GIA ĐÌNH DƯỚI CHÂN CẦU Natalie Savage Carlson Making Ebook Project BOOKAHOLIC CLUB  Tên sách: GIA ĐÌNH DƯỚI CHÂN CẦU  Tác giả: Natalie Savage Carlson  Minh họa: Garth William  Dịch giả: Trịnh Huy Ninh  Dịch từ nguyên bản tiếng Anh: The family under the bridge  Nhà xuất bản: Phương Nam Book & Thời Đại  Năm xuất bản: 11/2009  Số trang: 140  Giá tiền: 25.000 VND  Khổ: 12x21 cm Đánh máy: Thu Thủy, Mỹ Ngọc Kiểm tra: Thu Hà Chế bản ebook: Hanki Duong Nguyen Ngày thực hiện: 14/01/2010 Making Ebook Project #33 – www.BookaholicClub.com Này! Bí mật nhé! Lão Armand sống dưới chân cầu ở Paris ấy mà, lão có một trái tim đấy. Nhưng lão phải giấu kỹ lắm, kẻo cái bọn trẻ con láu lỉnh mà biết thì sẽ thó mất trái tim của lão liền lập tức. Ấy thế mà lão lại gặp ngay phải những đứa trẻ vốn chẳng có mong ước gì hơn một mái nhà để cả gia đình chúng cùng được sống với nhau. Chúng mới khôn làm sao chứ! Gay go quá, lão có giấu nổi trái tim của mình không đây?... Một câu chuyện xúc động về lòng nhân ái trong mùa Noel và đón chào năm mới. Không ai có thể cầm lòng trước cảnh ngộ của những đứa trẻ đáng yêu trong truyện, kể cả ông già “đã cất kĩ trái tim” Armand đang sống dưới chân cầu. Sự cần thiết của tình anh em, tình cha mẹ, tình người đã được đề cao trong chuyện một cách dung dị và sâu sắc. Rồi số phận của những đứa trẻ đáng yêu ấy sẽ ra sao? Hãy cùng đọc “Gia đình dưới chân cầu” với các con bạn, để biết quý giá hơn với những gì mình đang có. ============== Là người Mĩ nhưng chính dòng máu lai Canada - Pháp mới khơi gợi nhiều cảm hứng hơn cho nữ văn sĩ Natalie Savage Carlson (1909 – 1997) để viết nên những câu chuyện mang đầy phong vị Châu Âu. Được ví như nhà văn của đồng thoại và những câu chuyện về gia đình đầy tinh tế và ý nghĩa, bà từng xuất bản truyện đầu tiên của mình khi mới lên 8 trên tuần báo Baltimore Sunday Times và sớm thành công với sê-ri truyện thiếu nhi The Talking Cat and Others Stories of French Canada. Những câu chuyện của bà đều có một điểm chung là rất hóm hỉnh và đậm chất Tây Âu, từ bối cảnh cuộc sống đến cá tính nhân vật. Với Gia đình dưới chân cầu đã mang đến cho bà giải thưởng danh dự Newbery năm 1959. ================= Chương một Xưa có một lão lang thang tên là Armand, lão chẳng chịu ở đâu khác ngoài Paris. Thế nên đó chính là nơi lão sống. Toàn bộ tài sản của mình, lão chất cả lên một chiếc xe nôi cũ kĩ không mui mà kéo đi khắp nơi, khỏi lo gì chuyện tiền nhà hay bị đào tường khoét gạch. Toàn bộ số quần áo rách rưới mà lão có cũng đều ở cả trên người rồi nên cũng chả cần đến rương hòm hay máy giặt khô. Với lão Armand thì chuyện chuyển từ xó này sang xó kia thật dễ ợt, thế nên buổi sáng muộn tháng chạp ấy lão nhổ giò lên đường. Trời lạnh, bầu trời xám sà xuống tận các chóp ống khói của Paris nhưng lão Armand chẳng để ý vì trong lòng lão đang nhoi nhói một cảm giác, rằng có một điều gì đó mới mẻ đầy háo hức sắp sửa xảy đến với mình hôm nay. Lão ư ử trong mồm một giai điệu vui và đẩy xe qua chợ hoa bên hông nhà thờ Đức Bà. Những bông hoa nhắc lão nhớ rằng rồi mùa xuân sẽ về, dù mùa đông cũng không hẳn đã tệ. Những chậu lan dạ hương mỏng manh cùng tulip chen chúc nhau trên giá phía trước các dãy kệ. Những bông cẩm chướng và trúc đào hồng đựng trong mấy cái xô thiếc lớn. Ở đây nhiều nhất là những bó hoa nhựa ruồi chấm đỏ, những chùm tầm gửi trân châu và những cây thông non bé nhỏ, sắp Giáng sinh rồi mà. Cặp mắt còn tinh tường của lão Armand nhận ra một đống cành gãy với hoa héo vứt lỏng chỏng gần cái kệ có đề chữ “Anabel”. Thế là lão bèn đưa tay lên chiếc mũ bê rê đen của mình, hướng về phía người đàn bà mập mạp mặc tạp dề xanh bên ngoài áo len. “Xin phép bà và hết sức biết ơn lòng tốt của bà, thưa bà,” lão nói với cái bà chắc hẳn tên là Anabel ấy, đoạn nhặt những cành gãy xếp lên đống đồ của mình trên chiếc xe nôi. Sau đó lão lựa một nhánh nhựa ruồi héo và luồn vào khuyết áo rách bươm của mình. Lão