các nồi đồng, mầm gỗ, ấm đất, bát đĩa, dao rựa, chăn chiếu quần áo, mũ nón...đủ tiện nghi cho một cá nhân. Người chết cũng được chia cả trâu, lợn, gà , thóc, gạo... Sau ba năm, tang chủ là m lễ khấn vái và ra mồ xin lại những đồ vật còn dùng được, và súc vật còn sống, kể cả súc vật vừa mới đẻ ra... Từ việc cúng tế bằng đồ thật, dần dần mới sinh ra lễ đốt... Điều 84 : « Chiêu hồn nạp táng » là gì ? Trong gia phả các họ rất chú trọng mục: Mộ táng ở đâu. Trong mục nà y có một số trường hợp ghi chú: “Chiêu hồn nạp táng” là gì? Đó là những ngôi mộ không có tử thi, hà i cốt, mộ người chết trận, chết đuối hay do thú dữ vồ... không tìm được tử thi. Thân nhân là m hình nhân và là m lễ an táng theo như lễ an táng thông thường. Được nghe các cụ kể lại rằng: chất liệu là m hình nhân, có địa phương dùng cây núc nác (còn gọi là sò đo thuyền, mộc hồ điệp, nam hoà ng bá, bạch ngọc nhi). Núc nác là loại gỗ mềm và xốp, dễ tạo hình, chôn dưới đất lâu hoai, lại dễ kiếm vì mọc ở nhiều nơi. Có địa phương dùng bùn lấy ở giữa dòng sông, có địa phương dùng mùn đà o ở giữa ngã tư đường cái. Hình nhân được đẽo gọt hoặc nhà o nặn thô sơ, có đầu mình chân tay là được (vì đa số không phải là nghệ nhân). Kích thước của hình nhân khoảng 30-40 cm chiều dà i. Thi hà i tượng trưng đó cũng được khâm liệm, đưa và o áo quan là m bằng gỗ và ng tâm, kích thước nhỏ bé, hoặc đưa và o tiểu sà nh. Trên hình nhân có phủ lên linh vị viết trên giấy kim tuyến, nội dung giống như linh vị đặt ở bà n thờ. Trước khi là m lễ an táng có mời thầy cúng là m bùa ấn phù phép để vong hồn nhập và o hình nhân. Lễ an táng và các lễ các lễ khác cũng tiến hà nh như... Điều 85 : « Hình nhân thế mạng » là gì ? Ở nước ta chưa có “Tục tuẫn táng” nhưng đời trước có tục đốt hình nhân thế mạng, vốn xuất xứ từ tục tuẫn táng, nhân đạo hơn so với tuẫn táng. Để vua chúa xuống dưới âm cung có người hầu hạ, tục ta không chôn người sống mà dùng hình nộm là m bằng tre nứa, quấn bằng rơm rạ hoặc nhà o nặn bằng đất sét, ngoà i dán giấy là m quần áo rồi vẽ mặt mũi, sau đó khi tế lễ xong thì đốt hình nhân đó cùng với và ng mã. Nếu lễ thuỷ thần, long vương, hà bá thì là m thuyền bằng giấy kết trên thân cây chuối rồi đặt hình nhân và o thuyền và thả trôi sông. Có người nghe theo lời bói toán nhảm nhí sắp đến vận hạn bị hung thần quỷ dữ bắt, phải nhờ thầy cúng là m lễ, đốt hình nhân thế mạng. Có người vì mối tư thù nhưng yếu thế không trả thù được bèn nghĩ cách là m hình nhân rồi đề tên họ, huý, hiệu của kẻ thù và o trước ngực hình nhân, cắm ở ngã ba, ngã tư đường cái, thắp hương cắm lên đầu hình nhân để nhờ thần linh bắt tội người đó. Đây là một tập tục chứa đầy tính chất mê tín, dị đoan... Điều 86 : Tại sao phải cải táng và khi nà o không nên cải táng ? Chúng tôi xin trích “Việt Nam Phong tục” của Phan Kế Bính trang 39 "...Người mất, sau ba năm đoạn tang rồi hoặc một và i năm nữa thì con cái lo việc cải táng Trước hôm cải táng là m lễ cáo từ đường. Đến hôm cải táng, lại là m lễ khấn thổ công chỗ để mả mới táng. Trước hết khai mả, nhặt lấy xương xếp và o một cái tiếu sà nh, rẩy nước vang và o rồi che đậy thật kín, không cho ánh sáng mặt trời lọt và o được. Nhà phú quý thì dùng quan quách liệm như khi hung táng. Đoạn, đem cải táng sang đất khác. Còn quan tà i cũ nát thì bỏ đi, tốt thì đem về dùng hoặc là m cầu, hoặc là m chuồng trâu chuồng ngựa, để trâu ngựa đứng cho khỏi sâu chân. Tục lại tin rằng: Hễ ai đau tức thì lấy mảnh ván thộ (mảnh ván quan tà i nát) đốt lên , để gầm giường mà nằm thì khỏi đau tức. Cải táng có nhiều cớ. Một là vì nhà nghèo, khi cha mẹ mất, không tiền lo liệu , mua tạm một cỗ ván xấu, đợi xong ba năm thì cải táng, kẻo sợ ván hư nát thì hại đến di hà i. Hai là vì chỗ đất mối kiến, nước lụt thì cải táng. Ba là vì, các nhà địa lý, thấy chỗ mả vô cớ mà sụt đất hoặc cây cối ở trên mả tự nhiên khô héo, hoặc trong nhà có kẻ dâm loạn điên cuồng, hoặc trong nhà đau ốm lủng củng, hoặc trong nhà có kẻ nghịch ngợm, sinh ra kiện tụng lôi thôi, thì cho là tại đất mà cải táng. Bốn là , những người muốn cầu công danh phú quý, nhờ thầy địa lý tìm chỗ cát địa mà cải táng. Lại có người thầy nhà khác phát đạt, đem mả nhà mình táng gần và o chỗ mả nhà kia, để cầu được hưởng dư huệ. Trong khi cải táng, tục lại có ba điều là tường thuỵ (tức là mả phát tốt đẹp) mà không cải táng. Một là , khi đà o đất thấy có con rắn và ng thì cho là ... Điều 87 : « Thiên táng » là gì ? Ngà y xưa có người đi là m ăn ở xa nhà , dọc đường chẳng... Điều 88 : « Đất dưỡng thi » là gì ? Có những ngôi mộ cỏ do kỹ thuật ướp xác, trải qua hà ng trăm năm da thịt vẫn còn nguyên không hoai. Nhưng còn có những ngôi mộ lâu đời da thịt vẫn nguyên do chôn và o đất dưỡng thi. “Đất dưỡng thi” là loại đất gì, gồm những yếu tố hoá học nà o, nhiệt độ và độ ẩm ra sao, có những đặc điểm gì để tìm ra đất dưỡng thi thì chưa ai rõ, hoặc giả xưa kia có thầy am hiểu thuật phong thuỷ đã tìm ra, ngà y nay đã thất truyền hoặc giả do ngẫu nhiên, tình cờ gặp mà không biết. Chỉ biết rằng đó là một môi trường trong đó cả vi khuẩn hiếu khí và yếm khí đều bị huỷ diệt. Hy vọng trong tương lai, khoa học phát triển hoặc sẽ có... Điều 89 : Tại sao kiêng không đắp mộ trong vòng tang ? Theo phong tục, sau ba ngà y an táng là là m lễ mở cửa mả. Trong buổi đó, sửa sang mộ cao ráo, đắp cỏ xung quanh là m rãnh thoát nước, chặt bỏ cây bụi chung quanh để phòng rễ mọc lan, xuyên và o mộ, chọc thủng áo quan. Kể từ ngà y đó, con cháu đến viếng thăm, thắp hương chỉ lấy đất chung quanh đắp bổ sung và o những chỗ đất bị sụt lở, không được trèo lên mộ, không được động thuổng, cuốc và o. Xét ra tục kiêng ấy rất có lý: Trong ba năm đó áo... Điều 90 : Tại sao khi cải táng phải cất mộ ban đêm hoặc sáng sớm khi mặt trời chưa mọc, hoặc nếu là m ban ngà y phải có lán che ? Có lý luận cho rằng, âm dương cách biệt nên phải kiêng không để mặt trời trực tiếp dọi và o. Nhưng theo chúng tôi, xuất phát từ kinh nghiệm thực tế, có nhiều trường hợp, gặp đất dưỡng thi, hoặc ba điều tường thuỵ (tức mộ kết phát) không nên cải táng, phải lấp lại ngay. Trong trường hợp thi thể sau nhiều năm vẫn còn nguyên vẹn, nếu để ánh nắng mặt trời trực tiếp dọi và o thì rữa ra ngay và teo lại. Vì vậy, để phòng xa nên kiêng ánh mặt trời, lâu ngà y trở thà nh phong tục chung ? Thấy gì qua 60 ngôi mộ có xác ướp ở Việt Nam ? Theo thống kê của các nhà khảo cổ học, cho đến nay trên địa bà n của 15 tỉnh và thà nh phố ở nước ta đã có gần 60 mộ có xác ướp được khai quật. trong số gần 60 người mà các nhà khảo cổ “tìm gặp” đó có mặt hầu hết những nhân vật có vị trí cao quý nhất của xã hội đương thời: Từ vua cho đến các quan thượng thư, đại tư đồ, hoạn quan, bà chúa, cung tần mỹ nữ... ngôi mộ có niên đại sớm nhất được phát hiện ở Cẩm Bình- Hải Hưng và o thế kỷ thứ 15. Ngôi mộ có niên đại muộn nhất được chôn và o đầu thế kỷ nà y. nhưng nhiều nhất và được xử lý kỹ thuật tốt nhất chỉ có các mộ chôn trong 3 thế kỷ 16, 17,và 18. Đó cũng là thời kỳ bùng nổ của loại hình thức táng nà y. Cấu trúc của mộ xác ướp rất thống nhất về các nguyên tắc cơ bản: Ngoà i cùng là gò mộ đắp đất, trong cùng gò có một quách hợp chất mà u xám rắn chắc là m bằng vôi, cát mật, giấy gió, dầu thông. Để cho quách thêm vững chắc người ta thường đổ nắp có hình vòm cung trùm ra ngoà i thà nh quách. Bên trong quách hợp chất, thường có thêm lớp quách gôc. Quách gốc có thể cách quách hợp chất 5 cm. khoảng trống ấy có thể dùng là m vật liệu hút ẩm hoặc giữa hai lớp không có khoảng cách do khi đổ hợp chất, quách gỗ được coi như một mặt của cốp pha. Bên trong quách gỗ là quan tà i được đóng liền thà nh một khối ngoà i có sơn phủ kín. Quách trong đều được là m bằng gỗ thơm (Ngọc am). Trên mặt quách thường có một tấm minh tinh bằng dụ đỏ thêu tên họ của người quá cố bằng kim tuyến. Cách sắp xếp trong lòng quà n tà i cũng tuân theo một quy tắc chặt chẽ. Đóng quan thường có một lớp chè dà y khoảng 4,5cm. Trên lớp chè có một tấm ván mỏng có khoét rỉ ra chẩy xuống lớp chè dưới đáy quan. ở loại hình táng thức nà y, người quá cố thường mặc rất nhiều quân áo. Bà Phạm Thị Nguyên Chân mặc tới 35 áo, 18 váy. Thi thể còn được bọc lại bằng hai lớp vải liệm: tiểu liệm và đại liệm. Ngoà i mỗi lớp vải liệm còn có dây lụa buộc chặt chẽ. Để tăng độ hút ẩm và cho thi thể khỏi bị xô dịch, người ta còn dùng rất nhiều gối bong chèn dưới lòng quan. Có mộ đã dùng tới 49 chiếc gối bông. Đồ tùng táng trong loại hình táng thức nà y rất nghèo nà n, thường trong mộ chỉ thấy các trái gốm nhỏ đựng móng chân, móng tay, răng rụng, trầu không, thuốc lá, hộp phấn, quạt giấy, đôi khi còn có thêm cuốn sách Kinh. Tuyệt đại bộ phận các mộ xác ướp thơi Lê -Trịnh đã được khai quật, không tìm thấy bất kỳ một