Vành đai khí độc Tác giả: Conan Doyle Người dịch: dangphương Chương I Nhiễu loạn quang phổ Nhiệm vụ của tôi đã rõ ràng, tôi sẽ chẳng bỏ phí một giây! Trong tâm trí tôi, những sự kiện lạ lùng đó vẫn còn hiển hiện như mới vừa diễn ra nên tôi cần kể lại ngay một cách chính xác và chi tiết, e rằng để lâu thời gian sẽ làm phai nhạt đi mất. Khi viết câu chuyện này, tôi không thể không cảm ơn điều kỳ diệu đã đưa những người bạn đã cùng tôi trải qua chuyến phiêu lưu mà tôi đã có dịp ghi lại trong phóng sự “Thế giới thẳm xa” (giáo sư Challenger, giáo sư Summerlee, huân tước John và tôi) hội ngộ với nhau trong cuộc trải nghiệm kỳ thú lần này. Cách đây vài năm, khi tôi thuật lại chuyến du lịch giật gân của chúng tôi ở Nam Mỹ cho tờ Daily Gazette, tôi không hề nghĩ rằng một ngày nào đó tôi còn phải kể lại một cuộc phiêu lưu cá nhân còn lạ lùng hơn thế. Vậy mà đây lại chính là chuyến phiêu lưu có một không hai trong lịch sử nhân loại. Trải qua suốt chiều dài thời gian, cuộc phiêu lưu này sẽ vượt trên tất cả, như một đỉnh núi hùng vĩ luôn làm lu mờ những đồi núi nhỏ xung quanh. Chúng tôi đã cùng tụ họp với nhau để trải qua cuộc phiêu lưu này. Có một sự kết nối các tình huống hoàn toàn bất ngờ mà tôi sẽ cố gắng kể ra đây một cách ngắn gọn và chính xác nhất. Tôi biết, sẽ không bao giờ có thể thỏa mãn được hoàn toàn trí tò mò của công chúng, song tôi sẽ cung cấp cho quý vị độc giả một lượng tối đa các chi tiết liên quan đến câu chuyện này. Hôm đó, thứ 6 ngày 27 tháng 8 (ngày mà lịch sử thế giới có thể sẽ không bao giờ quên), tôi đến toà báo và xin Mc Ardle, trưởng ban biên tập, cho phép tôi được nghỉ ba ngày. Người đàn ông xứ Ê-cốt tốt bụng lắc đầu, vuốt vuốt túm tóc hung nhạt loà xoà trên trán và tỏ ý từ chối qua mấy câu sau: - Anh Malone, tôi đang nghĩ rằng, những ngày này, chúng tôi có thể giữ anh vì công việc. Tôi tự nhủ rằng đó là một việc rất đặc biệt... Tóm lại đó là một công việc chỉ có anh mới có khả năng xoay sở và giải quyết ổn thỏa. - Tôi rất tiếc! Tôi cố gắng không biểu lộ nỗi thất vọng để trả lời ông. Dĩ nhiên, vì ngài cần đến tôi nên tôi không bàn cãi nữa. Nhưng tôi có một cuộc hẹn quan trọng và rất mật thiết. Nếu như ngài có thể cho phép tôi... - Chính vì tôi không thể cho phép anh...! Thuốc đắng quá. Nhưng tôi chỉ còn cách cố gắng nuốt trôi mà không nhăn mặt. Song nói cho cùng, đây cũng là lỗi tại tôi. Một nhà báo sao có quyền thực hiện những dự định riêng của mình cơ chứ? Thế là tôi tuyên bố một cách phóng khoáng: - Được, không bàn cãi nữa. Ngài muốn tôi làm gì nào? - Chỉ đơn giản là một cuộc phỏng vấn một con quỷ mang hình người sống ở Rotherfield. - Giáo sư Challenger phải không? Tôi kêu lên - Đúng rồi đó! Tuần vừa rồi, ông ta đã bám theo cậu Alec Simpson của tờ Courrier suốt 1500m khiến cu cậu ngã ngửa khi đang chạy xe tốc độ cao. Một tay ông ta nắm cổ áo vét còn tay kia tóm đũng quần. Anh đã đọc mục chuyện vặt chưa? Trong bản báo cáo của cảnh sát ấy! Đối với các đồng nghiệp của anh ở đây thì thà đi phỏng vấn một con cá sấu Bắc Mỹ hoang dã còn hơn. Nhưng còn anh, anh có thể thử xem sao, anh là một trong những người bạn cũ của ông ta...Tôi nghĩ rằng... Đến đây, tôi hoàn toàn trút được gánh nặng - Vậy thì tốt rồi. Đúng lúc tôi xin phép ngài để đi thăm giáo sư Challenger. Để kỷ niệm ba năm ngày chúng tôi cùng nhau phiêu lưu trên cao nguyên, ông ta đã mời cả bốn chúng tôi tới nhà dự họp mặt. - Tuyệt! Mc Ardle kêu lên, xoa xoa hai bàn tay và ném về phía tôi ánh nhìn lấp lánh sau cặp kính cận. Thật tuyệt, trong trường hợp này anh có thể khai thác thêm quan điểm của ông ta. Tôi nghĩ đây có thể chỉ là những suy tưởng hão huyền, song điều này chỉ diễn ra một lần, ai mà biết trước được. - Nhưng khai thác về cái gì? - Anh chưa đọc bức thư của ông ta về những "Khả năng khoa học" đăng trên tờ Times số ra hôm nay sao? - Chưa. Mc Ardle cúi xuống sàn và lấy lên tờ báo. - Anh hãy đọc to lên! Ông chỉ một cột báo và bảo tôi. Tôi sẽ rất vui lòng nghe lại vì khi đọc lần đầu tiên, tôi không chắc mình đã hiểu những gì quý ông này nghĩ trong đầu. Và tôi đọc ngay cho ông chủ bút tờ La Gazette nghe. Bức thư như sau: "Khả năng khoa học "Tôi đã đọc bức thư đầy hợm hĩnh nếu không muốn nói là ngu xuẩn của ngài James - Wilson MacPhail được đăng mới đây trên tờ báo của ngài. Thú thực, tôi thấy buồn cười và hơi coi thường. Bức thư viết về sự nhiễu vạch quang phổ Frauenhofer của các hành tinh và các vì sao cố định. Theo ông ta điều này chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng đối với một người có đầu óc thông minh hơn ông ta, sự việc có thể mang một tầm quan trọng rất lớn, thậm chí có thể đe dọa cuộc sống của tất cả mọi người trên hành tinh, từ đàn ông, đàn bà đến trẻ em. Đối với tôi, ngôn ngữ khoa học là không thích hợp để trình bày quan điểm của tôi với công chúng, những người chỉ có vừa đủ trí thông minh để đọc giải trí những bài báo hàng ngày. Do vậy tôi sẽ cố gắng hạn chế và dùng lối lập luận loại suy để trình bày quan điểm của tôi. Lối lập luận này sẽ không vượt quá khả năng trí tuệ của độc giả của quí báo....” - Đây là con át chủ bài, anh bạn thân mến của tôi ạ,! Một kỳ quan sống! Ông Mc Ardle kêu lên. Ông ta làm dựng lông cả con bồ câu non, ông ta dám nhắc lại vụ giết người ở hội nghị Quakers. Chẳng có gì là đáng ngạc nhiên khi ông ta không thể chịu được cả thành Luân Đôn! Thật đáng tiếc, Malone ạ vì đây là một bộ óc vĩ đại! Nào, chúng ta hãy xem thử một chút lối lập luận loại suy của ông ta xem nào! “Chúng ta hãy giả thiết rằng có một gói nhỏ các nút chai bó liền với nhau đượcvứt xuống một dòng chảy chậm chạp để trôi ra Đại Tây Dương. Dần dần, ngày qua ngày, trong điều kiện không đổi, các nút chai liên kết lại với nhau. Nếu các nút chai có năng lực cảm giác, chúng ta có thể tưởng tượng rằng chúng coi những điều kiện này là thường xuyên và chắc chắn. Nhưng chúng ta, với trình độ ý thức cao hơn, chúng ta đều biết rằng có thể có vô vàn sự kiện bất ngờ xảy ra cản trở hành trình của các nút chai. Chẳng hạn, nếu không bị mắc kẹt trong cỏ, chúng có thể va phải một chiếc tàu hay một con cá voi đang ngủ. Dù sao thì cuối cùng chuyến hành trình của chúng cũng kết thúc khi chúng bất ngờ cập bờ đá vùng Labrado. Nhưng làm sao chúng có thể nghi ngờ điều này khi chúng đang bình yên trôi trên vùng nước mà chúng vẫn tưởng là một đại dương mênh mông và không hề có trở ngại? Theo giả thiết này, độc giả của ngài có thể nghĩ ngay rằng Đại Tây Dương là một đại dương ê- te trên đó chúng ta đang trôi nổi và một bó các nút chai tượng trưng cho hệ hành tinh nhỏ bé và tăm tối của chúng ta. Ánh mặt trời loại thứ ba kéo theo bóng của những vệ tinh rất nhỏ. Chúng ta cũng bị cuốn chung vào vòng xoáy đó với một mục đích nào đó mà tôi không rõ lắm. Chúng hãy tưởng tượng một tai hoạ khủng khiếp cuốn chúng ta đi tới tận cùng của không gian và ném chúng ta vào một dòng ê-te Niagara hay nghiền nát chúng ta trên một Labrador nào đó không thể tưởng tượng được. Tôi không hiểu điều gì đã khiến cộng tác viên của ngài, ông Winson Mac Phail có thể tỏ ra lạc quan một cách ngu ngốc và hời hợt như thế. Ngược lại, tôi lại thấy vô vàn lý do khiến chúng ta phải thật chú ý đến mọi dấu hiệu thay đổi khí quyển trái đất. Có thể số phận của chúng ta sẽ phụ thuộc vào yếu tố này.” - Ông ta có thể trở thành một bộ trưởng tài năng đấy, anh bạn thân mến. Mc Ardle nói chen ngang với vẻ thán phục. Ông ta biết cách tạo ra cho những gì mình viết tiếng vang của một cây đàn. Nào bây giờ chúng ta hãy xem một chút những gì đang ám ảnh ông ấy! "Theo tôi, hiện tượng mờ toàn phần hoặc sự dịch chuyển của các vạch phổ Frauenhofer chứng tỏ có sự thay đổi lớn trong vũ trụ. Sự thay đổi này diễn ra rất tinh vi và kỳ lạ. Ánh sáng phát ra từ một hành tinh là ánh sáng phản chiếu của ánh mặt trời. Trong khi đó ánh sáng của một vì sao là ánh sáng tự nó phát ra. Vậy mà, trong trường hợp này, tất cả quang phổ của các ngôi sao và của các hành tinh đều cho thấy sự thay đổi giống nhau. Liệu đó có thể là hậu quả của sự thay đổi diễn ra trên các ngôi sao và các hành tinh đó không ? Một giả thuyết như vậy là không có căn cứ: làm sao có thể đồng thời diễn ra sự thay đổi như nhau ở cả các hành tinh và các ngôi sao? Vậy thì có thể là do khí quyển trái đất thay đổi? Có thể, nhưng đây là giả thiết rất mong manh vì chúng ta chưa phát hiện một dấu hiệu nào của hiện tượng này xung quanh chúng ta. Và hơn nữa, các kết quả phân tích hoá học không cho thấy điều này. Vậy giả thiết thứ ba là gì? Đó là sự biến đổi của môi trường dẫn, của đại dương ê-te mênh mông, nguyên chất trải rộng từ ngôi sao này đến ngôi sao khác và tràn khắp vũ trụ. Trong đại dương mênh mông đó, chúng ta trôi nổi trên những dòng lững lờ. Có thể cấm người ta tin rằng dòng chảy này sẽ dẫn chúng ta đến những trường ê-te mới với những đặc tính không thể tưởng tượng nổi hay không? Sự biến đổi đã diễn ra ở đâu đó. Nó có thể tiêu cực, tích cực hoặc trung tính: không tích cực cũng không tiêu cực. Chúng ta không hề biết gì về điều đó. Người quan sát bình thường có thể tuỳ ý đánh giá một cách hời hợt về vấn đề này. Nhưng đối với một người như tôi, một con người có hiểu biết sâu hơn tôi hiểu rằng trong vũ trụ có rất nhiều khả năng xảy ra và cách tốt nhất là bình tĩnh trước mọi biến cố bất ngờ. Chúng ta hãy lấy một ví dụ: Ai dám khẳng định rằng dịch bệnh bất ngờ và bí ẩn lây lan khắp dân bản xứ trên đảo Sumatra mà tờ báo sáng nay của ngài thuật lại không có mối liên quan nào với sự thay đổi trong vũ trụ? Có thể người dân bản xứ đảo Sumatra dễ chịu tác động của sự thay đổi này hơn so với những người dân Châu u. Tôi chỉ lên tiếng trước những vấn đề thực sự quan trọng. Trong tình hình hiện nay, khẳng định giả thiết này đúng hay sai cũng đều nực cười. Nhưng phải là một kẻ cực kỳ ngốc mới tin rằng khoa học không thể giải thích được hiện tượng này. "Kẻ tận tuỵ của ngài, " George Edward Challenger. " Les Bruyères, Rotherfiel." Trở lên trên dangphuong Thành viên mới Tham gia: 08 Aug 2005 Posts: 21 Location: Ha Noi Posted: Sun Aug 21, 2005 4:31 pm Post subject: - Một bức thư hay cho thấy trí thông minh tuyệt vời! Mc Ardle bình luận trong khi cho thêm điếu xì gà vào ống điếu thuỷ tinh dài . Anh nghĩ gì về sự việc này, anh Malone? Tôi xấu hổ thú nhận rằng tôi hoàn toàn không biết gì về vấn đề được đề cập đến trong bức thư. Vạch phổ Frauenhofer là gì? Thật may là Mc Ardle cũng vừa nghiên cứu vấn đề này bằng tài trí và những gì có được của một nhà bác học vườn. Ông hấp tấp rút từ trong ngăn bàn ra hai dải dài nhiều màu, giống như loại rubăng mà đôi khi người ta thấy đính trên mũ của các thành viên câu lạc bộ cricket trẻ. Ông chỉ cho tôi một số đường kẻ đen cắt ngang các dải màu sáng có sắc đỏ,tím và các cấp độ khác nhau như màu cam, vàng, xanh lá cây, xanh lục, chàm. - Các đường kẻ đen đó là các vạch Frauenhofer. Ông giải thích cho tôi. Màu sắc chính là quang phổ của ánh sáng. Nếu anh phân tích bất kỳ loại ánh sáng nào bằng một lăng trụ kính cũng sẽ được các màu sắc như thế. Các loại màu sắc đó không cho chúng ta biết điều gì cả. Chỉ có các vạch phổ là quan trọng vì chúng thay đổi tuỳ theo nguồn phát sáng. Vậy mà hiện nay các vạch đen này bị rối loạn và tất cả các nhà thiên văn học đều đang tranh cãi về nguyên nhân của hiện tượng này. Đây là bức ảnh chụp lại các vạch đen bị rối loạn. Chúng ta sẽ đăng bức ảnh này trên số báo ra ngày mai. Cho tới giờ, công chúng vẫn không mấy lưu ý tới vấn đề này. Nhưng tôi cho rằng bức thư đăng trên tờ Times của ngài Challenger sẽ gây sự chú ý của độc giả. - Thế còn câu chuyện trên đảo Sumatra? - À! giữa hiện tượng rối loạn vạch phổ với dịch bệnh trên đảo Sumatra chẳng có quan hệ gì mấy. Câu chuyện đó chỉ để chứng minh là ông ta biết những gì ông ta nói. Nhưng đúng là ở đó đang xuất hiện một dịch bệnh kỳ lạ. Vừa có một bức điện tín cho chúng ta biết rằng các ngọn hải đăng ở eo biển Sonde đã ngừng phát sáng. Hậu quả là hai chiếc tàu mắc cạn ở bờ biển. Đây là chủ đề hay cho cuộc nói chuyện giữa anh và Challenger. Nếu có thông tin gì cụ thể hơn chúng ta sẽ viết bài cho số ra hôm thứ hai tới. Ra khỏi phòng làm việc của trưởng ban biên tập, đầu tôi tràn ngập những hình ảnh về vụ việc này. Bất chợt tôi nghe tiếng ai đó trong phòng đợi gọi tôi. Một nhân viên điện báo đưa tôi bức điện khẩn.... Bức điện này chính là của người đàn ông mà chúng tôi vừa nói tới. Nó nội dung như sau:" Malone, 17, Hill Street, Stretham. - Hãy mang theo ô- xy!.- Challenger." "Mang theo ô-xy!" Tôi vẫn nhớ, vị giáo sư này có máu hài hước phong phú đến độ có thể nghĩ ra những trò đùa vừa thô vừa nặng nề. Phải chăng đây lại là một trong những trò khiến ông ta lăn ra cười đến mức người ta không còn nhìn thấy gì khuôn mặt ông ngoài một cái miệng há hốc và một bộ râu rung chuyển, loại trò đùa có thể xoá tan không khí trịnh trọng bao quanh ông như thể ông là thần Dớt trên đỉnh Olympia vậy. Mặc dù đã ngẫm nghĩ rất lâu, tôi vẫn không tìm ra được dấu hiệu trêu đùa trong hai từ này. Chắc chắn đây là một lời ra lệnh: vừa rõ ràng vừa lạ lùng. Mà Challenger là người duy nhất trên thế giới tôi chưa bao giờ nghĩ là sẽ làm trái lời. Có thể ông đang tiến hành một vụ thử nghiệm hoá học nào đó. Có thể thế lắm! Có nhất thiết phải nghĩ tới nghĩ lui xem thực sự ông ấy muốn gì? Tôi cần mua ô-xy. Chỉ có thế. Tôi còn một tiếng trước giờ tàu khởi hành từ ga Victoria. Tôi đi tắc-xi đến Công ty phân phối bình ô-xy, phố Oxford. Tôi đến trước cửa toà nhà của công ty. Có hai thanh niên từ đó đi ra, hai tay khiêng một bình sắt hình lăng trụ. Họ kéo chiếc bình lên và giữ nó cố định trong chiếc ô tô đang chờ, ngay trước mắt tôi. Tôi nhìn theo và thấy một người đàn ông đã có tuổi, giọng the thé đang nói với họ điều gì đó không mấy dễ chịu. Ông ta quay về phía tôi .... Không còn nghi ngờ gì nữa. Những nét khắc khổ và bộ râu kia chính là của ông bạn cục cằn và quàu quạu của tôi, giáo sư Summerlee. - Cái gì thế này! Ông nhìn tôi kêu lên. Chắc hẳn anh cũng nhận được bức điện về ô-xy phi lý đó phải không? Tôi rút bức điện từ trong túi ra. - Đúng rồi, tôi cũng nhận được một bức điện y như thế! Anh biết đấy, tôi chẳng muốn làm chút nào. Bao giờ cũng thế, ông bạn già của chúng ta thực là không thể chịu nổi! Cứ như thể bình thường thì ông ta không thể mua ô-xy được ấy! Sao ông ta lại cứ muốn làm mất thời giờ của những nguời phải làm việc nhiều hơn ông ta cơ chứ. Sao ông ta không tự mình gọi ôxy nhỉ? - Chắc hẳn là ông ấy phải cần ngay lập tức? - Hoặc là ông ta nghĩ rằng ông ta cần ngay lập tức! Đó không phải là.... Ơ này, anh không định mua thêm một bình nữa đấy chứ? Bình tôi mua là đủ cho cả hai nguời rồi? - Giáo sư ạ, tôi hoàn toàn thoải mái nếu mỗi người mang cho ông ấy một bình. Tôi sẽ làm như vậy. Summerlee nhún vai, cằn nhằn, nhưng tôi vẫn không thay đổi ý định. Tôi mua một bình nữa rồi cũng để vào chỗ của bình thứ nhất vì ông mời tôi cùng đi tới Victoria. Tôi đi trả tiền tắc- xi. Gã tài xế có vẻ cáu kỉnh muốn gây gổ và đòi tiền boa quá đáng. Cuối cùng tôi cũng giải quyết xong xuôi và quay trở lại phía giáo sư Summerlee. Ông suýt nữa thì đánh nhau với hai gã thanh niên vác bình ga. Ông tức giận và nổi xung lên: Tôi vẫn nhớ một trong hai gã đó đã gọi ông là "con vẹt màu già ngu độn". Câu rủa thứ hai khiến người lái xe cho Summerlee nổi giận. Bác ta xông ra khỏi xe để trừng trị kẻ vô lễ. May mà cuối cùng chúng tôi cũng tránh được một cuộc ẩu đả. Tất cả những chi tiết này thoạt nghe có vẻ rất nhạt nhẽo và tầm thường, chẳng đáng được kể lại trong câu chuyện của tôi. Nhưng giờ đây, khi có thời gian nhìn lại, tôi mới thấy rõ được vai trò của chúngtrong một chuỗi các sự việc mà tôi sẽ kể lại sau đây. Tài xế của Summerlee có thể là một người mới lái xe hoặc đã mất bình tĩnh sau vụ tranh cãi vì bác ta lái xe rất vụng về. Chúng tôi gần đụng phải hai chiếc xe khác (cũng lái rất ẩu). Tôi nhớ là đã nói với Summerlee rằng trình độ nghề nghiệp của giới tài xế Luân Đôn đã xuống cấp. Sau đó chúng tôi lại đâm phải một đám đông đang tụ tập ở góc phố Mall để xem một vụ ẩu đả. Đám người bị kích động và kêu lên giận giữ, chửi "lão tài xế già" của chúng tôi. Một người trong đám đông nhảy lên bậc xe và huơ gậy lên đe doạ. Tôi đã phải đẩy anh ta ra. Chúng tôi nhẹ cả khi ra khỏi đó một cách an toàn. Tất cả những sự kiện lẻ tẻ như thế dần dần khiến đầu óc tôi căng lên. Còn ông bạn đồng hành của tôi thì bực bội đến mức không thể kiềm chế được sự thiếu kiên nhẫn của mình. Chúng tôi lấy lại tâm trạng vui vẻ khi thấy huân tước John Roxton đứng chờ trên sân ga. Vẫn dáng người cao, mảnh, ông mặc một bộ đồ len đi săn màu hạt dẻ sáng. Khi nhận ra chúng tôi, khuôn mặt nhỏ với đôi mắt ấn tượng vừa dữ tợn vừa tươi cười sáng lên niềm vui. Một vài sợi bạc đã xuất hiện trên bộ tóc hung đỏ và những nếp nhăn như hằn sâu thêm vì thời gian, nhưng ông vẫn là huân tước John, người bạn đã cùng chơi rất thân với chúng tôi. - Chào ngài giáo sư, chào cậu bé! Ông chợt kêu lên vui vẻ khi trông thấy những bình ga mà một người khuân vác đang kéo theo sau chúng tôi. - Các bạn cũng mang theo ư? Bình của tôi trên toa chở hàng. Chẳng biết cụ già đáng mến có thể làm gì với chúng đây? - Đợi đã, tôi nói, ông đã đọc những bức thư trên tờ thời báo Times chứ ? - Toàn những lời nhảm nhí! Summerlee tuyên bố rất nghiêm túc. - Chẳng phải nó là khởi nguồn của câu chuyện về ô-xy này hay sao? Hay là tôi nhầm? - Toàn những thứ nhố nhăng, phi lý! Summerlee lặp lại một cách hằn học không đáng có. Chúng tôi đặt chỗ trong toa hạng 1 dành cho người hút thuốc và Summerlee châm chiếc tẩu đen, ngắn làm bằng rễ thạch thảo. Chiếc tẩu như làm chiếc mũi cao của ông càng thêm dữ tợn. - Ông bạn Challenger là một người thông minh! Ông nói tiếp. Không ai phủ nhận điều đó. Mà có hoạ là điên mới phủ nhận điều đó. Cứ xem chiếc mũ của ông ấy thì biết. Bên dưới ấy là một bộ óc nặng 1,7 kg, một động cơ vĩ đại, hoạt động tốt và làm nhiều việc rất hiệu quả. Hãy cho tôi xem chiếc mũ, tôi sẽ cho anh biết trọng lượng của động cơ. Chỉ có điều, Challenger bản chất là một gã lang thang. Mọi nguời vẫn nhớ có lần tôi đã nói thẳng vào mặt ông ấy như thế chứ?. Ông ấy sinh ra là kẻ làm ảo thuật đường phố, một hạ sĩ lang thang. Ông ấy lúc nào cũng muốn mọi ánh đèn rọi vào mình. Khán giả yên lặng ư? Được thôi, vậy thì ông bạn Challenger sẽ tìm cách bắt người ta nói về mình. Các ông không nghĩ là ông ta tin tưởng một cách nghiêm túc vào luận điểm ngu ngốc của ông ta đấy chứ? Ông ta cho rằng hiện tượng biến đổi ê-te có thể đe doạ loài người hay sao? Về phía ông ta, đó chỉ là sự bịa đặt thuần tuý. Và tôi cho rằng đó là sự bịa đặt trắng trợn và táo bạo nhất chưa từng diễn ra trên trái đất này. Nhưng... Ông có vẻ một con quạ già lạc bầy tinh tướng, lớn tiếng chê bai với nụ cười cay độc làm rung chuyển toàn thân. Một cơn giận dần dần dâng lên trong tôi sau mỗi lời của Summerler. Thật quá đáng khi nói về người đội trưởng của mình như vậy, người đã khiến chúng tôi trở nên nổi tiếng và cho chúng tôi những cơ hội trải nghiệm có một không hai. Tôi định phản bác nhưng huân tước John đã nói trước: - Ông đã từng đấu với ông bạn già Challenger một lần, ông lạnh lùng nói với Summerlee, và ông đã bị hạ nốc - ao ngay từ hiệp đầu tiên. Hình như đối với tôi, thưa ông Summerlee, ông ấy thuộc đẳng cấp cao hơn ông. Điều tốt nhất ông nên làm là bước theo chân ông ấy. Ông hãy nhớ lấy duy nhất điều này thôi! Lập tức tôi tiếp lời - Hơn nữa, ông ấy luôn là người bạn tốt của chúng ta. Dù có lỗi gì đi nữa, ông ấy vẫn luôn là người thẳng thắn và tôi không tin rằng có một lúc nào đó ông ấy lại nói xấu bạn bè sau lưng. - Nói hay lắm, cậu bé! Huân tước John Roxton cười ủng hộ tôi rồi thân mậtvỗ vai Summerlee. - Nào, thưa ngài giáo sư , chúng ta sẽ không bắt đầu ngày hôm nay bằng một cuộc tranh cãi chứ hả? Chúng ta đã từng chứng kiến quá nhiều vụ cãi cọ rồi! Nhưng hãy cẩn thận, đừng đi qúa xa khi ông nói tới Challenger vì cậu thanh niên đây và chính tôi, chúng tôi yêu quý ông già giáo sư đáng mến ấy. Thật bất hạnh là Summerlee không hề tỏ ra muốn dàn hoà. Mặt ông đanh lại, cau có, biểu hiện thái độ bất đồng nhất nhất không nao núng. Từ tẩu thuốc của ông thoát ra từng cụm khói dày giận dữ. Ông gằn giọng nói với huân tước John: - Quan điểm của ông về một vấn đề khoa học cũng chẳng khác gì ý kiến của tôi về một mô hình súng trường mới. Tôi có đánh giá riêng của tôi, thưa huân tước đáng kính, và tôi vẫn sẽ giữ nguyên như thế chừng nào tôi muốn. Lẽ nào vì ông ta đã lừa tôi được một lần mà tôi phải chấp nhận mà không được phê bình bất kỳ một công trình nghiên cứu nào đó do ông ý đầu têu ra? Nếu thế, chúng ta sẽ có một vị Giáo hoàng trong khoa học chuyên đưa ra những mệnh lệnh cứng nhắc từ trên bục giảng đạo mà các con chiên tội nghiệp dù thế nào cũng vẫn phải nhất nhất phục tùng. Tôi lấy làm hân hạnh được thông báo với ngài, thưa ngài, rằng tôi cũng có một khối óc và tôi sẽ tự coi mình là một kẻ nô lệ hay một kẻ học đòi làm sang nếu như tôi không biết sử dụng nó. Ngài có thể tin rằng những giả thuyết thiếu nhất quán về ê- te và vạch phổ Frauenhofer của ông ấy là đúng, được, xin cứ việc. Nhưng ngài đừng nên yêu cầu một người lớn tuổi hơn ngài, học thức hơn ngài, phải đồng ý với sự ngu ngốc đó. Ngài