NGÔI NHÀ NHỎ TRÊN THẢO NGUYÊN Tác giả: Laura Ingalls Wilder Nguyên Tác: Little House On The Prairie Dịch giả: Lạc Việt Nguồn: vnthuquan.org Đóng gói ebook: seekill (sachdidong.com) ---------- MỤC LỤC Tập 1: Ngôi nhà nhỏ ở Big Woods Lời Mở Đầu Chương 1: Ngôi Nhà Nhỏ Ở Big Woods Chưong 2: Những Ngày Mùa Đông Và Những Đêm Mùa Đông Chương 3: Cây Súng Trường Chương 4: Lễ Giáng Sinh Chương 5: Những Ngày Chủ Nhật Chương 6: Hai Con Gấu Lớn Chương 7: Tuyết Đường Chương 8: Khiêu Vũ Tại Nhà Ông Nội Chương 9: Tới Thành Phố Chương 10: Mùa Hè Chương 11: Ngày Mùa Chương 12: Cỗ Máy Kỳ Diệu Chương 13: Con Nai Trong Rừng Tập 2: Ngôi Nhà Nhỏ Trên Đồng Cỏ Chương 1: Về Miền Tây Chương 2: Băng Ngang Dòng Lũ Chương 3: Dựng Trại Trên Đồi Cỏ Chương 4: Ngày Thảo Nguyên Chương 5: Ngôi Nhà Trên Thảo Nguyên Chương 6: Chuyển Vào Nhà Chương 7: Bầy Sói Chương 8: Hai Khuôn Cửa Dầy Chương 9: Ngọn Lửa Trong Lò Sưởi Chương 10: Một Mái Nhà Và Một Nền Đất Chương 11: Những Người Da Đỏ Trong Ngôi Nhà Chương 12: Nước Ngọt Để Uống Chương 13: Những Chiếc Sừng Dài Texas Chương 14: Trại Da Đỏ Chương 15: Sốt Rét Rừng Chương 16: Lửa Trong Ống Khói Chương 17: Bố Lên Tỉnh Chương 18: Người Da Đỏ Cao Lớn Chương 19: Ông Edwards Gặp Ông Già Noel Chương 20: Tiếng Hét Trong Đêm Chương 21: Hội Liên Hoan Da Đỏ Chương 22: Đám Cháy Trên Đồng Cỏ Chương 23: Tiếng Thét Xung Trận Của Người Da Đỏ Chương 24: Những Người Da Đỏ Ra Đi Chương 25: Những Chiến Binh Chương 26: Ra Đi Tập 3: Cậu Bé Quê Chương 1: Những Ngày Tới Trường Chương 2: Buổi Tối Mùa Đông Chương 3: Đêm Mùa Đông Chương 4: Chuyện Bất Ngờ Chương 5: Kỷ Niệm Sinh Nhật Chương 6: Chất Đầy Nhà Chứa Đá Chương 7: Đêm Thứ Bảy Chương 8: Ngày Chủ Nhật Chương 9: Dạy Những Con Bê Chương 10: Vòng Quay Của Năm Chương 11: Mùa Xuân Chương 12: Người Bán Đồ Thiếc Chương 13: Con Chó Lạ Lùng Chương 14: Xén Lông Cừu Chương 15: Chống Lạnh Chương 16: Ngày Quốc Khánh Chương 17: Mùa Hè Chương 18: Giữ Nhà Chương 19: Vụ Mùa Sớm Chương 20: Vụ Mùa Muộn Chương 21: Hội Chợ Địa Phương Chương 22: Mùa Thu Trong Năm Chương 23: Người Thợ Sửa Giày Chương 24: Cỗ Xe Trượt Nhỏ Chương 25: Đập Lúa Chương 26: Lễ Giáng Sinh Chương 27: Kéo Gỗ Chương 28: Chiếc Ví Của Ông Thompson Chương 29: Cậu Bé Quê Tập 4: Trên bờ suối Plum Chương 1: Khuôn Cửa Dưới Đất Chương 2: Căn Nhà Hầm Chương 3: Cỏ Ống Và Cỏ Lưỡi Bào Chương 4: Nước Sâu Chương 5: Con Vật Lạ Lùng Chương 6: Vòng Hoa Hồng Chương 7: Con Bò Đực Trên Mái Nhà Chương 8: Đống Rơm Chương 9: Thời Tiết Châu Chấu Chương 10: Bầy Bò Trong Cỏ Khô Chương 11: Bỏ Chạy Chương 12: Những Con Ngựa Ngày Giáng Sinh Chương 13: Giáng Sinh Vui Vẻ Chương 14: Cơn Lũ Mùa Xuân Chương 15: Cây Cầu Nhỏ Chương 16: Căn Nhà Kỳ Diệu Chương 17: Chuyển Vào Nhà Chương 18: Con Cua Già Và Con Đỉa Chương 19: Cái Bẫy Cá Chương 20: Trường Học Chương 21: Nellie Oleson Chương 22: Buổi Hội Thành Phố Chương 23: Buổi Họp Mặt Đồng Quê Chương 24: Đi Nhà Thờ Chương 25: Đám Mây Chói Lọi Chương 26: Trứng Châu Chấu Chương 27: Mưa Chương 28: Lá Thư Chương 29: Giờ Đen Tối Nhất Trước Lúc Bình Minh Chương 30: Đi Phố Chương 31: Bất Ngờ Chương 32: Những Con Châu Chấu Đang Bò Chương 33: Những Vòng Lửa Chương 34: Những Dấu Hiệu Trên Tấm Bảng Viết Chương 35: Giữ Nhà Chương 36: Mùa Đông Trên Thảo Nguyên Chương 37: Cơn Bão Lê Thê Chương 38: Ngày Bày Trò Chương 39: Ngày Thứ Ba Chương 40: Ngày Thứ Tư Chương 41: Chiều Trước Ngày Giáng Sinh Tập 5: Bên hồ Nước Bạc Chương 1: Người Khách Bất Ngờ Chương 2: Lớn Lên Chương 3: Trên Xe Lửa Chương 4: Cuối Đường Sắt Chương 5: Trại Đường Sắt Chương 6: Những Con Ngựa Ô Chương 7: Đi Vào Miền Tây Chương 8: Hồ Nước Bạc Chương 9: Những Kẻ Trộm Ngựa Chương 10: Buổi Chiều Tuyệt Vời Chương 11: Ngày Phát Lương Chương 12: Những Đôi Cánh Trên Hồ Nước Bạc Chương 13: Trại Giải Tán Chương 14: Ngôi Nhà Của Nhân Viên Dịch Lộ Chương 15: Người Cuối Cùng Ra Đi Chương 16: Những Ngày Mùa Đông Chương 17: Những Con Sói Trên Hồ Nước Bạc Chương 18: Bố Tìm Được Nông Trại Chương 19: Buổi Chiều Trước Giáng Sinh Chương 20: Đêm Trước Giáng Sinh Chương 21: Giáng Sinh Vui Vẻ Chương 22: Những Ngày Đông Hạnh Phúc Chương 23: Trên Đường Pilgrim Chương 24: Đợt Sóng Mùa Xuân Chương 25: Cuộc Đánh Cá Của Bố Chương 26: Cơn Sốt Xây Cất Chương 27: Cuộc Sống Thị Trấn Chương 28: Ngày Dọn Nhà Chương 29: Túp Lều Mong Đợi Chương 30: Vùng Hoa Tím Nở Chương 31: Những Con Muỗi Chương 32: Bóng Chiều Buông Xuống Tập 6: Mùa Đông Thăm Thẳm Chương 1: Phơi Cỏ Khi Nắng Chiếu Chương 2: Chuyến Đi Vào Thị Trấn Chương 3: Cơn Bão Tuyết Tháng Mười Chương 4: Cơn Bão Tuyết Tháng Mười Chương 5: Sau Cơn Bão Chương 6: Mùa Thu Muộn Chương 7: Lời Cảnh Báo Của Người Da Đỏ Chương 8: Sống Trong Thị Trấn Chương 9: Cap Garland Chương 10: Cơn Bão Tuyết Ba Ngày Chương 11: Bố Tới Volga Chương 12: Đơn Độc Chương 13: Chúng Ta Sẽ Qua Cơn Hoạn Nạn Chương 14: Một Ngày Sáng Đẹp Chương 15: Không Có Xe Lửa Chương 16: Thời Tiết Tốt Chương 17: Lúa Giống Chương 18: Giáng Sinh Vui Vẻ Chương 19: Nơi Nào Có Ý Chí Chương 20: Sơn Dương Chương 21: Mùa Đông Khắc Nghiệt Chương 22: Lạnh Lẽo Và Tối Tăm Chương 23: Hạt Giống Trong Bức Vách Chương 24: Không Đói Thực Sự Chương 25: Tự Do Và Độc Lập Chương 26: Thời Gian Thoi Thóp Chương 27: Bữa Ăn Hằng Ngày Chương 28: Trận Bão Tuyết Bốn Ngày Chương 29: Dặm Đường Cuối Cùng Chương 30: Không Thể Đánh Bại Chúng Ta Chương 31: Chờ Đợi Xe Lửa Chương 32: Thùng Quà Giáng Sinh Tập 7: Thị Trấn Nhỏ Trên Thảo Nguyên Chương 1: Chuyện Bất Ngờ Chương 2: Mùa Xuân Trên Đất Trại Chương 3: Con Mèo Cần Thiết Chương 4: Những Ngày Hạnh Phúc Chương 5: Làm Việc Trong Thị Trấn Chương 6: Tháng Hoa Hồng Chương 7: Chín Đôla Chương 8: Ngày Bốn Tháng Bảy Chương 9: Những Con Chim Sáo Chương 10: Mary Tới Trường Chương 11: Cô Wilder Dạy Học Chương 12: Mùa Đông Ấm Cúng Chương 13: Những Ngày Đi Học Chương 14: Đuổi Khỏi Trường Chương 15: Cuộc Viếng Thăm Của Ban Giám Hiệu Chương 16: Những Tấm Danh Thiếp Chương 17: Họp Mặt Thân Hữu Chương 18: Sinh Hoạt Văn Học Chương 19: Vòng Xoay Vui Thú Chương 20: Bữa Tiệc Mừng Sinh Nhật Chương 21: Những Ngày Bốc Đồng Chương 22: Điều Bất Ngờ Trong Tháng Tư Chương 23: Khóa Học Lại Bắt Đầu Chương 24: Triển Lãm Học Đường Chương 25: Bất Ngờ Trong Tháng Chạp Tập 1: Ngôi nhà nhỏ ở Big Woods Lời Mở Đầu Rừng Big Woods mênh mông rậm rạp là nơi ẩn mình của hươu nai, chồn cáo, thỏ sóc và cũng là gian sơn của chó sói, mèo rừng, gấu đen, báo đen. Giữa rừng Big Woods có một ngôi nhà gỗ nhỏ. Trong ngôi nhà nhỏ này có một cô bé sống cùng với bố mẹ, chị gái và em gái. Cô bé tên là Laura Ingalls, cái tên rực sáng trên văn đàn Mỹ và thế giới suốt bảy chục năm qua với bộ sách gồm 9 tập đã được chuyển thành phim dưới tựa đề NGÔI NHÀ NHỎ TRÊN THẢO NGUYÊN. NGÔI NHÀ NHỎ Ở BIG WOODS là tập mở đầu bộ sách trên, kể lại những ngày đầu đời của cô bé khi sống cùng bố mẹ tại rừng Big Woods. Qua lời kể của Laura Ingalls, bạn đọc sẽ gặp không chỉ những kỉ niệm riêng tư mà luôn đối diện với một cuộc sống kiên cường sẵn sàng đương đầu với những thử thách khắc nghiệt nhất để giữ vững ngọn lửa ấm gia đình. NGÔI NHÀ NHỎ Ở BIG WOODS là bức tranh khắc hoạ sinh động nhất về cuộc sống khai phá đầy mạo hiểm của những bàn tay nhỏ bé nhưng có một sức mạnh thần kì: sức mạnh của lòng nhân hậu và tình thương yêu chân thật. Nhiều thế hệ bạn trẻ trên khắp nước Mỹ và nhiều nơi trên thế giới đã say mê đến với NGÔI NHÀ NHỎ Ở BIG WOODS của Laura Ingalls và ngay lúc này, ngôi nhà nhỏ trên cũng đang mở rộng cửa đón chờ các bạn trẻ Việt Nam. Chương 1: Ngôi Nhà Nhỏ Ở Big Woods Thuở xưa, từ mấy mươi năm trước, có một cô bé sống tại khu Big Woods, thuộc vùng Wisconsin, trong một ngôi nhà gỗ nhỏ màu xám. Bọc kín xung quanh ngôi nhà là những cội cây lớn rậm rạp và bao ngoài những cội cây lớn là những cội cây lớn khác rồi tiếp nối lại là những cội cây lớn khác nữa. Một người đàn ông gom tận lực đi về hướng Bắc trọn một ngày, trọn một tuần hoặc trọn một tháng cũng chỉ gặp những rừng cây. Không có nhà. Không có đường đi. Không có người ở. Chỉ có cây và đám thú hoang sống chui rúc trong đó. Chó sói nhan nhản ở Big Woods cùng với lũ gấu và những con mèo rừng khổng lồ. Cầy hương, chồn và rái cá tụ tập bên những dòng suối. Cáo đào hang ở những mô đất và hươu nai lang thang khắp nơi. Hướng đông và hướng tây của ngôi nhà gỗ vẫn là những dặm dài cây xanh nối tiếp nhau, chỉ lơ thơ vài ngôi nhà gỗ nhỏ nằm rải rác riêng rẽ bên bìa rừng Big Woods. Xa khỏi tầm nhìn của cô bé về mọi hướng chỉ độc nhất có ngôi nhà nhỏ mà cô sống ở đó cùng với bố, mẹ, chị gái Mary và em bé Carrie. Một lối mòn xe chạy trước nhà uốn vòng và ngoằn ngoèo mất hút vào rừng cây nơi chỉ có thú hoang sống, nhưng cô bé không biết nó dẫn tới đâu hoặc chỗ cuối cùng của nó là gì. Cô bé tên Laura và cô gọi ba cô là bố, má cô là mẹ. Thời đó và ở nơi đó, trẻ con không gọi ba má hoặc papa mama như sau này. Về đêm, khi thức giấc trên chiếc giường có bánh lăn, Laura lắng nghe nhưng không nghe gì nổi một thứ gì, ngoại trừ tiếng những lùm cây đang cùng nhau rì rào. Đôi khi, văng vẳng trong đêm một tiếng sói hú từ xa. Rồi con sói chuyển tới gần hơn và lại hú. Đó là một âm thanh khủng khiếp. Laura biết rằng lũ sói vẫn ăn thịt các cô gái nhỏ. Nhưng cô bé luôn an toàn ở giữa những bức vách gỗ kiên cố. Cây súng của bố treo ngay trên khung cửa và con chó săn vằn vênh, anh bạn Jack tốt bụng, luôn canh chừng trước nhà. Bố thường nói: - Ngủ đi, Laura! Jack không để một con sói nào vào nhà đâu. Thế là Laura thoải mái dưới những tấm phủ trên chiếc giường có bánh lăn, sát bên cạnh Mary và đi vào giấc ngủ. Một đêm, bố nhấc cô bé ra khỏi giường, bồng tới bên ô cửa sổ để cô có thể nhìn thấy những con sói. Hai con sói đang ngồi phía trước nhà. Chúng giống những con chó có bộ lông bờm xờm. Chúng hếch những chiếc mũi nhọn thẳng lên mặt trăng tròn sáng và hú. Jack nhấp nhổm ngay trước cửa, gầm gừ. Lông nó dựng đứng dọc sống lưng và nó đưa hết hàm răng sắc dữ dằn về phía lũ sói. Đàn sói hú, nhưng không thể xông vào. Ngôi nhà rất đầy đủ tiện nghi. Tầng trên có một mái gác rộng thoảng thoát để chơi đùa khi mưa đổ ào ào trên mái. Tầng dưới gồm một phòng ngủ nhỏ và một phòng lớn. Phòng ngủ có một ô cửa sổ với những cánh lá sách bằng gỗ. Phòng lớn có hai ổ cửa sổ với những cánh lồng kính và hai khung cửa ra vào, một ở phía trước, một ở phía sau. Xung quanh nhà là một hàng rào bằng những thanh sắt vặn vẹo để ngăn cản lũ gấu và đám hươu nai tới gần. Trong sân ngay trước cửa nhà có hai cây sồi lớn rất đẹp. Mỗi buổi sáng, ngay khi thức dậy, Laura luôn chạy tới nhìn ra ngoài cửa sổ và vào một buổi sáng, cô thấy treo lủng lẳng trên cành một cây xồi, một con nai đã chết. Bố bắn được con nai vào đêm trước và Laura đã ngủ khi bố đem về vào ban đêm rồi treo cao lên đó để lũ sói không thể cấu xé nó được. Bữa đó, bố mẹ cùng Laura và Mary có món thịt nai tươi cho bữa ăn. Món ăn ngon tới mức Laura ước là cả nhà có thể ăn hết trọn con nai. Nhưng phần lớn số thịt phải được ướp muối, xông khói và gói lại để dành ăn trong mùa đông. Vì mùa đông đang tới. Ngày đã ngắn lại và sương giá đã luồn trên các tấm kính cửa sổ vào ban đêm. Chẳng bao lâu nữa tuyết sẽ rơi. Lúc đó ngôi nhà gỗ sẽ hầu như bị vùi lấp trong tuyết và hồ nước cùng các dòng suối sẽ đông cứng. Trong cái lạnh cắt da không chắc gì bố tìm nổi con mồi để bắn hạ làm thức ăn. Lũ gấu đã ẩn sâu trong hang để ngủ ngon lành trọn mùa đông dài. Bầy sóc cũng cuộn mình trong ổ giữa những thân cây bọng với chiếc đuôi xù phủ ấm quanh mũi. Thỏ và hươu nai rất nhát và nhanh chạy. Nhưng nếu bố có hạ nổi một con nai thì nó cũng gầy trơ xương chứ không mập căng như đám nai mùa thu. Suốt ngày bố săn lùng giữa cái lạnh cắt da trong vùng Big Woods đầy tuyết và khi đêm xuống vẫn thường trở về nhà với hai tay không, chẳng có thức ăn gì cho mẹ, Mary và Laura. Cho nên phải chất đống thực nhiều thức ăn trong ngôi nhà nhỏ để dành lại trước khi mùa đông tới. Bố cẩn thận lột những bộ da nai, ướp muối và căng ra để sẽ biến thành da thuộc. Rồi bố cắt thịt, rắc muối lên từng miếng khi đặt lên một tấm ván. Ở một góc sân dựng đứng một khúc cây lớn, dài được cắt ra từ một thân cây rỗng ruột. Bố đóng nhiều đinh ở bên trong, xa tới hết tầm tay tính từ đầu khúc cây. Sau đó, bố dựng đứng khúc cây, đặt một tấm mái nhỏ trên đầu và cắt một khuôn cửa nhỏ ở sát đáy. Bố gẵn những bản lề da vào miếng cây vừa được cắt rời ra rồi ghép nó khít lại chỗ cũ và thế là đã có tấm cánh cửa nhỏ vẫn còn nguyên lớp vỏ cây bao bọc. Sau khi ướp muố thịt nai nhiều ngày, bố khoét lỗ trên mỗi miếng thịt, xỏ dây qua. Laura theo dõi bố làm việc này rồi tiếp tục theo dõi bố treo thịt nai lên những chiếc đinh đóng trong bọng cây. Bố luồn tay qua khuôn cửa nhỏ, vươn hết tầm với, treo thịt lên đinh. Rồi bố dựng một chiếc thang vào khúc cây, leo lên rời tấm mái đậy trên đầu khúc cây qua một bên, thọc sâu tay xuống treo thịt vào đinh. Xong bố kéo tấm mái lại, xuống thàng, nhắc Laura: - Con vào vựa củi, kiếm cho bố một ít mảnh bào hồ đào tươi, nhớ lấy những miếng còn mới, sạch sẽ, màu trắng. Thế là Laura chạy tới vựa củi và chất đầy vạt áo những mảnh vỏ bào tươi còn nồng mùi ngọt dịu. Chính giữ bọng cây phía trong khuôn cửa nhỏ, bố gầy nhóm lửa trên những vụn rêu và vỏ cây rồi cẩn thận đặt vỏ bào lên. Thay vì bén lửa thật nhanh, đám vỏ bào tươi âm ỉ cháy và toả khói dày đặc trong ruột khúc cây. Bố đóng khuôn cửa lại và khói tuôn ra qua những kẽ hở quanh khúc cây, qua khe tấm mái đặt trên đầu, nhưng số lớn khói quẩn ở phía trong cùng với những tảng thịt. Bố nói: - Không thứ gì tốt hơn khói bồ đào. Thứ khói này giữ cho thịt rừng ngon lành mãi trong mọi thời tiết. Rồi bố cầm súng, đặt cây rìu lên vai đi kiếm hạ thêm một vài thân cây khác. Laura và mẹ canh chừng ngọn lửa nhiều ngày. Khi khói ngưng tuôn qua những kẽ nứt. Laura lại mang thêm vỏ bào bồ đào tới cho mẹ đặt lên ngọn lửa. Suốt thời gian đó, trong sân luôn thoảng mùi khói và khi khuôn cửa được mở ra, mùi khói đậm đặc hơn mang theo mùi thịt. Cuối cùng, bố nói mức xông khói đủ rồi. Họ dập lửa và bố lấy tất cả những tảng thịt ra khỏi bọng cây, mẹ phủ lên mỗi tảng thịt một lớp giấy vừa vặn và đem treo dưới mái gác để giữ an toàn và hong khô. Một buổi sáng, bố đóng ngựa vào xe lái đi thật sớm và đêm đó bố trở về với một xe cá. Cá chất đầy thùng xe lớn và có nhiều con cá lớn hơn cả Laura. Bố đã tới tận hồ Pepin và vợt số cá này bằng chiếc lưới. Mẹ lạng những miếng cá lớn từ những con cá trắng như tuyết không có một cọng xương nào dành cho Laura và Mary. Cả nhà đều thưởng thức món cá tươi tuyệt vời. Số cá tươi còn lại cũng được ướp muói trong những chiếc thùng để dành cho mùa đông. Bố có nuôi một con heo. Con heo này chạy hoang trong rừng Big Woods sống bằng hạt đậu, hạt dẻ và rễ cây. Bố bắt nó về nhốt trong một chiếc chuồng nhỏ để vỗ béo. Bố sẽ hạ thịt nó ngay khi thời tiết đủ lạnh để ướp thịt heo đông lạnh. Một lần giữa đêm khuya Laura choàng dậy vì tiếng heo kêu eng éc. Bố nhảy khỏi giường, chụp cây súng trên vách và phóng ra ngoài. Rồi Laura nghe súng nổ, một phát, hai phát. Khi quay vào, bố kể chuyện vừa xảy ra. Bố thấy một con gấu đen lớn đứng bên chuồng heo. Con gấu đang tính nhào vào chuồng để bắt con heo và con heo vừa lồng chạy vừa kêu hoảng. Bố nhận ra sự việc nhờ ánh sao và nổ súng tức khắc. Nhưng ánh sáng mờ nhạt và do quá hấp tấp, bố bắn trượt con gấu. Con gấu bỏ chạy vào rừng không sao cả. Laura tiếc là bố không hạ được con gấu. Cô rất thích thịt gấu. Bố cũng tiếc, nhưng bố nói: - Dù sao thì bố vẫn giữ được món thịt heo ướp muối xông khói. Mảnh vườn sau ngôi nhà nhỏ đầy cây trong mùa hè. Vườn rất gần nhà nên bầy nai không thể vượt hàng rao vào ăn rau lúc ban ngày, đêm đã có Jack canh chừng. Nhiều buổi sáng, mọi người nhận thấy có dấu móng chân nai giữa đám cà-rốt hoặc bắp cải. Nhưng ngay tại đó cũng có dấu chân của Jack và đám nai đã bị tống ra khỏi vườn. Lúc này, khoai tây, cà rốt, cải ngọt, củ cải và bắp cải đã được thu hoạch chất đống trong hầm chứa để chờ những đêm đông giá tới. Hành được kết thành những chuỗi dài bằng cách bện đầu vào nhau treo dưới gác mái bên cạnh những vòng ớt đỏ lủng lẳng. Bầu bí được chất thành nhiều đống màu cam, vàng, xanh dưới các góc gác mái. Các thùng cá ướp muối nằm trong kho thực phẩm còn những ổ bánh màu vàng được xếp trên các giá thức ăn. Rồi một hôm, chú Henry xuất hiện trong khu Big Woods. Chú tới giúp bố làm thịt heo. Con dao xả thịt của mẹ đã được mài bén và chú Henry còn mang tới con dao xẻ thịt của cô Polly. Bố và chú Henry đặt lò lửa gần chuồng heo nấu một chảo nước lớn. Khi nước sắp sôi, hai người bắt đầu giết heo. Lúc đó, Laura bỏ chạy, vùi đầu trên giường, lấy mấy ngón tay bịt chặt lỗ tai để không nghe thấy tiếng heo kêu. Bố nói: - Nó không đau nhiều đâu, Laura. Bố và chú làm mau lắm. Một phút sau, Laura dè dặt lấy ngón tay ra khỏi lỗ tai và lắng nghe. Con heo đã ngừng kêu. Tiếp đó, thời gian mổ heo thật là thú vị. Đúng là một ngày hết sức bận rộn với vô số điều để xem và làm. Chú Henry và bố luôn bông đùa, rồi sẽ có món sườn heo cho bữa ăn và bố còn hứa dành cho Laura với Mary chiếc bong bóng cùng với chiếc đuôi heo. Ngay khi con heo vừa chết, bố và chú Henry nhấc nó lên, xối nước sôi cho thấm đều khắp. Rồi, hai người đặt nó lên một tấm ván, dùng dao cạo sạch lông. Sau đó, họ treo nó lên một cội cây, moi ra trọn bộ lòng và treo nó như thế để ướp lạnh. Khi con heo đủ lạnh rồi, họ hạ nó xuống, xả thịt. Có đủ loại thịt như thịt đùi, thịt vai, thịt thân, sườn và bụng. Còn có cả tim, gan, lưỡi với đầu heo dành làm món giò thủ và chiếc chảo nấu đầy những miếng thịt để làm món thịt dồi. Thịt được bày trên tấm ván đặt dưới hiên cửa sau và mỗi tảng đều ướp muối. Thịt đùi và vại được ngâm nước muối vì sẽ được xông khói như món thịt trong khúc cây rỗng ruột. Bố nói: - Không ai được làm hư món thịt đùi xông khói bồ đào. Bố đang thổi phồng chiếc bong bóng. Nó trở thành một trái bóng nhỏ màu trắng và bố lấy dây cột chặt đầu rồi cho Laura và Mary. Các cô có thể liệng nó lên trời và chuyền qua lại bằng bàn tay. Hoặc có thể đá nó tơi lui trên mặt đất. Nhưng kỳ thú hơn cả việc có một trái bóng chính là chiếc đuôi heo. Bố cạo lông chiếc đuôi heo thật kĩ và thọc một cây nhọn vào đầu lớn của nó. Mẹ mở lò bếp, cời những cục than nóng hổi lên miếng sắt trước cửa lò. Rồi Laura và Mary giữ chiếc đuôi heo hơ trên đám than. Nó kêu xèo xèo, nhỏ xuống những giọt mỡ và chín dần, nổi bật trên đám than. Mẹ rắc lên nó một ít muối. Bàn tay và mặt các cô nóng hực và Laura phỏng một ngón tay nhưng cô bé bị lôi cuốn tới nỗi không hề quan tâm. Thật khó giữ sự luân phiên trong việc quay nướng chiếc đuôi heo thú vị như vậy. Cuối cùng công việc cũng chấm dứt. Chiếc đuôi vàng xậm thật hấp dẫn và thơm nức. Các cô mang ra sân cho mau nguội và đã nếm thử trước khi nó kịp nguội khiến lưỡi bỏng rát. Các cô cạp từng miếng nhỏ rồi liệng khúc xương cho Jack. Thế là kết thúc hẳn về chiếc đuôi heo. Các cô phải chờ đến năm sau mới có một chiếc đuôi heo khác. Chú Henry trở về nhà say bữa ăn và bố đi lo tiếp công việc trong rừng Big Woods. Nhưng với Laura, Mary và mẹ thì thời gian mổ heo chỉ mới coi như bắt đầu. Có cả đống việc cho mẹ làm và Laura cùng Mary thì lo giúp mẹ. Trong bữa đó và hôm sau, mẹ chiên mỡ trút vào những bình sắt lớn đặt trên lò bếp. Laura và Mary tiếp củi và canh chừng lửa. Lửa phải đủ nóng nhưng không được quá nóng hoặc làm mỡ cháy khét. Còn phải lo những chiếc bình lớn nóng sôi đều nhưng không hôi khói. Chốc chốc, mẹ lại vợt ra những vụn da xém nâu. Mẹ gom tất cả vào một tấm vải lọc, ép cho tới những giọt mỡ cuối cùng rồi mới bỏ riêng ra. Những vụn da này sẽ được dành lại để làm tăng hương vị cho những chiếc bánh làm sau đó. Da heo chiên giòn rất ngon miệng nhưng Laura và Mary chỉ được nhấm nháp một ít. Mẹ bảo nó quá nhiều mỡ đối với các cô bé. Mẹ cạo lông và rửa chiếc đầu heo thật kĩ, rồi mẹ đem hầm cho tới khi thịt rã khỏi xương. Mẹ dùng dao bằm nhuyễn thịt trong một chiếc cối gỗ, nhào với tiêu, muối và gia vị. Rồi mẹ trộn với nước hầm thịt cho vào chảo đặt ra ngoài xa để làm đông lạnh. Khi thịt đã đông lạnh sẽ được cắt thành khoanh và đó là giò thủ. Mẹ tách thành những miếng nhỏ nạc và mỡ từ những tảng thịt lớn, bằm và bằm mãi cho tới khi tất cả đều nhuyễn nhừ. Mẹ ướp với muối, tiêu và lá rau thơm được sấy khô. Mẹ dùng hai bàn tay nhồi, đảo cho gia vị thấm đều hết và nặn thành những viên tròn. Tất cả đều cho vào một chiếc chảo đặt trên giá để làm đông lạnh và sẽ là món ăn ngon suốt mùa đông. Đây là món thịt nhồi. Thời gian mổ thịt dứt hẳn khi đã có các món thịt nhồi, giò thủ, một võ mỡ lớn, một thùng thịt heo ướp muối trắng tinh trên giá thực phẩm và những tảng thịt vai, thịt đùi xông khói treo lủng lẳng dưới mái gác. Ngôi nhà nhỏ gần như đầy ắp thức ăn tồn trữ cho mùa đông dài dặc. Nhà kho, hầm chứa, các giá đồ đều chặt cứng và mái gác cũng vậy. Lúc này, Laura và Mary phải chơi ở trong nha vì phía ngoài trời lạnh và lá khô đang ào ạt trút xuống. Lửa trong lò bếp không khi nào tắt. Về đêm, bố ủ tro giữ cho than âm ỉ nóng tới sáng. Mái gác là chỗ chơi đùa lí tưởng. Những trái bầu bí tròn, lớn đủ màu biến thành những cỗ bàn ghế thật đẹp. Những chùm ớt đỏ tươi và những xâu hành đung đưa trên đầu. Giò heo, thịt rừng bọc gọn trong giấy bao treo lủng lẳng cùng những bó cỏ khô, những cây gia vị và những chùm dược thảo khiến căn gác có một hương vị pha trộn đậm đặc. Gió thường gầm hú tạo một âm thanh quạnh hiu rét buốt ở phía ngoài. Nhưng dưới gác mai, Laura và Mary chơi ở trong nhà với những trái bầu bí và mọi thứ đều gọn gàng ấm cúng. Mary lớn hơn Laura và có một con búp bê bằng vải vụn tên là Nettie. Laura chỉ có một chiếc lõi bắp quấn trong chiếc khăn tay nhưng nó cũng là một con búp bê ngoan ngoãn. Nó có tên là Susan. Việc chỉ là một chiếc lõi bắp hoàn toàn không phải lỗi của Susan. Thỉnh thoảng Mary cho Laura được bồng Nettie, nhưng cô bé chỉ làm thế khi nào Susan không nhìn thấy. Thời gian thoải mái nhất cho cả nhà là ban đêm. Sau bữa ăn tối, bố mang tất cả bẫy rập từ ngoài lán vào bôi dầu mỡ bên lò sưởi. Bố chùi bẫy sạch bóng rồi bôi trơn các bản lề kẹp và những sợi dây kéo với cọng lông chim nhúng vào mỡ gấu. Có những chiếc bẫy nhỏ, những chiếc bẫy cỡ vừa và những chiếc bẫy lớn để bắt gấu với các răng kẹp mà bố nói sẽ làm gẫy giò một người lớn khi chúng sập lại. Trong lúc bôi trơn bẫy, bố nói giỡn hoặc kể chuyện cho Laura và Mary nghe, rồi sau đó bố chơi đàn. Cửa sổ, cửa ra vào đều đóng kín và những kẻ hở trên các cánh cửa lá sách được nhồi vải để ngăn khí lạnh ở bên ngoài. Nhưng con mèo Black Susan đi lại thoải mái suốt ngày đêm qua cánh cửa quay ở lỗ mèo chui ngay dưới cánh cửa ra vào phía trước. Nó luồn qua cực mau để cánh cửa không chạm nổi vào đuôi của nó khi sập lại. Một đêm, lúc đang bôi trơn bẫy rập, bố thấy Black Susan chui vào nhà và bố kể: - Thuở xưa, có một người nuôi hai con mèo, một con mèo lớn và một con mèo nhỏ. Laura và Mary chạy vội tới, dựa người vào đầu gối bố để nghe phần tiếp. Bố nhắc lại: - Ông ta có hai con mèo, một con lớn và một con nhỏ. Vì thế, ông khoét một lỗ chui lớn cho con mèo lớn ở dưới cánh cửa ra vào. Rồi ông ta khoét một lỗ chui nhỏ cho con mèo nhỏ. Tới đó, bố ngưng lại. Mary lên tiếng: - Nhưng sao không để con mèo nhỏ… Laura lập tức cắt ngang: - Vì con mèo lớn không chịu nó nó qua lỗ chui của mình. Bố nói: - Laura, cắt lời như vậy là thô lỗ. Con không nên cắt lời ai bao giờ. Bố nói tiếp: - Nhưng bố thấy cả hai con đều sáng trí so với cái ông đã cắt hai lỗ chui cho hai con mèo ở dưới cánh cửa của ông ra. Rồi bố mang bẫy rập đi cất và lấy đàn ra khỏi hộp, bắt đầu chơi đàn. Đó là thời gian thoải mái nhất với cả nhà. Chưong 2: Những Ngày Mùa Đông Và Những Đêm Mùa Đông Đợt tuyết đầu tiên đã rơi xuống và trời lạnh như cắt. Mỗi sáng, bố xách súng, đem bẫy đi trọn ngày trong rừng Big Woods đặt những chiếc bẫy nhỏ dọc các lạch suối để bắt cầy hương, chồn, đặt những bẫy cỡ vừa ở trong rừng để bắt cáo và sói. Bố cũng đặt những chiếc bẫy lớn với hy vọng bắt được một con gấu mập mạp trước khi bầy gấu kéo vào hang trọn mùa đông. Một buổi sáng, bố đột ngột trở về dắt ngựa ra đóng vào xe trượt tuyết và lại hối hả quay đi. Bố hạ được một con gấu. Laura và Mary nhảy tưng tưng và vỗ tay mừng. Mary hét lớn: - Tôi thích món đùi gấu! Tôi thích món đùi gấu! Mary không biết chiếc đùi gấu lớn như thế nào. Bố trở về cùng với một con gấu và thêm một con heo trên cỗ xe. Bố đang băng ngang rừng với chiếc bẫy gấu trên tay và cây súng trên vai. Lúc bố vừa bước vòng qua một cây thông lớn phủ đầy tuyết thì bắt gặp con gấu đang đứng ngay sau cây thông. Con gấu vừa bắt được một con heo và đang đem đi ăn thịt. Bố kể con gấu đứng trên hai chân sau, ôm con heo bằng hai chân trước tựa hồ đó là hai cánh tay. Bố bắn hạ con gấu những không có cách nào biết con heo từ đâu tới hoặc của ai. Bố nói: - Cho nên, bố mang luôn về để làm món thịt heo xông khói. Thế là có khá đủ thịt tươi cho một thời gian dài. Ngày và đêm đều lạnh tới nỗi thịt heo trong thùng và thịt gấu treo trong nhà lán nhỏ phía cửa sau đều đông lạnh cứng ngắt. Khi mẹ muốn có thịt để nấu, bố phải dùng búa mới chặt nổi những tảng thịt gấu hoặc thịt heo đông lạnh này. Nhưng mẹ có thể tự lấy các viên thịt nhồi, thịt heo ướp muối hoặc đùi heo và thịt rừng xông khói ở trong nhà lán hoặc dưới mái gác. Tuyết tiếp tục rơi và chất đống quanh nhà. Buổi sáng các ô kính cửa sổ phủ đầy sương giá vẽ thành hình thù cây cỏ, hoa lá và cảnh vật rất đẹp. Mẹ bảo Jack-Sương-Giá tới vào đêm khuya, vẽ nên những bức tranh đó khi mọi người đang ngủ say. Laura tưởng tượng Jack-Sương-Giá là một người đàn ông nhỏ con toàn thân trắng như tuyết, đội chiếc mũ lưỡi trai trắng lấp lánh, mang đôi giày ống nhẹ bằng da nai cũng trắng phau. Với chiếc áo màu trắng, những chiếc găng tay trắng, ông ta không mang súng trên lưng mà chỉ có trong hai bàn tay những dụng cụ sắc nhọn sáng rỡ để khắc nên những bức tranh. Laura và Mary được mẹ đồng ý cho lấy chiếc đê của mẹ để tạo những đường vòng xinh xắn với lớp sương giá đọng trên các ô kính. Nhưng các cô không khi nào làm hư những bức tranh mà Jack-Sương-Giá đã vẽ lên vào ban đêm. Khi các cô áp miệng vào ô cửa thở hơi ra, một lớp sương giá trắng nõn tan ra và nhỏ thành giọt dưới tấm kính. Lúc đó các cô nhìn thấy những cụm tuyết ở ngoài trời và những cội cây lớn đứng trơ trụi, đen ngòm tạo thành một vệt màu xanh lợt trên nên tuyết trắng. Laura và Mary giúp mẹ làm việc. Mỗi buổi sáng đều phải lau chùi chén dĩa. Mary lau chùi nhiều hơn Laura vì cô lớn hơn, nhưng Laura luôn lau chùi hết sức cẩn thận chiếc ly nhỏ và chiếc khay riêng của cô. Ngay sau lúc chén dĩa đã được lau sạch và cất xong là việc xếp dọn chiếc giường có bánh lăn. Laura và Mary đứng hai bên giường kéo thẳng những tấm chăn phủ, nhét thật gọn các mép ở hai bên cạnh và phía chân giường rồi kéo thẳng gối đặt vào đúng chỗ. Sau đó, mẹ đẩy chiếc giường có bánh lăn vào chỗ của nó ở dưới gầm chiếc giường lớn. Khi các việc đó xong xuôi, mẹ bắt đầu những việc dành riêng cho từng ngày. Mỗi ngày đều có một loại công việc mẹ thường nhắc: Giặt giũ vào thứ hai ủi đồ vào thứ ba May vá vào thứ tư Khuấy kem vào thứ năm Quét dọn vào thứ sáu Nướng bánh vào thứ bảy Nghỉ ngơi vào chủ nhật Trong trọn tuần lễ, Laura thích nhất ngày khuấy kem và ngày nướng bánh. Vào mùa đông, kem không có màu vàng như mùa hè, do đó khi làm bơ chỉ có thứ bơ màu trắng không bắt mắt. Mẹ thích mọi món trên bàn ăn đều phải đẹp nên vào mùa đông mẹ bỏ màu vào bơ. Sau khi khuấy kem xong trong chiếc chén sành lớn và đặt gần bếp lò cho ấm. Mẹ rửa sạch và gọt một củ cà-rốt dài màu vàng cam. Rồi mẹ chà củ cà-rốt trong đáy chiếc xoong nhôm hư mà bố đã đục thật nhiều lỗ đinh. Mẹ chà củ cà-rốt trên những vết sần sùi cho tới khi trọn củ cà-rốt lọt qua những lỗ đinh nhỏ và mẹ nhấc chiếc xoong lên thì ở phía dưới có một đống bột cà-rốt mềm nhuyễn tươm nước. Số bột cà-rốt này được trút vào một xoong sữa nhỏ ở trên lò và khi sữa nóng, mẹ đổ sữa và cà rổ vào một túi vải. Rồi mẹ vắt những dòng sữa có màu vàng sáng lên chỗ kem đã khuấy để nhuộm màu cho kem. Lúc này bơ làm ra sẽ có màu vàng. Laura và Mary được ăn chỗ bột cà rốt sau khi mẹ vắt sữa xong. Mary nghĩ là cô phải được phần nhiều hơn vì cô lớn hơn, còn Laura lại bảo cô phải được phần nhiều hơn vì cô nhỏ hơn. Nhưng mẹ nói cả hai phải chia phần đều nhau. Thế là công bằng. Khi kem khuấy xong, mẹ nhúng nước sôi chiếc cần khuấy dài bằng gỗ, đặt vào thùng khuấy, thả chiếc nắp thùng xuống. Nắp thùng có một lỗ tròn nhỏ ở chính giữa để qua đó, mẹ kéo chiếc cần khuấy lên xuống, lên xuống. Mẹ khuấy một hồi lâu. Đôi khi Mary có thể khuấy tiếp cho mẹ nghỉ nhưng với Laura thì chiếc cần khuấy quá nặng. Mới đầu, kem văng đầy quanh chiếc lỗ trong và giống như những giọt nước. Một hồi sau, chúng bắt đầu gom thành hạt. Rồi mẹ khuấy càng lúc càng chậm hơn và trên chiếc cần xuất hiện những hạt bơ nhỏ li ti màu vàng. Khi mẹ mở nắp thùng khuấy đã có một khối bơ vàng óng chìm giữa lớp sữa bơ. Mẹ dùng chiếc dầm gỗ đưa khối bơ này qua chiếc chén gỗ, rửa nhiều lần bằng nước lạnh, trở qua trở lại bằng chiếc dầm làm cho tới khi nước chảy hết. Kế đó, mẹ rắc muối lên. Rồi tiếp tới phần quan trọng nhất của việc khuấy bơ. Mẹ đúc khuôn bơ. Trên phần đáy thả lỏng của chiếc khuôn đúc bơ bằng gỗ có khắc hình một trái dâu tây với hai chiếc lá dâu. Với chiếc dầm, mẹ dồn chặt bơ vào trong khuôn cho tới khi đầy ắp. Xong, mẹ lật ngược khuôn úp lên một chiếc khay và đẩy chiếc cán của phần đáy thả lỏng. Một chiếc bơ nhỏ, chắc, vàng óng hiện ra với hình một trái dâu tây và hai chiếc lá dâu ở bên trái. Laura và Mary ngồi sát bên mẹ, nín thở theo dõi trong lúc từng miếng bơ nhỏ vàng óng với hình trái dâu in trên mặt nhỏ xuống chiếc khay khi mẹ dồn bơ qua chiếc khuôn. Rồi mẹ cho mỗi cô bé một ly sữa bơ tươi, ngon lành. Mỗi ngày thứ bảy, khi mẹ làm bánh, mỗi cô bé đều có một ít bột để làm một chiếc bánh nhỏ. Các cô cũng có thể có một nắm bột nhão bánh qui để làm những chiếc bánh qui nhỏ và có lần Laura đã nướng bánh qui trong chiếc chảo nhỏ của mình. Khi xong công việc trong ngày, mẹ thỉnh thoảng cắt cho các cô những con búp bê bằng giấy. Mẹ cắt búp bê bằng những bìa giấy cứng màu trắng và vẽ mặt bằng bút chì. Rồi, từ những mẩu giấy màu, mẹ cắt quần áo, nón, dải băng và viền ren để Laura và Mary có thể trang điểm búp bê của mình thật đẹp. Nhưng thoải mái hơn hết vẫn là buổi tối, khi bố trở về nhà. Bố trở về sau cả buổi đi bộ lang thang trong rừng cây đầy tuyết với một đường viền băng nhỏ quanh ria mép. Bố treo cây súng lên vách ngay khung cửa, lột chiếc nón da, áo khoác, bao tay và gọi: - Bình-rượu-nhỏ-say-chuyếnh-choáng của bố đâu rồi? Đó là Laura, vì cô còn rất nhỏ. Laura và Mary chạy ùa tới, leo lên ngồi trên đầu gối bố, trong khi bố sưởi ấm bên lò sưởi. Rồi bố lại khoác áo, đội nón đeo găng tay, bước ra ngoài làm các công việc vặt và ôm thêm củi cho lò sưởi. Đôi khi bố thăm bẫy rất mau vì các bẫy đều trống lốc hoặc do bố hạ được con mồi sớm hơn thường lện nên về nhà sớm hơn. Lúc đó, bố có thời giờ chơi đùa cùng với Laura và Mary. Trò chơi các cô thích nhất là trò chó điên. Bố thọc mấy ngón tay vào mái tóc dày và hùng, làm cho tóc dựng đứng lên. Rồi bố bò nhảy, gầm gừ đuổi theo Laura và Mary quanh trong phòng cố dồn các cô bé vào một xó nhà. Các cô lòn chạy và lẩn tránh thật nhanh, nhưng có lần bố cũng dồn được các cô tới chiếc thùng gỗ phía sau lò sấy bánh. Các cô không tránh xa nổi và cũng không còn đường chạy. Lúc đó bố gầm gừ rất dữ dằn, tóc bố dựng lên man rợ và mắt bố long lanh giống hệt một con chó điên thật. Mary kinh hoàng tới nỗi đứng chết trân. Nhưng khi bố tiến lại gần hơn thì Laura hét lên và với một bước nhảy điên loạn, cô phóng qua chiếc thùng gỗ, kéo Mary chạy theo. Ngay lập tức không còn thấy con chó điên đâu nữa. Tại đó chỉ có bố đang đứng nhìn Laura bằng cặp mắt xanh sáng rỡ. Bố nói với cô bé: - Khá lắm! Con chỉ là một bình rượu nhỏ chuyếnh choáng nhưng thuộc loại biết bay. Con mạnh như một con ngựa con nòi Pháp vậy! Mẹ lên tiếng: - Anh đừng làm các con sợ như vậy, Charles. Hãy coi những con mắt mở tròn lên hết kìa! Bố nhìn thấy và bố hạ cây đàn xuống. Bố bắt đầu chơi đàn và hát: Chàng Mèo khờ lên thăm thành phố Quần sọc rằn, ngơ ngáo ngó nghiêng Thành phố đâu, sao không nhìn thấy Chỉ thấy nhà chen chúc bốn bên Laura và Mary quên bẵng con chó điên. Có cây súng lớn ơi là lớn Lớn như cây trường khế kếch xù Không phải dễ mỗi khi xoay chuyển Cần lấy ra hai cỗ ách bò Khi bắn súng cũng đâu phải dễ Hết tiêu luôn trọn ống thuốc bồi Tiếng nổ không khác khi bố bắn Nhưng rền vang chấn động khắp nơi Bố gõ nhịp bằng một bàn chân và Laura vỗ tay theo khi bố hát: Tôi hát bài chàng Mèo khờ lớ ngớ Tôi hát bài chàng Mèo khờ ngu ngơ Tôi hát bài chàng Mèo khờ lớ ngớ Tôi hát bài chàng Mèo khờ ngu ngơ Đơn độc giữa rừng hoang Big Woods trong tuyết lạnh và giá rét, ngôi nhà gỗ nhỏ vẫn ấm áp, đầy đủ và êm đềm. Bố mẹ, Mary, Laura và bé Carrie sống tại đó thoải mái, hạnh phúc, đặc biệt là về đêm. Lửa từ lò sưởi toả sáng, bóng tối cùng hơi lạnh và hoang thú đều bị chặn đứng ở phía ngoài, còn Jack, con chó săn vằn vện cùng con mèo Black Susan nằm lim dim dưới lửa lò sưởi. Mẹ ngồi trên ghế đu may vá bên ngọn đèn đặt trên bàn. Ánh đèn sáng trong toả chiếu. Dưới đáy bầu dầu lửa bằng thuỷ tinh có rắc một ít muối để dầu không bốc lên. Lẫn trong đám muối là những mảnh vải sợi màu đỏ làm đẹp cho cây đèn và nó đẹp thật. Laura rất thích ngắm cây đèn với chiếc bóng thuỷ tinh trong suốt loá sáng, ngọn lửa màu vàng mạnh mẽ và chiếc bầu dầu lửa ửng màu đỏ của những mảnh vải sợi. Cô cũng thích ngắm ngọn lửa trong lò sưởi không ngừng lung linh, di động và đổi màu từ vàng sang đỏ, có khi thành xanh lè trên các khúc cây hoặc thành xanh lơ chập chờn bay trên những hòn than màu hồng ngọc hoặc vàng óng. Rồi, tới giờ bố kể chuyện. Khi Laura và Mary nài bố kể một câu chuyện, bố thường bồng các cô đặt ngồi trên đầu gối và làm các cô nhột bằng cách cọ những cọng râu dài lên mặt các cô cho tới khi các cô cười lớn tiếng. Mắt bố xanh và đầy niềm vui. Một đêm, bố ngắm Black Susan vương dài người trước lò sưởi co duỗi những chiếc vuốt và bố hỏi: - Các con có biết rằng báo cũng như một con mèo không. Một con mèo hoang dã, lớn khổng lồ? Laura đáp: - Không. Bố nói: - Được, chỉ cần tưởng tượng Black Susan sẽ lớn hơn Jack, và dữ dội hơn Jack khi nó gầm gừ. Khi đó nó đã giống y hệt một con báo. Bố đặt Laura và Mary ngồi thoải mái hơn trên đầu gối và nói: - Bố sẽ kể câu chuyện về ông nội và con báo. Laura hỏi: - Ông nội của bố hả? - Không, Laura. Ông nội của các con, bố của bố. - Ô! Laura vừa nói vừa nhích sát hơn vào còng tay bố. Cô bé biết ông nội. Ông nội sống cách xa nhưng cũng ở trong khu Big Woods và trong một ngôi nhà cây lớn. Bố bắt đầu kể. Câu Chuyện Ông Nội Và Một Con Báo “Một hôm ông nội lên thành phố và trở về nhà muộn. Trời tối khi nội cưỡi ngựa băng ngang rừng Big Woods, tối đến nỗi nội không nhìn ra đường và lúc đó nghe rõ tiếng gầm của một con báo, nội vô cùng kinh hoảng vì nội không mang súng.” Laura hỏi: - Con báo gầm như thế nào? Bố nói: - Như một phụ nữ vậy. Như thế này này. Rồi bố gầm lên khiến Laura và Mary đều run người khiếp hãi. Mẹ nhảy khỏi ghế kêu lên: - trời ơi, Charles! Nhưng Laura và Mary lại thích bị khiếp hãi như vậy. - Con ngựa với ông nội trên lưng phóng chạy cực nhanh vì nó cũng kinh hoàng. Nhưng nó không thể tách xa nổi con báo. Con báo rượt theo xuyên qua rừng tối. Đó là một con báo đang đói và nó chạy nhanh ngang với sức phóng nhanh nhất của con ngựa. Nó gầm lúc ở bên này đường, lúc ở bên kia đường và luôn bám sát phía sau. “Ông nội nằm rạp trên yên, thúc ngựa phóng nhanh hơn nữa. Con ngựa chạt với tất cả sức lực của nó và con báo vẫn gầm ở sát phía sau. “rồi ông nội thoáng nhìn thấy con báo tựa hồ đang nhảy từ ngọn cây này qua ngọn cây khác ngay phía trên đầu. “Đó là một con báo đen, lớn, phóng nhảy qua khoảng không không khác Black Susa phóng chụp một con chuột. Nhưng nó lớn hơn gấp nhiều, rất nhiều lần, so với Black Susan. Nó lớn đến nỗi nếu nó phóng chụp lên người ông nội thì có thể giết ông nội ngay bằng những chiếc vuốt khổng lồ và bằng những chiếc nanh dài sắc nhọn. “Ông nội phóng ngựa như bay cố chạy xa khỏi nó y hệt một con chuột cố trông khỏi con mèo. “Con báo không gầm gừ nữa và ông nội không còn thấy nó nữa. Nhưng ông nội biết chắc nó đang phóng nhảy trong rừng tối lao theo ở phía sau. Con ngựa gom tận lực chạy tới. “Cuối cùng con ngựa về được tới nhà ông nội. Lúc này ông nội nhìn thấy con báo đang tung mình bật lên chồm tới chụp. Ông nội nhảy phóng khỏi lưng ngựa tới trước cửa, đá bật cánh cửa nhào vào nhà rồi đóng sập lại liền. Con báo chụp thẳng xuống ngựa ngay chỗ ông nội ngồi. “Con ngựa kêu thét lên một cách kinh hoàng và lồng chạy. Nó chạy về phía rừng Big Woods với cpm báo bám trên lưng đang dùng vuốt xé lưng nó. Nhưng ông nội chộp ngay cây súng trên vách và bước tới bên cửa sổ đúng lúc để kịp bắn hạ con báo. “Ông nội nói từ đó không khi nào ông nội vào rừng Big Woods mà không mang súng theo. Bố đã kể xong câu chuyện mà Laura và Mary còn run rẩy nhích sát hơn vào người bố. Các cô thấy an toàn và thoải mái trên đầu gối của bố và trong vòng tay mạnh mẽ của bố đang bao quanh. Các cô thích ngồi đó trước hơi lửa ấm với Black Susan đang gừ gừ trước lò sưởi và con chó Jack ngoan ngoan nằm dài bên cạnh. Khi các cô nghe vọng lại một tiếng sói hú, đầu Jack ngẩng cao và lông nó dựng đứng dọc sống lưng. Laura và Mary lắng nghe âm thanh này cất lên đơn độc trong đêm đen lạnh buốt giữa rừng Big Woods và các cô không thấy sợ Các cô đang ấm áp thoải mái trong ngôi nhà gỗ nhỏ mặc cho tuyết rơi khắp xung quanh và gió nỉ non than khóc vì không thể tới gần ánh lửa. Chương 3: Cây Súng Trường Mỗi buổi tối, trước khi bắt đầu kể chuyện, bố thường chế đạn cho buổi đi săn hôm sau. Laura và mary cùng lo giúp bố. Các cô mang tới chiếc muỗng có cán dài, lớn và chiếc hộp đựng đầy các miếng chì cùng với khuôn đúc đạn. Rồi, trong lúc bố ngồi chồm hổm trước lò sưởi chế đạn, các cô ngồi sát hai bên theo dõi. Trước hết, bố nấu chảy những miếng chì trong chiếc muỗng lớn đặt trên đống than. Khi chì tan, bố rót cẩn thận qua chiếc lỗ nhỏ vào khuôn đúc đạn. Một phút sau, bố mở khuôn và từ đó rớt xuống trước lò sưởi một viên đạn mới sáng bóng. Viên đạn còn rất nóng nhưng nó sáng bóng lấp lánh đến nỗi laura và mary không thể kìm nổi không đụng tay vào nó. Thế là ngón tay các cô bị phỏng. Nhưng các cô không dám kêu một tiếng nào vì bố đã dặn không bao giờ được đụng tay vào một viên đạn mới. Nếu các cô bị phỏng ngón tay là do lỗi của các cô vì làm sai lời bố dặn. Vậy là các cô chỉ biết ngậm ngón tay cho nó dịu bớt và ngắm bố làm các viên đạn khác. Khi có cả một đống đạn trước lò sưởi, bố ngưng lại. Bố để cho các viên đạn nguội hẳn rồi với mũi dao găm, bố cạy những giọt chì đọng ra khỏi chiếc lỗ nhỏ trong khuôn đúc đạn. Bố gom hết những giọt chì li ti này giữ lại để dành sẽ nấu chảy vào lần làm đạn tiếp sau. Những viên đạn làm xong được bố cất vào trong túi đạn. Chiếc túi nhỏ rất đẹp này do mẹ làm bằng da nai lấy từ con nai mà bố hạ được. Làm đạn xong, bố lấy cây súng trên vách xuống để lau chùi. Suốt ngày dầm trong rừng tuyết, thế nào súng cũng bị thấm ẩm và nòng súng chắc chắn bị dơ vì khói thuốc súng. Vì vậy, bố lấy cây thông nòng ra khỏi chỗ của nó ngay dưới nòng súng, buộc một miếng vải vào đầu. Bố dựng đứng báng súng trong một chiếc xoong đặt trước lò sưởi và xối nước sôi từ bình nấu trà vào nòng súng. Rồi, bố thọc nhanh cây thông nòng vào và lau rửa bằng cách kéo lên đẩy xuống trong lúc nước sôi đen ngòm thuốc súng thoát ra qua chiếc lỗ nhỏ có nắp đậy khi súng được nạp đạn. Bố tiếp tục đổ nước và lau rửa như thế cho tới khi nước thoát ra sạch bong. Vậy là nòng súng không còn dơ nữa. Nước phải luôn nóng sôi để thép súng hấp nóng có thể làm khô nước tức khắc. Lúc đó, bố quấn một mảnh vải thấm dầu vào cây thông nòng và trong lúc nòng súng còn đang nóng, bố bôi trơn nó. Với một miếng vải sạch khác tẩm dầu, bố chùi sạch khắp cây súng cho tới lúc từng điểm nhỏ đều thấm dầu trơn bóng. Sau hết, bố lau chùi và đánh bóng báng súng khiến nước gỗ cũng phản chiếu ánh sáng như gương. Lúc này, bố sẵn sàng nạp đạn vào súng trở lại và laura cùng mary phải giúp bố. Có laura và mary kề sát hai bên, bố đứng thẳng người, giữ cây súng dài dựng ngược trên báng và nói: - Bây giờ các con nhìn bố và nói cho bố biết bố có phạm lỗi nào không? Thế là các cô chăm chú theo dõi nhưng bố không bao giờ sai sót hết. Laura đưa cho bố chiếc sừng bò trơn bóng đựng đầy thuốc nổ. Đầu sừng có một nắp nhỏ bằng kim khí. Bố đổ đầy thuốc nổ vào chiếc nắp này và trút vào trong nòng súng. Rồi bố khẽ lắc cây súng và gõ nhẹ nhẹ nòng súng cho tất cả thuốc nổ đều dồn hết xuống dưới. Tiếp đó, bố hỏi: - Hộp đồ vá của bố đâu? Mary liền đưa ra chiếc hộp thiếc nhỏ đầy những mảnh vải tẩm dầu. Bố đặt một miếng vải tẩm dầu lên họng súng, đặt lên trên nó một viên đạn chì mới sáng bóng rồi dùng cây thông nòng đẩy tụt hết vào trong nòng súng. Bố nhồi chặt những thứ này vào số thuốc nổ. Khi cây thông nòng chạm những thứ này, nó nẩy lên trong nòng súng và bố nắm chắc lại, đẩy mạnh xuống. Bố làm việc này khá lâu. Sau đó, bố đặt cây thông nòng về chỗ của nó bên nòng súng. Bố lấy ra từ trong túi một hộp ngòi nổ, mở cò súng, đẩy một mảnh vải nhỏ sáng rỡ lên trên khoảng lõm ngay dưới cò súng. Bố đẩy cò súng trở lại, khẽ khàng và thật cẩn thận. Nếu đẩy xuống nhanh thì – bang – súng nổ ngay. Khi bố ở nhà, cây súng luôn nằm ngang trên hai chiếc móc gỗ trên khung cửa. Bố chuốc những chiếc móc từ một nhánh cây tươi bằng dao và đóng sâu vào những chiếc lỗ trong vách ván. Các đầu móc uốn cong lên và giữ cây súng rất chắc. Súng luôn nạp đạn sẵn và luôn nằm trên khung cửa để bố có thể lấy ra mau chóng, dễ dàng vào bất kì khi nào cần đến. Khi bố vào rừng big woods thì luôn phải chắc chắn là có đầy túi đạn cùng hộp đồ vá, hộp ngòi nổ nằm trong túi áo. ống thuốc nổ và chiếc búa nhỏ bén ngót dắt nơi thắt lưng còn cây súng nạp đạn sẵn trên vai. Bố luôn nạp đạn ngay sau khi bắn, vì không muốn gặp phải một điều bất thường nào với cây súng không có đạn. Ngay sau khi hạ một con vật, bố luôn ngừng lại để nạp đạn vào súng, lường thuốc nổ, cho vào nòng súng, lắc dồn xuống rồi nhồi vải dầu và chì, đặt ngòi nổ dưới cò súng. Khi bắn một con gấu hay một con báo, bố phải giết con vật bằng phát súng đầu tiên. Một con gấu hay một con báo bị thường có thể giết một người trước khi người đó có đủ thời gian nạp viên đạn khác vào súng. Nhưng laura và mary không khi nào sợ lúc bố đi một mình vào rừng Big Woods. Các cô biết chắc bố luôn giết những con gấu hay những con báo bằng phát đạn đầu tiên. Sau khi chế xong đạn và súng đã nạp đạn là thời gian kể chuyện. Laura nài nỉ bố: - Bố kể về giọng nói giữa rừng đi. Bố nheo mắt nhìn cô bé: - Ô, không đâu. Các con có muốn nghe chuyện về lúc bố còn là một cậu bé hư không? Laura và mary cùng nói: - Ô, các con thích nghe. Các con thích nghe! Thế là bố bắt đầu kể Chuyện Về Bố Và Giọng Nói Giữa Rừng Khi còn là một cậu bé không lớn hơn mary bây giờ, mỗi buổi chiều, bố phải vào rừng kiếm mấy con bò sữa đưa chúng vào nhà. Ông nội nhắc bố không được ham chơi trên đường mà phải mau chóng đưa bò về nhà trước lúc trời tối, vì trong rừng có gấu, sói và báo. Một hôm, bố đi sớm hơn thường lệ nên nghĩ là không cần vội vã. Trong rừng có thật nhiều thứ để xem khiến bố quên bẵng trời sắp tối. Sóc đỏ leo trèo trên cây, sóc chuột lăng xăng qua các đám lá và lũ thỏ con đang bày trò chơi chung giữa các khi đất trống. Các con biết đó, thỏ con luôn bày trò chơi cùng với nhau trước khi đi ngủ. Bố bắt đầu đóng vai một thợ săn vĩ đại tìm đuổi lũ thú hoang và người da đỏ. Bố chơi say sưa trò chiến đấu chống người da đỏ cho tới lúc trong rừng hình như toàn là người man rợ thì lập tức bố nghe thất lũ chim đêm líu lo lên tiếng. Lối đi nhoà nhạt còn trong rừng thì tối xẫm. Bố nhớ ra là phải lùa bò về nhà thật mau để bò được an toàn trong chuồng trước khi đêm xuống. Nhưng bố không thấy con bò nào. Bố cố lắng nghe nhưng không nghe thấy tiếng chuông của chúng. Bố gọi lớn chẳng con bò nào tới. Bố thấy sợ bóng đêm, sợ thú dữ nhưng không dám về nhà gặp ông nội mà không đem theo lũ bò. Thế là bố chạy lung tung khắp rừng, săn tìm và la gọi. Suốt thời gian đó, bóng tối cứ dày hơn, đen đặc hơn và khu rừng thì rộng thêm mãi với những cội cây, bụi rậm hoàn toàn khác hẳn. Bố không tìm thấy bò ở bất kỳ nơi nào. Bố leo lên các gò cao, lùng kiếm và la gọi, rồi bố chạy xuống các trũng sâu la gọi và lùng kiếm. Có lúc bố dừng lại, lắng nghe tiếng chuông bò nhưng không thấy gì ngoài tiếng rì rào của lá cây. Rồi, bố nghe rõ một hơi thở lớn và nghĩ rằng có một con báo ở đó, trong bóng tối ngay sau lưng bố. Nhưng đó chỉ là hơi thở của bố. Mấy ống chân trần của bố bị gai tầm xuân cào nát và khi bố băng qua các bụi rậm thì cành cây và đập. Nhưng bố tiếp tục lùng kiếm và gọi lớn: - Sukey! Sukey! Bố thu hết sức gào lên: - Sukey! Sukey! Ngay trên đầu bố, bỗng có giọng hỏi: - Hu? Tóc bố dựng đứng lên. Giọng hỏi lại tiếp tục: - Hu? Hu-uu? Và sau đó, bố không biết bố chạy ra sao! Bố quên hết luôn lũ bò. Điều bố cố làm là vượt ra khỏi bóng tối, trở về nhà. Giọng nói trong bóng đêm đuổi theo bố và lại hỏi: - Hu-uu? Bố chạy với tất cả sức mình có. Bố chạy không kịp thở và cứ chạy. Có một cái gì đó chụp lấy bàn chân bố và bố ngã xuống. Lập tức bố vùng dậy và lại chạy. Không một con sói nào đuổi kịp bố. Cuối cùng, bố vượt khỏi khu rừng tối và tới sát chuồng bò. Lũ bò đang tề tựu tại đó chờ mở gióng để đi qua. Bố lùa chúng qua rồi chạy về nhà. Ông nội nhìn lên, nói: - Chàng trai, làm gì mà về trễ vậy? Mải chơi dọc đường hả? Bố cúi xuống và nhận ra một móng chân cái bị tróc mất. Bố kinh hoàng tới nỗi không hề cảm thấy đau đớn trong lúc đo. Bố ngưng câu chuyện tại đó và chờ tới khi Laura lên tiếng: - Tiếp đi, bố! Bố kể tiếp đi! Bố nói: - Được! Rồi, ông nội đi ra ngoài sân, chặt một cành cây cứng. Và ông nội trở vào nhà tặng cho bố một trận đòn để bố nhớ từ đó về sau không được làm sai lời ông nội dặn. Bố tiếp: - Một cậu bé chín tuổi đủ lớn để nhớ những lời dặn. Mỗi điều bố dặn các con làm theo đều có lí do chính đang và nếu các con luôn làm theo lời dặn thì không có gì nguy hại xảy ra với các con cả. - Dạ, dạ, bố! Laura vừa nói vừa nhấp nhổm trên đầu gối bố và tiếp: - Rồi ông nội còn nói gì nữa? Bố nói: - Ông nội bảo “nếu con nghe lời bố thì con sẽ không ở trong rừng Big Woods sau khi trời tối và con không hoảng sợ bởi tiếng kêu của một con cú mèo”. Chương 4: Lễ Giáng Sinh Giáng Sinh đang tới. Ngôi nhà gỗ nhỏ gần như bị vùi dưới tuyết. Những tảng tuyết lớn phủ kín bốn bức vách cùng các ô cửa sổ và vào buổi sáng, mỗi khi bố mở cửa, một bờ vách tuyết sừng sững cao hơn Laura sừng sững phía trước. Bố phải dùng xẻng xúc hết bờ vách tuyết này và xúc tuyết để mở một lối đi xuống nhà kho nơi mà lũ bò và ngựa vẫn yên lành, ấm áp trong ngăn chuồng của mình. Ngày trong trẻo và bừng sáng. Laura và Mary đứng trên mấy chiếc ghế bên cửa sổ nhìn qua lớp tuyết rực rỡ trên những cội cây lấp lánh. Tuyết chồng chất trên những nhánh cây đen đúa, trơ trụi và chói loá dưới ánh nắng. Những trụ băng treo từ mái hiên nhà tới các ụ tuyết, những trụ băng cực lớn với các đỉnh trụ ngang vòng tay Laura. Những trụ băng giống như thuỷ tinh và chứa đầy những tia sáng chói chang. Hơi thở của bố gom lại lửng lơ trên không như những đợt khói khi bố đi từ nhà kho trở lại. Bố thở ra thành những lọn mây rồi đặc lại, thành sương mù trắng đục trên râu và ria mép bố. Bố bước vào nhà, rũ tuyết trên ủng rồi nhấc Laura lên ôm chặt áp vào chiếc áo choàng lạnh toát và bộ ria của bố thành một xâu chuỗi hạt sương đang tan nhỏ xuống. Mỗi đêm, bố đều bận rộng với một mảnh ván lớn và hai mảnh ván nhỏ. Bố dùng dao chuốt sạch ván rồi đánh bóng bằng giấy nhám cho tới khi Laura cảm thấy chúng mịn nhẵn như lụa. Lúc này, bố lấy mũi dao găm khắc trên các cạnh của mảnh ván lớn những chiếc tháp và đỉnh nhọn nhỏ với một ngôi sao lớn ngay trên điểm đỉnh cao nhất. Bố khoét thủng gỗ thành nhiều lỗ nhỏ khác thành các hình cửa sổ, hình ngôi sao, hình trăng lưỡi liềm và các vòng trong xung quanh, bố khắc những chiếc lá li ti, những bông hoa và những bầy chim. Bố biến một mảnh ván nhỏ thành những hình đường tròn thật dễ thương và xung quanh bố cũng khắc lá, hoa, ngôi sao rồi bố đục thủng thành một mặt trăng lưỡi liềm và những đường xoắn cong. Quanh mảnh ván nhỏ nhất, bố khắc hình một dây nho đang trổ bông. Bố xẻ những đường nhỏ như tơ, khắc hết sức chậm và cẩn thận tạo ra bất kì hình gì mà bố nghĩ là xinh đẹp. Cuối cùng, bố khắc xong mấy mảnh ván và một đêm, bố ghép chúng lại với nhau. Lúc này, mảnh ván lớn là cái nền khắc rất đẹp cho một đường gờ chạy qua chính giữa nó. Ngôi sao lớn nằm ngay trên đỉnh. Mảnh cán cắt thành đường tròn đỡ phía dưới đường gờ và cũng được khắc hình rất đẹp. Và, dây nho nhỏ chạy quanh mép đường gờ. Bố làm chiếc giá này để làm quà Giáng Sinh tặng cho mẹ. Bố treo nó sát vào vách giữa các ô cửa sổ và mẹ đặt bức tượng người đàn bà bằng sứ trên đường gờ. Người đàn bà bằng sứ có một chiếc mũ bằng sứ và những lọn tóc bằng sứ áp quang chiếc cổ bằng sứ. Chiếc áo bằng sứ bằng quanh phía trước và thêm chiếc tạp dề bằng sứ màu hồng nhạt cùng với đôi giày nhỏ bằng sứ mạ vàng. Trên đường gờ với hoa, lá, chim, trăng khắc ở xung quang và ngôi sao lớn trên đỉnh đầu, người đàn bà sứ càng đẹp hơn. Mẹ cũng bận bịu suốt một ngày dài lo nấu những món ăn ngon cho ngày lễ Giáng Sinh. Mẹ nướng bánh mì, bánh bột lúa mạch, bánh qui Thuỵ Điển và một chảo lớn đậu bỏ lò với thịt heo ướp muối, mật mía. Mẹ cũng nướng bánh nhân ngọt, bánh táo khô và một thùng bánh qui, rồi mẹ cho Laura và Mary liếm chiếc muỗng bánh ngọt. Một buổi sáng, mẹ trộn chung đường với mật mía nấu sôi cho tới khi thành một chất nước ngọt sền sệt và bố mang từ ngoài vào hai xoong đầy tuyết trắng sạch bong. Laura và Mary được chia mỗi cô một xoong, rồi bố và mẹ chỉ cho biết cách đổ thứ nước ngọt sền sệt đậm màu kia như thế nào để có những dòng suối nhỏ trên tuyết. Các cô làm những vòng tròn, những đường xoắn, những vật cong queo và những thứ này đông cứng tức khắc, biến thành kẹo. Laura và Mary có thể ăn mỗi thứ một miếng nhưng số còn lại được để dành cho ngày lễ Giáng Sinh. Tất cả những thứ đó được làm vì cô Eliza và chú Peter cùng đám nhỏ anh chị em họ Peter, Alice và Ella sẽ tới dự lễ giáng sinh ở đây. Ngày trước lễ Giáng Sinh, mọi người tới. Laura và Mary nghe tiếng chuông xe ngựa khua rộn rã mỗi lúc một lớn hơn rồi một cỗ xe trượt tuyết lớn ra khỏi khu rừng tiến vào cổng. Trên xe là cô Elize, chú Peter, đám trẻ anh em họ, tất cả đều trùm kín dưới những tấm chăn, những chiếc áo dài và những mảnh da bò. Họ còn quấn thêm nhiều lớp áo choàng, khăn quấn, mạng che mặt, khăn san đến nỗi giống như những bó lớn không mang hình dạng gì. Khi họ bước vào, ngôi nhà nhỏ chật cứng những người lăng xăng lui tới. Black Susan trốn biệt xuống nhà kho còn Jack chạy vòng vòng trên tuyết sủa inh ỏi tự hồ không bao giờ ngừng lại. Nhưng các cô bé đã có đám trẻ anh em họ làm bạn chơi. Ngay khi cô Eliza cởi bớt quần áo cho bọn trẻ thì Peter, Alice, Ella cùng Laura, Mary bắt đầu chạy nhảy, la hét. Cuối cùng, cô Elize bảo tất cả im lặng. Rồi Alice nói: - Tớ sẽ chỉ cho các bồ chơi trò gì. Tụi mình hãy vẽ hình. Alice bảo phải ra ngoài trời mới làm được và mẹ nghĩ ngoài trời quá lạnh với Laura. Nhưng khi nhận ra vẻ thất vọng của Laure, mẹ bảo cô bé có thể ra chơi một lúc thôi. Mẹ chất lên người Laura đủ thứ áo choàng, găng tay, mũ trùm đầu, khăn quấn cổ rồi mới cho cô đi ra. Chưa bao giờ Laura thích thú như thế. Trọn buổi sáng, cô chơi giữa trời tuyết cùng với Alice, Ella, Peter và Mary mải miết vẽ hình. Cách vẽ hình như thế này: Mỗi người tự leo lên một khúc gốc cây, dang rộng hai cánh tay, buông mình ngã từ khúc cây xuống lớp tuyết dày xốp. Phải giữ thẳng người khi ngã và ngã úp mặt xuống. Sau đó phải cố đứng lên mà không làm hư những đường nét đã in trong tuyết. Nếu làm được hoàn hảo là đã có trên tuyết những cái hố mang hình thù giống hệt các cô cậu gồm đủ cả khuôn mặt, thân hình, tay, chân. Các cô cậu gọi đó là hình của mình. Các cô cậu say mê chơi suốt ngày và bị kích động tới mức không ngủ nổi vào buổi tối. Nhưng các cô cậu phải ngủ để ông già Noel còn tìm đến. Vậy là tất cả treo những chiếc vớ dài của mình bên lò sưởi, đọc lời cầu nguyện rồi lên giường. Alice, Ella, Mary và Laura nằm trên một chiếc giường lớn đặt trên nền nhà. Peter có chiếc giường gắn bánh lăn. Cô Elize và chú Peter ngủ trên giường lớn còn một chiếc giường khác trên gác mái dành cho bố và mẹ. Tất cả chăn nệm và da bò trên xe trượt tuyết của chú Peter đã được chuyển vào để có đủ đồ đắp cho mọi người. Bố mẹ cùng cô Eliza, chú Peter ngồi bên lò sưởi trò chuyện. Và, đúng lúc sắp trôi vào giấc ngủ, Laura bỗng nghe chú Peter nói: - Hôm tôi lên thành phố Lake, Eliza đã thoát một đại nạn chỉ trong gang tấc. Anh chị có biết con chó lớn của tôi, Prince, không? Laura tỉnh táo tức khắc. Cô luôn thích nghe kể về những con chó. Cô nằm im lìm như một con chuột, ngó ánh lửa lay động trên vách ván và lắng nghe chú Peter. Chú Peter kể: - Sáng hôm đó, Eliza xuống suối lấy nước và Prince đi theo. Vừa tới mép trũng đất có con đường dốc dẫn xuống suối thì Prince thình lình táp vào vạt áo sau của cô ấy, lôi lại. Anh chị đã biết con chó ấy lớn cỡ nào mà, Eliza nạt nó nhưng nó không nhả ra và vì nó to và khoẻ như thế nên cô ấy cũng không thể bứt khỏi nó. Nó vừa lôi vừa bước lui cho tới khi xé toạt một miếng áo của cô ấy. Cô Eliza nói với mẹ: - Chiếc áo vải hoa màu xanh của tôi đó. Mẹ nói: - Rõ thật khổ! Cô Eliza kể: - Nó xé toạt một miếng lớn ngay vạt áo sau. Tôi giận điên lên muốn đập nó. Nhưng nó gầm gừ với tôi. Bố lên tiếng: - Prince gầm gừ với cô? Cô Eliza đáp: - Dạ! Chú Peter nói tiếp: - Lúc đó cô ấy lại tính tiếp tục xuống suối. Nhưng Prince chồm ra giữa đường chặn trước cô ấy, gầm gừ và nhe răng ra. Nó bất chấp cô ấy nói gì, nạt nộ ra sao, tiếp tục nhe răng và gầm gừ. Khi cô ấy cố lách qua nó thì nó xấn thẳng tới và táp. Việc như thế khiến cô ấy kinh hoảng. Mẹ nói: - Tôi nghĩ là nó có điều gì! Cô Eliza bảo: - Nó dữ tợn hết sức. Tôi nghĩ là nó sẽ cắn tôi. Tôi tin nó sẽ làm như thế. Mẹ nói: - Tôi chưa hề nghe thấy một điều như vậy bao giờ! Rồi cô làm gì? Cô Eliza đáp: - Tôi lập tức quay lại, chạy về, vào nhà cùng lũ trẻ và đóng cửa lại. Chú Peter nói: - Prince thường rất dữ với người lạ. Nhưng với Eliza và lũ trẻ thì nó luôn hiền lành khiến tôi hoàn toàn yên tâm để nó ở bên cạnh mọi người. Eliza không thể hiểu nổi nó như vậy. Sau khi cô ấy vào nhà thì nó đảo quanh và gầm gừ. Mỗi khi cô ấy mở cửa thì nó nhảy chồm tới nhe răng ra. Mẹ nói: - Nó điên chắc? Cô Eliza nói: - Tôi đã nghĩ vậy. Tôi không biết phải làm gì. Tôi ở đó, nhốt mình trong nhà cùng lũ trẻ và không dám bước ra. Nhà không còn một giọt nước. Tôi cũng không thể ra gom tuyết vào để chờ tan. Mỗi lần tôi mở cửa, dù chỉ hơi hé một kẽ hở thôi là Prince làm như nó sẽ xé tôi ra thành nhiều mảnh. Bố hỏi: - Chuyện như thế kéo dài bao lâu? Cô Eliza đáp: - Suốt một ngày cho tới gần hết buổi chiều. Peter đã mang súng theo, nếu không, chắc tôi đã bắn nó rồi. Chú Peter nói: - Tới cuối buổi chiều thì nó điềm tĩnh nằm xuống ngay trước cửa. Eliza cho rằng nó ngủ say nên nảy ra ý nghĩ khẽ lách qua nó để xuống suối lấy nước. Thế là cô ấy mở cửa thật nhẹ, nhưng nó vẫn tỉnh táo canh chừng. Khi thấy cô ấy cầm chiếc thùng trong tay, nó đứng ngay dậy, bước lên trước dẫn đường ra suối như thường lệ. Tại đó, quanh đám tuyết bên suối in đầy vết chân báo còn mới tinh. Cô Eliza nói: - Những vết chân lớn ngang với bàn tay của tôi. Cú Peter nói: - Đúng là một chàng báo rất lớn. Tôi chưa từng thấy những dấu chân báo nào to như thế. Chắc chắn nó đã vồ Eliza nếu Prince để cho cô ấy xuống suối vào buổi sáng. Tôi kiếm dấu của nó và thấy nó nằm rình trong một cây xồi lớn bên suối để chờ một con vật nào đó tới uống nước. Hiển nhiên là nó sẽ vồ chụp ngay cô ấy. Khi thấy dấu vết con báo, cô ấy vội vã xách nước về nhà vì trời cũng đang tối. Prince đeo sát bên hông cô ấy, thỉnh thoảng lại ngó về trũng sâu phía sau. Cô Eliza nói: - Tôi đưa nó vào nhà cùng với tôi và tất cả đều ngồi yên ở trong nhà cho tới khi Peter trở về. Bố hỏi chú Peter: - Có kiếm thấy con báo không? Chú Peter đáp: - Không, tôi xách súng lùng khắp xung quanh nhưng không thấy nó đâu. Chỉ có một vài dấu vết cho thấy nó đã đi về phía bắc, chuyển xa hơn vào khu Big Woods. Alice, Ella, Mary lúc này đều thức giấc và Laura chúi đầu vào trong chăn thì thầm với Alice: - Trời, chị có sợ không? Alice thì thầm là rất sợ, nhưng bảo Ella còn kinh hoảng hơn nữa. Và, Ella thì thầm rằng cô chưa từng gặp phải một chuyện nào khủng khiếp như thế. Alice thì thầm: - Thôi, ồn ào mãi chỉ tổ khát khô cổ thôi. Nhưng các cô vẫn nằm rì rầm cho tới khi mẹ nói: - Charles, lũ trẻ khó ngủ nổi nếu anh không chơi đàn cho chúng nghe. Vậy là bố hạ cây đàn xuống. Căn phòng yên tĩnh, ấm áp và đầy ánh lửa. Bóng của mẹ, của cô Eliza, của chú Peter in lớn trên vách lay động theo ánh lửa chập chờn và tiếng đàn của bố rộn rã vui tươi. Tiếng đàn diễn tấu bài hương vị đồng tiền, bài con bò cái đỏ rực, bài giấc mơ của quỉ, bài du khách Arkansas. Và Laura chìm vào giấc ngủ trong khi bố vừa đàn vừa hát nho nhỏ: Xa thật rồi, Nelly Gray yêu dấu Em đã đi thăm thẳm cuối chân trời Đường muôn lối biết tìm đâu thấy Không bao giờ còn gặp lại, em ơi! Buổi sáng, lũ trẻ gần như thức dậy cùng một lúc. Tất cả đều nhìn ngay vào chiếc vớ dài của mình và thấy có một thứ gì đó ở bên trong. Ông già Noel đã tới