đồ tùng táng nà o quý giá như và ng, bạc, ngọc, ngà . Ở những mộ chưa bị phá hoại, kỹ thuật chôn cất rất cẩn thận thì xác và đồ tùng táng vẫn còn được bảo quản nguyên vẹn. Thi thể tuy có bị mất nước teo đét lại, nhưng mà u da không bị đen, các khớp chân tay còn mềm mại, phần lông không bị rụng hỏng. Điều đáng chú ý là , khi khám nghiệm tử thi, các nhà nhân chủng học và y học không tìm thấy bất kỳ một dấu vết mổ xẻ nà o trên thân thể. Như vậy là , ruột và óc người chết đã không bị mổ lấy ra như kỹ thuật ướp xác của người Ai Cập thời cổ. Nguyên nhân nà o đã là m cho xác và đồ tùng táng không bị tiêu huỷ? Sau nhiều năm nghiên cứu, các nhà khảo cổ, nhân chủng học và y học hiện đại đã đi đến kết luận là , có hai nguyên nhân cơ bản: Một là , mộ được chôn cất trong môi trường kín tuyệt đối. Không có hiên tượng trao đổi bên trong và bên ngoà i. Quan, quách (hai lớp) đã đóng vai trò chủ đạo trong yêu cầu kỹ thuật nà y. Ngoà i ra, còn cần phải hạn chế tới mức tối đa không gi­an trống trong lòng mộ. Hai là , dầu thơm cũng là một yếu tố quyết định. Dầu thơm đã là m sạch vi khuẩn, dầu trộn với hợp chất, đổ và o lòng quan, quan tà i thơm... đã ngăn không cho vi khuẩn, kể cả các vi khuẩn yếm khí tiếp tục hoạt động huỷ hoại xác. Ngoà i ra các phương pháp chống ẩm bằng chè, quần áo, tẩm liệm, gối bông cũng đã góp thêm mặt yếu tố gìn giữ xác. Những kết quả khoa học đà o tìm được và các giám định khoa học vừa được trình bà y cho thấy: Mộ xác ướp Việt Nam không có gì là bí ẩn cả. mộ xác ướp, một di sản văn hoá cần được bảo vệ (Hoà ng Linh- Trích “Du lịch Việt Nam” số 43) Về ngôi mộ xác ướp mới phát hiện ở Cát Hanh. Tháng 8 năm 1984, một ngôi mộ xác ướp được phát hiện trên cánh đồng Mả Vôi thuộc xã Cát Hanh huyện Phù Cát, tỉnh Nghĩa Bình. Ngôi mộ được táng theo lối trong quan ngoà i quách. Quách được xây dựng bằng một hợp chất gồm vôi sống, cát và một số chất kết dính như nhiều ngôi mộ đã phát hiện thời Lê Trịnh và thời Nguyễn. Quan tà i bằng gỗ, mặt ngoà i trát một lớp ngăn thấm rất kín. Quan tà i có chân và nắp là một nửa thân gỗ còn nguyên lớp vỏ bà o không nhẵn. Thi hà i chôn trong mộ là một phụ nữ khoảng 60 tuổi, cao 154,5 cm, chân trái bị gãy và liền lại khi còn sống nên ngắn hơn chân phải 3,1cm. Thi thể hầu như còn nguyên vẹn và các khớp xương, nhất là xương sống và các khớp vai còn có thể cử động rất mềm dẻo. Y trang phục của người chết gồm ba lớp áo mặc, khăn nhiễu đội đầu, đội hà i da, một chiếc áo dà i mầu đen kê dưới tay phải. Vải liệm gồm 7 súc đặt theo chiều dà i và súc đặt theo chiều ngang. Đáy quan tà i có một lớp trấu và lúa không sấy, chất gạo còn khá tốt. Giữa nắp quan tà i và xác là một lớp là chuối khô. Giấy bản chèn cũng buộc bằng dây chuối khô. Đặc biệt, quan tà i chứa một dung dịch ngâm giữ xác có mà u nâu trong. Thà nh phần hoá học của dung dịch chưa xác định được, nhưng không có thuỷ ngân (Hg) ar­senic (as) và tinh dầu thông. Căn cứ và o gia phả của dòng họ và sự ghi nhận của thân nhân thì chủ ngôi mộ là bà Nguyễn Thị Trọng, vợ thứ ba của ông Lê Văn Thể. Ngôi mộ ướp xác nà y là một tư liệu khoa học có giá trị về nhiều phương diện: - Đây là ngôi mộ ướp xác đầu tiên tìm thấy từ một tỉnh xa nhất về phía nam. - So với những ngôi mộ ướp các được phát hiện ở các tỉnh phía Bắc, ngôi mộ nà y có những đặc điểm riêng cần nghiên cứu như: Nắp quan tà i là một nửa thân cây để nguyên vỏ, thi hà i ngâm trong dung dịch giữ xác... - Những di vật trong ngôi mộ phản ánh nghi thức mai táng y trang phục các nghề thủ công, phong tục tập quán và lối sống xã hội đương thời. - Chủ nhân của ngôi mộ thuộc gia đình Tây Sơn và có quan hệ mật thiết với Tây Sơn nên những do vật đó cúng là những chứng tích về đời sống văn hoá xã hội, kinh tế thời bấy giờ. (Trích "Quang Trung Nguyễn Huệ- con người và sự nghiệp"-... Điều 91 : Ma trơi hay ma chơi ? Tiếng khu Tư gọi là “ma trơi”, Bắc bộ gọi là “ma chơi”. Chúng tôi chưa rõ biến âm hay xuất xứ của ngôn từ ám chỉ loại ma đó “chơi vơi”, “chơi đùa với trần thế” hay “chêu chọc cho xấu hổ”. Nguyễn Du trong “ Văn chiêu hồn thập loại chúng sinh” câu: Lập loè ngọn lửa ma chơi Tiếng oan văng vẳng tối trời cà ng thương. Nguyễn Văn Thà nh trong “Văn tế trận vong tướng sĩ” có câu: Hồn chiến sĩ biết đâu miền minh mạc, Mịt mù gió lốc thổi dấu tha hương. Mặt chinh nhân khôn vẽ nét gi­an nan, Lập loè lửa chơi soi chừng cổ độ. Chúng tôi đã nhìn thấy ma trơi và nghe nhiều người kể chuyện ma trơi đuổi. Đó là ngọn lửa lập loè yếu nhạt, bập bùng lan toả theo chiều gió, chốc lại biến mất rồi từ chỗ cũ, chốc chốc lại lập loè ngọn lửa xanh nhạt, loáng thoáng bay lên. Theo các cụ già giải thích thì đó là oan hồn của những người chết trận, của những nắm xương vô thừa nhận không người chôn cất, vất vưởng trên bãi chiến trường, trong bãi tha ma, hoặc trên cánh đồng không mông quạnh. Khoa học đã giải thích, chứng minh hiện tượng đó là do chất lân tinh (P) từ trong xương cốt người và xúc vật toả ra gặp ôxy trong khí trời bốc cháy thà nh ngọn lửa xanh nhạt, ban ngà y cũng có nhưng không nhìn thấy. Tuy được khoa học giải thích rõ không phải là ma, nhưng... Điều 92 : Tục « bái vật » là gì ? Quan niệm cổ xưa không riêng ta mà nhiều dân tộc trên thế giới cho rằng mọi vật do tạo hoá sinh ra đều có linh hồn. Mỗi loại vật, kết cả khoáng vật, thực vật cũng có cuộc sống riêng của nó. Lúc đó người ta chưa phân biệt thế giới hữu sinh và vô sinh. Con người chưa thể lý giải nổi những yếu tố thiên nhiên xung quanh chi phối mình như thế nà o nên các vật như hòn đá, thân cây, con vật có quan hệ mật thiết với họ đều được họ tôn thờ như thần linh. Trong ngôn ngữ nhiều nước ở châu Âu (như tiếng Pháp) mọi vật trong tạo hoá hữu hình hay vô hình, cụ thể hay trừu tượng đều mang khái niệm âm dương, đều có giống đực giống cái. Đó là chứng cứ xuất xứ tục bái vật hiện tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới và một và i dân tộc ở miền núi nước ta. Ở ta, hòn đá trên chùa, cây đa đầu đình, giếng nước, cửa rừng cũng được nhân dân thờ cúng, coi đó là một biểu tượng, nơi ẩn hiện của một vị thiên thần hoặc nhân thần nà o đó. Người ta “Sợ thần sợ cả cây đa” mà cúng cây đa, đó không thuộc và o tục bái vật. Cũng như người ta lễ Phật, thờ Chúa, quì trước tượng Phật, tượng Chúa, Lễ Thần, quì trước long ngai của Thần, những Thần đó có thần hiệu rõ rà ng, chứ không phải lạy khúc gỗ hòn đá như tục bái vật. Xưa, xa xưa, ta có tục bái vật không? Ngà y nay chỉ còn lại và i dấu vết trong phong tục. Thí dụ, bình vôi là bà chúa trong nhà , chưa ai định danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng trưng cho uy quyền chúa nhà , nhà nà o cũng có bình vôi. Khi con dâu về nhà , mẹ chồng tạm lánh ra ngõ cũng mang bình vôi theo, có nghĩa là tạm lánh nhưng luôn nắm giữ uy quyền. Khi lỡ là m vỡ bình vôi thì đem mảnh bình còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vức ở chỗ ô uế. Gỗ chò là loại gỗ quí, gỗ thiêng chỉ được dùng để xây dựng đình chùa, nhà thờ. Nhân dân không ai được dùng gỗ chò là m nhà riêng. Ngà y xưa trong đám củi theo lũ cuốn về xuôi, nếu có gỗ chò, các cụ còn mặc áo thụng ra lạy, lạy gốc chứ đã phải lạy thần đâu! Còn như tục kiêng vứt chân hương và o thùng rác hoặc... Điều 93 : Lễ giỗ cúng và o ngà y nà o ? Lễ cúng giỗ và o đúng ngà y mất hay trước ngà y mất một ngà y ? Có người cho rằng phải cúng và o ngà y đang còn sống (tức là trước ngà y mất), có người lại cho rằng “trẻ dôi ra, già rút lại”, vậy nên chết trẻ thì cúng giỗ đúng ngà y chết, còn người già thì cúng trước một ngà y. Vậy có câu hỏi: “Người trung niên chết thì cúng và o ngà y nà o”? Ngà y giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngà y mất của tổ tiên, ông bà , cha mẹ, cũng có nghĩa là ngà y kiêng kỵ. Nguyên ngà y trước, “Lễ Giỗ” gọi là “Lễ chính kỵ”: chiều hôm trước lễ chính kỵ có “Lễ tiên thường” (Nghĩa là nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngà y xưa, những nhà phú hữu mời thông gia, bà con là ng xóm đến mời ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần vì khách đông phải chia ra hai lượt; lại có những nhà hà ng xóm mời cả hai vợ chồng nên luân phiên nhau, người đi lễ tiên thường, người đi lễ chính kỵ, ở nông thôn tuỳ theo thời vụ, muốn “Vừa được buổi cà y vừa hay bữa giỗ”, buổi chiều đi là m đồng về, sang hà ng xóm ăn giỗ tiện hơn nên có nơi lễ tiên thường đông hơn là lễ chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế eo hẹp hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Một và i nhà là m, những người khác thấy thuận tiện bắt chước, dần dần trở thà nh tục của địa phương. Việc cúng ngà y sống (tức lễ tiên thường và o chiều hôm trước, nguyên xưa chỉ cúng và o buổi chiều vì buổi sáng còn phải mua sắm nấu nướng và ra khấn ở mộ yết cáo với thổ thần, long mạch xin phép cho gia tiên về nhà dự lễ giỗ). Cúng ngà y sống hay cúng ngà y chết, hay nói cách khác lễ tiên thường hay lễ chính kỵ, lễ nà o là lễ quan trọng hơn, chẳng qua đó là cách biện hộ cho phong tục từng nơi. Kết luận: Nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến... Điều 94 : Mấy đời tống giỗ ? Theo gia lễ: “Ngũ đại mai thần chủ”, hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới mất mà thế và o thuần chủ ông khảo. Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và tử, tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là có 4 đời là m giỗ (cao , tằng, tổ, phụ) tức là kỵ (hay can), cụ (hay cố), ông bà , cha mẹ. Từ "Cao" trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng... Điều 95 : Chết yểu có cúng giỗ không ? Có hai trường hợp: • Những người chết đã đến tuổi thà nh thân, thần nhân nhưng khi chết chưa có vợ hoặc mới có con gái, chưa có con trai, hoặc đã có con trai nhưng ít lâu sau con trai cũng chết, trở thà nh phạp tự (không có con trai nối giòng). Những người đó có cúng giỗ. Người lo việc giỗ chạp là người cháu (con trai của anh hoặc em ruột) được lập là m thừa tự. Người cháu thừa tự được hưởng một phần hoặc toà n bộ gia tà i của người đã khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con cháu người thừa tự đó tiếp tự. • Những người chưa đến tuổi thà nh... Điều 96 : Cúng giỗ mừng ngà y sinh ? Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngà y giỗ (ngà y mất) là m trọng, cho nên ngà y đó, ngoà i việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Đây cũng là dịp thăm người thân trong gia đình, trong chi họ, dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bà n việc người sống giữ gìn gia phong. Và o dịp đó người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng gọi là “trước cúng sau ăn”, có mất đi đâu, cũng là để cho cuộc họp mặt thêm đậm đà ấm cúng, kéo dà i thời gi­an sinh hoạt, kể chuyện tâm tình, chuyện là m ăn. Mà việc chi phí cũng không dồn lên đầu một ai vì ngoà i phần do hương hoả mà có, mỗi người đều đóng góp bằng tiền mặt hoặc hiện vật, nên mới có từ “góp giỗ”, với ý nghĩa trên- “Uống nước nhớ nguồn”- việc đó có thể xếp và o loại thuần phong mỹ tục, nếu như người ta loại bỏ được những hủ tục có tính chất mê tín dị đoan, nếu như không bị lợi dụng một cơ hội cho bọn hãnh tiến khoe của bằng mâm cao cỗ đầy, sơn hà o hải vị, cho những ông tham nhũng dựa và o chức quyền nhận lễ giỗ hậu hĩ, một thứ đút lót trá hình. Chính vì thể theo phong tục đó mà nhà nước ta đã giữ gìn việc tổ chức trang nghiêm ngà y giỗ của các vị anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước như ngà y giỗ tổ Hùng Vương, hội đền Kiếp Bạc... Cho nên, theo tôi, giữ gìn tục lệ đó theo ý nghĩa trong sáng của nó không có gì phải bà n. Thế còn ngà y sinh ? Phương tây có tập quán mừng ngà y sinh là chính. Tôn giáo Đông Tây cũng coi trọng ngà y sinh, Phật giáo có ngà y “Bụt sinh Bụt đẻ” (Phật Đản 8-4 Âm Lịch), Ki tô giáo có ngà y Chúa giáng sinh (Nô- en 25-12 Dương lịch). Do gi­ao lưu văn hóa, gi­ao tiếp quốc tế, Nhà nước ta đã tiếp nhận tập quán quốc tế đó nên đã tổ chức trọng thể ngà y sinh Bác Hồ, Mừng thọ các nhà lãnh đạo khác của Đảng và Nhà nước. Từ khi ra đời, các hội thọ hà ng năm thường tổ chức mừng thọ cho các cụ và o những năm chẵn 70, 75, 80... Một số đoà n thể cũng tổ chức mừng thọ cho hội viên của mình. Việc tổ chức mừng thọ có tính chất đại trà , không đúng ngà y đó không thể thay thế cho việc mừng thọ đúng ngà y sinh, ấm cúng trong gia đình. Cho nên, tôi nghĩ rằng các gia đình chúng ta nên tổ chức mừng ngà y sinh cho mọi thà nh viên trong gia đình, đặc biệt lưu ý đến ông bà già là những người đang cảm thấy cô đơn. Hiện ngay rất nhiều gia đình đã tổ chức mừng ngà y sinh con, thường là hai cháu, nay thêm hai vợ chồng, một năm bốn lần mừng ngà y sinh, dư dật thì có mâm cơm thịnh soạn, tặng phẩm tươm tất, thiếu thốn thì bữa cơm tươi hơn thường ngà y, quà tặng giản đơn. Người còn cha mẹ nếu ở chung thì thêm hai lần ăn mừng ngà y sinh, cũng tùng tiệm như trên. Nếu ở riêng thì đồng quà tấm bánh vừa với túi tiền tặng cha mẹ, cốt thể hiện tấm lòng ưu ái, tăng thêm sự ấm cúng trong gia đình, giúp tuổi già đỡ cảm thấy cô đơn. Mừng ngà y sinh một cách giản dị như vậy thiết tưởng cũng không phải cái gì cao xa ngoà i tầm tay của những gia đình còn thiếu thốn. Cũng cần thêm một lý do nữa khiến ta coi trọng ngà y sinh là bản thân người đó được hưởng khi còn sống, dù là một món ăn tươi còn hơn mâm cao cỗ đầy cúng vái khi sang thế giới bên kia. ở chỗ nà y có thể nhắc đến một lời chê bai của người xưa: Khi sống thì chẳng cho ăn Đến khi chết xuống là m văn tế ruồi (Đặng Văn Phủng - Trích “Hà nội mới chủ nhật ”, số 119) Lời bà n thêm của tác giả: Chúng tôi trích dẫn bà i trên của ông Đặng Văn Phủng và có lời bà n thêm sau đây: Lễ giỗ được xếp và o loại thuần phong mỹ tục của dân tộc ta. Mừng ngà y sinh là phong tục Âu Tây có ý nghĩa hay. Theo phân tích của ông Phủng thì kỷ niệm ngà y sinh hay hơn là giỗ. Ngặt vì mấy ai nhớ đến ngà y sinh của bản thân mình. Trước năm 1945 cũng chưa dễ mấy ai biết chính xác, trừ một số ít con công chức cũ ăn lương phải có giấy khai sinh chính thức hoặc ai còn may mắn giữ được lá số tử vi, ngược lại hầu hết các gia đình còn ghi nhớ ngà y giỗ của cha mẹ, ông bà . cụ kỵ. Dầu cho khi cha mẹ còn sống, con cháu đã được tổ chức kỷ niệm ngà y sinh, nhưng nhớ đến ngà y ông bà cha mẹ qua đời, mà trên bà n thờ hương tà n khói lạnh cũng cảm thấy áy náy trong lòng. Vì vậy ở nước ta, nhà nà o tổ chức kỷ niệm ngà y sinh... Điều 97 : Tết nguyên đán có từ bao giờ ? Nguồn gốc Tết Nguyên Đán, hay nói ngắn hơn là Tết có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương. Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng Dần. Nhà Thương, thích mà u trắng, lấy tháng Sửu (con trâu), tháng chạp là m tháng đầu năm. Qua nhà Chu (1050-256 trước công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một là m tháng Tết. Các vua chúa nói trên, theo ngà y giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loà i người mà đặt ra ngà y tết khác nhau. Đến đời Đông Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngà y tết và o một tháng nhất định: tháng Dần. Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoà ng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười. Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt ngà y Tết và o tháng Dần (tức tháng Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nà o thay đổi về tháng Tết nữa. Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngà y tạo thiên lập địa có thêm giống Gà , ngà y thứ hai có thêm Chó, ngà y thứ ba có Lợn, ngà y thứ tư sinh Dê, ngà y thứ năm sinh Trâu, ngà y thứ sáu sinh Ngựa, ngà y thứ bảy sinh loại Người và ngà y thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngà y Tết thường được kể từ ngà y mồng Một cho đến hết ngà y mồng bảy. * (Trích bà i "Tết Nguyên Đán" của Nguyễn Đình Khang) Điều 98 : Ngà y tết có những phong tục gì ? Dân tộc ta có nhiều ngà y Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ lễ tiết. Có Tiết Thương Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Thanh Minh, Đoan Ngọ, TrungThu... Ngà y tết nêu ở đây tức là nói tắt Lễ tiết Nguyên Đán (ngà y đầu năm). Ngà y Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ... Từ trẻ đến già ai ai cũng biết, không nhắc thì thanh thiếu niên cũng mua cho được cà nh hoa bánh pháo, nghèo cũng có chiếc bánh chưng, chai rượu. Vì vậy xin miễn liệt kê dà i dòng, để trao đổi một và i phong tục đáng được duy trì phát triển. Tống cựu nghênh tân: cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng là ng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa, đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bà n thờ, lau chùi bà n ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng. Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút gi­ao thừa trở đi không quấy khóc, không nghịch ngợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy, không vứt rác viết vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh chị cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở dầu lạ dầu quen. Đối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xúy xoá hết. Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngà y đầu năm. Dẫu mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút gi­ao thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau những điều tốt là nh. Hái lộc, xông nhà , chúc tết, mừng tuổi: ai cũng hy vọng một năm mới tà i lộc dồi dà o, là m ăn thịnh vượng, mạnh khỏe tiến bộ, thà nh đạt hơn năm cũ. Lộc tự nhiên đến, đi hai lộc (chỉ là một cà nh non ở đình chùa, ở chốn tôn nghiêm mang về nhà ), tự mình xông nhà hoặc dặn trước người “Nhẹ vía” mà mình thích đến xông nhà . Bạn nà o vinh dự được người khác mời đến xông thì nên chú ý, chớ có sai hẹn sẽ xúi quẩy cả năm đối với gia đình người ta và cả đối với bạn. ở thà nh thị thời trước, sáng mồng một, có một số người nghèo gánh một gánh nước đến các gia đình giầu có lân cận và chúc họ “Lộc phước dồi dà o”. Những người nà y được thưởng tiền rất hậu. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng phải dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay đổ tại mình “Nặng vía”. Chính vì vậy, đáng lẽ sáng mồng một đông vui lại hoá ít khách, trừ những nhà đã tự xông nhà , vì tục xông nhà chỉ tính người đầu tiên đến nhà , từ người thứ hai trở đi không tính. Sau gi­ao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà , cha mẹ. Ông bà cha mẹ cùng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hà ng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất. Chú ý tránh phạm tên huý gia tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc. Chúc Tết nhưng người trong năm cũ gặp rủi ro tai hoạ thì động viên nhau “Của đi thay người”, “Tai qua nạn khỏi”, nghĩa là ngay trong cái hoạ cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt là nh. Kể cả đối với người phạm tội vẫn với thái độ nhẹ nhà ng, khoan dung. Nhưng, nhìn chung trong những ngà y đầu năm, người ta kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa. Quanh năm là m ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngà y Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đặm đà ý vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn quá câu nệ, công thức ruờm rà , không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm và i món thức ăn gì đó chủ mời vui lòng, năm mới từ chối sợ bị giông cả năm. Quà Tết, lễ Tết: Bình thường qua lại hỏi thăm nhau có khi cũng có quà , biểu lộ mối ân tình, nhưng phong tục ta đi lễ Tết vẫn có ý nghĩa hơn, nhất là đi trước Tết cà ng quý. Loại trừ động cơ hối lộ quan trên để cầu danh cầu lợi thì việc biếu quà Tết, tổ ân nghĩa tình cảm là điều đáng quý. Học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... quà biếu, quà Tết đó không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó, câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: Không có quà , ngại không dám đến. Dân tộc ta tuy nghèo nhưng vẫn trọng nghĩa tình, “Lời chà o cao hơn mâm cỗ”. Lễ mừng thọ: ở các nước Tây Âu thường mừng thọ và o dịp kỷ niệm ngà y sinh, ở ta ngà y xưa ít ai nhớ chính xác ngà y sinh tháng đẻ nên và o dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thấp tuần, cửu tuần... tính theo tuổi mụ. Ngà y tết ngà y Xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui. Cũng và o dịp đầu xuân, người có chức tước khai ẩn, học trò sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công, người buôn bán mở hà ng lấy ngà y: Sĩ, Nông, Công, thương “Tứ dân bách nghệ” của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hà nh thôn là m ăn suôn sẻ, đầu xuân chọn ngà y tốt đẹp, bắt tay lao động sớm, tránh tình trạng cờ bạc, rượu chè, hội hè đình đám, vui chơi quá đà . Sau ngà y mồng một, dù có mãi vui tết, hoặc còn kế hoạch du xuân, đón khách, cũng chọn ngà y “Khai nghề”, “Là m lấy ngà y”. Nếu như mồng một là ngà y tốt thì chiều mồng một đã bắt đầu. Riêng khai bút thì gi­ao thừa xong, chọn giờ hoà ng đạo bắt đầu không kể mồng một là ngà y tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự là m cho gia đình mình một sản phẩm, dụng vụ gì đó (nguyên vật liệu đã chuẩn bị sẵn). Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngà y tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân. Cờ bạc: Ngà y xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp tết, nhất là tối 28, 29; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì ông bố cho phép vui chơi, có cả trẻ con người lớn những nhà hà ng xóm, những gia đình thân cận cùng vui. Tam cúc, cơ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm... ai thích trò nà o chơi trò ấy. Đế lế khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bà n cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hoá và ng. Tóm lại, ngà y Tết là ngà y tiêu biểu cho truyền thống... Điều 99 : Vì sao có tục kiêng hót rác đổ đi trong 3 ngà y tết ? Trong “Sưu thần ký” có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thủy thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà được và i năm thì già u to. Một hôm, nhân ngà y mồng một Tết, Âu Minh đánh nó, nó chui và o đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Kể từ đó kiêng không dám hót rác ngà y Tết. Tục kiêng hót rác ba ngà y Tết nên ngà y 30, dầu bận... Điều 100 : Tại sao cúng gi­ao thừa ngoà i trời ? Dân tộc nà o cũng coi phút gi­ao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toà n bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngà i có vị trí như quan toà n quyền. Năm nà o quan toà n quyền giỏi gi­ang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: Được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật... Trái lại, gặp phải ông lười biếng kém cỏi, tham lam... thì hạ giới chịu mọi thứ khổ. Và các cụ hình dung phút gi­ao thừa là lúc bà n gi­ao, các quan quân quản hạ giới hết hạn kéo về trời và quan quân mới được cử thì à o ạt kéo xuống hạ giới tiếp quản thiên hạ. Các cụ cũng hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan, quân còn chưa kịp ăn uống gì. Nhưng phút ấy, các gia đình đưa xôi gà , bánh trái, hoa quả, toà n đồ ăn nguội ra ngoà i trời cúng, với lòng thà nh tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống là m nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bà n gi­ao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể và o trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng và i giây ăn vội và ng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thà nh của chủ nhà . Ví cứ tưởng tượng thêm thắt các hình ảnh nhà trời theo mình như vậy nên nhiều nhà có của đua nhau cúng gi­ao thừa rất to và nghĩ cách là m mâm cúng gi­ao thừa nổi lên bởi những của ngon vật lạ, trang trí cầu kỳ để các quan chú ý, quan tâm đến chủ hảo tâm mà phù hộ cho họ với những ưu ái đặc biệt. Biết thấu tâm lý của người già u, các cụ ta đã có... Điều 101 : Tại sao có tết « Hà n Thực » ? Theo phong tục cổ truyền, ngà y mồng 3 tháng 3 tức Tết Hà n Thực, ta là m bánh chay. Tết nà y có xuất xứ từ bên Trung Quốc, là m giỗ ông Giới Tử Thôi, một hiền sĩ có công phò Tần Văn Công, bị chết cháy ở núi Điền Sơn. Cũng như ngà y mồng năm tháng năm tết Đoan Dương cũng xuất xứ từ bên Trung Quốc là m giỗ ông Khuất Nguyên bị chết trôi ở sông Mịch La. Ngà y nay người Trung Quốc đã bỏ lễ đó mà ta còn giữ mãi. Đà nh rằng dân ta theo tục đó nhưng khi cúng chỉ cúng gia tiên nhà mình, chẳng nhắc gì tới ông Giới Tử Thôi hay Khuất Nguyên Nữa. Ở nước ta có bao nhiêu lương thần, dũng tướng, hiền sĩ... Điều 102 : Tết Đoan Ngọ (mùng 5 tháng 5 âm lịch) có những phong tục gì ? Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được coi trọng, xếp và o hà ng thứ hai sau Tết Nguyên Đán. Vì vậy các cụ thường nói “Mồng 5 ngà y Tết”. Học trò tết thầy, còn rể tết bố mẹ vợ... quanh năm cũng chỉ tập trung và o hai lễ Tết đó. Tết Đoan Dương còn nhiều tục lưu truyền đến nay; sáng sớm... Điều 103 : Có ngà y tốt hay xấu không ? Viết về phong tục cổ truyền mà cố tình lảng tránh vấn đề nà y, ắt không thoả mãn yêu cầu của số đông bạn đọc, vì lễ cưới, lễ tang, xây nhà dựng cửa, khai trương, xuất hà nh... còn nhiều ngươi, nhiều nơi chú trọng ngà y là nh. Đó là một thực tế. Ngặt vì có một số người bà i bác hẳn, cho là gieo rắc mê tín dị đoan; một số khác lại quá mê tín, nhất là việc lớn việc nhỏ, việc gì cũng chọn ngà y, từ việc mua con lợn, là m cái chuồng gà , cắt tóc cho con, đi khám bệnh... mọi điều may rủi đều đổ lỗi cho việc không chọn ngà y, chọn giờ. Một số đông khác tuy bản thân không tin nhưng chiều ý số đông, là m ngơ để cho vợ con đi tìm thầy lễ, thầy cúng định ngà y giờ xét thấy không ảnh hưởng gì nhiều, hơn nữa, để tránh tình trạng sau nà y lỡ sẩy ra sự gì không là nh lại đổ lỗi cho mình “Báng”. Thế tất một năm, năm mười năm, đối với một người đã đà nh, đối với cả nhà , cả chi họ là m sao hoà n toà n không gặp sự rủi ro!. ngà y tốt, ngà y xấu về khí hậu thời tiết thì dự báo của cơ quan khí tượng là đáng tin cậy nhất. Khoa học đã dự báo được hà ng trăm năm những hiện tượng thiên nhiên như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, sao băng... chính xác đến từng giờ phút. Nhưng tác động của tự nhiên sẽ tạo nên hậu quả xấu đối với từng người, từng việc, từng vùng ra sao, đó còn là điều bí ẩn. thời xưa, các bậc trí giả tranh cãi nhiều vẫn chưa ngã ngũ nên ai tin cứ tin, ai không tin thì tuỳ “Linh tại ngã, bất linh tại ngã” (cho rằng thiêng cũng đã tự mình ra, cho rằng không thiêng, cũng tự mình ra), “Vô sư vô sách, quỉ thần bất trách” (không biết vì không có thầy, không có sách, quỷ thần cũng không trách). Thực tế, có ngà y mọi việc mọi điều đều thà nh công, nhiều điều may mắn tự nhiên đưa tới; có ngà y vất vả sớm chiều mà chẳng được việc gì, còn gặp tai nạn bất ngờ. Phép duy vật biện chứng giải thích đó là qui luật tất nhiên và ngẫu nhiên. Trong tất nhiên có yếu tố ngẫu nhiên, trong ngẫu nhiên cũng có yêú tố tất nhiên. Lý luận thì như vậy nhưng có bạn đọc cũng muốn biết cụ thể trong tháng nà y, ngà y nà o tốt, ngà y nà o xấu, ngà y nà o tốt cho việc là m nhà , cưới vợ, tang lễ phải chánh giờ nà o...