muốn phải trông thật tươm tất cho điều bất ngờ vui vẻ sắp đến với mình hôm nay. Cái bà chắc hẳn tên là Anabel chỉ sầm mặt ngó lão đẩy chiếc xe nôi về hướng Rue de Corse. Lão lê bước đẩy chiếc xe qua những toà nhà cổ, hướng ra bờ bên kia sông Seine. Nhưng vừa ra đến quảng trường trước nhà thờ Đức bà thì lão đã bị một bàn tay từ phía sau túm lấy. “Xem tương lai đi, thưa ông,” một giọng véo von cất lên. “Hôm nay ông sẽ có một chuyến phiêu lưu đấy.” Lão Armand buông tay nắm chiếc xe nôi và quay lại giáp mặt với một phụ nữ gypsy mặc ác lông ngắn và chiếc váy hoa dài quét đất. Lão nhe răng lưa thưa cười với bà kia. “A, cô Mireli,” lão chào. “Bọn cô trở lại Paris trú đông rồi cơ à?” Khuôn mặt đen đúa của bà gypsy sáng lên bên dưới tấm khăn choàng xanh. “Còn có người chẳng phải bao nhiêu mùa đông rồi vẫn bám lấy Paris đó sao?” bà hỏi, cứ như một mệnh phụ. “Nhưng có việc gì mà ông ra ngoài sớm thế?” Lão Armand nhún đôi vai bên dưới chiếc áo choàng dài gần chấm gót. “Tôi lại ra chân cầu đây,” lão đáp. “Chịu hết nổi mấy cái góc đường nhốn nháo với mấy con hẻm chật chội ở Place Maubert rồi. Cả trò lượm rác bán ve chai cũng phát mệt. Tôi đã sẵn sàng cho cuộc phiêu lưu mà cô hứa hẹn rồi đây.” Bà Mireli thông cảm lắm. “Sau những chuyến đi tự do thoải mái trên những chặng đường dài quanh co thì cái sân mà bọn tôi ở đậu đúng thật chẳng khác nào cái chuồng,” bà nói, “nhưng được cái cánh đàn ông kiếm được nhiều việc để làm trong mùa đông. Một thành phố có lắm tiệm ăn như Paris chẳng thiếu gì xoong nồi cần sửa sang. Mặc dù vậy, tất nhiên, bọn trẻ chẳng nói chuyện gì khác ngoài những cánh đồng với những cánh rừng mùa xuân.” “Tôi không tài nào chịu nổi cái bọn nhóc ấy,” lão Armand lầu bầu. “Một lũ sáo đá. Một lũ chim con ngốc nghếch, ríu rít luôn mồm.” Bà Mireli giơ ngón tay chĩa vào lão mà lắc lắc. “Ông nghĩ mình ghét trẻ con,” bà nói, “nhưng chẳng qua là ông sợ chúng đó thôi. Ông sợ bọn nhóc láu lỉnh đó sẽ thó mất trái tim của ông nếu chúng biết ông có một trái tim.” Lão Armand càu nhàu nắm lấy tay đẩy của chiếc xe nôi. Bà Mireli vẫy tay chào lão, nhún nhẩy đôi chân trần xỏ dép sandal màu bạc đã sờn cũ. “Nếu ông nghĩ lại về chuyện chân cầu thì cứ đến sống với chúng tôi,” bà mời. “Bọn tôi ở phía sau Halles – ngay chỗ người ta đang phá mấy cái nhà cạnh điện Thần Diệu1 cũ ấy mà.” Lão Armand nặng nề lách dưới một thân cây đen thui trơ trụi và vòng qua nhà thờ về phía bờ sông mà không thèm liếc nhìn nó lấy một cái. Trong cái công viên xanh đằng sau hàng cột chống có mấy đứa trẻ đường phố đang tha thẩn. Hai đứa trong bọn đang chơi đấu kiếm, trong khi đứa thứ ba nhỏ hơn thì nhấm nháp một quả táo đỏ ngồi xem. Hai tay kiếm lăm lăm thanh kiếm tưởng tượng mà vờn quanh nhau. Những bàn tay chém mỗi lúc một gần, rồi cả hai cùng quên luôn thanh kiếm tưởng tượng mà cứ thế thụi nhau huỳnh huỵch. Chúng ngừng chơi lúc lão Armand đi ngang qua. “Nhìn ông già ăn mày buồn cười chưa kìa!” một trong hai kiếm sĩ hét tướng lên. Lão Armand ngó quanh, lão cũng muốn xem cái ông già ăn mày buồn cười kia. Hẳn lại lão hề Louis với cái mũ đen cao ngất ngưởng và cái quần rộng thùng thình đây mà. Rồi thì lão nhận ra mình chính là ông già ăn mày buồn cười mà thằng bé đang nói đến. “Liệu hồn mà ăn nói cho đàng hoàng, đồ sáo đá,” lão đe, đưa tay sờ nhánh nhựa ruồi trên ve áo. “Không ta mách lão Cha Giáng sinh bạn ta về thói hư của 1 Nguyên gốc: Court of Miracles, vào thế kỷ 16-17 là nơi tập trungc ánh ăn mày của cả thành phố Paris. chúng bay bây giờ. Lúc đó đừng có kêu là không được quà gì ngoài một bó roi giống bó trên xe ta đây.” Bọn nhóc có vẻ hoảng. Ở bên Pháp người ta gọi Santa Claus là Cha Giáng sinh. Ông cưỡi một con lừa xám nhỏ từ phương bắc xuống và phát quà cho những trẻ ngoan. Đứa bé nhất chìa cho lão quả táo đang ăn dở. “Ông ơi, ông có đói không?” nó hỏi. “Ông có muốn ăn chỗ táo này không ạ?” Nhưng thằng lớn nhất trong bọn đã đấm tay lên trời, vẻ nhạo báng. “Dào ôi!” nó dè bỉu. “Làm gì có Cha Giáng sinh. Toàn chuyện bịa.” “Nếu không tin lời ta,” lão Armand nghiêm giọng nói, “thì cứ vào cửa hàng Louvre mà xem. Ở ngay gác lửng ấy.” Lão nhăn nhở cười, trông như một trong những quái vật nhăn nhở trên mấy cái đầu máng xối nhà thờ Đức Bà. Ở đó đúng là có một Cha Giáng sinh, và đó là ông bạn Camile của lão, người vẫn thường ngứa ngáy muốn làm việc mỗi khi trời trở rét. “Cháu tin ông ạ, thưa ông,” thằng bé có quả táo nói. “Hôm qua cháu đã thấy Cha Giáng sinh bên ngoài cửa hàng. Ông ấy đang ăn hạt dẻ rang ngoài đường.” Lão Armand nhún vai rồi vội vã quay lưng rảo bước về phía cầu. Mireli nói đúng. Trái tim lão, không lo mà giấu đi cho kỹ thì lũ sáo đá sẽ thó mất. Lão chả muốn dây dưa gì với bọn chúng. Trẻ con đồng nghĩa với nhà cửa, trách nhiệm cùng một công việc ổn định… tất cả những gì lão đã quay lưng lại từ lâu. Mà lão thì đang mong phiêu lưu. Xuôi xuống vài dãy nhà nữa là đến cây cầu nơi lão sống khi thời tiết không quá khắc nghiệt. Và nhiều người trong số những kẻ vô gia cư của Paris mà lão thường bù khú trong mùa hè đều đã xí chỗ này chỗ kia cho mình. “Nhưng trước tiên phải ăn tối cái đã,” lão Armand tự nhủ, mắt nhìn sang nhà hàng bên kia đường. Lão liếm ngón tay cái và giơ lên trời. “Đúng gió rồi,” lão nghĩ. Thế là lão tấp cái xe nôi của mình vào cạnh bức tường thấp và ngồi xuống đón làn hơi thoảng đến từ phía nhà hàng. Lão hít thật đầy vào phổi tất cả hương vị của nhà bếp. “Chà, thịt bò nướng than củi,” lão thốt lên thèm thuồng. “Nước sốt cũng đúng điệu đấy. Nhưng khoai tây quá lửa mất rồi.” Lão Armand cứ ngồi trên vỉa hè như vậy hai giờ liền để thưởng thức mùi đồ ăn, vì đó là khoảng thời gian mà một người đàn ông Pháp cho phép mình dùng để ăn trưa. Rồi lão điệu đàng vén tay áo lau cái miệng râu ria và đứng dậy trên đôi giầy u u của mình. “Cứ giữ tiền lẻ đi, chú bồi,” lão hào phóng nói mặc dù chả có anh bồi bàn mặc đồng phục trắng nào ở đấy cả. “Chú sẽ cần để tiêu Giáng sinh đấy.” Lão theo bậc cấp từ mặt đường dẫn xuống mép sông Seine, thả hai bánh sau chiếc xe nôi nảy tưng tưng trên mỗi bậc. “Hơi bị no”, lão tự nhủ, “nhưng giá mình cứ lấy quả táo lúc nãy thì hay. Đó sẽ là một một món tráng miệng đúng điệu sau cái thứ nước sốt ngậy như vừa rồi.” Xuống mép sông, lão đẩy chiếc xe nôi về phía vòm gầm cầu chạy dọc bờ sông. Trên bờ sỏi có một ông đang rửa xe bằng nước miễn phí của sông Seine. Một bà mặc áo lông đang cho con chó xù nòi Pháp hóng gió. Một chiếc xà lan dài bóng nhẫy như con hải cẩu đang trôi trên sông. Đúng là như được về quê sau một thời gian dài đi xa, lão Armand nghĩ bụng. Mà dưới một cây cầu Paris lại chẳng có thiếu gì chuyện hồi hộp nữa chứ. Khi đến gần lão mới trợn mắt vì ngạc nhiên và tức giận. Một cái lều bạt màu xám nằm chình ình ở hốc tường xưa nay vốn là của lão. Và một cái xe đẩy kiểu trong chợ dựng ngay bên cây cột. Lão đẩy xe nôi chạy vội trên lớp sỏi đến hốc vòm. Đến nơi, lão hùng hổ thò tay giật tung cái lều. Thế rồi hoảng hốt nhảy lui. “Ô là la!” Lão hét toáng lên. “Lũ sáo đá! Cả ổ sáo đá!” Bởi vì có ba đứa trẻ đang khiếp vía rúc vào cái mền rách, ngước nhìn lên bằng ánh mắt thảng thốt chẳng kém gì lão. Một con bé và một thằng bé nhủi sâu trong mền, còn con bé lớn hơn liền nhảy phắt dậy. Nó có cặp mắt xanh ngay thẳng, rất hợp với cái cằm quyết đoán, cái mũi hếch cùng mái tóc đỏ hoe. “Ông không được bắt chúng tôi đi,” nó hét lên, nắm tay vung vẩy. “Chúng tôi sẽ ở lại với nhau vì chúng tôi là một gia đình, mà gia đình thì phải gắn bó với nhau. Mẹ chúng tôi dặn thế.” Chương hai Lão Armand đang nhìn bọn nhóc trừng trừng thì một con chó lông lá bờm xờm, chắc vốn có màu trắng, băng qua bờ sỏi lao đến. Nó nhảy ngang vào giữa lão lang thang và bọn trẻ, cứ nhè lão mà sủa như điên. Lão vội vàng đẩy tới đẩy lui chiếc xe nôi che chắn giữa mình và con chó. “Nếu cái con quái này mà cắn ta,” lão kêu lên, “ta sẽ đi thưa các người