viếng. Alice, Ella, Laura trong những chiếc áo dài ngủ màu đỏ cùng Peter cũng trong chiếc áo ngủ màu đỏ đều chạy quanh la hét chờ coi ông già Noel đã mang tới thứ gì. Trong mỗi chiếc với đều có một đôi găng tay màu đỏ tưởi và một thỏi kẹo bạc hà dài kẻ sọc đỏ-trắng được khắc dấu rất đẹp dọc hai bên. Tất cả đều sung sướng tới nỗi không nói thành lời. Những cặp mắt sáng rỡ nhìn chăm chăm những món quà Giáng Sinh dễ thương. Nhưng Laura sung sướng hơn hết thảy, Laura còn có một con búp bê bằng vải quấn. Đúng là một con búp bê tuyệt đẹp. Nó có khuông mặt bằng vải trắng tinh với cặp mắt đen bằng nút áo. Lông mày của nó được kẻ bằng chỉ đen còn đôi má và môi đỏ màu phẩm lấy từ mật dâu. Mái tóc là những sợi len đen kết rất chặt và làm rối để có những lọn dài. Nó có một đôi vớ dài bằng nỉ đỏ, đôi ủng nhỏ bằng vải đen và chiếc áo bằng vải hoa hồng, xanh. Con búp bê đẹp đến nỗi Laura không nói nổi một lời nào. Cô chỉ ôm ghì nó và quên hết mọi thứ khác. Cô cũng không biết mọi người đang ngắm mình cho tới khi cô Eliza lên tiếng: - Có ai nhìn thấy một cặp mắt tròn to như thế kia bao giờ chưa! Các cô bé khác không ganh tị việc Laura đã có găng tay, có kẹo mà còn có thêm một con búp bê vì Laura là cô gái nhỏ nhất, không kể bé Carrie và bé Dolly Varden của cô Eliza. Các em bé này còn quá nhỏ chưa thể biết búp bê là gì. Các em cũng còn quá nhỏ để có thể nghĩ về ông già Noel. Tất cả hứng thú của các em chỉ là đưa mấy ngón tay vào miệng và trườn bò. Laura ngồi trên mép giường, ôm cứng con búp bê. Cô thích đôi găng tay đỏ, thích cả thỏi kẹo, nhưng thích con búp bê hơn hết. Cô đặt nó là Charlotte. Rồi tất cả ngắm găng tay của nhau, thử mang găng tay của mình và Peter cắn một miếng lớn trên cây kẹo, nhưng Alice, Ella, Mary, Laura chỉ liếm nhẹ nhẹ cây kẹo để kéo dài thời gian hơn. Chú Peter lên tiếng: - Được, được! Không có chiếc vớ nào chỉ có một cây roi thôi à? Vậy là tất cả các con đều ngoan thật sao? Không có cô cậu nào tin rằng ông già Noel lại không cho mình thứ gì, ngoại trừ cây roi. Điều này sẽ xảy ra với những đứa trẻ nào đó chứ không thể xảy ra với họ. Nhưng thật không dễ luôn ngoan ngoãn mọi lúc, mọi ngày trọn vẹn một năm ròng. Cô Eliza nói: - Không nên chọc phá lũ nhỏ, Peter! Mẹ nói: - Laura, con sẽ cho các chị bồng búp bê của con chứ? Câu nói của mẹ hàm ý là “các cô bé không được ích kỉ”. Vậy là Laura đưa con búp bê xinh đẹp cho Mary bồng, rồi tới Alice và tiếp theo là Ella. Các cô vuốt nhẹ chiếc áo xinh đỏ, những chiếc ủng và mái tóc bằng sợi len uốn cong. Cuối cùng Laura rất mừng do Charlotte đã trở lại an toàn trong vòng tay của cô. Bố và chú Peter mỗi người có một đôi găng tay đan hình các ô vuông nhỏ đỏ và trắng. Mẹ và cô Eliza đã đan những đôi găng tay này. Cô Eliza mang tới cho mẹ một trái táo lớn màu đỏ gắn đầy đinh hương và hành tỏi. Trái táo thơm ngát. Và nó rất lâu hư do được đinh hương và những tép hành tỏi giữ cho tươi và ngọt mãi. Mẹ tặng cô Eliza một tập sách nhỏ làm bằng lụa và những mảnh nỉ trắng mêm để gài kim khâu vào đó. Nỉ sẽ giữ cho kim không bị han rỉ. Mọi người đều ngắm chiếc giá hấp dẫn của mẹ và cô Eliza nói chú Peter cũng làm một chiếc giá tặng cô, nhưng đương nhiên, có hoa văn khác hẳn. Ông già Noel không cho người lớn một thứ gì, nhưng không phải do người lớn không tốt. Bố và mẹ rõ ràng đều rất tốt. Chỉ đơn giản là họ đã lớn và người lớn phải tặng quà cho nhau. Một lát sau, mỗi quà tặng đều phải cất đi. Peter theo bố và chú Peter đi làm một số công việc còn Alice, Ella giúp cô Eliza dọn dẹp các giường ngủ, Laura cùng Mary bày bàn ăn trong khi mẹ lo bữa ăn sáng. Bữa ăn sáng có bánh xếp và mẹ làm cho mỗi cô cậu bé một chiếc bánh xếp có hình người. Mẹ gọi từng người mang đĩa tới, đứng sát lò bếp và ngắm, trong lúc mẹ với chiếc muỗng đầy bột ngào sữa, trứng đổ thành những cánh tay, những ống chân và chiếc đầu. Thật thích thú được xem mẹ đổ thành một hình người đầy đủ trong vòng kẹp nóng hổi cực nhanh và cũng rất tỉ mỉ. Xong, mẹ đặt chiếc bánh còn bốc khói vào đĩa. Peter ngắt ăn phần chiếc đầu trước hết. Nhưng Alice, Ella, Mary và Laura ăn thật chậm từng miếng nhỏ, khởi từ những cánh tay, những ống chân, rồi thân hình và cuối cùng là chiếc đầu. Thời tiết quá lạnh không thể chơi ở ngoài trời nổi những đã có những chiếc găng tay mới để ngắm và những thỏi kẹo để liếm láp. Và, tất cả ngồi gom trên nền nhà xem những bức hình trong tập Kinh thánh cùng hình đủ loại chim muông, thú vật trong cuốn sách lớn bìa xanh lá cây của bố. Suốt thời gian đó, Laura luôn ôm Charlotte trong tay. Rồi tới bữa ăn mừng Giáng Sinh, Alice, Ella, Peter, Mary, Laura đều ngồi im trên bàn ăn vì biết trẻ nhỏ luôn bị xét nét và không được nghe theo. Nhưng các cô cậu không thấy cần phải lên tiếng yêu cầu giúp đỡ bao giờ. Mẹ và cô Eliza vẫn giữ cho đĩa của tất cả luôn đầy những món ăn ngon lành theo sở thích. Cô Eliza nói: - Giáng Sinh mỗi năm chỉ có một lần thôi. Bữa ăn xong sớm vì cô Eliza, chú Peter và đám trẻ anh chị em họ còn phải vượt một khoảng đường dài để trở về. Chú Peter nói: - Lũ ngựa có ráng chạy hết sức thì tụi tôi cũng khó tới nhà trước khi trời tối. Thế là ngay sau bữa ăn, chú Peter và bố lo cột ngựa vào xe trong lúc mẹ và cô Eliza mặc đồ ấm cho đám trẻ anh chị em họ. Tất cả đều mang thêm một lớp vớ len dài choàng ngoài lớp vớ len và giày đã mang. Rồi tới những đôi găng tay, những chiếc áo khoác, những chiếc mũ trùm, những chiếc khăn san, những chiếc khăn quấn cổ và những san che mặt bằng len dầy. Mẹ giúi vào túi tất cả những củ khoai tây nướng còn nóng hổi để giữ ấm ngón tay, và những chiếc bàn ủi của cô Eliza được hấp nóng trên lò đã sẵn sàng đặt dưới chân của tất cả trên cỗ xe trượt tuyết. Những tấm chắn, những tấm phủ giường và những tấm áo choàng bằng da bò cũng giúp làm ấm thêm. Như thế, tất cả đều thoải mái và ấm áp trên cỗ xe trượt tuyết lớn, khi bố phủ quang họ thêm chiếc áo choàng cuối cùng. - Tạm biệt! Tạm biệt! Tất cả đều nói và ra đi trong tiếng vó ngựa khua rộn rã và tiếng chuông xe vang lên. Chỉ một lát sau, tiếng chuông reo vui xa dần rồi mất hẳn và thế là lễ Giáng Sinh đã qua. Nhưng thật đúng là một lễ Giáng Sinh hạnh phúc. Chương 5: Những Ngày Chủ Nhật Mùa đông hình như dài lê thê, Laura và Mary bắt đầu thấy mệt vì luôn luôn phải ngồi trong nhà. Đặc biệt là vào những ngày chủ nhật, thời gian nhích đi vô cùng chậm chạp. Mỗi ngày chủ nhật, Mary và Laura đều mặc những bộ đồ đẹp nhất với những dải băng tươi tắn trên mái tóc. Các cô đều sạch sẽ vì đã tắm rửa vào đêm thứ bảy. Mùa hè, các cô tắm nước suối, nhưng về mùa đông, bố đổ đầy tuyết sạch vào bồn tắm, đặt lên lò cho chảy tan thành nước. Rồi ngay sát bên lò, sau tấm chăn căng trên hai chiếc ghế, mẹ tắm cho Laura, tiếp theo là tắm cho Mary. Laura được tắm trước nhất vì cô bé hơn Mary. Cô phải lên giường sớm vào đêm thứ bảy cùng với Charlotte bởi sau khi cô tắm rửa và thay áo ngủ xong, bố mới tiếp tục gom tuyết tan cho Mary tắm. Mary lên giường rồi mới tới phiên mẹ tắm và sau hết là bố. Thế là cả nhà đều sạch sẽ đón ngày chủ nhật. Trong ngày chủ nhật, Mary và Laura không được chạy nhảy, la hét hay chơi đùa ầm ĩ. Mary còn không được khâu vá tấm chăn và Laura không được móc đan đôi găng bé xíu mà cô làm cho bé Carrie. Các cô được phép lặng lẽ ngắm những con búp bê giấy nhưng không được làm thêm bất kì điều gì. Các cô không được đính lên váy áo búp bê dù chỉ là những chiếc kẹp. Các cô phải ngồi im lắng nghe mẹ đọc những câu chuyện trong Thánh kinh hoặc những câu chuyện về sư tử, hổ, báo, gấu trắng trong cuốn sách bìa xanh lá cây của bố, cuốn Những điều kì lạ trong thế giới loài vật. Các cô có thể được xem các hình ảnh, ẵm những con búp bê quấn bằng vải và trò chuyện với chúng. Tất cả chỉ có thế, ngoài ra các cô không được làm điều gì khác. Laura rất thích xem hình ảnh trong cuốn Kinh thánh lớn có bìa bao. Cô thích nhất bức hình Adam đặt tên cho các con vật. Adam ngồi trên một tảng đá, xung quanh là hoang thú, chim chóc, lớn nhỏ đủ cỡ, xúm xít chờ đợi với vẻ lo âu xem mình được xếp vào loại nào. Adam tỏ ra rất nhàn nhã. Ông không hề lo âu về việc phải mặc quần áo sạch sẽ vì ông không có quần áo. Ông chỉ có duy nhất một mảnh da quấn quanh giữa thân hình. Laura hỏi mẹ: - Ông Adam có quần áo đẹp để mặc vào ngày chủ nhật không? Mẹ nói: - Không! Adam tội nghiệp lắm, ông ấy chỉ có mảnh da thôi. Laura không tội nghiệp cho ông Adam. Cô ước ao cô cũng chỉ có những mảnh da để mặc. Một ngày chủ nhật, sau bữa ăn tối cô không thể chịu đựng thêm nữa. Cô bắt đầu chơi với Jack và chỉ mấy phút sau, cô đã chạy và la hét. Bố bảo cô ngồi xuống ghế và im lặng, nhưng khi ngồi xuống ghế, Laura oà khóc và đập lia gót chân lên ghế. Cô la lên: - Con ghét ngày chủ nhật! Bố đặt cuốn sách xuống, nghiêm giọng: - Laura, lại đây! Cô đi lết bàn chân đến vì biết chắc mình đáng bị phát vào mông. Nhưng khi cô tới gần, bố rầu rầu nhìn cô một lát rồi nhấc cô lên đầu gối, ôm sát cô vào người. Bố vòng cánh tay kia ôm Mary và nói: - Bố sẽ kể cho các con nghe một câu chuyện về ông nội khi ông nội còn bé. Chuyện Về Chiếc Xe Trượt Tuyết Của Ông Nội Và Con Heo “Laura này, khi ông nội còn là một cậu bé, ngày chủ nhật không bắt đầu vào sáng chủ nhật như hiện nay. Nó bắt đầu lúc mặt trời lặn tối thứ bảy. Lúc đó, hết thảy đều phải ngưng mọi công việc cũng như trò chơi. “Bữa ăn tối rất trang nghiêm. Sau bữa ăn, ông cố đọc lớn một đoạn Kinh thánh trong khi mọi người ngồi thẳng người, im lìm trên ghế. Rồi mọi người quì xuống và ông cố cầu nguyện thật dài. Khi ông cố nói “Amen”, tất cả đứng lên và mỗi người cầm một cây nến đi về giường. Tất cả phải đi thẳng ngay tới giường, không được đùa giỡn, cười hoặc nói chuyện. “Sáng chủ nhật, bữa điểm tâm chỉ có các món ăn nguội vì không được nấu nướng gì trong ngày chủ nhật. Sau đó, tất cả mặc đồ thật đẹp và đi bộ đến nhà thờ. Mọi người phải đi bộ vì cột ngựa vào xe là một công việc và ngày chủ nhật không được làm bất cứ việc gì. “Tất cả phải bước chậm, nghiêm trang, mắt nhìn thẳng về phía trước. Không ai được nô giỡn, cười nói, ngay cả chỉ mỉm cười. Ông nội và hai người anh đi trước còn ông cố và bà cố đi ngay sau họ. “Tại nhà thờ, ông nội và các anh phải ngồi bất động hoàn toàn suốt hai giờ liền, chú tâm lắng nghe bài thuyết giảng. Không ai dám nhúc nhích trên chiếc ghế gỗ dài. Không dám đu đưa bàn chân. Không dám quay đầu nhìn ra cửa sổ hay nhìn lên vách, lên trần nhà thờ. Họ phải ngồi hoàn toàn bất động và không lúc nào rời mắt khỏi vị tu sĩ. “Buỗi lễ chấm dứt, họ từ từ thả bộ trở về. Trên đường về, họ được chuyện trò những phải nói nhỏ và không được cười cợt, kể cả mỉm cười. Tại nhà, nữa ăn vẫn chỉ có những món nấu từ hôm trước. Rồi, trọn buổi chiều dài dặc, họ phải ngồi ngay hàng trên một chiếc ghế dài học giáo lí cho tới khi mặt trời lặn và ngày chủ nhật qua đi. “Thuở đó, nhà ông nội ở lưng chừng một sườn đồi dốc đứng. Đường từ đỉnh đồi xuống chân đồi chạy qua ngay trước cửa và rất dễ tưởng tượng ra đó là nơi tốt nhất để chơi trò trượt xuống đồi vào mùa đông. “Một tuần lễ, ông nội và hai người anh, James và George, đóng một cỗ xe trượt tuyết mới. Họ dành từng phút rảnh rang để đóng xe. Đó là cỗ xe trượt tốt nhất mà họ làm được và nó dài đủ cho cả ba anh em cùng ngồi một lúc thành một hàng dọc. Họ dự trù hoàn tất công việc để trượt xuống đồi vào buổi chiều thứ bảy. Vì, mỗi chiều thứ bảy, họ đều có khoảng hai tới ba giờ để chơi. “Nhưng tuần lễ đó, ông cố lại đốn cây trong rừng Big Woods. Công việc nặng nhọc nên ông cố phải giữ các côn lại cùng làm. Từ sáng sớm, họ đã phải làm đủ thứ việc nhà dưới ánh đèn và khi mặt trời vừa lên lại phải vào rừng. Họ làm cho tới lúc sẩm tối thì lại có những việc nhà khác cần phải lo và sau bữa ăn tối, tất cả đều phải lên giường để có thể thức dậy sớm vào sáng hôm sau. “Không còn thời giờ kịp đóng xong cỗ xe trượt cho tới chiều thứ bảy. Bữa đó, họ ráng sức làm thật nhanh, nhưng khi đóng xong cỗ xe thì mặt trời lặn và đã là đêm thứ bảy. “Sau khi mặt trời lặn, họ không thể trượt xuống đồi, dù chỉ một lần. Điều đó sẽ làm hỏng ngày lễ chủ nhật. Vậy là họ đành phải cất cỗ xe vào lán sau chờ cho ngày chủ nhật qua. “Hôm sau, tại nhà thờ, suốt hai giờ dài dặc, trong khi giữ cho bàn chân bất động, mắt không rời khỏi vị tu sĩ, họ vẫn nghĩ về cỗ xe trượt tuyết. Khi về nhà, trong bữa ăn, họ cũng không thể nghĩ tới một điều gì khác. Sau bữa ăn, ông cố ngồi xuống đọc Kinh thánh nên ông nội cùng hai người anh, James và George lại bất động như bầy chuột trên chiếc ghế dài để nghe giáo lí. Tuy nhiên, tất cả vẫn tiếp tục nghĩ về chiếc xe trượt tuyết. “Ánh mặt trời rực sáng và khi liếc qua cửa sổ, họ thấy tuyết mượt mà lấp lánh trên đường. Đúng là một ngày lí tưởng để chơi trò trượt xuống đồi. Tất cả nhìn vào bản giáo lí nhưng chỉ nghĩ về cỗ xe trượt tuyết mới đóng xong và ngày chủ nhật dường như dài vô tận. “Một hồi sau, họ chợt nghe tiếng ngáy. Họ nhìn lên và thấy ông cố ngả đầu vào lưng ghế đang ngủ thiếp đi. “Thế là James nhìn George rồi đứng lên nhón gót lòn qua sau lưng ghế ra khỏi phòng. George nhìn ông cố rồi nhón gót theo James. Và ông nội hết sức kinh hãi nhưng cũng nhón gót bước theo George để lại ông cố đang tiếp tục ngáy. “Cả ba lôi cỗ xe trượt mới ra, lặng lẽ leo lên đỉnh đồi. Họ dự tính trượt xuống chỉ một lần thôi. Sau đó, họ sẽ bỏ cỗ xe lén trở lại ngồi trên ghế học giáo lí trước khi ông cố tỉnh dậy. “James ngồi phía trước xe, kế là George rồi tới ông nội vì ông nhỏ nhất. Cỗ xe khởi trượt từ từ, rồi nhanh hơn, nhanh hơn. Cỗ xe lướt đi, bay xuống sườn dốc thăm thẳm nhưng họ không dám la hét. Họ phải trượt qua ngôi nhà thật êm ả để không làm ông cố thức dậy. “Không có một tiếng động nào ngoài tiếng vù vù của cỗ xe lao trên tuyết và tiếng gió rít qua. “Đúng lúc cỗ xe đang lao sát tới ngôi nhà, một con heo lớn đột ngột từ rừng cây chạy ra. Nó đi tới giữa đừng và đứng khựng lại. “Cỗ xe đang lao xuống cực nhanh nên không thể dừng lại và cũng không còn kịp tránh, vùn vụt đâm thẳng vào con heo và xúc nó lên luôn. Sau một tiếng hét, nó đã ngồi gọn trên người James và tiếp tục la inh ỏi cho tới nhức óc: - Eeec-ec! Eeec-eec! Eec-eeeec! “Cả ba lướt sát ngôi nhà với con heo ngồi phía trước, rồi tới James, tới George, tới ông nội và tất cả đều thấy rõ ông cố đang đứng trước cửa nhìn họ. Họ không thể ngưng, không thể trốn tránh và cũng không thời giờ kịp nói lời nào. Cỗ xe trượt thẳng xuống chân đồi với con heo ngồi phía trước James tiếp tục la không dứt. “tới chân đồi, cỗ xe dừng lại. Con heo nhảy khỏi người James, chạy thẳng vào rừng và tiếp tục la. “Cả ba chậm chạp bước lên đồi một cách nghiêm trọng, sau khi bỏ cỗ xe lại. Họ len lén vào nhà, lặng lẽ rón rén tới ngồi xuống chiếc ghế dài. Ông cố đang đọc Kinh thánh, ngẩng lên nhìn họ, không nói một lời. “Rồi họ cùng đọc kinh và học giáo lí. “Nhưng, khi mặt trời lặn hẳn và ngày chủ nhật qua rồi, ông cố đưa tất cả ra lán gỗ và quật nhừ tử từng người một, trước hết là James, sau đó là George và cuối cùng là ông nội.” Bố nói: - Các con thấy đó, Laura và Mary, không dễ trở thành ngoan ngoãn, nhưng các con nên mừng là lúc này không còn nhiều khó khắn như khi ông nội còn bé. - Con gái có phải gặp khó khăn như thế không? Laura hỏi và mẹ nói: - Các cô bé còn gặp khó khăn hơn nữa. Vì không chỉ trong ngày chủ nhật mà bất kì lúc nào, các cô cũng phải xử sự như những tiểu thư quí phái. Các cô không bao giờ được trượt tuyết như con trai mà phải ngồi luôn trong nhà, liên tục thêu theo các mẫu thêu. Bố nói: - Thôi, bây giờ để mẹ đưa các con đi ngủ. Và, bố lấy cây đàn ra khỏi hộp. Laura và Mary nằm trên chiếc giường có bánh lăn và lắng nghe những điệu đàn dành cho ngày chủ nhật vì ngay cả cây đàn cũng không được trỗi lên những điệu ca thường ngày trong ngày chủ nhật. Bố hát theo tiếng đàn: Có đúng chăng thiên đường chờ ta tới Những chiếc giường êm ái phủ đầy hoa Còn những kẻ tranh giành hung dữ Đắm mình trong biển máu xót xa Laura bắt đầu trôi bồng bềnh xa theo tiếng nhạc rồi cô bỗng nghe tiếng va chạm lanh canh và thấy mẹ đang ngồi bên lò bếp chuẩn bị bữa ăn điểm tâm. Sáng thứ hai đã tới và ngày chủ nhật chỉ trở lại sau tuần nữa. Sáng hôm đó khi bước vào ăn điểm tâm, bố chụp lấy Laura và nói bố sẽ phải tặng cô bé một cái phát vào mông. Bố giải thích hôm đó là kỉ niệm sinh nhật của cô bé và cô sẽ không lớn nổi nếu bố không phát vào mông cô. Rồi bố phát khẽ, cố không làm cô đau. Bố vừa phát vừa đếm từ từ: - Một, hai, ba, bốn, năm, sáu. Mỗi cái phát dành cho một năm và cái phát cuối cùng kêu lớn hơn là để cho lớn hơn vào năm tới. Sau đó, bố tặng cô một hình người bằng gỗ do bố khắc gọt để Charlotte có bạn. Mẹ tặng cô năm chiếc bánh ngọt nhỏ, mỗi chiếc nhắc nhở một năm Laura được sống cùng bố mẹ. Mary tặng cô một chiếc áo mới cho Charlotte. Mary tự tay cắt khâu chiếc áo và Laura vẫn nghĩ là lúc đó cô đang khâu vá tấm chăn của cô. Tối bữa đó, để có không khí đặc biệt cho ngày sinh nhật, bố đàn tặng cô bài “Bốp! Con chồn biến mất!” Bố ngồi chơi đàn có Laura và Mary đứng sát bên đầu gối. Bố dặn: - Bây giờ, nhìn coi. Nhìn kĩ coi các con có thấy lúc con chồn nhảy ra cái bốp không? Rồi, bố hát: Một xu cho cuộn chỉ Xu khác cho cây kim Thế là tiền đi hết Laura và Mary cúi tới gần hơn, vì các cô biết đã tới lúc. Bốp! ( Ngón tay bố đập trên cây đàn ) Con chồn biến luôn! ( Cây đàn tấu rõ ràng ) Nhưng Laura và Mary đều không kịp nhìn thấy ngón tay bố bật sợi dây đàn thành tiếng “Bốp” Cả hai nài nỉ: - Ô, đàn lại đi, bố! Cặp mắt xanh của bố cười vui và tiếng đàn tiếp tục trong khi bố hát: Quanh chiếc ghế thợ mộc Con khỉ đuổi con chồn Nhà tu hôn bà vợ Bốp! Con chồn biến luôn! Các cô vẫn không thể bắt kịp lúc nào ngón tay bố bật dây, vì bố luôn bật nhanh hết sức. Thế là các cô đành cười thua, lên giường, nằm nghe bố và cây đàn hoà ca: Ông già ngây tên là chú Ned Giã biệt đời từ thuở xa xưa Đầu phơi trần không mảnh nón len thưa Trên vùng đất len chất đầy như núi Ngón tay ông dài như cây trong bụi Mắt mịt mờ nhìn ngó khó khăn Răng không còn nên chẳng được ăn Dù có bánh đành quăng lăn lóc Hãy cầm lên nào mai nào cuốc Để cây đàn, cây vĩ nằm đây Ông già Ned không cần tìm việc nữa Ông đã về đúng xứ ngưòi ngây. Chương 6: Hai Con Gấu Lớn Một bữa bố nói mùa xuân đang tới. Tuyết trong rừng Big Woods bắt đầu tan. Từ các tàn cây, những mảng tuyết trút xuống tạo thành những đống tuyết xốp mềm ở phía dưới. Buổi trưa, những trụ băng dọc mái hiên ngôi nhà nhỏ đều lay động lấp lánh dưới năng và những giọt nước rung rinh trên các đỉnh trụ. Bố nói bố phải ra tỉnh bán số da thú mà bố đã săn được suốt mùa đông. Vậy là một buổi tối bố buộc số da thành một bó lớn. Số da nhiều tới nỗi dù xếp kĩ và buộc thật chặt vẫn thành một bó lớn ngang với người bố. Một buổi sớm, bố cột bó da vào vai, đi bộ ra tỉnh. Số da quá nhiều nên bố không thể mang súng theo. Mẹ có vẻ lo lắng những bố nói đi từ trước lúc mặt trời mọc và đi nhanh suố ngày thì sẽ kịp về nhà trước khi trời tối. Thành phố gần nhất cũng ở cách khá xa. Laura và Mary chưa bao giờ thấy một thành phố. Các cô chưa bao giờ thấy một cửa hàng. Các cô còn chưa bao giờ thấy hai ngôi nhà đứng cạnh nhau. Nhưng các cô biết ở thành phố có rất nhiều nhà và một cửa hàng đầy ắp kẹo, vải và những thứ kì diệu khác - thuốc súng, đạn, muối và đường. Các cô biết bố đổi da thú cho người bán hàng để lấy những món đồ tuyệt đẹp ở thành phố và suốt ngày các cô chờ đợi những món quà mà bố sẽ mang về. Khi mặt trời xuống dưới các ngọn cây và không còn những giọt nước từ đỉnh các trụ băng lăn xuống, các cô bắt đầu nôn nao ngóng bố về. Mặt trời xuống khỏi tầm nhìn, rừng cây xẩm tối, bố vẫn chưa về. Mẹ bắt đầu lo bữa tối và bày bàn ăn mà bố vẫn chưa về. Đã tới giờ làm nhiều việc trong nhà nhưng vẫn chưa thấy bố. Mẹ bảo Laura đi cùng với mẹ ra vắt sữa bò. Laura có thể cầm đèn. Thế là Laura mặc áo khoác và mẹ cài nói cho. Rồi Laura thọc tay vào những chiếc găng màu đỏ buộc lủng lẳng trên sợi dây đỏ quấn quanh cổ cô trong lúc mẹ đốt cây nến trong lồng đèn. Laura tự hào vì được đi giúp mẹ vắt sữa và cô cầm đèn hết sức cẩn thận. Các cạnh đèn bằng thiếc đều được cắt hở cho ánh sáng từ trong dọi qua. Khi Laura bước theo mẹ đi ra nhà kho, ánh lửa nến từ trong đèn nhảy múa trên mặt tuyết xung quanh cô. Bóng đêm chưa dày đặc. Rừng cây sậm tối nhưng trên lối đi phủ tuyết còn một lớp sáng nhạt và trên trời đã lác đác xuất hiện vài ngôi sao. Những ngôi sao có vẻ còn lạnh lẽo và mờ nhạt hơn các tia sáng đèn. Laura ngạc nhiên nhận thấy trong bóng tối lờ mờ hình con bò cái màu hùng Sukey đang đứng bên cổng sân nhà kho. Mẹ cũng ngạc nhiên. Giờ này vào mùa xuân vẫn còn quá sớm để cho Sukey ra ăn cỏ ngoài rừng Big Woods. Nó ở trong nhà kho. Nhưng đôi khi vào những ngày ấm áp, bố để ngỏ cửa chuồng cho nó có thể ra ngoài sân. Bây giờ mẹ và Laura lại nhìn thấy nó đứng ngoài các gióng chắn đang chờ đợi. Mẹ bước tới cổng đẩy tới để mở cửa ra. Nhưng cổng không mở lớn được vì Sukey đang đứng chặn ở đó. Mẹ quát: - Sukey, tránh ra! Mẹ bước ngang cổng tới gần vỗ lên vai Sukey. Đúng lúc đó một tia sáng đèn dọi vào những gióng cổng và Laura nhìn thấy một bộ lông màu đen, xù xì, dài sọc và hai con mắt nhỏ loé sáng. Lông Sukey màu hung, ngắn và thưa hơn, con mắt Sukey tròn, hiền lành. Mẹ la: - Laura, vào nhà ngay! Thế là Laura quay phắt lại, chạy thẳng vào nhà. Mẹ chạy nối sau cô bé. Qua được một đoạn, mẹ chụp lấy Laura và cả cây đèn và chạy. Mẹ ôm Laura vào nhà, đóng sập cửa lại. Laura hỏi: - Gấu hả, mẹ? Mẹ đáp: - Ừ, Laura. Đúng là một con gấu. Laura bắt đầu khóc. Cô đeo dính mẹ nức nở: - Ô, nó sẽ ăn thịt Sukey không? Mẹ ôm chặt cô, nói: - Không đâu. Sukey sẽ an toàn trong nhà kho. Nghĩ coi này, Laura, vách nhà khi đều làm bằng những khúc cây lớn, nặng chịch. Cánh cửa cũng nặng và kiên cố dư sức chặn lũ gấu. Không, con gấu không thể vào nổi nhà kho để ăn thịt Sukey đâu. Laura đã cảm thấy khá hơn, nhưng cô lại hỏi: - Nhưng liệu nó có đụng được tới mình không? Mẹ nói: - Nó không đụng nổi tới mình đâu. Con gái ngoan của mẹ, Laura, hãy làm đúng như mẹ vẫn dặn, mau lên và không hỏi tại sao. Mẹ đang run nhưng mẹ lại khẽ bật cười: - Thử nghĩ coi, tôi vỗ vai một con gấu! Rồi mẹ dọn bữa ăn tối cho Laura và Mary. Bố chưa về. Vậy là bố không về kịp. Laura và Mary không thay quần áo. Các cô đọc lời cầu nguyện rồi chui lên chiếc giường có bánh lăn. Mẹ ngồi bên đèn vá một chiếc áo của bố. Ngôi nhà hình như lạnh lẽo, im lìm và khác hẳn khi không có bố. Laura lắng nghe tiếng gió ngoài rừng Big Woods. Khắp xung quanh nhà, gió đang than khóc tựa hồ bị lạc đường giữa đêm đen, giá buốt. Tiếng gió thật kinh khủng. Mẹ đã vá xong chiếc áo. Laura thấy mẹ gấp chiếc áo một cách chậm rãi và rất cẩn thận. Mẹ đưa bàn tay vuốt nhẹ chiếc áo. Rồi mẹ làm một việc mà từ trước chưa hề làm. Mẹ đi tới khung cửa, rút sợi dây kéo then bằng da vào phía trong ngôi nhà để không ai ở bên ngoài có thể vào nhà, nếu mẹ không mở cửa. Mẹ tới bồng Carrie đang ngủ rũ người ra khỏi chiếc giường lớn. Thấy Laura và Mary vẫn thức, mẹ nhắc: - Ngủ đi, các con gái. Mọi thứ đều ổn cả. Sáng mai bố sẽ có mặt ở nhà. Rồi mẹ đi tới chiếc ghế đu, ngồi lên đó đung đưa nhẹ nhẹ với bé Carrie trong vòng tay. Mẹ ngồi tới khuya chờ bố và Laura với Mary cũng nghĩ là các cô sẽ thức cho tới lúc bố về. Nhưng cuối cùng, các cô đều ngủ. Buổi sáng, bố đã ở đó. Bố mua kẹo cho Laura và Mary, mua hai miếng vải thật đẹp để may áo cho các cô. Vải của Mary in mẫu vẽ xanh nhạt trên nền trắng và của Laura màu đỏ xậm có điểm những chấm nhỏ nâu-vàng. Mẹ cũng có một miếng vải để may áo, vải của mẹ màu nâu với mẫu vẽ lớn màu trắng nhạt. Tất cả đều sung sướng vì bố bán da thú được giá cao đủ để mang về những món quà đẹp như thế. Dấu vết của con gấu lớn còn đầy quanh nhà kho và nó còn để lại cả vết móng chân trên vách. Nhưng Sukey và đám ngựa đều an toàn ở bên trong. Trong bữa đó nắng gắt làm tan tuyết và nhiều dòng suối nhỏ chảy trên các trụ băng từng lúc mỏng hơn. Trước khi mặt trời lặn, dấu vết con gấu không còn ra hình thù gì trên mặt tuyết ướt sũng. Sau bữa ăn tối, bố đặt Laura và Mary lên đùi và bảo bố có một câu chuyện mới để kể. Câu Chuyện Của Bố Và Con Gấu Trên Đường “Hôm qua, lúc lên tỉnh bán da, bố tìm lối đi trên tuyết rất khó. Bố tới trễ nên đã có nhiều người khác mang da tới bán sớm hơn. Người ở cửa hàng rất bận nên bố phải chờ lâu mới được họ coi hàng. “Rồi còn phải thoả thuận về giá cả từng món và sau đó bố lại phải chọn những món đồ cần mua. “Cho nên, trước khi bố lên đường trở về, mặt trời đã gần lặn. “Bố hối hả bước nhưng đường rất khó đi và bố lại mệt nên bố đi không được bao xa trước khi trời tối. Và bố phải mò mẫm một mình trong rừng Big Woods không có súng trên tay. “Tính ra còn phải đi sáu dặm nữa và bố ráng sức đi thật nhanh. Bóng đêm mỗi lúc một đen đặc hơn và bố mong có cây súng vì bố biết rằng một số gấu đã ra khỏi hang sau mùa đông. Buổi sáng, bố đã nhìn thấy dấu vết của chúng lúc lên tỉnh. “Vào thời điểm này trong năm, gấu rất đói, vì chúng đã ngủ trong hang trọn mùa đông dài không ăn uống gì nên gầy ốm và hung dữ khi thức dậy. Bố không muốn gặp một con gấu nào. “Bố hối hả ráng bước thật mau trong bóng tối. Không bao lâu có ánh sao le lói. Trong rừng rậm, trời tối đen như mực nhưng ngoài các khu trống, bố nhìn thấy lờ mờ. Bố nhận ra đoạn đường phủ tuyết phía trước và những bụi cây đen ngòm ở xung quanh. Bố rất mừng khi bước tới một vùng trống có ánh sáng sao lờ mờ. “Suốt thời gian đó, bố luôn căng mắt canh chừng lũ gấu. Bố lắng nghe những tiếng động mà chúng vẫn thường phát ra khi ào ạt băng qua các bụi cây. “Rồi bố lại tới một khoảng trống và ở đó, ngay giữa đường, bố thấy một con gấu đen lớn. “Nó đứng trên hai chân sau, nhìn bố. Bố nhìn thấy mắt nó toả sáng. Bố nhìn rõ cả chiếc mõm heo của nó. Dưới ánh sao, bố còn nhìn rõ một bàn tay của nó. “Bố như bị đập vào đầu, tóc dựng đứng lên hết. Bố ngừng lại đứng im. Con gấu không cử động. Nó đứng tại chỗ, nhìn bố. “Bố biết là không tốt gì nếu bọc đường khác để tránh nó. Nó sẽ theo bố vào khu rừng tối và ở đó nó có thể nhìn rõ hơn bố. Bố cũng không muốn đánh nhau với một con gấu đói mùa đông trong bóng tối. Ô, bố mong có cây súng biết chừng nào. “Bố phải vượt qua con gấu đó để trở về. Bố nghĩ nếu bố làm được nó hoảng sợ, nó sẽ phải tránh đường cho bố qua. Thế là bố hít một hơi thật sâu và đột ngột hét lớn, vung tít hai cánh tay, chạy lao vào nó. “Con gấu không nhúc nhích. “Các con biết là bố đâu chạy quá sâu về phía nó. Bố dừng lại nhìn nó và nó vẫn đứng nhìn bố. Rồi bố lại hét. Nó vẫn đứng tại đó. Bố tiếp tục hét và vung tít hai cánh tay, nhưng nó không chuyển động. “Nhưng không tốt gì cho bố nếu bỏ chạy. Trong rừng có thể có những con gấu khác. Bố có thể gặp một con bất cứ lúc nào. Thà đối phó với con này còn hơn với con khác. Vả lại, bố đang trên đường trở về nhà với mẹ và các con gái. Bố không bao giờ về tới nhà nổi nếu bỏ chạy vì những điều trong khu rừng làm cho bố kinh hoảng. “Thế là cuối cùng bố nhìn quanh và kiếm được một cây gậy khá tốt, một cành cây cứng, chắc gẫy rời khỏi thân cây vì sức nặng của tuyết trong mùa đông. “Bố nhấc cây gậy lên, nắm chắc bằng cả hai bàn tay và chạy thẳng tới con gấu đó. Bố ráng gom hết sức vung cây gậy lên và nện xuống, bang, trên đầu nó. “Và nó vẫn đứng nguyên tại đó, vì nó chẳng là gì khác một gốc cây lớn cháy xém đen ngòm. “Buổi sáng lúc lên tỉnh, bố đã đi ngang qua nó. Nó không phải con gấu. Bố ngỡ nó là con gấu vì lúc nào bố cũng nghĩ đến gấu và sợ gặp một con gấu.” Mary hỏi: - Vậy nó thực sự không phải con gấu? - Không, Mary, không phải con gấu. Bố đã đứng đó là hét, nhảy múa, hoa tay một mình giữa rừng Big Woods để cố làm một gốc cây hoảng sợ! Laura nói: - Con gấu mà con với mẹ gặp mới đúng là gấu. Nhưng con với mẹ không hoảng sợ vì lại ngờ nó là Sukey. Bố không nói gì chỉ ôm cô chặt hơn. Laura hỏi: - Eo ôi! Con gấu đã có thể ăn thịt mẹ và con chứ? Cô nhích sát hơn vào bố, tiếp: - Mẹ đã bước thẳng tới, vỗ mạnh lên người nó và nó không làm gì hết. Sao nó lại không làm gì? Bố nói: - Bố đoán là nó bị bất ngờ quá nên chưa kịp làm gì. Bố cũng đoán có thể nó sợ do bị ánh đèn dọi thẳng vào mắt. Và khi mẹ bước thẳng tới vỗ lên người nó thì nó còn thấy là mẹ không hề sợ hãi. Laura nói: - Bố cũng can đảm lắm. Dù chỉ một gốc cây nhưng bố đã nghĩ đó là con gấu, bố vẫn làm thế mà, phải không bố? Bố đáp: - Đúng, bố vẫn làm. Các con thấy đó, bố đâu còn cách nào khác. Rồi mẹ nhắc đã tới giờ ngủ. Mẹ giúp Laura và Mary thay quần áo, cài nút những chiếc áo ngủ màu đỏ giúp các cô. Các cô quì gối trên giường đọc lời cầu nguyện: Con đang chuẩn bị đi vào giấc ngủ Xin chúa che chở linh hồn con Nếu con chết đi trước khi thức dậy Xin chúa hãy đón nhận linh hồn con Mẹ hôn các cô và cài chặt các mép nệm xung quanh. Các cô nằm im hồi lâu, ngắm mái tóc rẽ mượt mà của mẹ và hai bàn tay mẹ đang bận rộn khâu vá dưới ánh đèn. Cây kim của mẹ va chạm nhẹ vào chiếc đê rồi tiếng sợi chỉ sột soạt kéo qua tấm vải mà bố mới đổi về bằng những bộ da thú. Laura thấy bố đang bôi mỡ lên đôi ủng. Dưới ánh đèn, mái tóc và bộ râu màu hung dài của bố đều óng như tơ và những ô màu trên chiếc áo khoác sọc vuông của bố tươi hẳn lên. Bố huýt gió vui vẻ rồi bố hát: Chim ca vang rộn ràng trong nắng mới Nụ trường xuân chen sắc tím hoa sim Mặt trời lên khắp núi đồi rạng rỡ Riêng mình em trong một ối im lìm Đó là một đêm ấm áp. Lửa than trong lò đã tắt nhưng bố khỏi cần nhóm lại. Xung quanh ngôi nhà nhỏ chỉ có những tiếng động nhẹ do tuyết rơi trong rừng Big Woods và từ ngoài mái hiên, từng giọt, từng giọt băng tan nhỏ xuống. Không bao lâu nữa, những chồi lá non sẽ vươn lên khắp các cội cây với đủ màu hồng, vàng, xanh nõn rồi hoa dại bừng nở và chim chóc đầy rừng. Lúc đó sẽ không còn những câu chuyện kể bên ánh lửa trong đêm nhưng suốt ngày Laura và Mary sẽ được chạy nhảy chơi đùa giữa những khóm cây vì mùa xuân đã tới. Chương 7: Tuyết Đường Nắng chiếu nhiều ngày và thời tiết ấm lại. Trên các ô cửa sổ buổi sáng không còn sương giá đọng. Suốt ngày, những trụ băng dưới hiên nhà lần lượt sụm xuống trong những khoảng tuyết trống bên dưới tạo thành những tiếng vụn vỡ lách cách. Những nhánh cây đen ngòm, đẫm ướt lay động và những mảng tuyết trút xuống. Khi Mary và Laura dán mũi vào kính cửa sổ giá lạnh, các cô có thể nhìn rõ nước đọng thành hạt dưới mái hiên và trên các cành cây trần trụi. Tuyết không còn lấp lánh mà có vẻ mềm và nhạt hơn. Dưới cội cây lỗ chỗ các mảng tuyết rơi và các đụn tuyết bên lối đi thu nhỏ dần để tan đi. Rồi một ngày, Laura thấy hiện ra một khoảng đất trống. Khoảng sân lớn dần thêm tới trước khi trời tối thì đã lộ rõ toàn thể khu sân lầy bùn. Còn lại chỉ là một đường băng với những đụn tuyết chạy dọc hai bên đường, dọc hàng đậu và cạnh đống gỗ. Laura hỏi: - Con không chơi ở ngoài sân được, hả mẹ? Mẹ nói: - Được chứ! Laura lại hỏi: - Mẹ cho con ra ngoài chơi, nghe? Mẹ hứa: - Ngày mai các con sẽ ra ngoài chơi. Đêm đó Laura rùng mình, thức dậy. Những lớp chăn đắp có vẻ mỏng và mũi cô như đóng băng. Mẹ phủ lên người cô một lớp chăn khác, nói: - Nhích gần vào Mary là con sẽ thấy ấm ngay. Buổi sáng căn nhà thật ấm trong hơi lửa lò bếp, nhưng khi nhìn ra ngoài cửa sổ, Laura thấy mặt đất lại bị phủ kín dưới một lớp tuyết dày mềm mại. Trên tất cả các cành cây, tuyết chất như lông chim. Các ụ tuyết đầy trên hàng rào cọc sắt và trên đầu các cột cổng là những trái cầu tuyết cực lớn trắng toát. Bố bước vào nhà vừa phủi lớp tuyết mềm trên vai vừa dậm chân rũ lớp tuyết bám trên ủng. Bố nói: - Có tuyết đường rồi! Laura le lưỡi táp thật nhanh một miếng tuyết trắng đọng trên nếp tay áo bố. Cô không thấy vị gì khác lạ, ngoài cảm giác ướt lạnh trên lưỡi. Cô mừng là không ai nhìn thấy cô đã nếm thử tuyết như thế. - Tại sao gọi là tuyết đường, bố? Laura hỏi nhưng bố bảo lúc này bố không đủ thời gian để giải thích. Bố rất vội vì phải qua nhà ông nội. Ông nội ở khá xa trong vùng Big Woods, nơi các cội cây mọc sát nhau hơn và lớn hơn. Laura đứng bên cửa sổ ngắm bố to lớn, lanh lẹ và mạnh mẽ đang bước đi trên tuyết. Cây súng nằm trên vai bố, lưỡi rìu và ống thuốc đang lủng lẳng bên sường còn đôi ủng lớn tạo thành những vết khổng lồ trong lớp tuyết mềm. Laura nhìn theo cho tới khi bố khuất hẳn trong rừng. Tối hôm đó, bố trở về nhà khá muộn. Mẹ đã thắp đèn mới thấy bố về. Bố ôm một bó lớn dưới một cánh tay còn cánh tay kia là một thùng gỗ lớn bao kín. - Đây, Caroline! Bố nói trong khi đưa các thứ cho mẹ rồi bố đặt cây súng lên móc trên khung cửa. Bố tiếp: - Nếu gặp một con gấu, anh không thể bắn mà không bỏ rơi mấy cái gánh nặng kia. Rồi bố cười: - Mà nếu bỏ rơi xuống rồi thì chắc anh khỏi phải bán nữa. Anh có thể phải đứng xem con gấu ăn và thích thú chép miệng. Mẹ mở bao bó và ở trong có hai chiếc bánh ngọt màu nâu, mỗi chiếc lớn bằng chiếc xoong đựng sữa. Mẹ mở tiếp chiếc thùng gỗ và thấy đầy ắp nước đường nâu xậm. - Này, Laura, Mary! Bố nói và moi từ trong túi ra, đưa cho mỗi cô một gói tròn nhỏ. Các cô mở lớp giấy bao và mỗi gói là một chiếc bánh ngọt nhỏ cứng, màu nâu với những đường nhăn viền rất đẹp xung quanh. Cặp mắt xanh của bố sáng rỡ và bố nói: - Ăn đi! Mỗi cô nhấm một miếng nhỏ và thấy ngọt lịm. Bánh vụn tan trong miệng và tuyệt vời hơn hẳn so với thỏi kẹo Giáng Sinh. Bố nói: - Đường trường khế đó! Bữa tối đã bày sẵn. Laura và Mary đặt chiếc bánh ngọt nhỏ làm bằng đường trường khế bên cạnh dĩa ăn trong lúc quét si-rô trường khế vào bánh mì. Sau bữa ăn, bố đặt các cô bé lên đùi, ngồi trước lò sưởi, kể cho nghe về việc làm của bố ở nhà ông nội và về tuyết đường. Bố kể: - Suốt mùa đông, ông nội đóng các thùng gỗ và các máng xối nhỏ. Ông nội đóng bằng gỗ tuyết tùng và tần bì trắng, vì chỉ những thứ gỗ này mới không làm hư hương vị si-rô trường khế. Để làm máng xối, ông nội phải tách những thanh gỗ nhỏ dài cỡ một bàn tay và lớn ngang hai ngón tay. Gần một đầu, ông nội cắt một đường ngang sâu tới nữa bề dày thanh gỗ rồi tách bỏ một mảnh. Thế là ông nội có thanh gỗ một đầu dẹt và một phần vuông. Với một mũi khoan, ông nội khoan một lỗ dài xuyên suốt qua phần vuông của thanh gỗ. Rồi ông nội dùng dao chuốt gọt thanh gỗ cho tới khi nó chỉ còn là một lớp bọc mỏng xung quanh lỗ tròn. Vẫn với con dao, ông nội khoét đầu gỗ dẹt thành một lòng máng nhỏ. Ông nội làm mười hai chiếc máng và đóng mười chiếc thùng gỗ mới. Ông nội làm xong trước khi có đợt thời tiết ấm đầu đầu tiên và nhựa cây bắt đầu lưu chuyển. Lúc này, ông nội vào rừng trường khế, dùng mũi khoan khoan lỗ trên mỗi cây và đóng đầu tròn của những chiếc máng nhỏ vào các lỗ khoan rồi đặt dưới mỗi đầu dẻ của chiếc máng một chiếc thùng tuyết tùng. Các con đã biết nhựa tức là máu của cây. Vào lúc khởi đầu thời tiết mùa xuân ấm áp, nhựa từ rễ cây lưu chuyển tới các chót cành và chồi búp để nuôi dưỡng các đọt lá non. Như vậy, khi lưu chuyển, nhựa trường khế phải qua các lỗ khoan và chảy ra ngoài thân cây theo chiếc máng xối nhỏ vào chiếc thùng gỗ. Laura hỏi: - Ô, cái cây tội nghiệp kia không bị đau chứ? Bố đáp: - Không đau hơn khi ngón tay của các con bị gai đâm chảy máu đâu. Bố kể tiếp: - Mỗi ngày, ông nội mang ủng, khoác áo ấm, đội mũ da đi vào rừng tuyết để gom nhựa cây. Đặt một khạp tròn lớn trên xe trượt tuyết, ông nội đi từ cây này qua cây khác trút hết nhựa trong các thùng vào khạp. Ông nội chuyển hết nhựa tới một chảo nấu lớn bằng sắt treo vào một cây lớn gác ngang giữa hai trạc cây. Dưới chảo sắt, ông nội đốt lửa nấu cho nhựa sôi lên và ông nội canh chừng rất cẩn thận. Lửa cần đủ nóng cho nhựa sôi nhưng lại không được nóng quá khiến cho nhựa sôi quá độ. Mỗi vài phút, nhựa lại phải được vớt bọt váng. Ông nội vớt bọt váng bằng một chiếc môi lớn, có cán dài, làm bằng gỗ bồ đề. Khi thấy nhựa hơi nóng quá, ông nội múc những môi đầy, giơ cao lên trong không khí và đổ xuống từ từ. Cách này khiến cho nhựa nguội bớt một chút và giữ cho nó không sôi quá nhanh. Khi nhựa sôi để nguội tạm đủ và thành si-rô, ông nội đổ đầy các thùng. Sau đó, ông nội tiếp tục nấu sôi nhựa cho tới khi nó cô nhuyễn thành bột mới để nguội trong một chiếc đĩa. Khi nhựa đang thành bột, ông nội dập tắt lửa, cào hết ra khỏi dưới chảo nấu. Rồi hết sức nhanh, ông nội múc những môi đầy si-rô vào các xoong sữa chuẩn bị sẵn. Trong xoong, si-rô biến thành những tảng bánh cứng màu nâu làm bằng đường trường khế. Laura hỏi: - Như thế là ông nội làm ra đường thì tại sao lại gọi là tuyết đường? Bố nói: - Phải gọi là tuyết đường vì vào thời gian này tròn năm, tuyết rất đáng kể để làm được nhiều đường hơn. Các con thấy là đã vào lúc không còn làm lạnh nhiều nên chính tuyết sẽ kìm chậm việc cây trổ lá khiến cho nhựa lưu chuyển lâu dài hơn. Khi nhựa lưu chuyển lâu dài hơn có nghĩa là ông nội có thể làm đủ lượng đường dùng trọn năm cho nhu cầu thường ngày. Khi ra tỉnh bán da thú, ông nội không còn cần mua nhiều đường nữa. Ông nội chỉ cần mua một ít đường để dùng khi có khách tới thăm. Laura nói: - Chắc là ông nội rất vui vì đã có tuyết đường. Bố nói: - Ừ, ông nội vui lắm. Thứ hai tới, ông nội lại làm đường và ông nội nói cả nhà mình đều phải tới. Cặp mắt xanh của bố sáng rỡ và bố dành phần quan trọng nhất về cuối để nói với mẹ: - Này, Caroline! Sẽ có khiêu vũ đó! Mẹ mỉm cười. Mẹ tỏ ra rất vui, đặt món đồ đang khâu xuống, lên tiếng: - Ô, Charles! Rồi mẹ nhấc món đồ khâu lên, vẫn mỉm cười, nói tiếp: - Em sẽ mặc chiếc áo cưới. Chiếc áo cưới của mẹ rất đẹp. Áo màu xanh rêu điểm mẫu hoa văn nhỏ giống như những trái dâu tây chín. Một thợ may ở tận miền đông may chiếc áo khi mẹ làm đám cưới với bố và rời về miền tây tới khu Big Woods ở Winsconsin. Trước khi lấy bố, mẹ ăn mặc rất hợp thời trang và người thợ may kia đã may quần áo cho mẹ. Chiếc áo được bao giấy gói và cất kĩ. Laura và Mary chưa hề thấy mẹ mặc áo ngoại trừ một lần mẹ mặc cho các cô coi. Mẹ cho các cô mân mê những chiếc nút màu rượu chát cài nơi vạt trên trước áo và chỉ cho các cô thấy cách thức bao khít những mảnh xương cá voi trong những đường khâu với hàng trăm mũi chỉ thêu chéo nhau. Buổi khiêu vũ quan trọng ngần nào nếu mẹ tới dự với chiếc áo cực đẹp đó. Laura và Mary bị kích động hết sức. Các cô leo lên đùi bố rồi tụt xuống liên tục và hỏi đủ thứ về buổi khiêu vũ cho tới cuối cùng, bố phải nhắc: - Bây giờ lên giường thôi, các con gái! Các con sẽ biết hết mọt thứ về buổi khiêu vũ khi các con chứng kiến. Bố còn phải lo thay một sợi dây đàn mới. Vẫn còn phải rửa miệng và tay dính đầy đường. Lại còn lời cầu nguyện phải đọc. Tới lúc Laura và Mary được nằm gọn trên chiếc giường có bánh lăn thì bố đang hát theo tiếng đàn với một bàn chân gõ nhịp trên nền nhà: Ta là thuyền trưởng Jinks ngựa biển Ngựa ta nuôi bằng đậu, bằng ngô Mặc sức lênh đênh khắp nẻo bến bờ Vì ta, thuyền trưởng Jinks ngựa biển Kẻ chỉ huy những chàng trai lính chiến. Chương 8: Khiêu Vũ Tại Nhà Ông Nội Sáng thứ hai, cả nhà dậy sớm, hối hả qua nhà ông nội. Bố muốn tới kịp để giúp việc thâu góp và nấu sôi nhựa trường khế. Mẹ sẽ giúp bà nội và các cô nấu ăn đãi mọi người tới tham dự buổi khiêu vũ. Bữa điểm tâm chấm dứt rất sớm và việc rửa chén dĩa, dọn dẹp giường phải làm xong trong ánh nến. Bố buộc kỹ cây đàn trong hộp, đặt lên cỗ xe trượt tuyết lớn đang chờ sẵn ngoài cổng. Trời còn lạnh và mù sương, ánh sáng nhàn nhạt khi Laura, Mary cùng mẹ và bé Carrie quấn mình gọn ghẽ và ấm áp trong những tấm áo dài giữa tấm nệm rơm trên cỗ xe trượt tuyết. Mấy con ngựa lúc lắc đầu, nhảy dựng lên làm những chiếc chuông reo vang rộn và chúng phóng đi trên con đường xuyên rừng Big Woods tới nhà ông nội. Tuyết đọn trơn trượt trên đường giúp cỗ xe trượt thật nhanh và những cội cây lớn hình như hối hả lùi xa ở hai bên. Một hồi sau, nắng xối xuống rừng cây và bầu trời sáng loá. Những dải nắng vàng chen giữa bóng cây và tuyết nhuộm màu hồng nhạt. Mỗi mặt cong, mỗi vết nhỏ trên tuyết đều in bóng tối và tất cả bóng tối đều nhoà nhạt. Bố chỉ cho Laura thấy dấu vết của các loài thú hoàng lưu lại trên tuyết dọc hai bên đường. Vết nhảy của những con thỏ đuôi xù, vết chân li ti của đám chuột đồng, vết chân đan chéo nhẹ nhàng của loài chim tuyết. Cũng có những dấu vết lớn hơn như dấu chân chó, dấu chân cáo và dấu chân hươu nai chạy sâu vào trong rừng cây. Không khí đã ấm áp hơn và bố nói tuyết không còn kéo dài. Đường đi hình như không xa lắm và họ đã tiến vào khoảng sân trống nhà ông nội với tiếng chuông inh ỏi. Bà nội bước ra cửa, dừng lại mỉm cười, kêu tất cả vào trong nhà. Bà nói ông nội và bac George đã đi lo công việc trong rừng trường khế. Thế là bố chạy đi để làm giúp trong lúc Laura và Mary cùng với mẹ bồng bé Carrie bước vào nhà bà nội để trút bỏ bớt quần áo. Laura rất thích ngôi nhà của ông nội. Nó rất rộng so với ngôi nhà của gia đình cô. Nhà có một phòng lớn rộng thênh thang, một phòng nhỏ dành cho bác George và một phòng nhỏ khác của cô Docia và cô Ruby. Ngoài ra, con có khu nhà bếp với một lò bếp lớn. Thật thú vị được chạy dọc gian phòng lớn từ chiếc lò sưởi lớn ở một đầu tới chiếc giường của bà nội ở đầu kia, dưới ô cửa sổ nên nhà được ghép bằng những tấm ván dày, lớn do ông nội đẽo bằng rìu. Mặt nền phẳng lì được lau sạch bóng, trắng tinh và chiếc giường dưới ô cửa sổ thật êm với tấm nệm lông chim. Ngày có vẻ ngắn lại khi Laura và Mary chơi trong gian phòng lớn còn mẹ giúp bà nội cùng các cô nấu nướng trong nhà bếp. Đàn ông ăn trưa ngay tại rừng trường khế nên ở nhà không bày bàn ăn vì chỉ ăn xăng-uých với thịt nguội và uống sữa. Nhưng bà nội làm bánh put-đinh hấp cho bữa tối. Bà đứng cạnh lò bếp dùng ngón tay rây bột bắp vàng vào chảo nước muối đang sôi. Bà khuấy nước liên tục bằng chiếc muỗng gỗ lớn và rây bột bắp cho tới khi trong chảo đầy ắp một khổi màu vàng đặc sôi sục. Rồi bà đặt chảo ra sau lò bếp cho nguội bớt từ từ. Bột bắp thơm nức. Toàn thể ngôi nhà cũng thơm nức với hương vị ngọt ngào, đậm đà toả từ nhà bếp cùng mùi gỗ hồ đào đang tạo những ngọn lửa sáng trong ở lò sưởi và mùi trái táo ướp đinh hường bên cạnh giỏ đồ khâu của bà nội. Ánh nắng lấp lánh xuyên qua các ô kính cửa sổ và mọi thứ đều thoáng đãng, khoảng khoát, sạch sẽ. Bố và ông nội từ rừng trở về vào giờ ăn tối. Mỗi người đều mang trên vai chiếc đòn gánh do ông nội làm. Đòn gánh được cắt khớp với gáy và khoét cho vừa khít hai vai. Mỗi đầu đòn gánh gắn một sợi dây xích có móc và mỗi chiếc móc treo một thùng gỗ lớn đầy si-rô trường khế còn nóng hổi. Bố và ông nội mang si-rô từ chiếc chảo lớn ở ngoài rừng về. Họ giữ chắc những chiếc thùng bằng bàn tay nhưng toàn bộ sức nặng dồn vào chiếc đòn gánh trên vai. Bà nội đã xếp sẵn một chảo đồng lớn trên lò bếp. Bố và ông nội trút si-rô vào chảo đồng. Chiếc chảo lớn đến nỗi chứa hết số si-rô từ bốn thùng. Rồi bác George về tới với một thùng si-rô nhỏ hơn và mọi người cùng ăn bữa tối với bánh put-đinh hấp nóng hổi và si-rô trường khế. Bác George về nhà sau khi rời quân đội. Bác khoác chiếc áo lính màu xanh với một chuỗi nút đồng và cặp mắt xanh tươi vui của bác rất táo bạo. Bác to dềnh dàng và dáng đi hết sức nghênh ngang. Suốt bữa ăn, Laura không ngừng ngắm bác vì cô từng nghe bố nói với mẹ rằng bác rất bạt mạng: - George thành bạt mạng sau khi tham gia chiến trận trở về. Bố nói thế và lắc đầu như tỏ ý tiếc là mình đã không thể giúp được gì. Bác George bỏ nhà ra đi khi mới vừa mười bốn tuổi để vào lính và trở thành một tay trống trong đội quân nhạc. Laura chưa từng bao giờ được thấy một con người bạt mạng. Nhưng cô không biết mình có sợ bác George hay không. Sau bữa ăn tối, bác George thổi cây kèn đồng quân đội dài và nặng chịch. Tiếng kèn cất lên một âm thanh ngân vang dễ thương bay xa qua rừng Big Woods. Rừng tối xẫm im lìm tựa hồ cây cỏ đang đứng lặng lắng nghe. Rồi từ rất xa vẳng lại âm thanh yếu ớt, mỏng manh giống như từ một chiếc kèn đồng nhỏ để đáp lại chiếc kèn đồng lớn. Bác George nói: - Nghe đi, nó dễ thương không? Laura nhìn bác nhưng không nói một lời nào và khi bác George ngưng thổi chiếc kèn đồng, cô chạy ngay vào nhà. Mẹ và bà nội đã thu dẹp, rửa xong bát dĩa cùng quét sạch trước lò sưởi trong lúc cô Docia và cô Ruby đang trang điểm trong phòng. Laura ngồi trên giường của các cô ngắm họ chải mái tóc dài và rẽ một cách tỉ mỉ. Tóc từ trước trán được rẽ qua hai bên cổ, rồi rẽ qua tai. Họ kể phần tóc phía sau thành bím dài và quấn lên cẩn thận thành búi lớn. Họ chà rửa mặt, tay thật kĩ bằng xà phòng trong bồn rửa mặt đặt trên chiếc ghế dài ở nhà bếp. Họ dùng loại xà phòng mua ở cửa hàng chứ không phải loại xà phòng mềm, lầy nhầy màu nâu xám do bà nội làm và chứa trong vại lớn vẫn dùng thường ngày. Các cô tỉa tót đám tóc trước trán thật lâu, giơ đèn lên ngắm nghía mái tóc trong chiếc gương nhỏ treo trên vách. Họ chuốt từng cụm mượt tới nỗi sáng bóng như tơ dưới ánh đèn. Mỗi cụm hơi phồng lên cũng bóng mượt và các phần cuối cuốn lại xoắn vừa khít vào búi tóc lớn phía sau. Các cô mang vớ dài màu trắng rất đẹp mà các cô đã kết viền ren các mẫu trang trí thoáng bằng chỉ sợi rồi cài nút những chiếc giày đẹp nhất. Sau đó, họ giúp nhau buộc áo nịt. Cô Docia ráng gom hết sức kéo dây nịt cho cô Ruby rồi tới phiên cô Docia đeo cứng chân giường trong lúc cô Ruby kéo dây nịt cho cô. Cô Docia nói như không còn hơi: - Kéo mạnh, Ruby, kéo mạnh! Kéo mạnh hơn đi! Thế là cô Ruby trụ chắc chân, kéo mạnh hơn nữa. Cô Docia dùng bàn tay đo mức eo mình và cuối cùng, cô thở hắt ra: - Chị cho rằng em làm tới mức tốt nhất rồi. Cô nói tiếp: - Caroline bảo Charles có thể đo eo của chị ấy bằng gang tay, lúc hai người lấy nhau. Caroline là mẹ của Laura và cô bé rất tự hào khi nghe nói thế. Rồi cô Ruby và cô Docia mặc váy lót nỉ dưới lớp váy lót mỏng rồi tới lớp váy hồ cứng có gắn ren quanh khắp các đường viền. Và, các cô mặc áo. Áo của cô Docia màu da trời xậm có các cánh hoa đỏ thắm chen giữa đám lá xanh. Vạt áo trước cài một chuỗi nút đen giống hệt những trái mâm xôi lớn mọng nước đến nỗi Laura muốn được nếm thử. Áo của cô Ruby màu rượu nho phủ khắp bằng một mẫu vẽ nhẹ nhàng màu rượu nho nhạt. Phía trước cài chuỗi nút mạ vàng và trên mỗi chiếc nút đều khắc hình một lâu đài bên một cội cây. Chiếc khăn quàng màu trắng của cô Docia thắt nút ở phía trước với một chiếc kẹp bằng đá chạm gương mặt một phụ nữ. Còn cô Ruby gắn lên khăn quàng của mình một bông hồng đỏ tươi bằng sáp. Cô tự làm bông hồng này trên đầu cây kim mạng đã mẻ một lỗ và không còn dùng bình thường được. Các cô hết sức dễ thương khi lướt đi uyển chuyển trên nền nhà với những chiếc váy phùng, căng tròn. Eo của các cô thon thả thắt lại giữa thân hình và má các cô ửng hồng, mắt sáng long lanh dưới những mái tóc óng ả mượt mà. Mẹ cũng rất đẹp trong chiếc áo màu xanh rêu điểm rải rác hình những cọng lá mâm xôi nhỏ. Chiếc váy viền xếp nếp được tô điểm thêm bằng những nút bằng màu xanh rêu và trên cổ mẹ gắn một cây kẹp vàng. Cây kẹp phẳng và lớn cỡ hai ngón tay lớn nhất của Laura, phía trên có khắc chạm và dọc các cạnh là những đường vân xoắn. Mẹ có vẻ giàu có và sang trọng đến nỗi Laura sợ không dám đụng vào mẹ. Khách bắt đầu tới. Tất cả đều đi bộ băng qua rừng tuyết với những khung đèn lồng và được đưa tới cửa bằng xe trượt tuyết và xe ngựa. Tiếng chuông ngựa liên tục rung lên inh ỏi. Gian phòng lớn đặc nghẹt giầy ủng và những chiếc váy kêu xoàn xoạt còn trên giường của bà nội thì các em bé được đặt nằm thành hàng. Chú James và Libby đến với đứa con gái nhỏ cũng có tên là Laura Ingalls. Hai Laura nghiêng người trên giường ngắm các em bé và Laura kia nói rằng em bé của cô đẹp hơn bé Carrie. Laura cãi: - Không phải! Carrie là em bé đẹp nhất trên đời! Laura kia nói: - Không, Carrie không đẹp! - Có, Carrie đẹp! - Không, nó không đẹp! Mẹ lướt nhẹ tới trong chiếc áo đẹp và lên tiếng giọng nghiêm khắc: - Laura! Thế là không còn Laura nào cãi nữa. Bác George đang thổi cây kèn đồng. Tiếng kèn ồn ào rung động gian phòng lớn trong lúc bác George vừa thổi kèn, vừa đùa giỡn, cười, nhảy. Rồi bố lấy đàn trong hộp ra và chơi đàn. Tất cả các cặp đứng thành hình vuông trên nền nhà và bắt đầu nhảy. Bố lên tiếng sắp xếp. - Phải và trái thành vòng! Bố xướng lên và tất cả những chiếc váy bắt đầu xoay tròn còn những đôi ủng bắt đầu dập theo nhịp. Các vòng người di động theo đường tròn, tất cả những chiếc váy theo một đường trong khi tất cả những đôi ủng theo đường khác và tất cả đều đưa bàn tay lên cao vỗ nhịp. Bố lên tiếng: - Hướng về bạn nhảy! Quí ông cúi chào quí bà phía bên trái. Mọi người làm đúng như bố nói. Laura ngắm chiếc vá của mẹ đung đưa, chiếc eo thon nhỏ của mẹ uốn cong và đầu mẹ hơi cúi và cô nghĩ mẹ là người khiêu vũ dễ thương nhất trên đời. Cây đàn của bố đang hát: Ô, hỡi bạn tài hoa phong nhã Hãy tới cùng họp mặt đêm nay Hãy tới cùng họp mặt đêm nay Hãy tới cùng họp mặt đêm nay Ô, hỡi bạn tài hoa phong nhã Hãy tới cùng họp mặt đêm nay Dưới ánh trăng múa ca say đắm Những vòng tròn nhỏ và những vòng tròn lớn tiếp tục xoay tròn, xoay tròn với những chiếc váy đung đưa, những chiếc ủng gõ nhịp, những cặp múa cúi chào, lui xa rồi lại tiến tới, cúi chào. Trong nhà bếp, bà nội loay hoay một mình khuấy chiếc chảo đồng lớn đầy si-rô đang sôi. Bà khuấy hoà theo nhịp đàn. Sát cửa sau là một khạp tuyết trắng phau và chốc chốc, bà nội lại múc một muỗng si-rô từ trong chảo tới tưới lên một đám tuyết trong dĩa. Laura lại theo dõi những người đang nhảy. Bố đang đàn bài cô giặt Ái Nhĩ Lan. Bố kêu lớn: - Con nai nhìn, quí bà, nai cái nhìn nai cái. Lui về sau nhấn mạnh gót chân. Laura không giữ im nổi bàn chân. Bác George ngắm cô và cười. Rồi bác tới nắm lấy tay cô và dìu cô nhảy trong góc phòng. Mọi người cười lớn từ cửa nhà bếp. Bà nội đang được kéo vào phòng. Bà nội cũng mặc áo đẹp, chiếc áo màu xanh dương điểm những chiếc lá vàng rải rác. Má bà nội ửng đỏ vì đang cười và bà lắc đầu lia lịa. Tay bà vẫn còn cầm chiếc muỗng gỗ. Bà nói: - Tôi không bỏ chảo si-rô được. Nhưng bố bắt đầu đàn bản du khách Arkansas và mọi người vỗ tay theo nhịp. Thế là bà nội phải nghiêng đầu cúi chào mọi người và nhảy một vài bước. Bà nội nhảy đẹp không thua bất cứ ai. Tiếng vỗ tay hầu như át hẳn tiếng đàn của bố. Thình lình, bác George dang tay như con bồ câu đang vỗ cánh, cúi đầu thật thấp trước bà nội, nhún nhảy theo điệu Jic. Bà nội ném chiếc muỗng cho một người đứng bên. Bà đặt bàn tay lên hai bên hông bước tới đối diện với bác George và mọi người reo hò cuồng nhiệt. Bà nội đang nhảy theo điệu Jic. Laura vỗ tay theo nhịp đàn cùng với tất cả những người khác. Tiếng đàn khác hẳn như chưa từng bao giờ như thế. Mắt bà nội chớp chớp, hai má đỏ bừng và dưới chiếc váy, gót chân bà thoăn thoắt khua lách cách theo nhịp ủng dồn dập của bác George. Mọi người đều bị kích động. Bác George tiếp tục nhảy Jic và bà nội cũng đối mặt với bác, nhảy Jic. Tiếng đàn không ngưng nghỉ. Bác George bắt đầu thở gấp, đưa tay lau mồ hôi trên trán, mắt bà nội loé sáng. Một người kêu lên: - Anh không thể thua bà nội được, George! Bác George Jic nhanh hơn. Bác Jic nhanh gấp đôi so với lúc trước. Bà nội cũng nhảy nhanh theo. Mọi người lại cổ vũ, tất cả đám phụ nữ cười và vỗ tay trong khi đám đàn ông chọc ghẹo bác George. George bất chấp, nhưng không còn đủ hơi để cười nữa. Bác đang Jic. Cặp mắt xanh của bố đang nháy lia, loé sáng. Bố đứng lên coi bác George và bà nội trong lúc chiếc vĩ nhảy múa trên mấy sợi dây. Laura nhảy tưng tưng, vỗ tay và la hét. Bà nội không ngừng Jic. Hai bàn tay bà luôn đặt trên hông, cằm bà vênh lên và bà mỉm cười. George tiếp tục Jic nhưng đôi ủng bác không còn đập dồn dập mạnh mẽ như lúc đầu. Hai gót chân bà nội ngược lại vẫn khua rộn rã. Một giọt mồ hôi lăn dài từ trán xuống má George. Lập tức, bác buông thõng hai tay xuống, thở hắt ra: - Tôi chịu thua! Bác ngưng Jic. Mọi người la hét và dậm chân như sấm động hoan nghênh bà nội. Bà nội còn Jic thêm một phút nữa mới ngưng lại. Bà cười trong hơi thở. Mắt bà loé sáng giống hệt mắt bố khi bố cười. George cũng cười và kéo ống tay áo lau mồ hôi trán. Thình lình bà nội ngưng cười. Bà quay phắt người chạy cực nhanh vào bếp. Cây đàn ngưng lại. Đám phụ nữ lập tức trò chuyện và đám đàn ông xúm lại giễu bác George nhưng tất cả ngưng lại khi bà nội muốn thế. Bà đã tới khung cửa giữa gian phòng lớn và nhà bếp, và bà nói: - Si-rô thành kẹo rồi. Hãy tới giúp tôi! Mọi người cười nói trở lại. Nhưng tất cả đều hối hả xuống nhà bếp lấy đĩa rồi ra ngoài trời xúc tuyết. Cửa nhà bếp mở toang khiến hơi lạnh ùa vào. Các ngôi sao như bị đông cứng trên nền trời và hơi lạnh thấm buốt mũi và má Laura. Hơi thở cô bé giống như khói thuốc. Cô và Laura kia cùng tất cả đám trẻ nhỏ đều múc đầy tuyết sạch vào đĩa. Rồi tất cả trở vào chen chúc trong nhà bếp. Bà nội đứng bên chiếc chảo đồng và với chiếc muỗng gỗ, bà rót si-rô nóng lên từng đĩa tuyết. Si-rô nguội dần thành kẹo mềm và không bao lâu đã nguội hẳn để có thể ăn được. Mọi người đều có thể ăn thả dàn vì đường trường khế không bao giờ tác hại. Trong khi đó, si-rô còn đầy chảo và ngoài trời đầy tuyết. Ngay khi ăn hết một đĩa đầy, mọi người lại ra xúc tuyết và bà nội tiếp tục xối si-rô lên. Mọi người ăn cho tới lúc không thể nào ăn thêm nổi mới quay qua chiếc bàn dài chất đống mức bí, mứt dâu, bánh qui, bánh ngọt. Cũng có cả bánh mặn, thịt nguội và rau giấm. Ôi, món rau giấm mới chua làm sao! Mọi người ăn no nê rồi lại khiêu vũ trở lại. Nhưng bà nội đứng canh chừng si-rô trong chảo. Nhiều lần bà múc ra đĩa, khuấy vòng vòng. Rồi bà lắc đầu rồi đổ trở lại trong chảo. Trong gian phòng bên, tiếng đàn háo hức dồn dập trong âm thanh cuồng nhiệt của buổi khiêu vũ. Cuối cùng, khi bà nội khuấy, si-rô trong đĩa biến thành những hạt nhỏ như cát và bà nội kêu lớn: - Mau lên, các con gái! Có đường rồi! Cô Ruby, cô Docia và mẹ rời buổi khiêu vũ chạy tới. Họ bày ra tất cả xoong, chảo lớn, nhỏ và bà nội đổ đầy cực nhanh si-rô lên những xoong, chảo này. Những xoong, chảo đầy si-rô được chuyển ra xa để cho nguội và thành đường trường khế. Tiếp theo, bà nội nói: - Bây giờ đem chia kẹo cho lũ nhỏ lại. Mỗi cô cậu bé đều có một chã hoặc ít nhất là một chiếc ly vỡ hay một dĩa. Tất cả đều nhìn một cách lo lắng khi bà nội múc muỗng si-rô ra. Có lẽ số si-rô còn lại không đủ và như thế thì có một vài cô cậu bắt buộc cần chứng tỏ là lịch sự hoặc không ích kỉ. Nhưng còn vừa đủ si-rô cho một vòng. Phần si-rô cạo vét chảo cuối cùng vừa đủ đầy cho chiếc chã kẹo cuối cùng. Không một ai thiếu phần. Tiếng đàn và buổi khiêu vũ vẫn tiếp tục. Laura và Laura kia đứng quanh, ngó những người đang nhảy. Rồi hai cô bé cùng ngồi xuống nền nhà trong một góc phòng. Buổi khiêu vũ thật hấp dẫn và tiếng nhạc lôi cuốn đến nỗi Laura nghĩ là cô không bao giờ mệt vì nó. Tất cả những chiếc váy đẹp nối nhau xoay chuyển và những đôi ủng đập đều trong khi tiếng đàn réo rắt reo vui. Rồi Laura thức dậy và thấy mình đang nằm ngang chân giường của bà nội. Trời đã sáng. Mẹ cùng bà nội và bé Carrie nằm trên giường. Bố và ông nội cuộn tròn trong những tấm chăn nằm trên nền nhà gần lò sưởi. Không thấy Mary đâu vì cô ngủ cùng với cô Docia và cô Ruby trên giường của họ. Không bao lâu, hết thảy đều thức dậy. Có món bánh xếp và si-rô trường khế cho bữa ăn điểm tâm. Rồi bố đưa ngựa và xe trượt tuyết ra trước cửa. Bố giúp mẹ bồng bé Carrie lên xe trong lúc ông nội nhấc Mary và bác George nhấc Laura lên chiếc nệm rơm trong xe. Bố cài chùm những chiếc áo dài xung quanh mọi người rồi ông nội, bà nội và bác George đứng bên chào “Tạm biệt! Tạm biệt!” Khi họ trượt về phía rừng Big Woods để trở về nhà. Trời nắng ấm và lũ ngựa xải đều, móng hất văng những mảng tuyết nhuốm bùn. Nhìn ngược về phía sau, Laura thấy những dấu chân ngựa và mỗi dấu chân đều nhấn lớp tuyết mỏng vào bùn. Bố nói: - Trước khi trời tối, mình sẽ thấy đợt tuyết đường cuối cùng. Chương 9: Tới Thành Phố Sau khi đợt tuyết đường qua đi, mùa xuân đã tới. Chim hót trong những bụi cây đang trổ lá non dọc hàng dậu sắt uốn cong. Cỏ lại mọc xanh và rừng cây đầy hoa dại. Những cánh mao hương vàng chen bên những bông hoa tím, những cụm hoa chuông và hoa cỏ li ti lấp lánh như sao ở khắp nơi. Những ngày nắng ấm vừa trở lại là Laura và Mary xin phép được chạy chơi. Mới đầu, các cô chỉ được chạy quanh đống gỗ với đôi chân trần. Sau đó, các cô được chạy xa hơn và không bao lâu sau, giầy được bôi dầu đem cất nên các cô chạy chân không suốt ngày. Hàng đêm, các cô phải rửa chân trước khi lên giường. Dưới mép váy, phần bàn chân và mắt cá chân các cô sậm nâu như nước da trên mặt. Các cô có những căn nhà dưới hai cây xồi trước nhà. Nhà của Mary ở dưới cội cây của Mary còn nhà của Laura ở dưới cội cây của Laura. Mặt cỏ mềm là những tấm thảm màu lục, tảng lá trên cao là mái nhà mà qua đó các cô có thể nhìn thấy những mảng trời xanh. Bố làm một cái đu bằng vỏ cây, đem treo vào một nhánh cây lớn, thấp ở cội cây của Laura. Cây đu thành của riêng của cô bé. Vì nó nằm ở cội cây của cô, nhưng Laura tỏ ra không ích kỉ bằng cách thuận cho Mary đung đưa nó khi nào thích. Mary chơi với một chiếc dĩa nứt còn Laura chỉ có một miếng vỡ của một chiếc ly rất đẹp. Charlotte, Nettie, rồi còn có những chiếc ly, dĩa nhỏ cũng bằng lá bày trên bàn ăn. Bà ăn là một tảng đá phẳng lì xinh xắn. Lúc này hai con bò cái, Sukey và Rosie, được thả lỏng trong rừng để tha hồ gặm cỏ và ngắt những chiếc lá non mọng nước. Trong sân nhà kho có hai con bò con còn con heo mẹ và bảy chú heo con phải ở trong chuồng heo. Bố đang cày luống trong khoảng đất trống do bố dọn năm trước và gieo hạt. Một đêm, khi trở về, bố hỏi Laura: - Con đoán ra nổi hôm nay bố thấy điều gì không? Cô bé không đoán nổi. Bố nói: - Thế này nghe, sáng nay, lúc đang phát quang mảnh đất, bố nhìn lên và thấy một con nai đang đứng sát bìa rừng. Đó là một con nai cái, một con nai mẹ và các con sẽ không bao giờ đoán nổi cái gì ở bên nó. Cả Laura và Mary cùng vỗ tay, nói: - Một con nai con! - Đúng, con của nó đứng ở bên