Đa số bà con ta vẫn nghĩ “có thờ có thiêng, có kiêng có là nh”, nhất là khi điều khiêng đó không ảnh hưởng gì mâý tới công việc cũng như kinh tế... Thời xưa, mặc dầu có người tin, có người không tin, toà Khâm thiên giám ban hà nh “Hiệp kỷ lịch”, mà số người biết chữ Hán khá nhiều nên phần đông các gia đình cứ dựa và o đó mà tự chọn ngà y giờ. Thời nay, rải rác ở các là ng xã, còn sót lại một và i người còn biết chữ Hán nhưng sách vở cũ hầu như không còn, các gia đình muốn xem ngà y giờ để định liệu những công việc lớn đà nh mất công tốn của tìm thầy. Khốn nỗi, mỗi thầy phán một cách, chẳng biết tin ai. Đã có trường hợp, bốn ông bà thông gia vì việc chọn ngà y tốt xấu, tuổi hợp tuổi xung, tranh cãi nhau phải chia tay để lại mối hận tình. Gần đây trên thị trường xuất hiện cuốn sách viết về cách xem ngà y tính giờ. Cũng có tác giả có kiến thức, có tư liệu, viết rất thận trọng, nhưng ngược lại có người viết rất cẩu thả, dựa theo thị hiều thương trường, vô căn cứ với động cơ kiếm tiền bất chính. Có cuốn sách tốt xấu, thực hư lẫn lộn, không có tên nhà xuất bản, không có tên tác giả, không ghi xuất xứ của tư liệu...Cùng một ngà y, cuốn nà y, ghi nên xuất hà nh, cưới hỏi, cuốn khác ghi kỵ xuất hà nh, cưới hỏi, là m người xem rất hoang mang. “Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay”, biết tin và o đâu? Biết tìm ai mà hỏi? Để đáp ứng nhu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi xin trích dẫn một số tư liệu khoa học và toà n văn bà i “Xem ngà y kén giờ” của học giả Phan kế Bính đăng trong cuốn “Việt Nam phong tục”xuất bản năm 1915, tái bản năm 1990 tại nhà xuất bản thà nh phố Hồ Chí minh và chúng tôi xin có phần chủ giải (cũng bằng những câu hỏi). Nhưng trước khi xem nên nhắc lại các bạn: “Khi gia đình có việc hệ trọng, cần nhiều người tham dự thì cà ng thận trọng cà ng hay, nhưng chớ quá câu nệ nhiều khi nhỡ việc. Mỗi người một thuyết, mỗi thầy một sách, rối rắm quá, có khi cả tháng không chọn được ngà y tốt. Xem như trong cuốn ”Ngọc hạp kỷ yếu" không có một ngà y nà o hoà n toà n tốt, hoặc hoà n toà n xấu đối với mọi người, mọi việc, mọi địa phương. Có ngà y tối ngà y xấu không? Có những bạn đọc hỏi: Chúng ta đã từng phê phán và sẽ tiếp tục phê phán mọi loại thầy bói, mê tín dị đoan, bịp bợm. Nhưng gần đây lại thấy nhiều người bảo: Khoa học có thể tính toán để biết trước ngà y tốt, ngà y xấu, thực hư ra sao? Thầy bói là người hà nh nghề mê tín, biết nắm tâm lý. “Bắt mạch” đối tượng (qua nét mặt, lời nói, chi tiết trình bà y và những câu thăm dò...). Nhưng bà i viết nà y không nói về họ mà chỉ điểm qua những điều khoa học dự tính để biết trước ngà y là nh, tháng tốt... của mỗi người. Nhịp sinh học - đặc điểm của sự sống: Nghiên cứu mọi cơ thể sống đều thấy hoạt động của chúng không phải lúc nà o cũng giống lúc nà o mà có khi mạnh khi yếu, khi nhanh khi chậm... Những thay đổi đó nhiều khi xảy ra rất đều đặn và liên tiếp thà nh chu kỳ, còn gọi là nhịp sinh học: Có nhịp ngà yđêm, nhịp tháng (liên quan đến âm lịch) nhịp mùa xuân, hạ, thu, đông... Các nhịp sinh học có tính di truyền. Pháp hiện ra các nhịp sinh học người ta nhận thấy các quá trình sinh lý trong cơ thể có thể biến đổi theo thời gi­an. Sự biến cố đó có tính chất chu kỳ và tuần hoà n (lặp đi lặp lại khá đều đặn). Nghiên cứu về sự chết và tỷ lệ chết của con người, thấy có nhiều biến đổi tuỳ thuộc và o nguyên nhân gây chết. Thí dụ: Và o khoảng 3-4 giờ sáng áp suất máu thấp nhất, não được cung cấp lượng máu ít nhất nên người bệnh hay bị chết nhất. Các cơn động kinh thường có giờ. Bệnh nhân hen cũng thườg lên cơn hen về đêm và o khoảng 2-4 giờ sáng (trùng với thời gi­an bà i tiết cóc- ti-​cô-ít ra nước tiểu xuống tới mức thấp nhất). Cơn hen về đêm nặng hơn cơn hen ban ngà y. Những biến đổi có tính chất chu kỳ hà ng năm thì có nguy cơ chết về đau tim cao nhất là và o tháng giêng đối với một số nước ở bán cầu phía Bắc. Cao điểm hà ng năm của các vụ tự tử ở bang Min-​ne-​so-​ta cũng như ở Pháp là và o tháng 6. Hai nhà khoa học An-​đơ-​lô-ơ và Mét đã phân tích 3620 trường hợp tai nạn lao động và thấy là m ca đêm ít tai nạn hơn là m ca sáng và chiều. Ngà y vận hạn của mỗi người: Trên cơ sở tính toán ảnh hưởng của các yết tố vũ trụ lên trái đất và bằng phương pháp tâm sinh lý học thực nghiệm, người ta đã rút ra kết luận là từ khi ra đời, cuộc sống của mỗi người diễn ra phù hợp với ba chu kỳ riêng biệt: Chu kỳ thể lực: 23 ngà y, chu kỳ tình cảm 28 ngà y, chu kỳ chí tuệ 33 ngà y. Mỗi chu kỳ gồm hai bán chu kỳ dương và âm. Bán chu kỳ dương (1/2 số ngà y của đầu chu kỳ) được đặc trưng bằng sự tăng cường khả năng lao động. Còn bán chu kỳ âm (1/2 số ngà y cuối chu kỳ)thì các hiện tượng đều ngược lại. Cả ba chu kỳ trên đều chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm. Ngà y trùng với điểm chuyển tiếp nà y là ngà y xấu nhất của mỗi chu kỳ. Thực tế đã chứng minh: Đối với chu kỳ tình cảm, vô cớ. Đối với chu kỳ trí tuệ, đó là ngà y đãng trí, khả năng tư duy kém. Đặc biệt đối với chu kỳ thể lực, đó là ngà y thường sảy ra tai nạn lao động. Đối với hai chu kỳ, số ngà y chuyển tiếp trùng nhau chỉ xảy ra một lần trong một năm. Ngà y trùng hợp đó của ba chu kỳ là ngà y xấu nhất, có thể coi là ngà y “Vận hạn” của mỗi người. Nếu biết ngà y, tháng, năm sinh của mỗi người, nhờ máy tính điện tử có thể dễ dà ng xác định được các chu kỳ, điểm chuyển tiếp và sự trung hợp điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ. Công ty gi­ao thông của Nhật Bản Omi Reil­vei đã áp dụng thà nh tựu và o bảo vệ an toà n gi­ao thông. Họ đã xác định các chu kỳ, các điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ của từng người lái và báo cho lái xe biết trước những “ngà y xấu” để họ phòng tránh. Nhờ đó số tai nạn gi­ao thông ở Nhật Bản đã giảm đi rất nhiều, đặc biệt và o đầu năm áp dụng (969-1970) số tai nạn gi­ao thông đã giảm hản 50%. Theo Cup-​ria-​nô-vích (Liên Xô cũ) thì giả thuyết về nhịp tháng của các quá trình sinh học xác định ba trạng thái của cơ thể, không chỉ áp dụng ở Nhật Bản mà còn được áp dụng ở nhiều nước Tây Âu và o công tác an toà n, gi­ao thông nói riêng, an toà n lao động nói chung. Các vấn đề trên đây không phải là “thầy bói nói mò” mà dựa và o một dữ kiện thực tế nhất định. Nó cũng phù hợp với nhận thức về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố địa vật lý vũ trụ với các quá trình hoạt động chức năng của cơ thể. (Bác sĩ Vũ Định- Trích báo “Hà nội mới chủ nhật” số 73) Vua Trần Minh Tông với việc chọn ngà y là m lễ an táng mẹ. Năm 1332 Thuận thánh Bảo từ Hoà ng Thái Hậu mất. Con là ... Rốt cuộc vẫn cử hà nh lễ an táng. Điều 104 : Xem ngà y kén giờ Việc cưới xin, việc là m nhà cửa, việc vui mừng khai hạ, việc xuất hà nh đi xa, việc khai trương cửa hà ng, cửa hiệu, việc gieo mạ cấy lúa, việc tế tự, việc thương biểu, việc nhập học, việc xuất quân, việc an táng... việc gì thường cũng bắt đầu là m việc gì, hoặc động thổ hoặc xuất hà nh, hoặc khai bút, khai ấn... lại cần xem ngà y lắm. Đến những việc vụn vặt như cạo đầu xỏ tai cho trẻ thơ, việc tắm gội, may áo... cũng có người cẩn thận quá trong kén ngà y. Kén thì phải xem đến lịch. Sách lịch do toà khâm thiên giám soạn ra. Mỗi năm về ngà y mồng một tháng chạp, Hoà ng Đế ngự điện khai trà o, các quan Khâm thiên giám cung tiến Hiệp Kỷ Lịch, rồi khâm mạng vua mà ban lịch khắc nơi... ... Ban lịch trọng thể nhất là để cho thiên hạ biết chính xác nhất tiết khí, tháng thiếu tháng đủ, ngà y tốt ngà y xấu, để tuân hà nh được đều nhau. Đại để ngà y nà o có nhiều sao cát tinh như thiên đức, nguyệt đức, thiên ân, thiên hỷ... hoặc là ngà y trực khai, trực kiến, trực bình, trực mãn thì là ngà y tốt. Ngà y nà o có những sao hung tính như sao trùng tang, trùng phục, thiên hình, nguyệt phá thì là ngà y xấu. Kiêng nhất là ngà y sát chủ, ngà y thụ tử, việc gì cũng phải tránh. Mỗi tháng có ba ngà y là ngà y năm, mười bốn, hai