và đòi bồi thường mười nghìn franc đấy.” Con bé gọi con chó. “Lại đây. Jojo! Thôi nào, Jojo! Ông ấy không bắt mình đâu. Chỉ là một ông già ăn xin thôi mà.” Con chó ngừng sủa và hít hít mấy cái bánh xe nôi. Lão lang thang bực lắm. “Nói cho mà biết, ta không phải ông già ăn xin vớ vẩn nào hết.” Lão lên tiếng. Mà đúng thế thật. “Ta không phải kẻ thân cô thế cô, và muốn làm việc gì là ta làm được ngay. Nhưng cha mẹ chúng bay đâu và chúng bay đang trốn ai ở đây? Cảnh sát hả?” Lão nhìn kĩ bọn nhóc. Rặt tóc đỏ, cả ba đứa, quần áo chắp vá, vẻ nghèo túng không lẫn đi đâu được. Cặp mắt con bé lớn nhất sáng bừng một màu xanh lơ sâu thẳm. “Chủ nhà đuổi chúng cháu ra vì từ khi bố mất nhà cháu không có đủ tiền trọ,” nó kể. “Cho nên mẹ phải mang chúng cháu ra đây vì không còn chỗ ở nữa. Mẹ dặn phải trốn sau tấm bạt để không ai thấy, không thì người ta sẽ bắt chúng cháu đem vào nhà nuôi trẻ nghèo, không được ở với mẹ. Nhưng chúng cháu là một gia đình nên chúng cháu muốn ở với nhau, cháu là Suzy, còn đây là Paul và Evelyne.” Thằng bé cũng đã lại hồn một chút. “Cháu mà lớn hơn tí nữa thì cháu sẽ tìm chỗ mới cho cả nhà,” nó vênh váo. “Ta thấy chúng bay đã tìm được chỗ mới rồi,” lão Armand nói, “và đó là chỗ cũ của ta. Chúng bay đuổi ta ra khỏi nhà ta cũng hệt như bà chủ nhà kia đã làm với chúng bay vậy.” Suzy có vẻ ái ngại. Nó kéo cái xe đẩy ra và nheo một mắt áng chừng lão Armand. Rồi nó lấy cục than mềm vẽ một hình chữ nhật dài trên nền bê tông. “Đây là phòng của ông”,” nó nói. “Ông cứ ở đây với chúng cháu.” Ngẫm nghĩ thêm một lát, nó nguệch ngoạc vẽ thêm một hình vuông nhỏ có kẻ ô phía dưới hình chữ nhật. “Đây là cửa sổ,” nó trịnh trọng nói, “để ông còn nhìn ra ngắm sông.” Lão Armand hậm hự trong họng, kéo áo choàng che kín ngực như thể muốn giấu đi trái tim. Chà, con bé sáo đá này đáng gờm đây. Lão phải cuốn gói sớm thì hơn. Paris thiếu gì cầu, sông Seine chẳng chảy qua Paris ngoằn ngoèo lắm đấy sao. Tìm một cây cầu khác đâu có gì khó nhọc. Nhưng đúng lúc lão dợm bước đi thì con bé đã chạy theo tóm lấy ống tay áo rách bươm của lão. “Ông ở lại đi ạ,” nó nài. “Chúng cháu sẽ giả vờ ông là ông ngoại chúng cháu.” Lã Armand khịt mũi. “Này, bé con,” lão nói, “thứ nhất là triệu phú, thứ nhì là ông ngoại, đó là những việc cuối cùng mà ta muốn làm trên đời.” Làu bàu thì làu bàu vậy nhưng lão cũng bắt đầu dỡ đồ ra. Lão chụm các thân và cành cây lại rồi vun hết lá vào. Lão lôi ra một tấm bạt dơ dáy và một cái móc sắt han rỉ, đặt cái lon sắt nhọ nhem có quai cầm bên cạnh đám lá, bày ra mấy cái dao muỗng cong queo. Cuối cùng, lão lôi ra một chiếc giày cũ đã thủng đế. “Chưa biết chừng lại sắpvớ được chiếc cùng đôi của nó cũng nên,” lão phân trần với bọn trẻ. “Mà nó cũng vừa in chân ta.” Bọn trẻ muốn giúp lão một tay. Ôi, cái lũ sáo đá này mới khôn chứ. Chúng thật biết cách xỏ mũi một lão già. May mà lão chẳng phải ông nội ông ngoại gì của chúng cả. Tuy nhiên, lão vẫn trải tấm bạt của mình lên chỗ hình chữ nhật mà Suzy đã vẽ. Lão Armand nhóm lửa với chỗ cành lá khô. Sau đó treo cái lon sắt to lên ngọn lửa, lão đổ cào đó các mảnh vụn đồ ăn mà lão gói sẵn trong một miếng báo. “Vào cái thời huy hoàng ngày xưa ở Paris,” lão bảo với bọn trẻ, “người ta thường gióng chuông ở các chợ vào lúc cuối ngày để cánh ăn mày biết mà đến lượm các thứ còn thừa. Nhưng hết rồi. Nay thì cứ phải tự đi mà lo cho mình thôi.” Bọn nhóc nhìn lão ăn. Ngay cả con chó vốn có màu trắng cũng nhìn theo từng miếng lão đút vào miệng mà nhểu nước dãi xuống mặt sàn bê tông. Lão Armand ngọ nguậy khó chịu. “Chuyện gì?” lão hỏi gằn. “Chúng bay chưa thấy ai ăn bao giờ sao?” Chúng lặng thinh không nói gì, nhưng cả bốn cặp mắt thì cứ dõi theo từng chuyển động của cái muỗng trên tay lão Armand. “Ta đoán là chúng bay đang đói,” lão lầu bầu. “Lũ sáo đá cứ phải ăn luôn mồm thôi. Lấy chén bát ra đây.” Suzy lôi từ xe đẩy ra mấy cái bát nhom nhem méo mó cùng mấy cái muỗng cong