nó. Đó là một con vật nhỏ rất dễ thương, lông màu vàng dịu với cặp mắt đen lớn. Bàn chân nó bé xíu không lớn hơn ngón tay cái của bố. Nó đứng nhìn bố bằng cặp mắt mở lớn, hiền hoà có vẻ ngạc nhiên không biết bố là thứ gì. Nó không sợ sệt một chút nào. Laura hỏi: - Bố sẽ không bắn một con nai con nào, phải không bố? Bố trả lời: - Không, không bao giờ! Không bắn cả mẹ nó, không bắn cả bố nó. Lúc này không có chuyện săn bắn cho tới khi tất cả những con vật nhỏ lớn lên. Mình sẽ phải chịu thiếu thịt tươi cho tới mùa thu. Bố nói là ngay khi gieo hạt xong, cả nhà sẽ ra tỉnh. Laura và Mary cũng đi vì bây giờ đủ lớn rồi. Các cô phấn khởi và ngày hôm sau đều chơi trò chơi ra tỉnh. Các cô không thể chơi thật hoàn hảo vì thực sự chưa biết rõ tỉnh là gì. Các cô chỉ biết chắc ở thành phố có một cửa hàng nhưng chưa từng thấy cửa hàng bao giờ. Gần như mỗi ngày sau đó, Charolotte và Nettie luôn thắc mắc liệu chúng có thể ra tỉnh không. Nhưng Laura và Mary luôn trả lời: - Không đâu, cưng. Năm nay cưng không thể đi. Có thể vào năm tới, nếu cưng ngoan ngoãn thì cưng có thể ra tỉnh. Rồi một đêm, bố nói: - Mình sẽ ra tỉnh, ngày mai. Đêm đó, mặc dù đang ở giữa tuần lễ, mẹ vẫn tắm cho Laura và Mary rồi quấn tóc cho các cô. Mẹ chải mái tóc dài của các cô thành nhiều lọn, chải từng lọn với chiếc lược thấm nước và quấn chặt bằng một miếng vải. Đầu các cô như có những cái bướu nhỏ cộm cứng dù các cô trở gối theo mọi hướng. Buổi sáng tóc các cô sẽ được uốn xoăn lại. Các cô hứng khởi tới nỗi không ngủ nổi chút nào. Mẹ không ngồi với giỏ đồ khâu vá như thường lệ. Mẹ đang bận rộn lo mọi thứ cho một bữa điểm tâm chớp nhoáng và trải ra những chiếc vớ dài tốt nhất, những bộ đồ lót, những chiếc áo sơ mi rồi chiếc áo sơ mi đẹp nhất của bố và chiếc áo vải màu nâu xậm của mẹ với những bông hoa nhỏ màu tím. Dạo này, ngày đã dài hơn. Buổi sáng, mẹ thổi tắt đèn trước khi bữa điểm tâm chấm dứt. Đó là một buổi sáng mùa xuân quang đãng, đẹp trời. Mẹ hối thúc Laura và Mary ăn điểm tâm rồi rửa chén đĩa thật nhanh. Các cô tự xỏ với và giày trong lúc mẹ dẹp giường. Rồi, mẹ giúp các cô mặc những chiếc áo đẹp nhất – Mary với chiếc áo xanh nhạt và Laura với chiếc áo màu rượu chát. Mary cài nút sau lưng cho Laura còn mẹ cài nút áo cho Mary. Mẹ gỡ những miếng vải khỏi mái tóc các cô và chải thành những lọn dài uốn cong xõa trên vai. Mẹ chải thật nhanh khiến những lọn tóc rối làm đau khủng khiếp. Tóc Mary vàng óng thật đẹp nhưng tóc Laura chỉ có màu nâu xỉn. Khi các lọn tóc được chải xong, mẹ buộc dây nón dưới cằm của các cô. Mẹ cài chiếc kẹp vàng lên cổ áo và đội nón khi bố lái xe ra cổng. Bố chải sạch lông ngựa tới độ lấp lánh sáng. Bố quét thùng xe rồi đặt lên ghế ngồi một tấm chăn phủ. Mẹ bồng bé Carrie ngồi bên cạnh bố trên ghế trước, còn Laura và Mary ngồi trên tấm ván buộc ngang thùng xe, sát phía sau ghế. Tất cả đều vui vì được băng qua rừng vào mùa xuân. Bé Carrie cười và nhún nhảy trong lúc mẹ mỉm cười còn bố vừa điều khiển lũ ngựa vừa huýt gió. Nắng rực rỡ và ấm trên đường trong lúc từ rừng cây đang trổ lá thoảng tới hương vị mát dịu ngọt ngào. Những con thỏ đứng thẳng trên đường ngay phía trước với những bàn chân trước nhỏ xíu đung đưa và mũi khịt khịt trong khi ánh nắng xuyên qua thân hình và những tai vặn vẹo của chúng. Rồi chúng nhảy ra xa làm lộ rõ chiếc đuôi thỏ màu trắng. Laura và Mary hai lần nhìn thấy những con nai ngắm các cô với cặp mắt tròn to, đen nhánh từ dưới bóng những lùm cây lớn. Thành phố cách xa khoảng bảy dặm. Đây là thành phố Pepin, nằm bên bờ hồ Pepin. Một hồi lâu sau, Laura bắt đầu thoáng thấy những gợn nước xanh sau các cội cây. Con đường đất cứng chuyển thành cát mềm. Bánh xe lún sâu trong cát khiến lũ ngựa kéo toát mồ hôi. Bố luôn phải ngừng lại cho chúng nghỉ ít phút. Rồi thốt nhiên con ngựa ra khỏi rừng cây và Laura nhìn rõ hồ nước. Mặt nước màu xanh da trời và trải rộng tới hết bờ trái đất. Cô bé nhìn thật xa vẫn không thấy gì ngoài mặt nước màu xanh phẳng lặng. ở điểm xa tận cùng, bầu trời và mặt nước gặp nhau tạo thành một đường xanh đậm. Bầu trời phía trên mở rộng. Laura không bao giờ biết bầu trời lớn như thế. Khoảng trống xung quanh cô nhiều tới mức cô cảm thấy hoảng sợ và mừng là đang có bố mẹ ở đó Bố ngừng ngựa, vặn người trên ghế ngồi, chỉ chiếc roi về phía trước, bố nói: - Các con sẽ tới đó, Laura, Mary! Đó là thành phố Pepin. Laura đứng trên tấm ván có bố vòng tay đỡ để cô có thể nhìn thành phố. Khi thấy thành phố, cô như nghẹt thở. Cô hiểu chàng Mèo Khờ cảm thấy ra sao khi anh ta không thể tìm thấy thành phố vì có quá nhiều nhà như thế. Ngay trên bờ hồ có một toà nhà lớn đồ sộ. Bố nói đó là cửa hàng. Toà nhà không làm bằng những khúc cây mà bằng những tấm ván lớn màu xám, ghép dựng đứng. Xung quanh toà nhà là một vùng cát. Sau toà nhà là một khoảng đất phát quang lớn hơn khoảng đất do bố phát quang trong rừng ở ngôi nhà của họ. Đứng giữa những gốc cây có nhiều nhà đến nỗi Laura không đếm xuể. Tất cả những căn nhà này cũng không làm bằng các khúc cây mà đều làm bằng ván giống như toà nhà cửa hàng. Laura không bao giờ tưởng tượng có nhiều nhà tới thế và các ngôi nhà lại đứng gần sát nhau như vậy. Dĩ nhiên, những ngôi nhà này đều nhỏ hơn nhiều so với cửa hàng. Một ngôi nhà làm bằng những tấm ván mới chưa đủ thời gian đổi thành màu xám nên còn giữ nguyên màu vàng tươi của gỗ mới xẻ. Người ta sống trong những ngôi nhà ngày. Khói bốc lên từ các ống khói. Dù không phải ngày thứ hai mà có nhiều phụ nữ phơi giặt đồ trên các bụi cây hoặc các khúc gốc cây cạnh nhà. Rất đông trẻ em trai gái đang nô giỡn dưới nắng trên khoảng đất trống giữa cửa hàng và các ngôi nhà. Chúng phóng từ gốc cây này sang gốc cây khác và la hét. Bố nói: - Rồi, đó là Pepin! Laura chỉ gật đầu. Cô chăm chú nhìn, nhìn và không nói nổi một tiếng nào. Một lát sau, cô lại ngồi xuống và lũ ngựa tiếp tục đi tới. Họ để cỗ xe trên bãi đất ven hồ. Bố tháo gióng cho ngựa và buộc mỗi con vào một bên sườn thùng xe. Rồi bố nắm tay Laura và Mary trong lúc mẹ bồng bé Carrie bước sát bên. Cả nhà bước qua bãi cát dày về phía cửa hàng. Cát hấp hơi nóng phủ trùm lên giày của Laura. Trước cửa hàng là một mặt sàn rộng mà một phía là những bậc tam cấp đưa lên khỏi bãi cát. Tim Laura đập nhanh đến mức cô trèo lên các bậc tam cấp một cách khó khăn. Toàn thân cô bé run lên. Đây là cửa hàng mà bố thường tới bán da thú. Khi cả nhà bước vào, người bán hàng nhận ra bố. Ông ta bước ra khỏi quầy hàng chào bố, chào mẹ và đó là lúc Laura và Mary phải chứng tỏ biết cách cư xử. Mary nói: - Ông mạnh giỏi không? Nhưng Laura không thể nói được gì. Người bán hàng nói với bố mẹ: - Anh chị đã đưa tới đây một cô bé thật xinh. Và ông ngắm những lọn tóc vàng óng của Mary. Nhưng ông ra không nói tiếng nào về Laura hoặc những lọn tóc của cô. Chúng tối và nâu xỉn. Cửa hàng đầy ắp đồ để xem ngắm. Dọc một phía cửa hàng là những chiếc giá chồng chất đủ thứ vải in hoa. Mẫu màu đẹp đẽ nào cũng có, hồng, xanh, đỏ, nâu, tím. Trên nền nhà, dọc hai bên tấm ván quầy hàng là những thùng đinh, thùng đạn và các khạp gỗ lớn đầy kẹo. Rồi lại có những túi muối, túi đường. Chính giữa cửa hàng là một chiếc cày làm bằng gỗ nhẵn bóng với chiếc lưỡi cày sáng lấp lánh cùng những lưỡi rìu bằng thép, những lưỡi búa, lưỡi cưa và đủ loại dao – dao quắm, dao phay, dao lạng, dao găm. Cũng có đủ loại ủng lớn, ủng nhỏ và giày lớn, giày nhỏ. Laura có thể dành cả tuần để xem ngắm mà vẫn chưa ngắm hết những thứ trong cửa hàng này. Cô không biết trên đời lại có nơi nhiều các món đồ như thế. Bố và mẹ mua bán một hồi khá lâu. Người bán hàng đem xuống hết súc vải này tới súc vải khác đều rất đẹp, trải rộng cho mẹ mân mê, xem ngắm và định giá. Laura và Mary đứng ngắm nhưng không được đụng tay vào. Mỗi màu mới, mẫu mới lại đẹp hơn mẫu trước và có quá nhiều, Laura không hiểu làm sao mẹ lựa chọn nổi. Mẹ chọn hai mẫu chúc bâu để may áo cho bố và một mẫu vải hoa màu nâu để may cho bố một chiếc áo khoác. Rồi mẹ chon vải trắng làm khăn trải giường và may các đồ lót. Bố đã kiếm được một mẫu chúc bâu để may tạp dề mới cho mẹ. Mẹ nói: - Ô, thôi khỏi, Charles! Em không cần thứ đó đâu! Nhưng bố cười nói mẹ phải tự lựa màu hoặc là bố sẽ lựa cho mẹ một mẫu màu đỏ mào gà với những bông hoa vàng lớn. Mẹ mỉm cười, mặt ửng đỏ và mẹ chọn mẫu những nụ hồng chen giữa lá xanh trên nền màu vàng nhạt. Rồi bố chọn cho mình một đôi giày cao su đi mưa, một ít thuốc hút pip. Mẹ mua thêm một cân trà và một gói đường nhỏ phòng khi nhà có khách. Đó là thứ đường có màu nâu nhạt chứ không sậm nâu như đường trường khế mà mẹ vẫn dùng hàng ngày. Khi việc mua bán đã xong, người bán hàng tặng cho Mary và Laura mỗi cô một viên kẹo. Cả hai đều ngạc nhiên và thích thú chỉ còn biết đứng nhìn những viên kẹo. Rồi Mary kịp nhớ ra và lên tiếng: - Cảm ơn ông. Laura không thể nói được. Mọi người chờ, còn cô thì nín lặng. Mẹ phải hỏi: - Con nói gì không, Laura? Lúc này Laura mới mở miệng được, cố nuốt hơi thì thào: - Cảm ơn ông. Cả nhà ra khỏi cửa hàng. Hai viên kẹo đều có màu trắng hình trái tim, mỏng, phẳng phiu phía trên in chữ màu đỏ. Mẹ đọc chữ giúp các cô. Trên viên kẹo của Mary, chữ viết: Hoa hồng màu đỏ Vi-ô-lết màu xanh Kẹo đường ngọt lịm Chính bạn, đích danh. Trên viên kẹo của Laura chỉ có dòng chữ: - Vui sướng đến với kẹo đường. Kích thước các viên kẹo bằng nhau nhưng chữ in trên viên kẹo của Laura lớn hơn trên viên kẹo của Mary. Cả nhà băng ngang bãi cát trở lại bên cỗ xe trên bờ hồ. Bố lấy phần lúa mạch mang theo đặt dưới thùng xe cho ngựa ăn, mẹ mở hộp đồ ăn làm sẵn. Tất cả ngồi quây trên cát nóng bên cỗ xa ăn bánh mì với bơ, phô-mai, trứng luộc và bánh qui. Từng đợt sóng trên mặt hồ Pepin nối nhau dồn vào bờ ngay dưới chân họ rồi dội lại tạo nên một âm vang nhỏ lan xa. Sau bữa ăn, bố quay lại cửa hàng để trò chuyện với một số ngựa khác. Mẹ ngồi im giữ bé Carrie cho tới khi bé ngủ. Laura và Mary chạy dọc bên bờ hồ tìm chọn những viên sỏi xinh xắn đã được nhiều lớp sóng trên bờ hồ mài nhẵn. Sỏi ở đây khác hẳn với sỏi ở khu Big Woods. Khi kiếm được một viên vừa ý. Laura bỏ vào túi và càng lúc cô càng kiếm được những viên sỏi đẹp hơn khiến túi cô căng phồng. Rồi bố gọi lớn và các cô chạy trở lại xe vì ngựa đã đóng xong và đã tới lúc trở về nhà. Laura cực kì sung sướng với một túi đầy sỏi xinh đẹp, khi cô chạy băng qua bãi cát trở lại với bố. Nhưng khi bố nhấc cô lên đặt vào thùng xe thì có một điều khủng khiếp xảy ra. Đám sỏi nặng chịch xé toang chiếc túi khỏi áo của cô. Chiếc túi rơi xuống và sỏi lăn khắp đáy thùng. Laura khóc thét lên vì chiếc áo đẹp nhất của cô đã bị rách. Mẹ trao bé Carrie cho bố và bước tới ngay để coi chỗ áo rách. Rồi mẹ nói không sao hết. Mẹ nói: - Nín ngay, Laura. Mẹ có thể khâu ghép lại. Mẹ chỉ cho Laura thấy chiếc áo không hề rách kể cả chiếc túi. Túi áo là một túi nhỏ được khâu dính vào vạt áo và lủng lẳng ở đó, chỉ có đường khâu này bị đứt ra thôi, mẹ có thể khâu dính chiếc túi trở lại như mới. Mẹ nhắc: - Nhặt những viên sỏi lên, Laura. Và nhớ lần khác, đừng có tham lam như thế. Thế là Laura nhặt lại các viên sỏi, bỏ vài túi và đặt chiếc túi trong lòng. Cô không nghĩ ngợi nhiều khi bố cười cô là quá tham lam đến nỗi gom góp nhiều hơn cả sức mang của mình. Không một điều tương tự nào xảy ra cho Mary. Mary là một cô bé ngoan, luôn giữ quần áo gọn gàng, sạch sẽ và biết cách xử sự. Mary còn có những lọn tóc vàng óng ánh dễ thương và viên kẹo trái tim của cô có cả một bài thơ. Mary tỏ ra đúng mực, dịu dàng, quần áo sạch sẽ không nhăn nhím đang ngồi trên tấm ván ngay bên cạnh Laura. Laura không nghĩ như thế là tốt đẹp. Nhưng cô vẫn có một ngày kì diệu, một ngày kì diệu nhất trong đời cô. Cô nghĩ về hồ nước bao la, về thành phố mà cô được thấy và về ngôi cửa hàng đồ sộ đầy ắp mọi thứ đồ. Cô cẩn thận giữ túi sỏi trong lòng và bọc kĩ viên kẹo trái tim trong chiếc khăn tay chờ khi về nhà sẽ cất nó đi. Nó quá đẹp nên không thể ăn được. Cô xe nẩy xóc suốt đoạn đường băng qua rừng Big Woods về nhà. Mặt trời xuống thấp và rừng cây tối dần, nhưng trước khi những tia sáng cuối cùng tắt hẳn, mặt trăng đã vươn lên. Và, tất cả đều yên tâm vì bố có mang súng. Ánh trăng dọi xuống xuyên qua các ngọn cây in thành những mảng đốm sáng tối chen lẫn trên đường. Tiếng vó ngựa khua lốp cốp ròn rã. Laura và Mary đều không nói vì các cô rất mệt, còn mẹ ngồi im ẵm bé Carrie đang ngủ trên tay. Nhưng bố hát khẽ: - Dạo qua khắp lâu đài hoan lạc. Chẳng nơi nào bằng mái nhà ta. Chương 10: Mùa Hè Đã vào mùa hè và là lúc mọi người thăm viếng nhau. Thỉnh thoảng chú Henry, bác George hay ông nội cưỡi ngựa tới Big Woods gặp bố. Mẹ thường ra cửa đón, hỏi thăm tất cả mọi người và mẹ thường nói: - Charles đang ở khu phát quang. Rồi mẹ nấu nhiều món ăn hơn thường lệ và bữa ăn kéo dài hơn. Sau đó, bố mẹ cùng khách ngồi trò chuyện một hồi trước khi họ trở về làm việc. Đôi khi mẹ dẫn Laura và Mary băng qua đường xuống đồi, tới thăm bà Peterson. Gia đình Peterson mới chuyển tới. Nhà họ còn rất mới và ngăn nắp vì bà Peterson không có những cô bé bày bừa bãi. Bà là người gốc Thuỵ Điển nên thường cho Laura và Mary coi những món đồ xinh xinh mà bà mang từ Thuỵ Điển tới - những dải viền ren, những món đồ thêu đủ màu và đồ sứ. Bà Peterson nói với các cô bằng tiếng Thuỵ Điển còn các cô nói tiếng Anh nhưng họ hiểu nhau rất rõ. Khi các cô ra về, bà luôn cho mỗi cô một chiếc bánh qui và các cô nhấp nháp từ từ chiếc bánh trong lúc đi đường. Laura nhấm hết đúng nửa chiếc bánh và Mary cũng nhấm hết nửa chiếc. Phần còn lại các cô dành cho bé Carrie. Khi các cô về tới nhà, bé Carrie có hai nửa chiếc bánh, tức là có hẳn một chiếc bánh. Điều này không hợp lí. Các cô đều muốn chia bánh qui với Carrie cho hợp lí. Nhưng nếu Mary ăn nửa chiếc bánh trong khi Laura ăn hết chiếc bánh hoặc ngược lại Laura ăn nửa chiếc bánh còn Mary ăn hết chiếc bánh cũng không ổn chút nào. Các cô không biết làm sao. Vì thế, mỗi cô đều dành lại một nửa chiếc bánh cho Carrie. Nhưng các cô luôn cảm thấy điều này cũng chưa hợp lí hẳn. Có khi một người láng giềng báo tin họ sẽ đưa cả gia đình tới chơi trọn ngày. Thế là mẹ dọn dẹp, nấu nướng kỹ hơn và mở túi đường mua ở cửa hàng. Và, đúng ngày hẹn, một cỗ xe lái tới trước cổng vào buổi sáng rồi các cô có những trẻ lạ để cùng chơi đùa. Khi ông bà Hunleatt tới, họ dắt theo Eva và Clarence. Eva là một cô gái xinh xắn với cặp mắt đen và những lọn tóc đen. Cô chơi đùa dè dặt và giữ quần áo sạch sẽ, mượt mà. Mary thích như thế nhưng Laura thích chơi với Clarence hơn. Clarence có mái tóc đỏ hoe và đầy tàn nhanh nhưng luôn cười. Quần áo của cậu cũng rất đẹp. Cậu mặc chiếc áo màu xanh dương cài những chiếc nút sáng bóng, quần áo có những dải viền và mang giày bọc đồng ở mũi. Nhưng dây đồng ngang mũi giày sáng loá đến nỗi Laura ao ước được là con trai. Các cô bé không được mang giày như thế. Laura cùng Clarence chạy nhảy, la hét và trèo lên cây trông lúc Mary Và Eva cùng nhau dạo quanh, trò chuyện. Mẹ cùng bà Huleatt thăm nom vài thứ rồi xem ngắm cuốn sách dành cho các bà của Godey dó bà Huleatt mang tới trong lúc bố cùng ông Huleatt coi lũ ngựa, mùa màng và hút thuốc. Có lần cô Lotty tới chơi trọn ngày. Sáng hôm đó, Laura đứng im thật lâu cho mẹ gỡ những miếng vải buộc lên tóc và chải mái tóc của cô thành những lọn dài uốn cong. Mary đã ngồi đoan trang trên ghế với những lọn tóc vàng óng trong chiếc áo xanh da trời tươi tắn, gọn gẽ. Laura rất thích chiếc áo màu đó của mình. Nhưng mẹ chải tóc cô đau điéng và mái tóc lại màu nâu thay vì màu vàng thành ra chẳng ai thèm ngó đến. Mọi người chỉ trầm trồ về mái tóc của Mary. Cuối cùng, mẹ nói: - Rồi tóc của con đã được uốn rất đẹp và cô Lotty đang tới đó. Cả hai con nhớ chạy ra đón cô rồi hỏi coi cô thích mái tóc nào nhất, tóc nâu hay tóc vàng. Laura và Mary lao ra khỏi cửa, chạy xuống lối đi vì cô Lotty đã tới cổng. Cô Lotty là một cô gái lớn, cao hơn Mary rất nhiều. Cô mặc chiếc áo màu hồng, lủng lẳng chiếc nón màu hồng với dải buộc trước cổ. Mary hỏi: - Cô thích tóc nào nhất, cô Lotty, tóc nâu hay tóc vàng? Mẹ đã dặn hỏi điều đó và Mary là một cô bé ngoan luôn làm đúng lời mẹ dặn. Laura chờ nghe câu trả lời của cô Lotty với cảm giác khổ sở. Cô Lotty mỉm cười đáp: - Cô thích cả hai thứ như nhau. Cô đưa tay dắt hai cô bé đi sát hai bên và các cô nhảy nhót đi tới chỗ mẹ đứng trước cửa. Nắng xuyên qua cửa sổ ùa vào nhà như những dòng suối và mọi thứ đều gọn gàng, xinh đẹp. Bàn ăn phủ khăn vải đỏ và lò bếp gạch sạch bóng một màu đen sáng lóng lánh. Qua cửa phòng ngủ, Laura có thể nhìn rõ chiếc giường có bánh lăn nằm đúng chỗ dưới chiếc giường lớn. Cửa phòng ăn mở rộng bày ra trước mắt những món ăn thơm nức trên các giá đồ và con mèo Black Susan vừa kêu gù gù vừa xuống cầu thang mái gác, nơi nó vừa nằm ngủ. Tất cả đều thoải mái và Laura vui vẻ, ngoan ngoãn đến nỗi không ai dám nghĩ cô có thể hư như cô đã làm vào buổi tối hôm đó. Khi cô Lotty đi rồi, Laura và Mary đều mệt mỏi. Các cô ở bên đống gỗ gom vỏ bào để nhóm lửa vào sáng mai. Các cô không thích gom vỏ bào nhưng vẫn phải làm mỗi ngày. Tối nay, các cô còn ghét việc này nhiều hơn nữa. Laura chộp những mảnh vỏ bào lớn nhất và Mary nói: - Chị không cần. Dù thế nào thì cô Lotty vẫn thích mái tóc của chị hơn. Tóc vàng đẹp hơn tóc nâu rất nhiều. Họng Laura nghẹn cứng và cô không thể nói nổi. Cô đã biết rõ tóc vàng đẹp hơn tóc nâu. Cô không thể cãi nên cô bước tới thật nhanh, tát vào mặt Mary. Lập tức cô nghe tiếng bố gọi: - Tới đây, Laura! Cô kéo lết bàn chân nhích tới từ từ. Bố đang ngồi phía trong cửa ra vào và đã thấy cô tát Mary. Bố nói: - Con nhớ chứ, bố vẫn dặn các con là không bao giờ được đánh nhau. Laura lên tiếng: - Nhưng, Mary bảo… Bố cắt ngang: - Chuyện vẫn thế thôi! Bố đã nói là phải làm theo lời bố. Rồi bố lấy sợi dây da trên vách xuống và quất Laura. Laura ngồi xuống một góc ghế, nức nở. Khi ngưng nức nở, cô giận dỗi. Điều duy nhất khiến cô tạm vui là Mary phải một mình gom đầy vỏ bào. Cuối cùng, lúc trời tối, bố gọi: - Tới đây, Laura! Giọng bố dịu dàng hơn và khi Laura tới bên, bố đặt cô lên đùi, xiết chặt. Cô ngồi trong vòng tay bố, tựa đầu vào vai bố và bộ râu dài che gần hết mắt cô rồi mọi chuyện lại ổn. Cô kể lại với bố sự việc và hỏi: - Bố không thích tóc vàng nhiều hơn tóc nâu, phải không bố? Cặp mắt xanh của bố loé sáng nhìn cô và bố nói: - Này, Laura, tóc bố màu nâu mà! Cô đã không nghĩ về điều đó. Tóc bố màu nâu, râu bố màu nâu và cô thấy màu nâu rất dễ thương. Nhưng cô vẫn vui vì Mary phải một mình lượm vỏ bào. Nhũng buổi tối mùa hè, bố không kể chuyện hoặc chơi đàn. Ngày mùa hè dài dặc và bố rất mệt sau khi làm việc nặng nhọc suốt ngày ngoài đồng. Mẹ cũng vô cùng bận rộn. Laura và Mary giúp mẹ nhổ cỏ vườn, giúp mẹ cho mấy con bò con và lũ gà mái ăn. Các cô còn gom trứng và giúp làm phô-mai. Khi cỏ trong rừng đã mọc cao và dày dặc, lũ bò cái cho sữa rất nhiều và đó là lúc làm phô-mai. Một con bò con sẽ bị giết vì không thể làm nổi phô-mai nếu thiếu dịch vị trong bao tử bò con. Con bò con đó phải rất nhỏ để chắc chắn nó chưa ăn thứ gì khác ngoài sữa mẹ. Laura sợ bố sẽ giết chết một con bò con trong lũ bò con ở nhà kho. Lũ bò con này rất hiền lành. Một con màu vàng, một con màu hung, lông mượt mềm và mắt luôn mở lớn ngơ ngác. Tim đập mạnh khi mẹ nói chuyện với bố về việc làm phô-mai. Bố không muốn giết con bò con nào vì chúng là bê cái, khi lớn lên sẽ thành bò cái. Bố tới nhà ông nội rồi tới nhà chú Henry để bàn chuyện làm phô-mai và chú Henry nói chú sẽ giết một con bò con của chú. Thế là đã có đủ dịch vị cho cô Polly, bà nội và mẹ. Bố quay lại nhà chú Henry một lần nữa và trở về với một miếng bao tử bò con. Nó giống như một miếng da mềm, trắng xám với một mặt có những lằn gợn xù xì. Buổi tối, lúc vắt sữa bò, mẹ cất sữa trong mấy chiếc xoong. Buổi sáng, mẹ hớt lấy váng kem để sau này làm bơ. Rồi, mẹ trộn số sữa đã vớt váng này với sữa lạnh buổi sáng, đặt lên lò đun cho nóng. Một ít dịch vị bò con buộc trong miếng vải được dầm vào nước ấm. Khi sữa đủ nóng, mẹ vắt ép cho từng giọt nước dịch vị từ miếng vải nhỏ vào trong sữa. Mẹ khuấy thật đều rồi đặt lên một chỗ ấm bên cạnh lò. Lát sau, nó đặc lại thành một khối mềm nhuyễn rung rinh. Mẹ dùng con dao dài cắt khối mềm này thành những miếng vuông nhỏ, dựng đứng lên cho nước sữa chảy khỏi những miếng sữa cục. Rồi mẹ đặt tất cả sữa cục vào một miếng vải để cho lớp nước sữa mỏng màu vàng chảy ra. Khi không còn giọt nước sữa nào trên miếng vải, mẹ trút hết sữa cục vào chiếc chảo lớn, rắc muối, đảo, trộn thật kĩ. Laura và Mary túc trực tại đó làm giúp mọi việc có thể làm được. Các cô thích ăn những cục sữa đông khi mẹ đang ướp muối. Chúng như bật kêu giữa hàm răng. Dưới cây anh đào ngoài cửa sau, bố đặt một tấm ván để ép phô-mai. Bố xẻ hai đường rãnh dọc tấm ván và đặt tấm ván lên hai khối cây cho một đầu hơi cao hơn đầu kia một chút. Dưới đầu tấm ván thấp hơn là một khạp gỗ trắng. Mẹ đặt trên tấm ván chiếc khuôn gỗ tròn phía trong một miếng vải ướt, sạch và đổ đầy lên đó những cục sữa đông để ướp muối. Mẹ lấy một miếng vải ướt, sạch khác phủ kín lại rồi đặt lên trên hết một miếng ván tròn đã được cắt cho vừa khít để lọt vào trong khuôn gỗ. Lúc này, mẹ nhấc một tảng đá nặng đặt lên trên miếng ván. Suốt ngày, miếng ván tròn từ từ nén xuống dưới sức nặng của tảng đá và nước sữa bị ép chảy ra theo các rãnh xẻ trên tấm ván bên dưới xuống chiếc khạp gỗ. Sáng hôm nay, mẹ lấy ra trọng khối phô-mai màu vàng nhạt, tròn lớn bằng chiếc xoong đựng sữa. Rồi mẹ làm cho đông cứng hơn nữa và đổ đầy trở lại vào khuôn. Mỗi buổi sáng mẹ đều lấy chỗ phô-mai ra khỏi khuôn ép và làm cho mềm nhuyễn hơn. Mẹ khâu chặt xung quanh khối phô-mai một miếng vải và lấy bơ lạt chà khắp miếng vải. Rồi mẹ đem đặt lên giá trong phòng ăn. Hàng ngày, mẹ lau chùi từng khối phô-mai hết sức cẩn thận bằng vải ướt rồi lại chà bơ lạt khắp xung quang và đặt xuống trên một cạnh khác. Sau nhiều ngày, phô-mai đủ độ chín và có một lớp vỏ cứng bọc xung quanh. Lúc đó, mẹ lấy giấy gói từng khố phô-mai lại cất trên giá cao. Bây giờ chỉ còn một việc duy nhất để làm là ăn nó. Laura và Mary rất thích làm phô-mai. Các cô thích ăn những cục sữa đông kêu lốp bốp giữa hàm răng và thích ăn những mảnh do mẹ lạng ra khỏi khối phô-mai vàng, tròn, lớn để làm nhuyễn trước khi khâu bọc trong vải. Mẹ cười các cô ăn thứ phô-mai xanh ngắt. Mẹ nói với các cô: - Có người bảo ánh trăng khiến phô-mai có màu xanh. Những khối phô-mai mới lấy ra khỏi khuôn gỗ không có vẻ tròn như mặt trăng. Nhưng chúng không có màu xanh mà vàng như mặt trăng. Mẹ bảo: - Nó xanh vì chưa đủ độ chín. Khi được ướp muối và chín, nó không còn xanh nữa. - Có đúng mặt trăng làm cho phô-mai thành xanh không? Laura hỏi và mẹ cười. Mẹ nói: - Mẹ nghĩ một người nói vậy là do mặt trăng có vẻ giống một khối phô-mai màu xanh. Nhưng những hình thức bên ngoài chỉ là lừa gạt. Rồi, trong lúc lau chùi tất cả những ổ phô-mai màu xanh và chà thêm bơ, mẹ kể với các cô về mặt trăng lạnh lẽo, im lìm, trên đó không có thứ gì sinh sôi và lớn lên được. Ngày đầu tiên mẹ làm phô-mai, laura đã nếm thử nước sữa. Cô nếm mà không nói gì với mẹ và khi quay lại thấy mặt cô, mẹ cười. Đêm đó, lúc ngồi rửa chén dĩa sau bữa ăn tối, trong khi Mary và Laura đang lo lau mình, mẹ nói với bố là Laura đã nếm thử món nước sữa và tỏ ra không thích. Bố nói: - Con không nên đói tới chết vì món nước sữa của mẹ giống như ông già Grimes đã làm với món nước sữa của vợ ông ấy. Laura nài nỉ bố kể cho cô nghe về ông già Grimes. Thế là, mặc dù rất mệt, bố vẫn lấy đàn ra khỏi hộp để đàn và hát cho Laura nghe: Già Grimes chết rồi, ông già hiên lành tử tế Chẳng bao giờ còn ai được thấy ông Ông thường mặc chiếc áo choàng cũ kĩ Nút cài xuôi xuống suốt một dòng Vợ già Grimes vừa vợt xong lớp váng Già Grimes bưng nước sữa uống liền Gió lốc bỗng ào ào thổi đến Cuốn già Grimes về chốn cửu tuyền. Bố nói: - Con thấy đó! Bà ta là một người đàn bà keo kiệt. Nếu bà ta không vớt hết lớp váng sữa, bớt lại một chút kem trong nước sữa thì chắc ông già Grimes chỉ đi đứng lảo đảo thôi. Nhưng bà ta đã vớt sạch kem nên ông già Grimes tội nghiệp mới gầy ốm tới nỗi bị gió thổi bay đi luôn. Đúng là chết đói! Rồi bố nhìn mẹ nói: - Không ai phải chết đói khi có em ở bên, Caroline. Mẹ nói: - Ồ, không, không hẳn đâu, Charles, nếu không có anh ở đó để cung cấp mọi thứ. Bố có vẻ thú vị. Mọi thứ đều dễ chịu, các cánh cửa đều mở rộng đón hơi đêm mùa hè, chén dĩa như cùng reo vui vì được mẹ rửa sạch còn Mary và Laura đã lau chùi xong trong lúc bố cất đàn, mỉm cười, khẽ huýt gió. Một lát sau, bố nói: - Caroline, sáng mai anh sẽ qua nhà Henry mượn chiếc cuốc xới. Các chồi non quanh các gốc cây ngoài đồng bắp đã vươn cao ngang thắt lưng rồi. Phải kềm chặn chúng lại, không thì rừng sẽ quay lại chiếm chỗ. Sáng sớm hôm sau, bố đi bộ qua nhà chú Henry. Nhưng đi chưa được bao xa, bố đã hối hả trở về, cột ngựa vào xe, vứt lên thùng xe cây rìu, hai chiếc bồn đựng nước tắm, chiếc bồn đựng nước sôi và tất cả khạp, thùng gỗ có trong nhà. Bố nói: - Anh không biết có cần dùng hết không, nhưng anh không thích không có khi cần đến. Laura nhảy tưng tưng một cách hào hứng, hỏi: - Ô, chuyện gì vậy? Chuyện gì vậy? Mẹ nói: - Bố tìm thấy một ổ ong. Có thể bố sẽ đem mật về. Sau buổi trưa bố mới về nhà. Laura đang chờ và chạy thẳng tới ngay khi cỗ xe vừa dừng lại cạnh sân nhà kho. Nhưng cô không nhìn được vào trong xe. Bố gọi: - Caroline, ra mang giúp anh khạp mật này đi, anh phải tháo ngựa. Mẹ đi tới bên cỗ xe, vẻ thất vọng. Mẹ nói: - Chà, Charles, một khạp mật thì có là gì đâu. Rồi mẹ nhìn vào trong thùng xe và buông thõng hai tay. Bố cười lớn. Tất cả thùng gỗ, khạp đều đầy ắp những mảng tổ ong vàng ướt đẫm mật. Cả hai bồn tắm và bồn chứa nước sôi cũng đầy tràn. Bố và mẹ tới lui mang tất cả bồn, thùng, khạp vào nhà. Mẹ chất cao nhiều mảng mật vàng óng lên một chiếc dĩa rồi phủ kín tất cả số còn lại bằng những miếng vải. Trong bữa ăn trưa, cả nhà mặc sức ăn món mật tuyệt vời và bố kể cho các cô nghe bố tìm thấy bọng tổ ong ra sao. Bố kể: - Bố không mang súng theo vì không đi ắn và lúc này là mùa hè nên không sợ gặp điều gì nguy hiểm. Vào thời điểm này, lũ báo và gấu đèu mập mạp tới nỗi lười biếng và hiền lành. Bố đi tắt qua rừng và gần như đâm thẳng vào một con gấu lớn. Bố vòng khỏi một gốc cây dưới một bụi rậm và thấy nó đúng không xa hơn căn phòng này. Nó nhìn quanh bố và bố đoán nó thấy bố không có súng. Dù sao, nó tỏ ra không thèm để ý đến bố chút nào. Nó đứng dưới một gốc cây lớn và khắp phía xung quanh nó đen đặc ong. Ong không thể chích lớp da dày của nó nhưng nó phải quơ một chân trước lên giữ không cho bầy ong sáp gần tới đầu nó. Bố đứng nhìn nó và thấy nó đặt một chân trước trong một hốc cây và lôi ra một tảng mật ướt đẫm. Nó liếm mật dính trên bàn chân và nhích lại gần hơn nữa. Lúc đó bố đã tìm được một cây gậy. Bố muốn lấy số mật đó. Thế là bố vung cây gậy, đập vào một thân cây, hét lớn cây náo động. Con gấu quá mập và no sữa đến nỗi nó chỉ co người trên bốn chân, lạch bạch luồn giữa các cội cây. Bố lùa nó một khoảng xa, làm nó phải chạy nhanh hơn, xa khỏi bọng cây có ổ ong rồi bố trở về lấy cỗ xe. Laura hỏi bố lấy mật khỏi bầy ong bằng cách nào. Bố nói: - Dễ mà, bố đưa ngựa tới sau rừng, nơi mà bầy ong không tới để chích chúng rồi bố đốn bọng cây bửa ra. - Ong không chích bố à? Bố đáp: - Không. Ong không bao giờ chích bố. Khúc cây rỗng ruột và đầy mật từ đầu tới cuối. Có lẽ ong đã gây mật nhiều năm rồi. Một phần mật lâu ngày đã sậm màu, nhưng bố nghĩ là bố đã lấy về trọn phần mật tốt, sạch để dùng khá lâu được. Laura thấy tội nghiệp cho đám ong. Cô nói: - Chúng nó phải làm việc cực nhọc lắm mà bây giờ không giữ được giọt mật nào. Nhưng bố nói còn để lại rất nhiều mật cho chúng và còn có nhiều bọng cây khác ở gần đó để chúng có thể gầy ổ lại. Bố nói đây cũng là lúc chúng có một ngôi nhà mới, thoáng sạch. Chúng sẽ gom lại số mật cũ mà bố bỏ lại, chế biến thành thứ mật tươi, mới để tồn trữ trong ngôi nhà mới của chúng. Chúng sẽ gom từng giọt mật tràn ra để cất giữ và sẽ có rất nhiều mật từ rất lâu trước khi mùa đông tới. Chương 11: Ngày Mùa Bố và chú Henry đã thoả thuận giúp nhau làm việc. Khi tới mùa vụ, chú Henry tới làm việc với bố và cô Polly cùng đám trẻ anh chị em họ tới nghỉ tại nhà. Sau đó, bố tới giúp chú Henry thu hoạch và mẹ đem Laura, Mary cùng bé Carrie tới nghỉ ở nhà cô Polly. Mẹ và cô Polly cùng làm việc nhà còn lũ trẻ quây quần chơi ngoài sân cho tới giờ ăn. Sân nhà cô Polly là chỗ chơi đùa rất tuyệt vì gốc cây dày đặc. Lũ trẻ chơi trò nhảy từ gốc này qua gốc khác mà không khi nào phải đặt chân xuống đất. Ngay cả Laura nhỏ nhất đám cũng dễ dàng chơi ở những chỗ các cây nhỏ nhất mọc khít nhau. Charley là đứa con trai lớn nhất sắp được mười một tuổi có thể chuyền trên gốc cây đi khắp sân. Cậu có thể vượt qua hai gốc cây nhỏ một lúc và có thể leo lên đầu hàng rào sắt mà không sợ gì. Bố và chú Henry cắt lúa mạch ngoài đồng bằng những chiếc hái. Hái là một lưỡi sắt bén gắn vào một sường làm bằng những thanh gỗ mỏng để đỡ thân cây lúc chĩu hạt khỏi rơi khi cắt. Bố và chú Henry mang những chiếc hái theo phần tay cầm dài uốn cong, vung chiếc lưỡi vào những cuốn lúa đang đứng.khi cắt đủ nắm, họ trút những cuốn lúa đã cắt thành những bó gọn gàng trên mặt đất. Thật khó nhọc khi đi vòng trên đồng dưới ánh nắng gắt, hai tay vung những chiếc hái nặng nề để cắt lúa rồi trút thành bó. Sau khi cắt xong, họ còn phải đi khắp đồng. Đây là lúc họ phải khom người trên từng nắm lúa đem gom lại thành bó. Rồi họ vòng tay nhấc bổng những bó lên, buộc chặt lại bằng dây thắt nút với phần cuối dây nhét trong bó lúa. Làm xong bảy bó như thế thì các bó phải được gom tụ lại. Để thành một tụ, năm bó được dựng đứng cho các đầu có hạt chụm sát vào nhau. Sau đó, phủ thêm hai bó lên trên cho những cuống lúa làm thành một mái nhỏ che cho năm bó kia khỏi bị rụng hạt do sương và mưa. Mỗi cuống lúa đã cắt luôn phải được đứng an toàn trong tụ vì nếu nằm trên đất ẩm sương suốt đêm sẽ bị hư. Bố và chú Henry làm việc rất cực, vì thời tiết nóng và nặng nề đến độ họ đoán là sẽ có mưa. Lúa mạch đã chính nên nếu không cắt để cho vào tụ kịp trước khi mưa tới thì sẽ thất bát. Lúc đó, lũ ngựa của chú Henry sẽ bị đói trong mùa đông. Buổi trưa, bố và chú Henry vội vã trở về, nuốt thật nhanh cho xong bữa. Trưa hôm đó, chú Henry bảo Charley phải ra giúp họ. Laura nhìn bố khi chú Henry nói điều đó. Lúc ở nhà, bố đã nói với mẹ là chú Henry và cô Polly làm hư Charley. Khi mười một tuổi, bố đã làm việc thành thạo mỗi ngày ở ngoài đồng, dẫn dắt cả một toán. Nhưng Charley khó làm nổi việc gì. Bây giờ chú Henry bảo Charley phải ra đồng làm việc. Cậu đã dành khá nhiều thời gian bên lũ nhỏ. Cậu có thể rs suối lấy nước, có thể mang tới cả bình nước khi lũ nhỏ cần uống. Cậu có thể kiếm đá mài khi cần mài bén các lưỡi dao. Tất cả lũ trẻ đều nhìn Charley. Charley không muốn ra đồng. Cậu muốn ở lại chơi đùa trong sân. Nhưng dĩ nhiên, cậu không thể nói như thế. Bố và chú Henry không nghỉ. Họ ăn vội vã rồi trở lại ngay với công việc và Charley đi cùng họ. Bây giờ Mary trở thành lớn nhất và cô muốn chơi một trò chơi có vẻ trầm lặng, quý phái. Thế là vào buổi chiều, lũ trẻ dựng một căn nhà ở trong sân. Bàn, ghế, lò là các gốc cây, còn lá cây là chén dĩa và trẻ nhỏ là que củi. Tối hôm đó, trên đường về nhà, Laura và Mary nghe bố kể với mẹ về những chuyện xảy ra ở ngoài đồng. Thay vì giúp bố và chú Henry thì Charley đã quậy tung mọi việc. Cậu sấn tới họ khiến họ không thể vung được hái lên. Cậu dấu miếng đá mài khiến họ phải đi tìm khi cần mài bén lưỡi hái. Cậu không chịu mang bình nước tới cho tới khi chú Henry phải gọi ba bốn lần và mặt cậu sưng sỉa lên. Sau đó, cậu quấn quanh phía sau họ, nói chuyện và hỏi đủ thứ. Họ đang qua mệt vì công việc nên không thể chú ý đến cậu và vì vậy đã bảo cậu đi chỗ khác đừng quấy rầy họ. Nhưng họ buộc phải bỏ hái xuống chạy băng qua đồng khi nghe tiếng cậu la hét. Rừng cây bao kín quanh đồng nên trong lúa mạch vẫn có nhiều rắn. Khi họ chạy tới với Charley thì chẳng có chuyện gì xảy ra cả và cậu cười với họ. Cậu nói: - Con gạt mọi người mà. Bố nói nếu bố là chú Henry thì bố đã nạo da thằng nhỏ ngay tại chỗ và ngay lập tức. Nhưng chú Henry đã không làm vậy. Thế là hai người uống nước rồi quay lại làm việc. Charley kêu cứu tới ba lần khiến họ phải chạy cực nhanh tới và cậu bé cười với họ. Cậu nghĩ đó là một trò đùa tốt. Và tới lúc đó, chú Henry vẫn không đánh đòn cậu. Rồi cậu kêu cứu lần thứ tư, dữ dội hơn hết. Bố và chú Henry nhìn về phía cậu, thấy cậu đang nhảy tưng tưng và la hét. Họ thấy không có vẻ gì thất thường và do đã bị gạt nhiều lần nên họ tiếp tục làm việc. Charley vẫn la hét, dữ dội và kinh hoàng hơn. Bố không nói gì nhưng chú Henry nói: - Có lẽ có chuyện gì thực. Họ đặt hái xuống, chạy qua đồng về phía cậu. Và lần này Charley đang nhảy cuống quýt ngay trên một ổ ong đất. Giống ong màu vàng này luôn làm ổ dưới đất và Charley đạp lên mà không hay. Thế là tất cả những con ong nhỏ với lớp vỏ ngoài màu vàng lấp lánh ùa ra bọc kín cậu, chích những chiếc ngòi nóng đỏ vào cậu khiến Charley đau tới lết không nổi. Cậu cứ nhảy tưng tưng và hàng trăm con ong cứ lăn vào chích khắp người. Chúng chích ở mặt, ở tay, ở cổ, ở môi, rồi luồn vào trong ống quần, luồn từ gáy xuống lưng và tiếp tục chích. Cậu càng nhảy kêu kinh hoàng thì lũ ong càng chích điên loạn hơn. Bố và chú Henry nắm hai cánh tay cậu chạy, lôi cậu ra xa khỏi ổ ong. Họ lột hết đồ của cậu và quần áo cậu vám đầy những con ong vàng trong khi người cậu sưng phồng hết vì chỗ nào cũng có ngòi ong cắm. Họ giết những con ong đang chích cậu, rũ sạch những con ong đang bám vào quần áo rồi mặc quần áo lại cho cậu và chuyển về nhà. Laura cùng Mary và lũ trẻ đang chơi êm ả trong sân thì nghe tiếng khóc rống lên. Charley khóc chửi ầm ĩ bước vào trong sân, mặt sưng vù đến nỗi nước mắt không thể lăn ra khỏi mắt. Những ngón tay cậu cũng sưng cứng ngắt. Trên khuôn mặt và cần cổ cậu nổi chằng chịt những vết cứng nhỏ màu trắng. Laura và Mary và lũ trẻ đứng nhìn cậu trân trân. Mẹ và cô Polly từ trong nhà chạy ra hỏi cậu có chuyện gì. Charley tiếp tục khóc nức và chửi bới. Mẹ bảo đó là đám ong đất vàng. Mẹ chạy ra vườn vét đầy một xoong lớn đất trong lúc cô Polly dắt Charley vào nhà lột hết quần áo cậu ra. Hai người nhào đất thành bùn và trét lên khắp người cậu. Họ quấn cậu trong tấm khăn trải giường cũ và đặt cậu lên giường. Mắt cậu sưng húp nhắm nghiền và mũi cậu thật dị dạng. Mẹ và cô Polly đắp bùn kín mặt cậu và ủ bùn lên quần áo. Chỉ lỗ mũi và miệng của cậu là lộ ra. Cô Polly ngâm một ít cỏ thuốc để giúp cho cậu khỏi lên cơn sốt. Laura và Mary cùng lũ trẻ đứng xung quanh ngắm cậu thật lâu. Mãi lúc mặt trời tối, bố và chú Henry mới ở đồng cỏ về. Tất cả lúa mạch đều đã tụ xong và lúc này dù có mưa cũng chẳng hại gì. Bố không thể ở lại ăn bữa tối, vì còn phải về nhà để kịp vắt sữa. ở nhà, lũ bò cái hẳn đang chờ và nếu không vắt sữa đúng giờ thì sẽ không có nhiều sữa. Bố hối hả đóng ngựa vào xe và cả nhà lên xe. Bố rất mệt, hai bàn tay đau buốt tới nỗi không thể lái xe chính xác nhưng lũ ngựa đã thuộc đường về nhà. Mẹ bồng bé Carrie ngồi cạnh bố còn Laura và Mary ngồi trên miếng ván phía sau. Tất cả đều nghe bố kể về những điều Charley đã làm. Laura và Mary đều kinh hoàng. Chính các cô vẫn thường không được ngoan ngoãn nhưng các cô không bao giờ tưởng tượng nổi lại có một cậu bé hư hỏng như Charley. Cậu đã không làm việc để giữ gìn đám lúa mạch. Cậu đã không chịu làm theo lời cha dặn sau khi cha vừa nói với cậu. Cậu còn quấy rầy bố và chú Henry trong lúc họ đang phải làm việc cực nhọc. Lúc đó, bố nói về những con ong đất màu vàng và bố nói: - Nó đã xử đúng một thằng bé nói dối. Khi đã lên chiếc giường có bánh lăn vào đêm đó, Laura nằm lắng nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái rồi xối chảy trước hiên và nghĩ về những gì bố nói. Cô nghĩ về việc những con ong vàng đã làm đối với Charley. Cô thấy chúng xử Charley như thế là đúng. Chúng xử đúng vì Charley hư hỏng một cách quái đản cùng cực. Nhưng con ong có quyền chích cậu ngay cả khi cậu nhảy nhót ở nhà. Nhưng cô không hiểu tại sao bố lại gọi cậu là một thằng bé nói dối. Cô không hiểu bằng cách nào cậu có thể nói dối khi cậu không hề nói một tiếng nào. Chương 12: Cỗ Máy Kỳ Diệu Hôm sau, bố đem về cho mẹ nhiều cọng rơm vàng sạch bóng cắt từ nhiều bó lúa mạch. Mẹ bỏ hết vào một thùng nước để ngâm giữ cho mềm. Rồi, ngồi trên chiếc ghế kế bên thùng nước, mẹ bện những cọng rơm lại. Mẹ lấy nhiều cọng rơm, kết lại ở một đầu và bắt đầu bện. Các cọng rơm dài ngắn khác nhau nên khi gần hết một cọng mẹ lại đặt tiếp một cọng mới và tiếp tục bện. Mẹ bỏ đầu rơm đã bện rơi trong thùng nước và tiếp tục làm cho tới khi miếng rơm bện dài nhiều bộ. Mẹ dành trọn thời giờ rãnh rỗi trong nhiều ngày để bện rơm. Mẹ lấy bảy cọng rơm nhỏ nhất làm thành một dải viền nhẵn nhụi, thanh mảnh, cầu kì, với chín cọng rơm lớn hơn, mẹ làm thành một dải viền lớn với những vết khía dọc theo các cạnh và những cọng rơm lớn nhất, mẹ bện thành một dải viền lớn nhất. Khi các cọng rơm được bện xong, mẹ dùng kim với sợi chỉ trắng dài và khởi từ đầu một dải viền cứ khâu tròn hoài để giữ nó phẳng phiu sau khi khâu. Đây là một miếng thảm nhỏ và mẹ bảo là chóp của một chiếc nón. Rồi mẹ xiết chặt một cạnh của dải viền hơn và khâu vòng quanh. Dải bện được thu vào và thành các cạnh nón. Chiếc nón đủ cao, mẹ lại thả lơi dải viền khi khâu vòng quanh và dải viền nằm thẳng thành vành nón. Khi vành nón đủ rộng, mẹ cắt dải bện và khâu một phía cực nhanh tới nỗi nó không kịp bật các nút bện ra. Mẹ khâu nón cho Mary và Laura bằng dải bện thanh mảnh nhất, tỉ mỉ nhất. Nón của bố và mẹ được bện rộng hơn và có khía. Đó là chiếc nón cho ngày chủ nhật của bố. Sau đó, mẹ làm thêm cho bố hai chiếc nón với những dải bện thô, lớn nhất để dùng hàng ngày. Khi làm xong một chiếc nón, mẹ đặt lên tấm ván hong khô, nắn hình cho thật xinh xắn và chiếc nón sẽ giữ nguyên hình dáng mẹ làm vào lúc nó khô hẳn. Mẹ có thể bện những chiếc nón rất đẹp. Laura thích ngắm mẹ và học cách bện rơm để sẽ làm một cái nón nhỏ cho Charlotte. Ngày đang thu ngắn dần và đêm thấm lạnh hơn. Một đêm, Jack-Sương-Mù đi qua và buổi sáng xuất hiện rải rác những màu sáng giữa đám lá xanh trong khu rừng Big Woods. Dọc theo hàng rào sắt, cây su-mác đưa cao những chùm trái nhỏ đỏ sậm trên những tàng lá nhuốm màu vàng lửa. Trái xồi đang rụng xuống và Laura cùng Mary đã có những chiếc ly, dĩa nhỏ bằng trái xồi trong các ngôi nhà tưởng tượng của mình. Hạnh đào và hồ đào rải đầy mặt đất rừng Big Woods và đám sóc bận rộn với việc chạy nhốn nháo khắp nơi, thu lượm những hạt nhỏ về tồn trữ cho mùa đông trong các hốc cây. Laura và Mary theo mẹ đi nhặt gom hạnh đào, hồ đào và hạt phỉ. Hạt được phơi khô dưới nắng rồi đập tách vỏ lấy nhân cất trên gác mái dành cho mùa đông. Thật thú vị khi gom những trái hạnh đào tròn lớn hoặc những hạt hồ đào nhỏ hơn và những hạt phỉ li ti đầy trên cành trong các bụi rậm. Vỏ hạn đào đầy ứ chất nước thơm nức và nêm cũng thấy ngon khi Laura thường dùng răng để ngắt cuống cho chúng rời ra. Lúc này ai nấy đều bận rộn, vì hết thảy rau trong vườn cần được gom cắt. Laura và Mary giúp lượm những củ khoai đầy bụi đất khi bố đào lên hoặc lôi những khóm cà-rốt vàng dài thượt, những búi củ cải tròn với chóp đỉnh đỏ tía hay giúp mẹ nấu bí làm mứt. Với con dao phay, mẹ xả đôi những trái bí lớn màu vàng rực, mẹ cào sạch hạt ở phía trong, cắt thành những miếng dài và gọt vỏ. Laura giúp mẹ cắt những miếng dài này thành các miếng vuông nhỏ. Mẹ đặt hết những miếng vuông này vào một bình sắt trên lò, chế nước và canh chừng suốt ngày trong lúc bí được hầm sôi từ từ. Tất cả nước và nước bí đều phải bốc hơi hết nhưng không được để bí bị cháy. Bí biến thành một khối dầy, sậm màu và bốc mùi thơm trong bình. Nó không sôi giống nước mà nổi thành những bong bóng bất ngờ nổ ra để lại một lỗ hổng bị san lấp tức khắc. Mỗi lần một bong bóng nổ, hương vị bí nóng hổi, đậm đà lại toả ra. Laura đứng trên một chiếc ghế coi chừng bí cho mẹ và khuấy đều bằng chiếc môi gỗ. Cô nắm chiếc môi bằng cả hai tay và khuấy rất cẩn thận vì, nếu bí bị cháy thì không còn mứt bí nữa. Bữa trưa, cả nhà ăn món bí hầm với bánh mì. Các cô đặt món bí trên dĩa theo những hình dạng thật xinh. Bí có màu đẹp, nhuyễn và mềm rục dưới lưỡi dao của các cô. Mẹ không bao giờ cho phép các cô chơi đùa với thức ăn và các cô phải luôn luôn ăn thật khéo gọn mọi món ăn được bày trước mắt, không bỏ lại trong dĩa một chút nào. Nhưng mẹ cho các cô được xếp đặt món bí hầm sậm màu, đậm đà thành những hình thù xinh đẹp trước khi ăn. Những lần khác, các cô có món bánh quẫn bằng bí nướng cho bữa ăn trưa. Vỏ ngoài cứng đến nỗi mẹ phải lấy lưỡi rìu của bố để cắt trái bí làm nhiều miếng. Khi các món bí đã được nướng trong lò hấp, Laura thích trét bơ lên phần cùi mềm bên trong rồi múc lớp thịt vàng hung ra khỏi vỏ để ăn. Lúc này, vào bữa ăn tối thường có món bắp tróc vỏ với sữa. Đây cũng là món ăn ngon. Ngon tới nỗi Laura nhấp nhỏm chờ đợi ngay lúc mẹ bắt đầu tróc vỏ. Phải mất hai hoặc ba ngày mới xong món bắp tróc vỏ. Ngày đầu tiên, mẹ lau dọn và lấy hết tro ra khỏi lò nấu. Rồi mẹ đốt củi gỗ sạch và giữ tro lại. Thứ tro củi gỗ này được cho vào một túi vải nhỏ. Đêm đó, bố mang về một mớ trái bắp có hạt thật lớn. Bố nẩy bỏ những hạt nhỏ ở trên đầu. Sau đó, bố nẩy những hạt bắp còn lại vào một chiếc chảo lớn cho tới khi đầy chảo. Sáng sớm hôm sau, mẹ đổ hết số hạt bắp này cùng với túi tro vào một bình sắt lớn. Mẹ đổ đầy nước vào bình và nấu sôi rất lâu. Cuối cùng, những hạt bắp bắt đầu phồng lên, phồng lên, phồng lên mãi cho tới khi lớp vỏ nứt ra và tróc đi. Khi vỏ bắp tróc đầu hết, mẹ kéo chiếc bình nặng nề ra ngoài. Mẹ đổ đầy nước suối vào chiếc bồn giặt đã được cọ sạch rồi lấy bắp ra khỏi bình ngâm vào trong bồn. Mẹ xắn cao ống tay áo bằng vải hoa lên tới cùi chỏ, quì gối bên chiếc bồn/ hai bàn tay mẹ chà xát cho tới khi vỏ bắp tróc ra nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Mẹ trút nước đó ra ngoài rồi lại lấy nước suối từ các thùng gỗ đổ đầy vào bồn. Mẹ tiếp tục quơ tìm và chà xát từng hạt bắp giữa hai bàn tay rồi lại thay nước cho tới khi tất cả hạt bắp đều tróc vỏ và được rửa sạch. Mẹ có vẻ duyên dáng với những cánh tay trần trắng tròn trĩnh, má mẹ ửng đỏ, mái tóc mượt bóng lên trong lúc mẹ mân mê chà xát những hạt bắp trong nước. Mẹ không để văng một giọt nước lên áo. Cuối cùng, khi bắp tróc vỏ xong, mẹ đổ tất cả những hạt mềm mại, trắng tinh vào một chiếc vại lớn trong phòng ăn. Thế là, các cô đã có món bắp tróc vỏ ngào sữa cho bữa ăn tối. Đôi khi các cô ăn bắp tróc vỏ trong bữa điểm tâm với si-rô trường khế và đôi khi mẹ còn chiên những hạt bắp mềm trong mỡ heo. Nhưng, Laura thích nhất là bắp tróc vỏ ngào sữa. Mùa thu thật là vô cùng kì thú. Có thật nhiều việc để làm, nhiều món để ăn, nhiều thứ mới mẻ để xem ngắm. Laura chạy lăng xăng, nói luôn miệng từ sáng tới tối. Một buổi sáng sương mù, một cỗ máy xuất hiện trên đường. Cỗ máy do bốn con ngựa kéo và có hai người đàn ông ngồi ở trên. Lũ ngựa kéo cỗ máy này thẳng ra ngoài đồng, chỗ bố, chú Henry và ông nội cùng ông Peterson đang chất lúa mì thành đống. Sau cỗ máy còn có thêm hai người đàn ông khác điều khiển một cỗ máy nhỏ hơn. Bố gọi mẹ báo cho biết những người đập lúa đã tới. Bố vội vã ra đồng với mọi người. Laura và Mary xin phép mẹ rồi chạy ra đồng theo bố. Các cô có thể xem nếu cẩn thận không làm cản lối. Chú Henry cưỡi ngựa tới và cột ngựa vào một cội cây. Rồi bố và chú đóng tất cả những con ngựa khác, tám con tất thảy, vào cỗ xe nhỏ. Họ đóng mỗi cặp ngựa vào đầu một cây dài chĩa ra từ cỗ máy. Một cây sắt dài đặt dưới đất từ cỗ máy này tới cỗ máy lớn. Về sau Laura và Mary hỏi thì bố nói cỗ máy lớn là máy tách hạt, cây sắt dài là cần xoay và cỗ máy nhỏ là mã lực. Cần đóng tám con ngựa vào nó để khởi động nó là cỗ máy tám mã lực. Một người ngồi trên cỗ máy mã lực và khi mọi thứ đã sẵn sàng, ông ta lên tiếng thúc cho lũ ngựa bắt đầu chạy. Lũ ngựa chạy xoay tròn quanh ông ta, mỗi cặp kéo một cây dài và nối theo cặp đi trước. Do chạy vòng quanh nên chúng rất cẩn thận bước qua chiếc cần xoay bằng sắt đang nhào lộn trên mặt đất. Sức ngựa kéo giữ cho chiếc cần xoay xoay đều và tác động vào chiếc máy tách hạt đặt bên cạnh đống lúa mì. Toàn thể cỗ máy nổ như sấm rền vang động ầm ĩ. Laura và Mary nắm chặt tay nhau tròn mắt nhìn từ một phía đồng. Từ trước tới giờ các cô chưa hề thấy một cỗ máy nào. Các cô cũng chưa hề nghe thấy một thứ tiếng động rền vang như thế. Bố và chú Henry đứng trên đồng lúa hất tung từng bó lúa xuống một tấm ván. Một người đàn ông đứng ở tấm ván, cắt đứt dây buộc và nhồi tất cả các bó lúa vào một hố trống ở đầu cỗ máy tách hạt. Hố trông giống như miệng của cỗ máy với hàm răng dài bằng sắt. Hàm răng này đang nhai. Chúng nhai những bó lúa và chiếc máy nuốt đi. Rơm được thổi tung ra ở đầu kia cỗ máy và các hạt lúa tuôn chảy ra một bên. Hai người đàn ông làm việc cực nhanh, đạp chân trên rơm, nhồi thành một đống. Một người như ánh chớp đưa túi hứng đám hạt lúa đang tuôn xuống. Những hạt lúa trút đầy cấp kì vào một thùng cân nửa giạ và người đàn ông đặt ngay vào đó một thùng cân trống khác trong lúc trút thùng cân kia vào túi bao. Ông ta trút rất kịp lúc để đưa thùng cân trống vào dưới vòi trước khi thùng cân ở đó đầy tràn. Mọi người đều làm việc với tốc độ cao nhất nhưng cỗ máy vẫn đeo sát họ. Laura và Mary căng thẳng tới mức nghẹt thở. Các cô nắm chặt tay nhau, trố mắt nhìn. Lũ ngựa chạy vòng vòng thật đều. Người đàn ông điều khiển ngựa vung chiếc roi vun vút và hét: - Chú ý! John! Không cần cố vượt quá! Crắc! Chiếc roi bay lên. - Cẩn thận, Billy! Nhẹ thôi, con trai! Không được đi, nhưng nhanh thế chẳng ra sao! Cỗ máy tách hạt ngốn các bó lúa, rơm vàng óng bay ra thành một đám mây vàng, hạt lúa trút xuống thành dòng nâu vàng trên vòi chảy trong lúc mọi người hối hả. Bố và chú Henry liệng các bó lúa xuống với mức nhanh cuối cùng. Vỏ trấu và cọng rơm bay mù mịt. Laura và Mary đứng coi rất lâu. Rồi các cô chạy về nhà, lo giúp mẹ làm cơm trưa cho tất cả đám người đang làm việc. Một chảo lớn cải bắp và thịt đang sôi trên lò, một xoong đậu lớn và một chiếc bánh Johnny đang nướng trong lò bếp. Laura và Mary bày bàn ăn cho những người đập lúa. Các cô bày bánh mặn với bơ, những chén bí chiên, mứt bí, mứt dâu khô và bánh qui, phô-mai, mật và các bình sữa. Rồi mẹ bày tiếp khoai tây luộc, cải bắp, thịt và đậu hấp, bánh Johnny, bánh quẫn bằng bí nướng và châm trà. Laura luôn thắc mắc lí do khiến loại bánh mì bằng bột bắp lại được gọi là bánh ngọt Johnny. Rõ ràng nó không phải là bánh ngọt. Mẹ cũng không biết tại sao ngoại trừ một điều là các binh sĩ miền bắc thời nội chiến thấy dân chúng miền nam hay ăn loại bánh này nên gọi tên nó như thế. Binh sĩ miền bắc lúc đó vẫn gọi binh sĩ miền nam là quân phiến loạn Johnny. Có lẽ họ gọi loại bánh mì miền nam này là bánh ngọt chỉ để đùa vui. Mẹ còn được nghe có người gọi loại bánh này là bánh ngọt đi đường. Mẹ không hiểu lí do, vì nó không hẳn là loại bánh dùng tốt cho một chuyến đi xa. Buổi trưa, những người đập lúa về ngồi bên bàn ăn chất đầy các món ăn. Những không có thứ gì quá nhiều vì mọi người đã làm việc cực nhọc và đều rất đói. Khoảng giữa buổi chiều các cỗ máy tách hạt xong và mấy người chủ máy đi khỏi Big Woods đem theo những bao lúa trả công cho họ. Họ tới một nơi gần đó cũng có những người hàng xóm chất đống lúa và muốn nhờ họ tách hạt. Đêm đó, bố rất mệt, nhưng hết sức vui. Bố nói với mẹ: - Henry, Peterson, ông nội và anh họp lại đập lúa bằng néo liền hai tuần cũng chỉ bằng ngang chiếc máy đó làm một ngày hôm nay. Mình không đập ra nhiều hạt mà còn không đập sạch hạt được. Bố tiếp: - Chiếc máy đó là một sáng kiến vĩ đại. Những người khác cứ giữ cách làm việc cũ nếu họ muốn, nhưng anh dứt khoát theo sự tiến bộ. Mình đang sống trong một thời kì vĩ đại. Khi nào còn trồng lúa mì, anh còn gọi đem máy đến tách hạt, nếu thấy có một chiếc máy ở gần. Bố quá mệt đêm đó nên không nói chuyện với Laura nhưng Laura rất tự hào về bố. Chính bố đã khiến những người khác cùng gom lúa lại và đưa về cỗ máy tách hạt, một cỗ máy diệu kỳ. Mọi người đều vui vì cỗ máy đã tới. Chương 13: Con Nai Trong Rừng Cỏ đã khô úa và héo rối nên phải đưa lũ bò cái từ rừng về nuôi trong nhà kho. Tất cả những cánh lá màu tươi đều đổi thành nâu tối khi những cơn mưa lạnh mùa thu rơi xuống. Không còn chơi dưới các gốc cây được nữa. Nhưng bố có mặt ở nhà lúc trời mưa và bố lại bắt đầu đàn sau bữa ăn tối. Rồi những cơn mưa dứt hẳn. Thời tiết trở nên lạnh hơn. Rất sớm vào buổi sáng, mọi thứ đều lấp lánh sương đọng. Ngày rút ngắn lạu và suốt ngày ngọn lửa nhỏ trong lò luôn cháy âm ỉ để giữ cho ngôi nhà được ấm áp. Mùa đông không còn xa nữa. Gác mái và hầm chứa lại thêm một lần đầy ắp thức ăn, còn Laura và Mary bắt đầu khâu vá những tấm chăn. Mọi thứ lại ngăn nắp gọn gàng. Một đêm, sau khi lo xong công việc trong nhà, bố nói ăn tối bố phải tới điểm nai-liếm để chờ một con nai. Kể từ mùa xuân trong ngôi nhà nhỏ không có thịt tươi, nhưng lúc này lũ nai con đã lớn và bố lại phải đi săn. Bố tạo ra điểm nai-liếm ở một khoảng trống trong rừng gần những cội cây lớn mà bố có thể ngồi ở đó để rình chờ. Điểm nai-liếm là chỗ mà đám nai tới để kiếm chất muối. Khi thấy một nơi nào có muối, chúng kéo tới liếm nên chỗ đó có tên là điểm nai-liếm. Bố đã tạo một điểm như thế bằng cách rắc muối lên đất. Sau bữa ăn tối, bố mang súng vào rừng còn Laura và Mary đi ngủ không có âm nhạc và câu chuyện kể nào. Ngay khi thức dậy vào buổi sáng, các cô ùa chạy tới bên cửa sổ, nhưng không thấy một con nai nào treo trên cây. Bố không khi nào ra khỏi nhà săn nai mà lại trở về tay không. Laura và Mary không biết phải nghĩ gì. Suốt ngày bố bận rộn tu sửa ngôi nhà nhỏ và khu nhà kho với lá khô, rơm rạ, trấn thêm đá để phòng ngăn hơi lạnh. Suốt ngày, hơi lạnh tăng thêm và đêm đó, ánh lửa lại sáng trong lò còn các cửa sổ đóng chặt, chét kẽ để chờ mùa đông. Sau bữa ăn tối, bố đặt Laura ngồi trên đùi còn Mary ngồi trên chiếc ghế nhỏ sát cạnh bố. Và bố nói: - Bây giờ bố sẽ kể cho các con nghe về nguyên do không có thịt tươi ăn trong ngày hôm nay. Khi đi tới điểm nai-liếm, bố leo lên một cây xồi lớn. Bố chọn một nhánh mà từ đó bố quan sát dễ nhất và thấy điểm nai liếm rõ nhất. Chỗ đó cũng đủ gần để bố bắn trúng bất kì con vật nào xuất hiện, còn khẩu súng đã được nạp đạn sẵn và nằm trên đầu gối bố. Bố ngồi đó chờ trăng lên soi sáng tất cả. Do bửa củi suốt ngày hôm qua nên bố hơi mệt và ngủ thiếp đi thay vì mở mắt. Mặt trăng tròn vừa vươn lên. Bố có thể nhìn rõ mặt trăng còn ở rất thấp trên bầu trời, giữa những nhánh cây trụi lá. Và chắn ngang mặt trăng, bố thấy một con nai đang đứng. Đầu nó nghếch cao như nó đang nghe ngóng. Những chiếc sừng lớn đầy gạc của nó vươn dài từ đỉnh đầu. Thân hình nó sậm tối do che khuất ánh trăng. Thật tuỵêt hảo cho một phát đạn. Nhưng nó đẹp quá, có vẻ khoẻ khoắn, tự do và hoang dại đến nỗi bố không nỡ giết nó. Bố ngồi đó ngắm nó cho tới lúc nó nhảy lên biến mất vào rừng rậm. Lúc đó bố nhớ ra là mẹ và các con đang chờ bố mang về một món thịt rừng tươi nào đó. Bố quyết định là sẽ bắn vào lần sau. Một lúc sau, một con gấu lớn lù lù đi vào khoảng trống. Nó đã no nê với trái dâu, với rễ cây và các món ăn suốt mùa thu nên mập tới mức gần to bằng hai con gấu nhập lại. Đầu nó lúc lắc từ bên này qua bên kia khi nó đi trên bốn chân qua khoảng đất trống dưới ánh trăng cho tới khi đến bên một gốc cây mục. Nó ngửi khúc cây và nghe ngóng. Rồi nó đưa bàn chân trước lên xé khúc cây ra và khịt khịt mũi giữa các mảnh gỗ, ăn một món ăn màu trắng. Sau đó nó đứng thẳng trên hai chân sau, hoàn toàn bất động quay nhìn khắp xung quanh. Nó có vẻ lo ngại nghi ngờ một điều gì bất ổn. Nó cố nhìn và ngửi coi đó là thứ gì. Nó là một cái đích tuyệt vời để bắn nhưng bố cứ mải mê ngắm nó và rừng khuya dưới ánh trăng tĩnh mịch đến nỗi bố quên bẵng cây súng. Bố không nghĩ cả việc bắn con gấu cho tới khi nó núng nính đi khuất vào rừng sâu. Bố đành chỉ có cách tự nhủ: - Không bao giờ làm vậy nữa. Cứ theo cách này thì không thể có món thịt nào đem về. Bố lại ngồi trên cây và lại chờ. Lần này bố quyết định sẽ bắn ngay con mồi bố thấy sau đó. Trăng đã lên cao hơn và ánh trăng chiếu sáng khắp khoảng đất trống. Khắp xung quanh, bóng tối dày dặc hơn trong các bụi cây. Một lúc lâu sau, một con nai mẹ và nai con khoảng một tuổi đang bước đi thật dễ thương ra khỏi vùng bóng tối. Chúng không sợ sệt gì. Chúng tới đúng chỗ mà bố đã rắc muối và dừng lại cùng liếm. Rồi chúng cùng ngẩng đầu lên nhìn nhau. Con nai con bước tới đứng sát bên con nai mẹ. Chúng đứng sát bên nhau cùng nhìn rừng cây và ngắm ánh trăng. Những cặp mắt trong xoe của chúng long lanh, hiền hoà. Bố cứ ngồi đó ngắm cho tới khi chúng đi khuất vào trong vùng bóng tối. Lúc đo, bố nhảy xuống khỏi nhánh cây và đi về nhà. Laura ghé tai bố thì thầm: - Con mừng là bố đã không bắn chúng. Mary nói: - Bọn con có thể ăn bánh mì với bơ cũng được. Bố nhấc Mary khỏi ghế và ôm ghì cả hai cô. Bố nói: - Các con đều là những cô gái tử tế. Nhưng tới giờ ngủ rồi! Tránh ra cho bố chơi đàn. Khi Laura và Mary đọc xong lời cầu nguyện và chúi mình ấm áp dưới lớp chăn phủ trên chiếc giường có bánh lăn thì bố đang ngồi dưới ánh lửa với cây đàn. Mẹ thổi tắt ngọn đèn vì không cần ánh sáng của nó. Mẹ ngồi một phía bên lò sưởi đang nhẹ nhẹ đung đưa chiếc ghế đu với những chiếc kim đan thoăn thoắt lên xuống trên chiếc vớ ngắn mà mẹ đang đan. Những tối mùa đông dài với ánh lửa và âm nhạc đã trở lại. Tiếng đàn của bố nỉ non và bố đang hát. - hỡi Susiana, đừng vì ta than khóc Ta đang trên đường đi tới cali Ở nơi đó, bụi vàng bay mù mịt. Rồi bố chuyển bài ca về ông già Grimes. Nhưng bố không hát những lời mà bố đã hát lúc mẹ làm phô-mai. Lời hát lúc này của bố khác hẳn. Giọng bố khoẻ khoắn, ngọt ngào và bố hát khe khẽ: Gặp gỡ thân thương rồi quên lãng Có mấy ai nhớ mãi bao giờ? Gặp gỡ thân thương rồi quên lãng Thuở xa vời như chuyện trong mơ? Thuở xa vời còn không, bạn hỡi Thuở xa vời như chuyện trong mơ Gặp gỡ thân thương rồi quên lãng Thuở xa vời như chuyện trong mơ? Khi tiếng đàn ngưng lại, Laura khẽ hỏi: - Thuở xa vời là gì, bố? Bố nói: - Đó là những ngày xưa xa thăm thẳm rồi, Laura. Bây giờ, ngủ đi! Nhưng Laura còn thức thêm một lát, lắng nghe tiếng đàn của bố nhẹ nhẹ hoà theo tiếng gió quạnh hiu trong rừng Big Woods. Cô thấy bố đang ngồi trên chiếc ghế dài bên cạnh lò sưởi, ánh lửa chập chờn trên mái tóc nâu, trên bộ râu dài và lấp lánh trên chiếc đàn màu gụ bóng. Cô thấy mẹ vẫn khẽ đung đưa chiếc ghế và đang đan. Cô nghĩ thầm: - Đó là bây giờ. Cô sung sướng vì ngôi nhà ấm cúng cùng bố, mẹ, ánh lửa và tiếng đàn đều là bây giờ. Tất cả không thể chìm vào quên lãng, vì, cô nghĩ, bây giờ là bây giờ. Không bao giờ bây giờ lại là ngày xưa xa thẳm. Tập 2: Ngôi Nhà Nhỏ Trên Đồng Cỏ Chương 1: Về Miền Tây Đã lâu lắm rồi, từ thuở các cụ ông, cụ bà hiện nay mới chỉ là các cậu bé, cô bé hoặc các em nhỏ tí xíu, thậm chí nhiều người con chưa chào đời, thì Bố, Mẹ cùng Mary, Laura và bé Carrie rời khỏi ngôi nhà nhỏ ở Big Woods thuộc vùng Winsconsin. Họ ra đi, bỏ lại ngôi nhà quạnh hiu trơ trọi trên mảnh đất đã đốn sạch cây cối và không bao giờ thấy lại nó nữa. Họ đi về xứ của người da đỏ. Bố nói lúc này ở Big Woods chen chúc nhiều người quá. Laura thường nghe vang lên tiếng chặt đeo của một chiếc búa không phải búa của Bố hoặc nghe vọng lại những phát súng không do từ cây súng của Bố. Lối đi gần ngôi nhà nhỏ đã biến thành con đường lớn. Hầu như mỗi ngày Laura và Mary luôn phải ngưng chơi, tò mò dá mắt vào những cỗ xe chậm chạp lăn bánh qua đó. Thú hoang không còn sống nổi ở một vùng đông người như vậy. Bố không thích nơi này nữa. Bố thích nơi nào thú hoang có thể sống tự nhiên không sợ sệt. Niềm vui của Bố là được ngắm những bầy nai mẹ, nai con nằm dưới bóng cây thản nhiên nhìn Bố, hoặc được nhìn thấy những con gấu mập ú lười biếng đang ăn những trái dâu rừng. Suốt nhiều buổi tối mùa đông. Bố nói với Mẹ về miền tây. Tại miền tây, mặt đất phẳng lì, không có một cội cây lớn. Cỏ ở đó dày đặc, cao lút đầu. ở đó, thú hoang mặc sức lang thang tự vỗ béo trên đồng cỏ ngút ngàn không một bóng người, ngoại trừ người da đỏ. Một ngày cuối đông, Bố nói với Mẹ: - Do em không phản đối nên anh dứt khoát rời về miền tây. Anh đã nhờ bán những thứ mình có ở đây và có thể bán đi với giá khá cao, đủ cho mình dựng lại cuộc sống mới ở nơi khác. Mẹ hỏi: - Ô, Charles! Mình phải đi ngay sao? Thời tiết đang độ giá rét và ngôi nhà ấm cúng này rất đầy đủ tiện nghi. Bố nói: - Mình không thể qua sông Mississippi sau khi băng tan. Thế là Bố bán ngôi nhà nhỏ, bán luôn con bò cái và cả con bò con. Bố uốn cong nhiều cọng hồ đào, ghép đứng vào thành xe làm thành một dàn khung mui. Mẹ giúp Bố căng tấm bạt phủ lên trên đó. Rồi trong bóng tối mờ nhạt của một buổi sớm, Mẹ khẽ lay gọi Mary và Laura thức dậy. Dưói ánh lửa lò sưởi và ánh nến, Mẹ rửa ráy, chải tóc, mặc quần áo ấm cho cả hai. Phủ ngoài bộ đồ lót bằng nỉ mỏng màu đỏ là bộ áo váy len và những chiếc vớ len dài. Mẹ còn choàng thêm lớp áo khoác, chiếc mũ da thỏ và những chiếc bao tay màu đỏ. Đồ đạc trong nhà đã được chuyển hết lên xe, ngoại trừ mấy chiếc giường và bàn ghế. Không cần mang theo những thứ này vì Bố có thể làm được bất kì lúc nào. Một lớp tuyết mỏng phủ trên mặt đất. Trời mờ tối, yên tĩnh và lạnh cóng. Những thân cây trần trụi đứng thắng dưới ánh sao nhoà nhạt trong sương mù. Riêng phía trời đông hơi rạng sáng và qua vùng cây ám xịt, một đoàn xe ngựa le lói ánh đèn chạu tới mang theo ông nội, bà nội, các cô bác và bầy trẻ anh chị em họ. Mary và Laura ôm cứng mấy con búp bê tơi tả, không nói một tiếng. Bầy anh chị em họ đứng thành vòng tròn bao quanh. Bà nội và các cô tới ôm hôn mọi người rồi lại ôm hôn nữa trong lúc chào tạm biệt. Bố treo cây súng lên dàn khung mui xe ngay sát tấm vải bạt ở nơi mà Bố có thể vươn tay tới mau nhất từ chỗ ngồi của mình. Túi đạn và ống thuốc nổ treo ngay dưới cây súng. Bố cẩn thận đặt chiếc hộp đàn giữa đống gối để cây đàn không hư khi xe lắc mạnh. Mấy chú, bác giúp cột ngựa vào xe. Bầy trẻ anh chị em được nhắc tới hôn tạm biệt Mary và Laura. Rồi Bố nhấc Mary và Laura lên chiếc giường két ở cuối thùng xe. Bố giúp Mẹ leo lên chỗ ngồi phía trước xe và bà nội tới trao bé Carrie cho Mẹ. Bố đu lên ghế cạnh Mẹ và con chó săn Jack đi theo đuôi xe. Họ ra đi như thế, rời xa ngôi nhà nhỏ. Các cánh cửa sổ đêm đóng kín nên ngôi nhà không thể nhìn theo họ. Nó đứng đó, trong hàng dâu tây, ẩn sau hai cây sồi mà bóng lá xanh vẫn che mát cho Mary và Laura chơi đùa phía dưới vào những ngày hè. Và, đó là hình ảnh cuối cùng của ngôi nhà nhỏ. Bố tin chắc là khi tới miền tây, Laura sẽ được thấy một papoose. Cô bé hỏi: - Papoose là cái gì, Bố? Bố đáp: - Papoose là một em bé da đỏ nhỏ tí xíu. Xe tiếp tục lăn trên con đường dài xuyên qua những rừng cây đầy tuyết cho tới khi họ vào thị trấn Pepin. Mary và Laura từng có dịp thấy thị trấn này từ trước nhưng quanh cảnh lúc này khác hẳn. Cửa các ngôi nhà và tiệm hàng đều đóng kín, tuyết phủ dày trên các khúc gốc cây và không một bóng trẻ con chơi đùa ngoài trời. Chen giữa các khúc gốc cây là những đống gỗ lớn được buộc chặt. Đó đây chỉ loáng thoáng vài ba người đàn ông mang ủng, đội mũ da, khoác áo choàng kẻ sọc vuông. Mẹ cùng Mary, Laura ngồi trên xe ăn bánh mì với mật mía, còn lũ ngựa ăn bắp trong những túi đeo trong lúc Bố vào cửa hàng đổi da thú lấy những thứ cần cho chuyến đi. Họ không dừng lâu ở thị trấn vì phải băng qua hồ ngay hôm đó. Mặt hồ mênh mông trắng xoá và phẳng lì mãi tới chân trời xám. Những vết xe băng qua hồ kéo dài hun hút tựa hồ vô tận. Bố lái xe trên mặt băng, theo các vết xe cũ. Các vành bánh xe nghiến rau ráu trong tiếng vó ngựa khua lốp cốp tạo thành một âm điệu buồn tẻ. Thị trấn ở phía sau nhỏ dần, nhỏ dần thêm cho tới khi ngôi cửa hàng lớn chỉ còn bằng một cái chấm. Xung quanh họ không có gì ngoài vung không gian hoang vắng im lìm. Laura không ưa cảnh này. Nhưng Bố đang ngồi ngay phía trước và Jack đang chạy theo dưới xe. Cô bé biết sẽ không có gì nguy hiểm cho cô khi Bố và Jack đang có mặt ở đó. Cuối cùng xe lại lăn ngược lên một dốc đất, rồi lại có những hàng cây. Giữa những hàng cây lại có một ngôi nhà gỗ nhỏ. Nhờ vậy, Laura cảm thấy dễ chịu hơn. Ngôi nhà nhỏ không có người ở, chỉ là một trạm dừng chân. Nó bé xíu và khá lạ với một lò sưởi lớn và những sạp gỗ nhám dựa vào các bờ vách. Nhưng nó trở nên ấm áp khi Bố nhóm xong lửa trong lò sưởi. Đêm đó, Mary và Laura cùng bé Carrie ngủ với Mẹ trên chiếc giường đặt giữa nền nhà, ngay trước lò sưởi trong khi Bố ngủ ở ngoài xe để canh chừng xe và lũ ngựa. Giữa đêm, một tiếng động kì lạ khiến Laura tỉnh dậy. Tiếng động giống như tiếng súng nhưng sắc gọn hơn, kéo dài hơn. Rồi cô lại nghe một tiếng tiếp theo, tiếp theo nữa. Mary và bé Carrie vẫn ngủ say nhưng Laura không nhắm mắt nổi cho tới khi nghe Mẹ khẽ nhắc trong bóng tối: - Ngủ đi, Laura. Đó chỉ là tiếng động do băng nứt vỡ. Sáng hôm sau, Bố nói: - Caroline, may mà mình qua hồ hôm qua. Thật khó ngờ lại băng lại tan trước ngày hôm nay. Thành ra mình là những người cuối cùng qua hồ và hết sức may mắn vì băng không nứt vỡ khi mình đang ở giữa chừng. Mẹ đáp nhỏ: - Hôm qua, em đã nghĩ về điều đó, Charles. Hôm qua Laura không hề nghĩ gì, nhưng lúc này thì cô bé nghĩ tới điều xảy ra khi nền băng đột ngột nứt ngay dưới bánh xe và cả nhà sẽ chìm trong đáy nước lạnh giá buốt giữa vùng hồ mênh mông. Mẹ nói: - Anh đang làm cho các con sợ đó, Charles. Bố kéo Laura vào vòng tay rắn chắc, ghì chặt, nói: - Mình đã qua sông Mississippi rồi. Vẫn ôm cô bé, Bố vui vẻ tiếp: - Con thấy thế nào, nửa-bình-rượu-ngọt-chuyếnh-choáng? Con có thích xứ sở người da đỏ ở miền tây không? Laura bảo rất thích và hỏi có phải họ đang ở trong xứ của người da đỏ không. Chưa phải thế vì họ còn đang ở trong vùng Minnesota. Đường tới xứ sở da đỏ còn xa, rất xa. Mỗi ngày, lũ ngựa đều ráng sức nuốt những đoạn đường dài nhất. Mỗi đêm, Bố và Mẹ lại dựng trại tại một điểm mới. Đôi khi họ phải dừng nhiều ngày ở cùng một điểm do một lạch suối bị tràn ngập nên phải chờ lúc nước rút mới qua được. Họ đã qua nhiều lạch suối, đã thấy nhiều rừng cây, núi đồi kì lạ và cả những vùng quê kì lạ hơn nữa do không có một bóng cây. Họ cũng vượt nhiều con sông trên những cây cầu gỗ bắc ngang và tới một con sông đục ngầu không có cầu. Đó là sông Missouri. Bố lái xe xuống bè và cả nhà ngồi bất động trên xe trong lúc chiếc bè đung đưa rời xa bờ đất an toàn, chậm chạp nhích ngang mặt sông lấm bùn đang chảy xiết. Sau nhiều ngày nữa họ lại tới một vùng đồi. Giữa một trũng đất, cỗ xe bỗng bị quấn dính trong một hố bùn đen. Mưa đổ ào ào giữa tiếng sấm ì ầm và lửa chớp loé sáng. Không chỗ nào có thể hạ trại và nhóm lửa. Mọi thứ trong xe đều ướt sũng lạnh ngắt, nhưng họ vẫn phải ngồi tại chỗ gặm những món ăn nguội. Hôm sau, Bố tìm được một nơi có thể dựng trại bên sườn đồi. Mưa đã ngưng lại nhưng họ phải mất thêm một tuần lễ chờ nước trong lạch suối rút xuống và bùn quấn vào bánh xe khô lại để Bố có thể đào lôi bánh xe ra. Một ngày trong lúc chờ đợi, họ thấy một người đàn ông cao gầy, cưỡi một con ngựa đen nhỏ từ trong rừng đi tới. Người này và Bố nói chuyện một hồi rồi cùng đi về mé rừng. Khi hai người quay lại, mỗi người đều cưỡi một con ngựa đen nhỏ. Bố đã đổi những con ngựa hung mệt mỏi lấy cặp ngựa đen nhỏ này. Những con ngựa có thân hình thon thả rất đẹp và Bố bảo tuy chúng không là ngựa đua nhưng là giống ngựa chính gốc miền tây. Bố nói: - Chúng khoẻ như la và tinh khôn như mèo vậy. Chúng có cặp mắt lớn hiền hoà, bờm và đuôi dài thượt, ống chân thon, các bàn chân nhỏ hơn nhiều nhưng nhanh hơn nhiều so với bàn chân của giống ngựa ở Big Woods. Lúc Laura hỏi tên chúng là gì, Bố nói cô và Mary tuỳ ý đặt tên cho chúng. Thế là Mary đặt cho một con tên Pet và Laura đặt tên cho con kia là Patty. Khi lạch suối không còn gầm thét dữ dội và đường đi khô ráo hơn, Bố đào bánh xe lên khỏi hố bùn. Bố cột Pet và Patty vào xe và tất cả cùng lên đường. Trong cỗ xe buông kín mui, cả nhà đã vượt khoảng đường dài từ Big Woods qua Minnesota tới Iowa và Missouri. Suốt khảong đường thăm thẳm đó, Jack miệt mài chạy đều dưới gầm xe. Bây giờ, họ cuốn mui xe lên băng qua vùng Kansai. Kansai là vùng đất phẳng bao la phủ dày một lớp cỏ cao luôn rì rào trong gió. Ngày nối ngày, họ đi trong vùng đất này và không thấy thứ gì khác ngoài bầu trời lồng lộng cùng đồng cỏ luôn gợn sóng. Cỗ xe nằm ngay tâm điểm một đường tròn luôn hoàn hảo do khung trời uốn cong xuống đụng mặt đất phẳng lì. Suốt ngày Pet và Patty lao lên phía trước, phóng nhanh rồi thả chậm rồi lại phóng nhanh, nhưng họ vẫn không thể ra khỏi tâm điểm của vòng tròn kia. Khi mặt trời xuống thấp, đường tròn vẫn giữ nguyên xung quanh họ và chân trời ửng một màu hồng. Rồi dần dần mặt đất chuyển sang tối sầm. Gió đùa trong cỏ tạo ra một âm thanh đơn điệu. Ngọn lửa trại nhỏ bé hơn và tưởng chừng mất hút giữa không gian bát ngát. Nhưng những ngôi sao lớn treo trên nền trời toả sáng chói lọi và gần tới độ Laura cảm thấy vươn tay lên là chạm phải. Ngày hôm sau, trời đất vẫn vậy và đường tròn kia cũng không thay đổi. Laura và Mary đều mệt mỏi vì quang cảnh đó. Không có việc gì mới để làm và cũng không có thứ gì mới để ngắm. Chiếc giường két ở cuối thùng xe được phủ gọn gàng bằng tấm chăn màu xám. Laura và Mary ngồi trên đó. Tấm bạt mui được vén lên ở hai bên và cột chặt để gió đồng thời vào trong xe. Gió cuốn tung những lọn tóc cài màu hung của Laura cùng những cuộn tóc óng vàng của Mary và ánh sáng chói chang luôn bám chặt trên mí mắt các cô. Thỉnh thoảng một con thỏ lớn nhảy vọt khỏi đám cỏ đang bị thổi ngả nghiêng. Jack không thèm nhìn tới. Con chó tội nghiệp cũng thấm mệt với các bàn chân bị cào xước đau đớn do phải vượt một đoạn đường quá dài. Cỗ xe tiếp tục xóc giật và tấm bạt mui phần phật trong gió. Phía sau xe, hai vệt bánh mờ nhạt kéo dài mãi không thay đổi. Lưng Bố cong xụm xuống. Hai tay Bố nắm chặt dây cương trong lúc gió thổi bạt bộ râu dài. Mẹ ngồi thẳng người, im lặng. Bé Carrie ngủ vùi trong chiếc nôi đặt giữa những bó quần áo, chăn màn. - A-oooo! Mary ngáp lớn và Laura lên tiếng: - Mẹ, cho chúng con xuống chạt sau xe, được không? Chân con tê quá rồi! Mẹ nói: - Không được, Laura! Laura hỏi: - Mình không dựng trại sớm hơn một chút được sao? Thời gian hình như quá dài kể từ buổi trưa, lúc cả nhà cùng ngồi ăn trên một bãi cỏ dưới bóng mát của cỗ xe. Bố đáp: - Chưa được! Lúc này còn quá sớm mà! Laura nói: - Con muốn dựng trại bây giờ. Con mệt quá rồi! Lập tức Mẹ lên tiếng: - Laura! Mẹ chỉ nói có vậy, nhưng có nghĩa là Laura không được kêu ca. Cho nên, cô không phàn nàn nữa nhưng trong lòng vẫn ấm ức. Cô ngồi im nghĩ về những lời phàn nàn với chính mình. Hai chân cô tê nhức và gió không ngưng thổi tung mái tóc. Cỏ trên đồng vẫn ngả nghiêng gợn sóng và cỗ xe tiếp tục nảy xóc. Thêm một thời gian dài nữa không có điều gì khác xảy ra. Chợt Bố lên tiếng: - Mình sắp tới một con lạch suối hay một con sông thì phải. Các con gái, các con có nhìn thấy những lùm cây ở phía trước không? Laura đứng thẳng lên, bíu chặt một cọng khung mui. Xa xa về phía trước, cô nhìn thấy một cụm màu tối lè tè. Bố nói: - Cây đó! Gọi theo hình của những bóng cây in xuống mà. Ở xứ này, nói cây là để chỉ nước. Đó là nơi mình hạ trại, tối nay. Chương 2: Băng Ngang Dòng Lũ Pet và Patty hối hả xoải vó tựa hồ chúng cũng vui thích. Laura nắm chặt cọng khung mui đứng thẳng trên cỗ xe đang lắc lư. Phía dưới vai Bố và vượt xa những gợn sóng cỏ xanh, cô có thể nhìn thấy những lùm cây không giống bất kì loại cây nào mà cô đã gặp. Chúng không cao hơn những bụi rậm. Đột nhiên Bố la lên: - Hu – oa! Rồi Bố lẩm bẩm một mình: - Theo đường nào bây giờ? Đường ở đây chia thành hai nhánh và không thể nói nhánh nào được qua lại nhiều hơn. Cả hai đều có những vết xe cũ in trên cỏ. Rồi cả hai đều đột ngột mất biến giữa lớp cỏ cao đang ngả nghiêng trong gió. Bố quyết định: - Tốt hơn là nên xuống dốc. Lạch suối phải ở dưới trũng sâu. Có lẽ nhánh đường này dẫn tới một khúc nước cạn. Bố cho Pet và Patty chạy về hướng nam. Đương đổ xuống ngược lên, lại đổ xuống, ngược lên nữa rồi vươn trên một dải đất hơi uốn cong. Lúc này, những lùm cây nhích lại gần hơn nhưng vẫn không cao hơn. Rồi Laura thở hổn hển, bíu chắc cọng khung mui, vì gần như sát ngay dưới mũi Pet và Patty, không còn những ngọn cỏ lay động, cũng không còn cả đất nữa. Cô bé nhìn ngang trên các đỉnh ngọn cây và thấy rõ phía bên kia bờ đất. Con đường quẹo gắt ở chỗ đó. Nối sau một đoạn ngắn chạy dọc trên đỉnh vách là một đoạn dốc đứng. Bố cài thắng, Pet và Patty dồn hết sức về phía sau, cố kìm bước và gần như khuỵu xuống. Những vành bánh xe trượt tới, hạt thấp cỗ xe từng chút, đưa nó xa dần khỏi đoạn dốc đứng. Những vách đất đỏ trần trụi lởm chởm vụt dâng lên ở hai bên sườn xe. Cỏ cuồn cuộn trên các đỉnh vách gấp nếp dựng đứng. Hơi nóng hừng hực từ các bờ vách phả thẳng vào mặt Laura. Gió đang thổi trên cao, nhưng không một đợt nào lọt xuống vách đất sâu thẳm này. Một sự bất động đầy vẻ lạ lùng và vắng lặng. Lúc ấy, cỗ xe lại lăn trên mặt đất phẳng. Ngách đất hẹp vừa được vượt qua mở vào một vùng đất trũng, tại đât um tùm cây cao mà khi ở trên đồng cỏ, Laura đã nhìn thấy ngọn. Những cụm cây rợp bóng rải rác khắp đồng cỏ và ở phía dưới, bầy nay nằm ẩn mình trong bóng mát. Laura ngạc nhiên vì không thấy lạch suối. Nhưng vùng đất trũng khá rộng. ở đây, phía dưới đồi cỏ, lại có nhiều ngọn đồi xinh xắn chen với những khoảng chan hoà ánh nắng. Không khí ngưng đọng và oi ả. Dưới vành bánh xe, mặt đất xốp mềm. Trong những khoảng có ánh nắng, cỏ mọc thưa và bị bầy nai ngắt cụt. Những vách đất đỏ trần trụi cao vút đứng thẳng phía sau cỗ xe một hồi lâu. Nhưng, khi Pet và Patty dừng lại uống nước bên lạch suối thì các vách đất gần như khuất hẳn sau những ngọn đồi và các lùm cây. Tiếng nước róc rách dội vang bầu trong không khí im lìm. Bóng những lùm cây mọc dọc bờ lạch suối biến thành một vùng tối phủ kín mặt nước. ở giữa dòng, nước chảy xiết lấp lánh ánh bạc và xanh biếc. Bố nói: - Nước trong lạch suối này khá sâu. Nhưng anh nghĩ là mình sẽ lo liệu ổn mọi chuyện. Em có thể nhận ra đây là một khúc suối cạn nhờ các vết xe cũ. Em nghĩ thế nào, Caroline? Mẹ đáp: - Như những điều anh nói, Charles. Pet và Patty hếch hếch mũi. Tai chúng bạt tới trước trong lúc chúng nhìn lạch suối rồi bật ra sau như để nghe Bố nói. Chúng thở ra một hơi dài rồi chụm những chiếc mũi mềm mại vào nhau cùng hít hít. Cách một đoạn về phía trên lạch suối, Jack đang táp táp chiếc lưỡi đỏ hỏn trên mặt nước. Bố nói: - Phải hạ mui xe xuống. Bố nhảy xuống khỏi chỗ ngồi, hạ tấm bạt phủ hai bên, cột chặt vào thùng xe. Rồi Bố kéo sợi dây ở phía sau cho tấm bạt khép kín lại chỉ còn hở một lỗ tròn nhỏ xíu ở chính giữa. Mary buông người xuống giường. Cô không ưa những khúc sông cạn và rất sợ dòng nước chảy xiết. Nhưng Laura lại nôn nao muốn thấy nước văng tung toé. Bố leo trở lại chỗ ngồi, nói: - Tới giữa dòng có lẽ lũ ngựa phải bơi. Nhưng mình sẽ lo ổn mọi chuyện, Caroline. Laura nghĩ tới Jack và nhắc: - Con muốn cho Jack lên thùng xe, Bố. Bố không đáp, xiết chặt dây cương trong bàn tay. Mẹ nói: - Jack biết bơi, Laura. Nó tự lo được. Cỗ xe tiến tới, lăn nhẹ vào trong bùn. Nước bắt đầu lăn vào bánh xe. Nước văng mỗi lúc một dữ hơn. Cỗ xe lắc mạnh khi dòng nước ào ạt xô tới. Rồi lập tức cỗ xe hẫng lên, chới với, chao động. Đó là một cảm giác thích thú. Tiếng ầm ĩ ngưng bặt và Mẹ nói giọng lanh lảnh: - Nằm xuống, các con. Như một tia chớp, Mary và Laura nằm rạp xuống giường. Khi Mẹ nói bằng cái giọng như thế, các cô luôn làm theo ngay. Mẹ đưa tay kéo tấm chăn chùm kín từ đầu tới chân các cô và nhắc: - Nằm im như thế! Không được nhúc nhích! Mary không cử động, im lìm và run rẩy. Nhưng Laura không kìm nổi mình hé vạch một lỗ nhỏ. Cô rất muốn coi điều gì đang xảy ra. Cô cảm thấy cỗ xe lắc lư và đảo hướng. Dòng nước xô đến ầm ĩ rồi lại tắt lịm ở xa. Đúng lúc đó, giọng nói của Bố khiến Laura khiếp hãi. Bố nói: - Giữ lũ ngựa, Caroline! Cỗ xe nghiêng xéo đi, tiếng dòng nước xô mạnh đột ngột vào sườn xe. Laura ngồi bật dậy, bấu mạnh móng tay vào tấm chăn trùm trên đầu. Bố đã biến khỏi chỗ ngồi. Chỉ mình Mẹ đang níu chặt dây cương bằng cả hai tay. Mary chúi vào trong chăn trở lại, nhưng Laura vươn ra xa hơn. Cô không thể nhìn thấy bờ lạch suối. Cô cũng không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì trước cỗ xe, ngoại trừ dòng nước đang phăng phăng lao tới. Và, giữa dòng nước là ba cái đầu: đầu của Pet, đầu của Patty và đầu của Bố, nhỏ, ướt sũng. Nắm tay Bố ngập trong nước đang vươn lên nắm chắc hàm thiếc của Pet. Laura chỉ nghe văng vẳng giọng của Bố giữa tiếng nước xô ào ạt. Giọng Bố bình tĩnh và vui vẻ, nhưng cô không nghe rõ Bố nói gì. Bố đang trò chuyện với lũ ngựa. Mặt Mẹ trắng bệch và kinh hoàng. Mẹ quát: - Nằm xuống, Laura! Laura nằm xuống. Cô thấy lạnh run và muốn bệnh. Nhắm nghiền hai mắt, nhưng cô vẫn thấy dòng nước dữ dằn và bộ râu hung hung của Bố ngập chìm trong đó. Một hồi lâu, rất lâu, cỗ xe lắc lư, bồng bềnh và Mary khóc không thành tiếng còn dạ dày Laura cứ đau quặn, đau quặn thêm mãi. Rồi những vành bánh xe trước va đụng, lăn lao xao và Bố hét lớn. Toàn thể cỗ xe nẩy bật lên, xốc mạnh, dốc ngược về phía sau, nhưng tất cả bánh xe đang lăn trên nền đất. Laura lại nhỏm dậy, bíu lấy chiếc ghế. Cô thấy những chiếc lưng ướt đẫm oằn oại của Pet và Patty đang leo lên triền dốc và Bố chạy kèm bên chúng đang la lớn: - Hi, Patty! Hi, Pet! Ráng lên! Ráng lên! Những bông cúc tuyệt vời! Những cô gái ngoan! Lên tới bờ, chúng dừng lại, thở hổn hển, rũ nước tung toé. Và, cỗ xe đứng im lìm sau khi đã băng qua dòng lũ an toàn. Bố cũng đứng thở và rũ nước, còn Mẹ kêu lên: - Ô, Charles! Bố nói: - Đó, đó, Caroline! Mình thoát nạn rồi, nhờ chiếc thùng xe chắc chắn gắn dính cứng với guồng bánh. Anh chưa từng thấy một dòng lũ dâng lên mau như thế. Pet và Patty đúng là các tay bơi cừ khôi, nhưng anh nghĩ chúng có thể không qua nổi, nếu anh không giúp chúng. Nếu Bố không biết cách xoay xở, hay nếu Mẹ quá hoảng hốt trong lúc điều khiển xe, hay nếu Mary và Laura không ngoan ngoãn làm Mẹ rối trí thì lúc đó cả nhà đã tiêu hết. Dòng nước có thể đã cuốn họ đi xa thật xa, dìm họ xuống đáy và không ai còn biết nổi mình ra sao. Có lẽ nhiều tuần lễ sau sẽ không còn một ai rong ruổi trên con đường này. Bố nói: - Tốt rồi, mọi thứ đều kết thúc ổn thoả. Và, Mẹ nhắc: - Charles, anh ướt đến tận xương kìa! Trước khi Bố kịp trả lời, Laura bỗng kêu lên: - Ồ, Jack đâu rồi? Cả nhà đã quên khuấy Jack. Họ đã bỏ con chó lại bên kia bờ nước kinh hoàng bây giờ không ai thấy nó đâu. Chắc chắn nó đã cố bơi theo, nhưng lúc này họ không thể tìm ra nó đang vùng vẫy ở một nơi nào trong dòng nước. Laura nuốt xuống một cách khó khăn, cố giữ không bật khóc. Cô vẫn biết khóc là một điều đáng xấu hổ nhưng trong người cô lại đang có tiếng gào thét. Suốt con đường dài từ Wisconsin, Jack đã chạy theo họ bén gót, nhẫn nại và trung thành cùng cực, và lúc này, họ lại bỏ mặc nó. Con chó đã quá mệt và lẽ ra họ nên đặt nó vào thùng xe. Vậy mà nó phải đứng lại trên bờ nhìn theo cỗ xe rời xa tựa hồ không ai còn lưu tâm tới nó nữa. Và, nó không bao giờ còn biết cả nhà mong mỏi có nó ở bên cạnh nhiều tới mức nào. Bố bảo không bao giờ muốn làm như vậy với Jack cho dù được trả cả triệu đô-la. Nếu Bố biết nước ở giữa dòng dữ dằn như thế, Bố sẽ không để Jack tự bơi qua. - Bây giờ thì vô phương cứu vãn rồi! Bố đi ra xa, leo lên, lội xuống theo bờ lạch suối tìm Jack, vừa gọi lớn vừa huýt gió. Hoàn toàn vô vọng. Jack đã biến mất. Cuối cùng vẫn không thể làm gì khác hơn là tiếp tục ra đi. Pet và Patty đã được nghỉ khoả. Quần áo Bố đã khô trong lúc tìm kiếm Jack. Bố lại cầm dây cương, lái xe lên đồi rời xa vùng đất trũng bên lạch suối. Suốt dọc đưòng, Laura luôn nhìn về phía sau. Dù biết khó có thể thấy lại Jack, nhưng cô vẫn mong con chó xuất hiện. Cô không thấy thứ gì ngoài những dải đất thấp uốn cong giữa cỗ xe với lạch suối, và phía bên kia, những vách đất đỏ kì dị lại dựng lên thẳng đứng. Rồi, những dốc đất cao tương tự dâng trước cỗ xe. Nhiều vết xe mờ cũ chạy vào một ngách hẹp len giữa các vách đất. Pet và Patty leo ngược lên mãi cho tới khi ngách đất hẹp mở ra thành một trũng đất nhỏ đầy cỏ. Thêm một lần nữa, trũng đất này vươn rộng tới một đồi cỏ cao. Khắp nơi không có đường, không có cả vết xe cũ mờ nhạt nhất hay dấu chân ngựa qua lại. Đồng cỏ này như chưa hề có ai nhìn thấy trước đó. Chỉ có cỏ hoang vươn cao phủ kín vùng đất hoang vắng bao la với bầu trời bát ngát uốn cong ở phía trên. Xa xa, vành mặt trời đã chạm vào bờ đất. Mặt trời cực lớn vừa run rẩy vừa toả sáng. Bọc vòng mặt trời là một đường viền màu hồng nhạt với một lớp màu vàng ở phía trên và trên nữa là một lớp màu xanh. Bên trên lớp màu xanh này, bầu trời không hiện rõ màu gì. Những vết tím sẫm đang tụ lại khắp mặt đất và gió đang thì thầm than oán. Bố cho ngựa dừng lại. Bố cùng Mẹ xuống lo dựng trại. Mary và Laura cũng leo xuống đất. Laura nói như nài xin: - Mẹ ơi, Jack sẽ lên thiên đường, phải không? Một con chó ngoan như thế mà không được lên thiên đường sao? Mẹ không biết nói thế nào nhưng Bố lên tiếng: - Đúng vậy, Laura. Nó sẽ lên thiên đường. Chúa không quên cả những con chim sẻ nên sẽ không để một con chó ngoan như Jack phải ở ngoài trời lạnh. Laura chỉ cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Cô vẫn không thoải mái. Bố không huýt gió trong lúc làm việc như mọi khi và một lát sau, Bố lẩm bẩm: - Không biết mình sẽ phải làm gì giữa đồng hoang như thế này mà thiếu một con chó tinh khôn canh chừng giúp. Chương 3: Dựng Trại Trên Đồi Cỏ Bố dựng trại giống như thường lệ. Trước hết, Bố tháo bộ yên cương cho Pet và Patty, buộc chúng vào dây cột. Dây cột là sợi dây dài buộc vào chiếc móc sắt đóng sâu xuống đất. Móc sắt này được gọi là cọc cắm. Khi được buộc vào dây cột, lũ ngựa có thể gặm mọi đám cỏ mà sợi dây dài cho phép chúng đi tới. Nhưng việc làm đầu tiên của Pet và Patty khi được buộc vào dây cột là lập tức trườn mình nằm ngửa xuống, lăn lưng qua lại. Chúng lăn như để phủi sạch cảm giác bị đè nặng bởi chiếc yên phủ trên lưng. Trong lúc Pet và Patty lăn lộn, Bố rẫy sạch cỏ trên một khoảnh đất tròn rộng. ở đó, chen trong đám cỏ xanh có rất nhiều cỏ khô ở dưới gốc khiến Bố không thể đốt lửa. Một khi lửa bén vào số cỏ khô này chắc chắn sẽ lan nhanh thiêu rụi toàn vùng. Bố nói: - Tốt nhất là nên có khoảng ngăn cách an toàn để tránh gây phiền toái. Dồn đất xong, Bố đặt một nắm cỏ khô vào chính giữa, xuống bờ suối ôm lên nhiều nhánh cây và các khúc cỏ khô. Bố đặt những nhánh cây nhỏ lên nắm cỏ khô, kế tiếp là những nhánh lớn hơn rồi tới những khúc gỗ và mồi lửa vào nắm cỏ. Ngọn lửa lách tách reo vui giữa vùng đất trống nhưng không thể cháy lan ra ngoài. Rồi, Bố xuống lạch suối lấy nước trong lúc Mary và Laura giúp Mẹ nấu bữa tối. Mẹ trút cà phê vào guồng xay và cho Mary nghiền nhỏ. Laura múc nước Bố xách lên đổ đầy bình lọc cà phê và Mẹ đặt bình giữa đống than. Mẹ cũng đặt vào giữa đống thanh chiếc lò nướng bánh bằng sắt. Trong lúc chờ lò nướng, Mẹ trộn bột mì với muối, nước và vỗ thành những chiếc bánh nhỏ. Mẹ lấy một lát mỡ heo tráng lò nướng, đặt bánh vào và đậy nắp lại. Rồi Bố rải thêm than lên nắp lò trong khi Mẹ xắt thịt heo ướp muối thành từng khoanh mỏng. Mẹ nướng những khoang thịt trong chiếc vỉ sắt. Vỉ có những chân ngắn để có thể đứng giữa đống than và do đó mới được gọi là vỉ. Nếu không có chân thì nó cũng chỉ như một chiếc chảo chiên. Rồi cà phê sôi, bánh chín, thịt nướng xong và tất cả đều thơm ngào ngạt khiến Laura càng thấy đói cồn cào. Bố đem băng ghế trên xe xuống đặt bên đống lửa. Bố và Mẹ cùng ngồi trên đó. Mary và Laura ngồi trên dàn trước của cỗ xe. Mỗi người đều có một chiếc dĩa nhôm và dao, nĩa có cán bằng xương màu trắng. Mẹ và Bố còn có riêng mỗi người một chiếc li thiếc. Bé Carrie cũng có một chiếc li nhỏ dễ thương nhưng Mary và Laura uống chung một chiếc li. Mấy cô uống nước vì chưa đủ lớn để được uống cà phê. Trong lúc cả nhà ăn bữa tối, những vệt màu tím xẫm nhích thêm gần quanh đống lửa trại. Đồng cỏ mênh mông tối mịt và im lìm. Chỉ có những đợt gió lướt nhẹ qua ngọn cỏ và từ bầu trời bao la, những ngôi sao lớn đu đưa thật thấp toả sáng. Ngọn lửa trại trở nên ấm áp giữa khoảng không bát ngát lạnh lẽo. Những khoanh thịt nướng giòn tan béo ngậy, những chiếc bánh bột thơm phức. Trong bóng tối phía bên kia cỗ xe, Pet và Patty cũng đang ăn. Chúng cạp từng miếng cỏ lớn làm vang lên những tiếng xoạt xoạt sắc nhẹ. Bố nói: - Mình sẽ ở lại đây vài ngày. Cũng có thể mình ở lại đây luôn. Dưới chỗ lạch suối, đất rất tốt, cây cối nhiều và mồi săn vô số kể. Phải nói là có đủ mọi thứ mà một người mong có. Em thấy sao, Caroline? Mẹ đáp: - Có thể đi xa hơn, mình sẽ gặp những thứ tệ hơn. Bố nói: - Dù sao ngày mai anh cũng đi coi một vòng xung quanh. Anh sẽ mang súng theo để kiếm một món ăn tươi. Bố mồi thuốc bằng một hòn than và duỗi thẳng chân thoải mái. Mùi khói thuốc đậm đà hoà trong hơi lửa ấm. Mary ngáp dài và xuống khỏi dàn xe, ngồi bệt trên cỏ. Laura cũng ngáp. Mẹ vội vã rửa dĩa, ly, dao, nĩa. Rồi Mẹ cọ lò nướng bánh, vỉ nướng thịt và giặt khăn lau. Mẹ chợt đứng im một lúc lắng nghe những tiếng hú kéo dài vẳng lại từ đồng cỏ. Cả nhà đều biết rõ tiếng hú đó là gì. Loại âm thanh này luôn khiến Laura lạnh buốt sống lưng và co rụt cổ lại. Mẹ rũ chiếc khăn lau rồi đi vào vùng bóng tối trải lên đám cỏ khô. Khi Mẹ trở lại, Bố nói: - Chó sói! Anh đoán chúng ở cách mình khoảng nửa dặm. Tốt, ở đâu có nai thì ở đó có sói. Anh ước là… Bố không nói ra điều ao ước nhưng Laura biết rõ. Bố đang ước có Jack ở đây. Khi ở Big Woods, mỗi lần nghe tiếng sói hú, Laura luôn nghĩ Jack sẽ không để lũ sói đụng tới cô. Họng cô khô khốc và mũi cay xè. Cô chớp chớp mắt, cố giữ không khóc. Con sói đó hoặc có thể là con sói khác, lại hú nữa. - Tới giờ ngủ rồi, các cô bé. Mẹ nói một cách vui vẻ. Mary đứng lên xoay người cho Mẹ mở giúp nút áo. Nhưng Laura nhào bật tới và đứng im. Cô đã thấy một thứ gì đó. Sâu trong vùng bóng tối phía bên kia ngọn lửa, hai tia sáng xanh lè loé lên sát mặt đất. Đó là những con mắt. Một cảm giác lạnh buốt chạy dọc sống lưng Laura, da đầu cô co lại, tóc dựng đứng. Những điểm sáng xanh di động. Một điểm loé lên, một điểm khác loé lên rồi cả hai đều chiếu sáng và nhích tới. Laura kêu lên: - Coi kìa, Bố! Coi kìa! Một con sói! Bố không có vẻ vội vã nhưng đã lưu ý. Chỉ trong khoảnh khắc Bố đã nhấc cây súng ra khỏi xe, sẵn sàng bắn vào cặp mắt xanh kia. Cặp mắt dừng lại trong bóng tối, chăm chú nhìn Bố. Bố nói: - Không chắc là một con sói. Trừ phi là một con sói mắc bệnh dại. Mẹ nhấc Mary lên thùng xe. Bố tiếp: - Cũng không hẳn thế. Hãy nhìn lũ ngựa coi! Pet và Patty vẫn bình thản nhai cỏ. Mẹ nói: - Một con mèo rừng chăng? - Hay là một con sói cỏ? Bố nhổ một cây cọc, hét lớn, quăng tới. Hai con mắt xanh chúi xuống sát đất tựa hồ con vật thu mình lại để chuẩn bị chồm tới. Bố hườm súng sẵn sàng. Con vật vẫn bất động. Mẹ nhắc: - Đừng, Charles! Nhưng Bố từ từ bước thẳng tới cặp mắt. Và cũng chậm chậm men trên mặt đất, cặp mắt trườn về phía Bố. Laura đã nhìn rõ con vật trong đường ranh bóng tối. Đó là một con vật lông màu hung và vằn vện. Đúng lúc đó Bố kêu lên và Laura hét lớn. Việc kế tiếp mà cô nghĩ tới là cố sức chụp ôm lấy Jack đang nhảy nhót, hổn hển, quay cuồng liếm mặt, liếm tay cô với chiếc lưỡi ướt át. Cô không thể giữ nổi con chó. Nó lao khỏi tay cô nhào tới Bố, tới Mẹ, rồi lại nhào trở lại với cô. Bố nói: - Tốt rồi, anh mừng quá! Mẹ bảo: - Em cũng thế! Nhưng anh có làm em bé thức dậy không? Mẹ đu đưa bé Carrie trong vòng tay, khẽ vỗ ru. Jack hết sức mừng rỡ. Nhưng chỉ một lát sau, nó đã nằm xuống sát bên Laura và thở ra một hơi dài thượt. Hai mắt nó đỏ hoe mệt nhọc và trọn nửa dưới thân hình nó dính bết bùn. Mẹ lấy cho nó một chiếc bánh và nó chỉ liếm qua rồi khẽ lắc lắc, không thể ăn nổi. Nó đã quá mệt. Bố nói: - Không thể nói chắc là nó đã phải bơi bao lâu và bị nước cuốn xa tới tận đâu trước khi lội được vào bờ. Vậy mà khi nó tìm về tới nơi thì Laura lại gọi nó là chó sói và Bố tính bắn nó. Nhưng Jack biết cả nhà không muốn xử với nó như thế. Laura hỏi nó: - Bạn biết là chúng tôi không muốn như thế, phải không Jack? Jack ngoắc ngoắc khúc đuôi cộc, nó biết. Đã quá giờ đi ngủ. Bố buộc Pet và Patty vào máng ăn sau thùng xe cho chúng ăn bắp. Carrie đã ngủ trở lại. Mẹ giúp Mary và Laura thay quần áo. Mẹ choàng những chiếc áo dài ngủ trên đầu các cô trong lúc các cô luồn tay vào ống tay áo. Các cô tự cài nẹp cổ và buộc dải mũ dưới cằm. Dưới gầm xe, Jack đảo quanh ba vòng một cách mệt mỏi và nằm xuống ngủ. Laura và Mary đọc lời cầu nguyện trong thùng xe rồi trườn vào chiếc giường nhỏ. Mẹ hôn chúc các cô bé ngủ ngon. Bên kia tấm bạt mui, Pet và Patty tiếp tục nhai bắp. Khi Patty hít hít máng ăn, những tiếng phì phà nổi lên sát bên tai Laura. Nhiều tiếng động nhỏ lan nhanh trong cỏ. Từ lùm cây dưới lạch suối, một con cú cất tiếng: - Hu-uu? Hu-uu? ở một khoảng xa hơn, một con khác đáp lại: - Uu-uu! Uu-uu! Xa xa trên đồng cỏ, những con sói hú dài và dưới thùng xe, Jack khẽ gừ gừ trong họng. Mọi thứ trong thùng xe đều êm ả và ấm áp. Ngay trước khoảng mui xe mở trống lơ lửng treo dày đặc những ngôi sao lớn lấp lánh. Laura nghĩ là Bố có thể đụng tay vào những ngôi sao này. Cô ước Bố ngắt lấy ngôi sao lớn nhất từ sợi dây treo nó vào bầu trời và tặng cho cô. Cô có vẻ hoàn toàn tỉnh táo, không hề ngủ chút nào, nhưng đột nhiên cô kinh ngạc hết sức. Ngôi sao lớn chiếc loá trước mắt cô. Lập tức, cô choàng thức dậy. Đã qua sáng hôm sau. Chương 4: Ngày Thảo Nguyên Những tiếng lao xao nhè nhẹ vang sát bên tai Laura do các hạt bắp trút vào máng ăn. Bố đang lo bữa sáng cho Pet và Patty. Bố nói: - Lui lại, Pet! Đừng có tham lam. Phải biết là đã tới lượt Patty chứ. Pet dậm mạnh chân và nhóp nhép. - Bây giờ hãy ăn trong góc máng của mình, Patty. Phía này là của Pet. Tới phiên Patty khẽ ré lên. Bố nói: - A, từ từ thôi, được không? Hãy tỏ ra biết điều nào. Ta nói con chỉ được ăn phần bắp riêng của mình thôi. Mary và Laura nhìn nhau, cùng cười. Mùi thịt ướp xông khói và cà phê thơm lựng trong tiếng xèo xèo của những chiếc bánh kếp. Hai cô bé nhảy phắt ra khỏi giường. Mary có thể tự lo mặc quần áo, trừ việc cài chiếc nút ở giữa lưng. Laura cài giúp chị chiếc nút này rồi Mary cài cho Laura trọn hàng nút phía sau. Hai chị em rửa mặt và tay trong chiếc thau nhôm đặt trên bậc xe. Mẹ giúp cả hai chải từng lọn tóc rối trong lúc Bố xuống lạch suối lấy nước. Rồi cả nhà ngồi trên thảm cỏ ăn bánh kếp với thịt ướp xông khói và mật mía trong những chiếc khay đặt trên đùi. Xung quanh, những vệt tối đọng lại trên mặt cỏ rợn sóng đang nhạt dần trong ánh nắng sớm. Từ những cồn sóng cỏ, bầy chiền chiền vút bay thẳng lên bầu trời quang đãng, hót véo von. Những cụm mây như các chuỗi ngọc trôi nhẹ giữa khoảng không xanh thẳm. Trên khắp các lùm cỏ, những con chim nhỏ xíu không ngừng bay lượn và ca hát líu lo. Bố bảo đó là giống chim di. Laura gọi lớn: - Di, di! Chim di ơi! Mẹ nhắc: - Ăn đi, Laura. Con không được quên các thói quen, dù mình ở cách mọi người hàng trăm dặm. Bố nói, giọng ngọt ngào: - Calorine, mình chỉ cách Independence bốn chục dặm thôi và cũng không có một người hàng xóm nào ở gần hơn thế. Mẹ gật đầu: - Bốn chục dặm, đúng rồi! Nhưng dù sao thì vẫn chẳng hay ho gì nếu hát bên bàn ăn. Hay trong lúc đang ăn. Mẹ nói thêm mấy tiếng cuối vì lúc này không có bàn ăn. Chỉ có cánh đồng mênh mông trống vắng với thảm cỏ chập chờn những gợn sóng lấp lánh dưới bầu trời xanh bao la và từng bầy chim bay lượn hót mừng mặt trời đang lên. Khắp trên đồng cỏ mênh mông này không một dấu hiệu nào cho thấy từng có một ai khác sống tại đây. Giữa khoảng đất trời lồng lộng, cỗ xe nhỏ phủ mui nằm im lìm đơn độc. Sát bên cỗ xe là Bố, Mẹ, Mary, Laura và bé Carrie đang ngồi ăn bữa sáng. Những con ngựa nhóp nhép nhai bắp và Jack đang ngồi bất động cố kìm không xin ăn. Laura không được phép chia thức ăn cho nó trong lúc đang ăn, nhưng cô vẫn để dành cho nó. Và Mẹ đã làm riêng cho nó một chiếc bánh kếp lớn bằng phần bột, trứng và sữa còn dư lại. Khắp nơi trong đồng cỏ, những con thỏ xuất hiện bên hàng ngàn gà gô, nhưng sáng nay Jack không thể tự săn tìm bữa ăn sáng. Bố sắp đi săn và Jack phải ở lại canh chừng. Trước hết, Bố buộc Pet và Patty vào dây cột. Rồi Bố lấy chiếc khạp gỗ bên sườn xe xuống, đổ đầy nước vào đó. Mẹ đang chuẩn bị giặt đồ. Xong, Bố dắt chiếc rìu nhỏ bén ngót vào trước bụng, treo ống thuốc ở bên chiếc rìu, nhét hộp đồ khâu và túi đạn vào túi rồi kẹp súng trên cánh tay. Bố nói với Mẹ: - Cứ nhẩn nha, Caroline. Mình sẽ chỉ rời đi khi nào thích đi. Còn nhiều thời giờ ở đây. Bố quay đi. Một khoảnh khắc sau, mọi người chỉ còn nhìn thấy nửa trên thân hình Bố vươn khỏi lớp cỏ cao, tiếp tục rời xa và nhỏ dần. Rồi, Bố khuất ngoài tầm nhìn và đồng cỏ vắng hoe. Mary và Laura rửa chén dĩa trong lúc Mẹ dọn giường trên thùng xe. Xếp gọn gàng xong những chiếc dĩa đã được rửa sạch vào thùng, hai chị em đi lượm những cành cây rải rác chất lên đống lửa rồi khuân củi đặt tựa vào một bánh xe. Thế là mọi thứ đều đã ngăn nắp. Mẹ mang từ trong xe ra chiếc chén gỗ nhỏ đựng xà phòng, vén cao váy, xăn tay áo lên và quì trên cỏ ngay bên khạp nước. Mẹ giặt khăn trải giường, áo gối, các đồ lót trắng rồi giặt tiếp sơ-mi, áo khoác, xả nước cho sạch và trải lên cỏ phơi khô dưới nắng. Mary và Laura đang lùng sục. Hai cô bé không được phép rời xa cỗ xe, nhưng rất thích thú chạy lăng quăng trên cỏ giữa nắng gió. Trước mắt các cô luôn có những con thỏ cực lớn nhảy nhót, những con chim vỗ cánh bay lên rồi đáp xuống. Đám chim di bé xíu có mặt khắp nơi và chiếc tổ xinh xinh của chúng đầy trong các bụi cỏ cao. Khắp nơi cũng xuất hiện những con sóc đất nhỏ với bộ lông sọc nâu. Những con vật nhỏ này có vẻ êm mềm như nhung. Mắt chúng tròn xoe sáng long lanh, mùi gấp nếp và những bàn chân tí tẹo. Chúng đột ngột phóng ra từ những lỗ hang trên mặt đất, đứng sững nhìn Mary và Laura. Chân sau chúng gấp dưới hông, những bàn chân tí teo áp vào bụng và chúng giống hệt những mảnh gỗ khô nhô lên từ mặt đất. Chỉ những con mắt chúng lấp lánh. Mary và Laura muốn bắt một con đem tới cho Mẹ. Nhiều lần, gần như các cô đã chụp trúng một con. Chúng thường đứng bất động mặc cho các cô tới gần và đúng lúc các cô tin là chụp được thì chúng biến mất. Trên mặt đất chỉ còn trơ lại lỗ hang tròn xoe. Laura chạy tới chạy lui hoài vẫn không chộp nổi một con. Mary thu mình ngồi im bên lỗ hang chờ một con xuất hiện trong lúc những con sóc nhảy nhót vui vẻ hoặc ngồi ngắm cô ngay sát phía ngoài tầm tay. Nhưng không một con nào ló ra lỗ hang mà cô rình chờ. Khi có một chiếc bóng trôi qua bãi cỏ là cả bầy sóc biến mất. Đó là lúc một con ó đảo vòng trên cao. Con chim bay gần tới mức Laura nhìn rõ cặp mắt tròn dữ tợn đảo xuống chiếu thẳng vào cô. Cô nhìn rõ cả chiếc mỏ nhọn sắc và những chiếc móng man rợ co lại sẵn sàng bổ nhào xuống vồ chụp. Nhưng con ó không thấy gì ngoài Laura và Mary cùng những lỗ hang tròn trống lốc trên mặt đất. Nó lượn vòng ra xa đảo tới nơi khác kiếm mồi. Lập tức tất cả những con sóc đất nhỏ lại xuất hiện. Lúc này đã gần giữa trưa. Mặt trời sắp vươn lên thẳng đỉnh đầu. Laura và Mary đành hái những bông hoa trong các lùm bụi mang về tặng Mẹ thay vì đem về một con sóc đất. Mẹ đang gấp quần áo vừa được phơi khô. Những bộ đồ lót trắng hơn tuyết còn đượm hơi nắng ấm và thơm nồng mùi cỏ. Mẹ cất quần áo vào thùng xe và nhận những bó hoa. Hết ngắm bó hoa của Laura, Mẹ lại ngắm bó hoa của Mary và cắm tất cả vào chiếc bình đầy nước. Mẹ đặt bình hoa ngay trên bậc xe để làm đẹp chỗ ở. Rồi Mẹ tách hai chiếc bánh bột bắp, quết mật mía lên. Mẹ đưa cho Mary và Laura mỗi cô một chiếc. Đó là bữa ăn trưa của hai cô bé, bữa ăn trưa thật ngon. Laura hỏi: - Em bé da đỏ ở đâu, Mẹ? Mẹ nhắc: - Không được nói với cái miệng đầy bánh như thế, Laura. Thế là Laura vội nhai, nuốt nghiến ngấu và nói: - Con muốn thấy một em bé da đỏ. - Xin Chúa che chở cho chúng con! Mẹ kêu lên và tiếp: - Điều gì lại khiến con muốn thấy người da đỏ? Rồi mình sẽ thấy họ. Mẹ sẽ không ngạc nhiên khi mình thấy nhiều hơn cả mức mình mong. Mary hỏi: - Họ sẽ không làm hại mình chứ? Mary luôn ngoan ngoãn không khi nào nói trong lúc đang nhai bánh. Mẹ nói: - Không đâu! Đừng để một ý nghĩ như thế len vào đầu con. - Tại sao Mẹ không thích người da đỏ? Laura hỏi và le lưỡi liếm một giọt mật. Mẹ nói: - Mẹ chỉ không thấy thích họ thôi. Mà con đừng liếm ngón tay nữa, Laura. Laura nói: - Đây là xứ sở của người da đỏ phải không? Nếu Mẹ không thích họ thì mình tới xứ của họ làm gì? Mẹ bảo Mẹ không biết đây có phải xứ của người da đỏ hay không. Mẹ cũng không biết ranh giới giữa vùng Kansas kéo tới đâu. Nhưng dù sao thì chắc người da đỏ không còn ở đây lâu. Bố đã nghe một người ở Washington nói không bao lâu nữa sẽ nới rộng vùng định cư qua lãnh thổ người da đỏ. Có thể việc này đã được thực hiện, nhưng khó có ai biết chắc vì Washington ở xa quá. Mẹ lên thùng xe lấy chiếc bàn ủi, đem hơ nóng trên lửa. Mẹ phun nước vào áo của Mary, của Laura, của bé Carrie và chiếc khăn thêu. Mẹ trải một chiếc chăn và tấm trải giường lên băng ghế trên thùng xe rồi ủi quần áo. Bé Carrie ngủ trong thùng xe. Laura, Mary và Jack nằm ngay dưới bóng mát trên đám cỏ bên cỗ xe vì lúc này đang nắng gắt. Jack há miệng, le dài chiếc lưỡi đỏ hỏn, mắt lờ đờ muốn ngủ gục. Mẹ khẽ ngâm nga trong lúc đưa chiếc bàn ủi qua các nếp nhăn trên những chiếc áo. Xung quanh họ chỉ có thảm cỏ dồn xô trong gió kéo dài tận chân trời. Trên cao, vài cụm mây trắng lững lờ trôi giữa khoảng không xanh nhạt. Laura hết sức thoải mái. Gió cất tiếng ca một điệu ca trầm trầm rì rào trong cỏ. Tiếng xào xạc của bầy cào cào vang khắp vùng đồng trống mênh mông. Từ các lùm cây bên lạch suối, một giọng ngân dài mơ hồ vẳng lại. Nhưng hết thảy những âm thanh đó như chỉ làm tăng thêm sự tĩnh mịch thanh thoát, ấm áp trùm bủa khắp nơi. Laura chưa từng thấy nơi nào kì thú ngang với nơi này. Cô không hề hay biết mình đã ngủ thiếp đi, cho tới khi bừng tỉnh. Jack đang đứng ngoắc ngoắc chiếc đuôi cụt ngủn. Mặt trời đã xuống thấp và Bố đang băng ngang đồng cỏ trở về. Cô nhảy bật lên, phóng chạy và chiếc bóng dài của Bố lướt tới đón cô giữa những cồn sóng cỏ. Bố giơ cao con mồi săn được cho cô nhìn rõ. Bố hạ dược hai con gà gô mái mập mạp và một con thỏ, con thỏ lớn nhất mà cô được thấy. Laura vừa nhảy nhót vừa vỗ tay la lớn. Rồi cô níu một ống tay áo Bố nhảy lò cò qua những đám cỏ cao. Bố nói với cô: - Vùng này vô số mồi săn. Vừa thấy một con nai là Bố thấy liền năm mươi con, rồi thì linh dương, sóc, thỏ và đủ thứ chim. Dưới suối thì đặc nghẹt cá. Bố quay qua nói với Mẹ: - Đúng như anh đã nói với em, Caroline. ở đây có mọi thứ mình cần. Mình sẽ sống như những ông vua. Rồi tới bữa ăn tối tuyệt vời. Cả nhà quây quần bên đống lửa, ăn món thịt thơm mềm ngon lanh cho tới lúc không thể ăn thêm nổi một miếng. Cuối cùng, Laura đặt chiếc dĩa xuống, thở ra một hơi dài mãn nguyện. Cô không ước điều gì hơn nữa trên đời này. Bầu trời bao la đang chuyển màu và khắp mặt đất phẳng lì rải đầy bóng tối. Hơi lửa ấm càng dễ chịu hơn do gió đêm thấm lạnh. Từ mé rừng bên lạch suối khắc khoải vẳng lên tiếng cuốc kêu. Một lát sau, con bách thanh cất tiếng hót rồi những vì sao hiện ra và bầy chim im lặng. Tiếng đàn của Bố dìu dặt cất lên trong ánh sao. Đôi lúc Bố hát theo, đôi lúc chỉ có tiếng đàn réo rắt. Êm nhẹ và lan xa, tiếng đàn như bồng bềnh theo lời ca: - Em bí ẩn nhưng tình ta tha thiết Trái tim này muôn thuở hướng về em Những ngôi sao rực sáng hạ thấp xuống khỏi nền trời, thấp hơn, thấp hơn nữa, run rẩy theo tiếng đàn. Laura thấy nghẹn thở và Mẹ vội nhào tới. Mẹ hỏi: - Gì vậy, Laura? Laura thì thầm: - Các ngôi sao đang hát. Mẹ nói: - Con ngủ mơ rồi. Chỉ có tiếng đàn thôi. Bây giờ phải lên giường ngay. Dưới ánh lửa, Mẹ cởi áo cho Laura, choàng lên người cô chiếc áo ngủ, giúp cô buộc dải mũ và đặt cô vào giường. Nhưng tiếng đàn vẫn dìu dặt trong ánh sao. Trời đêm ngập tràn âm nhạc và Laura tin rằng phần lớn do từ những ngôi sao rực sáng đang đu đưa thật thấp trên đồng cỏ. Chương 5: Ngôi Nhà Trên Thảo Nguyên Sáng hôm sau, Laura và Mary thức dậy trước khi mặt trời mọc. Các cô ăn điểm tâm bằng xúp bắp với xốt gà gô và lật đật giúp Mẹ rửa chén dĩa. Bố chuyển mọi thứ lên xe rồi cột Pet và Patty vào xe. Mặt trời vừa nhô lên, họ đã đang băng ngang đồng cỏ. Lúc này cũng không có con đường nào hết. Pet và Patty đạp tràn trên cỏ và cỗ xe kẻ dài phía sau những vệt bánh lẻ loi. Gần trưa, Bố ra lệnh cho lũ ngựa: - Hu-oa! Cỗ xe ngừng lại, Bố nói: - Đây rồi, Caroline. Mình sẽ dựng nhà tại đây. Laura và Mary bò qua chiếc máng ăn nhảy ào xuống đất. Khắp xung quanh đều là đồng cỏ trải dài tới chân trời. Tương đối gần về phía bắc là một trũng đất thấp nằm dưới đồng cỏ. Vài ngọn cây xậm màu nhô lên và sau những ngọn cây đó là nhiều vách đất dốc chận ngang thảm cỏ trên đồng. Xa xa về phía đông, một lớp cỏ khác nằm gẫy khúc trên đồng và Bố nói đó là sông. Bố vừa nói vừa chỉ cho Mẹ: - Sông Verdigris đó. Rồi, Bố Mẹ khởi sự chuyển đồ đạc xuống xe. Mọi thứ đều chất đống trên mặt đất. Mui xe cũng được gỡ và đem phủ trên đống đồ đạc. Tới phiên thùng xe được tháo rời trước sự chăm chú theo dõi của Laura, Mary và Jack. Từ lâu, cỗ xe đã là nhà của họ. Lúc này, nó chỉ còn trơ bộ khung và bốn vành bánh. Pet và Patty vẫn được cột vào dàn trước cỗ xe. Bố xách chiếc xô và cây rìu, leo lên ngồi trên bộ khung xe, lái đi. Bố lái thẳng xuống dưới đồng cỏ, khuất ngoài tầm nhìn. Laura hỏi: - Bố đang đi đâu vậy? Mẹ đáp: - Bố đi kiếm cây dưới khu đất trống. Thật khác thường và dễ sợ khi bị bỏ lại giữa thảo nguyên mà không có một cỗ xe. Mặt đất và bầu trời bỗng như quá lớn và Laura thấy mình bé nhỏ hơn. Cô muốn chúi xuống nằm im giữa đám cỏ cao như một con gà gô nhỏ. Nhưng cô không thể làm vậy vì phải giúp Mẹ trong lúc Mary ngồi trên cỏ giữ bé Carrie. Trước tiên, Laura và Mẹ sắp đặt giường ở dưới tấm bạt mui xe. Rồi Mẹ xếp lại đủ thứ hộp, thùng, gói trong lúc Laura rẫy sạch cỏ trên khoảnh đất trước lều bạt. Khoảnh đất này là chỗ nấu nướng. Nhưng phải chờ Bố mang củi về mới nhóm lửa được. Không còn việc làm nên Laura đi quanh một chút, cô không đi xa khỏi lều bạt, nhưng lại tìm thấy một kiểu đường hang kì lạ ở trong cỏ mà nếu chỉ nhìn qua ngọn cỏ gợn sóng ở phía trên thì không thể nhận ra. Đó là một lối đi thẳng, hẹp len giữa chân những cọng cỏ. Nó kéo dài mãi vào đồng cỏ vô tận. Laura đi theo một đoạn ngắn. Cô đi thật chậm, chậm hơn rồi dừng lại và cảm thấy kì quái. Thế là cô đảo ngược một vòng, vội vã chạy về. Nhìn xiên qua vai mình, cô không thấy có thứ gì khác. Nhưng cô vẫn hối hả chạy. Lúc Bố ngồi trên một đống gỗ lái xe trở về, Laura nói ngay với Bố về lối đi đó. Bố bảo đã nhìn thấy từ hôm qua. Bố nói: - Đó là một lối đi cũ lắm rồi. Đêm đó, bên đống lửa, Laura lại hỏi lúc nào cô sẽ thấy một em bé da đỏ, nhưng Bố nói không biết. Bố nói không bao giờ thấy người da đỏ, trừ phi họ muốn thấy mình. Bố đã thấy người da đỏ khi còn là một đứa trẻ ở bang New York, nhưng Laura chưa từng thấy bao giờ. Cô chỉ nghe nói đó là giống người man rợ với nước da màu đỏ và những cây rìu nhỏ của họ được gọi là tomahawk. Bố biết rất nhiều loài hoang thú nên chắc phải biết về giống người man rợ. Laura nghĩ là vào một ngày nào đó Bố sẽ chỉ cho cô thấy một em bé da đỏ giống như khi Bố chỉ cho cô những con nai nhỏ, những chú gấu con và những bầy chó sói. Bố đi kéo gỗ liên tục nhiều ngày, chất thành hai đống, một để làm nhà và một để làm chuồng ngựa. Một con đường bắt đầu thành hình nối với trũng đất thấp bên lạch suối. Về đêm, trong các sợi dây cột, Pet và Patty miệt mài gặm khiến đám cỏ xung quanh hai đống gỗ thành lưa thưa và cụt ngủn. Bố khởi sự dựng nhà trước. Bố xoải bước trên mặt đất để đo độ dài rộng, rồi với chiếc xuổng, Bố đào các đường rãnh cạn dọc hai bên khoảnh đất vừa đo xong. Bố lăn hai khúc cây lớn nhất vào các đường rãnh này. Những khúc cây này rất bền chắc vì sẽ đỡ cả căn nhà và được gọi là đà dầm. Chặt khớp xong, Bố lăn cho khúc cây lật úp xuống và các khớp gắn chặt khúc cây trên cây đà dầm. Phần khung nền của ngôi nhà đã hoàn tất. Nó có bề cao bằng thân một khúc cây. Hai cây đà dầm chìm một nửa dưới đất và hai đặt ngang đầu chúng được ghép vừa khít để nằm ngay trên mặt đất. Tại góc giao tiếp các đầu cây, những khớp chặt giúp các đầu cây ghép lại vẫn không có độ dày hơn một thân cây. Và, dầu hai khúc cây đặt trên đà dầm lại lộ ra phần thân cây còn nguyên phía sau các khớp chặt. Hôm sau Bố bắt đầu ghép vách. Từ mỗi phía, Bố lăn một khúc cây và chặt khớp hai đầu để ghép khít với đầu khúc cây nằm dưới. Rồi Bố lăn thêm hai khúc cây khác, chặt khớp hai đầu để ghép khít vào đầu hai khúc cây vừa được ghép. Lúc này, ngôi nhà đã có bề cao bằng hai thân cây. Các khúc cây ghép với nhau rất chắc ở các góc. Nhưng không khúc cây nào hoàn toàn thẳng và tất cả đều có một đầu lớn, một đầu nhỏ nên dọc theo các bức vách có những khe hở. Chuyện này không đáng kể bởi Bố đã sắp xếp mở các khe hở kia. Bố xoay xở một mình đưa bề cao ngôi nhà lên bằng ba thân cây. Rồi, Mẹ giúp Bố. Bố nhấc một đầu cây lên vách và Mẹ kìm đầu cây đó trong lúc Bố nhấc tiếp đầu kia. Bố đứng trên vách chặt khớp và Mẹ giúp lăn, đỡ khúc cây khi Bố ghép đặt vào đúng vị trí tạo một góc vuông hoàn hảo. Cứ thế, khúc này này tiếp khúc cây khác, bức vách cao thêm mãi cho tới lúc cao ngang đầu Laura. Cô đã thấy mể vì đứng xem Bố Mẹ dựng nhà nên quay đi lùng sục trong đám cỏ cao. Đột nhiên cô nghe Bố hét lớn: - Tránh mau! ở dưới tránh mau! Một khúc cây nặng trịch đang trượt xuống. Bố cố kìm giữ một đầu để khúc cây không lăn trúng Mẹ. Bố không thể kìm nổi. Khúc cây lao xuống. Mẹ co người lại trên mặt đất. Cô bé lao tới bên Mẹ gần như cùng một lúc với Bố. Bố quì xuống kinh hoảng gọi Mẹ và Mẹ nghẹn giọng: - Em không sao. Khúc cây đè trên một bàn chân Mẹ. Bố nhấc lên cho Mẹ rút chân ra. Bố sờ nắn trên người Mẹ coi có chỗ xương nào bị gãy. - Đưa tay lên coi. Bố nhấc và hỏi tiếp: - Có bị va ở lưng không? Em xoay đầu được chứ? Mẹ đưa tay lên và xoay đầu. Bố nói: - Cảm ơn Chúa! Bố giúp Mẹ ngồi thẳng dậy. Mẹ nhắc lại: - Không sao đâu, Charles. Chỉ bị ở bàn chân thôi. Bố vội tháo giầy và cởi vớ cho Mẹ. Bố xem xét khắp bàn chân Mẹ, lay động bàn chân, mu bàn chân và từng ngón chân. Bố hỏi: - Đau nhiều không? Mặt Mẹ xám ngoét, môi mím chặt. Mẹ nói: - Không nhiều lắm. Bố bảo: - Xương không sao. Chỉ bị trặc gân một chút thôi. Mẹ nói vui vẻ: - Ô, bong gân thì mau lành. Đừng lo quá, Charles. Bố nói: - Lỗi tại anh. Lẽ ra anh nên làm dàn đỡ. Bố đỡ Mẹ vào lều bạt. Bố nhóm lửa nấu nước. Khi nước nóng vừa mức, Mẹ ngâm bàn chân bị thương vào đó. Đúng là do ý Chúa mà bàn chân Mẹ không bị dập nát. Chỉ nhờ một khe rãnh nhỏ trên mặt đất, bàn chân Mẹ đã được cứu thoát. Bố chế thêm nước nóng vào thùng ngâm chân cho Mẹ. Hơi nóng làm chân Mẹ đỏ lên và chỗ mắt cá sưng phồng bắt đầu chuyển thành màu tím. Mẹ lấy bàn chân ra khỏi thùng nước và quấn nhiều vòng một dải vải quanh mắt cá chân. Mẹ nói: - Em có thể xoay xở được. Bàn chân đó của Mẹ không thể mang giầy. Nhưng Mẹ quấn thêm nhiều lớp vải xung quanh và lết đi cà nhắc. Mẹ vẫn lo cơm nước như thường lệ nhưng chậm chạp hơn. Nhưng Bố bảo Mẹ không thể giúp Bố dựng nhà cho tới khi mắt cá chân Mẹ lành hẳn. Bố đẽo cây làm dàn đỡ. Đó là những tấm ván dài và mỏng. Một đầu ván chống trên đất còn đầu kia tựa vào bờ vách. Bố sẽ không còn phải nhấc một khúc cây nào vì tất cả được lăn trên dàn đỡ này. Mắt cá chân Mẹ vẫn chưa lành. Chiều chiều, khi Mẹ mở băng ngâm chân trong nước nóng, chỗ đau vẫn nổi đủ thứ màu tím, đen, xanh, vàng. Ngôi nhà cứ phải nằm chờ. Rồi, một buổi chiều, Bố trở về vừa đi ngược con đường nối với lạch suối vừa huýt gió vui vẻ. Cả nhà không ngờ Bố đi săn mà về sớm như vậy. Vừa thoáng thấy mọi người, Bố đã la lớn: - Có tin vui! Thì ra họ có một người hàng xóm chỉ ở cách khoảng hai dặm bên kia bờ lạch suối. Bố gặp ông ta trong rừng. Cả hai đã thoả thuận cùng giúp nhau để mọi công việc sẽ nhẹ hơn. Bố nói: - Anh ấy còn độc thân và nói có thể sống không có nhà, dễ hơn so với em và các cô bé gái. Vì thế, anh ấy tới giúp mình trước. Khi nào anh ấy dựng nhà, anh sẽ qua giúp lại. Bố hỏi: - Em thấy thế nào, Caroline? Một cách vui vẻ, Mẹ đáp: - Thật tốt, Charles. Em mừng lắm. Ngay sáng sớm hôm sau, ông Edwards tới. Ông cao, gầy, da sậm nắng. Ông cúi chào Mẹ và gọi Mẹ bằng “bà” một cách lễ độ. Nhưng ông ấy nói với Laura rằng ông ấy là một con mèo hoang vùng Tennessee. Ông ấy mang đôi giầy ống cao, mặc chiếc áo cổ chui vá chằng chịt, đội nón da gấu và phun nước miếng xa tới mức Laura chưa hề tưởng tượng có một người làm nổi như thế. Ông ấy còn có thể phun nước miếng trúng bất cứ thứ gì ông ấy nhắm. Laura tập làm theo và tập hoài nhưng không bao giờ phun nổi nước miếng xa và chính xác như ông Edwards. Ông ấy làm việc rất nhanh. Chỉ nội một ngày, ông ấy và Bố đã đưa các bức vách lên đúng tầm cao mà Bố ấn định. Cả hai nô giỡn, ca hát suốt buổi làm và những cây búa của họ làm bay tung các mảnh vụn. Khung mái gồm những thanh gỗ mỏng đã được đặt trên các đầu vách. Rồi, trên bức vách phía nam, hai người cắt một khung trống cao làm cửa ra vào và trên hai bức vách phía đông, phía tây, họ khoét hai ô trống hình vuông để làm cửa sổ. Laura không thể kéo dài thêm thời gian chờ đợi được nhìn thấy bên trong ngôi nhà. Ngay khi khung trống cao được cắt xong, cô chạy ào vào bên trong. Mọi thứ ở đây đều in sọc chằng chịt. Những sọc nắng xuyên qua các kẽ hở trên bức vách phía tây những sọc tối do bóng những thanh nẹp mỏng trên khung mái in xuống. Những sọc nắng và tối đó đều vắt trên bàn tay, cánh tay và những bàn chân trần của Laura. Và, qua các kẽ vách, cô có thể nhìn thấy nhiều vệt sọc trên đồng cỏ. Mùi thơm ngọt của cỏ hoà lẫn cùng thơm ngọt của gỗ mới được chặt ra. Rồi, khi Bố cắt những khúc cây để mở ô cửa sổ trên bức vách phía tây, từng tảng lớn ánh nắng ùa vào. Lúc Bố hoàn tất công việc thì ngay trên nền đất giữa ngôi nhà nằm im một khối nắng. Quanh khung cửa và các ô cửa sổ, Bố và ông Edwards đóng ép những tấm ván mỏng vào các đầu cây được cắt ra. Ngôi nhà đã xong, ngoại trừ trên mái. Các bức vách đều chắc chắn và nhà rộng, rộng hơn nhiều so với lều bạt. Đúng là một ngôi nhà xinh xắn. Ông Edwards đòi đi về, nhưng Bố Mẹ nói ông phải ở lại dùng bữa. Mẹ đã nấu một bữa ngon đặc biệt cho ngày họ cùng nhau kết bạn. Có món thịt thỏ hầm ăn với bánh bột hấp và rất nhiều nước xốt. Còn món bánh bột bắp dày dặn đang bốc hơi rất hợp khẩu vị ăn với mỡ heo ướp muối xông khói. Ăn kèm thêm với bánh bột bắp còn có mật mía, vì đây là bữa ăn họp mặt kết bạn nên không dùng mật mía pha cà phê. Mẹ lấy ra món đường trắng dự trữ từ một túi giấy nhỏ màu nâu nhạt. Ông Edwards nói ông ấy chỉ còn biết ca ngợi bữa ăn này. Rồi Bố mang đàn ra. Ông Edwards nằm duỗi thẳng chân trên đất lắng nghe. Nhưng mở đầu, Bố đàn cho Laura và Mary. Bố đàn một bài các cô thích nhất và Bố hát theo. Laura thích bài này nhất vì giọng Bố cứ trầm xuống, trầm xuống nữa, trầm xuống hơn nữa theo nhịp hát: Đức Vua phiêu lãng chính là Ta Tênh tênh xuôi ngược khắp gần xa Chiếc nón cũ mèm, đem quang xuống Ôm trọn đất trời, vỗ bụng ca. Tới đó, giọng Bố chuyển thành trầm, trầm xuống, trầm hơn cả giọng con ễnh ương già nhất: - Đức Vua phiêu lãng chính là TA! Tất cả đều cười lớn, Laura khó khăn lắm mới ngưng cười nổi. - Ô, hát lại đi, Bố! Hát lại đi! Cô kêu lên trước khi sực nhớ là trẻ con thường bị canh chừng và không được nghe theo. Thế là cô nín thinh. Bố tiếp tục đàn và mọi vật bắt đầu nhảy múa. Ông Edwards chống một khuỷu tay lên, rồi ngồi thẳng dậy, rồi phóng mình lên và bắt đầu nhảy múa. Ông như một con thỏ đang nhảy nhót dưới ánh trăng trong khi tiếng đàn của Bố vui nhộn ầm ĩ và một bàn chân Bố gõ nhịp trên mặt đất. Laura và Mary vỗ tay hoà theo trong lúc bàn chân các cô cũng gõ nhịp. - Anh đúng là cây đàn điên cuồng nhất mà tôi được thấy. Ông Edwards kêu lên với Bố một cách thán phục. Ông ấy không ngừng nhảy nhót còn Bố không ngưng đàn. Bố đàn bài Mùi Vị Tiền Bạc, bài Du Khách Arkansas, bài Cô Hầu Gái Ái Nhĩ Lan và bài Vũ Điệu Quỉ. Bé Carrie không thể ngủ trong tiếng nhạc như thế. Bé ngồi dậy trong lòng Mẹ, mắt tròn xoe nhìn ông Edwards rồi vừa cười vừa vỗ vỗ hai bàn tay nhỏ xíu. Ngay cả ngọn lửa cũng nhảy múa lôi cuốn tất cả những bóng đen xung quanh cùng nhảy múa theo. Chỉ riêng ngôi nhà mới vẫn đứng im lìm lặng lẽ giữa màn đêm cho tới khi mặt trăng vươn lên chiếu sáng những bức vách màu xám và dọi những vệt vàng bao bọc nó. Ông Edwards bảo là ông ấy phải đi. Đường về chỗ ở của ông ấy khá xa, mãi mé rừng bên kia lạch suối. Ông ấy cầm cây súng chúc Laura, Mary và Mẹ ngủ ngon. Ông ấy bảo là một người độc thân thường thích cô đơn, nhưng ông ấy đoan chắc là rất vui với không khí gia đình trong buổi tối này. Ông ấy nhắc: - Đàn đi, Ingalls! Đàn tiễn tôi lên đường. Thế là trong lúc ông ấy theo con đường dẫn xuống lạch suối rời xa dần, Bố vẫn đàn. Và Bố cùng ông Edwards và Laura cùng hát lớn: Già Dan Tucker là ông già hoàn hảo Già rửa mặt mình trong chiếc chảo Già chải tóc mình bằng một bánh xe quay Và tống cơn nhức răng xuống gót giày Mau tránh đường cho già Dan Tucker tới Già đã trễ giờ đi kiếm ăn bữa tối Bữa ăn qua rồi, chén dĩa sạch trơn Chẳng còn lại gì ngoài miếng bí cỏn con Già Dan Tucker đã đi vào thành phố Cưỡi trên lưng lừa, dắt theo chú chó lon ton Vang xa trên đồng cỏ, giọng Bố oang oang có giọng Laura phụ hoạ và vẳng lại từ khu đất trũng bên kia lạch suối, những tiếng gào cuối cùng của ông Edwards: Mau tránh đường cho già Dan Tucker tới Già đã trễ giờ đi kiếm bữa ăn tối! Khi Bố ngưng đàn, cả nhà không còn nghe thấy tiếng ông Edwards nữa. Chỉ có tiếng gió rì rào trong đồng cỏ. Mặt trăng vàng vành vạnh đang vươn lên thẳng đỉnh đầu. Bầu trời ngập tràn ánh sáng xoá nhoà các vì sao và khắp thảo nguyên chìm trong dịu dàng bí ẩn. Từ rừng cây bên lạch suối, một con hoạ mi bắt đầu lên tiếng. Vạn vật im lìm lắng nghe. Con chim hót và hót liên tục. Gió se lạnh lồng lộng thổi qua đồng trống và tiếng hoạ mi trong trẻo lượn vòng trên tiếng cỏ rì rào. Bầu trời như một chiếc đĩa sáng khổng lồ úp trên mặt đất phẳng lì đen đặc. Tiếng chim hót ngưng bặt. Không một cử động hay lên tiếng. Laura và Mary lặng lẽ còn Bố và Mẹ ngồi không nhúc nhích. Chỉ còn tiếng gió lao xao và thảm cỏ thở dài. Rồi Bố đặt cây đàn trên vai chạm nhẹ chiếc vĩ trên mấy sợi dây. Vài nốt nhạc như những giọt nước trong veo rơi vào sự im lìm. Ngưng lại một giây, rồi Bố đàn lại điệu hót của con họa mi. Con họa mi lập tức đáp lại lời Bố. Nó bắt đầu lên tiếng hót trở lại. Tiếng chim hót hoà theo tiếng đàn của Bố. Khi những dây đàn im tiếng, con hoạ mi tiếp tục hót. Nếu nó ngưng lại, cây đàn lại mời gọi và nó lập tức hót theo. Con chim và cây đàn như đang cùng nhau tâm sự dưới ánh trăng trong đêm lạnh. Chương 6: Chuyển Vào Nhà Buổi sáng, Bố nói với Mẹ: - Tốt hơn là mình nên chuyển vào nhà và có xếp đặt thật gọn ghẽ dù còn thiếu nền và nhiều thứ khác. Anh phải lo dựng gấp chuồng ngựa để Pet và Patty cũng được an toàn trong các bức vách. Hồi đêm, anh nghe thấy tiếng sói hú khắp mọi phía và có vẻ khá gần. Mẹ nói: - Ô, anh còn cây súng nên em không lo lắm. - Đúng vậy, và còn cả Jack ở đây nữa. Nhưng anh vẫn yên tâm hơn khi có những bức vách chắc bao quanh em và các con. Mẹ hỏi: - Sao anh nghĩ là mình sẽ không gặp người da đỏ? Bố trả lời một cách lơ đãng: - Ồ, anh không biết nữa. Anh đã thấy nhiều điểm hạ trại của họ giữa các vách đất. Anh nghĩ lúc này họ đang có một cuộc đi săn ở xa. Mẹ lên tiếng gọi: - Các con gái! Nắng lên rồi! Laura và Mary bò ra khỏi giường, mặc quần áo. Mẹ nói trong lúc đặt phần thịt thỏ hầm cuối cùng lên dĩa của các cô: - Ăn sáng nhanh lên. Bữa nay mình chuyển vào trong nhà nên phải dọn hết các thứ lụn vụn ra. Thế là hai cô bé ăn hối hả rồi lật đật đi gom những mảnh vụn đưa ra khỏi ngôi nhà. Các cô tất tả lui tới, kéo váy chất đầy các miếng gỗ mang đổ đống bên đống lửa. Nhưng vẫn còn nhiều mảnh vụn ngổn ngang trên mặt đất khi Mẹ quét nền nhà bằng cây chổi chà. Mẹ còn đi khập khiễng dù mắt cá chân đau đã khá hơn. Tuy nhiên, chỉ một thoáng sau Mẹ đã quét xong nền đất và lúc này Mary cùng Laura giúp Mẹ chuyển các thứ vào nhà. Bố ngồi vắt vẻo trên đầu vách, mở rộng tấm bạt mui xa phủ lên khung mái nhà. Tấm bạt căng phồng gió, râu Bố bị thổi bay loạn xạ và mái tóc dựng đứng tựa hồ đang cố bứt khỏi đầu. Bố nắm chặt tấm bạt, vật lộn với nó. Có lúc gió giật mạnh tới mức Laura nghĩ Bố có thể văng ra và bay trên không như một con chim. Nhưng Bố kẹp cứng chân vào bức vách, tay nắm chắc tấm bạt ghì xuống buộc lại, Bố nói với tấm bạt: - Đó! Cứ nằm tại đó và phải… - Charles! Mẹ gọi. Mẹ đứng sững với đống chăn trải giường trong tay nhìn lên Bố bằng ánh mắt phiền trách. Bố vẫn nói với tấm bạt: - … phải tỏ ra ngoan ngoãn! Rồi Bố nói với Mẹ: - Sao thế, Caroline? Em tưởng là anh đang nói điều gì hả? Mẹ nói: - Ô, Charles! Anh đúng là vô tích sự! Bố chuyển tới một góc nhà, leo xuống. Những đầu cây chìa ra được Bố dùng làm bậc thang. Bố thọc hai bàn tay vào mái tóc làm cho mái tóc dựng đứng loạn xạ hơn nữa và Mẹ cười ngặt nghẽo. Bố bước tới choàng ôm cứng cả Mẹ lẫn đống chăn trải giường. Rồi cả hai cùng ngắm ngôi nhà và Bố nói: - Đúng là một ngôi nhà ấm áp. Mẹ bảo: - Em phải cảm ơn vì được ở trong đó. - Nhà không có cánh cửa ra vào, không có cánh cửa sổ. Nền nhà chỉ là mặt, còn mái mới là tấm bạt. Nhưng nhà có những bức vách chắc chắn và đứng đúng ngay chỗ của nó. Nó không như cỗ xe phải lênh đênh di chuyển vào mỗi buổi sáng. Bố nói: - Mình sẽ sống thoải mái ở đây, Caroline, vùng này rộng mênh mông. Đây là nơi mà anh bằng lòng ở lại hết đời mình. Mẹ hỏi: - Kể cả khi nó thành vùng định cư mới? - Kể cả khi nó thành vùng định cư mới. Sẽ không có vấn đề chen chúc chật chội với hàng xóm vì vùng này đủ rộng để không bao giờ thành quá đông. Hãy coi bầu trời kìa! Laura hiểu điều Bố muốn nói. Chính cô cũng thích vùng này. Cô thích bầu trời bao la lộng gió và mặt đất ngút ngàn tựa hồ vô tận. Mọi thứ đều tự do, vĩ đại và huy hoàng. Gần tới giờ ăn, ngôi nhà được sắp xếp xong. Những chiếc giường nằm gọn ghẽ trên mặt đất. Băng ghế trên xa và hai khúc cây được mang vào dùng làm ghế. Cây súng của Bố đặt trên khung cửa ra vào. Các thùng, hộp và bao bố dựa gọn vào bức vách. Ngôi nhà khá dễ chịu. Một lớp sáng nhẹ lọc qua tấm mái bạt. Gió và nắng lọt vào từ các ô cửa sổ và mỗi kẽ vách đều loé chiếu ánh mặt trời đã lên cao. Chỉ riêng đống bếp lửa nằm nguyên tại chỗ. Bố nói Bố sẽ lo xây thật gấp một lò bếp ở trong nhà. Bố cũng phải lo xẻ ván để có một mái nhà kiên cố trước khi mùa đông tới. Bố còn phải lo ghép một nền sàn và đóng giường, bàn ghế. Nhưng tất cả những việc đó đều phải chờ tới sau khi dựng xong nhà cho ông Edwards và sau khi Pet và Patty có chuồng hẳn hoi. Mẹ nói: - Khi làm xong những thứ đó, em muốn có một dây phơi. Bố cười: - Phải, anh còn muốn có một cái giếng. Sau bữa ăn, Bố cột Pet và Patty vào xe, xuống lạch suối chở