thấy đó, nếu ê-te biến đổi đến mức như Challenger nói và nếu như hiện tượng này độc hại cho sức khoẻ con người thì lẽ nào tác hại lại không ảnh hưởng lên chính chúng ta? Và ông ta bắt đầu cười, coi lập luận của mình là không thể bác bẻ được. - Đúng vậy, thưa ngài, chúng ta đã khác với chính chúng ta! Thay vì ngồi yên trong toa và thảo luận về những vấn đề khoa học, chúng ta đã chứng tỏ một vài dấu hiệu nhiễm chất độc mà chúng ta đang nghiên cứu. Ngài thấy dấu hiệu rối loạn khí quyển vũ trụ ở đâu? Nào, thưa ngài, ngài trả lời đi! Nào, không lối thoát nhé! Tôi yêu cầu ngài trả lời đi chứ! Tôi bắt đầu nổi giận. Trong thái độ của Summerlee có cái gì đó đáng ghét và hung hăng... Tôi không thể kiềm chế được nữa. - Tôi tin rằng nếu ngài biết mọi việc rõ hơn một chút ngài sẽ không dám khẳng định chắc chắn như thế! Summerlee bỏ tẩu thuốc, nhìn tôi chằm chằm bằng một vẻ ngạc nhiên lạnh lùng. - Anh bạn, xin vui lòng cho tôi biết anh định ám chỉ điều gì trong lời nhận xét hỗn xược này chứ? - Tôi chỉ muốn nói điều này: khi tôi rời toà báo thì nhận được một bức điện thông báo hiện nay đang có một dịch bệnh lây lan trong toàn bộ cư dân bản xứ trên đảo Sumatra. Bức điện báo này còn cho biết thêm rằng các ngọn hải đăng ở eo biển La Sonde không còn sáng lên được nữa. Summerlee nổi hung lên: - Sự điên loạn và ngu ngốc của con người cũng phải có giới hạn thôi chứ! Chẳng nhẽ các vị không hiểu rằng ê te là một chất có trong khắp bầu khí quyển và luôn đồng nhất ở tất cả mọi nơi trên thế giới hay sao? Và nếu đồng ý với giả thiết kỳ cục của Challenger, phải chăng các ngài đang cho rằng ê-te ở Kent khác với ê-te ở Surrey. Liệu có lý không khi ê-te ở đảo Sumatra nguy hiểm chết người đến mức gây ra sự tê liệt hoàn toàn, trong khi ở đây, vào lúc này, người ta không nhận thấy bất cứ dấu hiệu nào của sự nhiễm độc? Riêng với tôi, tôi có thể khẳng định rằng chưa bao giờ tôi cảm thấy khoẻ khoắn và tinh thần minh mẫn như bây giờ! - Có thể, tôi trả lời, tôi không phủ nhận phẩm chất của một nhà bác học nơi ông. Tuy nhiên, tôi đã nghe nói và nghe nhiều rằng khoa học của một thế hệ này vẫn thường bị thế hệ sau coi như một mớ lý thuyết sai lầm. Và chẳng cần phải hiểu biết nhiều mới thấy rằng giới khoa học vẫn còn biết rất ít về ê-te và loại khí này có thể bị rối loạn ở một địa phương nhất định, ở một vài điểm trên địa cầu và sau đó có thể sẽ lan tới chúng ta. - Với những "có thể" với “giả sử” của anh, -Summerlee tức giận giận kêu kên, người ta có thể chứng minh mọi thứ! Lợn có thể bay. Đúng vậy, thưa anh, con lợn cũng có thể bay, nhưng sự thực là chúng không thể bay đuợc! Vả lại, tranh cãi với anh thật là vô ích! Challenger đã gieo vào đầu anh sự phi lý. Cả hai người các vị đều không còn khả năng tư duy. Nói chuyện với hai người thì tôi thà nói chuyện với những hành khách trong khoang bên kia còn tốt hơn! Huân tước John nghiêm mặt: - Giáo sư Summerlee, tôi buộc phải nói với ông rằng cung cách xử xự của ông chẳng cải thiện chút nào từ khi tôi hân hạnh được gặp ông lần đầu tiên! - Đó là vì cái tư tưởng ông lớn ở trong ngài vốn không quen nghe sự thật. Chắc hẳn là ngài sẽ làm gì đó khi ai đó giúp ngài nhận ra rằng đằng sau tước hiệu của ngài là một kẻ ngu ngốc tội nghiệp đúng không? - Tôi thề rằng, huân tước John quả quyết đáp lại, nếu ngài trẻ hơn tôi, ngài sẽ không dám nói với tôi với giọng điệu như bây giờ! Summerlee vênh cằm, chĩa chòm râu ra phía trước. - Tôi cho ngài hay, dù trẻ hay già, tôi chưa bao giờ sợ khi nói thẳng sự thật về môt gã thầy giáo ngu ngốc!... Ngay cả khi kẻ ngu ngốc này có thể khoác đủ các chức danh mà bọn nô lệ bịa ra và chỉ có những kẻ ngu mới tự hào về các chức danh đó! Trong một lúc, mắt huân tước John long lên, nhưng ông đã kiềm chế được cơn giận. Ông dựa lưng vào chiếc ghế và khoanh tay lại. nhưng nụ cười gượng ẩn chứa nỗi cay đắng. Tôi cảm thấy nặng nề, trĩu buồn. Như một cơn sóng, kỷ niệm chung ngày xưa của ba người ào về: tình bạn chân thành, những ngày vui, những cuộc phiêu lưu và cả những nỗi đau, những lo sợ và công việc....tất cả những gì mà chúng tôi đã có. Và kết cục là như vậy sao? Thoá mạ, lăng nhục nhau...Và tôi oà khóc, những tiếng nấc nghẹn ngào, nức nở, không kìm nén được. Hai người bạn ngạc nhiên nhìn tôi. Hai tay ôm đầu, tôi nói: -Các ông đừng bận tâm! Chỉ là....chỉ là... Tôi rất tiếc! - Cậu ốm rồi, cậu bé! Huân tước John thì thầm. Ngay từ đầu tôi đã nhận thấy cậu có vẻ gì đó không bình thường. Summerlee chen ngang vẻ nghiêm trang: - Ba năm trôi qua mà anh vẫn không thay đổi được thói quen. Tôi cũng vậy. Ngay từ khi mới gặp lại anh tôi đã thấy thái độ của anh rất lạ lùng. Ngài đừng nên lãng phí tình thương làm gì, huân tước John ạ! Những giọt nước mắt kia chỉ là nước mắt của một gã say. Malone đã uống rượu, thế thôi! Huân tước John ạ, tôi vừa gọi ngài là gã thầy giáo ngu ngốc quả có phần hơi quá. Nhưng từ này lại gợi cho tôi nhớ lại vài điều. Các ngài vẫn thường thấy tôi trong dáng vẻ một nhà bác học nghiêm túc phải không? Nhưng các vị vẫn chưa biết một số tài mọn khác của tôi, khi tôi còn là thầy giáo. Các ngài có tin không khi tôi nói rằng trong một số trường cho trẻ nhỏ tôi đã có uy tín xứng đáng (hoàn toàn xứng đáng, huân tước John ạ!) được là một chuyên gia bắt chước? Nhưng bắt chước cái gì? Tôi sẽ cho các ngài thấy hàng nghìn ví dụ. Tôi bắt chước một cách hoàn hảo tiếng những con vật nuôi. Thực như vậy đấy và đây sẽ là cách giết thời gian tốt nhất ở đây! Ngài có vui lòng nghe tôi bắt chước tiếng gà trống gáy không? - Không, thưa ngài, tôi chẳng hề muốn nghe! huân tước John trả lời. Ông vẫn còn bị lời xúc phạm làm tổn thương. - Tôi bắt chước tiếng con gà mái kêu lúc nó làm vỡ trứng đã được người ta cho điểm trên trung bình đấy. Ông có muốn nghe không? - Không, thưa ngài, tôi không muốn nghe! Nhưng cuối cùng Summerlee quyết định không để ý đến ý kiến của huân tước John. Ông bỏ tẩu thuốc... Và từ lúc đó cho tới cuối chuyến đi ông đã làm cho chúng tôi vui vẻ (ít nhất thì ông cũng đã cố gắng làm cho chúng tôi vui vẻ) khi bắt chước lúc thì tiếng các loài chim, lúc thì tiếng các con vật khác nhau một cách rất phi lý đến mức tôi ngừng khóc như thích thú lắm. Tôi bất chợt phá lên cười khi nhìn, đúng hơn là khi nghe thấy vị giáo sư trịnh trọng đang ngồi đối diện với tôi bắt chước tiếng kêu ăng ẳng của một con chó bị kẹp đuôi vào cửa. Có một lúc nào đó huân tước John đã chuyển cho tôi tờ báo của ông. Ông ghi vào lề tờ báo dòng chữ bằng bút chì:"Con quỷ tội nghiệp. Ông ấy hâm nặng rồi". Dĩ nhiên là cách xử xự của ông ấy thật kỳ quặc, nhưng đối với tôi, những tài lẻ của ông ấy thật là thú vị. Rồi huân tước John nghiêng người về phía tôi, kể cho tôi nghe một câu chuyện lê tha lê thê, không đầu không cuối, hình như là một câu chuyện về những con trâu hay về một hoàng tử nào đó ở ấn Độ thì phải. Tuy nhiên, đúng vào lúc mà câu chuyện trở nên hấp dẫn và giáo sư Summerlee đang hứng chí thì tàu đã đến ga Jarvis Brook, một ga nhỏ nghe nói là ở gần Rotherfield. Challenger đã chờ chúng tôi ở đó. Ông có vẻ rất vui. Từ xưa tới nay, không một con công nào trên trái đất từ có thể sánh với ông về tính chậm rãi và kiêu ngạo. Ông dạo bước chầm chậm trên sân ga, nhìn ngắm mọi người với nụ cười đầy vẻ kẻ cả, quan sát... Nếu như ông có thay đổi theo năm tháng thì sự thay đổi chỉ in đậm thêm những nét đặc trưng trên con người ông. Cái đầu có vầng trán cao luôn rủ mấy lọn tóc nhuộm đen loà xoà dường như càng ngày càng to hơn. Bộ râu dài như thác nước đổ dường như dài hơn trước. Dưới mí mắt húp xuống nặng nề đầy thách thức là đôi mắt xám rất sáng phản chiếu ý chí thống trị kỳ lạ trong ông. Ông giơ nắm đấm về phía tôi, miệng nở nụ cười khuyến khích, nụ cười mà người thầy giáo thường dùng để động viên những cậu trò ít tuổi nhất lớp, rồi quay sang nói chuyện với hai người bạn đi cùng tôi. Ông giúp chúng tôi tập hợp các bình ô-xy lại rồi dẫn chúng tôi đến một chiếc ô -tô to hơn. Bác tài xế Austin có vẻ lãnh đạm. Bác ta vốn là người ít nói. Tôi đã từng thấy ở bác ta vẻ trịnh trọng của người chủ nhà khi tôi đến thăm giáo sư lần đầu tiên. Chúng tôi đi lên con dốc men theo đồi. Cảnh vật thật tuyệt vời. Tôi ngồi ghế trên cạnh bác lái xe, có cảm tưởng như ở phía sau, tất cả ba người bạn của tôi đang cùng nói một lúc. Huân tước John đang kể lại câu chuyện về những con trâu trong khi giọng nói nặng nề của Challenger và giọng the thé của Summerlee đang bắt đầu một cuộc đấu tay đôi. Đây là dấu hiệu báo trước một cuộc tranh luận khoa học gay gắt và chuyên sâu. Bất chợt Austin hướng khuôn mặt rám nắng về phía tôi và trong khi mắt vẫn chăm chú nhìn tay lái, bác ta nói: - Tôi đã bị đuổi việc. - Chúa ơi! - Hôm nay tất cả mọi thứ thật kỳ cục. Mọi người chỉ nói những điều lạ lùng, bất ngờ, cứ như trong mơ. - Đây là lần thứ 47 rồi! Bác ta nói thêm sau một lúc im lặng. - Khi nào bác đi? - Tôi sẽ không đi đâu! Lẽ ra câu chuyện đã có thể dừng lại nhưng Austin lại tiếp: - Nếu tôi đi ai sẽ chăm sóc ông ấy? Bác hất đầu về phía chủ. Ông ấy sẽ tìm được ai để phục vụ cơ chứ? - Cũng có thể ông ấy sẽ tìm được ai đấy khác? - Ông ấy ư? Chẳng ai hết! Chẳng ai có thể ở được lâu hơn một tuần. Tôi đi mà thì nhà cửa sẽ lộn xộn như một chiếc đồng hồ hỏng hết bánh răng. Tôi nói với anh điều này vì anh là bạn của ông ấy, anh phải biết. Có lẽ tôi hơi quá lời nhưng thực sự tôi chẳng có bụng dạ nào! Ông ấy và bà chủ, họ giống như hai đứa trẻ bị bỏ rơi. Tôi toàn phải lo tất. Bây giờ thì thế đấy: ông ấy tống tôi ra khỏi cửa! - Tại sao không người nào ở lại được? Tôi hỏi. - Vì không ai chịu được ông ấy. Ông chủ quá thông minh! Thông minh đến mức đôi lúc ông ấy phát điên. Tôi thề với anh đấy! Tôi đã nhìn thấy lúc ông ấy điên lên. Này, anh có biết là sáng nay ông ấy đã làm gì không? - Sáng nay ông ấy đã làm gì? Austin ghé tai tôi. - Ông ấy đã cắn chị giúp việc! - Cắn ư? - Vâng, thưa ông, ông ấy đã cắn vào chân. Tôi đã tận mắt thấy chị ta lao như bay ra khỏi tiền sảnh. - Chúa ơi! Một con người lạ lùng làm sao! - Cả anh cũng vậy, anh cũng sẽ cho ông ấy là điên nếu nhìn thấy ông ấy như tôi đã thấy. Ông ấy chẳng hề kết bạn với những người xung quanh. Có người nghĩ rằng khi ông ấy ở cùng với những con quỷ mà anh đã nhắc tới ấy, đó mới là nhà, là môi trường thích hợp với ông ấy. Người ta vẫn nói thế đấy. Nhưng tôi đã phục vụ ông ấy từ 10 năm nay, và ông ấy khiến tôi hài lòng. Chỉ có đôi lúc ông ấy tỏ ra dữ tợn thôi. Anh xem kìa, thế kia thì có thể gọi là hiếu khách được không? Anh đọc đi! Xe chạy một cách chậm chạp qua đoạn đường cuối cùng có nhiều khúc quanh gấp. Trong góc một khúc quanh hiện ra một bảng nhỏ được dựng trên một hàng rào cắt tỉa cẩn thận. Austin có lý. Chiếc bảng này đáng được đọc dù rất khó. Khuyến cáo Không tiếp khách đến thăm, nhà báo, ăn mày. G.E. Challenger - Không thể nào gọi đây là một lời đón chào nồng nhiệt được, Austin lắc đầu nhắc lại. Bác lắc đầu khi đi qua tấm bảng với dòng chữ đáng phàn nàn đó rồi tiếp. - Điều này chẳng hay chút nào... Xin lỗi anh, nhiều năm qua tôi chưa bao giờ nói nhiều như ngày hôm nay. Nhưng hôm nay lại là một ngày không như mọi ngày khác! Ông ấy còn có thể cho tôi nghỉ việc, đuổi tôi ra cửa năm mươi lần nữa, nhưng tôi sẽ không đi. Đó là ông chủ của tôi, và sẽ mãi là ông chủ của tôi, tôi hy vọng thế, cho tới những ngày cuối đời. Chúng tôi đi qua hàng cọc trắng trước cổng vào và tới một lối đi đầy hoa đỗ quyên hai bên. Cuối lối đi là một ngôi nhà gạch thấp với khung mái màu trắng, rất đẹp và tiện nghi. Bà Challenger nhỏ nhắn, xinh xắn và tươi cười đứng trên bậc cửa tiếp đón chúng tôi. - Mình yêu quý! Challenger vội xuống xe và nói. Khách của chúng ta đây! Thật là kỳ diệu khi chúng ta có khách đến thăm phải không? Đúng là chúng ta đã sống phòng ngừa với những người xung quanh nhưng nếu như có cơ hội bỏ thuốc độc vào bánh mỳ mà người làm bánh mỳ mang đến cho chúng ta, tôi tin là họ sẽ không bỏ qua đâu. - Thật khủng khiếp! Khủng khiếp! Người thiếu phụ kêu lên dở khóc dở cười. George luôn tranh cãi với tất cả mọi người. Trên đất này, chúng tôi chẳng có lấy một người bạn. - Thế thì tôi mới có thể chuyên tâm chăm sóc người vợ tuyệt vời của mình chứ! Challenger vòng tay ôm vợ an ủi. (Các bạn cứ tưởng tượng đến một con khỉ và một con linh dương. Đó là hình ảnh gần như chính xác về cặp vợ chồng này). Nào, các quý ông đây đi đường đã mệt rồi. Phải chuẩn bị bữa trưa ngay. Sarah đã trở lại chưa?... Bà Challenger lắc đầu. Vị giáo sư phá lên cười, ông vỗ vỗ nhẹ lên bộ râu với một vẻ mãn nguyện rõ rệt. - Austin ! Ông gọi. Khi nào đỗ xe xong, bác vào giúp bà chủ làm cơm nhé! Còn bây giờ, mời các ngài vui lòng vào phòng làm việc với tôi ? Tôi có vài điều cực kỳ khẩn cấp cần trao đổi với các ngài. CHƯƠNG II Thuỷ triều chết Khi chúng tôi đi qua tiền sảnh để vào phòng làm việc của giáo sư thì chuông điện thoại reo. Vậy là chúng tôi trở thành những thính giả bất đắc dĩ của cuộc nói chuyện giữa giáo sư Challenger và người lạ. Tôi nói là "chúng tôi "thôi chứ thực ra trong khoảng 100m, ai cũng có thể nghe thấy tiếng nói vang như sấm làm rung chuyển toàn bộ ngôi nhà của ông. Những câu trả lời của vị giáo sư in trong óc tôi . - Vâng, vâng, đúng là tôi... Đúng, chắc chắn, tôi là giáo sư Challenger, chính là giáo sư nổi tiếng Challenger đây... Đúng, tất nhiên rồi, từng chữ. Nếu không, tôi đã không viết... Điều đó sẽ không làm tôi ngạc nhiên... Hình như mọi thứ đều cho thấy điều đó... Trong khoảng một ngày hoặc nhiều nhất là hai ngày nữa... Ồ, tôi không thể ngăn chặn được điều gì cả; làm sao tôi có thể làm được điều đó?!... Rất đáng ghét, không nghi ngờ gì nữa, nhưng tôi nghĩ rằng điều đó có thể tác động đến nhiều người còn quan trọng hơn các ông. Chẳng cần thiết phải run sợ đâu... Không, tôi không thể: ông hãy tận dụng lấy cơ hội của ông đi... Đủ rồi, thưa ông! Tôi còn nhiều việc phải làm thay vì ngồi nghe những lời run sợ của ông! Ông gác máy một cách khiếm nhã rồi dẫn chúng tôi lên tầng hai đến một căn phòng rất thoáng được dùng làm phòng làm việc của ông. Trên bàn làm việc bằng gỗ gụ rải rác 7 hay 8 bức điện tín chưa mở. Ông chỉ những bức điện tín và nói với chúng tôi. - Tôi bắt đầu tin rằng tôi sẽ tiết kiệm được khối tiền cho những người viết thư cho tôi nếu tôi tự đặt ra một địa chỉ cho riêng mình đấy. Các ngài thấy sao về dòng chữ này"Noé, Rotherfield"? Bị cuốn vào trò đùa không thể hiểu được này, ông phá lên cười. Tuy đứng dựa vào bàn làm việc nhưng toàn thân rung đến nỗi ông cầm những bức điện rất khó khăn. Ông kêu lên. - Noé! Noé! Mặt ông đỏ dừ. huân tước John và tôi mỉm cười thông cảm. Chỉ có Summerlee vẫn khó đăm đăm, bướng bỉnh lắc đầu để biểu thị sự bất bình sâu sắc. Khi Challenger bình tĩnh lại, ông bắt đầu mở các bức điện trong khi cả ba chúng tôi đang mải mê ngắm khung cảnh tuyệt vời đang trải rộng trước mắt qua khung cửa sổ. Thật là một khung cảnh đáng chiêm ngưỡng! Con đường với nhiều khúc quanh, khi thì đột ngột khi thì chậm rãi đưa chúng tôi lên tới một độ cao khá lớn mà sau này chúng tôi được biết là khoảng 250 m. Ngôi nhà của Challenger nằm đúng trên đỉnh đồi. Từ mặt phía Nam của ngôi nhà, phía mà khung cửa sổ phòng làm việc nhìn ra, chúng tôi phóng tầm mắt xa tới tận những bình nguyên trắng màu đá và nhấp nhô tạo thành đường chân trời. Giữa những bình nguyên xa xa đó, một màn sương nhẹ thấp thoáng phủ lên thành phố Lewes. Ngay dưới chân chúng tôi là những bụi cây lúp xúp; xa chút nữa là những mảng xanh sáng của sân golf Crowborough điểm những chấm đỏ đang di chuyển. Đó là những người đang chơi golf. Xa hơn nữa về phía Nam, con đường từ Londre đi Brighton thấp thoáng ẩn hiện sau rừng cây. Sát ngôi nhà là khoảng sân nhỏ được rào cẩn thận nơi chiếc ô-tô đã chở chúng tôi đang đậu. Tiếng kêu của Challenger làm cả ba chúng tôi quay lại. Ông đã đọc xong những bức điện và đã xếp chúng lên bàn làm việc một cách khoa học. Khuôn mặt với những đường nét bất cân đối, hay ít nhất là những phần không bị bộ râu che khuất của ông đỏ dừ. Chúng tôi đoán ông đang bị xúc động mạnh. - Thưa các ngài, ông kêu lên với giọng điệu như trong các cuộc họp công khai với nhiều tranh luận, tôi rất vui mừng vì tất cả chúng ta đã có mặt tại đây! Tôi lại càng vui hơn nữa khi cuộc gặp này diễn ra trong một bối cảnh đặc biệt... Phải nói là trong một bối cảnh chưa từng có. Tôi có thể hỏi các ngài rằng các ngài có nhận thấy điều gì không bình thường trong chuyến hành trình từ Londre vừa qua không? - Điều duy nhất mà tôi nhận thấy , Summerlee tuyên bố với nụ cười chua chát, đó là trong ba năm qua, anh bạn trẻ của chúng ta chẳng thay đổi gì cả. Tôi rất tiếc phải nói rõ rằng tôi đã phải phàn nàn về thái độ cư xử của anh ta lúc trên tàu. Và tôi sẽ là kẻ nói dối nếu tôi không nói thêm rằng thái độ của anh ta đã làm tôi vô cùng tức giận. Huân tước John xen ngang. - Chúng ta ai mà chẳng có lúc bực dọc, cáu gắt. Cậu bé này chẳng làm gì xấu cả. Dù sao thì cậu ấy vẫn là một cầu thủ bóng bầu dục cấp quốc tế. Và nếu cậu ấy có cần nửa giờ để thuật lại một trận đấu thì hơn ai hết cậu ấy hoàn toàn có quyền! - Một nửa giờ để kể về một trận đấu sao?! Tôi kêu lên bất bình. Chuyện quái quỉ gì vậy?! Chính ngài đã kể cho chúng tôi nghe trong suốt thời gian đó chuyện về những con trâu quái quỉ gì đó. Giáo sư Summerlee có thể làm chứng rằng... - Khó có thể nhận xét ai trong số các vị gây khó chịu nhiều hơn, Summerlee nói. Nhưng tôi đảm bảo với ông, Challenger, tôi đã chán ngấy lên tận cổ những câu chuyện về bóng bầu dục hay về những con trâu rồi! - Tôi chưa bao giờ nói về bóng bầu dục cả! Huân tước John rít lên chói tai. Summerlee lắc đầu ngán ngẩm: - Lúc sáng sớm ấy! Ông ta thở mạnh. Thật tệ hại! Lúc mà tôi ngồi trong im lặng não nề và đầy suy tư... - Trong im lặng ư? huân tước John phản đối. Thế là sao? Ông đã giới thiệu cho chúng tôi một loạt các vở diễn. Ông đã bắt chước các loài vật trong suốt chuyến đi. Ông giống như một cái máy phát thanh hơn là một nhà bác học! Summerlee đứng lên. - Ông nói đùa đấy hả, huân tước John? - Tóm lại là thế nào? Chúng ta điên hết rồi sao? huân tước John kêu lên. Mỗi người trong chúng ta dường như chỉ nhớ những gì mà người khác đã làm. Cả ngài, cả anh ta và cả chính tôi, tất cả đều không nhớ mình đã làm những gì. Nào, chúng ta hãy bắt đầu từ lúc đầu tiên! Chúng ta đã lên toa hạng nhất dành cho người hút thuốc, đúng không? Sau đó chúng ta đã tranh cãi về bức thư của ông bạn Challenger đăng trên nhật báo Times... - Này, này, thật thế sao? Ông chủ nhà nhắm mắt kêu lên bất bình. - Summerlee, ngài đã nói rằng những lời lẽ của Challenger chẳng hề có chút sự thật nào. - Trời ơi! Challenger ưỡn ngực, tay vỗ nhẹ lên bộ râu... Không có chút sự thật ư? Dường tôi đã nghe những lời này ở đâu đó. Vậy thì tôi có thể hỏi ngài giáo sư Summerlee vĩ đại rằng vì lý do gì mà ngài đã phủ nhận ý kiến của một con người tầm thường tự cho phép mình trình bày một giả thiết khoa học? Trước khi phủ nhận sạch trơn ý kiến của một ai đó, liệu ngài có thể bằng lòng nói cho anh ta hay ngài đã dựa trên căn cứ nào để xây dựng một giả thuyết ngược lại? Ông nghiêng mình, nhún vai sau đó chắp hai tay cầu xin. - Một căn cứ khá chắc chắn, Summerlee đáp lại một cách bướng bỉnh. Thực ra, tôi nghĩ rằng nếu như khí ê- te bao quanh trái đất độc đến nỗi có thể gây ra một số triệu chứng nguy hiểm ở nơi nào đó thì tại sao trong toa tầu, ba chúng tôi lại hoàn toàn không cảm thấy tác động của hiện tượng đó. Lời giải thích của Summerlee chỉ càng làm cho Challenger hăng lên. Ông phá lên cười và chỉ dừng lại khi mọi thứ trong phòng bắt đầu rung lên. - Ngài Summerlee dũng cảm của chúng ta dù sao cũng có đôi chút thực tế. Và đây không phải là lần đầu tiên. Ông tuyên bố trong khi đưa tay lau vầng trán đã lấm tấm mồ hôi. Bây giờ, thưa các ngài, tôi chỉ biết giải thích quan điểm của tôi một cách tốt nhất bằng cách kể lại thật chi tiết những gì tôi đã làm sáng nay. Các ngài có thể bỏ qua những bất thường về tư duy hơn khi các ngài biết rằng tôi... chính tôi... Đã có những lúc tôi cảm thấy mất cân bằng. Thực ra, từ vài năm nay chúng tôi có một phụ nữ giúp việc, đó là chị Sarah... Tôi chưa bao giờ nhớ được chị ta có tên nào khác không. Đó là một phụ nữ có khuôn mặt nghiêm nghị đến dễ sợ. Chị ta luôn giữ một vẻ lãnh đạm và rất vững vàng. Chị ta có tính không bao giờ động lòng: chưa bao giờ tôi thấy chị ta xúc động dù chỉ là một thoáng. Sáng nay, khi tôi đang ăn sáng một mình... - thường thì buổi sáng bà Challenger vẫn ở trong phòng riêng - thì một ý nghĩ len lỏi trong đầu tôi. Tôi nghĩ rằng sẽ thật là thú vị và bổ ích khi biết người phụ nữ này có thể giữ được điềm tĩnh đến mức nào. Lúc đó tôi đã nghĩ tới một cách thử vừa đơn giản vừa hiệu quả. Tôi gạt đổ bình hoa nhỏ trên bàn, rung chuông và trốn ngay xuống gậm bàn. Chị ta đi vào, tin rằng trong phòng không có ai, chị ta tưởng tôi đã quay về phòng làm việc. Đúng như tôi chờ đợi, chị ta lại gần bàn ăn và cúi xuống để nhặt chiếc bình. Tôi nhìn thấy đôi bít tất bằng coton và đôi giày ống có cổ, rất mềm. Và tôi đã làm gì? Tôi thò đầu ra và cắn vào bắp chân chị ta. Cuộc thử nghiệm thành công hơn cả mức tôi chờ đợi. Trong một vài giây, chị ta đứng sững sờ, chăm chăm nhìn đầu tôi thò ra qua tấm khăn trải bàn. Sau đó, chị ta kêu thét lên và vùng chạy ra khỏi phòng. Tôi đuổi theo chị ta để giải thích vì hình như tôi nghĩ rằng chị ta có quyền được nghe giải thích. Nhưng chị ta chạy nhanh như gió. Sau đó một lúc, qua ống nhòm, tôi thấy chị ta trên đường, vẫn đang chạy. Chị ta chạy về hướng Tây-Nam. Từ lúc ấy, tôi không gặp lại chị ta nữa. Tôi kể chuyện này để hình thành trong đầu óc các ông một ý niệm. Câu chuyện này có mang lại cho các ông chút ánh sáng nào không? Các ông có thấy câu chuyện đó liên quan đến những gì diễn ra trong đầu các ông không? Huân tước John, ông nghĩ thế nào về câu chuyện này? Huân tước John lắc đầu một cách nghiêm túc. - Nếu không dừng lại thì có một ngày ông sẽ gặp phải nhiều điều buồn phiền thực sự đấy. - Summerlee, ông có nhận xét chứ? - Ông phải nghỉ việc ngay lập tức, Challenger ạ, và đi nghỉ ba tháng ở một thành phố nước nóng nào đó ở Đức. - Rất hay! ... Nào, đến lượt cậu, anh bạn trẻ... Có thể cậu sẽ nói ra điều khôn ngoan, sáng suốt hơn. Các bậc anh cả của cậu chẳng thể nói được điều gì hay ho nữa. Và quả thật, tôi đã nói ra điều sáng suốt. Tôi trình bày một cách hoàn toàn khiêm tốn, nhưng dù sao, tôi đã nói. Tất nhiên các bạn đều biết điều gì đã xảy ra. Và các bạn sẽ thấy rằng câu trả lời của tôi là thực tế. Nhưng các bạn hãy nghĩ rằng, vào lúc này, mọi thứ vẫn còn mới mẻ và chẳng hề đơn giản để tìm câu trả lời. Với tất cả sức lực và niềm tin tuyệt đối, tôi đã nói ra câu cần phải nói. - Các ông đã bị nhiễm độc! Bị nhiễm độc! Khi nói ra câu này, tôi đã nhớ lại tất cả những gì diễn ra buổi sáng: huân tước John với con trâu của ông ta, Summerlee với cách cư xử làm mọi người mất lòng, những giọt nước mắt không thể cầm được của tôi; rồi những vụ va chạm kỳ quặc ở Luân Đôn: vụ ẩu đả ở công viên, thái độ của người lái xe, vụ tranh cãi ở cửa hàng bán bình ô-xy... Tất cả sự việc đó chỉ có thể được giải thích bằng ba từ: - Bị nhiễm độc! Có chất độc trong không khí! Tất cả chúng ta đã bị nhiễm độc! - Thật như vậy đấy! Challenger xoa xoa hai bàn tay vào nhau và nói. Tất cả chúng ta đang bị nhiễm độc. Hành tinh chúng ta đã bị một vành đai ê-te độc bao quanh. Và hiện nay, hành tinh của chúng ta càng ngày càng chìm sâu trong vành đai đó với vận tốc nhiều triệu km mỗi phút. Chỉ bằng một từ, anh bạn trẻ của chúng ta đã nói lên được nguyên nhân gây ra mọi rối loạn tinh thần của chúng ta: chất độc. Chúng tôi im lặng nhìn nhau sững sờ. Còn có thể bình luận gì trong tình trạng như thế này?! - Nếu như các ngài biết kiềm chế lý trí, các ngài sẽ nhận thấy và kiểm soát được những triệu chứng như vậy. Dĩ nhiên là tôi không hy vọng các ngài có thể kiềm chế được như tôi vì khả năng kiềm chế của mỗi người mỗi khác.