mươi ba, gọi là ngà y nguyệt kỵ, việc gì cũng nên kiêng và nhất là nên kiêng nhập phòng. Trong một năm lại có mười ba ngà y gọi là ngà y Dương công kỵ nhật, hết thảy việc gì cũng phải tránh những ngà y ấy. Những ngà y ấy là : Ngà y 13 tháng giêng – Ngà y 11 tháng hai Ngà y 9 tháng ba – Ngà y 7 tháng tư Ngà y 5 tháng năm – Ngà y 3 tháng sáu Ngà y 8, 29 tháng bảy – Ngà y 27 tháng tám Ngà y 25 tháng chín – Ngà y 23 tháng mười Ngà y 21 tháng một – Ngà y 19 tháng chạp Hễ phạm phải ngà y ấy thì việc gì cũng hư hỏng không thà nh. Phà m việc lại cần kén ngà y hợp mệnh, mà kiêng ngà y tuổi. Ngoại giả lại còn những ngà y thập linh, ngà y đức hợp là tốt, ngà y thập ác đại bại, ngà y tứ lỵ, ngà y tứ tuyệt là xấu Nói qua mâý việc dân gi­an cần dùng nên kén nên kỵ. Cưới xin nên tìm ngà y thiên đức, nguyệt đức, kỵ ngà y trực phá, trực nguy. Là m nhà nên tìm ngà y thiên ân. Thiên hỷ, kỵ ngà y thiên hoả, địa hoả và ngà y kim lâu. Xuất hà nh nên tìm ngà y lộc mã, hoà ng đạo, kỵ ngà y trức phá, trực bế. An táng nên tìm ngà y thiên hỷ, thiên đức, kỵ ngà y tử khí quan phù... Còn như kén giờ thì việc gì lúc mới bắt đầu như lúc mới xuất hà nh, lúc mới ra ngõ đi cưới, lúc mới dựng nhà , lúc hạ huyệt... Thường đều kén lấy giờ hoà ng đạo. Phép tính giờ hoà ng đạo phải nhớ bốn câu thơ: Dần, thân gia tý; mão dậu dần Thìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thân; Tị, hợi thiên cương tầm ngọ vị Sửu mùi tòng tuất định kỳ chân Lại cần phải nhớ hai câu: Đạo viễn kỷ thời thông đạt Lộ dao hà nhật hoà n trình. Lúc đánh giờ trước hết phải biết ngà y gì, rồi dùng hai câu thơ dưới mà bấm theo giờ ở bốn câu thơ trên. Hễ bấm mà gặp cung nà o có chữ “đạo, viễn, thông, đạt, dao hoà n” thì giờ ấy là giờ hoà ng đạo... ... Xét phép chọn ngà y, từ đời Đường, Ngu, Tam đại đã có. Song khi bấy giờ thì chỉ tuỳ việc mà chọn ngà y: Nội sự dụng nhu, ngoại sự dụng cương. Nội sự là việc trong như việc tế tự cưới xin... thì dùng những ngà y âm can là các ngà y: ất, đinh, kỷ, tân, quý. Ngoại sự là việc ngoà i như đánh dẹp, gi­ao thiệp... thì dùng ngà y dương can là các ngà y: Giáp, bính, mậu, canh, nhâm. Dùng như thế chỉ có ý là m các việc êm ái, hoà nhã thì theo về ngà y âm, việc cứng cáp mạnh mẽ thì theo về ngà y dương, nghĩa kén lấy ngà y có chút ý nghĩa hợp với nhau mà thôi. Đến đời sau các nhà âm dương thuật số mỗi ngà y mới bà y thêm ra ngà y tốt, ngà y sao xấu, ngà y nà y nên là việc nọ, ngà y kia nên là m việc kia. Hết ngà y rồi lại có giờ sinh, giờ hợp, giờ xung, giờ khắc, động là m việc gì cũng phải xem ngà y, kén giờ, thực là một việc phiền toái quá. Đã đà nh là m việc gì cũng nên cẩn thận, mà chọn từng ngà y, kén từng giờ mà phí câu nệ khó chịu. Mà xét cho kỹ thì có ích gì đâu, chẳng qua việc thà nh hay bại cốt do ở người chớ có quan hệ gì ngà y tốt hay ngà y xấu. Nếu cứ chọn ngà y giờ mà nên việc thì không cần gì phải dùng đến sức người nữa hay sao ? (Trích "Việt Nam phong tục" Phan Kế Bính) Điều 105 : Chú giải bà i « xem ngà y, kén giờ » của Phan Kế Bính Đọc bà i xem ngà y, kén giờ của Phan Kế Bính, bạn đọc trẻ tuổi thời nay sẽ có một số thắc mắc: Phan Kế Bính là một nhà trí thức tiến bộ (1875-1921) học vấn uyên thâm, đỗ cử nhân Hán học (1906). Lại am tường văn minh Đông Tây, đã có nhiều cống hiến trong công cuộc khảo cứu văn học và lịch sử. Ông khuyên ta không nên mê tín quá và o việc xem ngà y kén giờ, nhưng tại sao không bà i bác thẳng thừng mà còn hướng dẫn người đọc: cưới xin, là m nhà , khai trương, xuất hà nh, an táng nên tìm ngà y gì, kị ngà y gì và bà y cách chọn giờ hoà ng đạo. Trong bà i có nói đến nhiều cát tinh (sao tốt), hung tinh (sao xấu), các ngà y trực tốt trực xấu. Vậy sao không hướng dẫn cụ thể nên những người đọc muốn kén ngà y, giờ vẫn phải đi tìm thầy, nhiều khi vừa tốn kém lại vừa bị lừa bị bịp. Theo thiển ý chúng tôi: Ông không đi sâu giải thích từng cát tinh hung tinh vì trong thời kỳ đầu thế kỷ đã có bản niên giám ban hà nh nhiều năm và nhiều người biết tiếng Hán xenm được. Nhằm giải đáp những thắc mắc trên và giúp bạn trẻ thời nay hiểu thêm về một số vấn đề mà học giả Phan Kế Bính đã đề cập tới, trong phần chú giải dưới đây, chúng tôi dựa theo những tư liệu bằng tiếng Hán đã được lưu truyền như “Vạn niên lịch”, “Ngọc hạp kỷ yếu”, “Chư gia tuyển trạch nhật”, “Đổng công trạch nhật”,“Vạn bảo toà n thư” đối chiếu với lịch thế kỷ XX của nha khí tượng và một số bà i viết của các nhà khoa học để là m nhiệm vụ biên khảo, dẫn giải tiếp bà i viết của Phan Kế Bính. Thực ra muốn trả lời cho thật đầy đủ và cụ thể phải đi sâu và o chiêm tinh học cổ đại mà cuốn sách nà y chưa thể đáp ứng. Có những cách tính ngà y tốt xấu cơ bản như sau: Tính theo tháng âm lịch và ngà y can chi: - Các sao tốt: Thiên đức, nguyệt đức (lục hợp), thiên giải, thiên hỷ, thiên quý (yếu yên),tam hợp (ngũ phú). Theo quan niệm xưa, những ngà y có các sao nà y chiếu thì là m việc gì cũng tốt. Ngoà i ra còn có các sao: Sinh khí (thuận việc là m nhà , sửa nhà , động thổ), thiên thà nh (cưới gả gi­ao dịch tốt), thiên quan (xuất hà nh gi­ao dịch tốt), lộc mã (xuất hà nh di chuyển tốt), phúc sinh (được phúc tốt), giải thần (giải trừ các sao xấu), thiên ân (được hưởng phúc ân, là m nhà , khai trương)... Theo thứ tự lần lượt từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một, chạp thì các sao tốt sẽ chiếu và o các ngà y như sau: Thiên đức: Tị, mùi, dậu, hợi, sửu, mão, tị, mùi, dậu, hợi, sửu, mão. (1) Nguyệt đức: Hợi, tuất, dậu, thân, mùi, ngọ, tị, thìn, mão, dần, sửu, tý. Thiên giải: Ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn. Thiên hỷ: Tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu. Thiên quí: Dần, thân, mão, dậu, thìn, tuất, tị, hợi, ngọ, tý, mùi, sửu. Tam hợp: Ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị. Sinh khí: Tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Thiên thà nh: Mùi, dậu, hợi, sửu, mão, tị, mùi, dậu, mùi, sửu, mão, tị. Thiên quan: Tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân. Lộc mã: Ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn. Phúc sinh: Dậu, mão, tuất, thìn, hợi, tị, tý, ngọ, sửu, nùi, dần, thân. Giải thần: Thân, thân, tuất, tuất, tý, tý, dần, dần, thìn, thìn, ngọ, ngọ. Thiên ân: Tuất, sửu, dần, tị, dậu, mão, tý, ngọ, thân, thìn, thân, mùi. -------------------------------------------- Có nghĩa là : Sao thiên đức chiếu và o những ngà y tị của tháng giêng, ngà y mùi của tháng hai, ngà y dậu của tháng ba... Các sao khác cũng xem như vậy. Các sao xấu: (mỗi tháng tính theo ngà y âm có ba ngà y nguyệt kỵ là mồng 5, 14, 23 và 6 ngà y tam nương là ngà y 3, 7, 13, 18, 22, 27). Các sao xấu khác tính theo tháng âm lịch và ngà y can chi như: Thiên cương, thụ tử, đại hao, tử khí, quan phù (xấu trong mọi việc lớn), tiểu hao (kỵ xuất nhập, tiền tà i), sát chủ, thiên hoạ, địa hoả, hoả tai, nguyệt phá (kiêng là m nhà ), băng tiêu ngoạ giải (kiêng là m nhà và mọi việc lớn), thổ cấm (kiêng động thổ), vãng vong (kiêng xuất hà nh giá thú), cô thần, quả tú (kiêng giá thú), trùng tang trùng phục (kỵ hôn nhân, mai táng, cải táng). Theo thứ tự từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, một, chạp thì các sao xấu chiếu như sau: Thiên cương: Tị, tý, mùi, dần, dậu, thìn, hợi, ngọ, sửu, thân, mão, tuất. Thụ tử: Tuất, thìn, hợi, tị, tý, ngọ, sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu. Đại hao : tử khí, quan phù: Ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị. Tiểu hao: Tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn. Sát chủ: Tý, tị, mùi, mão,thân, tuất, sửu, hợi, ngọ, dậu, dần, thìn. Thiên hoả: Tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu. Địa hoả: Tuất, dậu, thân, mùi, ngọ, tỵ, thìn, mão, dần, sửu, tý, hợi. Hoả tai: Sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu, thìn, tuất, tị, hợi, tý, ngọ. Nguyệt phá: Thân, tuất, tuất, hợi, sửu, sửu, dần, thìn, thìn, tị, mùi, mùi. Băng tiêu ngoạ giải: Tị, tý, sửu, thân, mão, tuất, hợi, ngọ, mùi, dần, dậu, thìn. Thổ cấm: Hợi, hợi, hợi, dần, dần, dần, tị, tị, tị, thân, thân, thân. Thổ kỵ : vãng vong: Dần, tị, thân, hợi, mão, ngọ, dậu, tý, thìn, mùi, tuất, sửu. Cô thần: Tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu. Quả tú: Thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão. Trùng tang: Giáp, ất, mậu, bính, đinh, kỷ, canh, tân, kỷ, nhân, quý, mậu. Trùng phục: Canh, tân, kỷ, nhâm, quí, mậu, giáp, ất, kỷ, bính, đinh, mậu. Mỗi năm có 13 ngà y dương công (xấu). Tính theo ngà y tiết: 4 ngà y ly và 4 ngà y tuyệt (xấu) Mỗi năm có 4 ngà y tứ ly (trước tiết xuân phân, thu phân, đông chí, hạ chí một ngà y), 4 ngà y tứ tuyệt (trước tiết lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông một ngà y). Tính theo ngà y trực: - Trong 12 ngà y trực có 6 ngà y tốt (trực kiến (1), trực mãn (3), trực bình (4), trực định (5), trực thà nh (9), trực khai (11), 3 ngà y thường (trực chấp (6), trực trừ (2), trực thu (10), 3 ngà y xấu (trực phá (7), trực nguy (8), trực bế (12). Tính theo nhị thập bát tú: - Trong 28 ngà y có 14 ngà y tốt, 14 ngà y xấu nhưng nhị... Điều 106 : Thế nà o là âm dương, ngũ hà nh ? 