về một khạp nước đầy để Mẹ rửa các thứ. Bố nói với Mẹ: - Em có thể giặt quần áo ở dưới suối. Phụ nữ da đỏ vẫn làm vậy. Mẹ nói: - Nếu muốn như người da đỏ thì anh phải khoét một lỗ thủng trên mái cho khói tuôn ra và đặt bếp ngay giữa nền nhà. Người da đỏ vẫn làm vậy mà. Chiều hôm đó, Mẹ giặt quần áo trong chiếc khạp và trải phơi trên cỏ. Sau bữa ăn tối, cả nhà quây quần một hồi lâu bên đống lửa. Đêm đó, họ được ngủ trong nhà. Không bao giờ họ còn phải ngủ bên đống lửa ngoài trời. Bố và Mẹ nhắc tới những người ở Wisconsin và Mẹ ao ước được gửi một lá thứ cho những người đó. Nhưng Independence ở xa tới bốn chục dặm và không có cách nào gửi thư nếu Bố không làm một chuyến đi dài tới trạm bưu điện ở đó. Big Woods đã cách xa thăm thẳm, ông nội, bà nội cùng các cô, các bác, các chú và đám trẻ anh chị em không thể biết lúc này Bố, Mẹ, Laura, Mary và bé Carrie ở đâu. Phần họ ngồi đây bên đống lửa cũng không ai biết được tại Big Woods đã xảy ra những chuyện gì. Không có cách nào để liên lạc. Mẹ lên tiếng: - Thôi, đi ngủ! Bé Carrie đã buồn ngủ lắm. Mẹ bồng bé vào nhà, thay quần áo cho bé trong lúc Mary giúp Laura cởi các nút áo phía sau lưng, còn Bố lấy một tấm chăn treo lên che kín khung cửa ra vào. Che bằng tấm chăn cũng tốt hơn là bỏ khung cửa trống. Rồi Bố ra dắt Pet và Patty tới sát ngôi nhà. Bố khẽ gọi vào trong: - Caroline, ra đây! Ra coi trăng! Mary và Laura nằm trên chiếc giường nhỏ trên nền đất trong ngôi nhà mới, nhìn qua ô cửa sổ phía đông ra ngoài bầu trời. Mặt trăng toả sáng ngay sát dưới ô cửa sổ và Laura ngồi dậy. Cô chăm chú ngắm mặt trăng cực lớn đang lặng lẽ vươn lên cao mãi trên nền trời quang đãng. Ánh trăng biến tất cả những kẽ vách phía đó thành những đường sáng bạc. Qua ô cửa sổ, ánh trăng ùa vào in trên nền đất một mặt gương hình vuông sáng dìu dịu. Độ sáng đủ cho Laura nhìn rõ Mẹ khi Mẹ vén tấm chăn che cửa, bước vào nhà. Laura vội vã nằm xuống trước khi Mẹ kịp thấy cô đang ngồi trên giường. Cô nghe thấy Pet và Patty đang hí khe khẽ với Bố. Rồi, tiếng chân ngựa khua đập vào tai cô kề trên nền đất. Pet và Patty đang theo Bố đi về phía ngôi nhà và Laura nghe thấy Bố đang hát: Trôi đi, trôi mãi, trăng ơi! Lung linh ánh bạc giữa trời bao la. Giọng Bố như hoà vào trời đêm cùng ánh trăng sáng và sự im lìm của đồng cỏ. Bố vẫn hát khi bước tới khung cửa ra vào. - Trời xanh, trăng bạc la đà. Mẹ nhắc nho nhỏ: - Charles! Anh làm lũ nhỏ mất ngủ đó. Bố bước vào nhà không một tiếng động. Jack theo Bố bén gót và nằm chắn ngang giữa khung cửa ra vào. Lúc này cả nhà đều nằm an toàn, ấm áp sau những bức ván vững chắc của ngôi nhà mới. Laura mơ hồ nghe vẳng lại một tiếng sói hú kéo dài từ khoảng xa trên đồng cỏ, nhưng cô chỉ khẽ rùng mình và chìm vào trong giấc ngủ. Chương 7: Bầy Sói Trọn ngày Bố và ông Edwards dựng chuồng cho Pet và Patty. Hai người lợp luôn mái, kéo dài công việc muộn tới mức Mẹ phải hâm thức ăn chờ bữa tối. Chuồng không có cánh cửa, nhưng dưới ánh trăng, Bố đóng hai cây cọc thật chắc xuống đất, mỗi cây sát một bên cửa. Bố lùa Pet và Patty vào trong chuồng rồi xếp chồng lên nhau nhiều miếng gỗ nhỏ chắn ngang trước khung cửa. Hai cây cọc giữ những miếng gỗ này biến thành một mảng vách kiên cố. Bố nói: - Rồi! Lũ sói cứ mặc sức hú. Tối nay mình sẽ ngủ yên! Buổi sáng, khi Bố nhấc những mảnh ván ở sau hai cây cọc ra Laura vô cùng kinh ngạc. Sát bên Pet là một con ngựa con tai dài, cẳng dài, đang đứng lảo đảo. Laura vừa nhắm phía đó chạy tới thì Pet vốn hiền hoà bỗng bật hai tai về phía sau và nhe trọn hàm răng ra trước cô bé. Bố hét: - Lui ngay, Laura! Quay về phía Pet, Bố nói: - Nào, Pet! Con biết là chúng ta không làm đau đứa nhỏ của con đâu! Pet đáp lời Bố bằng một tiếng hí. Nó chịu cho Bố vỗ về con ngựa con nhưng dứt khoát không chịu cho Laura hoặc Mary tới gần. Ngay cả khi các cô nhòm qua kẽ vách. Pet cũng đảo cặp mắt trắng dã về phía đó và nhe hết hàm răng ra. Các cô chưa từng thấy một con ngựa con có những cái tai dài như thế. Bố bảo đó là một chú la con nhưng Laura nói nó giống một con thỏ lớn. Vì vậy, con ngựa con được đặt tên là Bunny. Khi Pet bị buộc vào dây cột với Bunny nhảy nhót xung quanh hoặc ngơ ngác nhìn khoảng không rộng lớn. Laura phải canh chừng bé Carrie hết sức cẩn thận. Vì ngoại trừ Bố, bất kì ai tới gần Bunny cũng khiến Pet ré lên man rợ nên em bé có thể bị nó cắn. Xế trưa chủ nhật đó, Bố cưỡi Patty băng qua đồng cỏ để coi có gì khác không. Trong nhà còn đầy thức ăn nên Bố không mang súng theo. Bố phóng ngựa thật xa qua vùng cỏ cao, đi dọc mép vách đất bên lạch suối. Từng bầy chim vụt bay lên, liệng vòng rồi lại chúi xuống cỏ. Bố vừa đi vừa nhìn xuống vùng đất trũng bên lạch suối như để ngắm những con nai đang gặm cỏ dưới đó. Rồi Patty vụt phi nước đại và cùng với Bố mau chóng trở nên nhỏ dần. Một thoáng sau, chỉ còn những gợn sóng cỏ ở nơi Bố vừa có mặt. Khá muộn vào buổi chiều, Bố vẫn chưa trở về. Mẹ cời than trong đống lửa ra, đặt củi lên, bắt đầu nấu bữa tối. Mary lo giữ em bé trong nhà. Laura hỏi mẹ: - Jack có chuyện gì vậy? Jack đi lui tới, ngó quanh lo ngại. Nó hếch mũi hít hít trong gió, chùm lông cổ dựng lên, ép xuống rồi lại dựng lên. Đột nhiên, Pet gõ móng ầm ĩ. Nó chạy vòng tròn với sợi dây cột rồi đứng sững, hí lên nho nhỏ. Bunny vội chạy tới đứng áp sát vào nó. Mẹ hỏi: - Chuyện gì vậy, Jack? Nó chăm chăm nhìn Mẹ nhưng nó không thể nói được điều gì. Mẹ nhìn một vòng khắp dưới đất trên trời. Không thể nhận ra điều gì khác lạ. Mẹ nói: - Giống như không có chuyện gì cả, Laura. Mẹ cào than ung quanh bình lọc cà phê, chiếc vỉ nướng và cả trên nắp lò nướng bánh. Thịt gà gô xèo xèo trên vỉ và bánh bột bắp bắt đầu toả mùi thơm. Nhưng suốt thời gian đó, Mẹ luôn liếc nhìn khắp đồng cỏ, Jack đi lại không ngừng và Pet không gặm cỏ. Nó hướng về phía tây bắc, nơi Bố đi tới và giữ con ngựa con luôn ở sát bên nó. Đột nhiên, Patty xuất hiện phóng ngang đồng cỏ. Nó xoải vó phóng như điên và Bố cúi rạp mình ôm sát cổ nó. Nó chạy vượt khỏi chuồng trước khi Bố kìm được nó dừng lại. Nó dừng lại khó khăn tới độ gần như khuỵu xuống. Toàn thân nó run rẩy, bộ lông đen đẫm mồ hôi và miệng sùi bọt. Bố vội tụt xuống. Bố cũng thở một cách mệt nhọc. Mẹ hỏi: - Chuyện gì vậy, Charles? Bố nhìn về phía lạch suối khiến Mẹ và Laura cùng nhìn theo. Nhưng họ chỉ thấy khoảng trời trống phía trên vũng đất với vài ngọn cây và những mỏm vách đất rải rác dưới thảm cỏ trên đồi cao. Mẹ lại hỏi: - Có chuyện gì vậy? Sao anh lại cưỡi Patty theo kiểu đó? Bố thở ra một hơi dài: - Anh sợ bầy sói kéo tới đây. Nhưng có vẻ ổn hết rồi. Mẹ kêu lên: - Bầy sói! Bầy sói nào? Bố nói: - Mọi chuyện ổn rồi, Caroline! Hãy để chàng trai này lấy hơi lại đã! Sau khi hít thở vài hơi, Bố tiếp: - Không phải anh cưỡi Patty theo kiểu đó. Đó là cách duy nhất anh làm được để bám lấy nó. Tới năm chục con sói, Caroline. Những con sói lớn nhất mà anh thấy. Anh không muốn gặp lại điều đó một lần nào nữa, dù để được nhận cả một kho bạc. Đúng lúc đó, một dải bóng đen phủ khắp đồng cỏ, vì mặt trời lặn xuống và Bố nói: - Anh sẽ kể cho em nghe sau. Mẹ lên tiếng: - Mình ăn tối ở trong nhà. Bố nói với Mẹ: - Không cần thế đâu, Jack sẽ báo động cho mình đúng lúc. Bố cởi Pet và Patty ra khỏi dây cột. Bố không dắt mẹ con Pet và Patty xuống lạch suối uống nước như thường lệ. Bố cho chúng uống nước trong khạp của Mẹ đã được đổ đầy để dành cho sáng hôm sau. Bố vuốt hai bên sườn và mấy ống chân đẫm mồ hôi của Patty rồi cho nó vào chuồng cùng Pet và Bunny. Bữa tối đã sẵn sàng. Đống lửa quét một vòng sáng trong bóng tối. Laura và Mary ngồi sát đống lửa, giữ bé Carrie bên cạnh. Hai cô thấy đêm đen bao đặc xung quanh và luôn liếc về phía sau, chỗ tiếp giáp giữa bóng tối và ánh lửa. Tại đó, những vệt tối lay động như những vật sống đang chuyển mình. Jack ngồi bệt sát đất bên Laura. Vành tai nó căng lên hướng về vùng bóng tối. Chốc chốc, nó đứng dậy đi vào vùng bóng tối một khoảng ngắn. Rồi nó bọc vòng quanh đống lửa và trở lại ngồi bên Laura. Lông cổ dày đặc của nó nằm ép xuống và nó không hề gầm gừ. Chỉ hàm răng nó nhe ra nhưng có lẽ vì nó là giống chó săn. Laura và Mary ăn bánh bột bắp với món gà gô và lắng nghe Bố nói chuyện với Mẹ về bầy sói. Bố đã phát giác ra còn có những người hàng xóm khác. Một số người đang tới định cư dọc hai bên bờ suối. Cách đây khoảng ít nhất ba dặm, một người đang cùng vợ dựng nhà dưới khu đất trũng giữa vùng đồi cỏ cao. Đó là gia đình Scott và, Bố nói, họ là những nông dân rất dễ mến. Cách họ chừng sáu dặm, có hai người đàn ông độc thân sống chung trong một căn nhà. Họ canh tác hai khu đất liền nhau và dựng nhà ngay giữ đường ranh. Một người đặt giường tựa vào bờ vách phía này và một người đặt giường tựa vào bờ vách phía kia. Như thế, mỗi người vẫn nằm trên đất của mình, dù họ ở chung trong một ngôi nhà và ngôi nhà chỉ rộng cỡ tám bộ. Họ nấu nướng và ăn chung ở giữa nhà. Bố không nói tiếng nào về bầy sói, Laura rất muốn được nghe chuyện này, nhưng cô biết là không được phép cắt ngang khi Bố đang nói chuyện. Bố nói hai người độc thân kia không quen một người nào trong vùng. Đúng ra là họ chưa hề thấy ai ngoại trừ người da đỏ. Vì thế, họ rất mừng khi gặp Bố và Bố đã dừng lại với họ khá lâu. Rồi Bố tiếp tục đi và từ trên một sườn đồi cỏ cao, Bố thấy một vệt trắng dưới trũng đất thấp bên lạch suối. Bố đoán là một tấm bạt mui xe và đúng thế. Khi tới nơi, Bố gặp một cặp vợ chồng và năm đứa con nhỏ. Họ từ Iovva tới và phải dừng tại đây vì một con ngựa của họ bị đau. Lúc này, con ngựa đã lành, nhưng khí hậu xấu dưới trũng thấp khiến họ bị sốt. Hai vợ chồng và ba đứa con lớn bệnh không đứng vững nỏi. Hai đứa con nhỏ, một trai một gái trạc Mary và Laura, phải lo săn sóc cả gia đình. Thế là, Bố lo giúp họ một số việc rồi trở lại chỗ hai người đàn ông độc thân báo cho họ biết. Lập tức, một người xuống đưa hết gia đình kia lên trên đồi để họ thở hít không khí trong lành hơn hầu mau chóng lành bệnh. Việc nọ bắt qua việc kia buộc Bố trở về muộn. Bố băng ngang đồng cỏ một đoạn ngắn và khi đang thúc Patty xoải vó thì đột nhiên, một bầy sói ào tới. Chỉ một thoáng, chúng đã bọc kín xung quanh Bố. Bố nói: - Đúng là một bầy sói chen chúc. Cả thảy có tới năm chục con, toàn là thứ sói lớn nhất mà anh chưa từng thấy bao giờ. Có thể bảo đó là những con sói trâu. Con đầu đàn cực lớn màu xám, cao ba bộ là ít. Phải nói là tóc anh dựng ngược lên hết. Mẹ nói: - Mà anh không mang súng theo chứ! - Anh có nghĩ tới chuyện đó. Nhưng dù có cây súng thì cũng vô ích. Làm sao có thể đối đầu với năm chục con sói chỉ bằng một cây súng. Nhất là Patty không thể chạy bứt xa khỏi chúng. Mẹ hỏi: - Rồi anh làm gì? Bố đáp: - Chẳng làm gì cả. Patty ráng sức chạy và anh không mong gì khác hơn thoát xa khỏi chỗ đó. Nhưng anh biết chắc dù Patty phóng tận lực, bầy sói vẫn bắt kịp nội một phút và vật cả anh lẫn nó té xuống. Cho nên, anh kìm Patty đi chậm lại. Mẹ nói trong hơi thở: - Trời ơi, Charles! - Đúng vậy! Dù có được trả bao nhiêu tiền, anh cũng không làm lại một việc như thế, Caroline. Anh chưa từng thấy những con sói lớn cỡ đó. Một con cực lớn chạy dọc sát bàn đạp của anh. Anh có thể đá trúng vào sườn nó. Chúng tỏ ra không để ý tới anh một chút nào. Có lẽ chúng vừa được ăn no mồi, Caroline. Phải nói là đám sói bao kín quanh anh với Patty và cùng chạy theo. Ngay giữa ánh sáng ban ngày. Giống hệt một bầy chó đang cùng đi với một con ngựa. Chúng bọc quanh, chạy nhảy, nô giỡn và táp lẫn nhau y hệt những con chó. Mẹ lại kêu: - Trời ơi, Charles! Tim Laura đập thình thịch, miệng há hốc, mắt mở thao láo nhìn Bố. Bố nói: - Patty run bần bật, giằng giựt chiếc hàm thiếc. Nó khiếp hãi cùng cực toát mồ hôi khắp mình. Anh cũng toát mồ hôi. Nhưng anh kìm được nó một đoạn, chạy chậm chậm giữa bầy sói. Bầy sói chạy cùng anh như thế khoảng một phần tư dặm, hoặc có thể dài hơn. Lúc đó, tới một khúc ngoặc dẫn xuống trũng đất dưới lạch suối. Con sói đầu đàn chạy xuống đó và cả bầy cùng chạy theo. Ngay khi con sói cuối cùng vừa vào khúc ngoặc, anh liền thúc Patty phóng đi. Nó băng ngang đồng cỏ chạy thẳng về nhà. Kể cả khi anh dùng roi quất nó, nó cũng không thể phóng nhanh hơn. Suốt đoạn đường đó, anh sợ khủng khiếp. Anh nghĩ là bầy sói có thể cũng hướng tới đây và đi nhanh hơn anh. Caroline, anh mừng vì đã để súng ở nhà cho em. Và nhà cũng đã dựng chắc chắn. Anh cho là với cây súng, em có thể kìm giữ bầy sói ở ngoài. Nhưng ở ngoài lại có Pet và con ngựa con. Mẹ nói: - Anh khỏi phải lo, Charles. Em tin là có thể xoay xở để cứu được những con ngựa của mình. Bố nói: - Lúc đó anh đâu còn tỉnh táo nữa. Anh biết em sẽ lo cứu mấy con ngựa, Caroline. Dù sao bầy sói sẽ không làm em rối trí. Nhưng nếu chúng đang đói mà anh lại không có ở đây thì… Mẹ ngắt ngang: - Bình nhỏ vẫn có tai lớn đó. Mẹ muốn nhắc Bố không nên làm Mary và Laura khiếp sợ. Bố cao giọng: - Thôi, mọi thứ đều đã tốt đẹp rồi. Giờ này bầy sói đã ở cách xa đây nhiều dặm rồi. Laura hỏi: - Cái gì khiến chúng làm như vậy? Bố nói: - Bố không biết, Laura. Theo Bố thì chúng vừa ăn no và đang trên đường xuống lạch suối uống nước. Hoặc giả chúng đang nô đùa trên đồng cỏ nên không để ý tới bất kì thứ gì, ngoại trừ trò chơi, giống như nhiều lúc các con vẫn như thế. Hoặc giả chúng thấy Bố không có súng tức không thể hại chúng. Hoặc khác nữa là chúng chưa từng thấy một người nào trước đây nên không biết rằng con người có thể hại chúng. Nói chung thì chúng không để ý tới Bố một chút nào. Pet và Patty không ngừng đi vòng vòng ở trong chuồng. Jack đảo chậm chậm quanh đống lửa. Khi nó dừng lại hếch cao mũi đánh hơi, lông cổ nó dựng lên. Mẹ nói, giọng vui vẻ: - Tới giờ ngủ của các con gái rồi! Ngay cả bé Carrie cũng chưa ngủ, nhưng Mẹ đưa tất cả vào nhà. Mẹ nhắc Mary và Laura lên giường trong lúc Mẹ mặc áo ngủ cho bé Carrie và đặt bé vào giường lớn. Rồi Mẹ trở ra rửa chén. Trong bóng tối, cánh tay Bố vươn từ phía sau tấm chăn lên trên khung cửa, lặng lẽ kiếm cây súng. Phía ngoài, gần đống lửa, dĩa chén va chạm lách cách. Rồi có tiếng dao cào trên chiếc vỉ nướng. Mẹ và Bố đang nói chuyện và Laura ngửi thấy mùi khói thuốc hút. Ngôi nhà yên ắng nhưng thiếu cảm giác an toàn vì cây súng của Bố không nằm trên khung cửa và khung cửa còn trống chỉ được che bằng một tấm chăn. Một hồi lâu sau, Mẹ vén tấm chăn lên. Lúc đó, bé Carrie đã ngủ. Mẹ và Bố bước vào hết sức nhẹ và lặng lẽ lên giường. Jack nằm chận giữa khung cửa, nhưng không đặt cằm lên mấy bàn chân. Đầu nó nghểnh cao, nghe ngóng. Mẹ thở nhè nhẹ trong khi Bố thở nặng nề và Mary đã ngủ say. Nhưng Laura vẫn căng mắt nhìn qua bóng tối theo dõi Jack. Cô không thể biết lông cổ của con chó có dựng đứng lên không. Cô choàng ngồi dậy đột ngột ở trên giường. Cô đã ngủ. Bóng tối xung quanh như bị xua đi. Ánh trăng dọi vào ô cửa sổ và nhiều vết xuyên qua các kẽ vách. Dưới ánh trăng, Bố đứng như một vệt đen bên cửa sổ, lăm lăm cây súng. Đúng lúc đó, một tiếng sói hú ngay sát bên tai Laura. Cô nhào xa khỏi bức vách. Con sói đang ở sát bên ngoài vách. Laura khiếp hãi vì đã gây ra tiếng động. Cảm giác lạnh buốt không chỉ chạy theo sống lưng mà bủa khắp người cô. Mary kéo chăn lên trùm kín đầu. Jack gừ gừ và nhe hàm răng hướng về phía tấm chăn che khăn cửa ra vào. Bố nói: - Đứng im, Jack! Những tiếng hú khủng khiếp từ khắp hướng dội vào ngôi nhà và Laura nhảy khỏi giường. Cô muốn tới với Bố vì biết thà làm phiền Bố lúc này còn tốt hơn. Bố quay đầu lại và thấy cô đang đứng trong chiếc áo dài ngủ. Bố hỏi khẽ: - Con muốn thấy không, Laura? Laura không dám lên tiếng, nhưng cô gật đầu và lướt qua nền đất tới với Bố. Bố đặt cây súng tựa vào vách, nhấc cô bé lên ngang ô cửa sổ. Trong ánh trăng, những con sói ngồi thành một vòng cung. Chúng ngồi bệt trên hông, nhìn Laura ở phía sau ô cửa sổ và cô nhìn lại chúng. Chưa bao giờ cô bé nhìn thấy những con sói lớn như thế. Con sói lớn nhất còn cao hơn Laura. Nó có thể cao hơn cả Mary nữa. Nó ngồi chính giữa, đối mặt với Laura. Mọi thứ thuộc về nó đều lớn hết - những chiếc tai nhọn, cái mõm nhọn, chiếc lưỡi thè dài, vai và chân chắc nịch, hai bàn chân trước đặt sát nhau, còn chiếc đuôi quấn quanh hông. Lông nó bờm xờm màu xám nhưng hai mắt loé sáng xanh lè. Laura thọc mấy ngón chân vào kẽ vách, hai cánh tay ôm cứng một mảnh ván và cô ngắm, ngắm chăm chú con sói đó. Nhưng cô không dám thò đầu khỏi ô cửa trống ra ngoài, nơi mà cả bầy sói ngồi rất gần cô, đang liên tục di động bàn chân và liếm láp hai bên sườn. Bố đứng sát sau lưng, vòng tay ôm chắc ngang người cô bé. Laura thì thầm: - Nó lớn khủng khiếp. Bố cũng thì thầm trong mái tóc cô bé: - Thử nhìn coi lông của nó óng ánh mức nào. Ánh trăng tạo một viền sáng quanh bộ lông bờm xờm phủ khắp người con sói lớn. Bố tiếp tục thì thầm: - Chúng bọc thành một vòng kín xung quanh nhà. Laura bước thoăn thoắt bên cạnh Bố tới ô cửa sổ khác. Bố lại đặt cây súng tựa vào vách và nhấc cô bé lên. Đúng là ở mé này cũng có một vòng cung chó sói. Tất cả những cặp mắt của chúng đều loé sáng xanh lè trong bóng tối của ngôi nhà. Laura có thể nghe được hơi thở của chúng. Khi chúng bắt gặp Bố và Laura nhìn ra, phần chính giữa của vòng cung hơi chuyển lui một chút về phía sau. Pet và Patty đang hí và lồng chạy trong chuồng. Móng của chúng đập thình thịch trên mặt đất và cào khua ầm ĩ trên các bức vách. Một lúc sau, Bố lại quay về ô cửa sổ cũ và Laura cũng đi theo. Họ tới đúng lúc con sói lớn hếch mũi thẳng lên trời. Mõm nó há ra và một tiếng hú dài bốc lên như thấu tới mặt trăng. Rồi hết thẩy bầy sói bọc vòng xung quanh nhà đều hếch mũi thẳng lên trời và đồng loạt hú đáp lại. Tiếng hú của chúng vang động khắp ngôi nhà, lan theo ánh trăng dội xa trên đồng cỏ bát ngát im lìm. Bố nói: - Bây giờ thì đi ngủ thôi, bình rượu táo nhỏ! Đi ngủ đi, Jack và Bố sẽ canh chừng cho mọi người. Thế là Laura trở lại giường. Nhưng cô trằn trọc mãi không ngủ nổi. Cô nằm lắng nghe hơi thở của bầy sói ở phía bên kia vách. Cô nghe rõ tiếng móng chân chúng cào cào trên mặt đất và cả tiếng của một chiếc mũi hít hít ngay một kẽ vách. Cô nghe rõ con sói xám đầu đàn lại cất tiếng hú và cả bầy sói đồng loạt hú đáp lại. Nhưng Bố vẫn đang lặng lẽ chuyển từ ô cửa sổ này tới ô cửa sổ khác và Jack đi đi lại lại không ngừng trước tấm chăn treo trên khung cửa ra vào. Những con sói cứ hú, nhưng chúng không thể xâm nhập nổi ngôi nhà vào lúc Bố và Jack đang có mặt như thế. Cuối cùng, Laura ngủ thiếp đi. Chương 8: Hai Khuôn Cửa Dầy Laura cảm thấy một làn hơi ấm dịu trên mặt và mở mắt ra trong ánh nắng sớm mai. Mary đang trò chuyện với Mẹ bên đống lửa ngoài trời. Laura chạy ra khỏi cửa, chỉ mặc chiếc áo dài ngủ. Không còn thấy những con sói mà chỉ có dấu vết dày đặc của chúng quanh ngôi nhà và chuồng ngựa. Bố đã tới con đường dẫn xuống suối vừa đi vừa huýt gió. Bố đã treo súng trên móc để dắt Pet và Patty xuống lạch suối cho uống nước như lệ thường. Bố bước theo dấu bầy sói xa tới mức đủ cho Bố biết chắc lúc này bầy sói đã ở rất xa, có lẽ đang theo đuổi một bầy nai. Mấy con ngựa luôn nhảy tránh dấu vết bầy sói, tai chúng vểnh cao một cách bồn chồn và Pet giữ chặt con nó ở bên mình. Tuy vậy, chúng ngoan ngoãn đi theo Bố vốn đã hiểu rõ không còn điều gì đáng sợ nữa. Bữa ăn sáng đã sẵn sàng. Khi Bố từ lạch suối trở về, cả nhà cùng ngồi bên đống lửa ăn món bột chiên với thịt gà gô bằm. Bố nói nội trong ngày phải làm xong một cánh cửa. Bố không muốn lặp lại thêm một lần nữa cảnh chỉ có một tấm chăn ngăn cách cả nhà với bầy sói. Bố nói: - Mình không có đinh, nhưng không thể chờ tới khi có dịp đi Independence để mua. Một người đàn ông không cần có đinh vẫn dựng nổi nhà hoặc làm một cánh cửa. Sau bữa ăn sáng, Bố cột Pet và Patty vào xe, xách rìu đi kiếm gỗ. Laura lo rửa chén và dọn giường vì hôm đó tới phiên Mary lo giữ em bé. Rồi Laura giúp Bố làm cánh cửa. Mary ngồi xem trong lúc Laura chuyển dụng cụ cho Bố. Với chiếc cưa, Bố cắt những khúc cây vừa với bề cao khuôn cửa và cắt những khúc ngắn hơn theo bề ngang. Rồi Bố dùng cây rìu xả thành những tấm ván và chuốt nhẵn bóng thật đẹp. Bố ghép những tấm ván dài sát nhau trên mặt đất và đặt ngang chúng những tấm ván ngắn. Với một mũi khoan, Bố khoan những chiếc lỗ xuyên qua hai lớp ván và mỗi chiếc lỗ đều được chốt bằng một chốt gỗ vừa khít. Cánh cửa được làm xong theo cách đó và là một cánh cửa gỗ xồi loại tốt, cứng chắc. Bố cắt ba đoạn đai da dài để làm bản lề, một ở trên đầu, một ở dưới đáy và một ở chính giữa. Trước hết, Bố gắn các đoạn đai da vào cánh cửa theo cách sau: Bố đặt một miếng gỗ trên cánh cửa và khoan lỗ xuyên qua thấu cánh cửa. Rồi Bố gấp đôi một đầu đai da quanh miếng gỗ nhỏ, dùng dao khoét những lỗ tròn trên đoạn đai. Bố đặt miếng gỗ có quấn đai trở lại trên cánh cửa cho tất cả các lỗ khoét khớp với nhau thành một lỗ. Lúc đó, Laura chuyển cho Bố một chốt gỗ và cây búa để Bố gắn chốt qua chiếc lỗ. Chiếc chốt xuyên qua sợi đai, qua miếng gỗ nhỏ, rồi lại xuyên qua sợi đai và gắn sâu vào cánh cửa. Thế là đoạn đai được gắn cứng ngắc không cách nào rời ra nổi. Bố nói: - Bố đã nói với con rằng một chuyên gia không cần những cây đinh. Cột xong ba khớp bản lề, Bố dựng cánh cửa vào khuôn cửa. Nó vừa khít. Tiếp theo, Bố chốt những mảnh gỗ vào các tấm ván cũ bên mép khuôn cửa bên kia để giữ cho cánh cửa khỏi bung ra. Bố dựng cánh cửa trở lại đúng chỗ và Laura đứng tựa lưng vào đỡ nó trong lúc Bố chốt các khớp bản lề vào khung cửa. Nhưng trước khi làm việc này, Bố cần gắn xong một then cài trên cánh cửa vì đương nhiên phải giữ cho cánh cửa đóng được bằng một cách nào chứ. Đây là cách Bố gắn then cài: Trước hết, Bố đẽo một thanh gỗ xồi dầy, ngắn. Bố cắt một khía rộng, sâu ở một phía thanh gỗ tới ngay chính giữa. Bố gắn đứng thanh gỗ này ở phía trong cánh cửa và sát một bên mép. Bố đặt phía có đẽo khía áp vào cánh cửa để khía đẽo tạo thành một khe hở nhỏ. Xong, Bố chặt và chuốt một thanh gỗ dài, nhỏ hơn. Thanh gỗ này nhỏ đủ để dễ dàng trượt qua khe hở. Bố đặt một đầu thanh gỗ qua khe hở và gắn đầu kia vào cánh cửa. Nhưng Bố không gắn thanh gỗ một cách cứng ngắc. Thanh gỗ được chốt rất chắc vào cánh cửa nhưng có khoan một lỗ rộng hơn cây chốt. Thứ duy nhất giữ cho thanh gỗ nằm trên cánh cửa chính là khe hở. Thanh gỗ này là chiếc then cài. Nó xoay được dễ dàng quanh chốt gắn và đầu buông lỏng có thể kéo lên, hạ xuống trong khe hở. Đầu buông lỏng này đủ dài để băng qua khe hở để gắn vào vách khi cánh cửa đóng lại. Lúc Bố và Laura dựng cánh cửa vào khung cửa, Bố đã đánh dấu trên vách nơi mà đầu then cài vươn tới. Ngay tại điểm này, Bố gắn lên vách một khúc gỗ xồi dầy. Nửa trên của khúc gỗ này được xẻ ra để chiếc then cài có thể nằm lọt giữa nó và bức vách. Bây giờ thì Laura đẩy đóng cánh cửa lại và trong lúc đẩy cô bé nhấc cao chiếc then cài cho rớt vào trong khe hở và đặt một đầu của nó vào vị trí sau khúc gỗ xồi dầy. Thế là chiếc then cài gắn vào tường và khe hở trên thanh gỗ đứng giữ nó trên cánh cửa. Không một ai có thể bẻ gãy nổi một then cài hai lớp cứng chắc như vậy. Tuy vậy còn phải có cách kéo then cài từ phía ngoài. Thế là Bố chế ra sợi dây then. Bố cắt một khúc từ một sợi dây da dài thật tốt, buộc một đầu vào chiếc then cài ở khoảng giữa đầu chốt và khe hở. Trên then cài, Bố khoan một lỗ nhỏ trên cánh cửa và đẩy đầu dây then qua chiếc lỗ này. Laura đứng ở phía ngoài, nắm lấy đầu dây then và kéo. Cô bé có thể kéo nó đủ để nhấc chiếc then cài lên rồi buông xuống. Chiếc cửa đã hoàn tất. Nó rất chắc chắn vì được ghép bằng những miếng gỗ xồi dầy với lớp ván xồi ngang và tất cả được chốt liền lại bằng những chốt cứng. Sợi dây then thả ra bên ngoài để khi cần đi vào nhà chỉ việc kéo lên. Còn khi đã ở bên trong và muốn ngăn người ở bên ngoài thì chỉ đưa sợi dây then vào phía trong là không ai có thể vào nổi. Trên cánh cửa không có nắm đấm, không có ổ khoá, không có khoá nhưng lại là một cánh cửa hảo hạng. Bố nói: - Có thể bảo là một ngày làm việc xứng đáng. Và Bố có một trợ thủ tí hon tuyệt diệu. Bố đưa tay vỗ vỗ trên đỉnh đầu Laura. Rồi Bố gom dụng cụ đem đi cất, vừa đi vừa huýt gió, đoạn Bố cời dây buộc đưa Pet và Patty đi uống nước. Mặt trời đang lặn khiến hơi gió lạnh hơn và hương vị bữa ăn chiều ngào ngạt toả ra từ bếp lửa khiến Laura ngây ngất hơn bao giờ hết. Bữa ăn chiều có thịt ướp muối. Đây là phần thịt ướp muối cuối cùng nên ngày mai Bố phải đi săn. Sau đó, Bố và Laura sẽ làm cánh cửa nhà kho. Cánh cửa nhà kho cũng được làm y hệt như cánh cửa nhà, ngoại trừ điểm không có then cài. Pet và Patty không thể biết cài then cửa và không kéo nổi dây then vào ban đêm. Cho nên, thay vì làm then cài, Bố khoét một lỗ hổng trên cánh cửa và luồn qua đó một sợi xích. Ban đêm, Bố lòn một đầu xích qua một kẽ vách rồi khoá hai đầu xích vào nhau. Thế là không ai còn có thể vào chuồng ngựa nổi. Bố nói: - Từ nay, tất cả chúng ta đều yên chí. Khi có thêm người tới ở gần thì tốt nhất là ban đêm hãy khoá chuồng ngựa, vì nơi nào có nai sẽ có sói và nơi nào có ngựa sẽ có kẻ trộm ngựa. Trong bữa ăn tối bữa đó, Bố nói với Mẹ: - Caroline, bây giờ thì ngay sau khi dựng xong nhà cho Edwards, anh sẽ làm cho em một cái bếp để em có thể nấu nướng ở trong nhà để tránh khỏi gió, bão. Anh chưa thấy nơi nào nhiều nắng như ở đây, nhưng cũng phải nghĩ tới lúc mưa trút xuống. Mẹ nói: - Đúng đó, Charles. Không bao giờ có chuyện thời tiết tốt kéo dài mãi mãi trên đất này. Chương 9: Ngọn Lửa Trong Lò Sưởi Phía ngoài nhà, ngay sát bức vách gỗ đối diện với cửa ra vào. Bố cắt sạch cỏ và dọn sạch bóng một khoảng đất bằng. Bố bắt đầu làm lò sưởi. Rồi Bố và Mẹ lại đặt thùng xe lên guồng bánh và Bố cột Pet và Patty vào xe. Mặt trời vươn lên thu ngắn lại tất cả những chiếc bóng. Hàng trăm con chiền chiện bay lên từ đồng cỏ vừa hót vừa bay cao thêm mãi trong thinh không. Tiếng hót của chúng vẳng xuống từ bầu trời bao la quang đãng giống như một trận mưa âm nhạc. Và khắp trên mặt đất đang ngả nghiêng những đợt sóng cỏ thì thầm trong gió, hàng ngàn con di cỏ nhỏ xíu bấu những móng chân tí hon vào các khóm hoa cũng líu lo ca hát. Pet và Patty hít mạnh hơi gió và kêu lên thích thú. Chúng vươn cao cần cổ, đập mạnh vó trên nền đất như háo hức muốn phóng đi. Bố huýt gió trong lúc leo lên ghế xe, nắm lấy dây cương. Chợt bắt gặp Laura đang nhìn mình, Bố ngưng huýt gió và hỏi: - Có muốn đi dạo không, Laura? Cả em và Mary nữa? Mẹ bảo các cô có thể đi được. Hai cô bé liền leo lên bánh xe, đạp những ngón chân trần lên các nan hoa, rồi ngồi trên chiếc ghế cao bên cạnh Bố. Pet và Patty khẽ nhổm lên và chiếc xe lắc lư lao xuống con đường làm thành bằng chính vết bánh xe của Bố. Mấy Bố con đi giữa những vạch đất trần trụi vàng xậm, tất cả đều nhăn nhúm quằn quện vì đã lâu không có mưa. Rồi, họ đi tới, băng ngang khoảng đất gợn sóng dưới đáy trũng sâu. Những đám cây tụ rải rác trong vùng đất thấp, quanh những khu đồi và ở cả những bãi cỏ trống. Những con nai nằm dài dưới bóng cây, thẫn thờ nhìn ánh trăng chiếu trên đám cỏ xanh. Chúng nghểnh cao đầu, vểnh tai, đứng thẳng dậy vừa nhai nhóp nhép vừa ngắm cỗ xe bằng những con mắt to tròn hiền hoà. Suốt dọc đường, những khóm phi yến dài đang nở hoa khoe đủ thứ màu hồng, xanh, trắng; những con chim đảo cánh trên các chùm kim tước vũ vàng tươi và bướm dập dìu bay lượn. Những khóm cúc lấp lánh nhẹ lay dưới các cội cây, đàn sóc huyên thuyên chíu chít trên các cành cao, những con thỏ đuôi trắng nhảy nhót dọc theo đường và những con rắn luồn lách trốn chạy thật mau khi nghe tiếng cỗ xe lao tới. Sâu dưới khoảng thung lũng thấp nhất, lạch suối róc rách chảy trong sự che phủ của những vách đất. Những vách đất này khiến Laura không còn nhìn thấy đồi cỏ ở đâu nữa. Nhiều cội cây vươn lên từ những khoảng vỡ vụn trong khi tại những khoảng đất trần không đủ nước cho các cội cây sống thì có những bụi cây nhỏ bám rễ vào một cách tuyệt vọng. Những rễ cây không được đất vùi lấp hiện ra ngay phía trên đầu Laura. Laura bỗng hỏi Bố: - Người da đỏ cắm trại ở đâu? Bố đã nhìn thấy nhiều trại Da Đỏ bỏ hoang tại đây, ngay giữa các vách đất. Nhưng lúc này Bố đang bận nên không thể chỉ cho cô bé thấy được. Bố còn mắc đi lấy đá về xây lò sưởi. Bố nói: - Các con gái, các con cứ chơi đùa, nhưng không được đi khỏi tầm nhìn của Bố và không được xuống nước. Các con cũng không được nghịch những con rắn vì ở đây có thể có một vài loại rắn độc. Thế là Mary và Laura chơi sát bên lạch suối trong lúc Bố cạy những tảng đá được chọn và khuân chất đống lên xe. Hai cô bé ngắm những con bọ nước chân dài ngoằng lướt đi trên mặt nước phẳng lì bất động. Các cô chạy dọc bờ làm kinh hoảng những con ếch và cười lớn khi thấy những con ếch xanh biếc với chiếc yếm trắng nhảy bõm xuống nước. Các cô cũng lắng nghe những con bồ câu rừng gọi nhau giữa lùm cây và những con hoạ mi nâu đang hót. Các cô thấy những con cá bơi bên nhau tại những khúc suối cạn xao động. Những con cá mang hình thù những bóng trắng mỏng manh trong làn nước gợn sóng lăn tăn, chỉ thỉnh thoảng mới có một con dọi chiếu ánh mặt trời bằng cái ức màu bạc. Dọc theo lạch suối hầu như không có gió, không khí ngưng đọng và dễ khiến buồn ngủ. Mùi rễ cây mục và mùi bùn bốc lên trong tiếng lá cây xào xạc không ngừng và tiếng nước chảy róc rách. Dấu chân nai in dày đặc trên các vũng bùn và nới những dấu chân có nước đọng, những đám muỗi dày đặc bay lên kêu vo vo như tiếng rên than nhức nhối. Laura và Mary liên tục đập muỗi trên mặt, trên cổ, trên tay, trên chân và ước mong có thể chúi được xuống nước. Các cô đều nóng nực và làn nước có vẻ mát lạnh hơn. Laura cho rằng sẽ chẳng có hại gì nếu cô chỉ nhúng một chân xuống nước và khi Bố xoay lưng đi cô đã gần như dứt khoát thực hiện ý định. - Laura! Bố chợt lên tiếng và cô bé vội co chiếc chân hư hỏng về. Bố nhắc: - Nếu các con muốn xuống nước thì có thể đi xuống những khúc cạn. Nhớ là không được dầm sâu quá mắt cá chân. Mary chỉ bước xuống một chút xíu. Cô bảo sỏi làm cô đau và cô ngồi trên một khúc cây kiên nhẫn đập muỗi. Nhưng Laura vỗ tay thích thú bước xuống nuớc. Khi cô bước tới, sỏi nghiến vào bàn chân đau điếng. Khi cô dừng lại, bầy cá nhỏ bu quanh mấy ngón chân, táp táp bằng những chiếc miệng bé xíu. Đúng là một cảm giác chập chờn kì thú. Laura cố chụp bắt một con cá nhỏ nhưng cô chỉ chạm nổi vào lớp bao nhớt nhợt bọc ngoài. Rồi thùng xe được chất đầy. Bố gọi: - Trở lại thôi, các con gái! Và hai cô bé lại trèo lên ghế xe, rời khỏi vùng lạch suối. Qua khỏi khu rừng cây và những mỏm đồi, họ vượt lên vùng đồng cỏ đang lộng gió với những thảm cỏ giống như đang vừa thì thầm cười nói và ca hát. Các cô bé đã có một thời khoảng kì diệu dưới vùng lạch suối. Nhưng Laura yêu thích thảo nguyên hơn hết. Bãi cỏ rộng mênh mông, xinh đẹp và thoáng đãng vô cùng. Chiều hôm đó, Mẹ ngồi khâu vá trong bóng mát của ngôi nhà với bé Carrie sát bên cạnh đang chơi đùa trên tấm nệm trong lúc Laura và Mary xem Bố xây lò bếp. Trước hết, Bố nhào đất sét với nước trong khạp chứa nước cho ngựa uống để làm thành một loại hồ sền sệt rất đẹp. Bố cho Laura khuấy hồ trong lúc Bố xếp đá thành hàng quanh ba cạnh khu đất sát vách nhà mà Bố đã dọn sạch. Rồi, với một chiếc bay gỗ, Bố rải hồ phủ trên các tảng đá. Bố đặt một hàng đá khác lên lớp hồ này rồi lại phủ thêm hồ kín từ trên xuống. Bố xây thành một cái hộp trên mặt đất với ba mặt hộp làm bằng đá và hồ còn mặt kia là bức vách gỗ của ngôi nhà. Những mặt hộp bằng đá cứ được thêm đá thêm hồ mãi cho cao lên ngang cằm Laura. Rồi Bố dựng một khúc gỗ lên những bờ đá dựa sát vách căn nhà. Bố trát thật nhiều hồ trên khắp các phía của khúc cây. Sau đó, Bố xây đá và hồ trên đầu khúc cây này. Lúc này Bố đang làm ống khói và xây nó mỗi lúc một nhỏ hơn. Bố lại phải xuống lạch suối kiếm thêm đá. Laura và Mary không được đi theo vì Mẹ bảo không khí ẩm ướt có thể khiến các cô nhiễm bệnh. Mary ngồi cạnh Mẹ khâu thêm một miếng vá vào chiếc chăn chằng đụp của mình còn Laura nhào một khạp hồ đầy. Hôm sau Bố xây ống khói lên cao ngang vách nhà, rồi đứng ngắm nghía, mấy ngón tay thọc sâu vào trong tóc. Mẹ nói: - Charles, anh giống như một người hoang dã. Anh đang dựng đứng tận chân từng cọng tóc. Bố đáp: - Nó đứng thẳng lên bằng mọi cách mà, Caroline. Khi anh đang theo tán em, nó cũng không bao giờ nằm xuống bất chấp anh trét bao nhiều dầu bóng. Bố nằm dài lên cỏ ngay sát bên chân Mẹ: - Anh đã mệt nhoài vì cân đo cho thẳng để xây được những tảng đá lên cao cỡ đó. Mẹ nói: - Chỉ một mình anh xây ống khói cao tới mức đó là qua tốt rồi. Mẹ đan mấy ngón tay vào mái tóc của Bố và dựng nó đứng lên hơn bao giờ hết. Mẹ hỏi: - Sao anh không xây phần còn lại bằng hồ với cây? Bố tán đồng: - Phải rồi, làm thế sẽ dễ hơn. Anh thật đáng trách nếu không cho rằng mình làm thế được. Bố lập tức nhảy bật dậy. Mẹ nhắc: - Ồ, hãy nằm trong bóng mát nghỉ một tí đã. Nhưng Bố lắc đầu: - Không nên nằm dài ở đây trong lúc công việc cần làm, Caroline. Càng làm xong bếp sớm thì em càng sớm có chỗ nấu ở trong nhà, tránh khỏi gió máy. Bố kéo những cây nhỏ ra khỏi đống gỗ, cắt, khứa và dựng lên những vách nhà phía trên ống khói bằng đá. Khi ghép những cây này, Bố trát lên chúng thật nhiều hồ. Và ống khói được làm xong như thế. Rồi Bố vào nhà, dùng búa và cưa, khoét một lỗ hổng trên vách. Bố cắt rời những khúc gỗ làm thành mặt vách thứ tư ở đáy ống khói và đã có lò bếp. Lò bếp đủ rộng cho Laura, Mary và bé Carrie ngồi lọt ở trong. Nền lò là khoảng đất đã được Bố dọn sạch cỏ và mặt trước lò chính là khung trống do Bố cắt rời những khúc gỗ. Khúc gỗ nằm trên khung trống này được Bố trát đẫm hồ khắp mọi phía. Mỗi bên khung trống Bố gắn một miếng ván sồi tươi sát các đầu cây bị cắt. Kế tiếp, Bố gắn hai khúc sồi vào hai góc trên lò bếp, đặt lên một tấm ván sồi và chốt lại thật chắc. Đó là tấm giá trên mặt lò bếp. Ngay khi tấm giá được làm xong, Mẹ đặt lên ở chính giữa bức tượng phụ nữ nhỏ bằng sứ mà Mẹ mang theo từ Big Woods. Bức tượng nhỏ đã qua một chuyến đi dài mà không bị vỡ. Nó đứng trên giá với những chiếc giày nhỏ bằng sứ, bộ váy sứ rộng, vạt áo sứ dài, căng khít và đôi má hồng, cặp mắt xanh, mái tóc vàng óng đều bằng sứ. Sau đó, Bố Mẹ, Mary và Laura cùng đứng ngắm lò bếp. Chỉ riêng bé Carrie là không để ý tới nó. Bé chỉ chỏ bức tượng sứ và hét lên khi Mary và Laura bảo với bé rằng ngoài Mẹ ra không một ai được đụng tới bức tượng. Bố nhắc Mẹ: - Em phải hết sức cẩn thận với lò bếp này, Caroline. Những tia lửa trong ống khói có thể văng lên mái. Loại vải đó lại rất dễ bắt lửa. Anh sẽ ráng xẻ thật mau những tấm ván mỏng để sớm có một cái mái không khiến em phải lo ngại. Thế là Mẹ thận trọng đốt một ngọn lửa nhỏ trong lò bếp mới để nướng món thịt gà gô cho bữa tối. Và tối hôm đó, cả nhà dùng bữa ở trong nhà. Mọi người ngồi vây quanh chiếc bàn sát khuôn cửa sổ phía tây. Bố cấp tốc đóng chiếc bàn này bằng hai miếng ván sồi. Một đầu ván thọc vào kẽ vách, còn đầu kia đặt trên những trụ gỗ ngắn dựng đứng. Bố chuốt nhẵn ván bằng lưỡi búa và chiếc bàn thật xinh xắn khi Mẹ phủ lên một tấm khăn. Ghế ngồi được làm bằng những khúc cây lớn. Nền nhà bằng đất đá được mẹ quét sạch bằng chiếc chổi cành cây. Trong các góc nhà, giường ngủ đều gọn gàng dưới những tấm chăn phủ được vá nhiều lớp. Ánh nắng chiếu dọi qua khung cửa sổ khiến ngôi nhà đầy ắp những tia sáng vàng lấp lánh. Phía ngoài và ở xam thật xa tận chân trời đã ngả màu tím hồng, gió đang bốc lên và những thảm cỏ hoang chập chờn gợn sóng. Phía trong, ngôi nhà thật dễ chịu. Mùi thịt gà nướng ngào ngạt khiến Laura tứa nước miếng. Cô đã rửa tay, rửa mặt, chải tóc và buộc sẵn chiếc khăn quanh cổ. Cô ngồi thẳng người trên khúc gỗ tròn và sử dụng dao, nĩa thật khéo đúng như Mẹ đã chỉ dẫn. Cô im lặng, vì con nít không được phép nói trong lúc ăn trừ khi được nhắc tới, nhưng cô nhìn Bố, nhìn Mẹ, nhìn Mary, nhìn bé Carrie trong lòng Mẹ và cô cảm thấy mãn nguyện. Thật sung sướng lại được sống trong một ngôi nhà. Chương 10: Một Mái Nhà Và Một Nền Đất Mỗi ngày, Laura và Mary đều bận rộn từ sáng tới tối. Sau khi dẹp giường và rửa xong chén dĩa vẫn còn hàng đống việc để làm hoặc xem và theo dõi. Các cô lùng kiến những tổ chim trong các bụi cỏ cao và khiến các con chim mẹ quang quác rủa xả. Đôi lúc các cô vuốt ve một tổ chim thật nhẹ nhàng và trong một khoảnh khắc, chiếc tổ đầy lông to bỗng biến thành chiếc tổ đầy những chiếc mỏ tíu tít đòi ăn. Rồi con chim mẹ rủa xả dữ dội và Laura cùng Mary lặng lẽ rút lui, tránh không quấy rầy nó quá nhiều. Các cô chúi vào các lùm cỏ cao nằm bất động như những con chuột ngắm bầy gà gô nhỏ lăng xăng chạy kiếm mồi quanh những con gà mẹ nâu mượt đang cục cục một cách lo ngại. Các cô cũng ngắm những con rắn sọc luồn lách giữa những cọng cỏ hoặc nằm bất động tới mức sự sống chỉ còn lộ ra ở những chiếc lưỡi nhỏ xíu đu đưa và những con mắt lấp lánh. Đây là những con rắn không độc hại nhưng Laura và Mary không dám đụng tới chúng. Mẹ vẫn nhắc tốt nhất là tráng lũ rắn vì một vài con có thể cắn nên cố giữ an toàn để tránh phải lo ngại. Nhiều khi có một con thỏ xám cực lớn nằm trong những vệt sáng tối hoà trộng của một khóm cỏ bất động tới mức đi sát bên mà vẫn chưa kịp phát hiện. Vì thế, nếu thấy nó và đứng im thì có thể ngắm nó thật lâu.những con mắt trong xoe của nó sẽ nhìn lại mình không gợn một ý nghĩa nào. Chiếc mũi của nó đu đưa và ánh mắt xuyên qua những chiếc tai dài ửng màu hồng soi tỏ những đường gân máu li ti và lớp lông ngắn mềm mại phủ ngoài. Phần lông còn lại của nó dầy và mượt tới độ dù cẩn thận cỡ nào cũng khó mà chụp nắm được. Rồi nó vụt biến đi như một tia chớp bỏ lại một khoảng trống nhẵn thín còn phảng phất hơi ấm của nó. Đương nhiên, Laura và Mary vẫn phải trông bé Carrie trừ khi bé ngủ trưa. Lúc này các cô mải mê chìm đắm trong nắng gió và Laura chợt quên khuấy là em bé đang ngủ. Cô nhảy bật dậy, chạy lao đi và gọi um xùm cho tới khi Mẹ xuất hiện trước cửa lên tiếng: - Laura, làm gì mà kêu như tên da đỏ vậy? Rồi Mẹ nói tiếp: - Mẹ đã nói con gái không được giống như người da đỏ. Có khi nào Mẹ quên dạy con về cách đội nón ra sao không? Bố đang đứng trên vách nhà bắt đầu việc lợp mái. Bố nhìn thấy mấy mẹ con và cười, hát nho nhỏ: - Một cô bé da đỏ, hai cô bé da đỏ, ba cô bé da đỏ. Ô không, chỉ có hai thôi. Mary nói với Bố: - Thêm Bố là ba. Bố cũng nâu bóng. - Nhưng Bố đâu phải cô bé. Laura nói và hỏi: - Bố à, chừng nào mình đi gặp một papoose? Mẹ bật kêu lên: - Trời ơi! Điều gì khiến con muốn đi gặp một đứa bé da đỏ? Thôi, đội nón lại và quên ngay những chuyện ngớ ngẩn ấy đi. Chiếc nón của Laura đang treo lủng lẳng sau lưng cô. Cô đã đẩy nó xuống như thế bằng cách xô các dây buộc qua hai bên má. Khi chiếc nón chụp lên đầu, cô chỉ nhìn thấy những thứ ở phía trước nên cô luôn đẩy nó ra phía sau và đeo nó với các dây buộc vòng quanh cổ. Cô đội nón lại khi nghe Mẹ nói nhưng cô không quên được đứa bé da đỏ. Đây là xứ của người da đỏ nên cô không hiểu vì sao lại không nhìn thấy họ. Dù vậy, cô chắc là sẽ có lúc cô nhìn thấy họ. Bố cũng đã nói vậy nhưng cô vẫn thấy mệt vì phải chờ đợi. Bố đã lợp xong tấm bạt mui trên nóc nhà và lúc này đang làm mái. Liên tục nhiều ngày trước, Bố đã kéo cây từ lạch suối về, xẻ thành những tấm dài, mỏng. Những tấm ván được chất đống quanh nhà và dựng vào các bức vách. Bố nhắc: - Ra khỏi nhà đi, Caroline. Anh không muốn có thứ gì rơi trúng em và Carrie. Mẹ đáp: - Chờ một chút xíu, Charles, đợi em cất cô chăn cừ sứ đã và bế Carrie. Mẹ trải nệm trên bãi cỏ trong bóng mát cạnh chuồng ngựa, ngồi đó khâu vá và trông bé Carrie. Bố cúi xuống, kéo một tấm ván lên. Bố đặt tấm ván ngang qua các đầu dui nhỏ theo cách cho mép ván phủ kín các đầu vách. Rồi, miệng ngậm những cây đinh, Bố rút chiếc búa ra khỏi sợi dây lưng, bắt đầu đóng đinh gắn tấm ván vào những cây dui. Ông Edwards cho Bố mượn cây đinh này. Hai người gặp nhau ở trong rừng khi đi đốn cây và ông Edwards cứ nằng nặc đòi cho Bố mượn đinh để làm mái nhà. Khi kể lại với Mẹ điều này, Bố nói: - Thật đúng là một người hàng xóm tốt. Mẹ bảo: - Đúng vậy. Nhưng em vẫn không thích chịu ơn ai, kể cả với những người hàng xóm tốt nhất. Bố đáp: - Anh cũng thế, anh chưa hề chịu ơn một người nào và sẽ không bao giờ như thế. Nhưng tình hàng xóm là một vấn đề khác và anh sẽ trả lại đủ từng chiếc đinh cho anh ấy khi anh có dịp làm một chuyến đi tới Independence. Lúc này, Bố cẩn thận lấy từng chiếc đinh ra khỏi miệng và theo tiếng búa vang lên, Bố đóng những cây đinh qua tấm ván. Làm cách này mau hơn nhiều so với việc khoan lỗ, chuốt chốt rồi ghép chốt qua các lỗ. Nhưng thỉnh thoảng lại có một chiếc đinh nhảy ra khỏi tấm ván sồi cứng khi chiếc búa nện xuống và nếu Bố không giữ chặt được nó sẽ văng đi. Lúc đó, Laura và Mary nhìn theo hướng nó rơi và sục tìm trong cỏ cho tới khi thấy lại. Nhiều lúc nó bị cong và Bố sẽ cẩn thận đập cho nó thẳng lại. Không một cây đinh nào bị mất hoặc xài phí. Khi đóng xong hai tấm ván ở phía dưới, Bố đi trên đó. Bố xếp và đóng thêm ván vẫn theo cách phủ trên những thanh dui. Mép một tấm ván đều phủ trên mép tấm ván ở sát phía dưới nó. Rồi Bố bắt đầu làm mái nhà phía bên kia theo cùng cách như đã làm chiếc mái này. Giữa hai tấm ván cao nhất của hai mái còn lại một kẽ hở nhỏ. Bố ghép hai tấm ván làm thành một chiếc máng nhỏ, lật úp chiếc máng phủ kín kẽ hở và đóng đinh thật chắc. Mái nhà đã hoàn tất. Trong nhà tối hơn trước vì ánh sáng không thể chiếu xuyên qua những tấm ván. Cũng không có một kẽ hở nào để mưa lọt được vào trong nhà. Mẹ nói: - Anh đã làm xong một việc tuyệt vời, Charles. Em phải cảm ơn vì đã có một mái nhà tốt đẹp che trên đầu. Bố đáp: - Em sẽ còn có thêm các đồ dùng trong nhà thật hoàn hảo. Anh sẽ đóng thêm một chiếc giường ngay sau khi đặt xong nền nhà. Bố lại bắt đầu đi kéo cây. Ngày này qua ngày khác, Bố kéo cây về. Bố không ngừng kéo cây ngay cả khi cần đi săn. Bố đem súng theo trên xe và buổi tối trở về với bất kì con mồi nào mà Bố bắn hạ được từ ghế ngồi trên xe. Khi đã kéo đủ số cây để làm nền. Bố bắt đầu việc bửa cây. Bố bửa mỗi cây thẳng ở chính giữa. Laura thích ngồi trên đống cây ngắm Bố làm. Trước tiên, bằng một nhát rìu cực mạnh, Bố bửa tách đầu khúc cây thành một vết nứt. Bố chêm vào vết nứt này một chiếc nêm sắt cạnh mỏng. Rồi Bố giật chiếc rìu ra khỏi đầu khúc cây và đóng chiếc nêm nhấn sâu hơn vào vết nứt. Khúc gỗ cứng chắc nứt thêm ra một chút. Bằng cách này, Bố giải quyết khúc sồi bướng bỉnh. Bố bửa lưỡi rìu vào vết nứt, đóng tiếp vào đó những chiếc nêm gỗ để lấy chiếc nêm sắt ra chuyển lên cao hơn. Từng chút từng chút, Bố tách một vết nứt dọc khúc cây. Bố vung cây rìu lên cao và chêm xả xuống theo một vòng lớn cùng một tiếng “Hư” trong lồng ngực. Lưỡi rìu rít lên, lao vụt xuống, phập! Nhát xả xuống rơi đúng vào nơi mà Bố muốn. Cuối cùng, bằng âm thanh tan vỡ răng rắc, khúc cây tách rời thành hai mảnh nằm lăn trên mặt đất lộ ra phần trong tái xám và một sọc thẳng xậm màu hơn ở chính giữa. Bố chùi mồ hôi trên trán, ráp cán mới cho chiếc rìu và lôi ra một khúc cây khác. Sáng hôm sau, bửa xả xong khúc cây cuối cùng, Bố khởi sự ngay việc làm nền, Bố lôi tất cả những mảnh cây vào trong nhà đặt ngửa sát cạnh nhau. Với chiếc muỗng, Bố nạo đất ở phía dưới cho vừa khít với dáng tròn của những mảnh cây. Bố dùng lưỡi rìu chuốt gọt cạnh những mảnh cây thật thẳng để có thể ghép với nhau thật khít. Rồi nắm chặt đầu lưỡi rìu trong một bàn tay và bằng những động tác nhỏ, thận trọng, Bố bào bóng mặt gỗ. Bố ghé sát mát vào đo mặt gỗ, kiếm tìm những mép nhỏ cuối cùng nằm rải rác. Sau hết, Bố xoa bàn tay trên mặt gỗ nhẵn bóng và gật gật đầu: - Không còn một mép nhỏ nào. Đã hoàn hảo để bàn chân trần của các cô bé tha hồ trượt qua. Bố đặt mảnh gỗ vào đúng chỗ của nó rồi túm lấy mảnh gỗ khác. Khi tới trước lò bếp, Bố chọn những khúc cây ngắn hơn. Bố chừa lại một khoảng đất trống trước lò sưởi để những tia lửa văng và những cục than lăn khỏi lò không thể bén vào nền. Rồi toàn bộ nền nhà hoàn thành. Nó nhẵn bóng, cứng, chắc và là một nền nhà gỗ sồi bền mãi mãi theo lời Bố. Bố nói: - Em không thể làm hư một chiếc nền thùng tốt thế này. Mẹ bảo Mẹ rất sung sướng được ngăn cách với mặt đất. Mẹ đặt bức tượng sứ nhỏ lên giá lò và trải chiếc khăn kẻ ô màu đỏ lên bàn. Mẹ nói: - Đó. Bây giờ mình lại sống như những nông dân văn minh. Sau đó, Bố chét tất cả những kẽ vách. Bố ghép vào đó những dải gỗ nhỏ và quét hồ phủ kín hết. Mẹ nói: - Tốt lắm. Thế này thì gió sẽ không thể lọt vào nhà dù thổi mạnh cỡ nào. Bố ngưng huýt gió để cười với Mẹ. Bố đắp nắm hồ cuối cùng vào giữa những khúc cây, miết lại và thu dọn chiếc khạp. Cuối cùng, ngôi nhà đã hoàn chỉnh. Bố nói: - Anh chỉ còn mong mình sẽ có kính cửa sổ. Mẹ bảo: - Mình không cần thứ đó đâu, Charles. Bố đáp: - Vẫn sẽ có, nếu anh săn bắn và đặt bẫy tốt trong mùa đông này. Mùa xuân tới, anh sẽ đi Independence mua kính. Và xài sang một chút. - Nếu có điều kiện thì kính cửa sổ là tuyệt. Nhưng để có được chúng ta sẽ phải qua cây cầu đó. Đêm đó thật hoàn toàn sung sướng với cả nhà. Ngọn lửa trong lò nồng ấm vì ngoài đồng cỏ dù trong những đêm mùa hè vẫn lạnh. Chiếc khăn kẻ ô vuông đỏ phủ trên bàn ăn, bức tượng sứ nhỏ lấp lánh trên giá lò và mặt nền nhà mới vàng óng dưới ánh lửa. Phía ngoài, đêm mịt mùng và đầy sao. Bố ngồi rất lâu ở trước cửa chơi đàn và hát cho Mẹ, cho Mary, cho Laura và cho bầu trời đêm đầy sao nghe. Chương 11: Những Người Da Đỏ Trong Ngôi Nhà Một buổi sáng, Bố đi săn thật sớm. Bữa đó Bố đã tính ở nhà đóng giường. Khi Bố khuân ván ra thì Mẹ bảo buổi chiều không còn thịt ăn. Thế là Bố dựng những tấm ván vào vách và lấy cây súng xuống. Jack cũng muốn đi săn. Ánh mắt nó nhìn Bố như nài nỉ cho nó đi theo và những tiếng rên rỉ từ trong ngực run run thoát ra khỏi họng khiến Laura gần như muốn khóc theo nó. Nhưng Bố xích nó vào chuồng ngựa. Bố nói với nó: - Không được đâu, Jack. Con phải ở lại để canh chừng nhà. Rồi Bố dặn Mary và Laura: - Không được thả nó, nghe, các con gái. Jack tội nghiệp đành nằm xuống. Thật không dễ chịu gì khi bị xích và nó cảm thấy điều này rất rõ. Nó quay đầu đi không nhìn theo Bố đang rời xa với cây súng trên vai. Bố đi xa thêm xa mãi cho tới khi mất hút hẳn vào đồng cỏ và biến mất. Laura cố an ủi Jack nhưng nó không thể khuây khoả. Càng nhớ tới sợi xích, nó càng cảm thấy tồi tệ hơn. Laura tìm cách cổ vũ nó nhảy nhót, nô rỡn nhưng nó càng ủ rũ hơn. Cả Mary lẫn Laura đều thấy không thể rời xa Jack trong lúc nó buồn bực. Thế là suốt buổi sáng, hai cô bé ngồi lì bên chuồng ngựa. Hai cô sờ mõm, vuốt đầu, gãi tai nó và nói với nó là các cô buồn như thế nào khi thấy nó bị xích. Nó khẽ liếm tay các cô bé nhưng vẫn rất khó chịu. Đang tựa đầu vào gối Laura nghe cô nói, đột nhiên nó đứng phắt dậy gừ lên một tiếng gừ hung hãn. Lông cổ nó dựng lên và cặp mắt đỏ ngầu. Laura kinh hãi. Từ trước tới giờ, Jack chưa hề gầm gừ với cô. Cô nhìn xéo qua vai theo hướng nhìn của Jack và chợt thấy hai người đàn ông man rợ, mình trần đang đi tới, người nọ nối sau người kia trên con đường mòn của người da đỏ. Cô bật kêu lên: - Coi kìa, Mary! Mary cũng đã nhìn thấy. Đó là hai người cao, gầy, có vẻ dữ tợn. Da họ nâu đỏ. Đầu họ giống như một chóp mũ do một túm tóc kết lại dựng thẳng và ở cuối gắn những chiếc lông chim. Mắt họ đen, lạnh lẽo và loé sáng như mắt rắn. Họ tới gần hơn và gần hơn nữa. Rồi họ đi khuất khỏi tầm nhìn qua phía bên kia nhà. Laura xoay đầu và Mary cũng làm vậy nhìn về phía những con người khủng khiếp kia xuất hiện, khi họ đã đi vượt khỏi ngôi nhà. Mary thì thầm: - Người da đỏ! Laura rùng mình. Một cảm giác kì lạ nổi lên khắp người và xương ống chân cô như muốn sụm xuống. Cô muốn ngồi xuống, nhưng cố đứng nhìn để chờ thấy những người da đỏ đi vượt qua khỏi căn nhà. Những người da đỏ không hề hiện ra. Suốt thời gian đó Jack liên tục gầm gừ. Lúc này nó im tiếng nhưng lồng lộn giằng kéo sợi dây xích. Mắt nó đỏ ngầu, mép cuốn về phía sau và trọn lớp lông trên lưng dựng tua tủa. Nó nhảy chồm chồm, cào bới đất, muốn thoát khỏi sợi dây xích. Laura mừng là sợi dây xích đã giữ được nó ở với đó với cô. Cô thì thào với Mary: - Có Jack ở đây. Jack sẽ không để cho họ đụng tới mình đâu. Mình sẽ không sao nếu cứ ngồi sát bên Jack. Mary bỗng thì thầm: - Họ vào nhà rồi. Họ vào nhà với Mẹ và Carrie. Thế là Laura đảo lộn hết. Cô thấy phải làm một điều gì đó. Cô không biết những người da đỏ kia đang làm gì Mẹ và bé Carrie. Trong nhà không hề nổi lên một tiếng động nào. Cô kinh hoàng hổn hển: - Ồ, họ đang làm gì Mẹ vậy! Mary thì thầm: - Ô, chị không biết! Giọng Laura khan đi: - Em thả Jack ra, Jack sẽ giết họ. Mary nói: - Bố đã dặn không được thả. Cả hai đều kinh hoảng vì đã nói lớn tiếng, lại chụm đầu sát nhau, nhìn về phía căn nhà và thì thào. Laura nói: - Bố đâu biết có người da đỏ tới. Mary nói gần như đang khóc: - Bố đã dặn là không được thả Jack. Laura nghĩ tới bé Carrie và Mẹ bị nhốt kín trong nhà cùng với những người da đỏ kia. Cô nói: - Em sẽ giúp Mẹ! Cô chạy tới hai bước rồi ngập ngường, quay lại và phóng như bay tới bên Jack. Cô cuống cuồng chụp lấy nó và áp vào chiếc cổ mạnh mẽ đang thở hổn hển của nó. Jack sẽ không để bất kì thứ gì đụng tới cô. Mary thì thầm: - Mình không thể để Mẹ ở đó một mình được. Cô đứng tại chỗ, run lên bần bật. Khi sợ hãi, Mary không thể nào cất nổi tay chân. Laura áp mặt sát hơn vào Jack và ôm ghì nó thật chặt. Rồi hai tay cô bỗng buông ra. Hai nắm tay xiết chặt, cô nhắm mắt, chạy thật xa về phía căn nhà. Cô vấp ngã và mắt mở thao láo. Cô đứng bật dậy và vùng chạy tiếp trước khi kịp suy nghĩ. Mary đã theo sát phía sau. Cả hai chạy tới cửa. Cửa mở và cả hai lọt vào nhà không một tiếng động. Những người man rợ mình trần đứng bên lò bếp. Mẹ đang khom mình trên đống lửa, nướng một thứ gì đó. Carrie vòng cả hai tay đeo lấy váy Mẹ và vùi đầu vào trong các nếp gấp. Laura chạy về phía Mẹ nhưng vừa tới gần lò bếp cô đã cảm thấy một mùi nồng nặc khủng khiếp bốc lên và cô nhận ra mấy người da đỏ. Như một tia chớp, cô nép vào sau tấm ván dài hẹp dựng sát vách. Tấm ván chỉ vừa đủ rộng để che kín cặp mắt cô bé. Nếu cô giữ đầu thẳng bất động và áp mũi vào tấm ván, cô sẽ không thể trông thấy những người da đỏ. Và như thế, cô cảm thấy an toàn hơn. Nhưng cô không thể giữ cho đầu không cục cựa, dù chỉ một chút xíu thành thử một mắt cô vẫn hở ra ngoài và cô có thể nhìn thấy những người man rợ. Trước tiên, cô nhìn thấy những chiếc giày bằng da nai. Rồi tới những ống chân nâu đỏ, trần trụi quấn dây đứng thẳng. Quanh eo mỗi người đều buộc một sợi dây da, phía trước lủng lẳng bộ da của một con thú nhỏ. Bộ da có sọc vằn đen trắng và lúc này thì Laura hiểu cái mùi khó chịu nồng nặc kia toả ra từ đây. Đó là những bộ da chồn hôi sống. Trong mỗi bộ da chồn hôi cắm một con dao giống như con dao săn của Bố và một cây búa giống cây búa của Bố, xương sườn của họ tạo thành những lằn gợn ở hai bên thân hình để trần. Những cánh tay họ gấp lại khoanh trước ngực. Cuối cùng Laura lại nhìn thấy gương mặt họ và cô chúi nhanh vào sau tấm ván. Gương mặt họ táo tợn, hung hãn và khủng khiếp với những con mắt đen loé sáng. Phần đầu trên trán và trên tai của những người man rợ này không có một cọng tóc. Nhưng ngay giữa đỉnh đầu họ là một túm tóc đứng thẳng. Túm tóc có một sợi dây quấn quanh và mấy sợi lông chim cắm chính giữa. Khi Laura lại ngó lén ra ngoài từ sau tấm ván, cả hai người da đỏ đều đang nhìn thẳng về phía cô. Tim cô nhảy lên tận họng và chặn nghẹt cô bằng những tiếng đập thình thịch. Người da đỏ không hề nhúc nhích, ngay cả một múi thịt trên mặt cũng bất động. Chỉ riêng cặp mắt anh ta loé sáng và chiếu thẳng về phía cô. Laura không dám đụng đậy. Cô cũng không dám thở nữa. Một người bỗng phát ra hai tiếng ngắn, gay gắt trong họng. Người kia cũng phát ra một tiếng tương tự như tiếng “A”. Laura lại dấu mắt vào phía sau tấm ván. Cô nghe thấy Mẹ mở nắp chiếc lò nướng bánh. Cô nghe thấy mấy người da đỏ ngồi xổm trước lò bếp. Một lát sau cô nghe thấy họ đang ăn. Laura nhìn lén rồi thụt nấp rồi lại nhìn lén trong lúc những người da đỏ ăn bánh bột bắp do Mẹ nướng. Họ ăn từng mẩu và lượm cả những mảnh vương vãi. Mẹ đứng vuốt ve trên đầu bé Carrie và quan sát họ. Mary đứng sát sau Mẹ và níu chặt ống tay áo Mẹ. Laura gần ngất xỉu vì nghe tiếng dây xích Jack kêu loảng xoảng. Jack vẫn đang cố tìm cách thoát ra. Khi mọi vụn bánh đã hết nhẵn, những người da đỏ đứng lên. Mùi da chồn hôi xông lên dữ hơn khi họ chuyển động. Một người lại phát lên những âm thanh gay gắt trong họng. Mẹ nhìn anh ta bằng cặp mắt mở lớn, không nói một điều gì. Một người xoay tròn, người kia cũng xoay tròn theo và họ bước qua nền nhà, ra khỏi cửa. Bàn chân họ không gây một tiếng động nào. Mẹ trút một hơi thở dài, thật dài. Mẹ ôm chặt Laura một bên tay và tay kia ôm chặt Mary và ba mẹ con cùng nhìn qua cửa sổ theo dõi những người da đỏ đang rời xa, người nọ nối sau người kia trên lối mòn dẫn về phía tây. Rồi Mẹ buông người xuống giường, ôm Laura và Mary chặt hơn và run bần bật. Mẹ giống như đang bệnh. Mary hỏi: - Mẹ có bệnh không, Mẹ? Mẹ đáp: - Không. Mẹ chỉ cảm ơn vì họ đã đi xa. Laura nhăn mũi, nói: - Họ bốc mùi thật khủng khiếp. Mẹ nói: - Đó là mùi những tấm da chồn mà họ mang. Rồi các cô bé kể cho Mẹ nghe đã bỏ Jack ra sao để chạy vào nhà vì sợ rằng những người da đỏ hại Mẹ và bé Carrie. Mẹ khen các cô là những cô gái nhỏ can đảm của Mẹ. Mẹ nói: - Bây giờ mình phải lo bữa ăn thôi. Bố chắc cũng sắp về và phải lo sẵn bữa ăn cho Bố. Mary lấy củi giúp Mẹ, còn Laura lo bày bàn ăn. Mẹ xắn cao tay áo, rửa tay rồi trộn bột bánh trong lúc Mary mang củi tới và Laura sắp xếp bàn ăn. Cô bày một đĩa nhôm với dao, nĩa, một chiếc ly cho Bố và bày y hệt cho Mẹ rồi đặt cho bé Carrie một chiếc ly nhỏ bên cạnh Mẹ. Cô bày tiếp dĩa nhôm, dao, nĩa cho mình và Mary nhưng chỉ có một chiếc ly chung cho cả hai đặt giữa hai chiếc dĩa. Mẹ nhào bột với nước làm thành hai ổ bánh, mỗi ổ đều mang hình một nửa vòng tròn. Mẹ đặt hai ổ bánh vào lò nướng, xếp những cạnh thang của chúng sát nhau rồi ép bàn tay làm phẳng mặt trên các ổ bánh. Bố thường nói Bố không đòi một vị ngọt nào khác khi thấy dấu tay của Mẹ trên các ổ bánh. Laura khó bày bàn nổi khi Bố xuất hiện. Bố đặt một con thỏ lớn và hai con gà gô mái ở ngoài cửa, bước vào đặt súng trên nóc. Laura chạy ùa tới túm lấy Bố cùng lên tiếng 1 lúc. Bố xoa tóc các cô, hỏi: - Cái gì vậy? Cái gì vậy? Da đỏ hả? Vậy là cuối cùng thì con đã thấy người da đỏ rồi, phải không, Laura? Bố thấy họ có một trại nhỏ trong thung lũng phía tây. Những người da đỏ tới nhà mình hả, Caroline? Mẹ đáp: - Đúng thế, Charles, có hai người. Em rất tiếc là họ đã lấy hết thuốc hút của anh và ăn mất khá nhiều bột bắp. Họ chỉ vào chỗ bột và ra dấu cho em phải nướng cho họ một phần. Em sợ. Ô, Charles! Em sợ! Bố nói với Mẹ: - Em đã làm đúng. Chúng ta không nên gây thù oán với bất kì người da đỏ nào. Rồi Bố nói: - Gớm! Cái mùi ghê quá! Mẹ nói: - Họ đều mang da chồn hôi sống. Và đó cũng là tất cả thứ mà họ mang trên người. Bố nhắc: - Chắc phải nghẹt thở lúc họ ở đây. - Đúng vậy, Charles. Mình còn ít bột quá. - Ồ, không sao. Dù thế, mình vẫn còn đủ để cầm cự một thời gian. Còn thức ăn thì đang chạy nhảy khắp xứ. Đừng lo, Caroline. - Nhưng họ lấy tất cả thuốc hút của anh. - Đừng bao giờ bận tâm về điều đó. Anh sẽ ngưng huts cho tới khi có dịp làm một chuyến đi tới Independence. Điều chính là đã có cách giao dịch tốt với những người da đỏ. Mình đâu có muốn bị đánh thức dậy vào một đêm nào đó bằng tiếng la hú của một bầy… Bố vội ngưng lại. Laura thèm nghe muốn chết cái điều mà Bố toan nói ra. Nhưng môi Mẹ bậm lại và Mẹ khẽ lắc đầu với Bố. Bố nói: - Mary và Laura tới đây. Mình sẽ lột da con thỏ này và vặt lông mấy con gà gô trong lúc chờ nướng bánh. Mau lên! Bố đang thèm ăn như một con sói. Hai cô bé ngồi bên đống gỗ giữ nắng gió và xem Bố làm mọi việc với con dao săn. Con thỏ lớn bị bắn xuyên qua mắt còn hai con gà gô mái thì bay mất đầu. Bố bảo là chúng không bao giờ biết được cái gì đã đập vào chúng. Laura giữ một mép da thỏ trong lúc con dao bén ngót của Bố tách nó rời khỏi khối thịt. Bố nói: - Bố sẽ ướp muối miếng da này và treo nó phía ngoài vách cho khô. Nó sẽ biến thành một chiếc nón da ấm áp cho một cô gái nhỏ vào mùa đông tới. Laura vẫn không thể nào quên được mấy người da đỏ. Cô hỏi Bố liệu các cô thả Jack thì nó có cắn mấy người da đỏ đó không. Bố buông con dao, hỏi lại bằng một giọng khiếp hãi: - Các con đã tính thả Jack ra, hả? Đầu Laura cúi xuống và cô thì thào: - Dạ, Bố! Giọng Bố càng trở nên khiếp hãi hơn: - Kể cả sau khi Bố đã dặn các con không được làm thế sao? Laura không lên tiếng nổi còn Mary nói như nghẹt thở: - Dạ, Bố! Bố im lặng một hồi. Rồi Bố trút một hơi thở dài hệt như Mẹ đã thở ra khi những người da đỏ đi khỏi. Bố lên tiếng vẫn bằng cái giọng kinh hoàng: - Từ nay về sau, các con phải luôn nhớ làm theo lời Bố. Ngay cả ý nghĩ làm trái lời Bố cũng không nên có. Các con nghe rõ không? Laura và Mary cùng đáp khẽ: - Dạ, Bố! Bố hỏi: - Các con có biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu các con thả Jack không? Hai cô bé lí nhí: - Không, Bố. Bố nói: - Nó sẽ cắn những người da đỏ đó. Rồi sẽ có một xáo trộn. Một xáo trộn tồi tệ. Các con có biết không? - Dạ, Bố. Hai cô cùng nói nhưng đều không hiểu gì. Laura hỏi: - Họ có giết chết Jack không? - Có. Và sự việc không chỉ có thế. Các con gái, các con hãy nhớ điều này. Khi các con làm đúng lời Bố dặn thì không có vấn đề gì xảy ra hết. - Dạ, Bố. Laura đáp rồi Mary tiếp theo: - Dạ, Bố. Hai cô bé đều mừng vì đã không thả Jack ra. Bố nhắc: - Nhớ làm đúng như Bố dặn thì không có chuyện nguy hại nào đến với các con cả. Chương 12: Nước Ngọt Để Uống Bố đã đóng xong giường. Bố chuốt bóng những tấm ván xồi cho tới khi không còn một lằn gợn. Rồi chốt chúng vào nhau cứng ngắc. Bốn tấm ván xồi hợp thành một cái khuôn để giữ tấm đệm rơm. Ngang phía dưới đáy, Bố đan chéo một sợi dây từ cạnh nọ tới cạnh kia và kéo căng. Một góc khuôn giường được Bố chốt chặt vào vách ở một góc nhà. Chỉ có một góc khuôn giường không tựa vào vách. ở góc này, Bố dựng một tấm ván cao. Bố chốt tấm ván vào khuôn giường. Trên chót cùng tầm với của mình, Bố chốt hai thanh gỗ xồi vào các bờ vách và tấm ván cao. Rồi Bố leo lên đó chốt chặt đầu tấm ván cao vào một cây dùi. Bên trên những thanh gỗ xồi, Bố đặt một giá đồ ngay phía trên giường. Bố lên tiếng: - Chờ đó, Caroline. Mẹ nói: - Em không thể chờ coi được đâu. Hãy giúp em mang tấm nệm rơm vào đi. Mẹ đã nhồi xong tấm đệm vào buổi sáng. ở đây không có rơm nên Mẹ thay bằng cỏ héo, chuốt sạch, phơi khô. Tấm đệm còn đượm hơi nắng ấm và nồng mùi cỏ thơm ngọt. Bố giúp Mẹ mang đệm vào nhà, đặt lên khuôn giường. Mẹ phủ khăn lên và trải chùm tấm chăn khâu đẹp nhất của Mẹ. Trên đầu giường, Mẹ đặt những chiếc gối lông ngỗng và dựng sát phía trên những chiếc gối tựa. Trên mỗi chiếc gối tựa trắng tinh nổi bật hình hai con chim nhỏ bằng chỉ thêu màu đỏ. Bố Mẹ cùng Laura và Mary đứng ngắm chiếc giường. Đúng là một chiếc giường hết sức xinh xắn. Khi nằm lên, sợi dây đan chéo phía dưới sẽ mềm mại hơn khác hẳn mặt nền nhà. Tấm đệm căng phồng cỏ thơm ngọt dịu, tấm chăn trải mượt mà và những chiếc gối dựa dựng đứng nổi bật. Chiếc giá đồ thật tiện để bày cất các thứ. Với chiếc giường như thế, không khí khắp ngôi nhà trở nên hoàn hảo. Buổi tối hôm đó, Mẹ tới bên chiếc giường, ngồi vào tấm đệm cỏ khô dòn và nói với Bố: - Phải nói rằng em đã đầy đủ tới mức đáng xấu hổ. Mary và Laura còn ngủ trên nền nhà nhưng Bố sẽ làm cho các cô một chiếc giường nhỏ ngay khi có thể làm. Bố đã đóng xong chiếc giường lớn và đóng cả một chiếc tủ có khoá móc để nếu những người da đỏ trở lại, họ không có thể vét hết bột bắp. Lúc này, Bố chỉ còn lo đào xong một chiếc giếng và sau đó sẽ thực hiện một chuyến đi về thành phố. Bố phải đào giếng trước để Mẹ có nước xài trong lúc Bố vắng nhà. Sáng ngày kế sau, Bố đánh dấu một vòng tròn lớn trên bãi cỏ gần góc nhà. Với chiếc xuổng, Bố xắn mặt đất ở phía trong vòng tròn và cậy lên từng tảng lớn. Rồi Bố bắt đầu xúc đất ra ngoài, đào sâu thêm và sâu thêm nữa. Mary và Laura không được tới gần giếng trong lúc Bố đang đào. Cho tới khi các cô không còn nhìn thấy đầu Bố, những xẻng đất đầy vẫn bay lên. Cuối cùng là chiếc xuổng bay lên và rơi trên cỏ. Rồi Bố nhảy lên. Hai bàn tay Bố bấu vào mặt đất rồi tới một khuỷu tay tì lên, tiếp theo là một khuỷu tay và với một cố gắng nhấc mình lên, Bố lăn ra ngoài. Bố nói: - Không còn liệng nổi đất ra từ một độ sâu hơn thế này. Đã tới lúc, Bố cần có sự giúp đỡ. Thế là Bố nhắc cây súng phóng lên lưng Patty. Khi trở về, Bố mang theo một con thỏ mập mạp và Bố đã sắp đặt xong công việc với ông Scott. Ông Scott sẽ giúp đỡ Bố đào giếng rồi sau đó Bố sẽ giúp đào giếng cho ông ấy. Mẹ, Laura và Mary chưa từng gặp ông bà Scott. Nhà của họ nằm khuất trong một thung lũng nhỏ trên đồng cỏ. Laura đã nhìn thấy từ phía đó có khói bốc lên và đó là tất cả. Sáng sớm hôm sau, ông Scott đến. Ông lùn và chắc nịch. Tóc ông khô nắng và da ông xần xùi, đỏ cháy. Ông không rám nắng mà như tróc vỏ, ông nói: - Đây là do cái nắng và gió khô khốc ở đây. Xin bà tha lỗi, thưa bà, nhưng đó cũng đủ tạo ra một lời rủa thông thường lạnh mạnh. Tôi có thể giống như một con rắn với cách lột da mình ở xứ này. Laura thấy thích ông ta. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi rửa sạch chén dĩa, và dọn xong giường là cô bé chạy ra xem ông Scott và Bố đào giếng. Nắng hừng hực đến nỗi các đợt gió cũng hấp nóng và cỏ trên đồng thành vàng úa. Mary thích ngồi trong nhà để khâu tấm chăn của mình. Nhưng Laura lại rất thích cái ánh sáng dữ dằn cùng với nắng, gió nên cô không thể rời khỏi chỗ đào giếng. Tuy vậy, cô không được phép đi tới gần bờ giếng. Bố và ông Scott đóng một trục quay chắc chắn. Nó đứng trên giếng với hai chiếc thùng treo ở hai đầu một sợi dây. Khi quay trục, một chiếc thùng hạ xuống giếng và chiếc thùng kia được được lên. Buổi sáng, ông Scott trượt xuống theo sợi dây và đào. Ông xúc đầy đất vào thùng để Bố guồng kéo lên, đổ. Buổi chiều, Bố trượt theo sợi dây xuống giếng và ông Scott guồng kéo các thùng đất lên. Mỗi buổi sáng, trước khi để ông Scott trượt xuống theo sợi dây, Bố luôn đặt một cây nến vào chiếc thùng; thắp sáng rồi hạ xuống đáy giếng. Có lần Laura đã lên tới bên cạnh và nhìn cây nến đang cháy sáng được đưa xuống xa mãi trong hố đất tối om. Rồi Bố nói: - Có vẻ ổn cả. Và Bố guồng quay chiếc thùng lên, thổi tắt cây nến. Ông Scott phát biểu: - Đó hoàn toàn là trò điên, Ingalls. Bữa qua, dưới giếng vẫn ổn thoả hết. Bố đáp: - Anh không thể nói mãi thế. Cứ dò trước cho chắc ăn để tránh ân hận vẫn tốt hơn. Laura không biết Bố nhìn thấy điều nguy hiểm gì qua ánh nến. Cô không hỏi được vì Bố và ông Scott rất bận. Cô tính hỏi sau, nhưng rồi cô quên khuấy mất. Một buổi sáng, ông Scott tới vào lúc Bố đang ăn sáng. Cả nhà nghe ông la lớn: - Hi, Ingalls. Sáng bét rồi. Tới thôi. Bố uống cà phê và đi ra. Trục quay bắt đầu cọt kẹt và Bố huýt gió. Laura và Mary đang rửa chén dĩa còn Mẹ lo dọn dẹp giường thì Bố bỗng ngưng huýt gió. Họ nghe tiếng Bố gọi: - Scott! Bố gọi lớn hơn: - Scott! Scott! Rồi Bố kêu: - Caroline! Tới đây mau! Mẹ chạy ào ra khỏi nhà có Laura theo sát phía sau. Bố nói: - Scott bị xỉu hoặc dưới đó có chuyện gì. Anh phải xuống coi ra sao. Mẹ hỏi: - Anh có thả nến xuống không? - Không! Anh nghĩ là anh ấy không làm đâu. Anh có hỏi là dưới đó ổn thoả không và anh ấy bảo ổn hết. Bố cất chiếc thùng trống ra khỏi dây và cột chặt dây vào guồng quay. Mẹ kêu lên: - Charles! Không được đâu. Anh đừng xuống. - Caroline, anh phải xuống. - Không được đâu. Ô, Charles, không! - Anh sẽ làm cẩn thận. Anh sẽ nín thở cho tới khi trở lên. Mình không thể để anh ấy chết ở dưới đó được. Mẹ quát lên giận dữ: - Laura, lui ngay! Vậy là Laura lui lại. Cô đứng tựa vào vách nhà, run rẩy. Mẹ năn nỉ: - Đừng, đừng xuống, Charles! Em không chịu để anh xuống đâu. Anh hãy dắt Patty ra đi kiếm người tới giúp. - Không còn đủ thời gian nữa. - Charles, nếu em không lôi nổi anh lên… Nếu anh gục xỉu ở dưới đó mà em không lôi nổi anh lên… - Caroline, anh phải xuống thôi. Bố đu mình xuống dưới giếng. Đầu Bố trượt khỏi tầm mắt, tụt xuống theo sợi dây. Mẹ khom người và che mắt nhìn chăm chăm xuống đáy giếng. Khắp trên đồng cỏ, những con chiền chiện phóng lên, ca hót tung bay vào bầu trời. Gió lùa hơi ấm tới nhiều hơn, nhưng Laura vẫn thấy lạnh. Đột nhiên Mẹ nhảy bật lên xiết chặt tay guồng trục quay. Mẹ dồn hết sức lôi tay guồng. Sợi dây căng thẳng và trục quay kêu lên ken két. Laura nghĩ là Bố đã gục xỉu dưới đáy giếng tối om và Mẹ không thể nào lôi Bố lên được. Nhưng trục quay nhích tới một chút rồi thêm một chút nữa. Một bàn tay Bố vươn lên, bám chặt vào sợi dây. Bàn tay kia của Bố với lên cao hơn và nắm được sợi dây. Rồi đầu Bố nhô lên. Cánh tay Bố vòng ôm lấy trục quay. Kế đó, không rõ bằng cách nào, Bố lên được mặt đất và ngồi bệt tại chỗ. Chiếc trục quay xoay tít và một tiếng thịch dội lên từ đáy giếng sâu. Bố gượng đứng lên trong lúc Mẹ nhắc: - Ngồi im, Charles! Laura, đi lấy nước. Mau! Laura phóng vụt đi. Cô lật đật quay lại, lôi theo một xô nước. Bố và Mẹ đang cùng xoay trục quay. Sợi dây cuốn lên chậm chạp và chiếc thùng nhô lên khỏi miệng giếng và được cột chặt vào thùng và sợi dây là ông Scott. Cánh tay, cẳng chân và đầu ông đu đưa, lảo đảo, miệng ông há to và hai mắt khép lại. Bố lôi ông lên bãi cỏ, Bố đặt ông trở lại và ông nằm phịch xuống tại chỗ. Bố thăm dò nhịp cổ tay, cúi nghe trên ngược ông rồi nằm xuống bên cạnh ông. Bố nói: - Anh ấy đang thở. Thế là anh ấy ổn rồi. Anh có lí mà, Caroline. Rút cục anh chỉ mệt vì độ sâu thôi. Mẹ gắt lên: - Thôi! Em đã nghĩ là anh cũng sẽ bị! Đúng là một việc làm điên rồ! Cảm ơn Chúa! Em sợ đến chết điếng, tất cả chỉ do một sự bất cẩn nhỏ nhặt! Lạy Chúa! Con… Mẹ kéo chiếc tạp dề lên che mặt và bật khóc. Đúng là một ngày kinh hoàng. Mẹ thổn thức: - Em khỏi cần giếng nữa. Nó chẳng đáng gì. Em không chịu để anh phải mạo hiểm như thế. Ông Scott đã hít phải một loại hơi độc thường đọng dưới hố đất sâu. Nó đọng dưới đáy giếng vì nhẹ hơn không khí. Không thể nhìn hoặc ngửi thấy nó nhưng không ai có thể hít thở nó lâu mà sống nổi. Bố đã ở trong thứ khí này để cột ông Scott vào dây nên có thể cũng phải hít thở nó phần nào. Khi ông Scott hồi phục, ông quay về nhà. Trước khi đi, ông nói với Bố: - Anh có lý về việc dùng cây nến, Ingalls. Tôi đã nghĩ nó hoàn toàn là trò điên nên không bận tâm tới nó và tôi đã thấy là mình lầm. Bố nói: - Đúng. ở đâu có thể thắp sáng thì mình có thể sống. Phần tôi, tôi luôn thích tìm sự an toàn khi có thể làm. Nhưng tất cả mọi việc đều đã kết thúc tốt đẹp rồi. Bố ngồi nghỉ thêm một hồi nữa. Bố đã hít thở một chút hơi độc nên Bố muốn được nghỉ. Buổi chiều, Bố gỡ từ chiếc túi vải ra một sợi dây và trút ra một chút thuốc nổ. Bố gói thuốc nổ trong một miếng vải và cắm một đầu sợi dây kia vào gói thuốc nổ, Bố bảo: - Tới đây, Laura. Bố sẽ chỉ cho con thấy một điều. Hai bố con tới bên miệng giếng. Bố đốt cháy một đầu sợi dây và chờ tới khi tia lửa lan nhanh dọc theo sợi dây. Lúc đó, Bố thả gói nhỏ xuống giếng. Chỉ trong một phút, họ nghe vang lên một tiếng nổ bị bóp nghẹt lại. Và một cụm khói bốc lên khỏi giếng. Bố nói: - Nó sẽ xua khí độc đi. Khi cụm khói tan hết, Bố cho Laura thắp một cây nên và đứng sát bên trong lúc Bố hạ cây nến xuống. Suốt thời gian được đưa xuống đáy hố sâu tối om, cây nến nhỏ tiếp tục cháy sáng tương tự một vì sao. Vậy là bữa sau, Bố và ông Scott tiếp tục đào giếng. Nhưng cả hai người luôn thả một cây nến vào mỗi buổi sáng. Trong giếng bắt đầu có nước, nhưng còn chưa đủ. Những chiếc thùng kéo lên đầy bùn và Bố và ông Scott hàng ngày phải làm việc trong đống bùn ngập ngụa. Nhiều buổi sáng, khi cây nến được đưa xuống, nó soi tỏ những bờ vách đang rỉ nước và ánh nến chiếu thành vòng trên mặt nước khi chiếc thùng chạm đáy. Bố đứng trong nước sâu ngang tới đầu gối và múc những thùng nước đầy trước khi có thể đào tiếp trong bùn. Một bữa, khi Bố đang đào, một tiếng hét lớn bỗng vang lên. Mẹ lao ra khỏi nhà và Laura theo sau chạy tới bên giếng: - Kéo lên, Scott, kéo lên. Bố kêu lớn. Một tiếng kêu ùng ục ào ạt vang động khắp nơi. Ông Scott xoay chiếc trục quay cực nhanh và Bố níu sợi dây leo lên. - Tôi đáng bị khiển trách nếu đó không phải là cát lún. Bố thở hổn hển bước lên mặt đất, người đầy bùn và ướt sũng. - Tôi đang cố nhấn lưỡi xuổng xuống thì tất cả bỗng đổ ụp, bằng trọn chiều dài của chiếc cán, và nước phun ra xối xả khắp xung quanh. Ông Scott nói trong lúc cuốn dây trục quay lên: - Dễ có tới sáu bộ dây bị ướt. Chiếc thùng cũng đầy nước. - Anh tỏ ra khôn ngoan khi vượt lên bằng cách tự leo dây, Ingalls. Nước dâng lên mau hơn so với sức tôi kéo anh lên. Rồi ông Scott vỗ vỗ lên đùi và kêu lên: - Tôi sẽ rủa anh nếu anh không mang chiếc xuổng lên. Chắc chắn là Bố đã cứu được chiếc xuổng. Chỉ một thoáng, giếng gần như đã đầy nước. Một vùng trời xanh nằm ở phía dưới không xa mặt đất và khi Laura nhìn vào thì đầu một cô gái nhỏ nhìn ngược lại cô. Khi cô vẫy vẫy bàn tay, một bàn tay ở trên mặt nước cũng vẫy vẫy. Nước trong mát và ngon lành. Laura tưởng chừng chưa bao giờ được nếm thứ gì ngon như thứ nước uống mát rượi này. Bố không còn phải kéo thêm về thứ nước hấp nóng lạt nhách từ lạch suối. Bố đóng một bục gỗ thật chắc phủ quanh miệng giếng và làm một nắp đậy dầy cho lỗ hổng dành để kéo thùng nước qua. Laura không bao giờ được đụng tới chiếc nắp đậy này. Mỗi khi cô hay Mary khát nước, Mẹ nhắc chiếc nắp đậy và kéo lên một thùng đầy thứ nước mát rượi trong giếng. Chương 13: Những Chiếc Sừng Dài Texas Một buổi tối, Laura và Bố ngồi trên bậc cửa. Trăng chiếu trên đồng cỏ mờ tối, gió êm và Bố chơi đàn nhè nhẹ. Một nốt nhạc kéo dài lan xa, xa mãi tan loãng trong ánh trăng. Mọi thứ đều đẹp tới nỗi Laura muốn ngồi tại chỗ mãi mãi. Nhưng Bố nhắc đã tới lúc các cô gái nhỏ phải đi ngủ. Đúng lúc đó Laura bỗng nghe một tiếng động kì lạ, dưới thấp từ một khoảng xa. Cô nói: - Cái gì đó! Bố đã chú ý nghe. Bố nói: - Đàn bò, của George! Chắc là đàn bò đang đi lên phía bắc tới Fort Dodge. Sau khi thay áo, Laura đứng trước cửa sổ trong chiếc áo dài ngủ. Không khí hết sức tĩnh lặng, không một lá cỏ xào xạc và văng vẳng từ xa, cô nghe rõ tiếng động đó. Nó gần như lời quát tháo và cũng gần như một bài ca. Cô bé hỏi: - Có phải tiếng hát không, Bố? Bố đáp: - Phải. Những người chăn bò đang hát ru đàn bò ngủ. Bây giờ, lên giường ngay, cô bé vô tích sự! Laura hình dung ra đàn bò đang nằm trên mặt đất mờ tối dưới ánh trăng và những người chăn bò đang khe khẽ hát những bài hát ru. Sáng hôm sau, lúc cô bé chạy ra khỏi nhà thì hai người đàn ông lạ đang dừng ngựa bên cạnh chuồng ngựa. Họ đang nói chuyện với Bố. Da họ nâu đỏ như những người da đỏ những mắt họ như những vết nứt nhỏ giữa các mí mắt xô về một phía. Họ đều bọc kín ống chân bằng những miếng da mỏng với những cưa sắt và đội nón rộng vành. Những chiếc khăn quấn quanh cổ và súng lục đeo xệ bên lưng. Họ nói với Bố: - Xa lắm. Và nói với những con ngựa của họ: - Hi! Díp! Và, những con ngựa phóng đi. Bố nói với Mẹ: - Đây quả là một mảnh may mắn. Những người đó là những người chăn bò. Họ nhờ Bố giúp họ đưa đàn bò ra khỏi khe sâu giữa những vách đất dưới đáy thung lũng. Bố không đòi tiền công nhưng nói với họ là sẽ lấy một tảng thịt bò. Bố hỏi: - Em thấy thế nào về một tảng thịt bò ngon lành? Mẹ nói, mắt sáng rực lên: - Ô, Charles! Bố buộc chiếc khăn lớn xung quanh cổ. Bố chỉ cho Laura thấy Bố sẽ phải kéo chiếc khăn chùm kín miệng và mũi thế nào để cản chống bụi. Rồi Bố cưỡi Patty đi về hướng tây theo con đường mòn của người da đỏ cho tới khi Laura và Mary không thể nhìn thấy Bố ở đâu nữa. Suốt ngày nắng cháy chói chang, gió nóng hừng hực thổi và tiếng động của những đàn bò tới gần hơn. Đó là âm thanh uể oải, buồn rầu của đàn bò la rống. Buổi trưa, bụi cuốn lên dọc đường chân trời. Mẹ bảo là có rất nhiều bò đạp trên mặt cỏ khiến bụi bay tung trên đồng. Bố trở về nhà lúc mặt trời lặn, phủ đầy bụi. Bụi đọng trong râu, trong tóc, trong mí mắt Bố và đổi màu quần áo Bố. Bố không mang thịt bò về vì đàn bò còn chưa qua lạch suối. Đàn bò đi rất chậm, tiếp tục gặm cỏ trong lúc đi. Chúng cần ăn đủ cỏ để mập mạp khi tới các thành phố để người ta ăn thịt chúng. Đêm đó Bố không trò chuyện nhiều và không chơi đàn. Bố đi ngủ sớm ngay sau khi ăn. Lúc này đàn bò đã tới gần tới độ Laura có thể nghe thấy rõ ràng. Tiếng rống buồn nản của chúng vang khắp đồng cỏ cho tới khi đêm xuống. Rồi bầy bò lặng lẽ hơn và những người chăn bò bắt đầu hát. Những bài hát của họ không giống những bài hát ru. Đó là những bài hát như than vãn, đơn côi, lảnh lót gần giống tiếng hú của những con sói. Laura thức giấc lắng nghe những bài hát đơn côi trôi giạt trong đêm. Xa hơn, đứng thực là những con sói đang hú. Thỉnh thoảng bầy bò lại rống lên. Nhưng tiếng hát của những người chăn bò vẫn tiếp tục, bốc cao rồi đổ xuống và rên than dưới ánh trăng. Khi mọi người đã ngủ say, Laura khẽ lẻn tới bên cửa sổ nhìn ba đống lửa đang chập chơn tựa những con mắt đỏ từ một mé đất tối om. Tít cao trên bầu trời là vành trăng to tròn lặng lẽ toả sáng. Những giọng ca đơn độc giống như đang nỉ non với vầng trăng. Laura cảm thấy nghẹn trong họng. Trọn ngày hôm sau Laura và Mary luôn ngóng về hướng tây. Hai cô nghe thấy từ xa tiếng la rống của đàn bò và nhìn rõ bụi đất bốc lên. Thỉnh thoảng các cô còn nghe vẳng lại một tiếng la lanh lảnh. Đột nhiên khoảng hơn mười con bò sừng dài ngoẵng xuất hiện trên đồng cỏ, không xa chuồng ngựa. Chúng đã tới bên con đường mòn dẫn xuống vùng có lạch suối. Đuôi chúng dựng đứng, những chiếc sừng dữ dội hất lên và bàn chân xéo đạp trên đất. Một người chăn bò cưỡi trên lưng một con ngựa đốm phóng như điên lên chặn đầu lũ bò. Ông ta huơ huơ chiếc mũ lớn và luôn miệng kêu những tiếng lanh lảnh chói tai: - Hi! Di-di-di! Hi! Lũ bò xoay tròn chạm những chiếc sừng dài vào nhau chan chát. Với những chiếc đuôi dựng lên, chúng chạy tán loạn và phía sau chúng, những con ngựa xoải vó quay cuồng như bão lốc để gom chúng lại với nhau. Tất cả đi qua một gò đất cao rồi xuống khuất khỏi tầm nhìn. Laura phóng chạy tới lui, huơ huơ chiếc nón và hét lớn “Hi! Di-di-di!” Cho tới khi Mẹ bảo ngưng lại. Không phải là phụ nữ chút nào khi kêu lên như thế. Laura mong là cô có thể trở thành một người chăn bò. Cuối buổi chiều, từ phía tây xuất hiện ba người cưỡi ngựa dẫn theo một con bò. Một trong ba người đó là Bố trên lưng Patty. Họ tới gần một cách chậm chạp và Laura nhìn thấy bên con bò lớn còn có một con bò con da đốm. Con bò lồng lộn nhào phóng. Hai người chăn bò thúc ngựa lên đón đầu nó. Hai sợi dây quấn quanh những chiếc sừng dài của nó được cột vào yên ngựa. Khi con bò phóng đưa sừng về phía người chăn bò này thì con ngựa của người kia trụ chắc chân kìm nó lại. Con bò kêu rống lên và con bò con be be rống theo những tiếng yếu ớt. Mẹ quan sát từ phía sau cửa sổ trong khi Mary và Laura đứng tựa vào vách nhà ngắm chăm chú. Mấy người chăn bò kìm con bò bằng những sợi dây trong lúc Bố cột nó vào chuồng ngựa. Rồi mấy người chào Bố và phóng đi. Mẹ không thể tin nổi là Bố lại mang được về nhà một con bò cái. Nhưng đúng thực là họ đã có một con bò cái của riêng mình. Bố kể rằng con bò con còn quá nhỏ không thể đi xa còn con bò cái lại quá ốm để đem bán nên những người chăn bò đem cho Bố. Họ còn cho Bố cả thịt bò, một tảng thịt lớn được cột bên yên ngựa. Bố, Mẹ cùng Mary, Laura và cả bé Carrie đều cười sung sướng. Bố bao giờ cũng cười thật lớn và tiếng cười của Bố không khác tiếng chuông inh ỏi. Phần Mẹ khi hài lòng Mẹ thường mỉm một nụ cười hiền hoà mà Laura luôn cảm thấy làm ấm áp tất cả. Nhưng lúc này Mẹ cũng đang cười lớn vì cả nhà đã có một con bò cái. Bố nói: - Đưa cho anh cái thùng, Caroline. Bố tính đi vắt sữa con bò ngay tức khắc. Bố xách thùng, đẩy chiếc nón ra sau gáy, ngồi xổm bên con bò để vắt sữa. Và con bò bỗng khom người xuống, đá Bố bật ngã ngửa. Bố nhảy bật dậy. Mặt Bố đỏ rần và mắt loé những tia sáng xanh, Bố nói: - Được thôi, nhân danh Muỗng Sừng Vĩ đại, tôi sẽ vắt sữa. Bố lấy rìu, chặt hai tấm ván xồi chắc nịch. Bố dồn con bò vào sát vách chuồng ngựa và đóng sâu hai tấm ván xuống đất sát bên nó. Con bò rống lên và con bò con kêu thất thanh. Bố buộc chặt nhiều cây sào vào mấy chiếc cột, thọc các đầu sào vào kẽ vách làm thành một hàng rào. Lúc này con bò cái không thể tiến, lui hoặc xoay ngang được. Nhưng con bò con vẫn còn lối đi để chen hích lui tới giữa mẹ nó và vách chuồng. Nhờ vậy con bò con cảm thấy an toàn và ngưng kêu. Nó đứng sát bên con bò cái để kiếm bữa ăn tối và Bố thò tay qua rào chắn từ phía bên này để vắt sữa. Bố lấy được gần đầy một ly nhôm. Bố nói: - Sáng mai sẽ thử lại. Con vật này giống như một con nai hoang dã. Nhưng mình sẽ thuần hoá nó, mình sẽ thuần hoá nó. Bóng tối đang buông xuống. Những con chim đêm đang săn đuổi côn trùng trong bầu trời tối. Từ vùng trũng sâu lạch suối, những con ếch đang kêu ọp oạp. Một con chim cất tiếng: - Huýp! Huýp! Huýp-poo-Uyn! Và một con cú nói: - Hu? Hu-u? Phía xa, những con sói bắt đầu hú và Jack gầm gừ. Bố nói: - Lũ sói đang theo đàn bò. Ngày mai phải làm một sàn rào cao và chắc cho con bò để đám sói không thể lọt vào nổi. Mọi người vào nhà cùng với tảng thịt bò. Bố, Mẹ, Mary và Laura đều đồng ý nhường hết phần sữa cho bé Carrie. Cả nhà cùng ngắm bé uống sữa. Chiếc ly nhôm che khuất khuôn mặt bé nhưng Laura có thể thấy những hớp sữa đang trôi xuống cổ bé. Từng hớp từng hớp, bé uống cạn ly sữa ngon lành. Rồi bé đưa lưỡi liếm những giọt đọng ở trên môi và nhoẻn miệng cười. Thời gian dường như rất dài trước khi bánh mì và những miếng thịt bò xèo xèo được nướng chín. Nhưng không món ăn nào sánh nổi với hương vị món thịt bò kì diệu đó. Và cả nhà đều vui sướng vì lúc này đã có sữa để uống và cón có thể có cả bơ để ăn với bánh mì nữa. Tiếng rống của những đàn bò đã xa hơn và tiếng hát của những người chăn bò cũng chỉ còn nghe văng vẳng. Lúc này, trọn đàn bò đã chuyển qua bên kia lạch suối, ở Kinsas. Ngày mai, chúng lại lên đường rời xa chầm chậm lên hướng bắc để tới Fort Dodge, nơi đang có những người lính. Chương 14: Trại Da Đỏ Nối tiếp nhau, ngày sau nóng nực hơn ngày trước. Gió cũng hừng hực, Mẹ bảo: - Giống như chúng hắt ra từ lò lửa. Cỏ đang khô héo. Khắp nơi chỉ là những gợn sóng xanh lăn tăn và vàng óng dưới bầu trời chói chang. Buổi trưa hoàn toàn đứng gió. Không có tiếng chim hót. Mọi thứ đều im lìm đến nỗi Laura có thể nghe thấy tiếng những con sóc chí choé trên các cành cây mãi dưới lạch suối. Đột nhiên những con quạ đen vụt bay ngang trên đầu kêu lên những tiếng khàn khàn. Rồi tất cả lại im lìm. Mẹ bảo đã tới giữa mùa hè rồi. Bố ngạc nhiên không rõ những người da đỏ đi đâu mất hút. Bố bảo họ còn lưu lại một khu trại nhỏ trên đồng cỏ. Và một bữa Bố hỏi Laura và Mary có muốn đi coi khu trại đó không! Laura nhảy tưng tưng, vỗ tay vào nhau, nhưng Mẹ không chịu. Mẹ bảo: - Xa quá, Charles. Và trời nóng thế này. Nhưng con mắt xanh của Bố sáng lên. Bố nói: - Cái nóng không làm gì nổi những người da đỏ cũng sẽ không làm gì nổi chúng ta. Đi thôi, các con gái! Laura nài nỉ: - Jack cũng đến đó được chứ, Bố? Bố đã cầm cây súng, nhưng Bố nhìn Laura, nhìn Jack rồi Bố nhìn Mẹ và đặt cây súng trở lại trên móc. - Được, Laura. Bố nói với Mẹ: - Anh đem Jack theo, Caroline và để cây súng lại cho em. Jack nhảy nhót xung quanh mọi người, ngoắc ngoắc chiếc đuôi cụt. Ngay khi nhận ra hướng đường đi tới, nó vọt lên dẫn đầu. Bố đi kế tiếp và sau Bố là Mary rồi đến Laura. Mary giữ nguyên mũ trên đầu nhưng Laura đã hất chiếc mũ ra sau gáy. Đất nóng hổi dưới những bàn chân trần của các cô bé. Nắng xuyên qua những lớp áo bạc màu gây ngứa ngáy khắp lưng và cánh tay. Không khí đúng là nóng như trong lò lửa và phảng phất mùi bột nướng chín. Bố bảo đó là mùi những hạt mầm cỏ bị sức nóng hun khô. Càng lúc họ càng đi xa hơn vào đồng cỏ mênh mông. Laura cảm thấy mình nhỏ lại mãi. Ngay cả Bố cũng không còn dềnh dàng như vốn vẫn dềnh dàng. Cuối cùng họ đi xuống một trũng đất nhỏ, nơi người da đỏ đã dựng trại. Jack bắt đầu lùng một con thỏ lớn. Khi con thỏ vọt ra khỏi bụi cỏ, Laura nhảy bật lên. Bố quát: - Để nó đi, Jack! Mình có đủ thịt rồi. Vậy là Jack ngồi xuống, nhìn theo con thỏ lớn phóng chạy xuống trũng đất xa. Laura và Mary ngó khắp xung quanh. Hai cô bé ngồi sát bên Bố. Những bụi cây lùn tè mọc dọc các mép trũng đất, những bụi cây dại với những chồi hạt màu hồng lợt và những khóm su-mac còn giữ được các tán màu xanh những đã lác đác lá đỏ. Những chùm kim tước vũ chuyển qua màu xám và những cành cúc mắt bò màu vàng rơi lả tả khỏi cườm bông. Tất cả những thứ này đều ẩn mình trong trũng đất nhỏ bí ẩn. Từ nhà tới đây, Laura không nhìn thấy gì ngoài các bụi cỏ và lúc này tại đây, dưới trũng đất sâu cô không thể nhìn thấy ngôi nhà. Đồng cỏ có vẻ phẳng lì nhưng lại không hẳn là phẳng lì. Laura hỏi Bố trên đồng cỏ có nhiều trũng đất như trũng đất này không. Bố nói có. Cô thấp giọng như thì thầm: - Tất cả những trũng đó đều có người da đỏ. Bố nói Bố không biết chắc, nhưng có thể có. Cô níu chặt một tay Bố và Mary níu chặt tay kia của Bố và hai cô bé ngó chăm chăm khu trại da đỏ. ở đó có những đống tro nơi những người da đỏ đốt lửa. Có những lỗ trống từng là chỗ cắm những cọc lều. Rải rác khắp nơi có nhiều khúc xương bị gặm mòn bởi những con chó của họ. Cỏ quanh các mép trũng đất đã bị ngựa vặt cụt ngủn. Khắp nơi đầy những dấu giày da lớn, nhỏ và còn có cả dấu những ngón chân bé xíu. Và phủ trên những dấu vết trên là dấu chân thỏ, dấu chân chim và cả dấu của những con sói. Bố chỉ từng dấu vết cho Mary và Laura. Bố chỉ cho các cô thấy dấu một đôi giày da cỡ trung bên cạnh đống than bếp trại. Một phụ nữ da đỏ đã ngồi xổm tại đó. Bà ta mặc một chiếc váy đã có tua viền nên tua viền này mới lưu lại trên đất những dấu li ti. Dấu những ngón chân của bà ta ở trong giày đậm hơn dấu các gót chân vì bà ta đã nghiêng người về phía trước để khuấy một thứ gì đó đang được nấu trong một chiếc nồi đặt trên lửa. Rồi Bố lôi lên một trạc cây nám khói đen. Bố nói rằng chiếc nồi được móc vào một khúc cây đặt ngang trên hai trạc cây dựng đứng. Bố chỉ cho Mary và Laura thấy những lỗ đất do hai trạc cây được cắm xuống. Đoạn Bố bảo hai cô bé quan sát những khúc xương vứt xung quanh bếp trại để đoán xem thứ gì đã được nấu trong nồi. Hai cô bé quan sát và cùng nói: - Thỏ. Đúng thế, những khúc xương đều là xương thỏ. Đột nhiên, Laura la lên: - Coi nè! Coi nè! Từ trên mặt đất, một vật gì đó đang lấp lánh sáng xanh. Cô lượm lên và thấy là một hạt chuỗi màu xanh cực đẹp. Laura la lên thích thú. Rồi Mary tìm thấy một hạt khác màu đỏ và Laura tìm thêm được một hạt màu xanh lục và hai cô quên hết mọi thứ ngoại trừ các hạt chuỗi. Bố cùng lo tìm giúp. Họ tìm thấy những hạt trắng, hạt nâu rồi thấy thêm nhiều hạt đỏ, hạt xanh. Trọn buổi chiều hai cô gái săn tìm những hạt chuỗi trên đât trong khu trại da đỏ. Thỉnh thoảng Bố lên bờ trũng đất ngó về nhà rồi trở xuống giúp lượm thêm hạt chuỗi. Họ xem xét khắp mặt đất một cách kĩ càng. Khi họ không tìm thêm được hạt nào nữa cũng là lúc mặt trời sắp lặn. Laura đã có một nắm hạt và Mary cũng thế. Bố gói hết vào chiếc khăn tay, hạt của Laura ở một góc và hạt của Mary ở góc kia. Bố nhét chiếc khăn vào túi rồi tất cả trở về. Mặt trời đã xuống thật thấp ở phía sau lưng khi họ ra khỏi trũng đất. Ngôi nhà nhỏ xíu vì ở khá xa. Và Bố không mang súng theo. Bố đi nhanh đến nỗi Laura đuổi theo một cách khó khăn. Cô ráng hết sức chạy, nhưng mặt trời lại xuống nhanh hơn. Ngôi nhà giống như xa thêm mãi. Đồng cỏ trải rộng hơn và một đợt gió tràn qua như thì thầm về một điều gì đáng khiếp hãi. Những ngọn cỏ cũng vật vã tựa hồ đang kinh hoàng. Bố chợt đảo quanh một vòng và cặp mắt xanh loé sáng của Bố chiếu vào Laura. Bố nói: - Mệt rồi hả, nửa bình rượu nhỏ? Đường dài mà những ống chân nhỏ quá. Bố bồng cô lên, dù cô đã là một cô bé, và đặt cô ngồi chắc trên vai Bố. Bố đưa tay dắt Mary và như thế, ba bố con cùng đi về nhà. Bữa ăn tối đang nấu trong lò bếp, Mẹ đang bày bàn ăn còn bé Carrie nghịch mấy mẩu gỗ nhỏ trên nền nhà. Bố chìa chiếc khăn tay cho Mẹ, nói: - Anh về chậm hơn dự tính, Caroline. Nhưng em hãy nhìn những thứ mà các con gái kiếm được này. Bố nhấc chiếc thùng, chạy ào đi cởi dây cho Pet với Patty và lo vắt sữa bò. Mẹ mở khăn và kêu lên. Những hạt chuỗi hình như đẹp hơn hẳn so với khi còn ở trong khu trại da đỏ. Laura khuấy đám hạt bằng ngón tay và ngắm chúng chiếu sáng lấp lánh. Cô nói: - Chỗ này là của con. Cùng lúc, Mary nói: - Phần của con dành cho bé Carrie. Mẹ chờ nghe Laura nói tiếp, nhưng Laura im lặng. Cô muốn giữ những hạt chuỗi cho mình. Ngực cô nóng ran và cô hết sức mong Mary không nên luôn luôn là một cô bé tốt bụng như thế. Tuy nhiên, cô cũng không thể để Mary tốt hơn mình. Vì thế, cô lên tiếng, một cách chậm rãi: - Phần của con cũng để cho bé Carrie. Mẹ bảo: - Đúng là các con gái ngoan ngoãn tốt bụng của mẹ. Mẹ đặt những hạt của Mary vào tay Mary, những hạt của Laura vào tay Laura và bảo Mẹ sẽ đưa cho mỗi cô bé một sợi dây để xâu các hạt thành cuỗi. Những hạt này sẽ làm thành một chiếc vòng rất đẹp cho Carrie mang quanh cổ. Mary và Laura ngồi cạnh nhau trên giường xâu những hạt chuỗi vào sợi dây do Mẹ đưa. Các cô nhấm cho ướt một đầu dây kết lại thật chắc. Rồi Mary xâu đầu dây qua chiếc lỗ nhỏ trên mỗi hạt chuỗi và Laura cũng xâu dây qua những hạt chuỗi của mình, từng hạt một. Cả hai đều im lặng. Có lẽ Mary cảm thấy êm ả, dễ chịu nhưng Laura thì không. Khi ngắm Mary, cô chỉ muốn tát chị một cái. Vì vậy, cô không dám ngắm Mary nữa. Những chiếc hạt kết thành một xâu chuỗi tuyệt đẹp. Bé Carrie vỗ vỗ tay cười lớn khi nhìn thấy. Rồi Mẹ đeo nó quanh cần cổ bé xíu của bé Carrie và nó chiếu sáng lấp lánh, Laura đã cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Rõ ràng là số hạt của cô không đủ làm thành một xâu chuỗi và số hạt của Mary cũng thế. Nhưng khi cả hai gộp lại thì đã có một xâu chuỗi hoàn hảo cho bé Carrie. Khi Carrie cảm thấy những hạt chuỗi ở trên cổ, bé liền chộp lấy chúng. Bé còn quá nhỏ nên không biết làm gì hơn là cố bứt dứt xâu chuỗi. Thế là Mẹ đành phải tháo ra đem cất đi để chờ cho tới khi bé Carrie đủ lớn mới cho đeo. Sau đó, Laura vẫn thường nghĩ về những hạt chuỗi xinh xắn và vẫn khó ngoan ngoãn nổi với ước muốn có riêng những hạt chuỗi cho mình. Nhưng dù sao thì đó cũng là một ngày tuyệt vời. Cô có thể luôn nghĩ về chuyến đi dài băng qua đồng cỏ và về tất cả những gì cô đã nhìn thấy trong khu trại người da đỏ. Chương 15: Sốt Rét Rừng Lúc này trái mâm xôi đã chín, vào những buổi chiều oi nồng Laura theo Mẹ đi hái. Những trái lớn, bầm đen, mọng nước treo chi chít trên cành dưới trũng lạch suối. Một số cây ẩn dưới bóng những tàng cây lớn còn một số khác phơi mình dưới nắng. Nắng quá gắt nên Mẹ và Laura thường dừng dưới các tàng cây. ở đây cũng đầy trái mâm xôi. Bầy nai nằm trong bóng mát của những lùm cây nhìn Mẹ và Laura. Những con giẻ cùi màu xanh bay lượn ngay trên nón của họ và gắt gỏng vì chúng cũng đang kiếm trái mâm xôi. Những con rắn vội vã trườn khỏi họ và trên các cây lớn, bầy sóc tỉnh giấc la chí choé. Bất kỳ nơi nào họ tới giữa những bụi mâm xôi đầy gai, muỗi cũng bay lên nhung nhúc như đàn ong vo ve. Muỗi dầy đặc quanh các trái mâm xôi lớn, chín rục đang hút nước ngọt. Nhưng chúng cũng thích chích Laura và Mẹ ngang với thích hút các trái mâm xôi. Các ngón tay và miệng Laura tím đen mật mâm xôi. Mặt cô, các bàn tay và ống chân đều tràn đầy vết gai mâm xôi cào xước và vết muỗi chích. Nhưng mỗi ngày họ mang về những thúng đầy trái mâm xôi và Mẹ tải ra phơi khô trong nắng. Hàng ngày cả nhà đều chọn ăn những trái mâm xôi họ thích và mùa đông tới, họ đã có những trái mâm xôi khô để ủ. Mary thường rất ít được đi hái trái mâm xôi. Cô ở nhà giữ bé Carrie vì cô lớn hơn, suốt ngày trong nhà chỉ có một hoặc hai con muỗi. Nhưng về đêm, khi gió ngưng thổi, muỗi ùa đến từng đàn dày đặc. Vào những đêm đứng gió, Bố phải chất đống cỏ ẩm đốt khắp xung quanh nhà và chuồng ngựa. Cỏ ẩm khiến bốc lên những lùm khói dầy xua muỗi ra xa. Nhưng vẫn có một số xâm nhập bằng mọi cách. Bố không thể chơi đàn vào buổi tối vì quá nhiều muỗi bu chích. Ông Edwards cũng không còn tới chơi sau mỗi bữa cơm tối vì muỗi dày đặc trong thung lũng. Suốt đêm, Pet với Patty cùng con ngựa con, con bò con và con bò cái dậm chân và khua đuôi ầm ầm trong chuồng. Sáng dậy, trán Laura lấm chấm đầy vết muỗi chích. Bố nói: - Cảnh này không kéo dài đâu. Mùa thu sắp đến rồi và đợt gió lạnh đầu tiên sẽ giải quyết nó. Laura cảm thấy không được khoẻ. Một bữa, cô cảm thấy lạnh ngay lúc đang nắng gắt và ngồi bên lò lửa cũng không thấy ấm. Mẹ hỏi sao cô và Mary không ra ngoài chơi thì Laura bảo không thấy thích chơi đùa. Cô cảm thấy mệt và đau nhức. Mẹ ngưng làm việc, hỏi: - Con nhức ở đâu? Laura không thể biết đích xác chỗ nào, cô chỉ nói: - Con chỉ thấy đau nhức. Đau nhức các ống chân. Mary nói: - Con cũng đau nhức. Mẹ nhìn các cô và bảo các cô có vẻ bình thường. Nhưng Mẹ nói có thể có một điều gì trục trặc hoặc giả do các cô không chạy nhảy. Mẹ kéo áo và váy lót của Laura lên để xem xét chỗ ống chân bị đau nhức. Đột nhiên toàn thân Laura run lên. Cô run tới độ răng trong miệng va vào nhau lạch cạch. Mẹ áp bàn tay lên má Laura. Mẹ nói: - Con không thể nào lạnh được. Mặt con nóng như lửa. Laura muốn khóc nhưng dĩ nhiên cô không làm thế. Chỉ những em bé mới khóc thôi. Cô nói: - Bây giờ con không nóng. Lưng con nhức lắm. Mẹ gọi Bố và Bố bước vào nhà. Mẹ nói: - Anh xem các con thế nào. Em nghĩ là chúng bệnh rồi. Bố nói: - Đúng rồi, chính anh cũng cảm thấy không được khoẻ. Lúc đầu anh nóng rồi sau đó anh lạnh và đau nhức khắp người. Có phải các con cũng thấy như thế không, các con gái? Xương các con đau nhức lắm không? Mary và Laura nói đúng là các con cảm thấy như thế. Bố và Mẹ nhìn nhau một hồi lâu rồi Mẹ nói: - Các con lên giường nằm đi. Thật kì quặc phải lên giường giữa ban ngày và Laura nóng đến nỗi giống như mọi thứ đang tan chảy ra. Cô bíu lấy cổ Mẹ trong lúc Mẹ cởi quần áo cho cô và cô năn nỉ Mẹ nói cho cô biết cô đang bị điều gì. Mẹ nói, giọng vui vẻ: - Con sẽ ổn thôi. Đừng sợ. Laura trườn vào giường và Mẹ đẩy cô vào trong. Thật dễ chịu được nằm trên giường, Mẹ vuốt trán cô bằng bàn tay mát rượi của Mẹ và Nói: - Đó, bây giờ ngủ đi. Laura không thực sự ngủ nhưng cô cũng không thực sự thức trong một khoảng thời gian khá dài. Kì lạ là mọi việc hầu như đang xảy ra trong một màn sương mù. Cô nhìn thấy Bố lom khom bên lò bếp lúc nửa đêm rồi đột nhiên nắng xối lên mắt cô và Mẹ đút xúp cho cô với một chiếc muỗng. Một cái gì đó thu nhỏ chậm chạp, nhỏ thêm và nhỏ thêm cho tới khi nhỏ hơn một thứ nhỏ nhất. Rồi cũng chậm chập, nó phồng lớn lên cho tới khi lớn hơn bất cứ thứ gì lớn. Một giọng nói huyên thuyên lắp bắp nhanh hơn và nhanh hơn nữa rồi một giọng nói chậm kéo dài chậm chạp hơn mức Laura có thể chịu đựng. Không phải lời nói mà chỉ là những giọng nói. Mary đang nóng ở trong giường bên cạnh cô. Mary hất tung chăn đắp và Laura hét lên vì cô đang hết sức lạnh. Rồi cô lại đang nóng như lửa đốt và bàn tay Bố đung đưa ly nước. Nước đổ tràn xuống cổ cô. Chiếc ly nhôm va vào răng cô lách cách khiến cô uống rất khó khăn. Rồi Mẹ chui vào trong đống chăn và bàn tay Mẹ nóng hổi áp vào má Laura. Cô nghe thấy Bố nói: - Đi nằm đi, Caroline. Mẹ nói: - Anh còn bệnh hơn em nữa, Charles. Laura mở mắt ra và nhìn thấy ánh nắng chói chang. Mary đang thổn thức: - Con muốn uống nước! Con muốn uống nước! Con muốn uống nước! Jack chạy lui chạy tới giữa chiếc giường lớn và chiếc giường nhỏ. Laura thấy Bố nằm trên nền nhà cạnh chiếc giường lớn. Jack cào cào Bố và rên rỉ. Nó cạp ống tay áo của Bố và lắc giật. Bố hơi nhấc đầu lên và nói: - Mình phải dậy, mình phải, Caroline và các con… Rồi đầu Bố rớt xuống và Bố nằm bất động. Jack hếch mũi lên và gào hú. Laura cố ngồi dật, nhưng cô quá mệt. Rồi cô thấy gương mặt đỏ rực đang nhìn qua cạnh giường. Suốt thời gian đó, Mary vẫn khóc đòi nước. Mẹ nhìn Mary, rồi nhìn Laura và Mẹ thì thào: - Laura, con làm nổi không? Laura đáp: - Được, Mẹ. Lúc này cô đã ra khỏi giường. Nhưng khi cô cố đứng lên thì nền nhà đảo lộn và cô ngã xuống. Chiếc lưỡi của Jack liếm, liếm trên mặt cô và nó cuống cuồng rên rỉ. Nhưng nó trụ chắc bất động khi cô bíu lấy nó và ngồi lên tựa vào nó. Cô biết cô phải đi lấy nước để Mary ngung khóc và cô quyết định làm. Bằng mọi cách, cô trườn qua nền nhà và tới khạp nước. Trong khạp chỉ còn một ít nước. Cô run lên vì lạnh tới mức cầm chiếc gáo hết sức khó khăn. Nhưng cô cố giữ chắc nó. Cô múc một ít nước và thu xếp để lại trườn qua chiếc nền nhà vĩ đại. Jack luôn ở bên cạnh cô. Mary không mở nổi mắt. Hai bàn tay cô nắm lấy chiếc gáo và cô nuốt hết gáo nước. Rồi cô ngưng khóc. Chiếc gáo rớt lăn trên nền nhà và Laura trườn vào dưới đám chăn. Cô nằm như thế khá lâu trước khi thấy nóng trở lại. Thỉnh thoảng cô nghe thấy Jack thổn thức. Thỉnh thoảng nó hú lên và cô tưởng chừng nó là một con sói, nhưng cô không sợ. Cô nằm nóng như lửa đốt và nghe nó hú. Cô lại nghe thấy những giọng nói lắp bắp và cái giọng chậm chạp kéo dài và cô mở mắt ra. Cô thấy một khuôn mặt lớn, da đen đang cúi sát bên mặt cô. Khuôn mặt đen như than và bóng loáng. Những con mắt cũng đen và hiền dịu. Một hàm răng trắng bóng trong khuôn miệng lớn, dày. Khuôn mặt tươi cười và một giọng nói trầm trầm dịu dàng: - Uống cái này đi, cô bé. Một cánh tay đỡ vai cô lên và một bàn tay màu đen kề chiếc ly vào miệng cô. Laura hớp một hớp thấy đắng nghét nên quay đi nhưng chiếc ly theo sát miệng cô. Giọng nói trầm trầm, ngọt ngào lại cất lên: - Uống đi. Nó sẽ giúp cháu khoẻ lại. Vậy là Laura nuốt hết trọn phần thuốc đắng. Khi cô tỉnh lại, một người đàn bà mập mạp đang khuất động lò bếp. Laura ngắm bà ta kỹ càng và thấy bà ta không phải da đen. Bà ta rám nắng giống như Mẹ. Laura nói: - Xin cho cháu uống nước. Người đàn bà mang nước tới liền. Nước ngọt, mát khiến Laura cảm thấy khá hơn. Cô thấy Mary ngủ ngay sát bên cạnh cô. Cô thấy Bố và Mẹ đang ngủ trên giường lớn. Jack nằm lim dim trên nền nhà. Laura nhìn lại người đàn bà mập mạp và hỏi: - Bà là ai? Người đàn bà mỉm cười, đáp: - Tôi là bà Scott. Bây giờ cháu thấy dễ chịu hơn rồi, phải không? Laura lễ phép đáp: - Dạ, cảm ơn bà. Người đàn bà mập mạp đem lại cho cô một chén xúp gà gô. Bà nhắc: - Hãy ăn hết đi, giống một đứa trẻ ngoan, nghe. Laura hớp từng giọt xúp. Bà Scott nói: - Bây giờ ngủ đi. Tôi sẽ ở đây coi chừng mọi thứ cho tới khi mọi người khoẻ lại. Sáng hôm sau, Laura cảm thấy khoẻ hơn nhiều nên muốn ngồi dậy, nhưng bà Scott nói phải nằm im trên giường cho tới khi bác sĩ đến. Cô nằm ngắm bà Scott dọn dẹp nhà cửa và cho Bố, Mẹ với Mary uống thuốc. Rồi tới lượt Laura. Cô há miệng và bà Scott trút từ một gói giấy nhỏ thứ thuốc đắng nghét vào lưỡi cô. Laura uống nước, nuốt và nuốt rồi lại uống nước. Cô có thể nuốt trọn số bột nhưng không thể nuốt trôi hết vị đắng. Liền đó bác sĩ tới. Ông là người da đen. Từ trước, Laura chưa từng thấy một người da đen và cô không thể rời mắt khỏi bác sĩ Tan. Da ông đen kịt. Nếu cô không thích ông hẳn là cô phải sợ ông lắm. Ông nói chuyện với Bố, với Mẹ và cười sang sảng thoải mái. Mọi người đều mong ông ở lại lâu hơn nhưng ông phải đi ngay. Bà Scott kể rằng tất cả người trong vùng quanh lạch suối đều bị sốt rét, không có đủ người trông nom người bênh nên bà phải chạy từ nhà này qua nhà khác suốt ngày đêm. Bà nói: - Nhà ông bà qua khỏi thật kì diệu. Hết thẩy đã lâm bệnh cùng một lúc. Bà không đoán nổi điều gì đã xảy ra nếu bác sĩ Tan không kịp phát giác ra họ. Bác sĩ Tan là thầy thuốc của người da đỏ. Ông đang trên đường ngược lên phía bác tới Independence khi ghé qua nhà Bố. Lạ một điều là Jack vốn ghét người lạ không chịu cho ai tới gần nhà nếu Bố Mẹ không nhắc bảo, lại tự tới gặp bác sĩ Tan và nài ông vào nhà. Bà Scott nói: - Và cả nhà ông bà đều nằm ở đây, chết nhiều hơn sống. Bác sĩ Tan ở lại với họ một ngày một đêm trước khi bà Scott tới. Bây giờ ông đang đi chữa cho tất cả người bệnh trong vùng. Bà Scott bảo mắc phải chứng bệnh này là do ăn những trái dưa hấu. Bà Scott nói: - Mỗi khi có dịp gặp là tôi đã nhắc hàng trăm lần là những trái dưa hấu… Bố kêu lên: - Thứ đó là cái gì? Ai trồng dưa hấu? Bà Scott kể là một trong số người ở đây đã trồng dưa hấu dưới trũng lạch suối. Và bất kì ai ăn chỉ một miếng loại dưa đó đều ngã bệnh sau một phút. Bà nói là bà đã báo động với mọi người. Bà tiếp: - Nhưng, không. Không ai chịu nghe theo. Mọi người vẫn cứ ăn thứ dưa đó và bây giờ đã phải trả giá. Bố nói: - Tôi không từng nếm một miếng dưa hấu nào kể từ khi Hector vừa được sinh ra. Hôm sau, Bố ra khỏi giường. Ngày kế tiếp, Laura đứng dậy. Rồi Mẹ bình phục và nối theo là Mary. Tất cả đều gầy gò, run rẩy nhưng đã tự lo được cho mình. Vì vậy bà Scott trở về nhà bà. Mẹ nói Mẹ không biết diễn tả lòng biết ơn đối với bà như thế nào và bà Scott nói: - Ôi dào! Là hàng xóm làm gì nếu không giúp đỡ lẫn nhau? Má Bố hõm sâu và Bố đi lại chậm chạp. Mẹ thường phải ngồi nghỉ mệt. Laura và Mary không cảm thấy thích nô giỡn. Mỗi buổi sáng, cả nhà đều uống những bột thuốc đắng nghét. Nhưng Mẹ lại có những nụ cười dễ thương và Bố đã huýt gió vui vẻ. Bố nói: - Cơn gió bệnh hoạn đã không cuốn nổi những thứ tốt lành. Bố chưa đủ sức làm việc trở lại nên Bố đóng cho Mẹ một chiếc ghế đu. Bố xuống lạch suối khuân về một số cành cây mềm thon và ngồi trong nhà đóng ghế. Bố có thể ngưng lại bất kì lúc nào để thêm củi vào lò hoặc nhấc giúp Mẹ chiếc ấm nước. Bố làm trước hết là bốn chân ghế thật chắc và móc chặt vào những thanh chéo. Rồi Bố lột lấy những dải vỏ cây ngay dưới lớp vỏ ngoài. Bố đan những dải dây này lên, xuống, dọc, ngang cho tới khi kết thành một mặt ghế. Bố tách đôi một cây dài, thẳng, ghép một nửa vào một cạnh mặt ghếm cuốn lên xuống kín mít và ghép nửa còn lại vào cạnh kia của mặt ghế. Thế là xong phần lưng tựa cao uốn cong của chiếc ghế. Bố gắn lại thật chặt rồi đan những cành cây mềm ngang dọc và xếp lên nhau cho tới khi hoàn thành phần lưng ghế. Bố làm các thành ghế bằng những nửa nhánh cây khác. Bố cuốn nó từ phía trước cạnh mặt ghế tới lưng ghế và cuốn kín quanh chúng bằng những dải cây đan lên. Cuối cùng, Bố chẻ một cành cây lớn có độ cong. Bố lật úp chiếc ghế xuống, gắn những miếng gỗ cong vào dưới chân ghế làm thành những bàn đu. Thế là chiếc ghế hoàn tất. Rồi cả nhà tổ chức khai trương. Mẹ cởi chiếc tạp dề và chải mái tóc nâu óng mượt. Mẹ kẹp chiếc kẹp vàng của Mẹ lên trước cổ áo. Mary buộc chuỗi hạt quanh cổ bé Carrie. Bố và Laura đặt chiếc gối của Mary lên mặt ghế và đặt chiếc gối của Laura dựa vào lưng ghế. Bố phủ trên mấy chiếc gối tấm chăn trải giường nhỏ. Rối Bố nắm tay Mẹ dắt Mẹ tới trước ghế và đặt bé Carrie vào vòng tay Mẹ. Mẹ ngửa người tựa vào lưng ghế mềm. Đôi má gầy của Mẹ ửng lên và mắt Mẹ long lanh nước mắt, nhưng nụ cười của Mẹ thật đẹp. Chiếc ghế đu đưa nhẹ nhàng và Mẹ nói: - Ô, Charles, em không biết từ khi nào em không được đầy đủ như thế này. Rồi Bố lấy đàn ra đàn và hát cho Mẹ nghe trong ánh lửa. Mẹ khẽ đu đưa và bé Carrie đã ngủ còn Mary với Laura ngồi trên băng ghế dài ngập tràn hạnh phúc. Ngay ngày hôm sau, không nói đi đâu, Bố dắt Patty ra phóng đi. Mẹ ngạc nhiên không rõ Bố đi đâu. Và, Bố trở về với một trái dưa hấu đung đưa trên yên ngựa. Bố mang trái dưa vào nhà một cách vất vả. Bố buông nó xuống nền nhà và thả mình ngồi xuống bên cạnh. Bố nói: - Anh tưởng là không thể nào mang được nó về tới đây. Có lẽ nó nặng tới bốn chục pound và anh thì mềm nhũn như nước. Đưa cho anh con dao chặt thịt đi. Mẹ nhắc: - Nhưng, Charles! Anh không nên. Bà Scott đã nói… Bố bật lên một tràng cười lớn. Bố nói: - Những điều vô lí. Đây là một loại dưa ngon lành. Làm sao nó đưa tới bệnh sốt rét được? Mọi người đều biết loại bệnh sốt rét đó bắt nguồn từ hít thở không khí ban đêm. Mẹ nói: - Thứ dưa này đã lớn lên trong không khí ban đêm. Bố nói: - Lãng nhách! Đưa cho anh con dao chặt thịt đi. Anh phải ăn thứ dưa này để biết chắc nó có làm lạnh và gây sốt không. Mẹ nói trong lúc đưa con dao cho Bố: - Em tin chắc là anh sẽ bị. Lưỡi dao ấn vào trong trái dưa một âm thanh ngọt ngào. Lớp vỏ xanh tách ra để lộ phía trong đỏ au với những hạt đen lốm đốm. Ruột trái dưa đỏ giống như đông cứng lại. Không gì lôi cuốn hơn một trái dưa như thế trong những ngày hè nóng nực. Mẹ không dám ăn. Mẹ cũng không cho Laura và Mary nếm một miếng nào. Nhưng Bố ăn hết miếng này lại tới miếng khác và cuối cùng Bố thở ra một hơi dài bảo đưa hết phần còn lại cho con bò cái. Hôm sau Bố cảm thấy hơi ớn lạnh và gây gây sốt. Mẹ cho là do trái dưa hấu. Nhưng ngay ngày sau đó tới phiên Mẹ cảm thấy ớn lạnh và gây gây sốt. Vậy là cả nhà không biết rõ thứ gì đã gây ra chứng bệnh của họ. Thuở đó, không một ai biết đó là sốt rét rừng và do từ một số muỗi truyền từ ngưòi này qua người khác khi chích họ. Chương 16: Lửa Trong Ống Khói Đồng cỏ đã đổi khác. Lúc này nó ngả màu vàng xám gần như nâu và những lá mắc sọc đỏ nằm ngổn ngang. Gió rên rỉ trong những lùm cỏ cháy xém và thổi rì rào buồn bã qua những đám cỏ trâu cụt lủn, quăn queo. Về đêm tiếng gió giống như có ai đó đang kêu khóc. Bố lại nói đây là một vùng quê bát ngát. ở Big Woods, Bố đã phải cắt cỏ khô, xếp ủ và đưa vào nhà kho để dành cho mùa đông. ở đây, trên thảo nguyên, mặt trời đã xếp ủ cỏ hoang ngay tại chỗ và suốt mùa đông, ngựa bò vẫn có thể nhai phần cỏ khô của mình. Bố chỉ cần gom lấy một đống nhỏ để dành cho mùa mưa bão. Lúc này thời đã lạnh hơn và Bố có thể đi về thành phố. Bố không đi trong mùa hè nóng nực vì sức nóng sẽ khiến Pet và Patty quá mệt mỏi. Mỗi ngày chúng phải kéo xe hai mươi dặm và muốn tới thành phố phải mất hai ngày. Bố không muốn xa nhà lâu hơn. Bố chất một đống cỏ khô bên cạnh nhà kho. Bố đốn củi cho mùa đông và cột trong một sợi dây dài vào sát vách nhà. Bây giờ Bố chỉ còn cần kiếm thức ăn đủ dùng trong thời gian Bố đi vắng, thế là Bố xách súng đi săn. Laura và Mary đã ra ngoài trời chơi đùa trong gió. Khi nghe thấy một tiếng súng vang lên trong khu rừng bên lạch suối, các cô biết là Bố đã kiếm được một món thịt gì đó. Gió đã thấm lạnh hơn và dọc lạch suối dưới trũng sâu, những đám ngỗng trời đã xuất hiện, gom tụ, bay lượn. Con ngỗng đầu đàn vượt lên trước kêu những con phía sau. Nó kêu: - Hoong! Tất cả những con ngỗng trong hàng đều trả lời nối theo nhau: - Hoong! Hoong! Hoong! Rồi con đầu đàn kêu: - Hoong! Và những con kia lại đáp: - Hoong – hoong! Hoong – hoong! Con đầu đàn vươn đôi cánh mạnh mẽ bay thẳng về hướng nam và cả một hàng dài bay dính theo phía sau nó. Những tàn cây cao dọc theo lạch suối lúc này đã điểm màu. Những cây xồi trở thành đỏ, vàng, nâu, lục. Những cây bông gòn, sung và hồ đào thì ngả màu vàng cháy. Bầu trời không còn màu xanh sáng và gió thổi mạnh hơn. Chiều hôm đó, gió lồng lộng dữ dội và thấm lạnh. Mẹ gọi Mary và Laura vào trong nhà. Mẹ nhóm lửa, kéo chiếc ghế đu lại gần và Mẹ vừa đu đưa bé Carrie vừa khe khẽ hát ru: Này này, sẻ đất tí hon Bố đang săn bắn ngoài chuông Đem về một bộ da thỏ Choàng khăn cho sẻ tí hon Laura chợt nghe một tiếng tách nhỏ trong ống khỏi. Mẹ ngưng hát cúi người tới trước, nhìn lên ống khói. Rồi Mẹ lặng lẽ đứng dậy, đặt bé Carrie vào vòng tay Mary, ấn Mary ngồi xuống chiếc ghế đu và hối hả bước ra ngoài. Laura lật đật chạy theo Mẹ. Khắp đầu ống khói đều bốc lửa. Những gióng cây đang bốc cháy. Lửa gầm hú trong gió và vươn qua mái nhà không có gì che đỡ. Mẹ nắm một cây sào đập, đập vào ngọn lửa đang gầm hú và những gióng cây bốc cháy rớt xuống khắp xung quanh Mẹ. Laura không biết làm gì. Cô cũng vồ lấy một cây sào nhưng Mẹ bảo cô lui ra xa. Ngọn lửa gầm hú khủng khiếp. Lửa có thể thiêu rụi cả căn nhà và Laura không thể làm được điều gì. Cô vùng chạy vào bên trong. Những gióng cây và than củi rời từ ống khỏi xuống lăn ra trước lò bếp. Cả căn nhà ngập khói. Một gióng cây lớn đang ngút cháy văng lên nền nhà ngay dưới váy Mary. Mary kinh hoảng tới mức không cử động nổi. Laura cũng kinh hoảng không còn suy nghĩ nổi. Cô chụp lấy lưng chiếc ghế đu nặng chịch và cố sức lôi. Chiếc ghế với Mary và bé Carrie ở trên trượt lui qua nền nhà. Laura vồ lấy gióng cây đang bén lửa ném vào trong lò bếp đúng lúc Mẹ bước vào nhà. Mẹ nói: - Laura ngoan lắm, vẫn nhớ mẹ dặn không bao giờ được để lửa cháy trên nền nhà. Mẹ xách tới một xô nước, bình tĩnh và cực lẹ hắt nước vào ngọn lửa trong lò. Một đám mây hơi nước thoát ra. Rồi Mẹ hỏi: - Tay con có bị phỏng không? Mẹ xem xét hai bàn tay Laura nhưng không thấy có vết phỏng nào vì cô đã chộp quăng gióng cây đang bốc cháy rất nhanh. Laura không khóc thực sự. Cô đã quá lớn để gào khóc. Chỉ một giọt nước mắt lăn từ khoé mắt và họng cô tắt nghẹn, nhưng không phải cô đang khóc. Cô áp mặt vào Mẹ và đeo chặt người Mẹ. Cô vô cùng sung sướng vì ngọn lửa không chạm tới Mẹ. Mẹ vuốt tóc cô, nói: - Đừng khóc, Laura. Con sợ không? Laura nói: - Dạ, con sợ Mary và bé Carrie bị cháy. Con sợ cháy nhà và mình không còn nhà nữa. Con… Bây giờ con còn sợ! Lúc này Mary đã lên tiếng được. Cô kể cho Mẹ nghe Laura đã làm thế nào để lôi chiếc ghế rời xa ngọn lửa. Laura quá nhỏ, còn chiếc ghế quá lớn và rất nặng với Mary và bé Carrie ở trên. Mẹ sững sờ nói không biết bằng cách nào Laura có thể làm việc đó. Mẹ bảo: - Con là một cô gái can đảm, Laura. Nhưng Laura đã thực sự kinh hoàng. Mẹ tiếp: - Không có gì tổn hại cả. Nhà không bị cháy, váy của Laura cũng không bắt lửa để thiêu Mary và bé Carrie. Như thế là mọi thứ đều đã ổn. Khi trở về nhà Bố thấy lửa đã tắt. Gió đang gào rú trên khoảng thấp bằng đá ở đầu ống khói và căn nhà lạnh ngắt. Nhưng Bố nói Bố sẽ làm lại ống khói bằng cây tươi, đất sét mới và trát hồ chắc tới mức lửa không thể bắt cháy được nữa. Bố mang về bốn con ngỗng mập căng và nói Bố có thể hạ cả trăm con. Nhưng họ chỉ cần bốn con. Bố nói với Mẹ: - Em nhớ giữ lại số lông ngỗng và lông vịt. Anh sẽ săn đủ cho em có một nệm giường bằng lông chim. Dĩ nhiên, Bố có thể săn một con nai, nhưng thời tiết chưa đủ lạnh để làm thịt đông lạnh và giữ cho khỏi hư trước khi ăn tới. Và Bố tìm chỗ đậu của một bầy gà tây. Bố nói: - Những con gà tây dịp lễ Giáng Sinh và Tạ Ơn của chúng ta. Những anh chàng to lớn, mập mạp. Anh sẽ đưa chúng về đúng lúc. Bố huýt gió đi trộn hồ và đốn cây tươi để làm lại ống khói trong lúc Mẹ vặt lông ngỗng. Rồi ngọn lửa tí tách reo vui, một con ngỗng được nướng chín và bánh mì đã chín dòn. Mọi thứ lại gọn gàng và ấm cúng. Sau bữa ăn tối, Bố cho biết dự tính sáng sớm mai lên đường về thành phố. Bố nói: - Đi thật mau và về sớm thôi. Mẹ nói: - Phải đó, Charles, anh nên đi. Bố nói: - Dù anh không đi thì mình cũng còn ổn định được. Không cần phải lúc nào cũng chạy về thành phố vì những chuyện nhỏ nhặt. Anh hút thứ thuốc tốt hơn thứ mà Scott đưa từ Indiana về trồng, nhưng thứ này cũng được. Mùa hè tới, anh sẽ trồng một ít để trả lại anh ấy. Anh chỉ mong không nợ Edwards một số đinh. Mẹ nói: - Anh đã mượn số đinh nó mà, Charles. Về phần thuốc hút thì anh không thích vay thêm một chút nào nữa. Mình lại cần có nhiều thuốc kí-ninh hơn. Còn bột bắp thì em rất dè sẻn cũng đã sắp hết và đường cũng vậy. Có thể anh sẽ kiếm được một ổ ong nhưng quanh đây không thể có bắp giống và mình sẽ không có bắp trồng cho năm tới. Một ít thịt heo ướp muối cũng rất cần sau các món thịt rừng. Thêm nữa, Charles, em rất muốn gửi thư về cho mọi người ở Wisconsin. Nếu anh gửi được một lá thư vào lúc này thì trong mùa đông này mọi người có thể viết trả lời và mình có thể biết tin tức ở đó vào mùa xuân tới. Bố nói: - Em có lý, Caroline. Em luôn luôn có lý. Rồi Bố quay qua Mary và Laura nhắc đã tới giò đi ngủ. Nếu sáng sớm mai Bố lên đường thì tối nay đi ngủ sớm là tốt. Bố cời giầy trong lúc Mary và Laura mặc áo ngủ. Nhưng khi các cô lên giường thì Bố lại lấy cây đàn xuống. Bố đàn nho nhỏ và khe khẽ hát: Cây nguyệt quế vươn lên xanh ngắt Cây lý hương buông rợp bóng thêm Người yêu ơi, cớ chi sầu héo hắt Đường dù dài anh bước mãi bên em Mẹ quay nhìn Bố mỉm cười. Mẹ nói với Bố: - Đi đường cẩn thận nghe, Charles. Nhớ đừng lo chuyện ở nhà. Mọi thứ sẽ ổn hết. Chương 17: Bố Lên Tỉnh Trước bình minh, Bố đã đi. Khi Laura và Mary thức dậy thì Bố đã đi khỏi và mọi thứ đều hoang vắng quạnh quẽ. Thật khác hẳn những khi Bố đi săn. Bố đang đi lên tỉnh và chỉ trở về sau bốn ngày. Bunny bị nhốt ở trong chuồng nên không thể theo Mẹ. Chuyến đi quá dài đối với một con ngựa con. Bunny hí lên một cách sầu thảm. Laura và Mary ngồi trong nhà với Mẹ. Phía ngoài trở nên trống hoe và rộng vô cùng sau khi Bố ra đi. Jack cũng có vẻ khó chịu và trông ngóng. Buổi trưa Laura đi cùng Mẹ lấy nước cho Bunny và rời cọc buộc con bò cái ra chỗ cỏ tươi. Lúc này con bò cái hoàn toàn ngoan ngoãn. Nó đã chịu để cho Mẹ dắt và còn chịu cho Mẹ vắt sữa. Đang vắt sữa Mẹ vội hất nón xuống vì Jack đột nhiên dựng đứng hết lông trên cổ, trên lưng phóng ra khỏi nhà. Hai mẹ con nghe thấy một tiếng hét, một bước nhảy tránh rồi một tiếng kêu: - Gọi con chó về đi! Gọi con chó về đi! Ông Edwards đang đứng trên một đống gỗ và Jack đang leo đuổi theo ông ấy. - Nó bắt tôi phải leo lên đây. Ông Edwards nói trong lúc lui lên cao hơn trên đống gỗ. Mẹ rất vất vả mới xua được Jack ra xa. Jack nhe hàm răng ra một cách hung tợn và mắt nó ngầu đỏ. Nó bị buộc phải để ông Edwards bước xuống khỏi đống gỗ nhưng canh chừng ông từng phút. Mẹ nói: - Dường như nó biết là anh Ingalls không có mặt ở đây. Ông Edwards bảo rằng những con chó biết nhiều điều hơn so với mức đa số người nghĩ về chúng. Sáng nay, trên đường lên tỉnh, Bố đã ghé nhà ông Edwards nhờ ông ấy mỗi ngày ghé qua nhà coi giúp mọi chuyện có ổn không. Thế là người hàng xóm tốt bụng Edwards đã sắp xếp thời giờ tới lo giúp Mẹ những công việc lặt vặt. Nhưng Jack đã có trong đầu nó ý nghĩ không cho bất kì ai đến gần con bò cái và Bunny trong lúc Bố đi vắng. Thế là phải nhốt nó trong nhà khi ông Edwards tới làm giúp một số công việc. Lúc quay về ông Edwards nói với Mẹ: - Đêm nay cứ giữ con chó đó ở trong nhà là đủ yên ổn rồi. Bóng tối buông xuống chậm chạp xung quanh ngôi nhà. Gió khóc than rầu rĩ và những con cú lên tiếng: - Hu-u? Uu-uu! Một con sói hú và Jack gầm gừ trong họng. Mary và Laura ngồi sát bên Mẹ trong ánh lửa. Các cô biết hoàn toàn bình an ở trong nhà vì có Jack ở đó và Mẹ đã kéo then cửa vào bên trong. Hôm sau cũng trống vắng như hôm trước. Jack đảo quanh chuồng ngựa, quanh ngôi nhà rồi quanh chuồng ngựa và trở lại trước ngôi nhà. Nó không chú ý một chút nào tới Laura. Chiều hôm đó, bà Scott tới thăm Mẹ. Lúc hai người trò chuyện, Laura và Mary ngồi ngoan ngoãn giống như những con chuột. Bà Scott ngắm chiếc ghế đu mới. Càng đu trong đó, bà càng thích thú và khen ngôi nhà xinh xắn, ngăn nắp, tiện nghi hết mức. Bà bảo bà hy vọng sẽ không xảy ra một sự lộn xộn nào với người da đỏ. Ông Scott đã nghe đồn về tình trạng lộn xộn. Bà kể: - Đất đai biết rõ là họ không bao giờ làm gì với cái xứ sở này. Điều họ làm chỉ là lang thang vòng quanh giống như những con thú hoang. Dù có hiệp ước hay không có hiệp ước thì đất đai vẫn phải thuộc về những người nông dân cày xới nó. Đó mới đúng là lẽ phải và công bằng. Bà không hiểu sao chính phủ lại kí hiệp ước với người da đỏ. Chỉ cần nghĩ tới người da đỏ là máu bà đã lạnh cóng rồi. Bà nói: - Tôi không thể quên nổi cuộc tàn sát ở Minnesota. Cha tôi và các anh tôi đi cùng với những cư dân còn lại và chận đứng họ cách chúng tôi chỉ mười lăm dặm về hướng tây. Tôi đã nghe cha nói quá đủ về cách thức mà họ… Mẹ tạo một âm thanh đột ngột trong họng và bà Scott ngừng lại. Dù cuộc tàn sát diễn ra thế nào thì cũng là chuyện người lớn không nên đem ra kể với nhau khi có những cô gái nhỏ lắng nghe. Sau khi bà Scott đi khỏi, Laura hỏi Mẹ cuộc tàn sát là gì? Mẹ bảo lúc này Mẹ không thể giải thích được, đó là chuyện mà khi lớn hơn, Laura sẽ hiểu. Ông Edwards tới làm giúp các việc lặt vặt vào buổi tối và Jack lại dồn ông leo lên đống gỗ. Mẹ phải lôi nó đi. Mẹ nói với ông Edwards rằng Mẹ không thể hiểu cái gì đã nhập vào con chó. Có lẽ gió máy đã khiến nó đảo lộn hết. Gió tựa hồ mang theo một tiếng hú man rợ, lạ kì và khi gió thổi qua Laura ngỡ như mình không còn quần áo. Răng của cô và của cả Mary đều va vào nhau canh cách khi các cô đi ôm củi vào nhà. Tối đó, các cô nghĩ tới Bố ở Independence. Nếu không có gì khiến Bố phải trì hoãn thì lúc này Bố đang cắm trại gần những ngôi nhà và dân cư. Ngày mai Bố đã ở trong cửa hàng, mua sắm đồ dùng. Rồi, nếu Bố có thể khởi hành sớm thì tối mai Bố đã ở trên đường trở về nhà và cắm trại trên đồng cỏ. Và tới đêm sau đó, Bố đã có thể về tới nhà. Buổi sáng gió thổi dữ dội và lạnh tới mức Mẹ phải đóng cửa. Laura và Mary ngồi sát lò sưởi, lắng nghe gió rít quanh nhà và gào thét trong ống khói. Chiều hôm đó, các cô đều muốn biết liệu Bố có đang rời Independence và đang cố chống cự với gió dữ để trở về nhà. Ngày hôm sau trở nên rất dài. Các cô không thể mong Bố từ buổi sáng, nhưng các cô thấp thỏm chờ tới lúc được mong Bố. Buổi chiều, các cô bắt đầu nhìn về phía con đường dưới lạch suối, Jack cũng nhìn về hướng đó. Ngoài bọc quanh chuồng ngựa và ngôi nhà, ngừng lại nhìn về trũng đất lạch suối, răng nhe ra. Gió gần như thổi tung chân nó lên. Khi vào nhà, nó không chịu nằm mà đi quanh quẩn, lo lắng. Lông cổ nó dựng lên, ép xuống rồi lại dựng lên. Nó cố nhìn ra ngoài qua cửa sổ rồi tới trước cửa ra vào và rít lên. Nhưng khi Mẹ mở cửa thì nó đổi ý không bước ra. Mary nói: - Jack sợ một điều gì. Laura cãi lại: - Jack không sợ điều gì bao giờ. Mẹ lên tiếng: - Laura, Laura! Cãi như vậy là không hay chút nào. Trong một phút, Jack quyết định đi ra ngoài. Nó đi xem con bò cái, con bê và Bunny có yên ổn trong chuồng không. Và Laura muốn nói với Mary: - Em đã bảo chị như thế mà! Cô không lên tiếng dù cô rất muốn. Vào khoảng thời gian làm việc vặt, Mẹ giữ Jack ở trong nhà để nó không thể dồn ông Edwards lên đống cây. Bố vẫn chưa về. Gió xô ông Edwards vào khuôn cửa. Ông thở hổn hển và khô cứng vì lạnh. Ông tới bên lò sưởi hơ cho ấm trước khi làm các việc vặt và khi làm xong ông lại ngồi xuống sưởi. Ông nói với Mẹ rằng người da đỏ đang cắm trại trong một vùng khuất giữa các vách đất. Ông đã trông thấy khói do họ đốt lửa khi ông đi băng ngang qua thung lũng. Ông hỏi Mẹ có súng không. Mẹ nói Bố có để lại khẩu súng lục và ông Edwards nói: - Tôi đoán họ sẽ ở yên trong trại, đêm lạnh như thế này. Mẹ đáp: - Chắc vậy. Ông Edwards nói ông có thể ủ ấm bằng đám cỏ khô trong chuồng ngựa và sẽ qua đêm tại đó nếu Mẹ nói được. Mẹ cảm ơn ông một cách tế nhị, nhưng bảo là Mẹ không đặt ông vào cảnh phiền phức đó. ở nhà đã đủ an toàn với Jack. Mẹ nói với ông: - Tôi đang đợi Ingalls sắp trở về bây giờ. Thế là ông Edwards mặc áo, đội mũ, choàng khăn, xỏ găng tay và cầm cây súng lên. Ông nói ông mong sẽ không có bất kì điều gì quấy rầy Mẹ. Mẹ bảo: - Không có gì đâu. Khi Mẹ đóng cánh cửa lại phía sau lưng ông ấy. Mẹ rút then cài vào trong mặc dù trời còn chưa tối. Laura và Mary còn có thể nhìn rõ con đường phía lạch suối và các cô nhìn nó cho tới khi bóng tối phủ kín hết. Rồi Mẹ đóng và chèn các cánh cửa sổ lại. Bố không về. Mấy mẹ con ăn bữa tối. Họ rửa chén dĩa, quét dọn lò bếp và Bố vẫn không về. Bố còn ở ngoài trời tối đen với tiếng gió la hét, than van, gào hú. Gió khua lắc chiếc then cửa và đập rầm rĩ trên những cánh cửa sổ. Gió rít trong ống khói và lửa trong lò gầm lên loé sáng. Suốt thời gian đó Laura và Mary căng tai cố nghe tiếng bánh xe lăn. Các