queo. Lão Armand cẩn thận chia đồ ăn, thậm chí còn tính cả phần con chó. Lúc mẹ bọn trẻ về thì trời đã tối. Ánh đèn của Paris đã trôi lững lờ trên sông Seine, nhưng dưới chân cầu chỉ có ánh sáng từ đống lửa nhỏ của lão Armand. Lão không nhìn thấy rõ mặt người phụ nữ nhưng cảm nhận được cái gay gắt trong giọng nói của chị. “Ông đang làm gì ở đây?” chị hỏi lão lang thang. Lão Armand nổi nóng. “Tôi cũng có thể hỏi cô câu đó đấy, thưa cô,” lão vặc lại. “Mẹ con cô đã chiếm khúc cầu của tôi.” “Cầu đâu phải của riêng ai,” người phụ nữ nói. “Đấy là chỗ trú miễn phí duy nhất ở Paris này mà.” Suzy cố đứng ra hoà giải. “Ông là một ông già ăn xin thân thiện dễ thương lắm, mẹ ạ,” nó nói, “ông sẽ ở cùng chúng ta.” “Ta không phải lão ăn mày thân thiện đâu nhé,” lão Armand tức tối kêu lên, “ta là ăn mày keo kiệt, gàn dở, ghét trẻ con, chó và cả đàn bà.” “Ông ghét chúng cháu,” Paul nói, “thế sao lại còn cho chúng cháu ăn cùng?” “Vì ta là một lão ăn mày ngu ngốc,” lão đáp. “Vì ta là lão ăn mày ngu ngốc có trái tim mềm yếu.” Ô là la! Chết dở rồi. Lão đã lỡ miệng để lộ là mình có trái tim. Bây giờ thì cả cái gia đình không nhà không cửa này chắc chắn sẽ rình rập nó đây. Bà mẹ không vui tí nào khi nghe lũ con ăn chực của lão lang thang. “Nhà ta đâu phải ăn mày,” chị nhắc chúng. “Mẹ có công việc ổn định ở tiệm giặt, thế là hơn đứt ông ta rồi.” Chị lăng xăng hâm nóng súp và cắt ổ bánh mì dài vừa mang về. Lão Armand ngồi trong cái hình chữ nhật Suzy vẽ cho, nghĩ bụng rắc rối của người phụ nữ này chính là sự kiêu hãnh, mà sự kiêu hãnh với một cuộc sống dưới chân cầu thật khó có thể đi chung với nhau. Lửa gần tàn, người phụ nữ chạy đi chạy lại đến chiếc xe đẩy lấy ra những tấm mền bị nhậy cắn thủng lỗ chỗ để trải làm chỗ nằm trên sàn bê tông. Ngay trên đầu là xe cộ rú rít, ánh đèn phả xuống cây cầu và khách bộ hành qua lại trên phía bờ cao buông tiếng cười vẳng xuống. Nhưng tất cả dường như ở cách xa nhóm người nho nhỏ dưới chân cầu cả triệu dặm. “Cô phải đưa bọn sáo đá vào một nhà tế bần nào đó cho đến khi tìm được chỗ ở mới cho mình, cô ạ,” lão Armand đề xuất sau khi bọn trẻ đi ngủ. “Cuộc sống như thế này không phải dành cho chúng. Nghe này, cô không muốn chúng đến nông nỗi như tôi chứ, đúng không? “Một gia đình thì phải gắn bó với nhau cả lúc sướng cũng như lúc khổ,” người phụ nữ đáp. “Mà tôi cũng có nhiều hy vọng, sắp tới tôi sẽ đến chỗ chị dâu tôi. Có thể chị ấy sẽ tìm một chỗ cho chúng tôi bên mạn Clichy.” Lão Armand nằm duỗi dài trên tấm bạt, chả cần đắp gì. Lão chịu lạnh đã quen, không còn cảm thấy nó nữa. Nhưng lão biết chắc bọn nhóc tì này thể nào cũng lạnh. Nằm trên sàn cứng mà một ý nghĩ khó chịu cứ cắn rứt lão, cứ như có con chuột đang dứt dứt dây giày. Bây giờ đã lỡ làm quen với lũ sáo đá kia rồi, cuộc đời lão sẽ không hoàn toàn là của riêng lão nữa. Buổi sáng mờ mờ len dần vào bóng tối dưới chân cầu, lão Armand thức giấc thì thấy người phụ nữ đã đi rồi, còn ba đứa trẻ đang cho con Jojo ăn một miếng bánh mì cũ. “Chúng bay vẫn còn ở đây sao?” lão hỏi. “Chẳng phải hôm nay phải đi học hay gì sao?” Suzy lắc mái tóc đỏ. “Chưa có chỗ ở thì bọn cháu chưa đi học lại được. Mẹ bảo không khéo thầy cô sẽ hỏi đến, rồi thì người ta tách mẹ con bọn cháu ra mà đưa bọn cháu vào nhà nuôi trẻ mất.” “Mẹ chúng bay muốn có chúng bay ở bên hơn ta,” lão nói. “Nhưng con nít thì phải đi học chứ. Liệu ta có ở đây không nếu hồi nhỏ ta đi học?” “Ồ, cháu thích đi học lắm,” Suzy nói, đôi mắt xanh lơ sáng lên. “Cháu thích đọc với thích viết. Cháu ước mơ lớn lên làm cô giáo. Ông coi này, có một ông trên xà lan ném cho cháu mẩu than để cháu viết thay bút chì đây này. Ước gì bọn cháu sớm được đi học lại.” “Mình khác nhau chỗ đó đấy,” lão Armand thú thực. “Ta chưa bao giờ thích đi học cả. Nhưng ban ngày chúng bay cũng phải đi đâu đó chứ. Mẹ chúng bay không thể bắt ta trông coi chúng bay được. Ta cũng có việc phải đi nữa chứ.” “A, thế thì bọn