Đó là chuyện bình thường. Nhưng không nghi ngờ gì nữa, hiện tượng này là có thực, nó tác động ngay cả đến anh bạn trẻ của chúng ta. Còn tôi, sau khi làm cho chị giúp việc hoảng hốt, tôi ngồi im lặng và suy nghĩ. Tôi phải công nhận là cho tới tận sáng nay, chưa bao giờ tôi muốn cắn một ai đó trong nhà. Do vậy, động cơ thúc đẩy tôi làm chuyện đó là hoàn toàn không bình thường. Trong một thoáng, tôi đã tìm ra sự thật. Tôi tự bắt mạch: nhịp tim đập nhanh hơn bình thường 10 lần, phản xạ nhanh và nhiều hơn. Tôi cố gắng lấy lại trạng thái cân bằng và bình tĩnh nhất, lấy lại trạng thái của một con người vững vàng sau tất cả những rối loạn nhỏ nhặt đó. Tôi tự yêu cầu tôi phải cảnh giác đối với tất cả những điểm yếu để không cho chất độc có thể ảnh hưởng tới. Lúc đó tôi đã nhận ra rằng tôi thực sự là người chủ của chính mình. Tôi biết cách nhận ra những rối loạn về lý trí và kiểm soát nó. Chẳng phải đó là một ví dụ tuyệt vời minh chứng cho sự chiến thắng của lý trí đối với vật chất hay sao? Vì đây chính là chiến thắng của lý trí đối với dạng vật chất đặc biệt có quan hệ mật thiết với lý trí. Tôi có thể nói rằng"Lý trí có tội nhưng tư cách của con người đã vực nó lên". Cũng như khi vợ tôi xuống cầu thang, tôi muốn lấp sau cánh cửa và hét lên thật man dại để làm cho bà ấy sợ, nhưng tôi đã kiềm chế được và tiếp đón bà ấy một cách thật trang trọng, lịch sự. Sau đó một lúc tôi lại muốn kêu lên như con vịt con, nhưng tôi cũng kiềm chế được... Khi tôi đi kêu xe, tôi thấy Austin nằm khòng kheo trên động cơ và chìm giữa đống đồ sửa chữa, lúc đó tôi đã giữ lại được bàn tay đang xoè ra đang giơ lên và tự nhủ không được làm gì khiến anh ta có thể lại như chị giúp việc; tôi chỉ vỗ nhẹ vào vai và bảo anh ta đánh xe ra để đi đón các ông ở ga tàu. Và ngay lúc này đây, tôi cũng định đánh giáo sư Summerlee để ông có thể thoát khỏi sự tác động của chất độc đã khiến ông trở nên ngu ngốc. Nhưng như các ông thấy đó, tôi đã hoàn toàn làm chủ được mình. Hãy cho phép tôi được khuyên các ông làm như tôi vừa kể. - Tôi sẽ để ý đến con trâu của tôi! huân tước John nói. - Còn tôi sẽ để ý đến trận bóng bầu dục! - Có thể là ông có lý, giáo sư Challenger ạ, Summerlee thì thầm giọng dịu lại. Tôi công nhận là đầu óc tôi dường như thiên về chỉ trích hơn là góp ý. Nhưng tôi không giống như những kẻ hiếu kỳ thấy cái gì mới cũng vội vã a dua. Các ông cũng phải đồng ý với tôi rằng giả thiết này là cực kỳ hoang đường. Tuy nhiên, nhớ lại tất cả những chuyện bất thường sáng nay, điểm lại những hành động, cử chỉ ngớ ngẩn của hai ông bạn đồng hành của tôi đây, tôi bắt đầu nghĩ rằng có một chất độc thật sự kỳ lạ đang tác động lên bản thân tôi. Giáo sư Challenger vui mừng vỗ nhẹ lên vai đồng nghiệp. - Chúng ta đang tiến lên đấy, ông nói, thực sự đang tiến lên đấy. Hết sức khiêm nhường, Summerlee hỏi: - Vậy thưa giáo sư, xin ngài cho biết quan điểm của ngàì về tình hình của chúng ta hiên nay. - Tôi xin phép trình bày đôi điều về vấn đề này. Giáo sư ngồi lên bàn, hai cái chân ngắn, mập đung đa đung đưa. Ông thản nhiên nói những lời khủng khiếp sau: - Chúng ta đang được chứng kiến một sự kiện vừa hãi hùng, vừa tuyệt diệu. Tôi cho rằng chúng ta đang tiến tới ngày tận thế của trái đất. Ngày tận thế! Không ai bảo ai, chúng tôi đưa mắt ra cửa sổ lớn. Ngoài kia là vẻ đẹp rực rỡ của thôn quê trong ngày hè với những triền đồi phủ đầy thạch thảo, những trang trại sung túc, những ngôi nhà tráng lệ, những con người nhàn tản khắp trên sân gôn. Ngày tận thế ư?… Tất nhiên là chúng tôi đã từng nghe đến những từ này. Nhưng chúng chưa bao giờ tác động đến chúng tôi một cách mạnh mẽ và đột ngột như bây giờ. Ý tưởng tận thế choáng ngợp không còn gắn với một ngày tiên tri nào đó mơ hồ xa xôi, nó đang ùa ra và đổ ập xuống chúng tôi thành những hình dung hoảng loạn, quay cuồng. Chúng tôi yên lặng, kính cẩn chờ Challenger nói tiếp. Sự hiện diện đầy uy lực và dáng vẻ thô mộc của ông tạo cho ông một thứ sức mạnh gần như siêu thực. Trong giây phút, mọi biểu hiện vô lý, gàn dở trong con người ông dường như biến mất. Ông hiện ra trong mắt chúng tôi như một đấng oai nghiêm, vượt lên trên nhân loại thông thường. Rồi cũng trong lúc ấy, tôi nhớ lại hai chuỗi cười điên dại của ông khi chúng tôi mới vào phòng làm việc. Tôi chợt nghĩ sự điên rồ trong tư tưởng con người dầu sao cũng chỉ có giới hạn và tai hoạ mà giáo sư đang nhắc tới ở đây không nghiêm trọng, cấp bách như ông đang cố thuyết phục chúng tôi. - Các ông cứ tưởng tượng một chùm nho, Challenger nói. Vỏ của chùm nho này có chứa vô số các vi khuẩn nhỏ xíu vô cùng có hại. Người làm vườn cho nó lội qua một môi trường sát khuẩn, có thể bởi vì ông ta muốn cấy vào đó những chủng ít độc hơn. Anh ta nhúng nó vào chất độc, thế là vi khuẩn chết sạch. Vào lúc này đây, có một người làm vườn vĩ đại đang nhúng thái dương hệ vào một môi trường sát khuẩn, và những vi khuẩn người ngoe nguẩy lúc nhúc ngoài vỏ địa cầu sẽ nhanh chóng bị tiêu diệt. Im lặng lại bao trùm lên chúng tôi. Bỗng có tiếng chuông điện thoại vang lên, xoá tan sự tĩnh mịch. - Chắc là lại một trong vô vàn những con vi khuẩn người đang cầu cứu, giáo sư Challenger mỉm cười xầm xì. Loài người bắt đầu nhận ra rằng sự hiện hữu của họ chẳng là gì trong sự tồn tại của vũ trụ. Ông rời khỏi phòng. Trong khoảng 1, 2 phút đó, chúng tôi không ai nói với nhau một lời. Không một thứ ngôn ngữ hay lời bình luận nào có thể diễn tả những gì đang xảy ra lúc này. - Trạm y tế Brishton vừa gọi điện, Challenger nói với chúng tôi khi quay trở lại phòng. Vì một lý do nào đó, triệu chứng nhiễm độc ở vùng biển diễn ra nhanh hơn các nơi khác. Chúng ta đang có lợi vì chúng ta ở độ cao 250m. Mọi người có vẻ bắt đầu hiểu ra là tôi đã phát hiện hoàn toàn đúng vấn đề này. Lúc nãy, ông thị trưởng gọi cho tôi. Tôi có cảm giác ông ta tưởng mạng sống của ông ta quý giá lắm ấy. Tôi đã phải giúp ông ta điều chỉnh suy nghĩ của mình. Summerlee đứng dậy và nhìn qua cửa sổ. Ông quay lại nhìn về phía Challenger, đôi bàn tay gầy gò, xương xẩu của ông run lên vì xúc động. - Challenger, việc này quá nghiêm trọng. Không thể nói như nói chuyện phiếm thế này được. Đừng nghĩ là tôi đang tìm cách chọc tức ông khi tôi hỏi ông điều này. Liệu ông có nhầm lẫn gì trong thông tin hay trong lập luận của ông hay không? Mặt trời vẫn chiếu sáng trên bầu trời xanh, vẫn những cánh đồng thạch thảo, vẫn hoa cỏ, chim muông, vẫn những con người nhàn tản trên sân gôn, vẫn những nông dân đang bận bịu với mùa màng. Thế mà ông nói chúng tôi rằng tất cả bọn họ đang đứng trên bờ vực của sự huỷ diệt…, rằng ngày rực rõ nắng vàng này sẽ lụi tắt trong cái đêm tối mịt mù mà nhân loại vẫn lo sợ từ xưa tới nay. Ông dựa trên cái gì mà nói như thế? Dựa vào những dải màu kỳ lạ trên quang phổ…, dựa vào những lời đồn đại về căn bệnh của người dân Sumatra, dựa vào những kích động cá nhân trên mỗi chúng tôi ư? Trừ khi là triệu chứng này không nguy kịch đến mức chúng tôi không thể kiểm soát đựoc. Ông không việc gì phải vòng vo với chúng tôi, Challenger. Tất cả chúng ta đều đã từng phải đối mặt với cái chết. Vậy hãy nói cho chúng tôi biết chúng tôi đang ở đâu và theo ông, phía trước của chúng tôi là điều gì? Đó là những lời nói hùng hồn và can đảm, một bài diễn văn chỉ có được ở một con người mà lý trí sáng suốt không bị axít ăn mòn và ám ảnh bởi những điều lập dị ở một nhà động vật học già. Huân tước John bật dậy bắt tay Summerlee: - Tôi nhất trí. Giáo sư Challenger, xin ông cho chúng tôi biết tình hình. Ông cũng biết chúng tôi không phải là những người dễ bị kích động. Ông đã mời chúng tôi đến thăm vào ngày nghỉ cuối tuần, dễ cũng là ngày phán xét cuối cùng của chúng tôi. Chúng tôi có quyền được nghe giải thích chứ. Nỗi nguy hiểm đang đe doạ chúng tôi thực sự là gì? Nó lớn đến đâu và chúng tôi sẽ phải đối phó như thế nào? Huân tước John đứng thẳng trong ánh nắng chiếu qua cửa sổ, hai tay đặt lên vai của Summerlee. Tôi ngả người sâu trên ghế, điều thuốc tắt ngấm vẫn còn trên môi, thần trí mơ màng và mọi xúc cảm tan biến. Đây có thể là một giai đoạn mới của sự nhiễm độc. Những kích động mạnh mẽ đã qua nhường chỗ cho một tâm trạng u buồn. Tôi dường như biến thành một người quan sát vô tâm. Dường như tất cả những tai hoạ này chẳng liên can gì tới tôi. Song trước mắt tôi là ba người đàn ông mạnh khỏe và việc quan sát tấn trò giữa họ khiến tôi cảm thấy đặc biệt thú vị. Challenger cụp mắt xuống, tay nghịch nghịch bộ râu. Ông ta lại sắp nói đây. Tôi đoán là ông đang cân nhắc từng chữ mà ông sẽ nói. Ông hỏi: - Trước khi rời khỏi Luân Đôn, tin tức mới nhất mà các ông nhận được là gì? Tôi trả lời: - Lúc 10h tôi đang ở toà báo Gazette. Có một điện tín của hãng Reuteur từ Singapore cho hay người dân đảo Sumatra đồng loạt bị ngộ độc và ngọn hải đăng ở đó đã tắt ngấm. - Từ lúc ấy, các sự kiện diễn biến rất nhanh. Challenger cầm xấp điện tín lên. Tôi có liên lạc mật thiết với cả chính quyền lẫn báo chí nên nhận được thông tin từ mọi nơi. Tất cả mọi người đều khẩn khoản mời tôi nhưng tôi nghĩ mình có lên đấy cũng chẳng để làm gì. Theo những báo cáo mà tôi nhận được, hậu quả ngộ độc ban đầu là tinh thần bị kích động. Sáng nay ở Paris đã xảy ra một cuộc bạo động, nghe nói là rất dữ dội. Những người thợ mỏ xứ Wales cũng đang phát động một cuộc biểu tình. ở giai đoạn này, triệu chứng ngộ độc tuỳ thuộc vào từng sắc tộc và từng cá nhân. Sau đó là giai đoạn đầu óc tỉnh táo, tâm thần phấn chấn vui vẻ. Tôi có nhận thấy một vài dấu hiệu ở anh bạn trẻ của chúng ta đây. Song đến một giai đoạn nào đó, chất độc sẽ tấn công trung khu hôn mê và nhấn chìm nạn nhân vào cõi chết. Theo những kiến thức về chất độc của tôi, đây chắc là một loại chất độc tác động vào hệ thần kinh thực vật… - Như Datura chẳng hạn, Summerlee gợi ý. - Chính thế, Challenger reo lên. Đặt tên cho một chất độc sẽ chứng tỏ độ chính xác của nghiên cứu khoa học. Ông bạn Summerlee thân mến, ông là người duy nhất có vinh dự đặt tên cho chất độc huỷ diệt nhân loại, chất sát khuẩn của Người làm vườn vĩ đại này. Vậy thì ta sẽ gọi những triệu chứng mà tôi vừa miêu tả ở trên là triệu chứng daturon. Tôi tin chắc là nó sẽ lan ra toàn cầu và lan tới đâu, nhân loại sẽ tuyệt diệt tới đó vì ête là môi trường đầy ắp vũ trụ. Cho tới bây giờ, tác động của nó lên những nơi mà nó đi qua còn rất khác nhau nhưng sự khác biệt này sẽ chỉ kéo dài trong vài giờ. Daturon giống như một cơn sóng triều chạy vào bờ cát theo những hình loang lổ nhưng sau cùng thì sẽ nhận chìm tất cả. Có những quy luật về khí động học chi phí tác động và sự phân bố khí daturon. Nếu chúng ta có thời gian nghiên cứu, hẳn đây sẽ là đề tài hết sức thú vị. Những thông tin đầu tiên, ông liếc mắt về phía đám điện tín, cho thấy những dân tộc kém văn minh hơn là những dân tộc chịu hậu quả đầu tiên. Đã có những điều hết sức đáng tiếc xảy ra ở châu Phi. Những bộ lạc thổ dân châu Úc dường như đã bị tuyệt diệt. Những dân tộc phương Bắc có vẻ kiên cường hơn những dân tộc phương Nam. Các ông nghe nhé, cái điện này đến lúc 9h45 sáng nay từ Marseilles: “Sự náo loạn diễn ra suốt đêm ở Provence. Những người trồng nho ở Nimes đang nổi dậy. Đảng xã hội dấy loạn ở Toulon. Sáng nay, một bệnh dịch đột ngột kèm theo hôn mê xuất hiện, tấn công vào dân chúng và gây hôn mê. Người chết đầy ngoài phố. Mọi hoạt động kinh doanh bị ngưng trệ. Tất cả lâm vào trạng thái hoảng loạn. Một giờ sau, cũng theo nguồn tin tức ấy: “Chúng tôi đang bị đe doạ huỷ diệt. Các giáo đường và nhà thờ tràn ngập người. Người chết nhiều hơn người sống. Cái chết đến đột ngột không đau đớn nhưng quá nhanh và thảm khốc”. Tôi cũng nhận được một bức điện tương tự từ Paris nhưng tình hình diễn biến chậm hơn. Ấn Độ và Ba Tư dường như đã bị xoá sổ. Dân Slavone ở Áo đã gục nhưng dân Đức gần như không hề hấn gì. Theo những thông tin ít ỏi mà tôi nhận được, dân cư đồng bằng và duyên hải chịu hậu quả sớm hơn dân vùng núi hoặc sâu trong đất liền. Chỉ ở chênh lệch nhau một độ cao nhỏ, hậu quả của chất độc đã khác nhau rõ rệt. Bây giờ, nếu còn có ai đó sống sót, anh ta hẳn phải sống trên đỉnh Ararat nào đó. Ngọn đồi mà chúng ta đang ở đây có thể coi như một hòn đảo giữa đại dương thảm hoạ. Nhưng cứ cái đà này, chỉ một vài giờ nữa là tất cả sẽ bị nhận chìm. Huân tước John Roxton lau mồ hôi trán, nói không ra hơi “Tôi không hiểu tại sao như vậy mà ông vẫn có thể ngồi đây mà cười với chồng điện tín trên tay được. Như tất cả mọi người, tôi đã nhìn thấy người chết, song tất cả nhân loại đều chết thì khủng khiếp quá”. - Tại sao tôi cười ư? Challenger đáp lời. Xin các ông đừng quên là tôi cũng bị chất ête độc tác động như các ông thôi. Còn nỗi khiếp sợ về sự huỷ diệt nhân loại trong tâm trí ông, tôi xin phép nói là ông đã hơi quá phóng đại đấy. Nếu ông ra khơi một mình trên một chiếc thuyền không mui để đến một nơi vô định, ông sẽ sợ đến thót tim ấy chứ. Sự cô đơn, sự bấp bênh sẽ đánh gục ông ngay. Nhưng nếu ông đi trên một chiếc tàu lớn với gia đình và bạn bè thì dù có không biết mình sẽ đi đâu về đâu, ông vẫn có cảm giác được chia sẻ với mọi người đến giây phút cuối cùng. Một cái chết đơn độc có thể đáng sợ nhưng theo quan điểm của tôi, một cái chết đồng loạt không đau đớn như cái chết đang đến với chúng ta đây không phải là cái gì quá ghê gớm. Thực ra, tôi dễ dàng cảm thông hơn với nỗi sợ phải sống sót một mình trong khi tất cả những nhà khoa học, những con người nổi tiếng, danh giá trên thế giới đều chết hết. Khác với mọi khi, Summerlee giờ đây tỏ ra rất nhượng bộ: - Vậy theo ông, chúng ta nên làm gì bây giờ? - Ăn trưa, Challenger trả lời. Tiếng chuông báo ăn vang khắp căn nhà. - Chúng tôi có một người đầu bếp làm món ốp lếp ngon tuyệt. Cũng chỉ có món sườn nướng của bà mới sánh được món này thôi. Không có sự xáo trộn vũ trụ nào có thể làm phương hại đến tài nấu ăn của bà ấy được. Tôi cũng có một chai Scharzberger 96 đây. Ông nhấc người ra khỏi chiếc ghế nơi ông vừa ngồi loan báo cho chúng tôi về ngày tận thế của hành tinh. - Nào đi. Nếu chúng ta chỉ còn ít thời gian thì phải tận hưởng một cách chính đáng và vui vẻ chứ. Quả thật chúng tôi đã có một bữa ăn ngon và vui. Cố nhiên, chúng tôi không thể hoàn toàn quên tình cảnh bi thương của mình nhưng sự ám ảnh về giờ tận thế đang ở đâu đó xa lắm trong suy nghĩ của chúng tôi. Vả lại, chỉ những người chưa từng đối diện với cái chết mới sợ cái chết như thế. Còn mỗi người trong bốn chúng tôi đều đã nhiều lần cận kề với cái chết. Về phần bà chủ nhà, bà hoàn toàn tin tưởng vào sự mạnh mẽ của chồng và sẵn sàng đi theo ông tới bất cứ nơi nào. Tương lai là chuyện của số mệnh nhưng hiện tại đang thuộc về chúng tôi và chúng tôi đã trải qua những giờ phút tuyệt vời nhất của tình bạn thật sự và cảm giác sảng khoái trong lòng. Đầu óc của chúng tôi thật nhẹ nhàng. Còn giáo sư Challenger thật tuyệt vời. Chưa bao giờ tôi thấy một con người có thể đạt tới tầm tư duy vĩ đại lớn lao và vững vàng như thế. Summerlee thì vẫn đưa ra những lời châm chọc theo đúng kiểu chỉ trích của ông. Huân tước John và tôi chỉ cười chêm vào. Bà Challenger đặt tay lên tay chồng để kiềm chế sự gay gắt của nhà triết học. Sống, chết, định mệnh, thân phận con người…, tất cả đều được đưa ra tranh luận trong suốt bữa ăn. Bỗng dưng tôi cảm thấy trong đầu xuất hiện những kích thích đột ngột và các cơ bắp như có kim châm. Cơn thủy triều chết chóc vô hình dâng lên từ từ, chậm chậm quanh chúng tôi. Tôi nhận thấy một lần huân tước John đưa tay lên dụi mắt. Lúc khác, Summerlee ngồi sut xuống ghế. Mỗi hơi thở của chúng tôi đã thoáng bị chi phối bởi những năng lượng bí ẩn. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn giữ tinh thần vui vẻ và tỉnh táo. Ngay lúc đó, Austin mang thuốc là và xì gà lên. Khi bác chuẩn bị rút lui, người chủ gọi: - Austin - Dạ, ông gọi? - Cảm ơn bác đã giúp việc cho chúng tôi rất tận tuỵ và trung thành Một nét cười kín đáo sáng lên trên gương mặt nhăn nheo của người gia nhân. - Tôi chỉ làm bổn phận của mình, thưa ông chủ - Tôi đang đợi ngày tận thế đây Austin ạ - Vâng, thưa ông. Tận thế lúc mấy giờ ạ? - Tôi không biết, Austin ạ. Trước tối nay. - Vâng, thưa ông. Austin cúi chào và ra khỏi phòng. Challenger châm lửa hút một điếu thuốc, kéo ghế đến cạnh vợ và nhẹ nhàng nắm lấy tay bà. - Mình biết số phận của chúng ta phải không mình yêu quí. Tôi cũng đã giải thích với các bạn rồi. Mình không sợ chứ? - Sẽ không đau đớn, phải không anh George? - Sẽ chỉ như nha sĩ chích thuốc tê cho mình thôi. Đợi khi mình cảm thấy đau thì mình đã thực sự sang đến thế giới bên kia rồi. - Vậy hẳn cảm giác thú vị lắm - Có thể như vậy. Cơ thể già cỗi của chúng ta không thể ghi nhận được cảm giác ấy, nhưng chúng ta đã biết đến sự khoái lạc về tinh thần như vậy trong những cơn mơ hay hôn mê. Thiên nhiên có thể sắp đặt một cái cửa lộng lẫy, trướng rủ màn che để đón linh hồn của chúng ta sang thế giới bên kia. Từ tất cả những gì tôi biết, tôi luôn nhận thấy trong mọi sự vật, hiện tượng đều ẩn chứa cả sự khôn ngoan và sự dịu dàng. Nếu con người cảm thấy cần sự dịu dàng, chắc chắn là vì anh ta tưởng tượng cái chết khủng khiếp lắm… Không Summerlee, tôi không đồng ý với thuyết duy vật của ông vì, ít nhất, tôi quá vĩ đại, không thể chấm hết trong bản thể con người vật lý chỉ tương đương với 1 bịch muối và 3 xô nước này được. ở chỗ này, chỗ này đây…, ông gõ bàn tay to đùng và lông lá lên đầu, ở chỗ này có một thứ cực kỳ hữu dụng nhưng không tồn tại theo kiểu vật chất thông thường, một thứ có thể thủ tiêu được cái chết nhưng cái chết không thể tiêu diệt được nó. - Tiện nói đến cái chết, huân tước John ngắt lời, xét về khía cạnh nào đó, tôi cũng là con chiên của Chúa. Nhưng tôi thấy là trong cái chết của tổ tiên chúng ta có một cái gì đó siêu nhiên. Các cụ được an táng với rìu, với cung, với tên… như thể các cụ sẽ sống một cuộc sống khác giống hệt như như cuộc sống ở trần gian vậy…- ông nhìn quanh vẻ hồ thẹn rồi nói thêm - Tôi không chắc là mình sẽ cảm thấy thoải mái khi phải sang thế giới bên kia với chiếc Express 450 già cả và những linh tinh kèm theo: một khẩu súng trường ngắn báng cao su và một băng đạn. Thực điên rồ… Nhưng đúng là tôi nghĩ thế đấy. Thế còn ông, ông nghĩ sao về cái chết hả ông Summerlee? - Tôi ư? Summerlee trả lời. Là ông hỏi tôi đấy nhé. Chết cái kiểu như ông vừa nói giống như chúng ta quay về thời đồ đá hay thậm chí còn cổ lỗ hơn nữa ấy. Tôi đang sống ở thế kỷ 20, tôi muốn chết như một người văn minh. Không biết tôi có sợ chết hơn các ông hay không chứ tôi già rồi. Gì thì gì, tôi cũng chả còn sống được bao nhiêu nữa. Nhưng tôi không thể chịu được cái cảnh ngồi chờ chết như một con cừu dưới lưỡi dao của tên đồ tể như thế này được. Chẳng lẽ chúng ta phải chịu bó tay sao, Challenger? - Để tránh khỏi cái chết thì đúng là như thế. Nhưng kéo dài sự sống thêm vài giờ nữa để chứng kiến hậu quả của tấn thảm kịch vĩ đại này trước khi nó tiêu diệt chúng ta thì có thể được và tôi cũng đã có chuẩn bị đây rồi. - Ôxy ư? - Đúng, ôxy. - Nhưng ôxy thì tác động được gì đối với sự nhiễm độc ête. Một cục gạch với một bình ga khác nhau thế nào thì ôxy với ête cũng khác nhau như thế. Đây là hai chất hoàn toàn chẳng có gì chung và không thể tác dụng lên nhau. Thôi đi, Challenger, ông đừng cố công bảo vệ cái giả thiết ấy. - Ôi chà, ông bạn Summerlee thân mến ơi, chất ête độc này chắc chắn là đã bị ảnh hưởng bởi những tác nhân vật chất khác. Hãy nhìn bệnh dịch và cách phát tán của nó mà xem. Lúc đầu, chúng ta có thể không để ý nhưng sự thực hiển hiện ra đấy. Cho nên, tôi tin chắc rằng một chất khí như ôxy, vốn có tác dụng tăng cường sinh lực và sức đề kháng của cơ thể, sẽ có thể kiềm chế tác động của chất mà ông đã đặt tên là daturon đó. Cũng có khả năng là tôi nhầm, nhưng tôi tin lập luận của tôi rất chính xác. - Dù thế nào chăng nữa, huân tước John phát biểu, nếu phải ngồi ngậm những cái vòi ôxy như trẻ con bú bình thế này thì tôi cũng xin kiếu. - Không phải như thế. Chúng tôi đã có chuẩn bị cả rồi. Các ông phải cảm ơn bà nhà tôi. Cái phòng khách của bà ấy rất kín, lại có nệm và giấy dán tường. - Này, Challenger, ông không định nói là ông sẽ ngăn hơi độc bằng giấy dán tường đấy chứ? - Thế mà đúng đấy, ông bạn ạ. Ông chỉ được cái hay đi lạc đề. Chúng ta khổ sở ở trong này không phải để ngăn ête tràn vào mà là để ngăn ôxy đừng thoát ra. Tôi chắc rằng nếu chúng ta duy trì được môi trường giàu ôxy, chúng ta có thể giữ được sự tỉnh táo. Tôi có hai bình. Các ông lại mang đến thêm ba bình nữa. Không nhiều nhưng thôi cũng tạm được. - Chúng sử dụng được trong bao lâu? - Tôi không biết. Chúng ta chỉ mở chúng khi không thể chịu đựng thêm được nữa. Chúng ta sẽ chỉ tiếp ôxy cho những ai thật cần. Cũng còn tuỳ. Có thể chúng ta sẽ sống thêm được vài giờ hoặc vài ngày. Dù thế nào, chúng ta cũng sẽ chứng kiến được cảnh thế giới bị huỷ hiệt. Đó là tất cả những gì mà chúng ta có thể làm để lùi lại giây phút định mệnh ấy. ít nhất chúng ta sẽ có thể cùng nhau chứng kiến một sự kiện có một không hai. Năm người chúng ta sẽ là đội quân cuối cùng của loài người bước vào cõi hư vô. Nào, hãy giúp tôi sắp xếp các bình ôxy. Tôi cảm giác không khí đã ngột ngạt lắm rồi. Khác với mọi khi, Summerlee giờ đây tỏ ra rất nhượng bộ: - Vậy theo ông, chúng ta nên làm gì bây giờ? - Ăn trưa, Challenger trả lời. Tiếng chuông báo ăn vang khắp căn nhà. - Chúng tôi có một người đầu bếp làm món ốp lếp ngon tuyệt. Cũng chỉ có món sườn nướng của bà mới sánh được món này thôi. Không có sự xáo trộn vũ trụ nào có thể làm phương hại đến tài nấu ăn của bà ấy được. Tôi cũng có một chai Scharzberger 96 đây. Ông nhấc người ra khỏi chiếc ghế nơi ông vừa ngồi loan báo cho chúng tôi về ngày tận thế của hành tinh. - Nào đi. Nếu chúng ta chỉ còn ít thời gian thì phải tận hưởng một cách chính đáng và vui vẻ chứ. Quả thật chúng tôi đã có một bữa ăn ngon và vui. Cố nhiên, chúng tôi không thể hoàn toàn quên tình cảnh bi thương của mình nhưng sự ám ảnh về giờ tận thế đang ở đâu đó xa lắm trong suy nghĩ của chúng tôi. Vả lại, chỉ những người chưa từng đối diện với cái chết mới sợ cái chết như thế. Còn mỗi người trong bốn chúng tôi đều đã nhiều lần cận kề với cái chết. Về phần bà chủ nhà, bà hoàn toàn tin tưởng vào sự mạnh mẽ của chồng và sẵn sàng đi theo ông tới bất cứ nơi nào. Tương lai là chuyện của số mệnh nhưng hiện tại đang thuộc về chúng tôi và chúng tôi đã trải qua những giờ phút tuyệt vời nhất của tình bạn thật sự và cảm giác sảng khoái trong lòng. Đầu óc của chúng tôi thật nhẹ nhàng. Còn giáo sư Challenger thật tuyệt vời. Chưa bao giờ tôi thấy một con người có thể đạt tới tầm tư duy vĩ đại lớn lao và vững vàng như thế. Summerlee thì vẫn đưa ra những lời châm chọc theo đúng kiểu chỉ trích của ông. Huân tước John và tôi chỉ cười chêm vào. Bà Challenger đặt tay lên tay chồng để kiềm chế sự gay gắt của nhà triết học. Sống, chết, định mệnh, thân phận con người…, tất cả đều được đưa ra tranh luận trong suốt bữa ăn. Bỗng dưng tôi cảm thấy trong đầu xuất hiện những kích thích đột ngột và các cơ bắp như có kim châm. Cơn thủy triều chết chóc vô hình dâng lên từ từ, chậm chậm quanh chúng tôi. Tôi nhận thấy một lần huân tước John đưa tay lên dụi mắt. Lúc khác, Summerlee ngồi sut xuống ghế. Mỗi hơi thở của chúng tôi đã thoáng bị chi phối bởi những năng lượng bí ẩn. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn giữ tinh thần vui vẻ và tỉnh táo. Ngay lúc đó, Austin mang thuốc là và xì gà lên. Khi bác chuẩn bị rút lui, người chủ gọi: - Austin - Dạ, ông gọi? - Cảm ơn bác đã giúp việc cho chúng tôi rất tận tuỵ và trung thành Một nét cười kín đáo sáng lên trên gương mặt nhăn nheo của người gia nhân. - Tôi chỉ làm bổn phận của mình, thưa ông chủ - Tôi đang đợi ngày tận thế đây Austin ạ - Vâng, thưa ông. Tận thế lúc mấy giờ ạ? - Tôi không biết, Austin ạ. Trước tối nay. - Vâng, thưa ông. Austin cúi chào và ra khỏi phòng. Challenger châm lửa hút một điếu thuốc, kéo ghế đến cạnh vợ và nhẹ nhàng nắm lấy tay bà. - Mình biết số phận của chúng ta phải không mình yêu quí. Tôi cũng đã giải thích với các bạn rồi. Mình không sợ chứ? - Sẽ không đau đớn, phải không anh George? - Sẽ chỉ như nha sĩ chích thuốc tê cho mình thôi. Đợi khi mình cảm thấy đau thì mình đã thực sự sang đến thế giới bên kia rồi. - Vậy hẳn cảm giác thú vị lắm - Có thể như vậy. Cơ thể già cỗi của chúng ta không thể ghi nhận được cảm giác ấy, nhưng chúng ta đã biết đến sự khoái lạc về tinh thần như vậy trong những cơn mơ hay hôn mê. Thiên nhiên có thể sắp đặt một cái cửa lộng lẫy, trướng rủ màn che để đón linh hồn của chúng ta sang thế giới bên kia. Từ tất cả những gì tôi biết, tôi luôn nhận thấy trong mọi sự vật, hiện tượng đều ẩn chứa cả sự khôn ngoan và sự dịu dàng. Nếu con người cảm thấy cần sự dịu dàng, chắc chắn là vì anh ta tưởng tượng cái chết khủng khiếp lắm… Không Summerlee, tôi không đồng ý với thuyết duy vật của ông vì, ít nhất, tôi quá vĩ đại, không thể chấm hết trong bản thể con người vật lý chỉ tương đương với 1 bịch muối và 3 xô nước này được. ở chỗ này, chỗ này đây…, ông gõ bàn tay to đùng và lông lá lên đầu, ở chỗ này có một thứ cực kỳ hữu dụng nhưng không tồn tại theo kiểu vật chất thông thường, một thứ có thể thủ tiêu được cái chết nhưng cái chết không thể tiêu diệt được nó. - Tiện nói đến cái chết, huân tước John ngắt lời, xét về khía cạnh nào đó, tôi cũng là con chiên của Chúa. Nhưng tôi thấy là trong cái chết của tổ tiên chúng ta có một cái gì đó siêu nhiên. Các cụ được an táng với rìu, với cung, với tên… như thể các cụ sẽ sống một cuộc sống khác giống hệt như như cuộc sống ở trần gian vậy…- ông nhìn quanh vẻ hồ thẹn rồi nói thêm - Tôi không chắc là mình sẽ cảm thấy thoải mái khi phải sang thế giới bên kia với chiếc Express 450 già cả và những linh tinh kèm theo: một khẩu súng trường ngắn báng cao su và một băng đạn. Thực điên rồ… Nhưng đúng là tôi nghĩ thế đấy. Thế còn ông, ông nghĩ sao về cái chết hả ông Summerlee? - Tôi ư? Summerlee trả lời. Là ông hỏi tôi đấy nhé. Chết cái kiểu như ông vừa nói giống như chúng ta quay về thời đồ đá hay thậm chí còn cổ lỗ hơn nữa ấy. Tôi đang sống ở thế kỷ 20, tôi muốn chết như một người văn minh. Không biết tôi có sợ chết hơn các ông hay không chứ tôi già rồi. Gì thì gì, tôi cũng chả còn sống được bao nhiêu nữa. Nhưng tôi không thể chịu được cái cảnh ngồi chờ chết như một con cừu dưới lưỡi dao của tên đồ tể như thế này được. Chẳng lẽ chúng ta phải chịu bó tay sao, Challenger? - Để tránh khỏi cái chết thì đúng là như thế. Nhưng kéo dài sự sống thêm vài giờ nữa để chứng kiến hậu quả của tấn thảm kịch vĩ đại này trước khi nó tiêu diệt chúng ta thì có thể được và tôi cũng đã có chuẩn bị đây rồi. - Ôxy ư? - Đúng, ôxy. - Nhưng ôxy thì tác động được gì đối với sự nhiễm độc ête. Một cục gạch với một bình ga khác nhau thế nào thì ôxy với ête cũng khác nhau như thế. Đây là hai chất hoàn toàn chẳng có gì chung và không thể tác dụng lên nhau. Thôi đi, Challenger, ông đừng cố công bảo vệ cái giả thiết ấy. - Ôi chà, ông bạn Summerlee thân mến ơi, chất ête độc này chắc chắn là đã bị ảnh hưởng bởi những tác nhân vật chất khác. Hãy nhìn bệnh dịch và cách phát tán của nó mà xem. Lúc đầu, chúng ta có thể không để ý nhưng sự thực hiển hiện ra đấy. Cho nên, tôi tin chắc rằng một chất khí như ôxy, vốn có tác dụng tăng cường sinh lực và sức đề kháng của cơ thể, sẽ có thể kiềm chế tác động của chất mà ông đã đặt tên là daturon đó. Cũng có khả năng là tôi nhầm, nhưng tôi tin lập luận của tôi rất chính xác. - Dù thế nào chăng nữa, huân tước John phát biểu, nếu phải ngồi ngậm những cái vòi ôxy như trẻ con bú bình thế này thì tôi cũng xin kiếu. - Không phải như thế. Chúng tôi đã có chuẩn bị cả rồi. Các ông phải cảm ơn bà nhà tôi. Cái phòng khách của bà ấy rất kín, lại có nệm và giấy dán tường. - Này, Challenger, ông không định nói là ông sẽ ngăn hơi độc bằng giấy dán tường đấy chứ? - Thế mà đúng đấy, ông bạn ạ. Ông chỉ được cái hay đi lạc đề. Chúng ta khổ sở ở trong này không phải để ngăn ête tràn vào mà là để ngăn ôxy đừng thoát ra. Tôi chắc rằng nếu chúng ta duy trì được môi trường giàu ôxy, chúng ta có thể giữ được sự tỉnh táo. Tôi có hai bình. Các ông lại mang đến thêm ba bình nữa. Không nhiều nhưng thôi cũng tạm được. - Chúng sử dụng được trong bao lâu? - Tôi không biết. Chúng ta chỉ mở chúng khi không thể chịu đựng thêm được nữa. Chúng ta sẽ chỉ tiếp ôxy cho những ai thật cần. Cũng còn tuỳ. Có thể chúng ta sẽ sống thêm được vài giờ hoặc vài ngày. Dù thế nào, chúng ta cũng sẽ chứng kiến được cảnh thế giới bị huỷ hiệt. Đó là tất cả những gì mà chúng ta có thể làm để lùi lại giây phút định mệnh ấy. ít nhất chúng ta sẽ có thể cùng nhau chứng kiến một sự kiện có một không hai. Năm người chúng ta sẽ là đội quân cuối cùng của loài người bước vào cõi hư vô. Nào, hãy giúp tôi sắp xếp các bình ôxy. Tôi cảm giác không khí đã ngột ngạt lắm rồi. CHƯƠNG III Khí độc tràn ngập Căn phòng được dành làm bối cảnh cho sự phiêu lưu của chúng tôi là một phòng khách mang đậm vẻ nữ tính, mỗi chiều rộng chừng 4,5m. Phía cuối phòng là một bức màn nhung đỏ ngăn cách với phòng thay đồ. Bức màn nhung vẫn buông như toàn bộ không gian có thể coi như một phòng kín duy nhất. Cửa ra vào và cửa sổ đã được dán giấy kín để ngăn không khí ra vào phòng. Ở phía trên, một cánh cửa ra vào khác mở ra chân cầu thang, nơi có một cái cửa thông gió gắn với một sợi dây. Khi thật cần thiết, có thể kéo sợi dây này xuống để cánh cửa mở ra. Mỗi góc phòng có một chậu cây cảnh lớn. - Làm sao để xử lý khí cácboníc tối đa và tiêu tốn ôxy ít nhất là vấn đề cơ bản và nhạy cảm mà tôi phải nghĩ nát óc mới ra , Challenger nói khi nhìn năm cái bình oxy xếp dọc theo bức tường. Nhưng trong hoàn cảnh này, chúng ta làm thế nào được thì làm thôi. Những cái cây này cũng giúp giải quyết khí cácboníc đáng kể đấy. Hai bình ôxy sẵn sàng mở ra tức khắc, đảm bảo chúng ta sẽ không bị ngộp thở bất thình lình. Tất nhiên là không nên đi xa phòng này vì khí độc sẽ tràn tới một cách đột ngột. Có một cửa sổ rộng và thấp mở ra ban công. Quang cảnh bên ngoài vẫn như những gì chúng tôi nhìn thấy qua cửa sổ phòng làm việc của giáo sư. Nhìn ra ngoài vẫn không thấy bất cứ một xáo trộn nào. Trước mắt tôi là đường ray xe lửa ngoằn nghèo chạy xuống sườn đồi. Một chiếc xe ngựa cổ còn sót lại từ thời xa xưa, những thứ chỉ còn thấy ở thôn quê, đang ì ạch bò lên sườn đồi như một nhà hiền triết già. Xa chút nữa là cô trông trẻ đang đẩy chiếc xe nôi, tay dắt theo một em nhỏ. Những làn khói xanh uốn lượn bốc lên từ nóc các trang trại và toả đi khắp hướng làm cảnh quan của cả một vùng rộng lớn đượm vẻ thanh bình, nhàn hạ. Trên trời xanh cũng như dưới mặt đất, ngày vẫn rực rỡ và không có bất cứ một dấu hiệu nào báo trước thảm họa. Đám thợ gặt vẫn làm việc trên đồng, những người chơi gôn vẫn từ từ tiếp tục cuộc chơi của mình. Đầu óc tôi quay cuồng, các dây thần kinh căng như dây đàn và phát sốt lên vì vẻ bình thản đến lạ lùng của họ. - Họ có vẻ không cảm thấy ảnh hưởng của khí độc nhỉ? Tôi nói với huân tước John, - Cậu đã chơi gôn bao giờ chưa? - Chưa. - À thế đấy, cậu bé. Khi nào chơi, cậu sẽ biết là một tay gôn thực thụ sẽ chẳng thèm bận tâm đến điều gì trước khi hoàn thành một vòng gôn 18 lỗ đâu… Ồ, lại điện thoại. Trong suốt bữa ăn và sau đó, chốc chốc lại có tiếng chuông điện thoại thúc giục ông giáo sư. Sau khi nghe điện thoại, ông quay lại báo cho chúng tôi biết tình hình bằng vài câu ngắn gọn. Đó là những mẩu tin khủng khiếp mà nhân loại chưa từng nhận. Bóng đen tai họa khổng lồ từ phương Nam kéo đến như một cơn thuỷ triều chết. Ai Cập đã trải qua giai đoạn kích động và đang rơi vào hôn mê. Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sau cơn bao động hoang dã trong đó giới tăng lữ và những vô chính phủ đánh nhau tới chết giờ đây đã chìm vào im lặng. Nam Mỹ bắt đầu bặt vô âm tín. Ở Bắc Mỹ, những cuộc chiến đẫm máu giữa người da đen và người da trắng đã tàn phá các bang ở miền nam trước khi khí độc tràn tới tiêu diệt. Tại bang Maryland và Canada, triệu chứng ngộ độc chưa được biểu hiện rõ. Bỉ, Hà Lan và Đan Mạch lần lượt bị ngộ độc. Những điện tín hoảng loạn được tung ra khắp nơi, đến các trung tâm khoa học, các nhà hoá học và các thầy thuốc nổi tiếng thế giới. Các nhà thiên văn cũng ngập chìm trong đám điện tín hỏi lời khuyên. Nhưng không ai có thể làm gì được. Tai hoạ lớn quá và rộng quá. Nó vượt ra ngoài tầm hiểu biết và sức mạnh của con người. Chỉ một điều chắc chắn là cái chết, một cái chết không đau đớn nhưng chẳng chừa một ai. Già chết, trẻ chết, kẻ yếu chết, người mạnh chết, người nghèo chết mà kẻ giàu cũng không được tha. Một cái chết không thể tránh khỏi.. Đó là những tin tức hốt hoảng, rời rạc mà chúng tôi nhận được. Những thành phố lớn đã biết số phận của mình và chúng tôi đoán là họ đang nhẫn nhịn đón chịu định mệnh của mình một cách phục tùng. Thế mà ở đây, những người chơi gôn và những người nông dân vẫn như những con cừu non tung tăng trước lưỡi dao đồ tể. Thật đáng ngạc nhiên. Nhưng suy cho cùng, làm sao họ biết được tai hoạ này… Tai hoạ ập xuống nhanh quá. Các tờ báo buổi sáng chẳng cho họ biết được điều gì. Với lại, bây giờ mới có ba giờ chiều. Tuy nhiên, tin tức dường như bắt đầu lan tới họ vì ngay tức khắc tôi thấy những người thợ gặt hối hả rời khỏi cánh đồng và những người chơi gôn rời bỏ cuộc chơi, quay về câu lạc bộ. Họ chạy như chạy trốn một cơn mưa rào, kéo theo túi dụng cụ lắc lư phía sau. Một vài người vẫn thong thả chơi nốt cuộc chơi đang dang dở. Cô giữ trẻ cuống cuồng đẩy xe nôi quay trở lại, một tay đặt trên trán đứa bé. Một chiếc xe ngựa đậu lại bên đường, con ngựa mệt gục đầu xuống tận đầu gối để nghỉ. Phía trên kia vẫn là bầu trời trong xanh tuyệt diệu của mùa hè, lác đác vài cụm mây trắng phía chân trời. Nếu ngày tận thế diễn ra hôm nay thì cái chết cũng đến trong một quang cảnh huy hoàng, tuyệt đẹp. Nhưng chính vẻ thanh bình yên ả này khiến cho ý nghĩ về sự huỷ diệt khủng khiếp hơn. Ồ không, trái đất này quá đẹp đẽ, đáng yêu để con người có thể dễ dàng rời bỏ nó. Như tôi đã nói, chuông điện thoại lại reo lên lần nữa. Bỗng tôi nghe Challenger gọi lớn: - Anh Malone, điện thoại của anh… Tôi hấp tấp chạy đến máy điện thoại. Mrc Arolle gọi tôi từ Luân Đôn. - Anh Malone phải không?, tôi nghe thấy tiếng nói quen thuộc. Ở Luân Đôn đang xảy ra một chuyện khủng khiếp. Nhân danh chúa, ông hãy hỏi Challenger xem ông ấy có làm được gì không.! - Ông ấy không có giải pháp gì đâu, tôi trả lời. Ông ấy cho rằng đây là thảm họa toàn cầu và không thể tránh khỏi. Chúng tôi có một ít ôxy ở đây, nhưng chỉ có thể trì hoãn được số phận thêm vài giờ thôi. - Ôxy ư? Giọng hoảng hốt cất lên. Không có thời giờ để mua đâu.. Sáng nay, lúc anh đi, toàn soạn rối tung hết cả lên. Đến lúc này, một nửa nhân viên đã bất tỉnh. Tôi cũng đang cảm thấy nặng trĩu cả người. Qua cửa sổ, tôi có thể nhìn thấy người chết nằm la liệt trên phố Fket. Xe cộ ngưng hết cả. Theo những điện tín mà tôi nhận được thì cả thế giới… Giọng ông tự nhiên chìm xuống rồi im bặt. Một lúc sau, tôi nghe thấy một tiếng bụp qua điện thoại, như thể đầu ông ngã xuống đập vào bàn. Tôi hốt hoảng la to: - Ông Ardle… Không có tiếng trả lời. Tôi hiểu là mình sẽ không bao giờ còn nghe giọng nói của ông ấy nữa. Chính vào lúc ấy, đúng cái lúc mà tôi bước một bước rời khỏi chiếc điện thoại thì tai hoạ ập xuống. Tôi thấy mình chơi vơi như đang bơi, những con sóng vô hình dâng lên, ngập đến vai, rồi đột ngột phủ chụp qua đầu. Dường như có một bàn tay nào đó đang từ từ xiết lấy cổ tôi, nhẹ nhàng rút kiệt sinh lực của tôi. Một sức ép khủng khiếp đè lên ngực tôi, thái dương tôi giật giật, tai ù đi, choáng váng như sấm chớp chói loà trước mặt. Tôi cố sức bò đến tay vịn cầu thang. Ngay lúc ấy, Challenger xẹt qua tôi, thở phì phò như một con trâu bị thương. Trong ông thật khủng khiếp. Mặt ông đỏ tía lên như con tôm hùm, mắt vằn đỏ ngầu, tóc tai dựng ngược. ông vác bà vợ bé nhỏ ngất xỉu vắt vẻo trên vai. Với một nỗ lực bản năng, ông mò mẫm, loạng quạng băng qua làn khí độc lên cầu thang, thiên đường an toàn tạm thời lúc bấy giờ. Như được tiếp thêm năng lượng trước sự gan dạ và ý chí sắt đá của ông, tôi cũng gắng hết sức lao lên các bậc thang, bám chặt lấy tay vịn cho đến khi ngã sấp trên đầu cầu thang, gần như bất tỉnh. Những ngón tay thép của huân tước John nắm lấy cổ áo kéo tôi vào. Một lúc sau, tôi thấy mình nằm ngửa trên tấm thảm phòng khách, không đủ sức cất lời. Bà Challenger nằm xõng xoài cạnh tôi và Summerlee sụm xuống một đống trên ghế ngồi bên cửa sổ, đầu gục xuống tận đầu gối. Như trong mơ, tôi thấy Challenger bò trên sàn như một con cánh cam khổng lồ đến bên bình ôxy. Sau đó tôi nghe thấy tiếng ôxy thoát ra. Challenger hít hai ba hơi đầy lồng ngực rồi kêu lên: “Có hiệu nghiệm. Lý thuyết của tôi được chứng thực rồi”. Ông vùng trở dậy, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Ông cầm bình ôxy chạy về phía vợ. Vài giây sau, bà rên nhỏ, động đậy và ngồi dậy được. Ông quay sang tôi, tôi ngồi thấy nguồn sống ấm nóng dào dạt chảy trong huyết quản. Lý trí bảo tôi rằng đây chỉ là những thời khắc sống tạm bợ nhưng mỗi giây phút lúc này quả thật vô giá. Chưa bao giờ tôi có cái cảm giác run lên vì sung sướng đến thế khi lấy lại được hơi thở và cảm giác tận hưởng không khí. Sức ép ở phổi tôi biến mất, cái vòng kim cô xiết quanh đầu bắt đầu nới lỏng ra. Một cảm giác yên tĩnh ngọt ngào, một cái gì ấm áp, dịu dàng trào dâng lên trong lòng. Tôi nằm yên nhìn Summerlee cũng hồi sinh theo cách đó, cuối cùng là huân tước John. Huân tước đứng bật dậy, kéo tay tôi đứng lên trong khi Challenger dìu vợ đến bên tràng kỷ. - Ôi, George, bà nắm lấy tay chồng thầm thì, tiếc là mình đã gọi em trở lại. Mình nói đúng, cánh của của thần chết rất huy hoàng, có màn treo lỗng lẫy. Khi cảm giác ngạt thở qua đi, tất cả trở nên đẹp và yên ả đến lạ kỳ. Tại sao mình kéo em trở lại? - Vì tôi muốn chúng ta cùng nhau vượt qua quãng đường này. Hai vợ chồng ta đã luôn bên nhau bao năm nay. Đến giây phút trọng đại này mà phải chia lìa thì đau khổ lắm vậy. Khi nghe những lời lẽ dịu dàng đó, tôi bỗng phát hiện ra một Challenger khác hẳn, một Challenger không ngạo nghễ, huênh hoang, khó chịu và luôn gây sửng sốt, chấn động. Khi đối diện với cái chết, con người sâu thẳm trong Challenger mới hiện ra, con người biết cách chinh phục một tình yêu và giữ lại mãi mãi. Rồi thình lình, ông lấy lại dáng vẻ của một người thuyền trưởng chỉ đạo chúng tôi. - Tôi là người duy nhất trong toàn thể nhân loại thấy và tiên đoán được thảm hoạ này, ông bắt đầu với giọng nói hân hoan của một nhà khoa học thắng lợi. Ông bạn Summerlee thân mến ơi, tôi tìn rằng những thắc mắc của sự rối loạn của các vạch quang phổ hẳn đã được giải đáp rồi chứ. Ông có còn cho rằng bài biết của tôi đăng trên tờ Times là một phán đoán sai lầm nữa không? Ít ra thì lần này, ông bạn đồng nghiệp ưa chống đối của Challenger không phản ứng gì. Summerlee đang hít ôxy đầy lồng ngực và duỗi thẳng chân tay như để chắc rằng mình hãy còn sống trên cõi đời này. Hài lòng vì đã buộc được Summerlee im lặng, Challenger bước đến bình ôxy. Tiếng xì xì của ôxy thoát ra nhỏ dần, đến khi nghe như tiếng thầm thì thoang thoảng đâu đó. - Chúng ta phải biết tiết kiệm. Không khí trong phòng giờ đây quá nhiều ôxy và tôi nhận thấy không ai trong chúng ta có những triệu chứng đáng ngại. Chỉ có thể qua thí nghiệm chúng ta mới biết đích xác chúng ta cần bao nhiêu ôxy để vô hiệu hoá chất độc. Phải thử xem đã. Trong vòng năm phút, chúng tôi ngồi yên, thần kinh căng thẳng. Đúng lúc tôi tự hỏi sao thái dương lại bị ép như thế này, bà Challenger đã kêu lên là bà thấy muốn xỉu. Chồng bà mở thêm bình ôxy và nói: - Thời tiền sử, thuỷ thủ thường nuôi chuột bạch dưới tàu thuyền vì giống vật này có