cô biết mặc dù đang đu đưa trên ghế và hát ru bé Carrie ngủ, Mẹ cũng đang chú ý lắng nghe. Carrie đã buồn ngủ và Mẹ ngồi lên ghế đu đưa. Cuối cùng, Mẹ thay áo cho Carrie và đặt bé vào giường. Laura và Mary nhìn nhau, không muốn đi ngủ. Mẹ nhắc: - Lên giường thôi, các con! Rồi Laura xin được phép ngồi tới lúc Bố trở về và Mary nói theo cho tới khi Mẹ đành phải nói được. Hai cô bé ngồi lâu, thật lâu. Mary ngáp, rồi Laura ngáp rồi cả hai cùng ngáp. Nhưng các cô vẫn cố mở mắt. Laura nhìn thấy mọi đồ vật lớn lên mãi rồi nhỏ lại và thỉnh thoảng cô thấy có hai Mary và đôi lúc cô không nhìn thấy gì hết, nhưng cô tiếp tục ngồi chờ Bố về. Đột nhiên, một sự xụp xuống đáng sợ khiến cô kinh hoảng và Mẹ nâng cô dậy. Cô đã ngã khỏi ghế rơi phịch xuống nền nhà. Cô cố nói với Mẹ rằng cô không buồn ngủ tới mức phải đi nằm, nhưng một cái ngáy cực lớn gần như chẻ đầu cô ra làm hai mảnh. Nửa đêm cô bỗng ngồi thẳng dậy. Mẹ còn đang ngồi trên chiếc ghế đu gần lò sưởi. Chiếc then cửa khua lắc, những cánh cửa sổ đập rầm rầm, gió đang gào hú. Mắt Mary vẫn mở và Jack đi lên đi xuống. Rồi Laura nghe một tiếng hú man rợ dội lên, đổ xuống rồi lại dội lên. Mẹ khẽ nhắc: - Nằm xuống, Laura và ngủ đi. Laura hỏi: - Cái gì đang hú? Mẹ nói: - Gió hú đó. Thôi, làm theo lời Mẹ đi, Laura. Laura nằm xuống, nhưng không nhắm mắt. Cô biết Bố đang ở ngoài trời tối, nơi mà trận gió khủng khiếp kia đang gào hú. Những người man rợ đang ở dưới những vách đất dọc trũng lạch suối và trong bóng đêm Bố phải băng qua đó, Jack chợt gầm gừ. Rồi Mẹ bắt đầu đung đưa nhẹ nhàng trong chiếc ghế đu ấm áp. Ánh lửa sáng chớp, tắt và chớp, tắt trên nòng khẩu súng lục của Bố đang đặt trong lòng Mẹ. Và Mẹ hát nho nhỏ ngọt ngào: Vùng đất lành hạnh phúc Xa tít tắp mù khơi Thánh linh đang ngự trị Giữa ánh sáng rạng ngời Nghe vẳng thiên thần lên tiếng hát Vinh quang thay, vua của chúng tôi Laura không biết là cô đang ngủ. Cô tưởng chừng các thiên thần rực sáng bắt đầu hát vang cùng với Mẹ và cô nằm lắng nghe tiếng hát từ thiên đường cho tới lúc đột nhiên mở mắt và thấy Bố đang đứng bên lò sưởi. Cô nhảy khỏi giường kêu lớn: - Ô Bố! Bố! Giày Bố dính bết một lớp bùn đông cứng, mũi Bố đỏ gay vì lạnh, tóc trên đầu Bố dựng đứng loạn xạ. Hơi lạnh từ người Bố xuyên thấu qua chiếc áo dài ngủ của Laura khi cô tới gần Bố. Bố nói: - Chờ đã! Bố quấn Laura trong chiếc khăn choàng của Mẹ và ghì chặt cô. Mọi thứ đều đã ổn thoả. Ngôi nhà ấm áp trong ánh lửa, có hương thơm cà phê nóng. Mẹ đang mỉm cười và Bố ở đó. Chiếc khăn choàng rộng tới mức Mary có thể kéo đầu kia quấn kín quanh mình. Bố trút những chiếc giày cứng ngắc và hơ ấm những bàn tay lạnh cóng. Rồi Bố ngồi xuống chiếc ghế dài, nhấc Mary đặt lên một bên đùi và Laura lên đùi bên kia, ghì chặt cả hai vẫn đang rúc trong tấm khăn choàng. Những ngón chân trần của các cô hơ trên hơi lửa nóng. Bố thở ra một hơi dài: - Chà! Anh đã tưởng là không thể nào về tới nhà nổi. Mẹ lục soát giữa đống đồ Bố mới mang về và dùng muỗng múc những hạt đường màu nâu vào chiếc ly nhôm. Bố đã mang đường từ Independence về. Mẹ nói: - Một phút nữa là có cà phê cho anh rồi. Bố kể: - Trời mưa giữa đường lúc anh từ đây tới Independence. Và khi trở về, bùn đóng cứng trên nan hoa xe đến nỗi bánh xe gần như đặc lại. Anh phải cạy và đập cho rơi ra để lũ ngựa có thể kéo nổi xe. Nhưng đi không được bao xa là anh lại phải xuống cạy và đập bùn. Đó là tất cả điều anh làm được để giúp Pet và Patty đi tới trong trận gió này. Chúng mệt đến độ bước đi lảo đảo một cách khó khăn. Chưa bao giờ anh thấy một trận gió như thế, nó buốt như dao cắt. Trận gió bốc lên khi Bố đang ở trong thành phố. Nhiều người đã nhắc Bố là tốt hơn hãy chờ tới khi gió dịu, nhưng Bố muốn trở về nhà ngay. Bố tiếp: - Gió đập dữ dội. Đúng là có lí do khi người ta gọi một trận gió nam là gió bấc và đúng là một trận gió nam lạnh ghê khiếp. Anh chưa bao giờ gặp một thứ gì như thế. Tới vùng này là cực bắc của trận gió nam và là trận gió lạnh nhất mà anh được nghe nhắc tới. Bố uống cà phê, chùi râu bằng chiếc khăn quàng và nói: - Chà! Quả là đúng lúc, Caroline! Bây giờ anh mới đang bắt đầu ấm người lên. Rồi mắt Bố sáng lên nhìn Mẹ và Bố nhắc Mẹ mở chiếc gói vuông đặt trên bàn. Bố nói: - Cẩn thận, đừng đánh rớt! Mẹ ngưng lại không mở ra, hỏi: - Ô, Charles! Anh… Bố giục: - Mở ra đi! Trong gói vuông này có tám ô kính cửa sổ nhỏ. Họ đã có kính cửa sổ trong ngôi nhà của mình. Không một tấm kính nào bị vỡ. Bố đã giữ chúng nguyên lành suốt trên đường về nhà. Mẹ lắc đầu nói lẽ ra Bố không nên xài hoang như thế, nhưng mắt Mẹ rạng rỡ tươi rói và Bố cười sung sướng. Cả nhà đều mãn nguyện. Suốt mùa đông, mọi người có thể mặc sức nhìn qua cửa sổ ra ngoài và ánh nắng có thể dọi vào nhà. Bố bảo Bố nghĩ là Mẹ, Mary và Laura đều thích kính cửa sổ hơn bất kì món quà tặng nào và Bố hoàn toàn có lí. Mấy mẹ con đều thích. Nhưng Bố không chỉ mang về những tấm kính cửa sổ mà thôi. Còn có một túi giấy đầy ắp những hạt đường trắng tinh. Mẹ mở túi và Mary cùng Laura nhìn chăm chăm những hạt đường xinh xắn trắng ngần lấp lánh rồi các cô nếm mỗi người một chút từ một chiếc muỗng. Sau đó, Mẹ buộc túi lại cẩn thận. Họ đã có đường trắng để dành cho khi có khách khứa. Tốt đẹp hơn hết vẫn là Bố đã trở về nhà an toàn. Laura và Mary đi ngủ hoàn toàn thoải mái. Mọi thứ đều hoàn toàn ổn thoả khi Bố đã có mặt. Và bây giờ Bố đã có đinh, có bột bắp, có mỡ heo, có muối và mọi thứ, Bố không cần phải lên tỉnh trở lại trong một thời gian lâu nữa. Chương 18: Người Da Đỏ Cao Lớn Gió bấc la hét gào hú trọn ba ngày trên đồng cỏ rồi dịu xuống. Lúc này nắng ấm hơn và gió chỉ còn hiu hiu nhưng đã gợi lên cảm giác vào thu. Những người da đỏ thường xuất hiện trên lối mòn chạy sát ngôi nhà. Họ đi tới tựa hồ như không có ngôi nhà ở đó. Họ đều gầy, da nâu bóng và trần trụi, cưỡi những con ngựa nhỏ không có yên cương. Họ ngồi thẳng lưng trên những con ngựa trần trụi, không hề quay nhìn qua hai bên. Nhưng những con mắt đen của họ loé sáng. Laura và Mary đứng tựa vào vách nhà, chăm chú ngắm họ. Các cô thấy nước da nâu đỏ của họ tương phản nổi bật dưới bầu trời xanh và đầu họ quấn một sợi dây sặc sỡ với những cọng lông chim rung rinh. Da mặt những người da đỏ không khác thứ gỗ nâu đỏ mà Bố đã dùng để khắc cho Mẹ một cây thánh giá. Bố nói: - Anh cứ nghĩ đây là còn đường cũ họ không còn dùng nữa. Nếu biết nó còn được qua lại thì anh đã không dựng nhà ở sát bên thế này. Jack rất ghét những người da đỏ và Mẹ bảo Mẹ không thể la cấm nó được. Mẹ nói: - Người da đỏ kéo tới đây đông đến mức mà không khi nào nhìn lên em không thấy một người. Vừa nói dứt Mẹ nhìn lên thì đã thấy một người da đỏ đang đứng sững. Ông ta đứng ngay khung cửa, nhìn mọi người và tất cả đều không hề nghe thấy một tiếng động. Mẹ hổn hển: - Chúa ơi! Jack đâm bổ tới người da đỏ. Bố chụp trúng ngay chiếc vòng cổ của nó vừa kịp lúc. Người da đỏ không nhúc nhích, đứng im lìm tựa hồ Jack không hề làm gì. Ông ta nói với Bố: - Thế nào! Bố giữ chặt Jack và đáp lại: - Thế nào! Bố lôi Jack tới chân giường, cột nó vào đó. Trong lúc Bố làm, người da đỏ bước vào nhà, tới ngồi xổm gần lò bếp. Rồi Bố tới ngồi xổm xuống cạnh người da đỏ. Họ ngồi đó thân mật nhưng không nói một lời trong lúc Mẹ đang nấu nướng. Laura và Mary tựa sát nhau nín lặng trên một góc giường. Các cô không thể rời mắt khỏi người da đỏ. Ông ta ngồi im đến mức những cọng lông ó trên đầu không lay động. Chỉ riêng lồng ngực để trần nhẵn thín của ông ta dưới khung xương sườn khẽ lên xuống theo nhịp thở. Những miếng da bọc ống chân ông ta được viền tua còn giầy da của ông ta có đính nhiều hạt chuỗi. Mẹ đưa cho Bố và ông ta hai dĩa nhôm đựng thức ăn và cả hai lặng lẽ ăn. Rồi Bố đưa cho người da đỏ một ít thuốc để ông ta nhồi vào dọc tẩu. Hai người đều nhồi đầy thuốc vào dọc tẩu rồi mồi thuốc bằng những cục than trong lò bếp và lặng lẽ hút cho tới khi thuốc trong tẩu cháy hết. Suốt thời gian đó, không ai nói một tiếng nào. Nhưng lúc này người da đỏ nói một điều gì đó với Bố. Bố lắc đầu đáp: - Không biết nói. Cả hai lại ngồi lặng thinh thêm một hồi lâu nữa. Rồi người da đỏ đứng lên, bước đi không một tiếng động. Mẹ kêu lên: - Nhờ ơn Chúa! Laura và Mary ùa tới bên cửa sổ. Các cô nhìn thấy chiếc lưng thẳng đứng của người da đỏ đang rời xa dần trên lưng một con ngựa nhỏ. Ông ta đặt một cây súng nằm ngang trên đầu gối thò sang hai bên. Bố nói người da đỏ đó không thuộc hàng tầm thường. Qua hình thức đầu của ông ta. Bố đoán ông ta là người Osage. Bố nói: - Nếu anh đoán không lầm thì ông ta biết nói tiếng Pháp. Anh ước gì mình biết được vài tiếng của cái ngoại ngữ đó. Mẹ nói: - Hãy để những người da đỏ cho riêng họ còn mình thì cho riêng mình. Em không thích thấy người da đỏ quẩn ở quanh chân. Bố nói với Mẹ là đừng sợ. Bố nói: - Người da đỏ đó hoàn toàn thân thiện. Trại của họ nằm giữa các vách đất khá yên ổn. Nếu mình đối xử tốt với họ và canh chừng Jack kĩ thì sẽ không có gì lộn xộn cả. Ngay sáng hôm sau, Bố vừa mở cửa bước ra chuồng ngựa thì Laura thấy Jack đang đứng giữa đường mòn của người da đỏ. Nó đứng bất động, lông trên lưng dựng đứng, răng nhe ra. Giữa đường ngay trước nó là người da đỏ cao lớn ngồi trên lưng ngựa. Người da đỏ và con ngựa đứng không nhúc nhích. Jack rõ ràng cho thấy nó sẽ hồm thẳng tới nếu họ cử động. Chỉ những cọng lông ó dựng thẳng trên đỉnh đầu người da đỏ chập chờn xoay trong gió. Khi người da đỏ nhìn thấy Bố, ông ta nhấc khẩu súng lên nhắm vào Jack. Laura vùng chạy ra cửa, nhưng Bố đã nhanh hơn. Bố chen vào giữa Jack và khẩu súng, cúi xuống chộp lấy chiếc vòng cổ của Jack. Bố lôi Jack ra khỏi con đường mòn của người da đỏ và người da đỏ thúc ngựa đi tới, theo con đường mòn. Bố dang rộng chân, thọc hai bàn tay vào túi đứng nhìn người da đỏ xa dần, xa dần, băng qua đồng cỏ. Bố nói: - Đúng là có một hiệu lệnh tụ họp. Được, đó là đường đi của họ. Một đường mòn da đỏ, có đã lâu từ trước khi mình tới. Bố móc một khoen sắt vào vách nhà và xích Jack vào đó. Từ đó, Jack luôn bị xích. Ban ngày, nó bị xích vào vách nhà còn ban đêm thì bị xích trước cửa chuồng ngựa, vì lúc này đã có những tên trộm xuất hiện trong vùng. Những con ngựa của ông Edwards vừa bị bắt trộm. Jack càng lúc càng khó chịu hơn vì bị xích. Nó không coi con đường mòn kia là đường mòn của người da đỏ mà nghĩ là con đường thuộc về Bố. Và Laura biết sẽ có một điều khủng khiếp xảy ra nếu Jack đụng tới một người da đỏ. Lúc này mùa đông đang tới. Đồng cỏ biến màu ảm đạm dưới màu trời u ám. Gió nỉ non than tựa hồ đang tuyệt vọng kiếm tìm một điều gì đã mất. Đám hoang thú đang khoác những bộ da dày cho mùa đông và Bố đi đặt bẫy trong trũng lạch suối. Mỗi ngày Bố đều đi thăm chừng bẫy và đi săn. Lúc này về đêm lạnh cóng nên Bố đi bắn nai để ướp thịt. Bố cũng bắn sói và cáo để lấy da và những chiếc bẫy thì bắt hải ly, chuột xạ hương và báo nước. Bố căng những tấm da ở phía ngoài nhà và buộc cẩn thận, phơi cho khô. Buổi tối, Bố chà xát những tấm da khô bằng hai bàn tay cho mềm rồi chất thành đống trong một góc nhà. Mỗi ngày đống da một lớn hơn. Laura thích vuốt ve những tấm da cáo dày màu đỏ, thích những tấm da hải ly mềm mại, màu nâu và cả những tấm da sói bờm xờm. Nhưng hơn hết thảy, cô thích nhất những tấm da báo nước óng bạc. Bố gom tất cả những tấm da này để dành đem đi bán tại Independence vào mùa xuân tới. Laura và Mary đã có những chiếc mũ da thỏ còn Bố thì có chiếc mũ bằng da chuột xạ hương. Một bữa, hai người da đỏ tới vào lúc Bố đang đi săn. Họ đi thẳng vào nhà vì Jack đã bị xích. Những người da đỏ này dơ dáy, cau có và tồi tệ. Họ xử sự tựa hồ ngôi nhà này là của riêng họ. Một người lục tủ của Mẹ lấy hết bánh mì. Người kia lấy túi thuốc hút của Bố. Họ ngắm mấy chiếc móc treo súng của Bố, rồi một người ôm trọn đống da thú. Mẹ ôm bé Carrie trong tay còn Mary và Laura đứng sát cạnh Mẹ. Mấy mẹ con đứng nhìn người da đỏ kia ôm đống da thú của Bố, không thể làm gì để cản lại. Người đó mang đống da ra khỏi cửa. Rồi người kia nói một điều gì đó. Cả hai phát ra từ trong họng những tiếng kì quặc và người đó liệng hết những tấm da xuống. Cả hai bỏ đi. Mẹ buông người ngồi xuống. Mẹ ghì chặt Mary cùng Laura và Laura cảm thấy rõ nhịp tim đập mạnh của Mẹ. Mẹ cười nói: - Được rồi. Mẹ phải cám ơn họ đã không lấy chiếc cày và những hạt giống. Laura ngạc nhiên. Cô hỏi: - Chiếc cày nào đâu? Mẹ đáp: - Chiếc cày và tất cả những hạt giống cho năm tới của mình là đống da thú đó. Khi Bố trở về, mấy mẹ con kể về những người da đỏ này và Bố tỏ ra bình tĩnh. Bố chỉ nói mọi việc đều đã kết thúc tốt đẹp. Tối đó, khi Mary và Laura vào giường nằm thì Bố lấy cây đàn xuống. Mẹ ôm bé Carrie sát trước ngực, đung đưa chiếc ghế đu và Mẹ bắt đầu hát nho nhỏ theo tiếng đàn: Cô gái da đỏ hoang dại lang thang Với cái tên Alfarata rạng rỡ Trôi về đâu con nước trong xanh đó Những mũi tên cứng và luôn thẳng tắp Nằm sẵn sàng trong túi đựng vẽ đầy hoa Con thuyền nhẹ lướt nhanh như tên bắn Xuôi dòng sông vùn vụt trôi xa “Dũng cảm ơi, chiến sĩ của lòng em Người yêu dấu của Alfarata mãi mãi Lòng tự hào phủ trùm như nắng mới Dọc theo dòng Juniata cuộn sóng mênh mang Dịu ngọt thì thầm chàng nói với em Rồi hét lớn lời hô quyết chiến Giọng chàng nổi sấm rền rung chuyển Và âm vang chân động bốn phương” Lời ca ngân dài giọng người con gái da đỏ Với cái tên Alfarata rạng rỡ Trôi về đâu dòng Juniata thẳm sâu Ngày tháng qua đi như gió thoảng mau Giọng Alfarata vẫn u sầu đọng lại Đọng lại mãi trên con nước trôi mê mải Dòng Juniata xanh ngát thẳm sâu. Giọng Mẹ và tiếng đang nhè nhẹ tan đi. Và Laura lên tiếng: - Giọng Alfarata trôi về đâu, Mẹ? Mẹ kêu lên: - Chúa ơi! Con vẫn chưa ngủ sao? Laura nói: - Con sắp ngủ rồi. Nhưng Mẹ nói cho con biết giọng Alfarata đi về đâu? Mẹ đáp: - Ô, Mẹ nghĩ là cô ấy đi về miền tây. Những người da đỏ đều đi về phía đó. Laura lại hỏi: - Sao họ lại làm như vậy, Mẹ? Sao họ lại đi về miền tây? Mẹ nói: - Tại họ phải làm như vậy. - Tại sao họ phải làm như vậy? Bố chen vào: - Chính phủ buộc họ phải làm thế, Laura. Thôi, ngủ đi. Bố chơi đàn thêm một hồi nữa. Rồi Laura hỏi: - Bố ơi, cho con hỏi thêm một câu nữa nghe? Mẹ nói: - Mẹ cho phép đó. Laura lại lặp lại: - Bố ơi, cho phép con… Bố cắt ngang: - Hỏi cái gì? Không lịch sự chút nào khi ngắt ngang lời một cô gái nhỏ như thế, nhưng đương nhiên Bố có quyền làm. - Chính phủ bắt người da đỏ phải đi hết về miền tây sao? Bố đáp: - Đúng. Khi người da trắng tới một vùng nào thì người da đỏ ở đó phải dời đi. Chính phủ sắp dời những người da đỏ ở đây đi xa hơn nữa về miền tây, bất kì lúc nào kể từ bây gừi. Đó là lý do mình có mặt ở đây, Laura. Người da trắng đang tới định cư tại vùng này và mình sẽ có phần đất tốt nhất do mình đã tới đây trước tiên và cắm sẵn cọc mốc. Bây giờ con hiểu rõ chưa? Laura nói: - Dạ, Bố. Nhưng, Bố này, con nghĩ đây là lãnh thổ của người da đỏ mà. Như thế họ có thể nổi điên lên vì phải… Bố lên tiếng một cách dứt khoát: - Không hỏi thêm nữa, Laura. Ngủ đi! Chương 19: Ông Edwards Gặp Ông Già Noel Ngày ngắn dần lại, lạnh buốt, gió rít gai người, nhưng không có tuyết. Mưa gió dầm dề. Ngày nối ngày, mưa đổ xuống ào ào trên mái và xối xả trên các mái hiên. Mary và Laura ngồi sát bên lò sưởi, khâu vá những tấm bọc chăn chằng chịt hoặc cắt những con búp bê bằng giấy từ những bao giấy có hình và lắng nghe tiếng mưa rơi tầm tã. Cái lạnh mỗi đêm khiến các cô luôn mong sáng sớm hôm sau được thấy tuyết rơi, nhưng vào buổi sáng các cô vẫn chỉ nhìn thấy những đám cỏ ướt đẫm ủ rũ. Các cô dán mũi vào các tấm kính cửa sổ do Bố mới ghép và vui thích vì có thể nhìn thấy bên ngoài. Nhưng các cô vẫn mong được thấy tuyết rơi. Laura lo lắng vì Giáng Sinh đã tới gần và ông già Noel cùng với con tuần lộc có thể không đi được vì không có tuyết. Mary còn sợ là ngay cả khi có tuyết chưa chắc ông già Noel đã tìm ra các cô vì đang ở quá xa trong lãnh thổ của người da đỏ. Khi các cô hỏi Mẹ về điều này Mẹ bảo là chính Mẹ cũng không rõ. Các cô lo lắng hỏi Mẹ: - Hôm nay ngày mấy rồi. Còn mấy ngày nữa sẽ tới Giáng Sinh. Và các cô đếm từng ngày trên các ngón tay cho tới khi chỉ còn một ngày nữa. Sáng hôm đó, mưa vẫn rơi. Bầu trời xám xịt không một kẽ nứt. Các cô gần như chắc chắn không có Giáng Sinh. Nhưng các cô vẫn cố hy vọng. Đúng trước buổi trưa, ánh sáng đổi khác. Những đám mây nứt ra và tan đi, chuyển thành trắng sáng trong bầu trời xanh trong. Nắng chiếu xuống, những con chim cất tiếng hót và hàng ngàn giọt nước lấp lánh trong cỏ. Nhưng khi Mẹ mở cửa để đón làn không khí tươi mát thì các cô nghe rõ tiếng lạch suối đang gào thét. Các cô đã không nghĩ tới lạch suối. Bây giờ các cô thấy là các cô sẽ không có Giáng Sinh vì ông già Noel không thể nào vượt qua nổi lạch suối đang gào thét kia. Bố trở về, mang theo một con gà tây lớn mập căng. Bố nói nếu nó nặng dưới hai pound thì Bố sẽ ăn hết cả lông nó. Bố hỏi Laura: - Bữa ăn Giáng Sinh sẽ như thế nào? Con có nghĩ là con sẽ xoay sở nổi một trong hai cái đùi gà này không? Cô đáp được, cô có thể. Cô tỏ ra điềm đạm. Rồi Mary hỏi Bố liệu lạch suối có hạ thấp không và Bố nói nước vẫn đang dâng lên. Mẹ nói điều đó quá tồi tệ. Mẹ không thích nghĩ tới việc ông Edwards phải thui thủi nấu nướng một mình trong ngày Giáng Sinh. Ông Edwards đã được mời tới dùng bữa Giáng Sinh cùng với họ, nhưng Bố lắc đầu bảo ai cố băng qua lạch suối lúc này đều là mạo hiểm như treo cổ lên. Bố nói: - Không nổi đâu. Nước chảy mạnh lắm. Mình chỉ nên nghĩ là Edwards không thể tới đây cho tới ngày mai. Dĩ nhiên như thế cũng có nghĩa là ông già Noel không thể tới được. Laura và Mary cố không nghĩ nhiều tới việc này. Các cô xem Mẹ vặt lông con gà tây rừng và thấy nó đúng là một con gà tây rất mập. Các cô đã may mắn được sống trong một ngôi nhà ấm áp, được sưởi ấm bên cạnh lò sưởi và có một con gà tây mập như thế để ăn trong bữa ăn Giáng Sinh. Mẹ nói vậy và cũng đúng như vậy. Mẹ bảo thật tệ là năm nay ông già Noel không đến được nhưng ông sẽ không quên những cô gái ngoan như các cô và chắc chắn ông sẽ đến vào năm tới. Dù vậy, các cô vẫn không thấy vui. Sau bữa ăn tối, các cô rửa mặt, rửa tay, cài nút những chiếc áo dài ngủ bằng nỉ đỏ, buộc lại dây mũ và đọc lời cầu nguyện một cách bình tĩnh. Các cô nằm xuống giường và kéo chăn đắp. Dường như trọn vẹn ngày Giáng Sinh chỉ có thế. Bố và Mẹ im lặng ngồi bên lò sưởi. Một lúc sau Mẹ hỏi Bố sao không chơi đàn và Bố đáp: - Giống như anh không còn lòng dạ nào để chơi đàn. Một lúc sau nữa Mẹ đột ngột đứng dậy. Mẹ nói: - Mẹ sẽ đi treo vớ của các con, các con gái. Có thể sẽ có một điều gì xảy ra. Tim Laura đập mạnh. Nhưng lập tức cô lại nghĩ tới lạch suối và cho rằng không thể xảy ra điều gì cả. Mẹ lấy một chiếc vớ dài sạch sẽ của Mary, một chiếc của Laura treo lên giá lò, mỗi chiếc một bên lò sưởi. Laura và Mary ngắm Mẹ qua các mép chăn phủ giường. Mẹ hôn chúc các cô ngủ ngon, nói: - Bây giờ ngủ đi. Buổi sáng sẽ mau tới nếu các con ngủ ngon. Mẹ trở lại ngồi bên lò sưởi và Laura gần như đã ngủ. Cô hơi tỉnh dậy khi nghe Bố nói: - Em chỉ làm một điều không tốt thôi, Caroline. Và cô tưởng như nghe thấy Mẹ nói: - Không đâu, Charles. Có đường trắng mà. Nhưng cũng có lẽ cô đang mơ như thế. Rồi cô nghe Jack gầm gừ một cách dữ dằn. Tiếng then cửa bị lay mạnh và có ai đó kêu: - Ingalls! Ingalls! Bố đang cời lửa lên và khi Bố mở cửa, Laura thấy đã sáng. Ngoài trời xám xịt. Bố kêu lên: - Lưỡi câu vĩ đại, Edwards! Vào đi, ông bạn! Chuyện gì xảy ra vậy? Laura nhìn thấy những chiếc vớ dài đung đưa và cô dụi những con mắt gấp gay vào gối. Cô nghe thấy Bố chất củi vào lò lửa và cô nghe thấy ông Edwards nói ông ấy phải gấp quần áo lên đầu khi bơi qua lạch suối. Răng ông ấy va vào nhau lạch cạch và giọng ông ấy run rẩy. Ông ấy bảo ông ấy sẽ ổn ngay khi được sưởi ấm. Bố nói: - Đúng là mạo hiểm quá sức, Edwards. Tụi này rất mừng thấy anh tới đây, nhưng quả là mạo hiểm cho một bữa ăn Giáng Sinh. Ông Edwards đáp: - Mấy đứa nhỏ phải có một ngày Giáng Sinh chứ. Không một lạch suối nào có thể cản nổi tôi, sau khi tôi đã có cho chúng những món quà đem về từ Independence. Laura bật ngồi dậy trên giường. Cô kêu lớn: - Bác có thấy ông già Noel không? Ông Edwards nói: - Chắc chắn có rồi. Mary và Laura cùng kêu lên: - Ở đâu? Khi nào? Ông ấy như thế nào? Ông ấy có nói gì không? Có thực ông ấy gửi đồ về cho chúng cháu không? Ông Edwards cười lớn: - Chờ, chờ một chút! Và Mẹ nói Mẹ sẽ bỏ đồ chơi vào những chiếc vớ, đúng như ý của ông già Noel. Mẹ nhắc cô không được phép nhìn. Ông Edwards tới ngồi trên nền nhà sát bên giường của hai cô bé và trả lời từng câu hỏi của các cô: các cô cố không nhìn Mẹ và các cô hoàn toàn không thấy Mẹ làm gì. Ông Edwards kể rằng khi thấy nước lạch suối dâng lên, ôn biết ngay là ông già Noel không thể nào băng qua nổi. Laura nói: - Nhưng bác qua được. Ông Edwards đáp: - Đúng. Nhưng ông già Noel quá già và mập nữa. Ông ấy không thể làm nổi điều mà chỉ những người có cái lưng dao cạo dài và chắc nịch như bác mới làm được. Và ông Edwards giải thích việc ông già Noel không thể qua nổi lạch suối cũng như ông không thể đi khỏi Independenca bốn mươi dặm đồng cỏ chỉ với một vòng đi. Dĩ nhiên ông ấy không làm thế được. Cho nên ông Edwards đã đi tới Independence. Mary hỏi: - Giữa lúc trời mưa? Ông Edwards nói ông mặc áo mưa nhựa. Tại đó, khi đang dạo phố ở Independence, ông đã gặp ông già Noel. Laura hỏi: - Ngay giữa ban ngày. Cô không nghĩ là có ai gặp được ông già Noel vào ban ngày. Ông Edwards nói không phải vào ban ngày mà là ban đêm, nhưng có ánh đèn từ các cửa hàng chiếu sáng đường phố. Rồi, điều đầu tiên mà ông già Noel nói là: - Chào anh, Edwards! Mary hỏi: - Ông ấy biết bác không? Laura cũng hỏi: - Làm sao bác biết chắc đó là ông già Noel? Ông Edwards bảo ông già Noel biết hết mọi người. Phần ông thì nhận ra ông già Noel tức khắc nhờ bộ râu của ông ấy. Ông già Noel có bộ râu dài nhất, rậm nhất, trắng nhất trên toàn bộ miền tây sông Mississippi. Vậy là ông già Noel nói: - Tôi biết lúc này anh đang sống ở cuối sông Verdigris. ở dưới đó, anh có gặp hai đứa con gái nhỏ tên là Mary và Laura không? Ông Edwards đáp: - Tôi chắc chắn là có quen với hai cô bé đó. Ông già Noel nói: - Đó là một gánh nặng trong đầu tôi. Cả hai đứa đều là những cô gái dịu dàng, xinh đẹp, ngoan ngoãn và tôi biết chúng đang mong tôi. Tôi rất ghét làm những cô bé ngoan ngoãn như chúng phải thất vọng. Nhưng nước dâng lên cao như vậy khiến tôi không thể nào qua lạch suối nổi. Tôi không còn kiếm nổi cách nào để có mặt tại nhà mấy cô bé đó trong năm nay. Ông ấy nói tiếp: - Edwards, nhờ anh giúp tôi lần này, đem quà cho mấy cô bé được không? Ông Edwards nói: - Làm điều đó thì tôi rất sẵn lòng. Rồi ông già Noel và ông Edwards bước ngang qua phố tới chỗ buộc con la thồ. Laura hỏi: - Ông ấy không có tuần lộc hả? Mary nói: - Em biết là ông ấy không thể có chứ. Trời không có tuyết mà. Ông Edwards nói đúng vậy. Ông già Noel đã cưỡi con la thồ đi về phía tây bắc. Và, ông già Noel đã cởi gói quà, kiếm trong đó lấy ra mấy món quà cho Mary và Laura. Laura kêu lên: - Ô, những món gì vậy? Nhưng Mary hỏi: - Rồi ông ấy làm gì? Rồi ông ấy bắt tay ông Edwards và phóng lên con ngựa màu nâu hồng hoàn hảo của ông ấy. Ông già Noel là một người cưỡi ngựa giỏi so với tầm vóc thân hình và sức nặng của ông ấy, và ông ấy sắp xếp lại bộ râu dài, trắng vào trong chiếc khăn choàng sặc sỡ và nói: - Dài quá, Edwards. Rồi ông thúc ngựa phóng đi trên con đường tới Fort Dodge dắt theo con la thồ và huýt gió. Laura và Mary cùng im lặng một hồi lâu, nghĩ về những điều đó. Rồi Mẹ lên tiếng: - Bây giờ có thể coi được rồi, các con gái. Một vật gì lấp lánh trên chiếc vớ dài của Laura. Cô hét lên, lao xuống giường. Mary cũng nhào theo nhưng Laura đã tới lò sưởi trước. Vật sáng lấp lánh kia là một chiếc ly nhôm mới đang loé chiếu. Mary cũng có một chiếc giống hệt. Những chiếc ly mới này là những chiếc ly riêng của các cô. Bây giờ mỗi cô đã có một chiếc ly để uống nước. Laura nhảy tưng tưng, la hét và cười nhưng Mary im lặng ngắm chiếc ly riêng của mình bằng đôi mắt sáng rỡ. Rồi các cô lại thọc sâu tay vào trong những chiếc vớ, lôi ra được hai thỏi kẹo dài, thật dài. Đó là thỏi kẹo bạc hà với những sọc kẻ trắng và đỏ. Các cô ngắm đi, ngắm lại thỏi kẹo xinh xắn và Laura khẽ liếm thỏi kẹo của mình. Mary thì không ăn như thế. Cô không liếm thỏi kẹo dù chỉ một lần. Những chiếc vớ vẫn chưa rỗng. Mary và Laura lôi thêm ra hai gói nhỏ. Các cô mở gói và thấy trong mỗi gói là một chiếc bánh ngọt nhỏ hình trái tim. Phủ trên màu nâu hấp dẫn của hai chiếc bánh là một lớp đường trắng rải rác. Những hạt đường giống như những bụi tuyết li ti. Ăn những chiếc bánh xinh đẹp như thế thì thật uổng. Mary và Laura chỉ ngắm hai chiếc bánh. Nhưng cuối cùng Laura lật ngược chiếc bánh của cô lên và cô nhấm một miếng nhỏ ở phía dưới vào chỗ không nhô ra. Và phía trong chiếc bánh lộ ra một màu trắng. Bánh được làm hoàn toàn bằng bột trắng tinh khiết ngào với đường trắng. Laura và Mary không nhìn lại thêm vào những chiếc vớ. Những chiếc ly, những chiếc bánh và các cây kẹo hầu như đã là quá nhiều. Các cô sung sướng tới mức không thể nói được. Nhưng Mẹ nhắc là hình như những chiếc vớ chưa rỗng hẳn. Các cô liền thọc bàn tay sâu vào trong để lục soát. Và, ở tận cùng mỗi chiếc vớ là một đồng xu mới, chiếu sáng lấp lánh. Không bao giờ các cô dám nghĩ sẽ có được một đồng xu như thế. Có được một đồng xu trọn vẹn cho riêng mình. Có được một chiếc ly, một chiếc bánh ngọt, rồi một cây kẹo và cả một đồng xu. Chưa từng có một ngày Giáng Sinh như thế này. Lúc này, dĩ nhiên Laura và Mary phải lập tức cảm ơn ông Edwards đã mang những quà tặng đáng yêu đó từ mãi Independence về. Nhưng các cô đã quên khuấy mất mọi điều về ông Edwards. Các cô quên ngay cả ông già Noel. Chắn chắn một phút sau các cô sẽ nhớ lại, nhưng trước khi các cô kịp nhớ, Mẹ đã nhắc nhở nhẹ: - Các con cảm ơn ông Edwards chưa? - Ô, cảm ơn bác, bác Edwards! Cảm ơn bác! Hai cô cùng nói và với trọn vẹn chân tình. Bố cũng xiết bàn tay ông Edwards, lắc, rồi lắc nữa. Bố, Mẹ và ông Edwards cử động giống như cả ba đều đang muốn khóc khiến Laura không hiểu sao. Thế là cô lại ngắm những quà tặng xinh đẹp của mình. Cô ngẩng lên nhìn khi Mẹ thổn thức. Và ông Edwards lấy ra những củ khoai lang từ trong túi. Ông bảo những củ khoai đã giúp ông giữ được thăng bằng từ gói đồ đội trên đầu vào lúc ông bơi qua lạch suối. Ông nghĩ là Bố và Mẹ có thể thích những củ khoai này để nấu cùng với món gà tây Giáng Sinh. Có tới chín củ khoai lang. Ông Edwards cũng mang chúng mãi tận thành phố về. Thật là quá nhiều. Bố nói thế. Bố nói: - Nhiều quá, Edwards. Không bao giờ họ có thể cảm ơn đủ đối với ông. Mary và Laura cũng rất nôn nao với bữa điểm tâm buổi sáng. Các cô uống sữa với những chiếc ly mới sáng bóng nhưng không thể nuốt nổi món thỏ hầm và xúp bắp. Mẹ nói: - Đừng cho các con ăn nữa, Charles. Sắp tới giờ dùng bữa chính rồi. Bữa ăn Giáng Sinh có món gà tây quay mềm ngọt, béo ngậy. Cũng có món khoai lang nùi tro và cạo sạch kỹ lưỡng tới độ có thể ăn luôn cả vỏ. Còn có thêm một ổ bánh mì mặn được làm bằng số bột trắng cuối cùng. Sau hết là những trái mâm xôi ủ khô và những chiếc bánh ngọt nhỏ. Nhưng những chiếc bánh ngọt nhỏ được làm bằng đường nâu và không có đường trắng rắc phỉ phía trên. Rồi Bố, Mẹ và ông Edwards ngồi bên lò sưởi nói về những ngày Giáng Sinh đã qua ở Tennessee và ở Big Woods mãi phía bắc. Mary và Laura thì ngắm những chiếc bánh ngọt của mình, chơi với các đồng xu và uống nước bằng những chiếc ly mới. Và từng chút, từng chút, các cô mút những thỏi kẹo khiến mỗi thỏi kẹo đều có một đầu nhọn hoắt. Đó là một ngày Giáng Sinh hạnh phúc. Chương 20: Tiếng Hét Trong Đêm Lúc này, ngày ngắn và xám xịt, còn đêm thì tối đen, lạnh buốt. Những đám mây hạ xuống sát trên ngôi nhà nhỏ và xà thấp trên khắp đồng cỏ trống hoang. Mưa rơi và đôi lúc tuyết bay trong gió. Những nắm tuyết nhỏ cứng ngắc rít lên giữa khoảng không và phóng vùn vụt trên những cọng cỏ tội nghiệp ủ rũ. Và bữa sau, tuyết tan. Mỗi ngày, Bố đều đi săn và đặt bẫy. Trong ngôi nhà nhỏ gọn gàng, ấm áp, Mary và Laura giúp Mẹ làm mọi việc. Rồi các cô khâu những tấm chăn. Các cô bày trò làm bánh với bé Carrie rồi chơi trò dấu khâu. Với một khúc cây và những ngón tay, các cô chơi trò nôi mèo. Rồi các cô chơi trò cháo đậu nóng. Đối mặt nhau, các cô vỗ tay và vỗ vào tay người kia giữ nhịp trong lúc nói: Cháo đậu nóng Cháo đậu nguội Cháo đậu trong bình Chín ngày rồi Có người thích cháo đậu nóng Có người thích cháo đậu nguội Chín ngày rồi Em thích cháo đậu nóng Em thích cháo đậu nguội Em thích cháo đậu trong bình Chín ngày rồi Đúng là thế. Không bữa ăn nào ngon bằng những bữa cháo đậu đặc sệt thơm phức kèm thêm một khoanh thịt heo ướp muối mà Mẹ trút lên những chiếc dĩa nhôm mỗi khi Bố trở về nhà lạnh cóng và mệt ngoài sau một chuyến săn bắn. Laura thích cháo đậu nóng, thích cả cháo nguội và cháo càng để lâu càng tốt. Nhưng trên thực tế cháo không bao giờ để lâu tới chín ngày. Họ đã ăn hết từ trước thời hạn đó. Suốt thời gian đó, gió tiếp tục kêu than, gào hú, rên rỉ, la hét và nỉ non rầu rĩ. Các cô luôn nghe tiếng gió. Trọn ngày các cô nghe gió thổi và về đêm trong giấc ngủ, các cô cũng biết gió đang thổi. Nhưng một đêm, một tiếng hét khủng khiếp khiến cả nhà choàng dậy. Bố nhào vội khỏi giường và Mẹ nói: - Charles! Cái gì vậy? - Tiếng một phụ nữ hét. Bố thay quần áo thật nhanh, nói tiếp: - Dường như từ phía nhà Scott. Mẹ kêu lên: - Ồ, có thể không phải đâu! Bố xỏ chân vào giầy. Bố đưa một bàn chân vào trong giầy và đặt mấy ngón tay trên vành da cáo của chiếc giầy ống. Rồi Bố lôi mạnh và đập đập chân trên nền nhà và thế là đã xong một chân. Trong lúc xỏ chân vào chiếc giầy kia. Bố nói: - Có thể Scott bị bệnh. Mẹ hỏi thấp giọng: - Anh không nghĩ là…? Bố nói: - Không. Anh đã nói với em là họ không gây một xáo trộn nào. Họ hoàn toàn bình thản và hiền hoà trong những khu trại của họ giữa các vách đất. Laura nhớm bước ra giường, nhưng Mẹ nói: - Nằm xuống và ở yên đó, Laura. Thế là cô bé nằm xuống. Bố choàng chiếc áo ấm có sọc vuông màu sáng, đội chiếc mũ da và quấn khăn choàng cổ. Bố thắp ngọn đèn, cầm súng, vội vã bước ra. Trước khi Bố đóng cửa lại, Laura thấy rõ phía ngoài trời đêm đen kịt. Không một ngôi sao le lói. Laura chưa từng thấy màn đêm dày đặc như thế. Cô gọi: - Mẹ? - Gì thế, Laura? - Sao tối quá vậy? Mẹ đáp: - Đang có bão mà. Mẹ kéo then cửa vào trong và đặt một thanh củi vào lò sưởi. Rồi Mẹ trở lại giường, nói: - Mary, Laura, ngủ đi. Nhưng Mẹ không đi ngủ và cả Mary lẫn Laura cũng vậy. Các cô nằm tỉnh dụi và lắng nghe. Không có gì khác ngoài tiếng gió. Mary chúi đầu dưới chăn thì thào với Laura: - Chỉ mong Bố quay về. Laura gật gật đầu trên gối nhưng không thể nói nổi điều gì. Cô tưởng như nhìn thấy Bố đang xải bước dọc theo đỉnh vách đất trên con đường mòn dẫn tới nhà ông Scott. Đốm sáng nhỏ xíu của cây nến dọi qua những lỗ cát trên chiếc đèn thiếc chiếu thấp thoáng đó đây. Những tia sáng nhỏ rung rinh hình như tan biến trong bóng tối đen đặc. Một hồi lâu sau, Laura thì thào: - Chắc gần sáng rồi! Và Mary gật đầu. Suốt thời gian đó, các cô nằm lắng nghe tiếng gió và Bố không quay về. Rồi, vượt lên khỏi tiếng rên than của gió, các cô lại nghe thấy tiếng thét khủng khiếp kia. Tiếng thét giống như gần sát ngôi nhà. Laura cũng thét lên và nhảy khỏi giường. Mary chui vào trong chăn. Mẹ đứng dậy và vội vã mặc áo. Mẹ đặt thêm một thanh củi vào lò sưởi và nhắc Laura trở lại giường. Nhưng Laura cố nài nỉ Mẹ cho cô ngồi lại. Mẹ nói: - Quấn người vào trong khăn choàng đi. Hai mẹ con ngồi bên lò sưởi lắng nghe. Lại không thấy gì khác, ngoài tiếng gió. Hai mẹ con không biết làm gì. Nhưng ít nhất thì cả hai đang không nằm trên giường. Đột nhiên có tiếng nắm tay đấm trên cánh cửa và Bố kêu: - Cho anh vào! Mau, Caroline! Mẹ mở cửa và Bố đóng sập lại thật nhanh. Bố như hụt hơi. Đẩy chiếc mũ ra sau gáy, Bố nói: - Hà! Anh còn chưa hết kinh hoàng. Mẹ hỏi: - Gì vậy, Charles! Bố nói: - Một con báo. Bố đi hết sức nhanh tới nhà ông Scott. Khi Bố tới nơi, ngôi nhà tối om và xung quanh rất yên tĩnh. Bố đi vòng quanh nhà, lắng nghe và quan sát với ánh đèn. Bố không tìm thấy một dấu vết bất thường nào. Bố cảm thấy mình thật điên rồ đã chồm dậy thay quần áo và đi bộ suốt hai dặm vào lúc nửa đêm chỉ vì nghe thấy một tiếng gió hú. Bố không muốn ông bà Scott biết điều này. Vì vậy Bố không đánh thức họ. Bố trở về cực nhanh vì gió lạnh như cắt. Và Bố đang vội vã đi dọc con đường mòn trên bờ vách đất thì đột ngột nghe thấy tiếng thét kia ngay ở dưới chân. Bố nói với Laura: - Tóc Bố dựng lên tới độ đẩy bật chiếc mũ. Bố phóng về nhà như một con thỏ đang kinh hãi. Cô bé hỏi: - Con báo ở đâu, Bố? Bố nói: - Trên ngọn cây. Trên ngọn cây bông gòn lớn mọc dựa vào các bờ vách ở đó. Laura hỏi: - Bố, nó có đuổi theo Bố không? Bố nói: - Bố không biết, Laura. Mẹ lên tiếng: - Tốt rồi, anh đã an toàn, Charles. Bố nói: - Ừ, anh rất mừng. Một đêm đen đặc như thế này mà ra ngoài với lũ báo. Thôi, Laura, đồ tháo giầy của Bố đâu? Laura mang lại cho Bố. Đồ tháo giầy là một miếng ván xồi mỏng một đầu cắt khía và ở giữa có một chiếc nệm đóng ngang. Laura đặt úp mặt có chiếc nệm xuống nền nhà để chiếc nệm nâng đầu ván có khía lên. Bố đạp một chân lên tấm ván, đặt chân kia vào khía cắt và khía cắt giữ chặt gót giầu trong lúc Bố kéo chân lên. Rồi Bố tháo chân giầy kia cũng theo cách đó. Đôi giầy bám rất chắc nhưng vẫn rời khỏi chân. Laura ngắm Bố tháo giầy, rồi cô hỏi: - Con báo có bắt một cô bé không, Bố? - Có chứ. Bố tiếp: - Nó còn giết và ăn thịt cô bé nữa. Con và Mary phải ngồi trong nhà cho tới khi Bố bắn được con báo đó. Ngay khi trời sáng, Bố sẽ đem súng đi lùng kiếm nó. Suốt ngày hôm sau Bố đi săn báo. Và Bố đi săn tiếp ngày kế tiếp rồi ngày kế tiếp nữa. Bố đã thấy dấu vết của con báo, thấy da và xương của một con linh dương bị con báo ăn thịt nhưng không thấy con báo đâu. Loài báo di chuyển rất nhanh trên cây và rất ít lưu dấu vết lại. Bố nói Bố không ngừng tìm cho tới khi giết được con báo đó. Bố nói: - Mình không thể để lũ báo chạy quẩn quanh trong một vùng có những cô bé. Nhưng Bố không giết được con báo đó và Bố đã ngưng săn lùng nó. Một hôm Bố gặp một người da đỏ ở trong rừng. Họ đứng nhìn nhau trong rừng cây ướt át, giá lạnh không thể trò chuyện vì không hiểu tiếng nói của nhau. Nhưng người da đỏ chỉ dấu vết của con báo và phác hoạ cử chỉ với cây súng của ông ta cho Bố hiểu ông ta đã giết chết con báo. Ông ta chỉ một ngọn cây rồi chỉ xuống đất ý nói ông ta đã bắn con báo rơi khỏi ngọn cây. Và ông ta chỉ lên trời, về phía tây và phía đông để nói ông ta đã giết nó một ngày trước đó. Thế là mọi chuyện đã ổn. Con báo không còn nữa. Laura hỏi liệu con báo có bắt một em bé da đỏ rồi giết và ăn thịt không thì Bố đáp là có. Có thể đó là lý do khiến người da đỏ đã giết con báo đó. Chương 21: Hội Liên Hoan Da Đỏ Cuối cùng mùa đông đã qua. Tiếng gió dịu hẳn và cái lạnh cắt da không còn nữa. Một bữa Bố nói đã thấy một đàn ngỗng trời đang bay về phía bắc. Đó là thời điểm mang những tấm da thú tới Independence. Mẹ băn khoăn: - Người da đỏ đang ở gần lắm. Bố nói: - Họ rất thân thiện mà. Khi đi săn, Bố thường gặp người da đỏ ở trong rừng. Họ không làm điều gì đáng sợ cả. Mẹ nói: - Dạ. Nhưng Laura hiểu rằng Mẹ rất sợ người da đỏ. Mẹ nói: - Anh nên đi, Charles ạ! Mình cần có cày và hạt giống và anh sẽ trở về ngay mà. Trước rạng sáng ngày hôm sau, Bố cột Pet và Patty vào xe, chất da lên thùng xe và lái xe đi. Laura và Mary đếm từng ngày dài trống vắng. Một, hai, ba, bốn và Bố vẫn không về. Sáng ngày thứ năm, mấy mẹ con thức sớm ngóng Bố. Đó là một ngày nắng. Trong gió còn phảng phất hơi lạnh, nhưng đã thấy rõ hương vị mùa xuân. Bầu trời rộng vang dội tiếng vịt trời quang quác và những tiếng hoong-hoong-hoong của đám ngỗng trời. Chúng xếp thành những hàng dài chấm đen và tất cả đều đang bay về hướng bắc. Laura và Mary chơi ở ngoài trời trong thời tiết hoang sơ êm dịu. Và Jack tội nghiệp nằm ngắm các cô, thở dài. Nó không thể lăng xăng đùa giỡn vì bị xích. Laura và Mary cố an ủi nó nhưng nó tỏ ra không muốn nhận sự cưng chiều. Nó chỉ muốn được tự do như nó thường có. Buổi sáng Bố không về, buổi chiều cũng không. Mẹ nói chắc việc buôn bán đã mất nhiều thời gian. Chiều hôm đó, Laura và Mary chơi trò nhảy lò cò. Các cô lấy gậy vạch nhiều đường kẻ trên khoảng sân lầy bùn. Mary thực sự không muốn chơi, cô đã gần tám tuổi và không thấy nhảy lò cò là trò chơi thích hợp với con gái. Nhưng Laura cứ quấy rầy và dụ ngọt rằng nếu chơi ở ngoài trời thì chắc chắn nhìn thấy Bố ngay phút đầu Bố lên khỏi con đường từ lạch suối. Vậy là Mary đang nhảy. Đột nhiên, cô ngưng lại đứng trên một chân, hỏi: - Cái gì thế? Laura đã phát hiện tiếng động kỳ lạ và đang lắng nghe. Cô nói: - Người da đỏ đó. Mary buông chân kia xuống và đứng như bị đông cứng. Cô kinh hoàng. Laura không kinh hoàng mà có một cảm giác lạ lùng. Đó đúng là tiếng động do rất đông người da đỏ đang phát âm. Nó giống như tiếng một lưỡi rìu chặt xuống, giống như tiếng chó sủa và cũng giống như một bài hát, một bài hát không giống bất kì bài hát nào mà Laura từng được nghe. Đó là một âm thanh man rợ, dữ dằn nhưng không có vẻ thù hận. Laura cố nghe cho rõ hơn. Nhưng cô không nghe rõ nổi, vì những quả đồi, những lùm cây và gió cản trở rồi lại thêm Jack đang gầm gừ điên loạn. Mẹ bước ra lắng nghe một lát. Rồi Mẹ bảo Mary và Laura vào nhà. Mẹ cũng đem Jack vào nhà và kéo then cửa vào trong. Các cô không chơi đùa nữa, nhìn qua cửa sổ và lắng nghe âm thanh kia. ở trong nhà càng khó nghe hơn. Đôi lúc không nghe thấy gì, rồi lại nghe thấy. m thanh không ngừng hẳn. Mẹ và Laura làm các công việc trong nhà sớm hơn thường lệ. Hai mẹ con nhốt Bunny cùng con bò cái, con bê cái vào trong chuồng và đem sữa vào nhà. Mẹ lọc sữa rồi dấu kín. Trong lúc Laura và Mary khuân củi, Mẹ đi kéo một khạp nước giếng. Suốt thời gian đó, âm thanh kia vẫn tiếp tục và lúc này trở nên lớn hơn, nhanh hơn. Nó khiến nhịp tim Laura đập nhanh theo. Mấy mẹ con vào trong nhà và Mẹ chốt cửa lại. Then cài cửa đã nằm bên trong. Mọi người sẽ không ra khỏi nhà cho tới sáng. Mặt trời từ từ chìm xuống. Đường chân trời viền quanh đồng cỏ ửng một màu hồng tím. Ánh lửa chập chờn trong ngôi nhà mờ tối. Mẹ lo nấu nướng còn Mary và Laura lặng lẽ nhìn qua cửa sổ. Các cô thấy mọi vật mờ dần. Mặt đất sẫm tối và bầu trời nhuộm màu xám nhạt. Giữa lúc đó, tiếng động lại vang lên từ phía trũng lạch suối, càng lúc càng lớn hơn, càng lúc càng nhanh hơn. Và tim Laura cũng đập mạnh hơn, nhanh hơn. Cô không kìm nổi kêu lớn lên khi nghe rõ tiếng bánh xe. Cô lao tới trước khung cửa, nhảy nhót loạn xạ nhưng không dám kéo then cửa. Mẹ không cho cô bước ra. Mẹ ra ngoài giúp Bố mang các gói đồ vào. Rồi Bố bước vào hai tay khệ nệ và Laura cùng Mary đeo cứng hai bên, nhảy nhót. Bố cười lớn sảng khoái: - Ấy, ấy! Đừng xô Bố ngã! Các con nghĩ Bố làm gì? Bị cho leo cây hả? Bố trút các gói lên bàn, ôm Laura trong vòng tay rồi xô ra rồi lại xiết chặt. Rồi Bố vòng cánh tay kia ôm xiết Mary. Laura nói: - Bố, nghe này. Nghe những người da đỏ. Tại sao họ ồn ào kì quái vậy? Bố nói: - Ồ, họ đang có một buổi hội hè. Bố đã nghe thấy lúc Bố đi qua vùng trũng lạch. Rồi Bố ra ngoài tháo ngựa vào mang vào những gói đồ còn sót lại. Bố mang chiếc cày mới mua vào chuồng ngựa nhưng mang hết các loại hạt giống cây vào trong nhà cho chắc ăn. Bố mua đường nhưng lần này không phải đường trắng mà chỉ có đường nâu. Đường trắng mắc quá. Bố cũng mang về một ít bột trắng. Còn có bột bắp, muối, cà phê và đủ thứ hạt giống cần thiết. Có thêm cả khoai tây giống. Laura ước được ăn khoai tây, nhưng họ phải giữ lại để trồng. Gương mặt Bố rạng rỡ, khi Bố mở một túi giấy nhỏ. Trong túi đầy ắp bánh mặn. Bố đặt bịch bánh trên bàn, mở tiếp và đặt bên cạnh một keo thuỷ tinh đầy những trái dưa leo xanh ngâm giấm. Bố nói: - Anh nghĩ là cả nhà phải được đãi một bữa. Laura ứa nước miếng và mắt Mẹ sáng lên nhìn Bố âu yếm. Bố đã nhớ từ lâu Mẹ luôn ao ước có những trái dưa leo ngâm giấm. Không phải chỉ có thế. Bố đưa cho Mẹ một chiếc gói và ngắm Mẹ mở ra. Trong đó có một xấp vải lụa hoa khá đẹp để Mẹ may áo. Mẹ nói: - Ồ, Charles, anh không nên! Thế này thật quá đáng! Nhưng cả Mẹ lẫn Bố đều rạng rỡ thích thú. Lúc này Bố treo mũ lên và mắc chiếc áo choàng kẻ sọc vào móc. Mắt Bố liếc xéo về Mary và Laura, nhưng chỉ có vậy. Mary cũng ngồi xuống, khoanh hai bàn tay trước bụng. Nhưng Laura nhảy lên đầu gối Bố nắm tay đấm lia lịa. Cô kêu lên trong lúc đấm: - Đâu rồi? Đâu rồi? Quà của con đâu? Bố cười lớn không khác tiếng chuông, nói: - Sao thế, có lẽ trong túi áo Bố còn có một thứ gì đó. Bố lấy ra một gói có hình thù kỳ quặc và hết sức chậm rãi mở ra. Bố nói: - Phần con trước, Mary, vì con rất kiên nhẫn. Và Bố đưa cho Mary một chiếc lược cài tóc. Rồi Bố nói với Laura: - Còn đây, con chim lật đật! Đây là của con. Những chiếc lược cài y hệt nhau. Cả hai đều làm bằng nhựa màu đen và uốn cong khít với khuôn đầu một cô gái nhỏ. Trên sóng lược gắn một lớp nhựa đen mỏng có những đường khắc và ở chính giữa khắc hình một ngôi sao năm cánh. Một dải bằng màu gắn ở phía dưới với lớp màu nổi bật. Dải bằng trên chiếc lược cài của Mary màu xanh lơ còn của Laura màu đỏ tươi. Mẹ chải mượt tóc cho các cô để cài lược và trên mái tóc vàng óng của Mary, nổi bật ở chính giữa đỉnh trán là ngôi sao màu xanh lơ. Còn trên mái tóc nâu của Laura, ngay chính giữa đỉnh trán là ngôi sao màu đỏ tươi. Laura ngắm ngôi sao của Mary và Mary ngắm ngôi sao của Laura rồi cả hai cùng cười sung sướng. Các cô chưa bao giờ có một món đồ đẹp như thế. Mẹ nói: - Charles! Vậy là anh không mua cho anh thứ gì cả. Bố nói: - Ồ, anh đã mua cho anh một chiếc cày. Không bao lâu nữa ở đây sẽ ấm áp và anh sẽ cày đất. Đó là một bữa ăn hạnh phúc mà đã lâu cả nhà mới có. Bố đã về nhà yên ổn. Món thịt heo ướp muối nướng thật tuyệt vời sau nhiều tháng chỉ ăn thú rừng, hết vịt tới ngỗng, gà tây rồi hươu nai. Và không thứ gì sánh nổi với món bánh mặn ăn cùng những trái dưa leo nhỏ ngâm giấm chua. Bố nói với cả nhà về các hạt giống. Bố đem về hạt giống củ cải, cà-rốt, hành, cải bắp. Bố còn có giống đậu hà lan, đậu xanh, lúa mì, bắp, thuốc lá và cả khoai tây giống nữa. Lại còn thêm giống dưa hấu. Bố nói với Mẹ: - Như anh đã nói, Caroline. Khi mình bắt đầu thu hoạch trên mảnh đất màu mỡ này, mình sẽ sống như những ông vua. Cả nhà gần như đã quên hẳn tiếng ồn ào từ trại của người da đỏ. Lúc này, những cánh cửa sổ đóng kín và gió rên rỉ trong ống khói, than van xung quanh ngôi nhà. Mọi người đã quen với tiếng gió tới mức không nghe thấy nó nữa. Nhưng mỗi khi gió ngưng thổi, Laura lại nghe dội lên dồn dập âm thanh lanh lảnh man rợ từ trại người da đỏ. Rồi Bố nói một điều gì đó với Mẹ khiến Laura ngồi im cố lắng nghe. Bố kể là dân chúng ở Independence nói rằng chính phủ sẽ chuyển những người định cư da trắng ra khỏi lãnh thổ của người da đỏ. Bố bảo là những người da đỏ đang kêu ca và họ đã nhận được câu trả lời từ Washington. Mẹ nói: - Ồ, Charles, không đâu! Không thể như thế khi mình đã tốn nhiều công lao thế này! Bố nói Bố không tin có chuyện đó. Bố nói: - Chính phủ vẫn luôn dùng những người định cư để giữ đất. Họ sẽ lại chuyển người da đỏ đi. Anh chẳng đã từng nghe nói thẳng từ Washington rằng vùng này sẽ được mở mang cho dân định cư vào bất kỳ lúc nào? Mẹ nói: - Em mong họ sẽ giải quyết vấn đề và không bàn thảo thêm nữa. Sau khi lên giường, Laura nằm thức khá lâu và Mary cũng thế. Bố và Mẹ ngồi bên ánh lửa và đốt thêm nến để đọc báo. Bố mang một tờ báo từ Kansas về và đọc cho Mẹ nghe. Tin trên báo chứng tỏ Bố có lý, chính phủ không có một quyết định gì đối với những người định cư da trắng. Mỗi khi tắt tiếng gió, Laura lại nghe văng vẳng tiếng động của buổi hội hè man rợ nơi trại của người da đỏ. Đôi lúc, cô ngỡ còn nghe rõ những tiếng hét cuồng nhiệt dữ dằn vươn lên khỏi tiếng gió đang gào hú. Chúng khiến tim cô đập nhanh hơn, nhanh hơn, nhanh hơn nữa. - Hi! Hi! Hi-di! Ha! Hi! Ha! Chương 22: Đám Cháy Trên Đồng Cỏ Mùa xuân đã tới. Những đợt gió ấm áp đượm đầy hương vị quyến rũ và không gian mở rộng trong lành thoáng đãng. Những cồn mây trắng khổng lồ trôi trên bầu trời thăm thẳm in bóng trên đồng cỏ. Những chiếc bóng nhẹ nhàng màu xám rải rác khắp đồng cỏ đầy màu cỏ úa khô vàng nhạt. Bố buộc Pet và Patty vào chiếc càu và đang cày đất trên đồng cỏ. Đất dẻo quánh bám dày rễ cỏ. Pet và Patty ráng sức kéo và chiếc lưỡi cày nhọn sắc chậm chạp lật thành những luống đất dài. Cỏ khô dày chằng chịt phủ kín hết mặt đất. Ngay nơi Bố cày xong vẫn như còn chưa cày. Những luống dài rễ cỏ úp trên ngọn cỏ và những cọng cỏ từ bên trong thò ra. Nhưng Bố cùng Pet và Patty tiếp tục làm việc. Bố nói năm nay khoai tây và bắp sẽ lớn lên và năm tới rễ cỏ sẽ vữa chết dần. Chỉ trong hai hoặc ba năm, Bố sẽ có những thửa ruộng cày màu mỡ. Bố thích đất ở đây do nó màu mỡ và không có cây lớn, không có cả một gốc cây hoặc một tảng đá chen lẫn. Lúc này rất nhiều người da đỏ cưỡi ngựa kéo đến theo con đường mòn da đỏ. Nơi đâu cũng thấy người da đỏ. Tiếng súng nổ rền dưới vùng trũng lạch suối do họ đang săn bắn. Không ai biết nổi có bao nhiêu người da đỏ ẩn khuất trên đồng cỏ giống như bằng phẳng mà không phải bằng phẳng. Thường thường Laura bỗng thấy một người da đỏ hiện ra ngay nơi mà trước đó chỉ một tích tắc không thấy có bóng người. Những người da đỏ luôn luôn kéo đến ngôi nha. Một số tỏ ra thân thiện, một số gắt gỏng, khó chịu. Tất cả đều muốn có thức ăn, thuốc hút và Mẹ phải chiều theo họ. Mẹ sợ làm trái ý họ. Khi một người da đỏ chỉ vào thứ gì và í ố trong họng là Mẹ đưa ngay thứ đó. Nhưng phần lớn thức ăn đã được cất dấu và khoá kĩ. Jack bực bội suốt buổi, kể cả với Laura. Nó không bao giờ được rời chiếc xích và phải nằm chịu trận để căm ghét những người da đỏ. Lúc này, Laura và Mary đã hoàn toàn quen với việc thấy người da đỏ. Họ không còn khiến các cô kinh ngạc chút nào. Nhưng các cô vẫn luôn cảm thấy an toàn khi ở gần Bố hoặc Jack. Một bữa các cô đang lo giúp Mẹ nấu nướng. Bé Carrie đang chơi trong ánh nắng trên nền nhà thì bỗng nhiên ánh nắng vụt tắt. Mẹ nói trong lúc nhìn qua khuôn cửa sổ: - Mẹ nghĩ là sắp có bão. Laura cũng nhìn và thấy những cụm mây đen lớn cuồn cuộn dâng lên ở phía nam chắn ngang mặt trời. Pet và Patty đang từ ngoài đồng chạy về và có Bố đẩy chiếc cày nặng chạy theo với những bước chạy dài. Bố la lớn: - Đồng cỏ bị cháy! Đổ đầy nước vào khạp! Ngâm hết bao bố vào đó! Mau lên! Mẹ chạy ra giếng, Laura kéo chiếc khạp chạy theo sau. Bố cột ngựa vào nhà, tới cởi dây đưa con bò cái và con bê vào chuồng. Bố dắt Bunny tới cột thật nhanh vào góc nhà phía bắc. Mẹ đang ráng hết sức kéo thật nhanh các thùng chứa nước. Laura chạy lượm những bao bố mà Bố liệng ra khỏi chuồng ngựa. Bố lại đang cày, la hét thúc Pet và Patty kéo mau hơn. Lúc này cả bầu trời đen lại, không gian tối sầm tựa hồ mặt trời đã lặn. Bố cày một đường dài bọc phía tây và phía nam ngôi nhà rồi cày thêm một đường phía đông. Những con thỏ phóng qua tựa hồ như không có Bố ở đó. Pet và Patty xoải vó chồm tới với chiếc cày và Bố lao nhảy ở phía sau. Bố cột chúng vào góc nhà khác ở phía bắc. Khạp đã đầy nước. Laura giúp Mẹ nhồi những chiếc bao bố cho thấm nước. Bố nói: - Anh chỉ có thể cày nổi một luống thôi. Hết thời gian rồi. Mau lên, Caroline. Đám cháy này tới mau hơn cả ngựa chạy. Một con thỏ lớn phóng qua khạp nước trong lúc Bố và Mẹ đang nhấc lên. Mẹ nhắc Laura đứng ở trong nhà. Bố và Mẹ lảo đảo chạy tới luống cày cùng với khạp nước. Laura đứng sát ngôi nhà. Cô có thể thấy những lưỡi lửa đỏ dưới các cột khói. Thêm nhiều con thỏ khác phóng qua. Chúng không thèm để ý tới Jack mà Jack cũng không nghĩ về chúng. Nó ngắm những mép đỏ rực của các cột khói đang cuốn tới, run rẩy rít lên trong lúc nhích sát lại bên Laura. Gió bốc cao, gào thét man rợ. Hàng ngàn con chim bay trước đám cháy, hàng ngàn con thỏ phóng chạy. Bố đang đi dọc luống cày châm lửa vào đám cỏ ở mé ngoài. Mẹ theo sau với một chiếc bao bố ướt. Tàn lửa bay hỗn loạn rớt trên những khóm cỏ khô phía trong luống cày. Bố và Mẹ dập bằng những bao bố ướt và khi lửa lan qua luống cày, họ dập tắt bằng chính bàn chân. Họ chạy tới lui trong khói đen, chống chọi với ngọn lửa. Lửa gào thét khắp đồng cỏ, càng lúc càng gào thét lớn hơn trong tiếng gió gầm. Vừa gào hú, những lưỡi lửa khổng lồ vừa loé sáng xoắn cao. Những lưỡi lửa xoắn bị bẻ gãy và lan theo gió loang xe trên cỏ mở đường cho bức tường lửa đang gào hú. Ánh sáng rực đỏ phát ra từ những cuộn mây khói đen ngòm. Mary và Laura đứng tựa vào vách nhà, nắm chặt bàn tay, run rẩy. Bé Carrie ở trong nhà. Laura muốn làm một điều gì đó nhưng trong đầu cô vang lên tiếng gào hú rú rít như đám cháy. Toàn thân cô chao động và nước mắt trào ra từ đôi mắt cay xè. Mắt, mũi, họng cô đều đau nhức vì nghẹt khói. Jack hú lớn. Bunny, Pet và Patty giằng giựt những sợi dây hí lên kinh hoàng. Những lưỡi lửa vàng cam khủng khiếp lan tới nhanh hơn ngựa chạy và ánh sáng quẫy lộn nhảy múa trên mọi thứ. Đám cháy nhỏ của Bố đã thiêu rụi thành một vệt dài đen. Ngọn lửa nhỏ lan xa chậm chậm ngược chiều gió. Nó trườn lên từ từ gặp đám cháy lớn cuồng nộ đang ào tới. Và đột nhiên, đám cháy lớn nuốt chửng đám cháy nhỏ. Gió bốc cao trong tiếng rú hét tràn ngập và những lưỡi lửa chồm lên bầu không khí đang rạn vỡ. Đám cháy đã bọc quanh khắp ngôi nhà. Rồi nó đi qua. Đám cháy tiếp tục gào hú vượt lên xa dần. Bố và Mẹ tiếp tục dập những ngọn lửa nhỏ rải rác trong sân. Khi lửa được dập tắt hẳn. Mẹ vào nhà rửa mặt mũi tay chân. Mẹ lem luốc bụi khói với mồ hôi và Mẹ vẫn còn run. Mẹ bảo không có gì đáng sợ hơn. Mẹ nói: - Ngọn lửa cháy lui đã cứu chúng ta, và mọi chuyện đã kết thúc tốt đẹp. Không khí khét lẹt và kéo dài tới tận chân trời, đồng cỏ bị thiêu rụi trần trụi, đen ngòm. Từ đồng cỏ, những cụm khói bốc lên. Tàn tro bay loạn theo gió. Mọi thứ đều đổi khác và thê thảm. Nhưng Bố và Mẹ đều sung sướng vì đám cháy đã qua mà nhà không tổn hại gì. Bố nói đám cháy không cách xa họ lắm, chỉ chừng khoảng một dặm. Bố hỏi Mẹ: - Nếu chuyện xảy ra vào lúc anh đang ở Indepence thì em sẽ làm gì? Mẹ nói: - Cả nhà sẽ kéo xuống lạch suối cùng với lũ chim và thỏ. Tất cả những con vật hoang dã trên đồng cỏ đều biết làm điều đó. Chúng chạy, bay, nhảy, trườn hết sức nhanh tới nơi có nước để được an toàn. Chỉ lũ sóc đất nhỏ là chúi sâu trong các lỗ hang và chúng là thứ xuất hiện trở lại đầu tiên trên đồng cỏ trần trụi nám khói. Rồi đám chim rời khỏi vùng lạch suối bay trở lại đồng cỏ và một con thỏ dè dặt nhảy ra, nhìn ngó. Thật lâu sau đó, những con rắn mới trườn khỏi vùng đất trũng và những con gà gô mái mới trở lại đi dạo. Đám cháy đã tàn giữa những vách đất. Không bao giờ nó vươn tới nổi vùng trũng lạch suối hoặc khu trại người da đỏ. Tối đó, ông Edwards và ông Scott tới gặp Bố. Họ đều lo ngại vì cho rằng có lẽ người da đỏ đã phóng hoả với mục đích thiêu cháy hết người da trắng. Bố không tin như thế. Bố nói người da đỏ vẫn luôn đốt đồng cỏ để cỏ non sớm mọc và đi lại được dễ dàng hơn. Những con ngựa nhỏ của họ không thể phóng nhanh qua những vùng cỏ khô lằng ngoằng dày đặc. Lúc này mặt đất sạch trơn. Bố rất vui vì sẽ dễ cày hơn. Trong khi trò chuyện, họ nghe thấy tiếng trống dồn dập từ khu trại người da đỏ cùng với những tiếng la hét. Laura ngồi thu mình như một con chuột trên bậc cửa vừa theo dõi câu chuyện vừa lắng nghe người da đỏ. Những vì sao treo thấp cực lớn lấp lánh trên đồng cỏ cháy rụi và gió thổi nhè nhẹ trong mái tóc Laura. Ông Edwards nói có rất đông người da đỏ trong khu trại và ông không thích điều đó. Ông Scott thì bảo ông không rõ lí do nào khiến những con người man dại kia tụ họp như vậy nếu không phải họ đang tính toán một điều khủng khiếp chi đó. Ông Scott nói: - Người da đỏ hiền lành duy nhất là người da đỏ đã chết. Bố nói Bố không biết về điều đó. Bố hình dung mọi người da đỏ đều hiền hoà như những người khác nếu họ không bị quấy rầy. Mặt khác do bị buộc phải di dời về miền tây quá nhiều lần rồi nên họ ghét người da trắng là điều tự nhiên. Nhưng một người da đỏ phải đủ tỉnh táo để hiểu rõ lúc họ bị trừng trị. Với sự có mặt của quân đội ở Fort Gibson và Fort Dodge, Bố tin chắc những người da đỏ sẽ không gây ra một sự lộn xộn nào. Bố nói: - Về lí do khiến họ tụ hội trong khu trại kia thì tôi có thể nói được với anh, Scott ạ. Họ đang chuẩn bị một chuyến săn bò rất lớn vào mùa xuân. Bố nói có nửa tá bò lạc đã tới khu trại đó. Thường thường các bộ lạc này vẫn đối nghịch nhau, nhưng mỗi mùa xuân họ luôn hoà thuận và cùng tham gia một cuộc săn bắn lớn. Bố tiếp: - Họ phát nguyền hoà thuận cùng nhau và chỉ nghĩ tới việc săn bò. Như thế không hẳn là họ đang chuẩn bị chiến đấu chống lại chúng ta. Họ sẽ có những cuộc bàn bạc, những buổi tiệc tùng và một ngày nào đó, tất cả bọn họ sẽ lần theo dấu những đàn bò. Không bao lâu, bò sẽ được lùa về hướng bắc theo những bãi cỏ xanh. Để đến với George! Bản thân sẽ rất khoái được dự một chuyến săn như thế. Chắc là phải có một cảnh tượng lạ để ngắm. Ông Scott chậm rãi lên tiếng: - Tốt, có thể anh nói đúng về điều đó, Ingalls. Dù sao tôi rất vui được nói lại với vợ tôi những điều anh vừa nói. Bà ấy không thể xoá nổi hình ảnh cuộc tàn sát ở Minnesota ra khỏi đầu. Chương 23: Tiếng Thét Xung Trận Của Người Da Đỏ Sáng hôm sau Bố vừa cày vừa huýt gió. Buổi trưa, Bố trở về đen nhẻm vì muối than trên đồng cỏ cháy nhưng mãn nguyện. Những khóm cỏ nhằng nhịt ko còn làm phiền Bố nữa. Nhưng về phía những người da đỏ thì không dễ chịu chút nào. Họ cứ tiếp tục tụ họp trong vùng trũng lạch suối. Ban ngày Mary và Laura nhìn thấy những cụm khói và về đêm, các cô luôn nghe thấy những giọng la hét man rợ. Bố từ ngoài đồng trở về sớm. Bố thu vén sớm công việc trong nhà, nhốt Pet và Patty, Bunny cùng con bò cái, con bê vào chuồng. Chúng không được ở ngoài sân để ngắm ánh trăng dịu mát. Khi bóng tối bắt đầu tụ lại trên đồng cỏ và gió lặng, những tiếng ồn ào từ khu trại da đỏ bốc lên lớn hơn, cuồng dại hơn. Bố đưa Jack vào trong nha. Cửa được đóng lại và then cài rút vào bên trong. Không ai có thể ra ngoài trước khi trời sáng. Đêm trườn tới ngôi nhà nhỏ và màn tối thật kinh hoàng. Nó như hoà theo những tiếng hét của người da đỏ và vào một đêm bắt đầu quay loạn theo tiếng trống da đỏ. Mọi lúc trong giấc ngủ, Laura luôn nghe thấy những tiếng hét điên cuồng và tiếng trống man dại thúc dồn dập. Cô nghe rõ Jack cào móng chân xoàn xoạt và khẽ gừ gừ. Thỉnh thoảng Bố ngồi dậy, lắng nghe. Một buổi tối, Bố lôi từ chiếc hộp dưới giường, bộ khuôn làm đạn. Bố ngồi rất lâu trước lò sưởi, nhổi chì làm đạn. Bố không ngừng tay cho tới khi làm hết mẩu chì cuối cùng. Mary và Laura không ngủ, nằm nhìn Bố. Từ trước chưa một lần nào, Bố làm nhiều đạn như thế. Mary hỏi: - Chuyện gì khiến Bố làm vậy, Bố? Bố nói: - Ồ, Bố ngồi rỗi quá chẳng có việc gì để làm. Và Bố huýt gió một cách vui vẻ. Nhưng Bố đã cày trọn ngày, Bố mệt không còn chơi đàn nổi. Lẽ ra Bố phải đi năm thay vì thức khuya như vậy để chế đạn. Không một người da đỏ nào tới nhà nữa. Nhiều ngày, Mary và Laura không thấy bóng một người da đỏ nào. Mary không còn muốn bước ra ngoài. Laura phải chơi trước cửa một mình và có một cảm giác lạ lùng về đồng cỏ. Đồng cỏ không còn an toàn, tựa hồ che dấu một điều gì. Nhiều lúc Laura ngỡ như đang có thứ gì nhòm ngó mình, đang có thứ gì trườn tới sau lưng. Cô quay lại thật nhanh, nhưng không có gì cả. Ông Scott và ông Edwards mang theo súng tới đứng nói chuyện với Bố ở ngoài đồng. Hai người nói một hồi rồi cùng bỏ đi. Laura thất vọng vì ông Edwards không ghé vào nhà. Trong bữa ăn, Bố kể cho Mẹ nghe có một số người đang bàn việc dựng hàng rào. Laura không hiểu rõ hàng rào là thế nào. Bố đã nói với ông Scott và ông Edwards rằng đó là một ý nghĩ điên rồ. Bố nói với Mẹ: - Nếu mình cần có một hàng rào, mình cần có nó từ trước khi mình dựng nó lên. Và điều cuối cùng mà mình muốn làm là hành động giống như mình đang sợ hãi. Mary và Laura nhìn nhau. Các cô biết là chẳng ích gì khi đưa ra các câu hỏi. Các cô sẽ lại được nghe nhắc là con nít phải giữ im lặng trong lúc ăn cho tới khi được hỏi tới. Thế là con nít được trông chừng và không nghe thấy gì. Chiều hôm đó, Laura hỏi Mẹ hàng rào là cái gì. Mẹ bảo đó là thứ khiến các cô bé phải thắc mắc. Như thế có nghĩ là các cô không được nghe giải thích cho tới khi lớn lên. Và Mary nhìn Laura bằng cái nhìn chứa đựng câu nói: - Chị đã nói trước với em thế rồi. Laura không hiểu vì sao Bố lại phải hành động như Bố sợ sệt. Bố có khi nào sợ sệt đâu. Laura không muốn làm như mình sợ, nhưng cô lại đang sợ. Cô sợ những người da đỏ. Jack không khi nào cụp tai xuống và đùa giỡn với Laura nữa. Ngay lúc cô vuốt ve nó, tai nó cũng căng lên, lông cổ dựng đứng, mép cuộn lại để lộ hàm răng. Ánh mắt nó đầy giận dữ. Mỗi đêm nó gầm gừ dữ dằn hơn cùng với những tiếng la cuồng nhiệt điên loạn bốc cao hơn, cao hơn mãi, cấp bách hơn, man rợ hơn. Giữa đêm khuya, Laura bỗng ngồi bật dậy, kinh hoảng. Một âm thanh khủng khiếp khiến khắp người cô toát mồ hôi lạnh toát. Mẹ chạy vội tới, giữ giọng nhỏ nhẹ nói với cô: - Bình tĩnh, Laura. Con đừng làm bé Carrie sợ. Laura bám dính Mẹ và Mẹ đang mặc áo. Lò sưởi đã được ủ tro, trong nhà tối đen nhưng Mẹ không đi ngủ. Ánh trăng dọi vào qua khuôn cửa sổ. Cánh cửa sổ mở và Bố đứng sát cửa trong bóng tối, nhìn ra. Bố lăm lăm tay súng. Rồi âm thanh khủng khiếp đó lại dội tới. Laura ngỡ như cô đang gục xuống, cô không thể bám víu vào thứ gì vì chẳng có gì chắc chắn ở khắp mọi chỗ. Một hồi lâu sau cô mới có thể nhìn thấy, suy nghĩ và lên tiếng được. Cô hoảng hốt: - Gì vậy? Gì vậy? Ô, Bố, gì vậy? Cô run rẩy toàn thân và cảm thấy muốn bệnh. Cô nghe