1. Thế nà o là “Âm dương”? Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gi­an cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toà n vũ trụ cũng như trong từng tế bà o, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong dương có mầm mống của âm và ngược lại. 2. Thế nà o là “Ngũ hà nh”? Theo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên trong thế giới nà y đều do năm yếu tố ban đầu là nước, lửa, đất, cây cỏ và kim loại. Tức năm hà nh thuỷ, hoả, thổ, mộc, kim. Để giúp các bạn dể nhớ ngũ hà nh tương sinh và tương khắc, chúng tôi nêu thí dụ mộc mạc đơn giản theo vần thơ như sau: Ngũ hà nh sinh : Thuộc lẽ thiên nhiên. Nhờ nước cây xanh mọc lớn lên (thủy sinh mộc) Cây cỏ là m mồi nhen lửa đỏ (mộc sinh hỏa) Tro tà n tích lại đất lại và ng thêm (hỏa sinh thổ) Lòng đất tạo nên kim loại trắng (thổ sinh kim) Kim loại và lò chảy nước đen (kim sinh thủy) Ngũ hà nh tương khắc : Lẽ xưa nay Rễ cỏ đam xuyên lớp đất dà y (mộc khắc thổ) Đất đắp đê cao ngăn nước lũ (thổ khắc thủy) Nước dội nhiều nhanh dập lửa ngay (thủy khắc hỏa) Lửa lò nung chảy đồng sắt thép (hỏa khắc kim) Thép cứng rèn dao chặt vỏ cây (kim khắc mộc) Thuyết âm dương Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự biến hoá không ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lương nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là cà n, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoà i). Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Để biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, người xưa đặt ra “thuyết âm dương”. Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nà o mà thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật, nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hoá và phát triển của sự vật. Nói chung, phà m cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoà i, hướng lên, vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương. Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu hình, lạnh lẽo, đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm. Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con sâu, con bọ, cây cỏ, đều được qui và o âm dương. Ví dụ về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngà y, mùa xuân, hè, đông, nam, phía trên, phía ngoà i, nóng, lửa, sáng. Thuộc âm ta có: Mặt trăng, ban đêm, thu, đông, tây, bắc, phía dưới, phía trong, lạnh nước, tối. Trong con người, dương là mé ngoà i, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí, vệ; Âm là mé trong, trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vinh. Âm dương tuy bao hà m ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hà m cả ý nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có mầm mống của dương, trong dương lại có mầm mống của âm. (Trích “Cây thuốc vị thuốc VN.” của Đỗ tất Lợi) Thuyết ngũ hà nh Thuyết ngũ hà nh về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã giới thiệu trong thuyết âm dương, nhưng bổ xung và là m cho thuyết âm dương hoà n bị hơn. Ngũ hà nh là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp nhau mà tạo nên. Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống. Hoả là lửa thì bùng cháy, bốc lên. Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng. Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay. Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được. Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hà nh bao gồm hai phương diện giúp đỡ nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương sinh, tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp của sự vật. Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng. Đem ngũ hà nh liên­hệ với nhau thì thấy 5 hà nh có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau. Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy tiếp diễn mãi. Thúc đẩy sự phát triển không bao giờ ngừng. Trong luật tương sinh của ngũ hà nh còn bao hà m ý nữa là hà nh nà o cũng có quan hệ vệ hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Ví dụ kim sinh thuỷ thì kim là mẹ của thuỷ, thuỷ lại sinh ra mộc vậy mộc là con của Thuỷ. Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý thăng bằng, giữ gìn lẫn nhau. Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong qui luật tương khắc thì mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ lại khắc hoả, hoả lại khắc kim, kim khắc mộc, và mộc khắc thổ và cứ như vậu lại tiếp diễn mái. Trong tình trạng bình thường, sự tưong khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì là m cho sự biến hoá trở lại khác thường. Trong tương khắc, môĩ hà nh cũng lại có hai quan hệ:Giữa cái thắng nó và cái nó thắng. Ví dụ mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim khắc nó. Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển. Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong chế hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng nà y gắn liền với nhau. Lẽ tạo hoá không thể không có sinh mà cũng không thể không có khắc. Không có sinh thì không có đâu mà nảy nở; không có khắc thì phát triển quá độ sẽ có hại. Cần phải có sinh trong khắc, có khắc trong sinh mới vận hà nh liên tục, tương phản, tương thà nh với nhau. Quy luật chế hoá ngũ hà nh là : Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc. Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả. Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộck­hắc thổ. Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim. Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ. Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hà nh. Nó biểu thị sự cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc thái quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Coi bảng dưới đây chúng ta thấy mỗi hà nh đều có mối liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó sinh ra, cái khắc nó và cái bị nó khắc. Ví dụ: Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim, kim lại khắc mộc. Vậy như nếu mộc khắc thổ một cách quá đáng, thì con của thổ là km tất nhiên nổi dậy khắc mộc kiểu như con báo thù cho mẹ. Nghĩa là bản thân cái bị có đầy đủ nhân tố chống lại cái khắc nó.Cho nên, mộc khắc thổ là để tạo nên tác dụng chế ức, mà duy trì sự cân bằng. Khắc và sinh đều cần thiết cho sự giữ gìn thế cân bằng trongth­iên nhiên. Cũng trong bảng quan hệ chế hoá, chúng ta thấy mộc sinh hoả; nếu chỉ nhìn hà nh mộc không thôi, thì như mộc gánh trọng trách gây dựng cho con là hoả, nhưng nhờ có hoả mạnh, hạn chế bớt được sức của kim là một hà nh khắc mộc. Như vậy mộc sinh con là hoả, nhưng nhờ có con là hoả mạnh mà hạn chế bớt kim là m hại mộc do đó mộc giữ vững cương vị. Điều 107 : « Thiên can địa chi » là gì ? 1. Mười thiên can: Theo thứ tự từ 1 đến 10 là : Giáp(1), ất (2), bính (3), đinh(4), mậu (5) kỷ (6), canh(7), tân (8), nhâm (9), quí (10). - Số lẻ là dương can (giáp, bính mậu, canh, nhâm) - Số chẵn là âm (ất, đinh, kỷ, tân, quí) - Ngà y lẻ (dương can) là ngà y cương (đối ngoại) - Ngà y chẵn (âm can) là ngà y cương (đối nội) - Những cặp đối xung: Giáp và kỷ, ất và canh, bính và tân, đinh và nhâm, mậu và quí. 2. Mười hai địa chi: Theo thứ tự từ 1 đến 12 là : Tý (1), sửu (2), dần (3) , mão (4), thìn (5), tỵ (6), ngọ (7), mùi (8), thân (9),dậu (10), tuất (11), hợi (12). -Số lẻ là dương chi chỉ kết hợp với âm can. - Ví dụ: Giáp tý, canh ngọ.... - Số chẵn là âm chi chỉ kết hợp với âm can Ví dụ: Tân sửu, quí mùi... - Những cặp đối xung: Tý và ngọ, sửu và mùi, dần và thân, mão và dậu, thìn và tuất, tị và hợi (nghĩa là hơn kém nhau 6). - Tương hợp: có hai loại, nhị hợp và tam hợp. Nhị hợp: Tý - sửu, Mão - tuất, Tị - thân, Dần- hợi, Thìn- dậu, Ngọ- mùi Tam hợp: Thân - tý - thìn, Dần - ngọ- tuất, Hơi- mão - mùi, Tị -dậu - sửu Như vậy mỗi chi chỉ có một xung (ví dụ tý xung ngọ), ba... Điều 108 : « Lục thập hoa giáp » là gì ? Lục thập hoa giáp là sự kết hợp 6 chu kỳ hà ng can với 5 chu kỳ hà ng chi thà nh hệ 60 Cách tính năm, tháng, ngà y, giờ đều theo hệ số đó, gọi là lịch can chi. có 6 chu kỳ hà ng can tức là có 6 giáp mà mỗi chu kỳ hà ng can hay mỗi giáp gồm 10 can (đó là : Giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quí) nên gọi là lục thập hoa giáp. Năm: Hết một vòng 60 năm từ giáp tý đến quí hợi. Từ năm thứ 61 trở lại giáp tý, năm thứ 121,181 ... cũng trở lại giáp tý. Đó là một điều trở ngại cho việc nghiên cứu sử, nếu không ghi chiều vua nà o thì rất khó xác định. Một gia đình có ông và cháu cùng một tuổi, có khi tính tuổi cháu nhiều hơn tuổi ông, vậy nên khi tình thà nh dương lịch cần phải chú ý cộng trừ bội số của 60. Con số cuối cùng của năm dương lịch ứng với các can: 0: Canh (ví dụ canh tý 1780) 2: Nhâm 3: Quí 4: Giáp 5; Ất (ví dụ ất dậu 1945) 6: Bính 7: Đinh 8: Mậu 9: Kỷ Bảng tính đổi năm lịch can chi thà nh năm dương lịch Cách tính: Cộng hoặc trừ bội số 60 còn dư bao nhiêu, đối chiếu bảng dưới đây sẽ biết năm Can- Chi Tháng: Tháng giêng âm lịch luôn luôn là tháng dần, tháng hai là mão, cứ tuân theo thứ tự đó đến tháng 11 là tý, tháng chạp là Sửu (12 tháng ứng với 12 chi). Tháng giêng của năm có hà ng can giáp hoặc kỷ (ví dụ năm giáp tý, kỷ hợi) là tháng bính dần. Tháng giêng của năm có hà ng can bính, tân là tháng canh dần Tháng giêng của năm có hà ng can đinh, nhâm là tháng nhâm dần. Tháng giêng của năm có hà ng can mậu quí là tháng giáp dần Trường hợp năm có tháng nhuận thì cứ theo tháng chính (không đổi). Ngà y: ngà y âm lịch và ngà y can chi chênh lệch nhau rất khó xác định. vị âm lịch trong 19 năm có 7 tháng nhuận, lại có tháng đủ 30 ngà y tháng thiếu29 ngà y theo trình tự không nhất định, nên tính ngà y can chi theo dương lịch dễ hơn (xem bảng cách đổi ngà y can chi sang ngà y dương lịch). Giờ: một ngà y đem có 24 giờ nhưng theo can chi chỉ có 12 giờ. Giờ tý (chính tý lúc 0 giờ). Giờ ngọ (chính ngọ lúc 12 giờ trưa). Ban ngà y tính giờ dần (tức 4 giờ sáng) đến giờ thân lúc 4 giờ chiều. Ban đêm tính từ giờ dậu đến hết giờ sửu. Nếu theo lịch can thì bắt đầu từ 23 giờ 30 phút đã sang giờ tý của ngà y hôm sau. Kết hợp Lục thập hoa giáp với Âm Dương ngũ hà nh để tính tuổi xung khắc với ngà y, tháng, năm can chi định chọn: Tương xung: Có Lục xung hà ng chi: - Tý xung ngọ - Sửu xung Mùi - Dần xung Thân - Mão xung Dậu - Thìn xung Tuất - Tị Xung Hợi Và tứ xung hà ng can: - Giáp xung canh, - Ất xung tân, - Bính xung nhâm, - Đinh xung quí, (mậu kỷ không xung). Nhưng khi kết hợp lục thập hoa giáp theo hệ số 60, có 5 lần hà ng chi (12) gặp 6 hà ng can (10), quy và o ngũ hà nh tính tương sinh tương khắc thì có 1 lần tương hoà , 2 lần tương sinh, chỉ còn lại 2 lần xung khắc (hà ng chi). Thí dụ: Tính xem ngà y (hoặc tháng, hoặc năm) giáp tý xung khắc với tuổi nà o? Tính hà ng chi: tý xung ngọ, vậy giáp tý (xung với giáp ngọ, canh ngọ, bính ngọ, nhâm ngọ, và mậu ngọ) Xem bảng “Kết hợp Lục thập hoa giáp với Ngũ hà nh” ta thấy: Giáp tý thuộc kim: Giáp ngọ thuộc kim vì thế tương hoà . Canh ngọ thuộc thổ, bính ngọ thuộc thuỷ vì thế đều tương sinh chỉ có nhâm ngọ thuộc mộc, mậu ngọ thuộc hoả là tương khắc. Tính hà ng can: Giáp xung canh. Giáp tý thuộc kim: Canh tuất, canh thìn đều thuộc kim vì thế tương hoà Canh tý, canh ngọ đều thuộc thổ đều tương sinh Chỉ có canh Dần và canh thân thuộc mộc là tương khắc. Vậy ngà y (hoặc tháng năm), giáp tý chỉ có 4 tuổi xung khắc là nhâm ngọ, mậu ngọ, canh dần, canh thân: Tương hình: Theo hà ng chi có : - Tý và mão (một dương, một âm điều hoà nhau). - Tỵ và dần thân (tị âm điều hoà được với dần thân dương, chỉ còn dần và thân tương hình nhau, nhưng đã tính ở lục xung ). Theo luật điều hoà âm dương, chỉ khắc nhau trong trường hợp cả hai đều âm hoặc cả hai đều dương. Vì vậy chỉ còn lại 2 trường hợp tự hình nhau: Thìn với thìn, ngọ với ngọ. Tương hại: cũng là xấu. có 6 cặp tương hại nhau: Tý và mùi, sửu và ngọ, dần và tị, mão và thìn, thân và hợi, dậu và tuất. Nhưng khi kết hợp với can chi, theo luật âm dương, tự triệt tiêu. - Tóm lại: Tính cả xung, khắc, hình, hại, trong số 60 can chi, chỉ có 2-4 ngà y không hợp mệnh thôi, hơn nữa còn tuỳ theo mức độ xung khắc mạnh hay yếu (tuỳ theo bản mệnh). Bảng đối chiếu Lục thập hoa giáp ngũ hà nh và cách tính tuổi xung khắc Bảng đối chiếu Lục thập hoa giáp ngũ hà nh và cách tính tuổi xung khắc Điều 109 : Cách tính ngà y tiết, ngà y trục và ngà y nhị... Cách tính ngà y tiết: Một năm có 24 khí tiết. Khí tiết phù hợp theo dương lịch. Đối chiếu khi tiết với ngà y dương lịch hà ng năm chỉ chênh lệch lên xuống một ngà y, bởi dương lịch 4 năm nhuận một ngà u 29/2 mà ngà y tiết không tính nhuận (Xem bảng đối chiếu ngà y dương lịch với 24 khí tiết). Cách tính ngà y trực: Có 12 trực theo trình tự từ trực kiến đến trực bế, mỗi ngà y một trực: 1. Kiến (tốt), 2. trừ (thường), 3. mãn (tốt), 4. bình (tốt), 5. định (tốt), 6. chấp (thường), 7. phá (xấu), 8. nguy (xấu), 9. thà nh (tốt), 10. thu (thường), 11. khai (tốt), 12. bế (xấu). Ví dụ: Tháng giêng âm lịch tức tháng hai dương lịch trực kiến tạo ngà y dần kể từ tiết lập xuân trở đi. Tiếp sau ngà y đó mão trực trừ, ngà y thìn trực mãn, ngaỳ tị trực bình... ngà y sửu trực bế. Sau lập xuân   Trực kiến tại dần Sau kinh trập   Trực kiến tại mão Sau thanh minh Trực kiến tại thìn Sau lập hạ                   Trực kiến tại tị Sau mang chủng          Trực kiến tại ngok Sau lập thu      Trực kiến tại thân                    Sau bạch lộ     Trực kiến tại dậu Sau lập đông   Trực kiến tại tuất Sau đại tuyết   Trực kiến tại tý Sau tiểu hà nh   Trực kiến tại sửu Bảng kê ngà y tiết theo dương lịch và ngà y khởi đầu trực kiến theo ngà y tiết Bảng đối chiếu Nhị Thập Bát Tú với tuần lễ Điều 110 : Cách đổi ngà y dương lịch ra ngà y can chi Ngà y can chi : Ngà y can chi theo chu kỳ 60 , độc lập không lệ thuộc và o năm tháng âm lịch hay năm tháng can chi- (Kể cả tháng nhuận). Tính ngà y can chi chuyển đổi sang âm lịch rất phức tạp vì tháng âm lịch thiếu đủ từng năm khác nhau, ngược lại tính ngà y can chi theo dương lịch đơn giản hơn. Cách tính ngà y dương lịch ra ngà y can chi: Mỗi năm dương lịch có 365 ngà y, nghĩa là 6 chu kỳ Lục thập hoa giáp cộng thêm 5 ngà y lẻ. Năm nhuận có thêm 1 ngà y 29-2 tức 366 ngà y, thì công thêmn 6 ngà y lẻ. Nếu lấy ngà y 1-3 là ngà y khởi đầu thì các ngà y sau đây trong mọi năm cùng can chi giống 1-3 : 1/3, 30/4, 39/6, 28/8, 27/10, 26/12, 24/2 năm sau đó. Nếu biết ngà y 1/3 (hay một trong bảy ngà y nói trên) là ngà y gì, ta dễ dà ng tính nhẩm những ngà y bất kỳ trong năm (gần với một trong bảy ngà y nói trên). Nếu muốn tính những ngà y 1/3 năm sau hay năm sau nữa chỉ cần cộng thêm số dư là 5 đối với năm thường (tức là từ 24-28/2) hoặc là 6 đối với năm nhuận (có thêm ngà y 29/2). Thí dụ ngà y 1/3 năm 1995 là ngà y Tân Mão , từ đó tính nhẩm 25/2/1996 cũng là ngà y Quí Tị, 27/2/1996 là ngà y giáp Ngọ. (1996 có hà ng chục đơn vị chia hết cho 4 tức là năm nhuận có ngà y 29/2). Ta biết 1/3/1996 là ngà y Đinh Dậu vậy 24/21997 cũng là Đinh Dậu. Chỉ cần cộng thêm 5 ngà y. Ta dễ dà ng tính ra 1/3/1997 là ngà y Nhâm Dần, theo tính nhẩm = Đinh đến Nham hay Dậu đến Dần = 5 ngà y.(Xem bà i so sánh âm dương lịch ở phần Phụ lục sẽ trình bà y năm nà o nhuận dương lịch và nhuận âm lịch). Thí dụ: Theo cách tính trên ngà y 1/3/1997 là ngà y... Điều 111 : Giờ hoà ng đạo là gì ? Cách chọn giờ hoà ng đạo Theo phong tục cổ truyền, khởi đầu một việc gì, ngoà i việc chọn ngà y là nh tháng tốt còn phải chọn giờ tốt. Xuất hà nh, khởi công xây dựng, khai trương cửa hà ng, bắt đầu đi đón dâu, đưa dâu, bắt đầu lễ đưa ma, hạ huyệt đều phải chọn giờ hoà ng đạo. Trừ trường hợp đặc biệt, ví dụ sắp đến giờ tà u, xe xuất phát, nếu đợi giờ tốt có khi nhỡ kế hoạch; hoặc có giờ tốt, ngà y tốt, nhưng thời tiết rất xấu, chưa khởi công được... Nếu cứ quá câu nệ nhiều khi lại hỏng việc. Để chọn ngà y hoà ng đạo, có thể xem phần “Chọn ngà y kén giờ” Phan Kế Bính. Chúng tôi cũng giới thiệu một phương pháp đơn giản giúp bạn không biết chữ Hán cũng có thể tự xem được giờ hoà ng đạo. - Trước hết xem lịch để biết ngà y hà ng chi là ngà y nà o (từ tý đến hợi). Một ngà y đêm âm lịch là 12 giờ (2 tiếng đồng hồ là một giờ), bắt đầu là giờ tý (chính là 12 giờ đêm) theo thứ tự : Tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Mỗi câu lục bát sau đây có 14 chữ: Hai chữ đầu chỉ 2 ngà y, chhứ 3 chỉ giờ tý, chữ thứ 4 chỉ giờ sửu, lần lượt theo thứ tự từ chữ thứ 3 đến chữ 14 chỉ từ giờ tý, sửu, dần, mão...xem trong bảng, thấy chữ nà o có phụ âm đầu là chữ “Đ” thì đó là giờ hoà ng đạo. Phân tích tỷ mỉ hơn thì đó là các giờ: Thanh long, Minh đường, kim đường, thiên lương, ngọc đường, hoà ng đạo. Bảng tính giờ hoà ng đạo Ví dụ: Xem bảng trên biết được : ngà y dần hoặc ngà y thân thì giờ hoà ng đạo đóng ở các giờ: Tý, sửu, thìn, tỵ, mùi, tuất. Điều 112 : Cách tính ngà y hoà ng đạo, hắc đạo Bảng kê ngà y hoà ng đạo, hắc đạo theo lịch can chi từng tháng. Đối chiếu bảng trên thì biết : - Ngà y hoà ng đạo của tháng giêng và tháng 7 âm lịch là những ngà y tý, sửu, tị, mùi. - Ngà y hắc đạo của tháng giêng và tháng 7 âm lịch là những ngà y ngọ, mão, hợi, dậu. 81