cấu tạo cơ thể rất nhạy cảm với những dấu hiệu nhỏ nhất của không khí bị ô nhiễm, hơn các thuỷ thủ nhiều. Mình là con chuột bạch của chúng tôi đấy mình thân yêu. Tôi tăng lượng ôxy lên là mình cảm thấy khỏe hơn phải không? - Vâng, em khoẻ hơn rồi. - Có thể chúng ta đã tìm ra công thức chính xác rồi đây. Khi chúng ta biết được chính xác là mình cần bao nhiêu không khí để sống, chúng ta sẽ tính được là mình có thể sống được bao lâu nữa. Đáng tiếc là để cứu sống mình, chúng ta đã phí phạm phần lớn ôxy trong bình thứ nhất. - Có quan trọng đến thế không? Huân tước John đang đứng gần cửa sổ thọc hai tay vào túi quần hỏi. Đằng nào cũng phải chết thì kéo dài cuộc sống phỏng có ích gì. Chẳng phải ông cho là chúng ta không có cơ hội sống sót sao? Challenger mỉm cười lắc đầu. Huân tước nói: - Vậy ông có nghĩ chúng ta nên lao thẳng vào cái chết, đường hoàng và hiên ngang, thay vì chờ tử thần đến gõ cửa hay không? Nếu đằng nào cũng không có hy vọng, tôi đề nghị chúng ta hãy cầu nguyện, đóng hết các bình ôxy lại và mở cửa sổ ra. - Sao lại không nhỉ? Bà chủ nhà mạnh bạo đồng tình. Huân tước John nói đúng đấy, mình ạ. Chúng ta nên làm theo như thế. Giọng hùng hổ của Summerlee cất lên: - Tôi phản đối. Khi nào phải chết thì chúng ta sẽ chết. Nhưng cố gắng để chết sớm thì tôi thấy đúng là điên rồ không thể lý giải nổi. - Còn anh, anh bạn trẻ, anh nghĩ sao? Challenger hỏi tôi. - Tôi nghĩ chúng ta nên coi thảm hoạ đến phút cuối cùng. - Tôi hoàn toàn nhất trí với anh. - Nếu mình nói vậy, em cũng nghĩ như mình, bà chủ tiếp lời. - Thôi được. Tôi chỉ nêu vấn đề lên thôi, huân tước John giải thích. Nếu tất cả mọi người thoả thuận chứng kiến thảm hoạ đến phút cuối, tôi cũng sát cánh cùng mọi người. Hẳn phải là một kinh nghiệm thú vị lắm. Tôi đã từng mạo hiểm nhiều, đã từng trải qua nhiều cảm giác mạnh… Nhưng tôi sẽ từ giã cõi đời với một cảm giác phi thường nhất. - Mà nó lại cho phép ông sống thêm đấy, Challenger nói. - Giả thiết hay quá nhỉ, Summerlee vặc lại. Lúc đầu, Challenger chỉ yên lặng phản đối, sau đó nói như một nhà hiền triết: - Sống thêm… Chẳng ai trong chúng ta có thể khẳng định mình có thể quan sát được đến đâu cái mà ta gọi là thế giới tinh thần và thế giới vật chất. Ngay cả với những đầu óc ấu trĩ nhất (ông liếc sang Summerlee), chỉ khi còn tồn tại trong cơ thể vật chất này ta mới có thể quan sát và phán đoán các hiện tượng vật chất được. Bởi vậy, chỉ khi cố gắng duy trì sự sống thêm vài giờ nữa, chúng ta mới hy vọng đem được sang thế giới bên kia một cái nhìn rõ ràng về biến cố vô tiền khoáng hậu vĩ đại nhất của vũ trụ này. Tôi cho rằng chúng ta đang trải qua một cuộc phiêu lưư kỳ thú nhất và mất đi phút nào là tiếc phút đó. - Tôi hoàn toàn đồng ý với ông! Summerlee tuyên bố chắc nịch. - Thông qua tuyệt đối, huân tước John tiếp lời. Ôi này, bác tài xế tội nghiệp của ông đã đi chuyến xe cuối cùng của bác ta rồi. Liệu chúng ta có nên mạo hiểm lao ra khiêng bác ta vào không nhỉ? - Điên rồ, điên rồ hết sức, Summerlee kêu lên. Huân tước John không nài nỉ nữa. - Đúng là thế thật, ông khẽ khàng. Điều đó cũng chẳng làm bác ta sống lại được mà còn làm khí độc tràn vào phòng nữa. Ấy là giả sử ta còn có cơ quay trở lại. Lạy Chúa, nhìn mấy con chim nhỏ trên cành kìa. Chúng tôi kéo ghế lại gần khung cửa sổ thấp chạy dài. Bà Challenger vẫn mơ màng không rời mắt khỏi chiếc tràng kỷ. Một hình ảnh khủng khiếp, rùng rợn, đột ngột kéo đến tâm trí tôi: chúng tôi ngồi trên bốn chiếc ghế sắp hàng dài chứng kiến hồi kết tấn bi kịch của thế giới. Cái ảo ảnh có lẽ được phóng đại lên nhiều lần do bầu khôngkhí nặng nề, tù túng mà chúng tôi đang hít thở. Ngay trước mặt chúng tôi, dưới cái sân nhỏ là chiếc xe đang rửa dở dang. Bác tài xế Austin nằm xóng xoài bên bánh xe, trên trán nổi lên một cục tím bầm, chắc là do ngã đập đầu vào thành xe hoặc bậc để chân. Tay bác vẫn còn nắm vòi nước rửa xe. Vài cây tiêu huyền che mát cả một góc sân, dưới gốc cây có vài chú chim chết xù lông như trái banh, những cái chân nhỏ xíu co quắp hướng lên trời. Lưỡi hái tử thần không phân biệt kẻ yếu hay kẻ mạnh. Con đường dẫn tới nhà ga phía bên kia bức tường bao quanh sân giờ ngổn ngang xác người. Những người thợ gặt mà chúng tôi lúc nãy nhìn thấy đang trên đường xuống đồi giờ nằm lộn xộn, co quắp lên nhau. Xa một chút, cô trông trẻ nằm ngã đầu và vai lên bệ cỏ ven đường. Cô bế đứa bé ra khỏi xe nôi, giờ là một bọc bất động trên tay cô. Ngay sau cô là bé gái nằm im, cứng đờ. Gần chúng tôi hơn, con ngựa già chết, đầu gục giữa hai càng xe. Người xà ích già nằm vắt vẻo qua cái chắn bùn như một con chim sẻ khổng lồ xấu xí, kỳ quặc. Qua cửa kính, chúng tôi nhìn thấy mờ mờ một cậu thanh niên đang nắm tay cánh cửa đã mở, chắc là đang cố nhảy xuống. Tiếp đến là sân gôn xanh nhạt. Giống như hồi sáng, chúng tôi vẫn nhìn thấy những bóng người đang rời khỏi sân, chỉ khác là những cái bóng này giờ đây nằm dài trên đường hoặc vắt qua những bụi cây ven đường. Chúng tôi đếm được tám cái xác của những những người chơi cặp bốn quyết tâm chơi đến phút cuối cùng. Không một bóng chim trên bầu trời cao rộng, không một dấu hiệu của sự sống trên cả bức tranh quê trải dài ngút tầm mắt. Mặt trời chiều đã thôi gay gắt, rải cái nắng dịu dàng lên quang cảnh tĩnh mịch và chết chóc, cái chết mà chẳng bao lâu nữa chúng tôi cũng phải nhập cuộc. Tạm thời lúc này, cánh cửa kính dày đang cách ly chúng tôi với số phận chung của đồng loại nhờ chút ôxy dự trữ để trung hoà độc tính của ête. Nhờ kiến thức và khả năng tiên liệu của một con người, trong một vài giờ, chúng tôi đã tạo ra được một ốc đảo sống nhỏ nhoi giữa mênh mông chết chóc. Rồi khi ôxy cạn, chúng tôi cũng sẽ ngã xuống như họ, co quắp trên tấm thảm phòng khách này. Thế là nhân loại chấm hết, sự sống bị xoá sổ trên địa cầu. Trong một lúc lâu, không khí quá nặng nề khiến không ai có thể mở miệng. Lặng lẽ, chúng tôi cùng nhau quan sát tấm thảm kịch bên ngoài. - Nhìn những ngôi nhà đang cháy kìa, Challenger đột ngột nói và chỉ tay ra phía cột khói cuộn lên sau những tán cây. Có lẽ còn có nhiều ngôi nhà khác cũng đang cháy, khéo cả một thành phố cũng nên. Vì khi ngã xuống, chắc có nhiều người vẫn còn cầm đèn trong tay. Nhà vẫn còn cháy được chứng tỏ lượng ôxy trong không khí vẫn ở mức bình thường và chắc chắn ête là thủ phạm. Lại một đám cháy khác trên đỉnh đồi Crowborrough. Nếu tôi không nhầm thì đây là câu lạc bộ chơi gôn. Chuông nhà thờ vẫn điểm. Các nhà triết học nếu còn sống hẳn sẽ rút ra khối điều hay ho khi mà những máy móc do con người chế tạo lại sống lâu hơn toàn bộ nhân loại. - Trời ơi, huân tước John bật dậy kêu to. Những cuộn khói bên kia là những gì vậy? Tàu hoả ư? Chúng tôi nghe thấy tiếng rầm rập, rầm rập rồi tức thì đoàn tàu lao vào tầm mắt của chúng tôi với một tốc độ khủng khiếp. Nó khởi hành từ đâu, đã được bao nhiêu cây số..? Chỉ có phép lạ mới giúp nó chạy được đến đây mà không bị xác người hoặc các vật khác làm lật. Nhưng trời ơi, chúng tôi sắp sửa phải chứng kiến kết cục thảm khốc của nó. Đang có một chiếc tàu chở than đứng sừng sững trên đường ray. Chúng tôi như ngừng thở khi chiếc tàu khách xầm xập lao đến. Cú đụng tàu thật kinh hoàng. Đầu máy và các toa tầu dồn cục lại, chỉ còn một đống gỗ và sắt ngổn ngang. Bỗng tất cả bốc cháy lên rừng rực. Trong nửa giờ, chúng tôi im lặng, sững sờ nhìn cảnh tượng tang thương này. - Thật tội nghiệp những con người đó, sau cùng bà Challenger thốt lên và bám cứng lấy cánh tay chồng. - Mình ơi, những hành khách trên tàu đó đâu có còn sống. Họ cũng nằm im lìm như những viên than trên chiếc tàu kia thôi. Lúc rời khỏi ga Victoria thì đó là con tàu chở người nhưng khi đến đến đây, nó chỉ còn là chuyến tàu chở xác chết trước khi cú đụng kinh hoàng này xảy ra. - Và những thảm cảnh tương tự như vậy diễn ra khắp nơi trên thế giới. Tôi thốt ra những lời này một cách vô thức. Một sự sáng suốt kỳ lạ làm hiện lên trước mắt tôi tất cả những tai họa có thể diễn ra đâu đó trên hành tinh. - Hãy nghĩ đến những con tàu ngoài biển. Chúng sẽ chạy liên tục. Chúng sẽ lênh đênh trên sóng cho đến khi những lò than tắt ngấm hoặc lao thẳng vào một bờ biển nào đó. Những chiếc thuyền buồm cũng vậy. Chúng sẽ mang theo những cánh buồm và xác của các thuỷ thuỷ trôi vô định trên đại dương đến khi ván mục ra, các mối nối rò gỉ và lần lượt chìm xuống Đại Tây Dương, bỏ lại đám vật dụng trôi nổi… - Còn những thợ mỏ, Summerlee phụ hoạ sau cái tặc lưỡi chán nản. Nếu sau này còn có những nhà địa chất, chắc họ sẽ đặt ra vô số giả thiết kỳ dị về sự tồn tại của loài người qua hoá thạch của những người thợ mỏ. Huân tước John nói vẻ tư lự: - Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng tôi nghĩ sau vụ này, trái đất sẽ giống như một căn nhà cho thuê không có ai hỏi. Nhân loại đã bị xoá sạch khỏi địa cầu, làm sao loài người xuất hiện trở lại được nữa. - Thì thời nguyên thuỷ, trái đất vốn trống rỗng đấy thôi. Loài người xuất hiện trên trái đất theo những quy luật khó mà cắt nghĩa được nguồn gốc. Tại sao một chu trình như vậy lại không thể lặp lại? - Ông bạn Challenger thân mến, ông không định nói nghiêm túc đấy chứ? - Tôi có thói quen nghĩ một đằng, nói một nẻo đâu, giáo sư Summerlee ạ. Lời nhận xét của ông đặt nhầm chỗ rồi đấy. Nói rồi, Challenger nhắm mắt lại, mặt vênh lên. - Ông đúng là một kẻ giáo điều cứng đầu - Còn ông? Ông thì lúc nào cũng chỉ trích, chẳng có một tí sáng tạo nào và cũng chẳng bao giờ làm được việc gì khác ngoài chỉ trích. - Cứ làm như ông chưa bao giờ bị chê là nghèo tưởng tượng ấy, Summerlee phản bác. Huân tước John can ngăn: - Này hai ông. Hai ông định hít hết khí trong những bình ôxy cuối cùng này để lấy sức thoá mạ nhau đấy hẳn. Con người có xuất hiện trở lại trên trái đất nữa hay không thì đâu có quan trọng gì. Chắc chắn khi chúng ta còn sống sẽ chẳng có chuyện đó đâu. Challenger nghiêm sắc mặt trả lời: - Ông nói vậy chứng tỏ ông rát nông cạn đấy. Điều này thì chúng tôi cũng không lạ. Một đầu óc khoa học chân chính không bao giờ tự trói mình trong một phạm vi không gian và thời gian giới hạn. Nhà khoa học xây dựng cho riêng mình một phòng thí nghiệm là hiện tại, làm cột mốc giữa quá khứ và tương lai. Từ đây, anh ta nghiên cứu sự việc, hiện tượng từ điểm khởi đầu cho đến khi kết thúc. Khi thần chết gõ cửa, nhà khoa học sẽ chết tại vị trí làm việc thường ngàycủa mình và vẫn theo những phương pháp mọi khi cho đến lúc chết. Anh ta không cần bận tâm đến sự phân rã tầm thường của thân xác vật chất, giống như mọi vật chất khác. Tôi nói có đúng không, giáo sư Summerlee? Summerlee nhăn nhó càu nhàu: - Với một chút dè dặt, tôi đồng ý. - Một đầu óc khoa học chân chính (tôi nói như vậy để không quá tỏ ra tự phụ) là phải có khả năng tư duy về một vấn đề gì đó trừu tượng ngay cả khi anh ta bị rơi từ trên máy bay xuống. Đó là mẫu người không thể thiếu trong công cuộc chinh phục thiên nhiên và chân lý. - Tôi có cảm giác là thiên nhiên đang trả thù đấy, huân tước John đáp lời, mắt nhìn qua cửa sổ. Tôi đã được đọc một số báo viết rằng các ông, những nhà khoa học, đang điều khiển cả thiên nhiên. Nhưng lần này, chính thiên nhiên lại đang dồn các ông đến bước đường cùng. - Chỉ là một sự đảo lộn tạm thời, Challenger khẳng định đầy tin tưởng. Trong chu trình vĩ đại của thời gian, mấy triệu năm thì có ý nghĩa gì. Thế giới thực vật, như các ông thấy, vẫn sống đấy thôi. Hãy nhìn cành lá của mấy cây tiêu huyền kia đi. Những con chim thì chết nhưng cây lá vẫn xanh tươi. Trong đám thực vật thuỷ sinh trong ao đầm, có những loài ấu trùng nhỏ xíu là đạo quân tiên phong của đời sống động vật. Đến lúc này đây, chúng ta lại là đạo quân cuối cùng. Khi hình thái sống thấp nhất xuất hiện, chắc chắn rồi con người rồi sẽ xuất hiện, chắc như là cây sồi thì nảy sinh từ hạt sồi vậy. Bánh xe luân hồi sẽ tiếp tục quay một vòng nữa. - Nhưng còn chất độc, tôi hỏi. Chất độc có giết chết sự sống từ trong trứng hay không? - Chất độc có thể chỉ là một lớp trong trường ête, một thứ Gulf-Stream siêu hình trong đại dương mà chúng ta đang trôi nổi. Hoặc giả có một dung sai nào đó cho phép cuộc sống thích nghi với những điều kiện mới. Một việc đơn giản là môi trường giàu ôxy hơn một chút đã có thể hoá giải được chất độc, chứng tỏ môi trường chỉ cần thay đổi không đáng kể là các động vật có thể chống chọi lại được với thảm hoạ này. Ngôi nhà lúc nãy bốc khói giờ giờ cháy rừng rực, những lưỡi lửa chập chờn liếm lên bầu trời. - Khủng khiếp quá, huân tước John thì thầm. Tôi chưa bao giờ thấy cái gì ấn tượng như thế Tôi nói: - Rốt cục thì cũng có sao. Thế giới đã chết, hỏa táng chắc chắn là cách xử lý xác chết tốt nhất. - Nếu căn nhà này bị cháy, chúng ta sẽ kết thúc sớm thôi. - Tôi đã nghĩ đến điều này, ông chủ nhà mỉm cười. Tôi dã bảo bà nhà tôi chuẩn bị các phương pháp đề phòng rồi. - Em làm hết rồi. Nhưng đầu óc em lại bắt đầu quay cuồng rồi. Không khí trong phòng này ngột ngạt quá. - Cần phải thay lượng khí này, Challenger nói rồi cúi xuống bình ôxy. Bình này gần hết rồi. Chúng ta đã sử dụng nó trong ba tiếng. Bây giờ có thể là tám giờ. Chúng ta sẽ qua được đêm nay an toàn. Tôi đồ là chúng ta sẽ hết sống vào chín giờ sáng mai. Chúng ta sẽ được chứng kiến cảnh mặt trời mọc cuối cùng trong đời. Sau khi mở bình ôxy thứ hai, Challenger mở cánh cửa thông gió. Không khí đã có vẻ khá hơn nhưng các triệu chứng của chúng tôi lại đang trầm trọng dần. Thấy thế, chỉ nửa phút sau ông lại đóng cửa lại. - Vả lại, con người đâu chỉ sống bằng ôxy, Challenger nói. Đến giờ ăn rồi đấy, thậm chí còn quá giờ là đằng khác. Tôi đảm bảo với các ông là khi mời các ông tới đây chứng kiến một sự việc thú vị như thế này, tôi rất muốn mời các ông thưởng thức tài nghệ nấu nướng tuyệt vời ở nhà tôi. Nhưng thôi kệ, có thế nào ăn thế ấy. Hẳn các ông cũng đồng ý với tôi là đốt bếp dầu lên để tiêu tốn chỗ ôxy quý giá này thì quả là điên rồ. Tôi có một ít thịt nguội, bánh mỳ, dưa chua với hai chai vang đỏ. Cám ơn em yêu, em lúc nào cũng đảm đang, tháo vát. Thật dễ chịu khi nhìn một bà nội trợ nước Anh dọn bàn ăn chỉ trong vài phút, trải lên bàn một tấm khăn trắng như tuyết, bày khăn ăn và sắp đặt bữa ăn đơn giản bằng một vẻ thanh lịch nhất trần đời. Có cả một chiếc đèn pin ở giữa bàn. Tuyệt hơn nữa là chúng tôi bắt đầu cảm thấy đói bụng. - Đói bụng hay không cũng phụ thuộc vào cảm xúc của chúng ta, Challenger nói với cái vẻ kẻ cả cố hữu khi ông vận dụng những tri thức khoa học để giải thích những sự việc tầm thường. Chúng ta đã trải qua một cuộc khủng hoảng lớn, làm xáo trộn ở cấp độ phân tử. Bất cứ niềm vui hay nỗi buồn lớn nào cũng khiến con người ta rất đói chứ không gây chán ăn như một số tiểu thuyết gia vẫn viết. - Chả trách mà ở quê mỗi khi có đám ma là người ta hay tổ chức ăn uống linh đình. - Chính thế. Anh bạn trẻ của chúng ta đã tìm ra một ví dụ minh hoạ đúng đấy. ăn miếng lưỡi này nhé. - Ở các bộ tộc hoang dã cũng thế đấy, huân tước John vừa cắt thịt vừa nói. Tôi đã từng chứng kiến họ chôn tù trưởng của mình ở sông Arunwini và ăn thịt một con hà mã nặng bằng cả bộ lạc. Một số tộc người khủng khiếp ở New Ghinê còn ăn thịt cả người chết tội nghiệp như một cách khâm liệm vậy. Mà này nhé, trong tất cả các bữa tiệc đám ma, tôi cho rằng bữa tiệc chúng ta ăn đây là kỳ lạ nhất. Bà Challenger xen vào: - Điều kỳ lạ là bây giờ tôi không thể thấy xúc động trước những người chết nữa. Tôi còn bố mẹ ở Belford và tôi biết là họ đã chết. Thế mà trong thảm hoạ toàn cầu này, tôi không còn cảm thấy xót thương cho từng cá nhân được, kể cả cha mẹ mình. - Mẹ già của tôi ở Ailen cũng thế, tôi tiếp lời. Tôi có thể hình dung ra cụ. Cụ choàng khăn và đội mũ len, ngả người ra chiếc ghế cao cạnh cửa sổ, mắt nhắm lại, bên người vẫn còn quyển sách và cặp kính. Nhưng tại sao tôi lại phải than khóc. Cụ đi rồi, tôi cũng sẽ đi thôi. Sang thế giới bên kia, tôi sẽ lại được gần cụ, có thể ở bất kỳ đâu đó ở Ailen hoặc Anh. Tuy nhiên, tôi vẫn đau lòng khi nghĩ rằng thân xác mình không còn sống nữa. Challenger lên tiếng: - Thân xác ư? Những chúng ta có bao giờ than khóc khi cắt móng chân móng tay đâu. Thế mà chúng cũng là một phần thân thể của chúng ta đấy. Giống như một người cụt chân không cảm thấy thương tiếc cái chân đã mất đi của mình. Thể xác vật chất của chúng ta là nguồn gốc của những đau đớn và mỏi mệt, là chỉ số thường trực cho thấy những giới hạn của chúng ta. Vậy tại sao phải đau buồn khi hồn lìa khỏi xác. - Với điều kiện là hồn lìa khỏi xác thật sự kia, Summerlee càu nhàu. Nhưng dù sao, tất cả cùng chết như thế này cũng thật là khủng khiếp. - Như tôi đã nói, Challenger đáp, chết tập thể xét cho cùng thì nhẹ nhàng hơn cái chết riêng lẻ nhiều chứ. Huân tước John tỏ ý tán đồng: - Cũng giống như trong chiến tranh. Nếu các ông nhìn thấy một người nằm chết trên sàn với một lỗ thủng trên đầu và bộ ngực nát bấy, các ông thế nào cũng sợ đến phát ốm lên. Nhưng ở Xu-đăng, tôi đã thấy mười nghìn người chết và tôi không có cảm giác ghê sợ. Bởi trong các cuộc chiến làm nên lịch sử, mạng sống của một cá nhân quá nhỏ, không ai buồn than khóc. Khi có đến một tỷ người chết một lúc như hôm nay, chúng ta không thể thương xót cho riêng một ai đấy cả. - Ôi, em mong là tất cả chuyện này chấm dứt, bà Challenger run rẩy. Mình ơi, em sợ lắm. - Khi giờ phút định mệnh đến, phu nhân bé nhỏ của anh, mình sẽ là người can đảm nhất trong chúng ta. Tôi chỉ là một gã chồng bẻm mép hay ba hoa thôi, mình yêu quý. Nhưng mình hãy luôn nhớ rằng tôi là người trước sau không thay đổi. Mình sẽ không cần đến một người chồng nào khác đấy chứ? - Không ai cả, mình ạ. Nói rồi, bà choàng tay lên cái cổ bò tót của ông. Ba chúng tôi bước lại gần cửa sổ. Bóng tối bao trùm lên cảnh vật, thế giới chết lặng chìm vào trong màn đêm. Bỗng ở phía Nam, một vạt sáng bung lên, nhấp nhô, chập chờn, thình lình quất vào nền trời những con sóng đỏ rực rồi buông xuống thành những dải lửa dài. Tôi kêu lên: - Lewes cháy rồi! - Không phải, đó là Brighton, Challenger băng ra nhập bọn với chúng tôi. Các ông có nhìn thấy đường cong của những đồi cỏ kia không? Đám cháy diễn ra ở sau đó. Chắc là cả thành phố đang bốc cháy. Những đám cháy nổi lên khắp phía. Các đoàn tàu hoả chỉ còn cháy âm ỉ nhưng chỉ như một đám lửa nhỏ âm thầm chứ không hung hăng nhảy múa như đám đại hoả hoạn bên kia, phía Brighton. Bình thường, đây thực sự là một đề tài hay cho tờ Gazette. Bất kỳ một phóng viên nào khi gặp dịp may như thế này sẽ không đời nào bỏ lỡ. Bản năng phóng viên trong con người tôi thốt nhiên bừng tỉnh. Nếu các nhà khoa học vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu của mình đến phút cuối, tại sao tôi không ghi lại cảnh tượng này nhỉ. Sẽ chẳng còn có ai đọc những gì tôi viết ra đây, nhưng như thế ít nhất đêm dài sẽ qua mau. Hoàn cảnh này ai mà ngủ được, đặc biệt là tôi. Những ghi ghép này sẽ choán hết tâm trí tôi trong những giờ phút đen tối này và giữ cho nó được thanh thản. Vậy là tôi đặt quyển sổ đầy những dòng chữ nguệch ngoạc lên đầu gối và viết trong ánh sáng mờ mờ của đèn pin. Nếu tôi có chút khiếu văn chương, tôi sẽ làm cho những trang giấy này xứng với tầm sự kiện và mang đến cho người đọc bản ký sự trung thực nhất về cái đêm kinh hoàng đầy những cảm xúc hỗn độn này. Chương IV Nhật ký của người hấp hối Những chữ mà tôi nguệch ngoạc trên đầu trang giấy trắng mới kỳ lạ làm sao. Lạ hơn nữa là chính tôi, Edward Malone, lại viết ra chúng. Tôi mới bắt đầu ra khỏi căn hộ của mình tại Streatham lúc mười hai giờ và hoàn toàn không có ý niệm gì về những sự kiện sẽ xảy ra với thế giới. Tôi lần lại từ đầu chuỗi sự kiện: cuộc nói chuyện với McArdle, bức thư cảnh báo của Challenger gửi tờ Times, cuộc hành trình kỳ dị trên tàu, bữa trưa vui vẻ, thảm hoạ ập đến. Và bây giờ chỉ còn mấy chúng tôi sống sót trên hành tinh rỗng không này. Số phận của chúng tôi dã được quyết định. Những dòng chữ mà tôi viết theo bản năng máy móc của một phóng viên sẽ không bao giờ được ai đọc tới. Chúng giống như lời của người đã chết. Tôi viết đúng vào thời điểm ranh giới giữa sự sống mong manh và cái chết hoàn toàn trên hành tinh. Challenger đã sáng suốt biết bao khi nói rằng bi kịch thật sự là còn sống khi tất cả những gì là chân, thiện, mỹ đã không còn. Nhưng bây giờ, để sống sót thôi cũng không phải là điều đơn giản. Bình ôxy thứ hai của chúng tôi đã cạn. Chỉ trong một phút là chúng tôi có thể tính toán khoảng thời gian ít ỏi còn lại của mình trên cõi đời. Chúng tôi may mắn được nghe Challenger diễn thuyết trong 15 phút đồng hồ. Ông trở nên kích động đến mức mặt đỏ tía tai và thở phì phò giống như đang trình bày vấn đề trước những thính giả già bảo thủ của thính đường Nữ hoàng vậy. Giờ phút này, ông đang có một nhóm người nghe kỳ cục: vợ ông, người sẵn sàng lĩnh hội tất cả những gì ông nói cho dù không hiểu, Summerlee ngồi trong góc tối, luôn phản bác, chỉ trích nhưng tỏ ra chú ý, huân tước John nằm dài một góc và dường như chẳng mấy quan tâm; tôi ngồi cạnh cửa sổ, lúc thì để ý, khi lại lơ đãng nhìn vơ vẩn ra ngoài hoặc theo đuổi những suy nghĩ riêng. Challenger ngồi trước cái bàn ở giữa phòng, chiếc đèn pin hướng vào chiếc kính hiển vi mà ông đem từ phòng thay đồ vào. Cái vòng sáng le lói hắt từ mặt gương lên dường như chia khuôn mặt thô