cháu đi với ông được không?” Suzy nài. “Bé Evelyne trông thế chứ đi bộ giỏi lắm ạ. Em ấy không mệt đâu.” “Không,” lão Armand lo lắng kêu lên. “Không đi theo ta được đâu, đừng có kèo nhèo.” “Đi mà, ông ăn xin, cho tụi cháu đi với,” Paul năn nỉ. “Ngồi không dưới này thì lạnh đến chết mất.” “Đừng vô lễ thế, Paul” Suzy nhắc. “Nếu em không xin lỗi thì ông ấy sẽ không cho mình đi đâu.” “Nhưng biết gọi ông ấy thế nào bây giờ?” Paul hỏi lại. “Em có biết tên ông ấy đâu.” “Ông ơi, ông tên gì?” Suzy hỏi lão. “Armand,” lão lang thang đáp. “Thế còn họ ạ?” Paul hỏi gặng. “Họ của bọn cháu là Calcet.” Lão Armand nhún vai. “Ta quên rồi, “ lão thú thực. “Ta nhớ hình như Pouly hay Pougy gì đó. Đại để thế. Gọi Armand là được rồi.” “Hay quá, thưa ông Armand,” Paul nói. Cháu xin lỗi vì đã gọi ông là ông ăn xin. Bây giờ ông cho chúng cháu đi với chứ ạ?” “Chắc chắn rồi,” Suzy vội nói. “Trông ông ấy bầy hầy thế chứ trái tim ông tốt lắm. Cả Jojo đi nữa, được không ông?” Lão Armand sờ lên ngực áo choàng, chỗ che trái tim. Ôi bọn nhóc này đúng là đang nhắm vào nó đây, chắc chắn rồi. “Ô là la!” lão kêu lên. “Đi đâu cũng kéo theo một lũ sáo đá với một con chó thế này thì còn ra thể thống gì nữa?” lão ngán ngẩm. “Bạn bè nào chịu cho mình tụt tạt với cả đám đám ẩm ương này chứ?” Thế rồi một nét ranh mãnh thoáng qua trên khuôn mặt phong sương của lão Có lẽ kéo đám nhóc tì thảm hại ra đường cũng không đến nỗi dở đâu. Không, thật thế! Lão đã có một ý cực hay. Tất nhiên đó không phải là thứ mà một bà mẹ kiêu hãnh chấp nhận. “Mấy đứa có thích lên phố gặp Cha Giáng sinh bạn ta khômg?” lão hỏi bọn trẻ. Thằng Paul bàng hoàng không dám tin. “Ông quen cả Cha Giáng sinh cơ à?” nó hỏi. “Mẹ bảo năm nay ông ấy sẽ không đem gì đến cho chúng cháu vì không biết chúng cháu ở đâu,” con bé Evelyne nói. “Thế thì ta đến thẳng cửa hàng Louvre,” lão Armand tuyên bố. “Cứ đến thẳng đấy báo cho ông ấy biết chỗ.” Chương ba Armand, lão lang thang Paris, dẫn lũ nhóc tóc đỏ leo mấy bậc cấp lên thành phố nhộn nhịp bên trên. Bộ óc già nua bên dưới chiếc mũ bê rê cũ kĩ đang bận rộn với những kế hoạch lớn lao cho bọn trẻ và cho chính lão. Xem ra bọn sáo đá cũng không đến nỗi quá tệ. Chúng cũng có ích đấy chứ. Lão bước phía trước, dẫn đường băng qua cầu rồi vòng qua nhà thờ Đức Bà. Suzy dắt tay con bé Evelyne theo sau. Thằng Paul thì chốc chốc lại tụi tạt ngó nghiêng cái gì đó, có lúc lại chạy lên trước nói chuyện với lão lang thang. Con chó hẳn vốn có màu trắng lóc cóc chạy bên đôi giày mòn vẹt của Suzy. Cả đám láo nháo đi qua cây cầu nối hòn đảo với bờ phải. Bọn nhóc quay ngang quay ngửa nhìn ngó những ngọn tháp rồi tháp canh lạ mắt bên trên nóc Hôtel de Ville. “Đó là toà thị chính, nơi người ta điều hành Paris đấy,” lão Armand giải thích. “Hừm! ta đây ngồi dưới gầm cầu điều hành còn giỏi hơn.” Mấy con bồ câu xanh chấp chới đầy hy vọng quanh mấy ông cháu. “Đồ ăn xin!” lão lang thang khịt mũi. “Cứ quấy rầy người ta xin bố thí.” Jojo cũng cho là thế. Con chim nào láng cháng đến gần lũ trẽ quá là nó đuổi liền. “Giá mà có ít bắp cho chúng ăn,” Paul nói. “Thấy ta nói gì chưa?” lão Armand hỏi. “Ngay cả những kẻ không có gì bỏ miệng cũng vẫn còn sẵn sàng cho bồ câu ăn cơ đấy. Ước gì ta cũng là chim.” Cả nhóm kéo nhau qua con đường rải đá ảm đạm cho đến tận Rue de Rivoli nhộn nhịp. Nơi này đầy những người đi mua sắm lễ. Giáng sinh quả thực đã đến rất gần con phố làm ăn. Những người bán hàng rong đứng sau các quầy trên vỉa hè oang oang rao hàng và nài nỉ khách qua đường ghé xem. Người ta đang mua nào khuyên tai, nào nịt tất, nào chất làm Natalie Savage Carlson mềm nước, nào khăn quàng lụa ở những quầy hàng rong. Người ta mua bán điên cuồng và ồn ã, như thể chẳng còn bao giờ tìm được thứ gì như vậy ở Rue de Rivoli nữa không bằng. Và cứ nhìn cái kiểu mua bán điên rồ như thế, chắc đến mai sẽ chẳng còn gì mà bán nữa thật. Lão Armand liên tục phải quay lại dỗ bọn trẻ đi tiếp. Thứ gì chúng cũng muốn đứng lại xem. Chúng dừng lại ngắm chú lính bằng máy mà một ông kia cho chạy thử trên vỉa hè. Chú lính bước đều và giơ tay chào rõ oai, phải mất bao nhiêu công mới lôi được thằng Paul ra khỏi chỗ đó. “Cái thứ đồ chơi rẻ tiền ấy mà,” lão Armand dè bỉu. “Đem về nhà là khỏi chạy luôn, không thì chạy một vòng thôi là đứt cót ngay. Ta có ông bạn chuyên bán mấy thứ này mà lại.” Vừa dỗ được chúng rời khỏi món đồ chơi thì lại đến tiệm bánh. Có một cái bánh khúc cây Giáng sinh bày trong quầy kính – cái khúc cây trông đến là ngon. Nó có màu nâu sô-cô-la với mấy đọt nấm xinh xinh nhú lên từ khúc thân ngọt lịm. Những đoá hồng bông đường cũng mọc ra từ đó. Lại còn cả một nhánh thường xuân trông y như thật cuốn quanh khúc thân với những chiếc lá xanh non vươn dài nữa chứ. “Ôi, trông đẹp chưa kìa!” Suzy thốt lên và liếm môi. “Mình em có thể ăn hết cả cái luôn,” Paul kêu lên. “Em đói,” Evelyne rên rỉ. Lão Armand lại phải lôi từng đứa ra. “Ăn như ăn thuốc chứ ngon lành gì,” lão nói. “Tất cả, ngoài cái dây leo kia. Cái thứ đấy ăn thì đúng thật như cây thường xuân, vừa dai vừa đắng. Ta đã ăn bánh khúc cây Giáng sinh một lần rồi ta biết.” Xem ra bọn trẻ chẳng có gì là tin lời lão cả. “Đó là cách người ta lừa trẻ con uống thuốc đấy,” lão cả quyết. Cả đám kéo nhau sang đường khi người cảnh sát dừng xe cộ lại. Mấy ông cháu đến chỗ một cái lò bằng sắt to tướng có một ông đang bán hạt dẻ nóng, Natalie Savage Carlson rang đến đâu bán hết veo đến đấy. Không khí ấm sực quanh lò, và mùi hạt dẻ rang thì cứ trêu ngươi. Bọn trẻ dừng lại, nhìn cái lò hau háu. “Đi nào, đi nào,” lão Armand sốt ruột giục. “Toàn hạt dẻ sâu thôi. Chúng bay nghĩ Cha Giáng sinh cứ ngồi đấy chờ mình đến tận nửa đêm chắc? Mà còn phải đi một đoạn đường dài nữa mới đến được Louvre.” Nhưng trên đường có quá nhiều thứ để nhìn ngắm nên xem ra cũng khá gần. Chẳng mấy chốc, cả nhóm đã đi dưới cái mái che của cửa hàng. Mà ở phía ngoài này cũng bày bán nhiều thứ chẳng kém trong các cửa hàng – ngần ấy xe đẩy và người bán rong kia mà. Lão Armand lùa bầu đoàn bé nhỏ của mình qua một trong những cánh cửa kính to đùng vốn là niềm kiêu hãnh của cửa hàng. Khi vào tới bên trong, lũ trẻ và con chó cứ ngỡ mình lạc vào xứ thần tiên. Trong cửa hàng vĩ đại này vừa ấm áp vừa đẹp đẽ, với ánh đèn sáng trưng và những màu sắc chuyển động. Lại còn cả mùi thơm của các loại nước hoa quyện vào nhau, như thể hoa trên khắp thế gian cùng nở rộ phía sau những quầy hàng phủ vải mềm và bày đầy nữ trang lóng lánh kia vậy. “Ta phải lên chỗ gác lửng trên kia,” lão Armand nói. “Có lẽ nên đi thang máy của họ, giữ chân giữ cẳng để còn đi bộ về.” Thế là cả bọn bèn đến chiếc thang máy gần nhất. Nhưng không thể nhồi nhét hết tất cả những người đang chờ vào một lúc được. “Phải đi thang bộ thôi,” lão Armand quyết định. “Bọn bay có nghĩ là các bà kia nên ở nhà nấu nướng giặt giũ thì hơn không?” “Mẹ cháu sẽ làm thế ngay khi có thể,” Suzy nhanh nhảu nói. Mấy ông cháu lên cầu thang. Mắt đám trẻ càng lúc càng thêm mơ màng. Chúng trông thấy những cái bàn đồ chơi chất cao chóc ngóc. Chúng đang lạc vào lãnh địa của Cha Giáng sinh. Chúng cung kính nhón chân theo sau lão langthang vào gian phòng nơi trẻ con có thể chụp hình với ông thánh – miễn là bố mẹ chúng chịu trả tiền. Lão Armand nhòm vào. Bọn nhóc nín thở. “Ông ấy không có đây,” lão lang thang thất vọng nói. Nhưng đúng lúc đó thì chính Cha Giáng sinh vòng qua dãy quầy bước lại. Ông mặc chiếc áo choàng đỏ dài tới tận mắt cá chân, còn bộ râu bạc xoăn xoăn phủ hết cả ngực. Ria mép của ông gợn sóng và được chải sáp. Nhưng cặp mắt đen của ông thì cáu kỉnh và nắm tay đang hua lên về phía hai thằng bé chạy đằng trước. “Ta mà bắt được chúng bay nghịch cái xe lửa chạy điện lần nữa là ta tống cổ cả hai ra khỏi cửa hàng đấy nghe chưa,” ông đe. Bọn trẻ nhà Calcet sợ mất vía. Cả ba đứa nép vào sau lưng lão Armand. Rồi khi Cha Giáng sinh tiến đến thì con bé Evelyne sợ khóc oà lên, còn con Jojo thì gừ gừ. Vừa trông thấy lão Armand, những nếp nhăn giận dữ trên trán Cha Giáng sinh liền biến mất và vô tình cuộn quanh môi ông. Mắt ông dịu lại ngạc nhiên và thích thú. “Hô, hô, hô!” ông bật cười theo kiểu Cha Giáng sinh vẫn cười. “Xem ông cháu quý hoá nhà ai hôm nay tới thăm ta này.” Đoạn ông lại cười hô hô hô mãi, đến nỗi bọn trẻ đã sợ là ông bị bùa ho. Lão Armand kéo bọn trẻ nhà Calcet ra trước mặt mình, lần lượt từng đứa một. Evelyne đã thôi khóc và Jojo cũng thôi gầm gừ. “Ông không tin nổi tôi tìm thấy chúng ở đâu đâu,” lão Armand nói, “có điều chúng cứ muốn tới gặp ông.” Mắt bọn nhóc lại sáng rực rỡ. Chúng mừng quá không thốt nổi nên lời. “Năm nay các cháu có ngoan không nào?” Cha Giáng sinh hỏi. “Chúng cháu đã cố lắm đấy ạ,” Suzy nói tránh. “Đôi khi chúng cháu cũng hơi lẫn lộn việc gì là ngoan và việc gì không ngoan ạ,” Paul thú thực. “Cháu đã kéo đuôi Jojo, nhưng từ nay cháu không làm thế nữa ạ,” Evelyne cũng nhận lỗi. Cha Giáng sinh có vẻ hài lòng. “Ta thích những đứa trẻ thật thà,” ông nói. “Bọn khác thì đứa nào cũng khoe mình cả năm ngoan như thiên thần. Nào, các cháu muốn ta mang quà gì đến nhân dịp Giáng sinh đây?” “Chúng cháu muốn một cái nhà ạ,” Suzy nói. “Xin ông mang đến cho chúng cháu một cái nhà, được không, Cha Giáng sinh?” “Hô, hô, hô!” Cha Giáng sinh cười đáp lại. “Cái này thì bố mẹ các cháu đồng ý mới được. Nhưng các cháu muốn nhà loại nào? Một cái nhà đồ chơi?” Ông liếc nhìn Jojo. “Hay một cái nhà cho chó?” “Một cái nhà thật cơ ạ,” Paul nói. “Nhà mà chúng cháu ở được ấy.” “Có cả tường, cả mái ấy ạ,” Suzy nói. “Cả cửa sổ nữa ạ,” Evelyne đế thêm. “Cháu thích nhìn ra cửa sổ đợi chị Suzy với anh Paul đi học về.” Cha Giáng sinh thôi không cười hô hô hô vui nhộn nữa mà nhìn chúng chằm chằm. “Đã có ai nghe nói trẻ con muốn quà Giáng sinh là một cái nhà thật bao giờ chưa nhỉ?” ông hỏi lại. “Vậy một cái trống cho cậu nhỏ và búp bê cho các cô bé, được không nào?” “Không ạ,” Suzy khăng khăng, “phải một cái nhà thật cơ.” Cha Giáng sinh đảo cặp mắt đen và vân vê ria mép. “Phải là búp bê hay đồ chơi cơ, các cháu của ta,” ông nói. “Con lừa nhỏ của ta không thể thồ trên lưng cả một ngôi nhà được. Các cháu biết mà.” Bọn trẻ xịu mặt. nhưng rồi Suzy cũng nhớ lại phép tắc. “Dù sao chúng cháu cũng cảm ơn ông, thưa Cha Giáng sinh,” nó nói, giọng run run. “Cháu nghĩ rằng chúng cháu chẳng cần gì khác ngoài ngôi nhà đâu ạ.” “Cháu thì có,” Paul nói. “Cháu muốn có gì đó để ăn.” “Còn cháu muốn có một con búp bê,” Evelyne thêm vào. Cha Giáng sinh mở miệng định nói gì đó nhưng một cô bán hàng xinh đẹp đã chen vào. “Ông nên vào ngay phòng chụp đi, kẻo ngài Latour đuổi việc ông bây giờ,” cô ấy nói. “Có bốn đứa trẻ đang chờ được chụp hình đấy.” Cha Giáng sinh vỗ đầu từ biệt từng đứa nhỏ tóc đỏ, rồi nói với lão Armand, “Ngài Latour này đang tìm một người gác đêm cho một toà nhà của bạn ông ta đấy. Ông có muốn làm không?” “Ô là la!” lão Armand kêu lên. “Tôi có đến gặp Cha Giáng sinh để xin việc đâu. Chào nhé, Camile.” Lão lại dẫn bọn trẻ xuống cầu thang, nhưng giờ chúng lặng lẽ đến lạ. Thậm chí tai Jojo còn rũ xuống và đuôi cũng cụp cả vào. Khi mấy ông cháu đi qua giữa các dãy quầy thì tầng chính đã bớt đông. Một người trực tầng lịch lãm trông thấy đám bụi đời liền chạy đến. Ông ta tạo ra một tiếng động khe khẽ khi rút chiếc khăn trắng muốt từ túi áo ra. “Có phải các người vào nhầm cửa hàng không vậy?” ông ta kiêu kì hỏi. “Tôi dám chắc là chúng tôi đã vào nhầm cửa hàng,” lão Armand trả lời cũng kiêu kì không kém. “Chúng tôi mang con chó vào đây để nó đi thang máy, thế mà thang máy nào cũng chật cứng.” Lão huýt con Jojo. “Lại đây nào, cậu bé, chúng ta sẽ đưa cậu sang bên Printemps.” Jojo gầm gừ với người trực tầng ngạo mạn. cái nhóm nhỏ hướng ra phía cánh cửa kính to đùng mà cửa hàng này rất lấy làm hãnh diện. Tất cả đều run lên khi bước ra ngoài trời lạnh cắt da.