mộc, râu ria xồm xoàm của ông làm hai nửa, nửa sáng rực, nửa tối đen. Lâu nay, ông nghiên cứu các dạng sống sơ đẳng nhất và điều làm ông thích chí là phát hiện ra con amíp ông chuẩn bị mẫu ngày hôm qua vẫn còn sống. - Chính mắt ông coi đi, Summerlee, cho thoả tính hiếu kỳ. Malone, tôi đề nghị anh kiểm chứng cho tôi những gì tôi nói. Những vi sinh vật hình que ở giữa là những tảo vỏ. Người ta có thể không để ý đến chúng vì chúng có vẻ giống thực vật hơn là động vật. Nhưng ở bên phải, các ông sẽ thấy một con amíp thực sự đang di chuyển từ từ trên giá thể. Con ốc phía trên dùng để điều chỉnh kính. Các ông coi đi, tận mắt coi đi. Summerlee nhìn và yên lặng đồng ý. Đến lượt mình, tôi cúi xuống và nhìn thấy một thứ sinh vật nhỏ đang ngoe nguẩy trong một môi trường trong suốt. Huân tước John nằm dài trong góc phòng, sẵn sàng tỏ ra tin tưởng. - Tôi chẳng tội gì vắt óc ra để tìm hiểu xem nó chết hay sống. Tôi và nó có bao giờ gặp nhau đâu. Tại sao tôi lại phải quan tâm đến mạng sống của nó chứ. Mà nó cũng chẳng quan tâm đến tình hình sức khoẻ của bọn ta đâu. Tôi bật cười. Challenger lườm tôi lạnh lùng, kiêu kỳ: - Sự dễ dãi của những người có chút ít giáo dục còn cản trở bước tiến của khoa học nhiều hơn là sự ngu dốt. Nếu huân tước hạ cố… - Anh George, đừng hung hăng như thế, bà Challenger thì thầm và vuốt nhẹ lên bờm tóc đen của ông đang cúi xuống kính hiển vi. Com amíp sống hay chết thì có ý nghĩa gì? - Ý nghĩa lắm chứ. - Thôi được rồi. Vậy thì chúng tôi nghe ông đây, huân tước John lên tiếng vẻ chấp thuận. Nói về con amíp này cũng như nói về bất cứ thứ gì khác thôi. Nếu ông cho là tôi đã quá lơ là với nó hoặc động chạm đến tự ái của ông thì xin ông bỏ quá cho. - Tôi không hiểu tại sao ông quan tâm đến mạng sống của con amíp ấy đến thế, Summerlee chen vào, giọng gây gổ. Chúng cũng sống trong môi trường như chúng ta và chất động không tác động được lên nó. Nếu nó ở ngoài căn phòng này, nó cũng sẽ chết như tất cả các sinh vật khác thôi. Ước gì tôi vẽ được vẻ mặt khinh khỉnh và kẻ cả của Challenger khi ông trả lời ông bạn đồng nghiệp. - Giáo sư Summerlee đáng kính ơi, nhận xét của ông chứng tỏ ông chẳng nắm được vấn đề gì cả. Mẫu vật này tôi chuẩn bị từ hôm qua, giá thể hoàn toàn kín. Ôxy không chui được vào đây nhưng ête thì có thể, giống như nó chui vào mọi ngóc ngách của vũ trụ vậy. Thế nhưng con amíp này vẫn sống. Từ đó suy ra là tất cả các con amíp ngoài căn phòng này vẫn sống chứ không chết như ông vừa nói. Chúng chống chọi lại được với thảm hoạ. - Dù như vậy cũng không cần phải mừng rú lên như thế, huân tước John nói. Suy luận của ông có ý nghĩa gì? - Có nghĩa là trái đất vẫn là một hành tinh sống chứ không phải là một hành tinh chết. Nếu ông có một chút óc tưởng tượng khoa học, ông hãy phóng tầm mắt ra xa hơn một chút. Trong một vài nghìn năm nữa, mà vài nghìn năm thì có thấm tháp gì trong dòng chảy vô tận của thời gian, trái đất sẽ lại có sự sống của động thực vật, khởi thuỷ chỉ từ con trùng amíp bé nhỏ này. Ông đã nhìn thấy những đám cháy trên thảo nguyên bao giờ chưa? Ngọn lửa tàn phá cả một diện tích rộng, không còn bóng cây, ngọn cỏ. Sau đám cháy, tất cả chỉ là một vùng đen xầm xì. Ông cho rằng đó chỉ còn là một miếng đất cằn và muôn đời vẫn là miếng đất cằn thôi sao? Không đâu. Cái mầm sống vẫn còn và vài năm sau khi ông quay trở lại, ông sẽ không tìm thấy những vết sẹo đen đúa khổng lồ hồi xưa đâu. Và ở đây, con vi sinh vật bé nhỏ này ẩn chứa nguồn gốc của đời sống sinh vật và nó sẽ xoá sổ mọi dấu hiệu của thảm hoạ đang đến với chúng ta ngày hôm nay. - Thú vị quá nhỉ! Huân tước John kêu lên và quyết định nhìn vào kính hiển vi. Thế ra cái con nho nhỏ này sẽ là tổ tiên của loài người trong tương lai. Nó mang một cái nút đen trên áo này, Challenger. - Cái nút đen đó là nhân tế bào. Challenger có cái vẻ của một cô bảo mẫu dạy em bé bảng chữ cái. - Tốt quá, thế là tôi khỏi cảm thấy cô đơn rồi. Ngoài chúng ta ra thì ít nhất cũng có ai đó sống trên trái đất này, huân tước John thở dài. Nhưng Summerlee xen vào: - Đôi lúc tôi cho rằng chỉ có kẻ hợm mình mới nghĩ là mọi sự sắp đặt của tạo hoá là chỉ để dành cho hắn độc diễn. - Về vấn đề này, tôi cũng không cùng quan điểm với ông. Nhưng cứ dẹp cái gọi là ”những kẻ hợm mình” của ông sang một bên, chắc ông cũng phải công nhận với tôi rằng sự sống của con người là điều tối cao nhất trong tự nhiên. - Chỉ cao nhất trong số những gì ta biết mà thôi. - Vớ vẩn. - Hãy nghĩ đến hàng triệu, thậm chí là hàng tỷ năm trái đất trống rỗng trôi lang thang trong vũ trụ… trống rỗng, hoặc chí ít là không một bóng người. Hãy nghĩ đến hành tinh này, tắm mưa, gội gió, dầu dãi nắng nôi suốt hàng bao nhiêu thế kỷ đằng đẵng. Như thế, theo những gì các nhà địa lý đo được, con người coi như mới chỉ xuất hiện từ ngày hôm qua thôi. Sao có thể nói tất cả những sự chuẩn bị vĩ đại đó chỉ dành để cho con người. - Vậy ông cho là sự chuẩn bị đó là cho ai hay cho cái gì? Summerlee nhún vai: - Làm sao mà nói được. Có thể là vì một lý do nào đó ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Con người có thể chỉ xuất hiện một cách tình cờ và là một phế phẩm trong tiến trình tự nhiên. Con người giống như bọt nước trên đại dương hoặc như con chuột nhắt trong nhà thờ. Có lý nào cho rằng đại dương sinh ra là vì cái bọt nước và nhà thờ sinh ra là để con chuột có chỗ chui ra chui vào. Tôi ghi lại cuộc tranh luận của họ cho đến khi nó biến thành một cuộc đấu khẩu. Mỗi bên tung ra một đống các thuật ngữ dài ngoằng. Phải may mắn lắm mới được nghe hai bộ óc siêu việt này tranh luận về những vấn đề cơ bản nhất. Nhưng vì họ không bao giờ thống nhất với nhau nên những đầu óc trần tục như tôi và huân tước John chẳng rút ra được gì hay ho từ những điều họ nói. Họ luôn tìm cách hạ bệ nhau nhưng rồi tất cả đều chẳng đi đến đâu. Cuối cùng thì dàn hợp xướng cũng im lặng. Summerlee ngồi bó gối trên ghế và Challenger tay vặn ốc điều chỉnh, miệng lẩm bẩm như sóng biển ì ầm sau cơn bão. Huân tước John lại gần tôi, cùng nhìn ra màn đêm. Trăng hãy còn non nên rất nhạt. Đêm trăng cuối cùng được con người để mắt đến. Sao trời sáng lấp lánh. Ngay cả khi còn ở trên cao nguyên Nam Mỹ, tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy sao sáng đến thế. Hay là ête đã tác động lên ánh sáng? Lò thiêu ở Brighton vẫn cháy. Tôi lại nhìn thấy một vùng đỏ thẫm xa xa ở phía Tây. Chắc có gì không ổn ở Arundel, Chichester, hay có thể là Portsmouth. Tôi ngồi lặng yên quan sát, thi thoảng ghi lại vài điều. Tuổi trẻ, sắc đẹp, tinh thần thượng võ, tình yêu… tất cả kết thúc rồi sao? Dưới ánh trăng, mặt đất thật thanh bình và dịu dàng. Ai nghĩ rằng trái đất chỉ còn là một đồi sọ khổng lồ, ngổn ngang xác chết. Thình lình tôi bật cười: - Này cậu bé, huân tước John ngó tôi ngạc nhiên. Cậu vẫn còn cười được trong hoàn cảnh này ư? Cậu cười cái gì vậy? - Tôi đang nghĩ đến những vấn đề lớn chưa giải quyết, tôi trả lời, những vấn đề mà người ta đang rất quan tâm, ví dụ cuộc xung đột Anh-Đức hay vấn đề Trung Quốc chẳng hạn. Ai mà đoán trước là tất cả sẽ được giải quyết như thế này. Chúng tôi im lặng trở lại. Tôi cho là mỗi người trong chúng tôi đang lật lại những suy nghĩ của mình về những người bạn đã không còn. Bà Challenger thổn thức nhè nhẹ và huân tước chồng đang thì thầm gì đó vào tai bà. Đầu óc tôi điểm lại nhiều người rất khác nhau và thấy họ nằm thẳng băng và trắng toát như bác Austin tội nghiệp mà chúng tôi thấy trong sân. Mc Ardle chẳng hạn…. Tôi biết chắc ông ngã gục trên bàn, tay vẫn đặt trên điện thoại. Chủ toà báo, ông Beaumond, cũng đã chết. Tôi cho là ông ta ngã trên tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ xanh và đỏ trang trí cho thánh địa của mình. Rồi cả những người bạn phóng viên của tôi nữa. Họ đang nằm trong phòng phóng viên: Macdona, Murray, Bond. Chắc chắn là họ chết tại vị trí của mình với những giấy tờ đen đặc những ghi chép và cảm nhận cá nhân. Tôi hình dung thấy họ chạy đến phỏng vấn các thầy thuốc, đến Westminster, đến Saint-Paul… Chắc chắn họ đã chết khi trong tay có bức tranh toàn cảnh kỳ dị của thảm hoạ, sẵn sàng để đời sự kiện vĩ đại này bằng giấy trắng mực đen và những bài báo không còn ai có thể đọc được nữa. Tôi hình dung Macdona sẽ viết như thế này: “Hội đồng y khoa không thất vọng. Phỏng vấn giáo sư Soley Wilson, ông tuyên bố: đừng bao giờ chán nản”. “Đặc phái viên của chúng tôi đã tìm thấy nhà khoa học ngồi trên nóc nhà, chạy trốn đám đông bệnh nhân hoảng loạn tìm đến ông. Hành động này chứng tỏ ông thực sự nhân ra sự nguy cấp của tình hình song vẫn không chấp nhận rằng không còn một chút hy vọng nào nữa”. Đó là cách Macdona bắt đầu bài viết của mình. Rồi Bond nữa. Chắc là anh sẽ tới Saint-Paul. Cách viết của anh mang đậm chất văn hoa và đây sẽ là một chủ đề hay đối với anh. Anh sẽ viết đại khái như thế này: “Giờ đây, đứng an toàn trong căn phòng nhỏ dưới mái vòm bệnh viện Saint Paul, tôi nhìn thấy phía dưới mình một đám người quây lấy nhau trong sự tuyệt vọng, kéo lê số phận của mình đến giây phút cuối đời trước một đấng quyền lực mà họ chưa từng biết. Từ đám đông đang quỳ gối kia vẳng đến tai tôi một lời cầu khấn âm thầm, yếu mềm và hoảng loạn, tiếng kêu gọi một đấng siêu hình đến cứu giúp…”. Quả thực là một cái kết đẹp cho một bài báo. Nhưng cũng giống tôi, anh ấy đã tích luỹ nên những kho tàng không còn dùng được vào việc gì. Tội nghiệp Bond, có điều gì mà anh không dám làm để cho ra những bài phóng sự với chữ ký J.H.B như mọi khi. Tôi đang viết những điều lẩn thẩn chỉ để giết thời gian. Bà Challenger trở lại phòng thay đồ và giáo sư Challenger nói với chúng tôi là bà đi ngủ. Ông ngồi trước chiếc bàn ở giữa phòng, chú tâm tra cứu những quyển sách của mình như thể ông có hàng năm để làm việc đó. Ông viết bằng một chiếc bút lông kêu kèn kẹt như sẵn sàng phì ra sự khinh bỉ vào bất cứ ai không đồng ý với ông. Summerlee ngồi sâu trong ghế bành, thỉng thoảng lại phát ra tiếng ngáy cấm cảu. Huân tước John nằm duỗi thẳng, mắt nhắm, hai tay cho vào trong túi. Làm sao họ có có thể ngủ trong tình cảnh này nhỉ. Bây giờ là 3 giờ 30. Tôi vừa bật tỉnh dậy. Lúc nãy, khi tôi ghi chép những dòng cuối cùng này là 11giờ 15. Tôi còn nhớ là đã lấy lại đồng hồ và xem gìơ. Vậy là tôi đã phí phạm hơn 5 tiếng đồng hồ trong khoảng thời gian ân hạn cuối cùng. Thật không thể tin được. Thế nhưng tôi cảm thấy sảng khoái hơn nhiều và hoàn toàn khoẻ mạnh để đón nhận số phận. ít nhất ấy là những gì tôi tự thuyết phục mình. Tuy nhiên, khi con người càng khoẻ thì càng tha thiết với cuộc sống và càng không dễ dàng chấp nhận cái chết. Tạo hóa thật sáng suốt và hào phóng. Dần dần, chính qua những chấn động nhỏ không nhìn thấy được mà Tạo hóa kéo dần chiếc neo lưu giữ con người trên mặt đất. Bà Challenger vẫn ở trong phòng thay đồ, giáo sư Challenger đang ngủ trên ghế. Hình dáng ông lúc ngủ trông mới thật tức cười. Cả thân người to bè của ông tựa vào thành ghế, hai bàn tay lông lá bắt chéo trên chiếc áo gilê, cái đầu ngật hẳn ra đằng sau, lấp trong đám râu ria rậm rì. Người ông rung lên vì ngáy. Tiếng ngáy của ông trầm trầm, thỉnh thoảng lại được phụ hoạ thêm bởi tiếng ngáy sắc nhọn của Summerlee. Huân tước John cũng ngủ, người cuộn tròn quay sang một bên. Những luồng không khí lạnh đầu tiên của buổi ban mai lặng lẽ len vào phòng. Tất cả không gian nhuốm một màu xám xịt và buồn bã. Tôi lặng ngắm mặt trời lên. Dù trái đất không còn ai thì mặt trời vẫn mọc. Loài người không còn. Chỉ một ngày trôi qua cũng đủ sức quét sạch bóng dáng con người trên mặt đất. Thế nhưng hành tinh này vẫn tiếp tục nhịp vận động của nó. Những con sóng vẫn không ngừng dâng lên, hạ xuống, gió vẫn rì rầm mãi không thôi. Toàn bộ thiên nhiên vẫn tiếp tục chu trình của mình. Dưới sân, Austin vẫn nằm, chân tay duỗi dài trên đất, gương mặt nhợt nhạt vì ánh sáng buổi sớm, tay vẫn lăm lăm cái vòi nước. Một bức tranh biếm hoạ về thân phận con người ẩn trong hình ảnh nửa thô kệch nửa xót xa của bác tài xế già chết bên chiếc xe gắn bó bao năm của mình. Đến đây kết thúc những ghi chép của tôi bấy giờ. Từ thời điểm đó trở đi, các sự kiện diễn biến rất nhanh và đau đớn khiến tôi không thể viết tiếp được nữa. Tuy nhiên trong trí nhớ của tôi vẫn còn hằn sâu các chi tiết. Cổ họng bỗng nhiên đau thắt khiến tôi đưa mắt nhìn những chiếc bình ôxy và hoảng hốt vì những gì mình nhìn thấy. Lượng ôxy để duy trì sự sống của chúng tôi còn rất ít. Vào một lúc nào đó trong đêm, Challenger đã mở cái bình thứ tư và rõ ràng bình này cũng đang cạn khí. Một cảm giác khủng khiếp, cảm giác thiếu không khí, khiến tôi ngộp thở. Tôi băng qua phòng và quyết định mở chiếc bình cuối cùng. Khi tôi chạm vào chiếc đinh ốc, sự hoang mang làm tim tôi thót lại. Nếu tôi lỡ tay, có thể tất cả bọn họ sẽ chết trong giấc ngủ. Nhưng mọi do dự biến mất khi tôi nghe tiếng bà Challenger vọng ra từ phòng thay đồ. - George, em ngạt thở quá… - Đừng lo, bà Challenger, tôi sẽ mở một bình dự trữ nữa. Những người khác giật mình tỉnh giấc. Trong giây phút nguy cấp này, tôi không khỏi mỉm cười khi nhìn Challenger lúc thức dậy. Ông đưa bàn tay lông lá lên dụi mắt, trông như một đứa trẻ to đùng, râu ria. Summerlee run rẩy như người bị sốt rét. Khi nhận thấy tình cảnh của chúng tôi, nỗi sợ xâm chiếm lấy ông. Còn huân tước John tỉnh dậy với vẻ sảng khoái và tỉnh táo như chuẩn bị đi săn. - Bình thứ năm và là bình cuối cùng, ông thốt lên khi nhìn bình ôxy. Này cậu bé, cậu không định nói với tôi là chính cậu đã viết những cảm nghĩ lẩn thẩn của cậu lên những tờ giấy này đấy chứ? - Chỉ là ghi chép một chút cho hết đêm thôi. - Lạy Chúa tôi. Chỉ có người Ailen mới làm được điều này. Tôi nghĩ chắc cậu phải chờ con amíp của Challenger lớn lên thì mới mong có ai đó đọc bài viết của cậu… Giáo sư ơi, ông thấy tình hình thế nào ? Challenger ngắm nhìn màn sương mù buổi sáng giăng giăng trên cảnh vật. Đây đó những đỉnh đồi phủ cây nhô lên trên biển sương trắng như những hòn đảo nhỏ hình chóp. - Trông như một mảnh vải liệm, bà Challenger mặc áo ngủ bước vào thì thầm. Anh còn nhớ bài hát yêu thích của anh không, George? “Người già đẩy cửa ra đi, người trẻ đẩy cửa bước vào”. Điềm báo đấy… Ôi, các ông lạnh à. Trời ơi, cả đêm tôi ấm áp với chăn lông trong khi các ông thì run lập cập trên ghế… Xin chờ một chút, tôi sẽ giúp các ông thấy khoẻ khoắn trở lại. Người phụ nữ bé nhỏ dũng cảm biến mất sau phòng thay đồ và ngay lập tức chúng tôi nghe tiếng nước reo. Bà Challenger đang chuẩn bị cho bọn tôi mỗi người một tách sôcôla nóng. - Mời các ông dùng, bà nói. Uống xong, các ông sẽ cảm thấy khá hơn. Uống xong, Summerlee xin phép được châm tẩu và chúng tôi xin phép hút thuốc để đỡ căng thẳng. Nhưng chúng tôi đã phạm sai lầm. Bầu không khí trong căn phòng trở nên ngột ngạt, không thể thở nổi. Challenger đã phải bật quạt lên. - Chúng ta còn bao nhiêu thời gian, ông Challenger? Huân tước John hỏi. - Ba tiếng là cùng, giáo sư nhún vai. - Em đã tưởng là mình rất sợ. Nhưng khi thời khắc càng đến gần, cái chết dường như bớt đáng sợ hơn. Mình có nghĩ rằng chúng ta nên cầu nguyện không, George? - Mình cứ cầu nguyện đi, mình yêu quí, người đàn ông thì thầm thật nhẹ nhàng. Mỗi người trong chúng ta đều có cách cầu nguyện riêng của mình. Tôi hoàn toàn chấp thuận những gì mà định mệnh mang lại và vui vẻ tuân theo. Tôn giáo tối thượng nhất và khoa học siêu việt nhất, theo tôi, chính là hội tụ ở điểm này. Summerlee tay cầm tẩu làu nhàu phản đối: - Tôi thì còn lâu. Lý trí của tôi không đồng ý, vui vẻ tuân theo thì càng không. Tôi phải phục tùng chỉ vì tôi không làm thế nào khác được. Tôi thú nhận là nếu được sống thêm một năm nữa để hoàn thành việc phân loại hoá thạch phấn của tôi thì hay quá. Challenger phản công: - Sự dang dở này thì có thấm tháp gì so với công trình vĩ đại của tôi, cuốn “Những nấc thang của sự sống” mới chỉ được phác thảo những nét đầu tiên. Chất xám của tôi, kinh nghiệm của tôi, tri thức của tôi.. tóm lại tất cả những gì là của tôi đáng lẽ sẽ được hội tụ trong cuốn sách để đời này. Thế mà, các ông thấy đấy, tôi vẫn phải chấp nhận thôi. - Tôi cho là chúng ta sẽ phải bỏ dở những gì chưa hoàn thành thôi, huân tước John nói. Cậu bỏ dở những gì, cậu bé? - Tôi vừa bắt tay làm một tuyển tập thơ. - Ồ, may là mọi người thoát được tuyển tập thơ của cậu. Rốt cuộc thì cũng có cái gì đó hay ho bù lại đấy chứ. - Thế còn huân tước? Tôi hỏi lại. - Tôi ấy à, tôi phải bỏ lại ngôi nhà sạch bóng như một đồng xu mới kính coong. Tôi đã hứa với Merviale là mùa xuân này sẽ cùng lão đi săn báo tuyết ở Tây Tạng. Nhưng, thư bà Challenger, hẳn bà tiếc hơn tôi nhiều, phải không. Căn nhà của bà thật xinh đẹp. - Bất cứ anh George ở đâu thì đó là nhà của tôi. Mà tại sao chúng ta không đi dạo trên những triền đồi này trong không khí trong lành của buổi sáng nhỉ? Tim chúng tôi rộn lên đồng tình khi nghe bà nói những lời này. Ngoài trời, mặt trời đang lên xoá tan màn sương mù. Quang cảnh bừng lên dưới ánh nắng vàng rực rõ. Với chúng tôi, khi phải ngồi trong không gian tù túng này thì cảnh thôn quê trù phú, chói lọi và lộng gió quả là một giấc mơ tuyệt đẹp. Chúng tôi kéo ghế lại gần cửa sổ và sắp chỗ ngồi thành hình bán nguyệt. Không khí trở nên nặng nề dần. Tôi có cảm giác bóng tối chết chóc như rình rập đâu đó quanh đây, sẵn sàng đem chúng tôi đi. Một tấm màn vô hình dần dần cuốn nốt những người cuối cùng trên trái đất. Sau khi hít một hơi dài, huân tước John hỏi: - Cái bình này có vẻ không dùng được lâu nữa nhỉ? - Lượng khí trong bình có khác nhau. Nó phụ thuộc vào lực nén và thao tác nén. Nhưng mà tôi đồng ý với ông, Roxton, cái bình này không có nhiều khí. - Thế là chúng ta lại bị mất thêm một giờ sống à, Summerlee hỏi. Sau đó ông nói thêm, giọng the thé: - Đây là minh chứng cuối cùng thuyết phục nhất cho cái thời đại cặn bã mà chúng ta đang sống. Này Challenger, nếu ông muốn nghiên cứu những hiện tượng chủ quan về sự phân huỷ vật chất thì tôi cho rằng đã đến lúc rồi đấy. Challenger quay sang vợ: - Mình ngồi xuống chiếc ghế này và đưa tay cho tôi. Các ông bạn ạ, tôi nghĩ không nên kéo dài sự sống trong cái bầu không khí không thể chịu đựng này nữa. Mình không muốn thế, phải không mình yêu quí. Bà Challenger thốt ra một tiếng thở dài và gục đầu lên đùi chồng. - Tôi đã nhìn thấy những người đi bơi vào mùa đông ở vùng Serpentine, huân tước John nói. Khi tất cả mọi người đều ở đó, chỉ có một vài người trên bờ rét run vì lạnh và ghen tỵ với những người đang vẫy vùng trong nước. Đó là những người phải chịu đau đớn nhất. Tôi thà nhảy xuống nước còn hơn. Tôi sống thế này là quá đủ rồi. - Ông muốn mở cửa đón ête sao? - Tôi thà chọn khí độc còn hơn là ngạt thở. Summerlee ra hiệu đồng ý một cách miễn cưỡng, sau đó chìa tay cho Challenger: - Chúng ta đã từng cãi nhau nhưng bây giờ hãy quên đi tất cả. Dẫu thế nào, chúng ta cũng là những người bạn tốt và tôn trọng lẫn nhau mặc dù ngoài mặt vẫn luôn hục hặc, phải không Challenger? Xin vĩnh biệt. - Vĩnh biệt, cậu bé - huân tước John kêu lên. Nhưng này, giấy dán tường chắc lắm, không mở được cửa sổ. Challenger cúi xuống vợ, nâng bà lên, ôm xiết bà vào trong lòng. Bà đưa tay lên choàng lấy cổ ông. - Malone, đưa cái kính hiển vi lại cho tôi, ông gọi vẻ nghiêm trọng Tôi đưa cho ông. - Hỡi Đấng Toàn năng đã tạo ra chúng con, chúng con xin về với Người. Ông kêu lên những lời cuối cùng này một cách hào hùng rồi ném cái kính vào cửa sổ, cánh cửa kính vỡ vụn. Một làn gió trong lành và dịu dàng ùa vào gương mặt tím tái còn dính thuỷ tinh của chúng tôi. Tôi không biết chúng tôi đã ngồi bao lâu trong sự im lặng kinh ngạc như vậy. Bỗng nhiên, tôi nghe Challenger hét to: - Điều kiện bình thường của sự sống đây rồi. Trái đất đã thoát khỏi vành đai khí độc. Nhưng chúng ta là những người duy nhất còn sót lại trên hành tinh. Thế giới chết Cho đến bây giờ, tôi vẫn có thể hình dung cảnh chúng tôi ngồi trên ghế, hít căng lồng ngực làn gió nhẹ Tây Nam thổi từ biển vào làm lay động những tấm rèm cửa bằng mousseline và dịu dàng ve vuốt những gương mặt sung huyết của chúng tôi. Tôi tự hỏi chúng tôi đã ngồi bao nhiêu lâu như thế. Sau đó, chúng tôi gần như mê mụ đi, không ý thức được rõ ràng điều gì đang xảy ra. Chúng tôi đã gồng mình lên chuẩn bị đón cái chết nhưng sự kiện bất ngờ và khủng khiếp là sống sót sau khi loài người đã bị xoá sổ này đã rút kiệt sinh lực và hạ gục chúng tôi. Dần dần, đầu óc ngưng trệ của chúng tôi cũng hoạt động trở lại, các xung thần kinh trên bộ não bắt đầu truyền thông tin, các ý niệm dần dần xuất hiện lại. Với một sự tỉnh táo đến lạnh người, chúng tôi nhìn lại các mối liên hệ với quá khứ, hiện tại và tương lai, nhìn lại cuộc sống chúng tôi đã trải qua và cuộc sống đang chờ chúng tôi phía trước. Ánh mắt của chúng tôi trao nhau những xúc cảm câm lặng. Tất cả những gì chúng tôi yêu thương trên trái đất này đã bị cuốn đi vào cõi vô vùng và chúng tôi còn lại trơ trọi trên một hòn đảo cô đơn, không bạn bè, không hy vọng, không ước muốn. Chúng tôi sẽ sống hàng năm như những con sói hoang giữa những nấm mồ của toàn thể nhân loại, đợi chờ cái chết muộn màng nhưng đơn độc. - Khủng khiếp quá, anh George, khủng khiếp quá, bà Challenger kêu lên hoảng sợ. Giá chúng ta cùng chết với tất cả mọi người khác thì lại hơn. Tại sao chúng ta phải sống sót? Em có cảm giác chính chúng ta mới chết còn những người khác thì đang sống. Challenger đặt bàn tay to bè lông lá lên tay vợ, lông mày nhíu lại suy nghĩ. Tôi nhận ra rằng mỗi khi có điều gì lo buồn hoảng hốt, bà Challenger lại đưa tay về phía chồng như một đứa con hướng về phía mẹ. Cuối cùng, Challenger quyết định nói: - Tôi không buông xuôi đến độ không bao giờ tranh đấu nhưng tôi phát hiện ra rằng khôn ngoan nhất là chấp nhận sự việc. Ông nói chậm rãi, tiếng nói sang sảng nghe đầy tâm trạng. - Tôi thì tôi không chấp nhận, Summerlee châm chọc phản bác. - Tôi thấy các ông có chấp nhận hay không thì cũng chẳng thay đổi được gì. Đằng nào thì cũng thế. Dũng cảm đương đầu hay phó mặc sự việc đâu có quan trọng gì. Có việc gì hỏi ý kiến của chúng ta rồi mới xảy ra đâu. Các ông nói thử tôi nghe xem chấp nhận hay không chấp nhận thì khác gì nhau nào? - Đó chính là sự khác nhau giữa hạnh phúc và bất hạnh. Nếu đi đúng đường, ông cảm thấy đầu óc và tâm hồn mình thanh thản. Nếu ông đi sai đường, ông cảm thấy đau khổ và chán nản. Sự việc đang xảy ra nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, vậy chúng ta nên chấp nhận và đừng mất công tranh cãi nữa. Tôi đang ngắm bầu trời hoang vu và gửi lên sự tuyệt vọng nghe vậy bèn cất cao tiếng: - Chúng ta sẽ làm gì với cuộc sống của chúng ta đây? Chẳng hạn như tôi, tôi sẽ làm gì? Không có các tờ báo nữa thì chút sở trường của tôi sẽ dùng vào việc gì? - Cũng chẳng còn gì để săn và chẳng có cuộc chiến nào đang ngấp nghé, huân tước John phụ hoạ. Sở trường của tôi cũng sẽ trở nên vô nghĩa. - Tôi thì còn người chồng và còn ngôi nhà. ơn Chúa, sở trường của tôi sẽ không phải là đồ bỏ. - Của tôi cũng vậy, Challenger nói. Bởi vì khoa học không chết. Thảm họa này đặt ra biết bao vấn đề hấp dẫn để nghiên cứu. Ông mở tất cả các cánh cửa và chúng tôi cùng ngắm nhìn quang cảnh im lìm bên ngoài. - Chúng ta hãy suy nghĩ xem nhé, ông nói. Hôm qua, khi trái đất bị vây bọc trong một vành đai khí độc và không khí trở nên ngột ngạt là khoảng 3 giờ chiều. Bây giờ là 9 giờ sáng. Vậy câu hỏi đặt ra là: mấy giờ thì chúng ta thoát khỏi vành đai khí độc? - Lúc mặt trời mọc không khí vẫn rất ngột ngạt, tôi phát biểu. - Muộn hơn vẫn thế, bà Challenger kêu lên. Đến tận 8 giờ sáng nay em vẫn còn thấy cổ họng mình như bị bóp nghẹt. - Có nghĩa là chất độc biến mất sau 8 giờ. Như vậy, trái đất đã bơi trong biển ête bị nhiễm độc trong mười bảy tiếng đồng hồ. Khoảng thời gian này cho phép Người Làm Vườn Vĩ Đại khử tất cả các con vi khuẩn người ngo ngoe trên đám hoa quả của ông. Có thể sự tiệt trùng không được hoàn toàn vì trên trái đất vẫn còn người sống. Huân tước John dè dặt tán thành: - Tôi cũng tự hỏi tại sao chúng ta lại là những viên sỏi duy nhất sót lại trên bãi biển. Summerlee phản đối: - Cho rằng ai đó có thể đối diện trực tiếp với thảm hoạ này mà vẫn còn sống được thì thật vô lý. Các ông có nhớ là chất độc mạnh như thế nào khi mà một người khoẻ như trâu và thần kinh vững như thép như Malone còn khổ sở lắm mới trèo lên được cầu thang trước khi ngất xỉu. Ai là người có thể chịu đựng được đến mười bảy phút, ấy là chưa nói đến mười bảy tiếng… - Trừ khi anh ta tiên đoán được thảm hoạ và có sự chuẩn bị trước, như ông bạn già Challenger của chúng ta. - Tôi đồng ý là điều này rất khó, Challenger trả lời. Ông hất bộ râu ra phía trước và cụp mắt xuống. Sự phối hợp giữa quan sát, diễn giải và trí tưởng tượng cho phép tôi tìm thấy được trong tai hoạ một sự kiện vĩ đạt hiếm khi ta có thể chứng kiến lần thứ hai trong đời. - Thế ông kết luận rằng tất cả mọi người đều đã chết hết sao? - Có thể. Tuy nhiên, khi đi từ thấp lên cao, có thể chất độc yếu dần đi tại các lớp trên của khí quyển. Kỳ lạ, nhưng mà đúng thế đấy. Chúng ta đang đứng trước một số lĩnh vực nghiên cứu đầy hấp dẫn. Giả sử bây giờ chúng ta đi tìm những người còn sống sót trên trái đất, có lẽ chúng ta nên đi tới những ngôi làng ở cao nguyên Tây Tạng hoặc những trang trại ở vùng núi Alpes cao đến hàng nghìn mét trên mặt nước biển. - Thế ư? Huân tước John mỉm cười. Nhưng các ông nhìn lại xem. Bây giờ làm gì còn đường sắt hay tàu thuyền gì nữa. Nói như vậy có khác gì tìm người trên mặt trăng. Tôi thậm chí còn không biết sự nhiễm độc này đã biến mất hẳn chưa hay vẫn còn tác động một đợt nữa. Summerlee vươn cổ ra nhìn như muốn thu lấy trọn cả chân trời. Ông thì thầm vẻ hoài nghi: - Đúng là trời hôm nay rất xanh và rất đẹp. Nhưng hôm qua cũng thế. Tôi không chắc là chúng ta đã hoàn toàn thoát khỏi thảm hoạ. Challenger nhún đôi vai lực lưỡng: - Trong trường hợp đó, chúng ta lại quay trở lại thuyết định mệnh thôi. Nếu trước đây, trái đất đã trải qua thảm hoạ này (giả thiết này cũng không hoàn toàn bị loại trừ) thì sự kiện đó ắt phải diễn ra lâu lắm rồi. Bởi vậy, chúng ta có thể hy vọng rằng còn rất, rất lâu sau nữa nó mới lặp lại. - Hay lắm, huân tước John trả lời. Nhưng trong trường hợp động đất, cơn địa chấn thứ hai hoàn toàn có thể xảy ra trước khi các ông kịp hoàn hồn sau cơn thứ nhất. Tôi nghĩ là trong mọi trường hợp, chúng ta cứ phải giải phóng đôi chân mình và đi hít thở không khí trong lành chừng nào còn có thể. Một sự uể oải rất lạ xâm chiếm lấy chúng tôi. Nó là hệ quả của những cảm xúc mãnh liệt mà chúng tôi vừa trải qua. Nó vừa là một phản ứng cảm tính và lý tính. Chúng tôi có cảm giác rằng giờ đây không còn điều gì là quan trọng nữa, rằng mọi cố gắng chỉ là vô ích và chỉ dẫn đến mệt mỏi. Challenger cũng không còn sức sống. Ông ngồi trên ghế, gục mặt vào hai bàn tay. Huân tước John và tôi phải đứng hai bên xốc tay lên ông mới đứng vững. Thay vì cảm ơn, chúng tôi nhận được một tràng càu nhàu bực tức. Tuy nhiên, khi ra khỏi chỗ trói chân chật hẹp này, chúng tôi dần dần lấy lại được sức lực. Nhưng phải bắt đầu từ đâu trong cái nghĩa địa mênh mông này? Khi thế giới bắt đầu sinh ra, chưa ai phải trả lời câu hỏi đó. Chúng tôi biết rằng những nhu cầu về vật chất của mình còn có thể thoả mãn được trên cả mức cần thiết, chỉ việc tự phục vụ. Tất cả các nguồn lương thực, thực phẩm, tất cả các loại rượu vang, tất cả các kho tàng nghệ thuật giờ đây là của chúng tôi. Nhưng chúng tôi sẽ làm gì đây? Đầu óc chúng tôi ngay lập tức nghĩ đến một số việc cỏn con, vụn vặt. Chúng tôi xuống bếp, đặt hai người đầy tớ gái lên giường của họ. Khi chết, hai cô không có vẻ gì là đau đớn. Một cô ngồi trên ghế, một cô nằm gục trên sàn sau nhà bếp. Sau đó, chúng tôi đưa xác Austin vào nhà. Các cơ bắp của bác cứng đơ, chết chóc, cái miệng cong lên một nụ cười mỉa mai, cay độc. Đây cũng là triệu chứng của tất cả những người chết vì trúng độc. Ở tất cả những nơi mà chúng tôi đến, chúng tôi đều bắt gặp những khuôn mặt lặng lẽ, nhăn nhó, méo mó mỉm cười với những kẻ sống sót. Khi chúng tôi cùng nhau ăn bữa ăn đạm bac, huân tước John đi đi lại lại trong phòng, sau đó dừng lại nói: - Nghe nhé, tôi không biết cảm nghĩ của các ông như thế nào những tôi thì tôi không thích ngồi chết dí ở đây như thế này. Challenger nhíu đôi lông mày: - Vậy xin huân tước chiếu cố gợi ý cho chúng tôi biết là chúng ta nên làm gì? - Hãy lên đường và xem điều gì đã xảy ra. - Tôi cũng đang định đề nghị thế đấy. - Nhưng không phải trong ngôi làng bé nhỏ này. Ở đây, chỉ cần nhìn qua cửa sổ là biết điều gì đang xảy ra. - Vậy thì chúng ta đi đâu? - Đến Luân Đôn. - Hay quá nhỉ, Summerlee rên rẩm. Các ông thì có thể cuốc bộ 65 km chứ tôi, tôi không nghĩ là Challenger có thể đi được từng ấy đường đất với đôi chân vòng kiềng ngắn ngủn của mình. Về phần tôi, tôi dám chắc là tôi không đi được. Challenger bực dọc phản đối: - Nếu ông có thể giới hạn óc quan sát của ông vào những đặc điểm cá nhân của ông thì ông sẽ thấy có khối thứ phải bàn đấy. - Tôi không có ý định xúc phạm ông đâu, ông bạn Challenger thân mến, kẻ lỡ lời kêu lên. Không ai phải chịu trách nhiệm về ngoại hình của mình. Nếu thiên nhiên đã quyết định ban cho ông một thân hình thô kệch và nặng nề thì làm sao ông tránh khỏi có đôi chân vòng kiềng ngắn ngủn được chứ. Quá tức giận, Challenger không thèm trả lời. Mặt ông đỏ rần rần, mắt máy máy liên tục. Huân tước John vội vã can thiệp: - Các ông tính đi bộ sao? Nhưng cớ gì phải đi bộ chứ. - Thế ông định bảo chúng tôi đi tàu chắc? Challenger trả lời, giọng vẫn còn run lên vì giận - Không, nhưng còn xe của ông đấy. Sao chúng ta không lấy xe đi. - Thế mà tôi không nghĩ ra, Challenger trả lời, tính toán sau bộ râu. Ông có lý khi cho rằng trí thông minh của con người đôi khi cũng cần phải đủ linh hoạt để thích ứng với mọi hoàn cảnh. Ý của ông rất tuyệt, huân tước ạ. Tôi sẽ lái xe đưa tất cả đến Luân Đôn. - Ông không có lái đâu đấy, Summerlee phản ứng mạnh mẽ. - Ôi không, George, bà Challenger kêu lên. Mình đã thử lái một lần rồi còn gì. Mình có nhớ mình đã tông hỏng cánh cửa gara như thế nào không. - Chỉ là do mất tập trung trong giây lát thôi, Challenger đáp. Thôi không bàn cãi nữa. Tôi sẽ chở mọi người đến Luân Đôn. Huân tước John xen vào: - Xe của ông là xe gì? - Humber 20 mã lực. - À được. Tôi lái loại xe này nhiều năm rồi. Nhưng xin thề với các ông là tôi chưa bao giờ nghĩ có ngày mình sẽ chở toàn thể nhân loại trong một chiếc Humber đâu nhé. Có đủ chỗ cho năm người đấy. Các vị chuẩn bị đi. Đúng 10 giờ tôi đợi mọi người ở cổng. Chiếc xe nổ giòn và từ từ rời khỏi sân. Huân tước John cầm lái, tôi ngồi bên cạnh ông. ở phía sau, bà Challenger ngồi giữa hai nhà bác học mặt hầm hầm. Huân tước John giảm phanh, tăng tốc và xe chúng tôi lao vút đi, chuẩn bị bước vào chuyến đi phiêu lưu nhất trong đời. Ngày hè tháng tám thật lộng lẫy với không khí trong lành của buổi sớm. Nắng vàng như trải mật, bầu trời cao không một gợn mây, xanh ngắt như những cánh rừng xứ Susset trên những triền đồi phủ thạch thảo tim tím. Vẻ đẹp rực rỡ, đầy màu sắc của thiên nhiên quét đi mọi ý nghĩ về thảm hoạ song không che dấu được sự tĩnh mịch tuyệt đối đang bao trùm lên cảnh vật. Ở thôn quê vốn bao giờ cũng rộn rã những âm thanh vô cùng dễ chịu và sống động của cuộc sống: tiếng rì rào của những con sóng, tiếng líu lo của chim muông, tiếng râm ran của côn trùng, tiếng người, tiếng súc vật, tiếng chó sủa, tiếng xình xịch của tàu hoả, tiếng ô tô… Tất cả quyện lại với nhau thành một nốt trầm không dứt mà đôi tai con người không phân tách rành rẽ được. Thế mà giờ đây, âm thanh ấy không còn nữa. Tất cả chỉ còn là sự yên tĩnh chết chóc và ngạt thở. Sự tĩnh lặng hiện hữu đậm nét đến nỗi chúng tôi có cảm giác tiếng máy xe của chúng tôi giống như một thứ âm thanh trơ trẽn, một sự xỉ nhục đáng hổ thẹn vào bầu không khí yên lặng trong giờ phút báo tử của nhân loại này. Và vô vàn là xác chết. Vô vàn những khuôn mặt méo xệch, nhăn nhó làm chúng tôi rùng mình kinh sợ. Cảm giác ập đến mạnh mẽ đến nỗi tôi không thể nào quên những hình ảnh mà chúng tôi bắt gặp trên đoạn đường đến nhà ga. Chúng tôi đi ngang qua xác của cô trông trẻ và hai em bé, đi ngang qua con ngựa già gục đầu đến tận gối giữa hai cái càng xe, qua bác xà ích già vẫn ngồi ngay trên ghế, qua cậu thanh niên vẫn còn nắm tay nắm cửa để nhảy ra. Phía dưới chút nữa là xác của sáu người thợ gặt chen chúc nhau, những đôi mắt trống rỗng vô hồn ngước lên trời như chất vấn. Nhưng ngay sau đó, những sợi dây thần kinh bị kích động quá mức của chúng tôi thôi không còn phản ứng nữa. Nỗi kinh hoàng khiến chúng tôi bỏ qua những chi tiết cụ thể. Cá nhân hoà mình trong tập thể, tập thể hoà lẫn trongđám đông, đám đông chìm đắm trong một tổng thể mà người ta bắt buộc phải chấp nhận mọi chi tiết. Chỉ trong những tình huống cụ thể với những sự kiện đặc biệt cảm động hay lố lăng đập vào não bộ thì đầu óc của con người mới có những cảm nhận cụ thể của riêng mình về thảm hoạ được. Nhiều nhất vẫn là trẻ con. Tôi không còn nhớ đã bắt gặp bao nhiêu cảnh tượng khiến trong lòng chúng tôi trào lên nỗi xúc động, căm giận sự bất công không cách gì có thể tha thứ được. Bà Challenger khóc rất nhiều khi xe chúng tôi đi qua một ngôi trường lớn. Những cái xác nhỏ bé nằm rải rác thành hàng dài bên đường. Bọn trẻ được thầy giáo hoảng hốt cho về nhà và chất độc đã giết chết các em khi các em chạy về với mẹ. Rất nhiều người chết trên những cánh cửa mở rộng. Không có cánh cửa nào Tunbridge Well lại không có một xác người. Thiếu không khí, thiếu ôxy (thứ khí chỉ mình chúng tôi có đủ) khiến mọi người hấp tấp lao ra cửa. Các vỉa hè cũng đầy ắp xác đàn ông, phụ nữ và trẻ em, đầu trần, trang phục đôi khi rất xộc xệch đâm quáng bổ quàng ra khỏi nhà. Rất nhiều người ngã sấp ngay giữa đường. May mà huân tước John lái xe rất cừ. Không gì khó hơn là phải tránh những thây người đây đó khắp nơi. Chúng tôi mất rất nhiều thời gian khi đi qua các thành phố và làng mạc. Một lần ở Tunbrige, chúng tôi đã có phải dừng lại giải phóng các xác người cản đường chúng tôi. Một số hình ảnh trong bức tranh chết chóc trên đường đi Susset và Kent này vẫn còn đọng mãi trong tâm trí tôi. Tại cánh cửa một nhà trọ của Southborough có một chiếc ôtô to bóng loáng đỗ lại, trên xe chắc hẳn chở những người vừa đi hội hè đình đám ở Brighton hay Eastbourne về. Có ba người phụ nữ ăn mặc rất đẹp, còn trẻ và xinh xắn. Một người bế một chú chó Bắc Kinh, đi cùng một người đàn ông đứng tuổi có vẻ mặt của kẻ ăn chơi trác táng và một chàng trai trẻ quý phái đeo trên mắt chiếc kính một tròng và điếu thuốc cháy dở giữa những ngón tay đeo găng. Cái chết đến với họ cùng một lúc, khiến họ đứng im lìm như những hình nhân bằng sáp. Người đàn ông có tuổi đang cố gắng cởi khuy áo cổ để thở nhưng những người khác trông như đang ngủ. Ông chủ nhà trọ ngã bên chiếc xe, hai chiếc cốc vỡ vụn ở bậc để chân. Phía bên kia, hai kẻ lang thang ăn mặc rách rưới một nam một nữ mắc kẹt tại nơi họ bị ngã. Người đàn ông giơ tay ra như muốn xin tiền. Trong tích tắc, chàng trai quyền quý, ông chủ quán trọ, những kẻ lang thang, con chó và những người phụ nữ xinh đẹp biến thành những sinh vật mẫu phòng thí nghiệm. Tôi cũng nhớ một cảnh đặc biệt khác ở cách Luân Đôn vài cây số. ở bên trái là một tu viện lớn có một con dốc phủ cỏ cách đường. Con dốc đầy những trẻ em đang quỳ gối đọc kinh. Phía trước các em là những nữ tu đứng thành hàng. Cao hơn chút nữa là Mẹ bề trên, dáng người cứng nhắc. Không giống với những con người vui vẻ chúng tôi nhìn thấy trên ôtô, những người này dường như đã được cảnh báo trước thảm hoạ và lựa chọn một cái chết quây quần có thầy, có trò trong một bài giảng chung cuối cùng. Đầu óc tôi vẫn còn quay cuồng với chuyến đi khủng khiếp này và tôi không thể tìm được những lời lẽ nào diễn tả cảm xúc đang xâm chiếm lấy chúng tôi. Có lẽ không nên thử tìm hiểu và bỏ mặc mọi việc lại hơn. Summerlee và Challenger cũng đã gục, bà Challenger nức nở, thổn thức. Chỉ có huân tước John là bận rộn lái xe. Ông không có thời gian và cũng không muốn nói. Ông cứ lẩm bẩm không biết chán. - Rất đẹp, phải không? Câu nói lặp đi lặp lại này khiến tôi buồn cười. Thật là một lời bình luận chẳng ăn nhập gì với cái ngày chết chóc này. Nhưng đó là những gì huân tước John thốt lên mỗi khi nhìn thấy cái chết và cảnh đổ nát hiện lên trước mặt. “Rất đẹp, phải không?”, ông nói khi chúng tôi đi từ Rotherfield tới ga. “Rất đẹp, phải không?”, ông thốt lên khi chúng tôi đi trên con đường lớn Lewisham hoặc đường Kent già cả, hoang vu như sa mạc. Ở đây, chúng tôi đã bị một cú sốc khủng khiếp. Chúng tôi nhìn thấy từ cửa sổ một ngôi nhà tồi tàn xuất hiện một chiếc mùi xoa bay phất phơ trên một cánh tay dài khẳng khiu vươn ra. Chưa một hình ảnh về cái chết nào làm tim chúng tôi thót lại rồi đập mạnh như dấu hiệu của sự sống bất ngờ này. Huân tước John đỗ xe dọc vỉa hè. Một lát sau, chúng tôi tiếng vào ngôi nhà đang mở cửa, leo lên cầu thang và bước vào căn phòng tầng hai nơi xuất hiện dấu hiệu mà chúng tôi nhìn thấy khi nãy. Một bà cụ rất già ngồi trong chiếc ghế bành bên cạnh cửa sổ. Bên cạnh bà là chiếc bình ôxy nằm vắt ngang qua chiếc ghế đẩu, một chiếc bình nhỏ hơn nhưng đúng như những chiếc bình ôxy đã duy trì mạng sống cho chúng tôi. Khi chúng tôi bước qua ngưỡng cửa, bà lão quay gương mặt gầy dài với đôi mắt nhanh nhẹn dưới cặp kính sang nhìn chúng tôi. - Tôi sợ bị bỏ rơi ở đây suốt đời mất, bà cụ nói. Tôi bị tàn tật, không thể cử động được. - Bà ạ, rất may là chúng con đã qua đây đấy. - Tôi có điều này nhất thiết phải hỏi các ông. Xin các ông cứ trả lời thẳng thắn cho. Các ông bảo liệu tình hình này có ảnh hưởng đến giá cổ phiếu không, nhất là cổ phiếu của Đường sắt quốc gia. Nếu không vì sự lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt bà lão khi đợi câu trả lời thì hẳn chúng tôi đã phá lên cười. Bà Burston (đó là tên bà lão) là một quả phụ già và nguồn thu nhập phụ thuộc vào một số cổ phiếu ở thị trường chứng khoán. Bà không thể hình dung nổi một cuộc sống mà tất cả các cổ phiếu chẳng còn chút giá trị nào. Chúng tôi hoài công thuyết phục bà rằng tất cả tiền bạc trên thế giới này bây giờ đều thuộc về bà nhưng giờ chúng chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Đầu óc của bà không chấp nhận được ý nghĩ mới mẻ này. Bà bật khóc. - Cổ phiếu là tất cả những gì tôi có, bà nhắc đi nhắc lại. Mất hết tiền thế này thì tôi đến chết mất thôi. Qua những lời than khóc của bà, chúng tôi phát hiện ra lý do tại sao bà lão lại còn sống, như cái cây già nua còn sống trong khi cả khu rừng đã chết. Bà bị liệt và bị hen. Bệnh hen bắt bà phải thở ôxy. Khi thảm hoạ xảy ra, bình ôxy của bà còn đầy nguyên. Đương nhiên là khi nào cảm thấy khó thở, bà lại hít khí ôxy và điều đó làm bà thấy dễ chịu hơn. Dùng ôxy dè sẻn nên bà đã kéo dài được hết đêm. Sáng nay bà đang thiu thiu ngủ thì bị tiếng xe ô tô của chúng tôi đánh thức dậy. Vì chúng tôi không thể mang bà theo, mà bà cũng đã có đầy đủ những thứ cần thiết cho cuộc sống nên chúng tôi đã hứa là sẽ quay lại thăm bà trong hai ngày tới. Khi chúng tôi đi, bà lão vẫn không thôi than khóc cho đám cổ phiếu mất giá của mình. Khi tới gần Tamise, các đường phố trở nên đông đúc và tắc nghẽn hơn. Các chướng ngại đủ loại làm chúng tôi mất phương hướng. Chật vật lắm chúng tôi mới qua được cầu Luân Đôn. Nhưng sau đó, chúng tôi không tiến thêm được nữa vì dòng xe cộ đang tê liệt ngoài đường. Một chiếc tàu neo dọc bến cầu đang cháy. Không khí vẩn lên những cụm bồ hóng, một mùi cháy khét lẹt bóp nghẹt cổ họng của chúng tôi. Đâu đó phía sau toà nhà Nghị viện bốc lên một đám khói mờ rất dầy nhưng chúng tôi không biết đích xác đám cháy phát ra từ đâu. - Tôi không biết các ông nghĩ thế nào chứ tôi thấy quang cảnh ở nông thôn còn đỡ buồn hơn ở thành phố, huân tước John dừng xe nói. Sự chết chóc ở Luân Đôn làm thần kinh tôi căng thẳng quá. Tôi đề nghị là chúng ta chỉ đi quanh quanh thành phố xem thôi, sau đó trở về Rotherfield. Giáo sư Summerlee đồng tình: - Tôi không hiểu thực sự các ông hy vọng tìm thấy gì ở đây. Challenger lớn tiếng, phá tan sự yên lặng vây quanh chúng tôi: - Nếu không đi, làm sao chúng ta có thể hình dung trong bảy triệu công dân nước Anh chỉ có một bà lão duy nhất sống sót nhờ một điều đặc biệt hoặc một nhờ sự cố nào đó. - Nếu bà lão không phải là người duy nhất sống sót thì chúng ta làm thế nào phát hiện ra họ, bà Challenger hỏi. Nhưng em đồng ý là không thử thì sẽ không biết được. Thế là chúng tôi ra khỏi xe và vất vả đi xuống con đường King Wiliam ngổn ngang chướng ngại rồi bước vào một văn phòng bảo hiểm mở cửa. Đó là một toà nhà nằm ở góc phố. Chúng tôi chọn nó vì ở đây có thể nhìn ra mọi hướng. Chúng tôi trèo lên cầu thang và lặng lẽ băng qua một căn phòng có lẽ là phòng họp Hội đồng quản trị vì chúng tôi nhìn thấy tám người đàn ông có tuổi đang ngồi quanh một chiếc bàn dài trên tấm thảm màu xanh. Cửa sổ mở rộng và chúng tôi tiến ra ban công. Từ đây, chúng tôi có thể nhìn thấy các con phố toả đi khắp hướng. Dưới chân chúng tôi là con phố đen đặc một dòng xe bất động. Dường như tất cả xe cộ đều hướng ra phía ngoại ô. Quá mệt mỏi với cuộc sống thành thị, đến phút cuối cùng, ai nấy đều cố gắng đến tuyệt vọng về với gia đình. Đây đó, bên cạnh những chiếc xe ngựa giản dị là những chiếc xe ô tô mui bóng loáng của các thương gia giàu có. Tất cả mắc kẹt trong dòng xe bất tận. Ngay dưới tầm mắt của chúng tôi là một chiếc xe lộng lẫy. Chủ nhân chiếc xe, một ông già to béo đang nhô hẳn nửa thân người qua cửa xe, tay lấp lánh ánh kim cương giơ lên, dường như đang ra lệnh cho tài xế vượt lên lấy lối đi. Khoảng một chục chiếc xe khách đỗ trên đường trông như những hòn đảo nhô lên trên đại dương đen kịt. ở tầng trên, hành khách chen chúc ngã dúi dụi vào người nhau như đang chơi một trò trẻ. Trên bốt đèn giữa đường, môt viên cảnh sát hùng dũng tựa lưng vào cột đèn. Dáng anh ta tự nhiên đến nỗi khó ai có thể nhận thấy rằng anh ta không còn sống. Một cậu bé bán báo rách rưới ngã dưới chân anh ta, chồng báo rơi bên cạnh. Môt tờ áp phích tung ra, trên là dòng chữ đen trên nền giấy vàng: “Ẩu đả ở Thượng viện. Một trận cầu bị gián đoạn”. Đây chắc là số phát hành đầu tiên bởi chúng tôi đọc thấy trên những yết thị khác có ghi: “Liệu đây có phải là ngày tận thế không?”, “Lời cảnh báo của một nhà khoa học vĩ đại”, “Challenger đã có lý’, “Những tai hoạ mới”. Challenger chỉ tay lên tấm yết thị có đăng tên ông. Tôi thấy ngực ông nở ra, đánh trống với bộ râu. ý nghĩ toàn thành phố Luân Đôn đi vào cõi chết khi trên miệng vẫn kêu tên ông và suy nghĩ đến những lời nói của ông đã vuốt ve sự kiêu hãnh của ông. Cảm xúc ấy hiện lên rõ mồn một khiến người đồng nghiệp không thể ngăn mình buông ra một nhận xét châm chọc: - Challenger, ông đúng là một minh tinh cho tới tận phút cuối cùng. - Có thể lắm, Challenger trả lời. Challenger nhìn xuống dưới, nhìn xuống con phố tĩnh mịch chết chóc rồi nói” - Tôi không hiểu tại sao chúng ta lại ở Luân Đôn lâu đến thế. Tôi đề nghị quay trở lại Rotherfield và bàn luận xem sẽ sử dụng những năm tháng trước mắt cách nào cho hiệu quả nhất. Cảnh cuối cùng mà chúng tôi chứng kiến tại thành phố chết này là quang cảnh nhà thờ Sainte-Marie, gần nơi chúng tôi đỗ xe. Chọn một con đường giữa nhưng thân hình ngổn ngang trên lối đi, chúng tôi đẩy cửa bước vào. Thật là một quang cảnh đáng kinh ngạc. Nhà thờ đông nghẹt người đang quỳ gối trên các bục. Cho đến phút cuối cùng đáng sợ, dân chúng bỗng nhận ra sự thực, một sự thực kinh hoàng mà chúng tôi đã phải đối mặt và cũng may mới chỉ phải chứng kiến mà thôi. Họ đổ xô đến những ngôi nhà thờ cổ ở Luân Đôn mà từ hàng thế kỷ nay chẳng có ai lai vãng. Đàn ông và phụ nữ ở gần nhau đến mức họ ngã ra mà đầu gối vẫn quỳ. Một số người xúc động đến nỗi vẫn còn đội mũ trên đầu. Trên bục giảng đạo, một chàng trai trẻ ăn bận lịch sự dường như đang định nói gì đó với đám đông khi cơn sóng định mệnh ập lên họ. Anh ta chết tại chỗ như một con rối trên sàn diễn, đầu và tay buông thõng qua bục. Nhà thờ xám xịt và bụi bặm, những hàng ghế và những con chiên hấp hối, bóng tối và sự câm lặng… Thật là một cơn ác mộng. Chúng tôi nhón gót bước ra. Bỗng dưng tôi nảy ra một ý. Tại một góc nhà thờ gần cửa ra vào có những bồn nước rửa tội và đằng sau có một chiếc giếng khá sâu trên có treo những sợi dây chuông. Tại sao không truyền đi một thông điệp mà cả Luân Đôn có thể cùng nghe thấy, ít ra là đối với những người còn sống. Tôi lại chạy vào và cố giật dây chuông. Tôi ngạc nhiên khi nhận ra rằng rất khó có thể làm cho quả chuông chuyển động. Huân tước John chạy theo tôi, cởi áo khoác ra và nói: - Cậu bé to đầu ơi, cậu có ý hay đấy. Tôi sẽ giúp cậu một tay làm quả chuông này nhảy múa. Nhưng cả hai chúng tôi cũng không ăn thua. Challenger và Summerlee phải xắn tay vào trợ giúp thì chúng tôi mới nghe thấy tiếng kêu và tiếng vang của quả chuông. Tiếng chuông mang theo thông điệp hữu nghị và hy vọng của chúng tôi gửi tới bất cứ ai còn sống sót trên nhân gian. Lời kêu gọi hùng hồn của kim loại khiến chúng tôi thấy phấn khích hơn. Chúng đổ toàn bộ sức lực ra kéo chuông. Mỗi nhịp chuông rung lên là chúng tôi lại bị nhấc lên khỏi mặt đất tới nửa mét nhưng rồi chúng tôi cố kéo nó xuống. Challenger gần như nằm rạp xuống đất khi kéo. ông nhô lên rồi hụp xuống như một con ếch kỳ dị đang nhảy múa, hì hụi nghiến răng mỗi khi kéo. Đây là thời điểm lý tưởng để một nghệ sĩ họa lại bức tranh bốn chàng hiệp sĩ phiêu lưu mạo hiểm, những người bạn chiến đấu phải đối mặt với vô vàn hiểm nguy kỳ lạ và số phận đưa đẩy tới một cuộc phiêu lưu chưa từng thấy! Chúng tôi kéo chuông trong nửa giờ, mồ hôi túa đầy trên mặt, tay và bụng đau như rần. Sau đó chúng tôi lại đi ra cổng lớn, hồi hộp ngóng ra những con phố ùn tắc và câm lặng. Không một tiếng động hay cử chỉ nào đáp lại sự kêu gọi của chúng. - Vô ích! Tất cả chết hết rồi, tôi kêu lên. Bà Challenger tán thành: - Chúng ta chẳng làm gì hơn được nữa. Anh George, vì lòng kính Chúa, chúng ta hãy quay trở lại Rotherfield thôi. ở trong thành phố câm lặng và chết chóc này thêm một giờ nữa thì em đến phát điên lên mất. Chúng tôi trở lại xe, không ai nói với nhau một lời. Huân tước John quay xe và chúng tôi lên đường, hướng về phía Nam. Cuốn phim về cuộc phiêu lưu của chúng tôi dường như đã kết thúc. Chúng tôi không thể tưởng tượng rằng một trường đoạn mới sẽ lại mở ra. Chương VI Tỉnh giấc Bây giờ, tôi đã đi đến hồi kết về chuyến phiêu lưu kỳ lạ, kỳ lạ hơn bất kỳ chuyến phiêu lưu nào khác, không chỉ những chuyến phiêu lưu trong thời gian tồn tại ngắn ngủi trong đời mỗi chúng tôi mà trong cả lịch sử chung của nhân loại. Như lúc đầu tôi nói, khi tôi bắt đầu ghi lại các sự kiện thì cuộc phiêu lưu này hiện ra, vượt lên trên tất cả các cuộc phiêu lưu khác, giống như một đỉnh núi nhô lên giữa những ngọn đồi xung quanh. Thế hệ chúng tôi hứa hẹn có một số phận đặc biệt vì được chọn để chứng kiến điều kỳ diệu tột bậc này. Chỉ có tương lai mới có thể cho chúng tôi biết những tác động của thảm hoạ kéo dài bao lâu cho đến khi nhân loại lấy lại được sự khiêm nhường và tôn trọng thiên nhiên mà cú sốc này đã dạy cho họ. Người ta có thể nghĩ rằng mọi việc sẽ không bao giờ còn như trước kia. Không ai nhận thức được sự bất lực và giới hạn tầm hiểu biết của mình. Không ai cảm thấy mình đang nằm trong sự điều khiển của một bàn tay vô hình chừng nào bàn tay ấy chưa vung lưỡi hái tử thần lên. Cái chết treo lơ lửng trên và chúng tôi biết rằng nó có thể quay trở lại bất cứ lúc nào. Bóng đen rình rập của nó khiến cuộc sống của chúng tôi tối xầm lại nhưng không thể phủ nhận rằng dưới cái bóng đen ấy, ý nghĩa của nghĩa vụ, sự đánh giá công bằng lại sự sống và mục đích của sự sống sống, sự ham thích được mở mang…dường như trở nên mãnh liệt hơn, mạnh mẽ hơn. Chúng tôi đưa tất cả những nhận định trên vào cuộc sống hàng ngày của chúng tôi để không ngừng tự hỏi: có phải xã hội đang hoàn toàn biến đổi? Vượt lên mọi thói quen, vượt lên mọi giáo lý, dường như có điều gì đó thay đổi trong chúng tôi. Một sự thay đổi cách nhìn, thay đổi nhận thức về tính tương đối, sự yếu đuối và kém cỏi của mình, cảm giác rằng mình tồn tại là do sự bao dung của tạo hoá, rằng mạng sống mong manh của mình bị treo lơ lửng trước những cơn gió lạnh chẳng biết từ đâu thổi đến. Nhưng theo tôi, thế giới già đi không có nghĩa là nó sẽ buồn thêm lên. Cố nhiên, chúng tôi đồng ý là những thú vui giản di ngày nay sâu sắc và lành mạnh hơn nhiều so với những trò ầm ỹ đến điên loạn hồi xưa. Thời gian đó cũng không cách hiện tại bao xa nhưng những gì đã xảy ra giờ nhìn lại thật không sao chấp nhận nổi. Cuộc sống mà con người đã lãng phí trong những cuộc thăm viếng vô bổ tại những ngôi nhà lớn, những bữa ăn cầu kỳ và gò bó bây giờ được thay bằng thú vui đọc sách, nghe nhạc hoặc xum họp gia đình. Những thú vui sống động hơn và một sức khoẻ tốt khiến con người ta giàu có hơn ngay cả khi người ta vừa quyên hết tiền bạc của mình vào các quỹ dành cho sự phát triển và nâng cao mức sống của người dân tại các đảo nhỏ Anh quốc. Chúng tôi không thống nhất về thời gian bắt đầu cuộc tỉnh giấc. Chúng tôi chỉ đồng ý là do có sự chênh lệch múi giờ nên có một số nguyên nhân tại chỗ ảnh hưởng đến tác động của chất độc. Tất nhiên, trong các làng, xã, sự hồi sinh diễn ra đồng thời. Nhiều người nói là khi ấy tháp đồng hồ Big Ben chỉ 18h10. Đài thiên văn quốc gia khẳng định lúc đó là 18h12 theo giờ chuẩn quốc tế. Trong khi ấy, Laird Johnson, nhà quan sát tài năng của tờ East Anglia ghi lại là 18h20. ở Hébrides, mốc thời gian lưu được là 19h. Đối với bản thân chúng tôi, thời điểm đó chắc chắn là vào lúc 18h15 vì lúc bấy giờ chúng tôi đang ngồi trong phòng làm việc của Challenger và trước mặt tôi là chiếc đồng hồ. Một sự chán chường vô bờ bến xâm chiếm lấy tôi. Tác động của liên tiếp những cảnh tượng khủng khiếp mà chúng tôi thấy hồi sáng đè nặng lên tâm trí tôi. Trước đây, với sức khỏe và năng lượng tràn trề của tuổi trẻ, tôi chưa bao giờ để mình suy sụp đến thế. Tôi vốn giữ trong mình tính cách của một người Ailen luôn hài hước trong bất kỳ hoàn cảnh nào cho dù đen tối nhất. Nhưng lần này, tôi thấy thực sự chán nản và tuyệt vọng. Mấy người bạn của tôi ở dưới nhà và đang bàn về những kế hoạch trong tương lai. Tôi đi lại gần cửa sổ đang mở, tay chống cằm và suy nghĩ về tình cảnh khốn khổ của mình. Liệu chúng tôi có thể tiếp tục sống được nữa không? ít nhất đó là câu hỏi mà tôi tự đặt ra cho mình. Liệu có thể sống trong một thế giới chết được không? Trong vật lý, các vật thể lớn thường hút các vật thể nhỏ, liệu chúng tôi có thể chống chọi lại được sức hút khổng lồ của hầu hết nhân loại đang ở bên kia thế giới không? Cuộc sống của chúng tôi rồi đây sẽ kết thúc như thế nào? Chất độc sẽ quay trở lại đe doạ trái đất hay trái đất sẽ trở nên không thể sống nổi khi các xác chết bắt đầu thối rữa. Tôi cũng lo sợ rằng tình cảnh đáng sợ của chúng tôi sẽ khiến chúng tôi mất đi sự thăng bằng lý trí. Một người điên sẽ làm được gì trong một thế giới chết? Đầu óc tôi đang hình dung những gì sẽ đến với mình thì bỗng nghe một tiếng động nhỏ khiến tôi ngoái lại nhìn. Con ngựa già gục đầu trong chiếc xe đang nhỏm dậy. Cùng lúc ấy, tôi ý thức được rằng lũ chim bắt đầu ríu rít hót, trong sân có ai đó đang ho và tất cả dường như hoạt động trở lại. Tôi nhớ rất rõ ràng, trước hết là hình ảnh con ngựa già vô lý và xấu xí thu hút sự chú ý của tôi. Sau đó, tôi nhìn sang thấy bác xà ích già ngồi dậy trên ghế và anh thanh niên nghiêng người qua cửa sổ ra lệnh. Không còn nghi ngờ gì nữa, sự sống đã quay trở lại. Loài người đã sống lại. Tôi có bị ảo giác hay không? Cây chuyện về vành đai bị nhiễm độc quanh trái đất lẽ nào chỉ là một cơn ác mộng. Lúc đầu còn ngơ ngác, đúng là tôi cũng nghĩ như thế. Sau đó, tôi nhìn hai bàn tay. Trên hai tay tôi vẫn còn các vết lằn do kéo chuông ở nhà thờ Sainte-Marie. Tôi không mơ. Quả thực là thế giới đang hồi sinh. Giờ đây cơn sóng của sự sống đang bao trùm lên cả hành tinh. Đôi mắt tôi lướt nhìn toàn bộ quang cảnh nông thôn: tất cả đang bắt đầu trở lại, tất cả đang xuất phát trở lại từ điểm dừng trước đây. Hãy nhìn những chơi gôn. Liệu họ có tiếp tục cuộc chơi của mình không? Đúng vậy, một trong hai người vừa phát trái gôn đi xa, một số người khác trên bãi cỏ đang tìm cách đưa trái gôn vào lỗ. Những người thợ gặt chậm rãi đi ra đồng. Cô trông trẻ một tay xốc đứa bé lên, một tay đẩy chiếc xe nôi lên đồi. Mọi người vô tư tiếp tục mạch sống dở dang của mình. Tôi lao xuống cầu thang. Cánh cửa tiền sảnh đã mở và tôi nghe thấy tiếng trầm trồ ngạc nhiên của những người bạn mình ngoài sân. Chúng tôi bắt tay nhau, cười vui hớn hở. Bà Challenger xúc động ôm hôn tất cả chúng tôi trước khi lao mình vào cánh tay to lớn của chồng. - Rốt cục thì họ đâu có ngủ, huân tước John kêu lên. Quỷ tha ma bắt, Challenger, ông có tin được rằng những người này ngủ mà mắt vẫn mở trừng trừng, cơ bắp căng cứng và nụ cười nhăn nhó trên môi. - Có thể là họ rơi vào trạng thái giữ nguyên thể trạng, Challenger trả lời. Đó là một hiện tượng tương đối hiếm mà trước đây người ta hay nhầm với cái chết. Trong trạng thái này, nhiệt độ có thể hạ, hoạt động hô hấp ngưng lại, không nhận thấy nhịp tim nữa. Thực tế, có thể coi đây là cái chết, nhưng là cái chết tạm thời. Đầu óc thông thái nhất… Nói đến đây, ông cụp mắt lại và mỉm cười thoả mãn: - … cũng không thể nghĩ rằng trạng thái giữ nguyên thể của toàn bộ nhân loại lại diễn ra dưới dạng này. - Ông có thể gọi đó là hiện tượng giữ nguyên thể trạng, Summerlee nói, nhưng kết cục thì nó cũng chỉ là một cái tên, không hơn. Chúng ta cũng không biết gì thêm về tác hại mà chất độc này gây ra. Tất cả những gì mà chúng ta có thể nói chỉ là: khí ête bị ô nhiễm gây ra cái chết tạm thời. Austin ngồi trên bậc để chân của chiếc xe. Bác là người phát ra tiếng ho mà tôi nghe khi nãy. bác không nói gì, chỉ rùng mình lắc đầu. Giờ đây, bác bắt đầu ngắm nhìn chiếc xe, miệng lẩm bẩm: - Rõ cái đồ ngớ ngẩn, chắc lại đụng vào cái gì đây. - Chuyện gì thế Austin? - Dầu chảy, thưa ông. Chắc có kẻ nghịch ngợm gì vào chiếc xe rồi. Tôi đoán đó là thằng bé con gã làm vườn. Huân tước John có vẻ xấu hổ. - Tôi không biết chuyện gì xảy ra nữa, Austin nói tiếp, đoạn khó nhọc đứng dậy. Tôi nhớ là tôi cảm thấy rất kỳ lạ khi đang rửa xe. Tôi nhớ là tôi cảm thấy rất kỳ lạ khi đang rửa xe. Tôi nhớ là tôi đã ngã xuống bậc để chân nhưng mà chắc chắn tôi đã để ý đến dầu xe. Austin kể lại những gì đã đến với mình. Bác cũng lâm vào tình cảnh chung của toàn thể thế giới vào lúc ấy. Chúng tôi giải thích cho bác câu chuyện bí ẩn về dầu. Bác tài xế già nghe chúng tôi kể, lộ vẻ coi thường ra mặt gã lái amatơ đã lái chiếc xe của bác nhưng tỏ ra rất quan tâm khi nghe đến đoạn chúng tôi lái xe vào Luân Đôn đang say ngủ. Tôi nhớ bác nói: - Vậy là các ông đã đến Ngân hàng nước Anh ạ? - Đúng vậy, Austin. - Tiền chất đầy trong nhà băng mà tất cả mọi người đều ngủ phải không ạ? - Đúng vậy, Austin, - Thế mà tôi lại không có ở đó, bác thở dài rồi quay ra lấy vòi nước rửa xe. Có tiếng bánh xe nghiến rào rạo trên sỏi. Chiếc xe ngựa già dừng lại trước cửa nhà giáo sư Challenger. Tôi thấy người thanh niên dợm bước xuống. Một phút sau, người đầy tớ gái ngơ ngác như vừa say ngủ bước vào, mang theo chiếc khay đựng một tấm danh thiếp. Đọc tấm danh thiếp, Challenger khịt mũi dữ dội, chòm râu đen rung rung. - Một phóng viên. Ông gầm lên rồi nở nụ cười coi thường: - Sau cùng, đương nhiên là toàn thể thế giới vội vã lao đến hỏi xem tôi suy nghĩ thế nào sau thảm hoạ lớn đến thế. - Chắc chắn đó không phải là mục đích chuyến viếng thăm của anh ta, Summerlee nói. Tay phóng viên này đã ở trên xe trước khi thảm hoạ xảy ra. Tôi cầm tấm danh thiếp và đọc thấy đó là James Baxter, phóng viên thường trú tại Luân Đôn của tờ New York Monitor. - Ông sẽ tiếp anh ta chứ? Tôi hỏi. - Không. - Ôi George, mình phải hoà đồng chứ. Hãy tỏ ra dễ thương nào. Chẳng lẽ mình không rút ra bài học nào từ sự kiện vừa rồi sao? Ông không trả lời, cái đầu lớn bướng bỉnh gục gặc. Sau đó, Challenger tuôn ra một tràng: - Nhà báo chỉ là một lũ thối nát, phải không Malone. Đó là loài tồi nhất trong xã hội văn minh hiện đại, là phường lừa gạt, là rào cản của mọi tiến bộ xã hội khi. Khi nào chúng mới chịu nói điều gì tốt đẹp về tôi? - Còn ông thì sao? Có bao giờ ông chịu nói điều gì công bằng về họ không, tôi phản bác. Đây là một người nước ngoài lặn lội đường xa tới đây gặp ông, chắc ông không để anh ta thất vọng chứ? - Thôi được rồi, được rồi, Challenger càu nhàu. Anh đi với tôi rồi thay tôi tiếp chuyện tay nhà báo. Tôi nói trước là tôi phản đối tiết lộ bất cứ điều gì phương hại đến cuộc sống riêng tư của tôi. Ông cau có đi cùng tôi. Anh bạn người Mỹ trẻ tuổi sẵn sàng nhập cuộc. Anh ta lôi sổ ghi chép ra và vào thẳng vấn đề. - Thưa ngài, tôi đến vì người dân Mỹ chúng tôi muốn nghe lời cảnh báo về mối nguy hiểm mà ông cho là đang đe doạ thế giới. - Tôi chẳng biết mối nguy hiểm nào đang đe doạ thế giới cả, Challenger trả lời giọng cục cằn. Gương mặt tay phóng viên lộ vẻ ngạc nhiên: - Tôi muốn nói đến giả thiết về một vành đai nhiễm độc bao quanh trái đất của ngài đấy ạ. - Bây giờ tôi không nghi ngờ bất cứ sự nguy hiểm nào như thế cả. Tay phóng viên bối rối trông thấy. - Có phải chính ngài là giáo sư Challenger không ạ? - Đúng, là tôi đây. - Vậy thì tôi không hiểu tại sao ngài lại có thể nói hiểm hoạ ấy không hề tồn tại. Tôi có cần nhắc lại lá thư có chữ ký của ngài gửi tờ Times đăng sáng nay không? Đến lượt mình, Challenger ra vẻ ngạc nhiên: - Sáng nay ư? Làm gì có tờ Times nào được phát hành ở Luân Đôn sáng nay. - Chắc chắn là có. Tay phóng viên người Mỹ nói, tuồng như trách cứ. Chắc ngài còn nhớ tờ Times là tờ báo hàng ngày. Anh ta rút một tờ Times từ trong túi ra. - Đây là lá thư mà tôi lấy làm căn cứ. Challenger thích thú xoa tay vào nhau: - Tôi bắt đầu hiểu ra rồi đây. Thế ra sáng nay anh đọc tờ báo này hả? - Vâng, thưa ngài. - Và anh vội vã đến phỏng vấn tôi phải không? - Vâng, thưa ngài. - Thế anh có nhận thấy điều gì khác thường khi đi đến đây không? - Có đấy ạ. Thú thực là mấy người đồng bào của tôi dường như sống tích cực hơn và nhân văn hơn mọi khi. Người vận chuyển hành lý đã ra khỏi khoang hành lý để kể chuyện cười cho tôi nghe. ở đất nước của chúng tôi, đây đúng là một sự lạ. - Ngoài ra không có gì khác ư? - Không thưa ngài. Tôi không nhớ cái gì khác cả. - Xem nào, anh rời ga Victoria lúc mấy giờ Tay phóng viên mỉm cười: - Tôi đến phỏng vấn giáo sư nhưng tôi có cảm giác rằng chính ngài đang phỏng vấn tôi. - Tôi thích thế đấy. Anh có nhớ anh khởi hành vào lúc nào không? - Tất nhiên, đó là lúc 12 rưỡi trưa. - Anh đến nơi lúc mấy giờ. - 2h15. - Sau đó anh đi xe ngựa phải không? - Đúng vậy. - Theo anh thì nhà ga cách đây bao xa? - ít nhất là 3 cây số. - Vậy theo anh, phải cần bao nhiêu thời gian để đi quãng đường 3 cây số này? - Với con ngựa già hen suyễn này thì có lẽ phải mất nửa tiếng. - Tức là bây giờ sẽ là khoảng 3 giờ. - Vâng, có thể muộn hơn một chút. - Anh xem lại đồng hồ đi. Tay phóng viên vâng lời và ngạc nhiên tột độ” - Ô này, đồng hồ của tôi chết hay sao? Con ngựa này chắc chắn đã ngắc ngoải rồi. Mặt trời lặn mất rồi à, bây giờ tôi mới để ý. Ồ, ở đây đã xảy ra chuyện gì đó mà tôi không sao hiểu nổi. - Anh không nhớ có một biến cố nào đó đã xảy ra khi anh đi lên đồi sao? - Tôi nhớ hình như một lúc nào đó tôi đã rất buồn ngủ. Dường như tôi muốn nói điều gì đó với bác xà ích nhưng bác ta chẳng nghe thấy gì cả. Tôi nghĩ đó là do trời nóng. Tôi cảm thấy chóng mặt… Thế thôi. - Cả nhân loại đều cảm thấy thế đấy, Challenger nói với tôi. Có lúc, tất cả bọn họ đều thấy chóng mặt. Chẳng ai nhận thức được điều gì đang xảy ra. Rồi tất cả mọi người đang làm việc bình thường. Bác Austin lại nhặt vòi nước lên hay như đám người chơi gôn lại tiếp tục cuộc chơi của họ vậy. Ông tổng biên tập của anh, Malone à, sẽ lại tiếp tục chuẩn bị ra số báo mới và một ngày nào đó sẽ kinh ngạc nhận ra rằng mình thiếu mất một số. Anh bạn trẻ của tôi, ông quay về phía tay nhà báo người Mỹ, anh sẽ rất thúc vị nếu biết rằng trái đất vừa lội qua một dòng ête giống như Gulf – Stream trong đại dương. Và để khỏi nhỡ các cuộc hẹn, xin anh nhớ cho là hôm nay không phải là 27 tháng 8 mà đã là 28 tháng 8 rồi. Anh đã ở trong chiếc xe ngựa trong trạng thái vô thức suốt 28 tiếng trên đồi Rotherfield. Đến đây tôi đã có thể đặt dấu chấm hết cho câu chuyện của mình. Bạn đọc có thể hình dung là chỉ có một bài phóng sự đầy đủ và chi tiết nhất được đăng vào sáng thứ hai trên tờ Daily Gazette (bài phóng sự được coi là mang đậm tính báo chí nhất của mọi thời đại và bán được 3,5 triệu bản). Vẫn còn những cái tựa báo được đóng khung trong phòng làm việc của tôi. Trái đất hôn mê trong 28 tiếng đồng hồ Biến cố vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người Challenger có lý Phóng viên của chúng tôi không phải chịu chung cảnh ngộ Câu chuyện ly kỳ Căn phòng ôxy Chuyến du hành kỳ lạ Luân Đôn chết chóc Trang sách thiếu đã tìm thấy Những vụ hoả hoạn nghiêm trọng: nhiều người chết Hiện tượng này còn quay trở lại không? Dưới phần tựa đầy ấn tượng này là chín cột rưỡi báo. Đây là bài phóng sự duy nhất, là bài đầu tiên và cũng là bài cuối cùng về cái ngày dài nhất trong lịch sử hành tinh (vì ít nhất chỉ có một người quan sát có thể ghi lại). Trong một bài báo khác, Challenger và Summerlee phân tích vấn đề dưới góc độ khoa học song chỉ có mình tôi viết phóng sự. Tất nhiên tôi có thể cho đây là đỉnh cao của mình vì sự nghiệp phóng viên của tôi chưa bao giờ được chứng kiến một sự kiện vĩ đại đến thế. Nhưng tôi không muốn phải kết thúc câu chuyện với những tựa đề giật gân hay như một chiến thắng cá nhân. Tôi xin phép được trích ra đây những lời bình cuối cùng của tờ Times, tờ báo uy tín nhất, tờ báo mà tất cả những đầu óc trí thức phải kính nể. “Loài người là một đám đông yếu đuối trước những thế lực vô hình và siêu nhiên xung quanh, chân lý ấy đã từng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Các đấng tiên tri cổ đại cũng như nhiều nhà triết học đương đại đã bao lần gửi bức thông điệp cảnh báo này. Nhưng càng nhắc đi nhắc lại, chân lý dường như mất đi tính thời sự và sức nặng của nó. Loài người cần một bài học, một kinh nghiệm nhãn tiền để nhận ra chân giá trị của lời cảnh báo. Và đây, chúng ta vừa trải qua một thử nghiệm lớn nhưng cũng vô cùng khủng khiếp. Thần trí của chúng ta vẫn còn bàng hoàng về sự đột ngột của nó nhưng tâm hồn chúng ta nhẹ nhõm hơn vì chúng ta đã đong đếm được giới hạn cũng như sự yếu đuối của mình. Thế giới đã phải trả một cái giá rất đắt để nhận được bài học ấy. Chúng ta vẫn còn chưa biết hết những hậu quả của tấn thảm kịch nhưng những vụ cháy huỷ diệt ở New York, ở Orléans và Brighton tự chúng đã là những bi kịch lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Đến khi thống kê hết những thảm hoạ đường sắt và đường biển, con người sẽ còn phải rùng mình kinh sợ. Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp, những thợ cơ khí hay lái tàu đã kịp tắt máy trước khi bị khí độc tấn công. Nhưng hãy gạt qua một bên những thiệt hại vật chất về tài sản và tính mạng con người cho dù là rất lớn bởi thời gian rồi sẽ xoá nhoà tất cả. Nhưng có một điều không thể quên, ấy là khả năng của vũ trụ và ý thức rằng mảnh đất chật hẹp nơi thu nhận sự tồn tại thể xác của con người có thể phải chịu những hậu quả khôn lường. Từ những gì trải qua ngày hôm nay, loài người phải biết học lấy sự tôn trọng và tính nhân văn, bởi đây chính là cơ sở xây dựng những thế hệ hiểu biết hơn và biết khiêm nhường hơn. (Hết)