thấy tiếng trống như thác đổ cùng với tiếng la hét cuồng nhiệt man rợ và Mẹ ôm lấy cô. Bố nói: - Đó là tiếng thét xung trận của người da đỏ, Laura. Bố giải thích với Laura rằng đó là cách người da đỏ bàn cãi về chiến tranh. Người da đỏ chỉ đang bàn cãi về chiến tranh và nhảy múa quanh những đống lửa của họ. Mary và Laura không nên sợ vì còn Bố và Jack ở đó, và còn có quân đội ở Fort Gibson và Fort Dodge. Bố lại nhắc: - Đừng sợ như thế, Mary, Laura! Laura hổn hển nói: - Dạ, Bố. Nhưng cô sợ phát khiếp, Mary thì không lên tiếng nổi, nằm run lật bật trong chăn. Rồi bé Carrie khóc nên Mẹ phải bồng bé lên chiếc ghế đu, khẽ đung đưa. Laura trườn xuống giường tới bám vào đầu gối Mẹ. Và Mary bị bỏ lại một mình cũng trườn xuống theo, tới chụm bên Mẹ. Bố đứng sát cánh cửa canh chừng. Tiếng trống dường như thúc từ trong đầu Laura, thúc từ nơi sâu thẳm trong người cô. Những tiếng la hét cuồng nhiệt dồn dập man rợ còn tồi tệ hơn tiếng sói hú. Một điều gì đó còn tồi tệ hơn cũng đang tới và Laura biết rõ, đó là tiếng thét xung trận của người da đỏ. Một cơn ác mộng cũng không kinh hoàng bằng đêm đó. Ác mộng chỉ là một giấc mơ và người ta sẽ thức dậy lúc tới hồi ghê hãi nhất. Nhưng đây là thực tế và Laura không thể tỉnh giấc. Cô không trốn chạy nổi khỏi nó. Khi tiếng thét xung trận qua đi, Laura biết là nó chưa dứt hẳn đối với cô. Cô cứng người trong ngôi nhà mờ tối và nhích sát vào Mẹ hơn. Mẹ cũng đang run rẩy. Jack chấm dứt tiếng gào hú bằng những tiếng gừ gừ bực dọc. Carrie lại la hoảng và Bố lau trán, nói: - Ấy, chưa bao giờ phải nghe thứ gì như vậy. Bố hỏi: - Các con có nghĩ là sẽ học làm như thế không? Không có ai trả lời Bố. Bố tiếp: - Họ khỏi cần dùng súng. Những tiếng hét đó cũng khiến một người phải khiếp hãi mà chết. Miệng Bố khô đến mức không huýt gió nổi một điệu hát cứu nguy cho mình. Đem nước tới cho Bố đi, Laura. Laura cảm thấy dễ chịu hơn. Cô mang một gáo nước đầy tới bên cửa sổ cho Bố. Bố đón gáo nước, mỉm cười với cô và khiến cô cảm thấy dễ chịu hơn nữa. Bố uống một ít nước rồi lại mỉm cười nói: - Đó! Lúc này Bố có thể huýt gió được rồi. Bố huýt gió một vài nốt nhạc để chứng tỏ là Bố có thể làm được. Rồi, Bố lắng nghe. Và, Laura cũng nghe thấy vẳng lên từ xa những tiếng lốp cốp, lốp cốp của vó ngựa khua. m thanh vang tới càng lúc càng gần hơn. Từ một phía nhà, dội lên những tiếng trống dồn dập và tiếng hét hỗn loạn, nhức óc và từ phía nhà bên kia, vang lên tiếng vó ngựa khua đều đều. Tiếng vó ngựa tới gần hơn, gần hơn nữa. Lúc này, móng ngựa đập ồn ào nặng nề và đột nhiên vụt đi qua. Nhịp ngựa phi xa dần, nhỏ hơn về phía con đường xuống trũng lạch. Trong ánh trăng, Laura trông thấy phía sau một con ngựa đen nhỏ và một người da đỏ cưỡi trên lưng. Cô nhìn thấy một lớp phủ hỗn độn và một chiếc đầu trần với một túm lông chim rung rinh, một nòng súng phản chiếu ánh trăng, rồi tất cả biến đi. Không thứ gì còn lại ngoài đồng cỏ trống hoang. Bố nói không biết được lí do của sự việc vừa diễn ra. Bố bảo người vừa đi qua đúng là người của bộ lạc Osage đã nói chuyện với Bố bằng tiếng Pháp. Bố thắc mắc: - Ông ta đang làm cái gì mà gò người phóng ngựa giữa đêm hôm tối tăm như vậy? Không ai trả lời Bố vì không ai biết rõ. Tiếng trống vẫn thúc và người da đỏ tiếp tục la hét. Tiếng thét xung trận cứ tiếp tục dội tới. Một hồi lâu sau, những tiếng la hét dịu dần từng chút một và rời rạc hơn. Cuối cùng, bé Carrie khóc đòi đi ngủ. Mẹ đưa Mary và Laura quay lại giường nằm. Hôm sau, các cô bé không ra khỏi nhà. Bố ngồi lại bên cạnh. Không có một tiếng động nào từ khu trại những người da đỏ. Khắp đồng cỏ mênh mông hoàn toàn yên ắng. Chỉ có gió thổi trên mặt đất nám đen không có cả tiếng cỏ xào xạc. Gió thổi qua ngôi nhà với âm thanh giống như dòng nước đang chảy xiết. Đêm đó, mức ồn ào từ khu trại da đỏ còn tệ hơn đêm trước. Lại những tiếng thét xung trận hãi hùng hơn cả cơn ác mộng hãi hùng nhất. Laura và Mary ép sát vào Mẹ, bé Carrie khóc ré lên, còn Bố lăm lăm tay súng canh chừng qua khuôn cửa sổ. Suốt đêm, Jack lồng lộn, gầm gừ và sủa lớn khi những tiếng thét xung trận vang tới. Đêm kể rồi đêm kế sau rồi đêm kế sau nữa, mức tệ hại cứ tăng lên mãi. Mary và Laura quá mệt ngủ thiếp giữa lúc tiếng trống như thác đổ và những người da đỏ la hét. Nhưng một tiếng thét xung trận luôn khiến các cô giật nẩy mình choàng dậy trong nỗi kinh hoàng. Những ngày im lặng cũng tồi tệ không thua lúc đêm tối. Bố nhìn ngó và lắng nghe suốt buổi. Chiếc cày vẫn nằm giữa đồng ngay chỗ Bố bỏ nó lại. Pet và Patty cùng con ngựa con, con bò cái và con bế ở trong nhà kho. Mary và Laura không thể ra khỏi nhà. Và Bố không lúc nào ngưng nhìn quanh khắp đồng cỏ và quay phắt về phía phát ra một tiếng động nhỏ nhất. Bố ăn uống hết sức vất vả vì luôn phải canh chừng và đi ra ngoài quan sát bốn phía đồng cỏ. Một bữa, Bố gục đầu xuống bàn và ngủ ngồi ngay tại đó. Mẹ, Mary và Laura đều im lặng để Bố ngủ. Bố đã quá mệt. Nhưng chỉ một phút, Bố đã nhảy dựng lên, lớn tiếng nói với Mẹ: - Không được để anh làm lại như thế nữa. Mẹ nói từ tốn: - Có Jack canh chừng mà. Đêm đó là đêm tồi tệ hơn hết. Tiếng trống thúc dồn dập và những tiếng hét lớn hơn, dữ dằn hơn. Khắp lạch suối, từ trên xuống, từ dưới lên, những tiếng thét xung trận đáp lại những tiếng thét xung trận và va đập vang dội trên các bờ vách. Không một giây ngưng nghỉ. Laura nhức nhối khắp người trong một cơn nhức nhối khủng khiếp. Từ cửa sổ, Bố nói: - Caroline, họ đang bất đồng với nhau. Có thể họ sẽ đánh lẫn nhau. Mẹ nói: - Ồ, Charles, mong là họ chỉ làm thế! Suốt đêm không có một phút nghỉ ngơi. Chỉ trước lúc bình minh tiếng thét xung trận cuối cùng mới chấm dứt và Laura ngủ gục trên đầu gối Mẹ. Khi tỉnh dậy, cô thấy mình nằm ở trên giường có Mary đang ngủ ở bên cạnh. Cửa ra vào đã mở và qua ánh nắng chiếu trên nền nhà, cô biết là sắp tới trưa rồi. Mẹ đang nấu nướng còn Bố ngồi trên thềm cửa. Bố nói với Mẹ: - Có một bộ lạc lớn khác đang đi về phía nam. Laura mặc nguyên áo dài ngủ bước tới cửa và nhìn thấy một hàng dài người da đỏ ở phía xa. Đoàn người ra khỏi vùng đồng cỏ đen ngòm và đi xa hơn mãi về phía nam. Những người da đỏ đều cỡi ngựa và ở một khoảng xa tới mức nhỏ hẳn lại, chỉ lớn hơn những con kiến. Bố kể là sáng nay đã có hai bộ lạc da đỏ di chuyển về phía tây. Bây giờ, bộ lạc này lại đi về phía nam. Điều này có nghĩa là họ đang bất đồng với nhau. Họ đang rời khỏi khu trại tại vùng trũng lạch suối. Họ đã không cùng nhau mở cuộc săn bò. Đêm đó, bóng tối hướng xuống rất mau. Không có một tiếng động nào ngoài tiếng gió xào xạc. - Đêm nay, mình sẽ ngủ được. Bố nói và cả nhà đều ngủ ngon. Suốt đêm, họ không có một giấc mơ. Buổi sáng, Jack vẫn ngủ rũ và nằm bẹp trên đúng cái điểm nó đã nằm ủ vào lúc Laura lên giường. Đêm kế tiếp cũng hoàn toàn yên ắng và cả nhà lại có một đêm ngủ ngon. Sáng hôm đó, Bố nói cảm thấy tươi mát như một bông hoa cúc và Bố sẽ làm một cuộc dò xét nhỏ dọc lạch suối. Bố xích Jack vào chiếc khoen ở vách nhà, cầm súng đi xuống con đường đưa tới lạch suối. Laura và Mary cùng Mẹ không thể làm nổi bất cứ điều gì ngoài việc chờ Bố trở về. Mấy mẹ con ngồi trong nhà và mong Bố trở về. Chưa bao giờ ánh nắng di chuyển chậm chạp như thế trên nền nhà. Rồi Bố đã trở về. Khá trễ vào buổi chiều. Mọi việc đều đã ổn. Bố đi thật xa, lên xuống quanh lạch suối và đã thấy nhiều trại da đỏ bỏ trống. Hết thảy người da đỏ đã đi xa, ngoại trừ một bộ lạc là bộ lạc Osage. Trong rừng, Bố gặp một người Osage có thể nói chuyện với Bố. Người da đỏ này nói với Bố rằng tất cả các bộ lạc da đỏ khác, ngoại trừ bộ lạc Osage, đều có ý định giết hết người da trắng đã tới vùng đất của người da đỏ. Họ sắp sửa thực hiện ý định thì một người da đỏ đơn độc phóng ngựa tới giữa buổi lễ. Người da đỏ này ở xa và phóng ngựa cực nhanh tới vì ông ta không muốn để người da đỏ chém giết người da trắng. Ông ta là một người thuộc bộ lạc Osage và có một cái tên hàm nghĩa là một chiến sĩ vĩ đại. Bố đọc lên cái tên của ông ta: - Dũng Sĩ Cây Xồi. Bố kể: - Ôngt ta thuyết phục suốt ngày đêm cho tới khi tất cả bộ lạc Osage đồng ý với ông ta. Lúc đó, ông ta đứng ra nói với các bộ lạc khác rằng nếu họ tàn sát người da trắng thì bộ lạc Osage sẽ tàn sát họ. Điều này đã gây ra sự ồn ào vào cái đêm cuối cùng khủng khiếp. Các bộ lạc khác la hú bộ lạc Osage và bộ lạc Osage la hú đáp lại họ. Những bộ lạc khác không dám đối đầu với Dũng Sĩ Cây xồi cùng bộ lạc Osage của ông ta nên bỏ đi ngày hôm sau. Bố nói: - Đó là một người da đỏ tốt bụng. Không có chuyện như ông Scott nói, Bố không tin rằng người da đỏ duy nhất tốt bụng chỉ là một người da đỏ đã chết. Chương 24: Những Người Da Đỏ Ra Đi Thêm một đêm dài nữa được ngủ ngon. Thật dễ chịu được nằm xuống ngủ thoải mái. Mọi thứ đều bình yên và êm ả. Chỉ có những con cú lên tiếng “Hu-uu? Hu-uu?” Trong những cánh rừng dọc lạch suối, trong khi vầng trăng vành vạnh trôi chậm chậm giữa bầu trời uốn cong trên đồng cỏ mênh mông. Buổi sáng đầy nắng ấm. Dưới lạch suối, những con ếch kêu ộp oạp. Chúng cất tiếng từ bên bờ những trũng nước. - A-um! A-um! Tựa hồ chúng đang nhắc nhau: - Ngập gối! Ngập gối! Dạo quanh chơi! Từ lúc Mẹ nhắc về điều những con ếch đang nói, Mary và Laura có thể nghe rõ từng lời. Cửa ra vào mở rộng để hơi ấm mùa xuân lọt vào nhà. Sau bữa điểm tâm, Bố bước ra, huýt gió vui vẻ. Bố đi cột Pet và Patty vào chiếc cày. Những tiếng huýt gió của Bố ngưng đột ngột. Bố dừng lại trước thềm cửa nhìn về phía đồng và lên tiếng: - Tới đây, Carolie. Cả các con nữa, Mary, Laura. Laura chạy tới đầu tiên và hết sức ngạc nhiên. Những người da đỏ đang đi tới. Họ không đi xuống con đường lạch suối mà rời xa vùng lạch suối đi về phía đông. Đi đầu là người da đỏ cao lớn đã cưỡi ngựa phóng ngang ngôi nhà dưới ánh trăng. Jack gầm gừ và Laura thấy tim đập nhanh hơn. Cô mừng có Bố ở sát bên cạnh. Nhưng cô biết đây là người da đỏ tốt bụng, người cầm đầu bộ lạc Osage đã làm ngưng bặt những tiếng kêu xung trận khủng khiếp. Con ngựa đen nhỏ thong thả bước thoải mái, hít từng đợt gió đang thổi tung bờm và đuôi nó như những lá cờ. Mũi và đầu ngựa hoàn toàn thả lỏng, không có dây cương. Không có chỉ một sợi dây ở bất kì phần nào trên người nó. Không có thứ gì cho thấy nó bị buộc phải làm những điều mà nó không muốn. Một cách thoải mái nó xoải vó dọc con đường mòn tựa hồ nó thích thú được mang người da đỏ ở trên lưng. Jack gầm gừ dữ dội, cố bứt khỏi dây xích. Nó còn nhớ chính người da đỏ này đã chĩa súng vào nó. Bố nói: - Im đi, Jack! Jack vẫn gầm gừ và lần đầu tiên, Bố đập nó, quát: - Nằm xuống! Im đi! Jack co mình lại và im thít. Lúc này, con ngựa tới rất gần và tim Laura đập nhanh hơn. Cô ngắm chiếc giày da có gắn hạt chuỗi của người da đỏ, nhìn theo miếng da bọc ống chân có tua viền buông thõng bên sườn ngực trần trụi. Một tấm khăn choàng màu sáng phủ quanh thân hình người da đỏ. Một cánh tay nâu đỏ cầm hò cây súng đặt ngang cặp vai trơn của con ngựa. Rồi Laura ngước lên nhìn gương mặt xậm nâu dữ dằn, bình thản của người da đỏ. Đó là gương mặt điềm tĩnh, tự hào. Dù điều gì xảy ra cũng không thành vấn đề, gương mặt luôn như vậy. Không có gì làm gương mặt đó thay đổi được. Chỉ riêng cặp mắt là sống động và nhìn thật thẳng xa tắp về phía tây. Cặp mắt không hề chao đảo. Không một thứ gì cử động hoặc chuyển đổi, ngoại trừ những cọng lông ó dựng thẳng từ cụm tóc trên đỉnh đầu. Những cọng lông dài đu đưa, chập chờn và xoay tít trong gió khi người da đỏ cao lớn cưỡi trên lưng con ngựa đen nhỏ thâu ngắn dần khoảng cách. Bố nói khẽ trong hơi thở: - Đó là Dũng Sĩ Cây Xồi. Và Bố nhấc một bàn tay lên ra dấu chào. Nhưng con ngựa nhỏ hạnh phúc và người da đỏ bất động đã đi qua. Họ đi qua tự hồ ngôi nhà, chuồng ngựa, Bố Mẹ cùng Mary Laura không hề có ở đó. Bố Mẹ cùng Mary và Laura chậm chạp xoay theo và nhìn thấy chiếc lưng vươn thẳng kiêu hãnh của người da đỏ. Rồi những con ngựa nhỏ khác, những tấm khăn choàng khác, những chiếc đầu cạo nhẵn bóng khác, những cọng lông ó khác đi tới. Từng người từng người trên lối mòn, cứ thêm mãi, thêm mãi những chiến sĩ hoang dại cưỡi trên lưng ngựa nối theo sau Dũng Sĩ Cây Xồi. Những khuôn mặt nâu xậm tiếp nối những khuôn mặt nâu xậm đi qua. Bờm và đuôi ngựa bay tung trong gió, những hạt chuỗi lấp lánh, những tua viền phần phật, những cọng lông ó chập chờn trên những chiếc đầu nhẵn bóng. Những cây súng đặt trên vai những con ngựa dựng đứng thành một hàng dọc. Laura đặc biệt chú ý tới những con ngựa. Có đủ thứ, ngựa đen, ngựa hồng, ngựa xám nâu, ngựa đốm. Những ống chân thon nhỏ của chúng nhịp đều đặn, đều đặn lốp cốp, lốp cốp, lốp cốp dọc theo con đường mòn da đỏ. Những lỗ mũi của chúng mở rộng về phía Jack, nhưng chúng né ra xa, bước tới một cách oai vệ trong khi nhìn Laura bằng những ánh mắt sáng rực. Cô vỗ tay kêu lên: - Ồ, những con ngựa đẹp quá! Những con ngựa coi đẹp quá! Hãy nhìn con ngựa đốm kìa! Cô tưởng chừng không bao giờ mệt mỏi được ngắm đàn ngựa kéo tới, nhưng một hồi sau, cô bắt đầu chú ý tới đám phụ nữ và trẻ em trên lưng ngựa. Phụ nữ và trẻ em đi nối sau những người đàn ông. Những trẻ em da đỏ với nước da nâu xậm, mình trần không lớn hơn Mary và Laura cũng chễm chệ trên lưng ngựa. Nhưng con ngựa nhỏ không mang yên cương và những trẻ em da đỏ không mặc quần áo. Da của chúng phơi trần dưới nắng trong không khí tươi mát. Những cọng tóc đen bay trong gió và những con mắt đen sáng rực niềm vui. Chúng ngồi thẳng người trên lưng ngựa và bất động y hệt những người lớn da đỏ. Laura nhìn và nhìn những đứa trẻ da đỏ và chúng nhìn lại cô. Cô bỗng nảy ra ý nghĩ hư hỏng là ao ước trở thành một cô bé da đỏ. Dĩ nhiên, cô không thực sự có ý định đó. Cô chỉ muốn được phơi mình trần trong nắng, gió và cưỡi trên lưng một trong những con ngựa nhỏ hớn hở kia. Những bà mẹ của đám trẻ con cũng cưỡi ngựa. Những mảnh da gắn tua viền đung đưa quanh ống chân của họ, những tấm khăn choàng phủ quanh thân hình họ trên trên đầu của họ chỉ vỏn vẹn có mái tóc đen bóng mượt. Mặt họ xậm nâu và điềm tĩnh. Một vài người nịt sau lưng một chiếc túi hẹp và từ trong đó thò ra ngoài đầu của một em bé nhỏ xíu. Có những em bé và một số trẻ nhỏ ngồi trong những chiếc giỏ treo hai bên sườn ngựa, bên cạnh các bà mẹ. Thêm nhiều, nhiều hơn nữa những con ngựa nhỏ vượt qua và thêm nhiều trẻ nhỏ, nhiều em bé trên lưng mẹ, nhiều em bé trên những chiếc gió đeo bên sườn ngựa. Rồi một bà mẹ cưỡi ngựa đi tới với một chiếc giỏ đeo bên sườn ngựa của bà ta, có một em bé. Laura nhìn thẳng vào cặp mắt sáng rỡ của em bé lướt qua sát bên cô. Chỉ chiếc đầu nhỏ xíu của em bé vươn lên trên mép giỏ. Tóc của bé đen như lông quạ và đôi mắt bé như màn đêm không có sao lấp lánh. Những con mắt đen đó nhìn sâu vào mắt Laura và cô cũng nhìn sâu vào màu đen của mắt em bé đó, rồi cô thích có em bé đó. Cô nói: - Bố, đưa cho con em bé da đỏ đó. Bố nghiêm giọng: - Im, Laura. Em bé đã đi qua. Em quay đầu lại, mắt vẫn nhìn vào trong mắt Laura. Cô năn nỉ: - Ô, con thích em bé đó! Con thích em bé đó! Em bé đã đi xa và xa hơn nữa, nhưng không ngừng nhìn lại Laura. Laura tiếp tục năn nỉ: - Em bé muốn ở lại với con kìa. Bố, cho con đi. Bố nói: - Im đi, Laura. Người phụ nữ da đỏ đó muốn giữ em bé của bà ấy. - Ô, Bố! Laura vẫn nài xin và bắt đầu muốn khóc. Thật xấu hổ nếu bật khóc, nhưng cô không thể kìm nổi. Em bé da đỏ đã đi khuất. Cô biết không khi nào cô còn được nhìn thấy nó nữa. Mẹ nói chưa bao giờ Mẹ nghe thấy một điều như thế. Mẹ nói: - Mắc cỡ quá, Laura! Nhưng Laura không thể ngưng khóc. Mẹ hỏi cô: - Tại sao con lại viễn vông tới mức muốn có một em bé da đỏ. Laura thổn thức: - Mắt nó đen lắm. Cô không hiểu điều đó có nghĩa gì. Mẹ nói: - Sao, Laura, con không nên đòi có một em bé khác. Mình đã có một em bé rồi, một em bé của riêng mình. Laura thổn thức lớn hơn: - Con cũng muốn có một em bé khác nữa. Mẹ la: - Mẹ bảo thôi! Bố nói: - Hãy coi những người da đỏ kìa, Laura. Hãy nhìn về phía tây, rồi nhìn về phía đông và con sẽ thấy. Laura nhìn một cách khó khăn. Mắt cô đầy nước mắt và những tiếng nấc vẫn nảy ra từ cuống họng. Nhưng cô cố nghe theo lời Bố và trong một lát, cô bình tĩnh lại. Cô đã có thể nhìn thấy thật xa về phía tây và thật xa về phía đông là những nơi đang có người da đỏ. Đó là một đường dài, dài như vô tận. Bố nói: - Người da đỏ đông kinh khủng. Người da đỏ tiếp tục đi qua, thêm, thêm, thêm nữa. Bé Carrie quá mệt vì xem người da đỏ, quay vào chơi một mình trên nền nhà. Nhưng Laura ngồi xuống bậc cửa, Bố đứng sát sau lưng cô còn Mẹ và Mary đứng giữa khuôn cửa. Cả nhà tiếp tục nhìn, nhìn và nhìn những người da đỏ cưỡi ngựa đi ngang qua. Đã tới giờ ăn, nhưng không một ai nghĩ tới bữa ăn. Nhưng con ngựa của người da đỏ vẫn đang băng ngang, mang theo những gói da, cọc lều, những chiếc giỏ lủng lẳng và những nồi nấu. Thêm một vài phụ nữ và vài trẻ em da đỏ mình trần nữa. Rồi con ngựa cuối cùng đi qua. Nhưng Bố Mẹ cùng Laura và Mary vẫn đứng nguyên trong khuôn cửa, nhìn theo cho tới khi đoàn dài người da đỏ từ từ mất hút vào chân trời phía tây. Im lặng và hoang vắng thay thế cho mọi thứ. Khắp nơi hình như chỉ còn lại sự tĩnh mịch quạnh hiu. Mẹ nói không cảm thấy thích thú làm việc gì và buông người xuống. Bố nhắc Mẹ đừng làm gì mà cứ nghỉ. Mẹ nói: - Anh phải ăn một chút gì chứ, Charles. Bố nói: - Khỏi. Anh không thấy đói. Bố lặng lẽ đi cột Pet và Patty rồi bắt đầu cày đất trở lại. Laura không ăn được món nào. Cô ngồi rất lâu trên bậc cửa nhìn về phía tây trống vắng nơi mà những người da đỏ vừa đi khuất. Cô vẫn ngỡ như còn nhìn thấy những cọng lông chim chập chờ, những cặp mắt đen và còn nghe thấy tiếng vó ngựa khua. Chương 25: Những Chiến Binh Sau khi những người da đỏ đi khỏi, sự yên tĩnh trở lại trên khắp đồng cỏ. Mẹ thắc mắc trong sự sửng sốt: - Cỏ mọc từ lúc nào vậy? Khắp vùng đều đen ngòn mà bây giờ đã không có gì ngoài cỏ xanh trải xa khỏi tầm nhìn. Trên trời đầy những hàng vịt trời và ngỗng trời đang bay về phía bắc. Quạ kêu quàng quạc trên những ngọn cây dọc bờ suối. Gió rì rầm trong những vùng cỏ mới, mang theo mùi thơm của đất và những mầm cây đang lớn. Vào những buổi sáng, từng bầy chiền chiện ca hót tung bay giữa bầu trời suốt ngày, đủ loại chim mỏ nhác, sáo đất chiêm chiếp trong vùng trũng lạch. Xẩm tối lại tới phiên đám bách thanh lên tiếng. Một buổi tối, Bố cùng Mary và Laura ngồi yên trên bực cửa ngắm những con thỏ con nô đùa trong cỏ dưới ánh sao. Ba con thỏ mẹ cũng nhảy nhót xung quanh với những chiếc tai lòng thòng và ngắm đàn con đang vui chơi. Ban ngày mọi người đều bận rộn. Bố tất bật với chiếc cày còn Mary và Laura giúp Mẹ gieo trồng trong vườn những hạt giống đầu mùa. Với chiếc cuốc, Mẹ cuốc những lỗ nhỏ trong các bụi rễ cỏ đã được chiếc cày lật úp xuống trong lúc Mary và Laura cẩn thận gieo hạt. Rồi Mẹ lấp đất lên. Mấy mẹ con trồng hành, cà-rốt, đậu Hà Lan, đậu xanh và củ cải. Tất cả đều vui sướng vì mùa xuân đã tới và không bao lâu nữa họ sẽ có rau tươi để ăn. Họ đều đã thấy mệt vì món ăn chỉ có bánh mì và thịt. Buổi chiều, Bố từ đồng trở về trước khi mặt trời lặn, giúp Mẹ đặt những cây giống cải bắp và khoai lang. Mẹ đã gieo hạt cải bắp trong một ngăn phẳng và giữ ở trong nhà. Mẹ tưới nước đều đặn và mỗi ngày đem ra phơi nắng từ sáng cho tới chiều. Mẹ cũng để dành được một củ khoai lang trong dịp Giáng Sinh và đem trồng trong một ngăn khác. Hạt giống cải bắp lúc này đã biến thành những cây nhỏ màu xanh xám và củ khoai lang đã thành một cọng cây với những chiếc lá màu xanh chĩa ra từ những mắt mấu. Bố Mẹ bứng những cây này một cách thận trọng và đặt rễ chúng thật khéo vào những lỗ cuốc dành cho chúng. Họ tưới nước vào rễ cây, vun đất nện chặt lại. Trước khi cây cuối cùng yên vị trời đã tối và Bố Mẹ hết sức mệt mỏi. Nhưng họ cũng sung sướng vì năm nay họ sẽ có cải bắp và khoai lang. Hàng ngày, cả nhà đều ngắm khu vườn. Đất còn thô và dày cỏ vì vườn nằm trong đồng cỏ, nhưng tất cả những cây nhỏ xíu đều lớn lên. Những mảnh lá non quăn queo của đám đậu Hà Lan bên cạnh những đọt hành nhọn hoắt như những mũi giáo tí hon. Đậu xanh cũng vươn trên mặt đất thành những cọng nhỏ màu vàng uốn cong như một sợi dây và xô lấn nhau vươn lên. Rồi những hạt đậu tách ra rũ xuống hai chồi lá đậu non bé xíu, những cánh lá phẳng lì le lói ánh nắng. Không bao lâu nữa cả nhà sẽ được sống như những ông vua. Mỗi buổi sáng, Bố vui vẻ huýt gió ra đồng. Bố đã trồng đợt khoai tây đầu mùa và còn giữ lại một số giống cho đợt sau. Lúc này Bô mang theo một túi bắp buộc vào thắt lưng và khi cày, Bố liệng những hạt bắp vào luống đất ngay sát mũi cày. Chiếc cày lật một đường đất dài úp lên trên những hạt bắp. Đám bắp sẽ vươn lên khỏi những đám rễ cỏ dày và sẽ trở thành một cánh đồng bắp. Một ngày nào đó, trong bữa ăn sẽ có những trái bắp tươi. Và trong mùa đông tới sẽ có bắp chín dành cho Pet và Patty. Một buổi sáng, Mary và Laura rửa chén dĩa trong lúc mẹ dẹp trải giường. Mẽ khẽ hát thầm còn Laura và Mary bàn bạc về vườn rau. Laura thích đậu Hà Lan nhất và Mary lại thích đậu xanh. Đột nhiên, các cô nghe vọng lại giọng nói của Bố, quát lớn và giận dữ. Mẹ ngưng hát chạy ra cửa và Laura cùng Mary theo sát bên Mẹ nhìn ra. Bố đang đưa Pet và Patty từ ngoài đồng về, kéo theo chiếc cày đằng sau. Ông Scott và ông Edwards cùng đi với Bố và ông Scott đang nói một cách sốt sắng. Bố trả lời ông ấy: - Không, Scott! Tôi sẽ không ở lại đây để chờ đám lính tráng tới lôi đi như một kẻ phạm pháp. Nếu những tay làm chính trị phá hoại nào đó ở Washington không nói là có quyền định cư ở đây thì không bao giờ tôi lấn sâu tới ba dặm vào lãnh thổ người da đỏ. Nhưng tôi không đợi lính tráng tới xúc mình đi đâu. Chúng tôi sẽ rời khỏi đây ngay bây giờ. Mẹ hỏi: - Có chuyện gì vậy, Charles? Mình sắp đi đâu? Bố đáp: - Anh đâu có biết! Nhưng mình sẽ đi. Mình sẽ rời khỏi đây. Scott và Edwards nói rằng chính phủ sẽ đưa quân đội tới lùa hết những người định cư ra khỏi lãnh thổ người da đỏ. Mặt Bố đỏ gay trong lúc mắt giống như toé lửa xanh. Laura khiếp hãi vì chưa từng nhìn thấy Bố như vậy. Cô nhích sát vào Mẹ và đứng im, nhìn Bố. Ông Scott lên tiếng trở lại, nhưng Bố chặn ngang: - Đừng tốn hơi nữa, Scott. Nói thêm nữa chẳng có ích gì. Anh có thể ở lại đây cho tới khi lính tráng tới nếu anh muốn. Phần tôi sẽ đi ngay bây giờ. Ông Edwards nói ông ấy cũng sẽ đi. Ông ấy không ở lại để bị lôi qua ranh giới như một kẻ đê tiện run sợ nhợt nhạt. Bố nói: - Hãy tới Independence cùng với chúng tôi, Edwards. Nhưng ông Edwards nói ông ấy không cần đi về phía bắc. Ông ấy đã đóng một chiếc thuyền và sẽ thả xuôi dòng sông tới định cư một nơi nào đó xa hơn về phía nam. Bố thuyết phục ông ấy: - Tốt hơn là cùng với chúng tôi theo đường bộ qua Missouri. Một mình thả thuyền xuôi sông Verdigris qua giữa nhiều bộ lạc da đỏ man rợ là một chuyến đi quá mạo hiểm. Nhưng ông Edwards nói là ông ấy đã từng biết vùng Missouri và ông ấy có thừa thãi thuốc đạn và chì. Rồi Bố bảo ông Scott hãy dắt con bò cái và con bê đi. Bố nói: - Chúng tôi không thể mang chúng theo. Anh là một bạn lối xóm tốt, Scott và tôi tiếc là phải chia tay với anh. Sáng mai chúng tôi sẽ đi. Laura nghe rõ mọi lời nhưng vẫn không tin là thực cho tới lúc thấy ông Scott dắt con bò cái đi. Con bò cái dễ thương ngoan ngoãn đi với sợi dây thừng quấn quanh cặp sừng dài và con bê tung tăng nhảy nhót phía sau. Thế là tất cả sữa và bơ đã ra đi. Ông Edwards nói sẽ bận bịu nên khó gặp lại họ. Ông ấy bắt tay Bố nói: - Tạm biệt, Ingalls. Chúc may mắn. Ông ấy bắt tay Mẹ. - Tạm biệt chị. Tôi sẽ khó gặp lại mọi người, nhưng tôi chắc chắn là không bao giờ quên sự tử tế của anh chị. Rồi ông ấy quay về phía Mary và Laura, bắt tay các cô giống như các cô đã là người lớn. Ông ấy nói: - Tạm biệt! Mary lễ phép lên tiếng: - Tạm biệt, bác Edwards. Nhưng Laura quên bẵng cách xã giao. Cô nói: - Ô, bác Edwards, cháu mong bác không đi riêng! Ô, bác Edwards, cảm ơn bác, cảm ơn bác đã đi tới tận Independence tìm ông già Noel cho chúng cháu. Mắt ông Edwards long lanh và ông ấy quay đi không nói được một lời nào. Bố tháo dây buộc ngựa ngay trong buổi sáng và Laura và Mary biết đúng là chuyện thực: cả nhà sắp rời khỏi chỗ này. Mẹ không nói gì. Mẹ bước vào trong nhà, nhìn quanh, ngắm đống dĩa chưa rửa xong và chiếc giường chỉ mới dẹp một phần, rồi Mẹ đưa hai bàn tay lên và ngồi xuống. Mary và Laura đi tới chỗ đống dĩa. Các cô cố làm thật nhẹ tay tránh không gây một tiếng động nào. Các cô quay lại thật nhanh khi Bố bước vào. Bố lại có vẻ bình thường, đang khuân một túi khoai. Bố nói, giọng hết sức tự nhiên: - Em ở đây hả, Caroline! Nấu bữa nhiều hơn một chút nghe! Mình sẽ không mang khoai theo hoặc giữ làm giống nữa. Bây giờ, ăn thả dàn đi. Vậy là trong bữa ăn hôm đó, cả nhà đã ăn khoai tây giống. Món khoai thật ngon và Laura biết là Bố có lý khi Bố nói: - Không sự mất mát lớn nào lại không đưa lại một lợi lộc nhỏ. Sau bữa ăn, Bố kéo dàn mui xe ra khỏi các cột móc trong nhà kho. Bố ghép các cọng khung mui vào thùng xe theo cách mỗi đầu cọng khung thọc trong một khoen sắt phía bên kia thùng xe. Khi dàn khung đã đứng vào đúng chỗ, Bố và Mẹ căng tấm bạt phủ trên thùng xe, buộc lại thật chặt. Rồi Bố kéo sợi dây ở cuối tấm bạt cho tới khi nó rút sát lại chỉ còn để hở một lỗ tròn nhỏ ở chính giữa phía sau. Đêm đó, mỗi người đều lặng lẽ. Ngay cả Jack cũng cảm thấy đang có một điều bất thường và nó nằm xuống gần Laura khi cô lên giường. Lúc này thời tiết ấm áp không cần đốt lửa nhưng Bố và Mẹ ngồi nhìn những tàn tro trong lò sưởi. Mẹ khẽ thở ra và nói: - Qua trọn một năm rồi, Charles. Nhưng Bố đáp một cách vui vẻ: - Một năm mà đáng kể gì? Mình còn có tất cả thời gian còn lại. Chương 26: Ra Đi Sau bữa điểm tâm sáng hôm sau, Bố và Mẹ chất đồ lên thùng xe. Trước hết tất cả chăn, nệm biến thành hai chiếc giường được đặt chồng lên nhau ngang phía sau thùng xe và phủ kín bằng một tấm bọc kẻ sọc vuông. Mary và Laura cùng bé Carrie ngồi trên đó vào ban ngày. Ban đêm, chiếc giường phía trên được đẩy tới phần trước thùng xe để Bố và Mẹ nằm. Mary và Laura ngủ trên chiếc giường phía dưới vẫn nằm nguyên tại chỗ. Kế tiếp, Bố tháo chiếc tủ nhỏ khỏi vách nhà và Mẹ cất thức ăn cùng chén dĩa vào trong đó. Bố đặt chiếc tủ ngay dưới ghế ngồi trước thùng xe và chèn trước nó một túi bắp dành cho ngựa. Bố nói với Mẹ: - Mình sẽ có chỗ duỗi chân thoải mái, Caroline. Mẹ xếp hết quần áo vào hai chiếc túi và Bố treo chúng dưới những cọng khung mui trong thùng xe. Đối diện với mấy chiếc túi, Bố treo cây súng và dưới cây súng là túi đạn cùng ống thuốc nổ. Cây đàn của Bố nằm trong hộp được Bố đặt trên một mép giường để tránh bị dằn xóc. Mẹ cuốn chiếc vỉ sắt màu đen, lò nướng bánh, bình lọc cà phê trong những bao bố và đặt vào thùng xe trong lúc Bố buộc chiếc ghế đu, chiếc khạp ở phía ngoài và treo ở phía dưới chiếc thùng đựng nước và máng ăn cho ngựa. Rồi Bố đặt cẩn thận chiếc đèn thiếc ở một góc trước thùng xe, chỗ có túi bắp giữ nó không chao động. Lúc này, xe đã chất xong. Vật duy nhất không thể mang theo là chiếc cày. Cũng được thôi, vì nó đâu còn giúp được việc gì. Không có chỗ cho nó. Khi dừng chân ở bất kì nơi nào sẽ tới, Bố có thể kiếm thêm da thú để đem đổi lấy một chiếc cày khác. Laura và Mary leo lên thùng xe ngồi trên chiếc giường phía sau. Mẹ đặt bé Carrie ngồi giữa các cô. Cả ba dều đã tắm rửa và chải tóc. Bố bảo các cô sạch bóng như chiếc răng chó săn còn Mẹ nói các cô sáng rỡ không khác những chiếc kẹp mới. Rồi Bố cột Pet và Patty vào xe. Mẹ leo lên chỗ ngồi ở ghế trước, bíu chắc những sợi dây. Đột nhiên, Laura muốn được nhìn lại ngôi nhà. Cô hỏi Bố có chịu cho cô nhìn ra ngoài không. Thế là Bố thả lỏng sợi dây phía sau tấm bạt mui, mở ra một lỗ tròn lớn. Laura và Mary có thể nhìn qua lỗ hổng ra ngoài nhưng vẫn còn sợi dây giữ cho bé Carrie không bổ nhào vào thùng đồ ăn. Căn nhà gỗ gọn gàng vẫn nguyên vẹn như mọi ngày. Nó hình như không biết mọi người sắp ra đi. Bố đứng một hồi giữa khuôn cửa, nhìn khắp các thứ bên trong. Bố ngắm chiếc giường, ngắm chiếc lò sưởi và những tấm kính cửa sổ. Rồi Bố cẩn thận đóng cánh cửa ra vào, kéo dây then cài ra ngoài. Bố nói: - Một ai đó có thể cần chỗ trú ẩn. Bố leo lên chỗ ngồi bên cạnh Mẹ, nắm dây cương trong hai bàn tay và tắc lưỡi ra dấu cho Pet và Patty. Trước khi đổ dốc theo con đường dẫn xuống trũng lạch suối, Bố dừng ngựa lại và tất cả đều quay nhìn về phía sau. Xa tới tận cùng tầm mắt về phía đông, phía nam, phía tây không một thứ gì chuyển động trên đồng cỏ mênh mông. Chỉ có những thảm cỏ xanh dập dờn trong gió và những cồn mây trắng trôi giữa bầu trời trong, cao thẳm. Bố nói: - Đúng là một xứ sở vĩ đại, Caroline. Nhưng sẽ còn nhiều ngày dài với những người da đỏ man rợ và lũ sói ở đây. Ngôi nhà gỗ nhỏ và khu chuồng ngựa đứng im lìm trong hiu quạnh. Rồi Pet và Patty nhảy chồm tới. Cỗ xe lao xuống từ những bờ vách đi sâu vào vùng trũng suối um tùm và trên một cội cây cao, một con bách thanh bắt đầu lên tiếng hót. Mẹ nói: - Em chưa nghe chim bách thanh hót sớm như thế bao giờ. Bố đáp khẽ: - Nó đang chào tạm biệt chúng mình. Họ xuống khỏi những khu đồi thấp tới lạch suối. Mực nước chỗ khúc cạn rất thấp, rất dễ qua. Trên đường đi băng qua vùng trũng thấp, những con hươu đứng sững nhìn họ băng qua và những con nai mẹ canh chừng bầy con đang nhảy nhót trong bóng cây. Và vượt lên giữa những bờ vách đất đỏ dựng đứng, cỗ xe lại lăn trên đồng cỏ. Pet và Patty hăm hở đi tới. Tiếng vó khua của chúng chỉ tạo một âm thanh bị bóp nghẹt dưới vũng trũng sâu, lúc này rộn vang trên đồng cỏ. Gió ca hát ồn ào va đập vào dàn khung xe vững chắc. Bố và Mẹ ngồi im, lặng lẽ trên ghế và Mary với Laura cũng nín thinh. Nhưng Laura cảm thấy trong người xốn xang. Không ai biết nổi điều gì sẽ xảy ra hoặc nơi nào mình sẽ tới khi đang di chuyển trên một chiếc xe buông kín mui. Buổi trưa Bố dừng lại bên một dòng suối nhỏ cho ngựa ăn uống và nghỉ ngơi. Không bao lâu nữa dòng suối sẽ cạn khô dưới cái nóng mùa hè, nhưng lúc này thì đang đầy nước. Mẹ lấy bánh mì nguội và thịt ra khỏi thùng thức ăn và cả nhà cùng ngồi ăn trên thảm cỏ trong bóng mát của cỗ xe. Họ uống nước trong suối và Laura cùng Mary chạy quanh thảm cỏ ngắt những bông hoa dại trong lúc Mẹ buộc lại thùng thức ăn, Bố cột Pet và Patty vào xe trở lại. Rồi họ tiếp tục đi một hồi lâu băng ngang đồng cỏ. Không có gì để ngắm ngoài những thảm cỏ ngả nghiêng trong gió, bầu trời và những vết bánh xe kéo dài vô tận. Thỉnh thoảng, một con thỏ nhảy chạy ra xa. Có lúc một con gà gồ mái cùng với cả bầy con tán loạn chúi mình vào trong cỏ. Bé Carrie đang ngủ còn Mary và Laura cũng hầu như thiếp đi khi các cô nghe Bố nói: - Có chuyện không ổn ở đó. Laura bật nhổm lên và ở một khoảng xa phía trước trên đồng cỏ, cô thấy một đống nấm màu sáng, nhỏ. Cô không thấy một điều gì là không ổn cả. Cô hỏi Bố: - Ở đâu, Bố? Bố trả lời, hất đầu về đống nấm: - Đó. Nó đang nằm im. Laura không hỏi thêm. Cô cố nhìn và nhận ra đống nấm kia là một cỗ xe đang phủ mui. Dần dần, cỗ xe lớn hơn. Cô bé thấy xe không có ngựa. Khắp xung quanh cỗ xe không có gì động đậy. Rồi cô nhìn rõ một vệt màu tối ngay trước cỗ xe. Vệt màu tối đó là hai người đang ngồi trên dàn trước cỗ xe. Một người đàn ông và một người đàn bà. Họ ngồi nhìn xuống chân và chỉ ngẩng đầu lên khi Pet và Patty dừng lại phía trước họ. Bố hỏi: - Có chuyện gì không ổn vậy? Ngựa của ông bà đâu? Người đàn ông đáp: - Tôi không biết nữa. Hồi tối, tôi cột chúng vào cỗ xe và sáng nay chúng không còn nữa. Có ai đó đã cắt dây và dắt chúng đi trong đêm. Bố nói: - Con chó của ông bà làm gì? - Không có chó. Jack ngưng dưới thùng cỗ xe. Nó không gầm gừ nhưng không bước ra. Nó là một con chó tinh khôn nên biết rõ phải làm điều gì khi gặp người lạ. Bố nói với người đàn ông: - Vậy thì ngựa của ông bà mất rồi. Ông bà không bao giờ còn tìm lại được chúng đâu. Treo cổ là điều tốt lành cho bọn trộm ngựa. Người đàn ông nói: - Đúng thế. Bố nhìn Mẹ và Mẹ kín đáo gật đầu. Rồi Bố lên tiếng: - Ông bà hãy đi cùng chúng tôi tới Independence. Người đàn ông nói: - Không. Những gì chúng tôi có đều gom hết trong xe. Chúng tôi không thể rời khỏi xe được. Bố kêu lên: - Sao thế được! Ông sẽ làm gì? Dọc đường này nhiều ngày, nhiều tuần có thể không có ai qua. Ông không thể ở đây được. Người đàn ông nói: - Tôi không biết nữa. - Chúng tôi sẽ ở lại trong xe của mình. Người đàn bà lên tiếng. Bà cúi nhìn những bàn tay của mình đặt cạnh vạt áo và Laura không thể nhìn rõ mặt của bà. Cô chỉ nhìn được một bên chiếc nón. Bố nói với họ: - Tốt hơn là hãy đi. Rồi ông bà có thể trở lại kiếm xe sau. Người đàn bà nói: - Không. Họ không rời cỗ xe vì mọi thứ họ có đều ở đó. Thế là cuối cùng Bố đánh xe đi, bỏ họ ngồi lại trên dàn xe, hoàn toàn trơ trọi giữa đồng cỏ. Bố cằn nhằn một mình: - Những kẻ mới nhập cuộc! Mọi thứ họ có và không có chó canh chừng. Không tự mình canh chừng. Và cột ngựa bằng mấy sợi dây! Bố khụt khịt mũi: - Những kẻ mới nhập cuộc! Rồi lại nói: - Không được phép buông thả ở miền tây Mississippi! Mẹ hỏi Bố: - Charles! Rồi họ sẽ ra sao? Bố nói: - Ở Independence có quân đội. Anh sẽ nói lại với người chỉ huy để ông ta cho người tới đưa họ đi. Họ có thể chịu đựng lâu được. Cũng may cho họ là có mình qua đây. Nếu không gặp mình thì không biết khi nào mới có người kiếm thấy họ. Laura ngắm mãi cỗ xe đơn độc cho tới khi nó chỉ còn là một điểm nhỏ trên đồng cỏ. Rồi nó là một cái chấm và mất biến. Suốt thời gian còn lại trong ngày, Bố tiếp tục lái xe và lái xe. Họ không gặp bất kì người nào khác. Khi mặt trời hạ xuống, Bố dừng lại bên một chiếc giếng. ở đây từng có một ngôi nhà nhưng nó đã bị thiêu rụi. Giếng đầy nước ngọt và Laura cùng Mary đi gom những mẩu gỗ chảy đỏ để nhóm lửa trong lúc Bố cởi dây, cho ngựa uống nước và buộc chúng vào cọc. Rồi Bố đem ghế ngồi từ trên xe xuống và nhấc thùng thức ăn ra. Ngọn lửa bùng lên rực rỡ và Mẹ nhanh chóng lo nấu bữa tối. Mọi việc lại diễn ra đúng như trước lúc họ dựng nhà. Bố Mẹ và bé Carrie ngồi trên ghế xe, còn Laura và Mary ngồi trên dàn ghế trước. Họ ăn bữa tối ngon lanh và sưởi ấm bên ngọn lửa trại. Pet và Patty cùng Bunny gặm đám cỏ non trong lúc Laura dành lại những mẩu thức ăn cho Jack để dù nó không nài xin nhưng vẫn có thể ăn no căng khi cả nhà xong bữa tối. Rồi mặt trời xuống khuất hẳn ở thật xa về phía tây và đã tới lúc dựng trại qua đêm. Bố buộc Pet và Patty vào thùng thức ăn đặt ở cuối thùng xe. Bố cũng buộc Bunny vào bên cạnh. Rồi Bố mang bữa bắp ăn tối tới cho chúng. Sau đó, Bố ngồi bên đống lửa phì phà tẩu thuốc trong lúc Mẹ đưa Mary và Laura lên giường, đặt bé Carrie nằm bên các cô. Mẹ tới ngồi xuống bên cạnh Bố bên đống lửa và Bố lấy đàn ra khỏi hộp, bắt đầu chơi đàn. - Ô, Susanna, đừng khóc cho anh. Tiếng đàn nỉ non và Bố bắt đầu hát: Anh hướng về cùng California xa thẳm Với chiếc xoong sạch bóng trên chân Tiếc nhớ mãi ngôi nhà thân yêu ấy Ước mong thầm nó không phải của anh Bố ngưng hát nói: - Em biết không, Caroline. Anh đang nghĩ là những con thỏ sẽ hết sức ngạc nhiên khi tới ăn mảnh vườn rau chúng mình trồng. Mẹ nói: - Đừng nhắc nữa, Charles. Bố nói với Mẹ: - Đừng bao giờ tiếc, Caroline. Mình sẽ có một vườn rau tốt hơn. Thế nào mình cũng làm được nhiều hơn so với khi còn ở trong vùng đất của người da đỏ. Mẹ nói: - Em chẳng biết điều gì. Bố đáp: - Sao thế, vậy là con la rồi! Rồi Mẹ bật cười và Bố lại tiếp tục đàn, hát: Tới miền nam, anh dừng chân lại Miền nam ơi, quê hương anh mãi mãi Xa, xa, xa, xa tắp mù khơi Miền nam ơi, xa cuối chân trời. Điều ca nhịp nhàng ngân dài gần như nâng Laura lên khỏi giường. Cô bé phải kìm mình nằm im để khỏi đánh thức bé Carrie. Mary cũng đang ngủ nhưng không bao giờ Laura tỉnh hơn. Cô nghe thấy Jack đang chuẩn bị chỗ nằm dưới thùng xe. Nó quay vòng, quay vòng, đạp chân trên cỏ. Rồi nó cuộn mình lại nằm phịch xuống và thở ra một hơi dài thoải mái. Pet và Patty đang nhai những hạt bắp cuối cùng và những sợi xích rổn rảng. Bunny nằm xuống ngay bên cỗ xe. Tất cả quây quần tại đó, an toàn và đầy đủ trong đêm dưới bầu trời mở rộng đầy sao. Lại thêm một lần tấm bạt mui xe trở thành mái nhà. Tiếng đàn chuyển sang một hành khúc và giọng Bố hát sang sảng tựa hồ tiếng chuông: Sát cánh bên nhau dưới cờ, các bạn Thêm một lần vai lại kề vai Và hô vang: vì Tự do chiến đấu! Laura cảm thấy cô cũng phải hô lên. Nhưng Mẹ đang khẽ nhìn qua lỗ hổng vào trong thùng xe. Mẹ nhắc: - Charles! Laura vẫn còn thức. Con bé không thể ngủ nổi với tiếng nhạc như thế đâu. Bố không lên tiếng nhưng điệu đàn chuyển đổi. Nhè nhẹ và nối tiếp tiếng đàn kéo dài dìu dặt du dương một nhịp điệu bập bềnh ru vỗ Laura. Cô thấy mí mắt mình khép lại. Rồi cô bắt đầu trôi dật dờ trên những đợt sóng cỏ xanh vô tận và giọng ca của Bố trôi theo cùng cô: Thuyền trôi trên nước trong xanh Mái chèo khua sóng bập bềnh thuyền xa Buồm căng thuyền nhẹ lướt xa Người yêu ơi, biết bến bờ là đâu Ngày đêm mãi mãi bên nhau Tập 3: Cậu Bé Quê Chương 1: Những Ngày Tới Trường Vào lúc Laura Ingalls sống trong những ngôi nhà nhỏ trong vùng thảo nguyên Minnesota thì Almanzo James Wilder sống trong một nông trại thuộc tiểu bang New York. Khác với Laura, xung quanh Almanzo không có ác thú mà chỉ có heo, cừu, bò, ngựa. Những con vật này là những người bạn thân thiết trong buổi đời của cậu bé Almanzo. Sinh hoạt hàng ngày của cậu không khi nào tách rời khỏi những người bạn thân thiết, hiền hoà này nhưng không phải hoàn toàn thầm lặng. Cậu vẫn là một chiến sĩ nhỏ bé trong một trận đánh vĩ đại mà những người muốn vững bước vào đời không thể không biết tới. “Cậu bé quê” kể lại đoạn đời thơ ấu của Almanzo cũng chính là một cuốn phim sinh động nhất về trận đánh vĩ đại mà cậu bé quê Almanzo đã tham gia chiến đấu từ khi mới vừa tám tuổi. 01- NHỮNG NGÀY TỚI TRƯỜNG Lúc đó là tháng giêng tại miền bắc bang New York vào sáu mươi bảy năm trước. Tuyết phủ dày khắp nơi. Tuyết chất đống trên các nhánh càn trần trụi của những cây sồi, cây sến, cây trường khế và bẻ cong những nhánh cành tuyết tùng, vân sam xanh mượt như vùi lấp hết thảy. Những gợn sóng tuyết bao phủ các cánh đồng và các bờ giậu đá. Xuôi theo con đường băng qua các lùm cây, một cậu bé mải miết bước theo người anh lớn, Royal cùng hai chị gái, Eliza Jane và Alice. Royal mười ba tuổi, Eliza Jane mười hai, còn Alice lên mười. Almanzo là cậu bé ít tuổi nhất và đang đến trường lần đầu, vì cậu chưa tròn chín tuổi. Cậu đang phải rảo bước để theo kịp mọi người và cậu còn phải mang thùng thức ăn. Cậu cằn nhằn: - Đúng ra Royal phải mang cái này. Anh ấy lớn hơn em mà. Royal đi trước dẫn đường, to lớn và có vẻ đàn ông với đôi ủng. Eliza Jane nói: - Không đâu, Manzo. Bây giờ tới lượt em phải mang vì em nhỏ nhất. Eliza Jane nói với một giọng sai khiến. Cô luôn biết việc gì là tốt nhất để làm và sai phái Almanzo và Alice. Almanzo vội bước theo Royal còn Alice vội bước theo Eliza Jane trong những lối đi được vét sâu bởi những cỗ xe trượt tuyết. Tuyết mềm nhẹ chất cao ở hai bên. Lối đí là một đoạn dốc dài thoai thoải rồi qua một cây cầu nhỏ kéo thêm khoảng một dặm xuyên giữa những lùm cây đông cứng để tới trường. Hơi lạnh bám cứng mí mắt Almanzo và khiến mũi cậu tê cóng nhưng cậu vẫn cảm thấy ấm trong lớp y phục bằng lên. Thứ len này đều làm bằng lông cừu của cha. Áo lót của cậu màu trắng ngà nhưng má đã nhuộm màu thứ len dùng may áo ngoài. Những vỏ đậu màu tía đã nhuộm màu những sợi chỉ khâu áo khoác và quần dài. Rồi má kết lại, ngâm tẩm, gói vào trong một mảnh vải hồ dày. Gió, hơi lạnh và ngay cả mưa dầm cũng không thể thấm qua mảnh vải hồ dầy do má làm. Để may chiếc ghilê của Almanzo, má đã nhuộm len thành một màu anh đào và đính thêm một lớp vải mỏng, mềm. Chiếc áo này có màu tươi thật đẹp và ấm áp. Chiếc quần dài màu nâu của Almanzo gắn liền với chiếc ghilê màu đỏ bằng một hàng nút đồng sáng loáng quanh người, cổ chiếc ghilê cài nút gọn gàng lên tới cằm và chiếc áo choàng bằng vải hồ màu nâu cũng cài nút. Má may mũ cho cậu bằng cùng cùng thứ vải hồ màu nâu với mấy dải ấm thắt dưới cằm. Đôi bao tay màu đỏ của cậu được buộc vào một sợi dây kéo theo ống tay áo vòng qua sau gáy. Như thế để cậu không làm rớt mất. Cậu mang đôi vớ kéo lên trùm tới ống quần lót và còn mặc thêm một chiếc quần dài màu nâu phía ngoài, đi giày da. Giày của cậu giống hệt thứ giày của người da đỏ. Khi đi ra ngoài vào mùa đông, các cô gái đều mang mạng che mặt. Nhưng Almanzo là con trai nên cậu để mặt trần trong sương giá. Hai má cậu đỏ au như những trái táo, mũi đỏ hơn cả hoa anh đào và sau khi lội bộ hơn một dặm rưỡi đường, cậu sung sướng được nhìn thấy ngôi trường. Trường đứng trơ trọi giữa những lùm cây đông giá ngay chân đồi Hardscrabble. Khói đang tỏa lên từ ống khói và thấy giáo đã xúc một lối đi xuyên qua các đống tuyết tới cửa. Trên một khoảng tuyết dày bên lối đi, năm gã con trai lớn con đang vật lộn. Almanzo kinh hãi khi nhìn thấy chúng. Royal nhắc đừng sợ nhưng cậu vẫn sợ. Chúng là những đứa trẻ lớn vùng Hardscrabble và mọi người đều sợ chúng. Chúng thường đập phá xe trượt tuyết của trẻ nhỏ để cười vui. Chúng túm lấy một đứa bé, nắm hai chân dựng ngược lên cho vùi đầu trong tuyết. Nhiều lúc, chúng buộc hai đứa bé phải đánh lộn, mặc dù hai đứa bé không muốn và van nài để khỏi phải làm theo ý chúng. Những đứa con trai lớn này đều đã ở tuổi mười sáu, mười bảy và chỉ đến trường vào thời gian giữa mùa đông. Chúng tới để đánh thầy giáo và đập phá ngôi trường. Chúng tự hào là đã khiến không một thầy giáo nào theo hết thời gian dạy mùa đông ở trường này và không một thầy giáo nào tránh khỏi cảnh ngộ này. Thầy giáo niên khoá này là một người trẻ, gày và xanh xao. Tên thầy là Corse. Thầy nhã nhặn, kiên nhẫn, không bao giờ dùng roi vọt với đám trò nhỏ khi chúng quên không biết đánh vần một chữ. Almanzo cảm thấy muốn bệnh khi hình dung cảnh thầy Corse sẽ bị mấy đứa lớn đánh đập ra sao. Thầy Corse quá nhỏ con để đối đầu với chúng. Sự im lặng trong lớp học càng khiến nghe rõ hơn tiếng ồn ào do mấy đứa con trai lớn đang tạo ra ở phía ngoài. Một đám học sinh khác đứng chụm lại gần lò sưởi ở giữa phòng huýt gió. Thầy Corse ngồi ở sau bàn. Một gò má gầy guộc tựa lên bàn tay yếu ớt của thầy và thầy đang đọc sách. Thầy nhìn lên và nói một cách vui vẻ: - Chào các em! Royal, Eliza Jane và Alice đáp chào thầy một cách lễ phép nhưng Almanzo không lên tiếng. Cậu đứng cạnh chiếc bàn nhìn thầy Corse. Thầy Corse mỉm cười với cậu và nói: - Em có biết tối nay tôi sẽ tới nhà em cùng với em không? Almanzo hết sức bối rối không thể trả lời. Thầy Corse tiếp: - Đúng vậy đó! Đã tới phiên của ba em rồi. Mỗi gia đình trong quận đều phải lo ăn ở cho thầy giáo trong hai tuần lễ. Thầy lần lượt đi từ trại này đến trại khác sau mỗi hai tuần lễ. Sau đó, thầy đóng cửa trường chấm dứt khoá học mùa đông. Nói xong, thầy Corse gõ nhè nhẹ chiếc thước lên mặt bàn báo giờ học đã bắt đầu. Tất cả học sinh trai gái đi tới chỗ ngồi của mình. Phòng học có một lò sưởi lớn và có một thùng gỗ ở chính giữa chia phòng thành hai phần. Phần bên trái dành cho con gái và phần bên phải dành cho con trai. Học trò ngồi theo cách lớn nhất ngồi ở sau cùng, nhỏ hơn ngồi ở giữa và nhỏ nhất ngồi ở hàng đầu. Tất cả ghễ ngồi đều có một cỡ. Đám học trò lớn đặt đầu gối dưới bàn một cách khó khăn còn đám học trò nhỏ lại không đặt nổi chân trên nền nhà. Almanzo và Miles Lewis mới tới lớp lần đầu nên ngồi ngay ở hàng ghế trên hết và không có bàn. Cả hai phải cầm những tập sách vỡ lòng trên tay. Rồi thầy Corse bước tới cửa sổ, vỗ lên thành cửa. Mấy đứa lớn gây ồn ào ở lối vào, vừa giễu cợt, vừa cười hô hố. Chúng đá bật cánh cửa ra vào và nghêng ngang bước tới. Bill Lớn Ritchie là thủ lãnh của chúng. Những nắm tay của nó cũng to ngang với nắm tay của ba Almanzo. Nó giậm mạnh chân cho tuyết rơi xuống và đi lang bang huyên náo tới chỗ ngồi ở cuối lớp. Bốn đứa khác đều rập theo gây ầm ĩ cùng cực. Thầy Corse không nói gì. Trong lớp không được phép huýt gió và cũng không được phép nhấp nhổm. Mọi người đều phải giữ im lặng và hoàn toàn chăm chú vào bài học. Almanzo và Miles dựng đứng những cuốn sách vỡ lòng và cố không đung đưa cẳng chân. Chân chúng treo lơ lửng dưới ghế nên mỏi tới độ nhức buốt. Thỉnh thoảng một chân đột ngột đá bật lên trước khi Almanzo kịp kìm lại. Rồi cậu cố giữ cho không có điều gì xảy ra nhưng cậu vẫn cảm thấy thầy Corse đang nhìn cậu. ở hàng ghế cuối lớp, mấy đứa lớn huýt gió, xô đẩy lẫn nhau và gấp mạnh sách lại. Thầy Corse nghiêm giọng: - Bớt ồn một chút đi. Chúng im lặng chừng một phút rồi lại quậy phá. Chúng đang mong thầy Corse phạt chúng. Lúc đó, cả năm đứa sẽ lập tức nhảy bổ vào thầy. Cuối cùng lớp vỡ lòng được gọi lên và Almanzo trượt xuống chỗ ngồi và cùng Miles tới trước bàn thầy giáo. Thầy Corse cầm lấy cuốn sách của Almanzo và chỉ cho hai đứa cách đánh vần một số từ. Thuở Royal còn ở lớp vỡ lòng, cậu thường trở về nhà lúc đêm tối với những bàn tay cứng ngắc và sưng vù. Thầy giáo đã dùng thước kẻ đánh lên lòng bàn tay cậu vì Royal không thuộc bài. Rồi ba nói: - Royal, nếu con còn bị thầy đánh nữa thì ba sẽ cho con một trận đòn để nhớ đời. Nhưng thầy Corse không khi nào dùng thước kẻ đánh vào tay một học trò nhỏ. Khi Almanzo không đánh vần nổi một từ, thầy Corse nói: - Ngồi lại trong giờ chơi và học cho thuộc. Tới giờ chơi, đám con gái được ra trước. Các cô trùm mũ, khoác áo choàng, lặng lẽ bước ra ngoài. Mười lăm phút sau, thầy Corse khẽ gõ lên cửa sổ và các cô trở vào, mở sách học tiếp, lúc đó đám con trai được ra ngoài mười lăm phút. Cả bọn la hét chạy ào ra ngoài trời lạnh. Những đứa ra trước bắt đầu làm những trái cầu tuyết ném đứa khác. Tất cả đều dùng xe trượt tuyết trườn lên đồi Hardscrabble, rồi trên những chiếc xe trượt tuyết, các cậu lao xuống vùn vụt theo triền dốc dài dựng đứng khiến ruột gan đảo lộn. Các cậu lăn vào trong tuyết, chạy nhảy, vật lộn, dùng những trái cầu tuyết ném nhau và cố hết sức la gào thật lớn. Khi Almanzo phải ở lại lớp trong giờ chơi, cậu xấu hổ vì bị giữ ngồi cùng đám con gái. Vào giờ nghỉ trưa, tất cả được phép đi quanh phòng học và trò chuyện. Eliza Jane mở hộp đồ ăn đặt trên mặt bàn. Trong hộp có bánh mì bơ với thịt nhồi, bánh rán với táo, bốn phần bánh kẹp mứt táo thơm ngọt với những cùi bánh mì căng phồng nhồi đầy các khoanh táo được nấu nhừ và lớp nước ép trái cây màu nâu đậm đà. Sau khi Almanzo ăn hết tới những mảnh vụn của phần bánh kẹp và liếm sạch các ngón tay, cậu ngồi trên chiếc ghế dài ở góc nhà lấy một ly nước từ trong hộp dùng muỗng uống. Rồi cậu đội nón, khoác áo, đeo bao tay chạy ra ngoài chơi. Mặt trời đã lên gần thẳng đỉnh đầu. Tuyết khắp nơi biến thành những chùm sáng chói loá và những người kéo gỗ đang xuống đồi Hardscrabble cao ngất trên những chiếc xe trượt chất đầy những khúc cây, những người đàn ông quất roi đen đét và la hét lũ ngựa trong lúc lũ ngựa khua vang những chuỗi lục lạc. Hết thảy đám con trai la hét chạy đến cột xe trượt của mình vào những chiếc xe trượt chở gỗ, còn những đứa không mang xe trượt theo thì nhảy lên cưỡi trên đống cây. Chúng hào hứng vượt qua ngôi trường xuống đường cái, những trái cầu tuyết bay dầy đặc. Trên các đống cây có những đứa vật lộn, xô nhau cho ngã xuống những đống tuyết dày. Almanzo và Miles hò hét trên chiếc xe trượt của Miles. Hình như chỉ chưa tới một phút từ khi chúng vượt qua ngôi trường. Nhưng đã qua xa để trở về. Thoạt đầu chúng đi bộ rồi rảo bước nhanh hơn, rồi chúng chạy và thở hổn hển. Chúng sợ bị trễ giờ. Rồi chúng biết chắc là đã bị trễ. Thầy Corse sẽ phạt roi tất cả. Ngôi trường đứng lặng lẽ. Không đứa nào muốn vào lớp nhưng vẫn phải vào. Chúng rón rén bước một cách nhẹ nhàng. Thầy Corse ngồi ở bàn và tất cả đám học sinh con gái ngồi tại chỗ đang học. Riêng phòng dành cho đám học trò con trai mọi chiếc ghế đều trống. Almanzo trườn về chỗ ngồi trong sự im lặng đầy kinh hãi. Cậu cầm lấy cuốn sách vỡ lòng và cố không thở mạnh. Thầy Corse không nói một điều gì. Bill Ritchie và mấy đứa học trò lớn thì bất cần. Chúng mặc sức gây ồn ào trong lúc đi về chỗ ngồi. Thầy Corse đợi cho tới khi chúng im lặng. Lúc đó thầy nói: - Tôi bỏ qua lỗi về chậm lần này của các em. Nhưng không được phạm thêm một lần nữa. Cả lớp đều biết chắc mấy đứa lớn vẫn sẽ về trễ. Thầy Corse không thể phạt chúng được vì chúng có thể hành hung thầy và đó cũng là điều chúng đang toan tính. Chương 2: Buổi Tối Mùa Đông Không khí như đông lại thành băng và các nhánh cây chìm trong hơi lạnh. Một làn sáng nhàn nhạt dội lên từ mặt tuyết nhưng bóng tối đã tụ lại trong những lùm cây. Trời chạng vạng khi Almanzo mải miết trên triền dốc dài cuối cùng để trở về trại. Cậu rảo bước đi theo Royal cũng đang cố bước theo thầy Corse. Alice bước nhanh theo Eliza Jane trên một lằn xe trượt tuyết khác. Tất cả đều phủ kín miệng tránh hơi lạnh và không nói gì. Tuyết phủ khắp mái của ngôi nhà lớn sơn màu đỏ và tất cả các mái hiên đều có một đường viền bằng các dải băng cực lớn. Trước nhà tối om, nhưng một đường xe trượt đưa tới các nhà kho lớn và một lối đi đã được xúc dọn tới tận cửa hông, từ đó có ánh nến chiếu qua các ô cửa sổ nhà bếp. Almanzo không đi vào nhà. Câu đưa thùng đựng thức ăn cho Alice rồi cùng Royal xuống khu nhà kho. Có ba dãy nhà kho lớn, dài quây quanh ba cạnh của một khoảng sân kho vuông vức. Cả ba dãy nhà kho này là những nhà kho hoàn hảo nhất trong vùng. Trước hết, Almanzo vào khu Kho Ngựa. Kho đối diện với ngôi nhà và dài một trăm bộ. Mỗi dải ngăn chuồng ngựa nằm ở chính giữa, một đầu là lán ngựa con và bên kia là chuồng gà để kín đáo, còn đầu khác là nhà xe. Nhà xe rộng đến mức hai cỗ xe độc mã và một cỗ xe chở khách có thể chạy thẳng vào đó vẫn dư chỗ để thả ngựa. Từ đây, lũ ngựa đi tới chuồng của chúng mà không phải qua dưới trời trống trải lanh giá. Khu nhà Kho Lớn bắt đầu từ phía tây của khu Kho Ngựa và tạo thành sườn tây của sân kho. Chính giữa Kho lớn là Nền Kho Lớn. Những khuôn cửa ra vào rất rộng mở chạy thẳng ra đồng cỏ để những cỗ xe chở đầy cỏ khô chạy thẳng vào trong. Một đầu nền là gian chứa cỏ khô với năm mươi bộ dài, hai mươi bộ rộng luôn nhồi đầy cỏ khô cao vượt đầu người lên tới chạm mái. Bên kia Nền Kho Lớn là mười bốn ngăn chuồng bò. Bên kia các ngăn chuồng là lán chứa máy và bên kia lán chứa máy là lán chứa dụng cụ. Từ đây, bẻ thẳng góc lại là Kho Nam. Trong Kho Nam là phòng nuôi ăn, rồi các chuồng heo, các chuồng bê và Nền Kho Nam. Nền bằng đất nên rộng hơn cả nền kho lớn và chiếc máy xay cánh quạt đặt tại đây. Bên kia nhà Kho Nam là một nhà lán dành cho các gia súc còn nhỏ và bên kia lán là bãi nhốt cừu. Đó là tất cả các phần của Kho Nam. Một hàng rào ván khép kín cao mười hai bộ được dựng dọc mép phía đông của sân khi. Ba khu nhà kho lớn và hàng rào này bọc kín khoảng sân. Gió gầm hú và tuyết xối dập lên chúng nhưng không thể xâm nhập vào bên trong. Mùa đông giông bão mức nào cũng khó có hơn hai bộ tuyết trong khoảng sân kho được che chở. Khi Almanzo vào các nhà kho lớn, cậu luôn đi qua khuôn cửa nhỏ của Kho Ngựa. Cậu rất thương lũ ngựa. Tại đó, chúng đứng trong những ngăn chuồng có mái che, bộ lông màu nâu sáng óng mượt, sạch sẽ với những chiếc đuôi và bờm màu đen dài thượt. Lũ ngựa điềm tĩnh khôn ngoan bình thản nhai cỏ. Đám ngựa ba năm tuổi đưa mũi qua các gióng cản hình như để cùng nhau thì thầm. Rồi chúng áp nhẹ lỗ mũi dọc cần cổ nhau, làm như muốn cắn và chúng hí lên, xoay vòng, đá giỡn. Những con ngựa già quay đầu nhìn tựa hồ như các bà mẹ nhìn đám con nhỏ. Nhưng lũ ngựa con hào hứng chạy quanh trên những chiếc chân lênh khênh nhìn chằm chằm lạ lùng. Tất cả lũ ngựa đều biết Almanzo. Tai chúng vểnh lên và mắt sáng rỡ khi thấy cậu bé. Lũ ngựa ba năm tuổi háo hức xô tới chen chúc đưa đầu ra ngoài để cọ vào người cậu. Vài sợi lông cứng nhô ra từ những chiếc mũi mềm như nhung của chúng và trên trán chúng là những sợi lông ngắn, nhuyễn mượt như tơ. Cần cổ chúng đầy đặn mạnh mẽ, vươn cao một cách tự hào và những chiếc bờm màu đen phủ xuống như một dải tua viền dày. Có thể thọc bàn tay dọc theo những cần cổ mạnh mẽ vươn cong để nhận hơi nóng dưới những chiếc bờm. Nhưng Almanzo ít dám làm thế. Cậu không được phép đụng tới những con ngựa ba năm tuổi xinh đẹp. Cậu không thể vào ô chuồng và chải sạch lông cho chúng. Cậu chỉ mới tám tuổi và ba không cho cậu dắt dẫn lũ ngựa non và ngựa con vì lũ ngựa non và ngựa con chưa được luyện thuần rất dễ bị làm hư. Một cậu bé không biết gì khác hơn là khiến chúng kinh hãi, quấy rầy chúng hoặc đánh đập chúng và như thế sẽ làm hỏng chúng. Cách này chỉ dạy cho chúng cắn, đá và thù ghét con người nên không bao giờ trở thành những con ngựa tốt. Almanzo hiểu biết hơn, cậu không khi nào doạ nạt hoặc làm đau một con ngựa con xinh đẹp. Cậu luôn điềm đạm, dễ thương và kiên trì, không làm một con ngựa con giật mình, không la nó ngay cả khi nó đạp lên bàn chân cậu. Nhưng ba không tin cậu làm được điều đó. Cho nên Almanzo chỉ có thể ngắm thật lâu những con ngựa ba năm tuổi đầy háo hức. Cậu chỉ khẽ vuốt những chiếc mũi mềm như nhung của chúng rồi rời xa chúng thật nhanh và choàng chiếc áo choàng nhà kho trên bộ đồ đẹp mặc đến trường. Ba đã đổ đầy nước trên tất cả các khạp và đang khởi sự mang thóc cho ngựa. Royal và Almanzo với những chiếc chĩa, đi từ ngăn chuồng này qua ngăn chuồng khác dọn sạch hết cỏ khô dơ và chuyển số cỏ khô mới trong máng ăn ra làm thành những ổ đệm sạch cho đám bò sữa, bò đực, bê và cừu. Các cậu không làm ổ cho lũ heo vì lũ heo đã có nệm riêng và giữ khá sạch. Tại Kho Nam, hai con bê nhỏ của riêng Almanzo nằm chung trong một ngăn chuồng. Chúng chen nhau sau những chiếc gióng khi nhìn thấy cậu. Hai con bê đều có màu lông hung đỏ và một con có điểm trắng ở trên trán. Almanzo đặt tên cho nó là Star. Con kia có màu lông sáng hơn nên Almanzo gọi nó là Bright. Star và Bright là những con bê nhỏ chưa đầy một năm tuổi. Những chiếc sừng nhỏ của chúng chỉ mới bắt đầu nhú trong đám lông mềm mại ở sát bên tai. Almanzo gãi quanh những chiếc sừng nhỏ này vì cả hai con bê đều thích thế. Chúng thọc những chiếc mũi nhẵn thín ướt át qua giữa các gióng và liếm bằng chiếc lưỡi thô nhám. Almanzo lấy hai củ cà-rốt trong thùng thức ăn của bò bẻ thành từng miếng nhỏ đút cho Star và Bright. Rồi cậu lại cầm cây chĩa leo lên khu cất cỏ khô ở phía trên. ở đây, tối đen, chỉ có một tia sáng nhỏ rọi tới từ những cạnh thiếc đục lỗ của ngọn đèn treo trong lỗi đi bên dưới. Royal và Almazo không đuợc phép mang đèn vào trong khu cất cỏ khô vì sợ gây ra hoả hoạn. Nhưng, một lát sau, các cậu đã có thể nhìn rõ trong bóng tối. Các cậu làm thật nhanh, hất cỏ khô xuống những máng ăn bên dưới. Almanzo nghe rõ tiếng nhai của những con vật đang ăn. Khu chứa cỏ khô như được ủ ấm bởi tất cả các thứ chất ở phía dưới và mùi cỏ khô toả ra một vị ngọt hỗn tạp. Cũng còn có mùi vị của ngựa, bò và mùi lông cừu. Trước khi các cậu chất đầy các máng ăn lại có mùi vị ngọt ngào của sữa nóng đang sủi bọt trong thùng sữa của ba. Almanzo xách chiếc ghế đẩu nhỏ riêng của cậu và một chiếc thùng ngồi xuống trong ngăn chuồng của Blossom để vắt sữa nó. Bàn tay cậu chưa đủ sức để vắt sữa một con bò khó vắt nhưng cậu có thể vắt sữa Blossom và Bossy. Đây là những con bò già hiền lành cho sữa dễ dàng, không khi nào quất đuôi vào mặt cậu hoặc hất đổ thùng sữa bằng chân sau. Cậu bé ngồi kẹp chiếc thùng giữa hai bàn chân, vắt sữa một cách đều đặn. Trái, phải! Suỳ, suỳ! Những dòng sữa tuôn vào thùng trong khi lũ bò tiếp tục ăn thóc và nhai những củ cà-rốt. Những con mèo nhà kho gù người tựa vào các góc chuồng gừ gừ luôn miệng. Chúng đều mập căng và bóng mượt do ăn chuột. Mọi con mèo nhà kho đều có tai rộng, đuôi dài là những dấu hiệu đảm bảo loại mèo săn chuột giỏi. Suốt ngày đêm chúng sục xạo các khu nhà kho không cho lũ chuột tới các thùng đồ ăn và vào giờ vắt sữa, chúng quây quần quanh những xoong sữa nóng hổi. Khi vắt sữa xong, Almanzo đổ đầy sữa vào những chiếc xoong cho lũ mèo. Cha cậu đã bước vào ngăn chuồng của Blossom với chiếc thùng và chiếc ghế đẩu, ngồi xuống để vắt những giọt sữa cuối cùng từ bầu vú của Blossom. Nhưng Almanzo đã vắt kiệt hết rồi. Rồi ba qua ngăn chuồng của Bossy. Ngay lập tức, ông quay ra gọi: - Con là một người vắt sữa giỏi đó, con trai. Almanzo chỉ xoay tròn người và đá lên đám cỏ dưới nền nhà. Cậu hài lòng đến nỗi không nói được gì. Bây giờ cậu có thể tự mình vắt sữa mấy con bò, ba không cần phải vắt lại sau khi cậu làm xong. Không bao lâu nữa, cậu sẽ vắt sữa những con bò khó cho sữa nhất. Cha của Almanzo có cặp mắt xanh tươi tắn luôn sáng quắc. Ông là một người bự con với mái tóc và bộ râu dài đều màu nâu nhạt. Chiếc áo choàng dài bằng len màu nâu của ông buông tới đầu cặp ủng cao. Hai thân áo trước bắt chéo trên khuôn ngực nở nang và được cột bằng dây lưng quanh eo rồi vạt áo dưới buông lỏng trên ống quần dài bằng vải hồ màu nâu. Ba là một nhân vật quan trong. Ông có một trang trại lớn. Ba điều khiển những con ngựa tuyệt nhất vùng này. Ba luôn giữ đúng lời nói và hàng năm đều bỏ tiền vào ngân hàng. Khi ba lái xe tới Malone, tất cả dân thị trấn đều nói với ba một cách kính phục. Royal bước tới với thùng sữa và cây đèn. Cậu hạ thấp giọng nói: - Ba, Bill Ritchie hôm nay có tới trường. Những lỗ nhỏ trên cây đèn thiếc rọi những đốm sáng tối nhỏ chằng chịt trên mọi thứ. Almanzo có thể thấy rõ ba có vẻ nghiêm trang vừa mân mê bộ râu vừa khẽ lắc đầu. Almanzo chờ đợi một cách lo lắng, nhưng ba chỉ nhấc cây đèn lên đi vòng lần chót các khu nhà kho để coi mọi thứ đã ngăn nắp chưa. Rồi, mấy cha con đi lên nhà. Lạnh khủng khiếp. Đêm đen đặc và im ắng với những vì sao như những đốm sáng loé sáng nhỏ li ti trên nền trời. Almanzo mừng được vào khu nhà bếp rộng đầy hơi lửa ấm và ánh nến. Cậu đã đói lắm. Nước lạnh từ các thùng nước mưa đang được đun nóng trên lò. Trước tiên là ba rồi tới Royal, sau đó là Almanzo thay phiên sử dụng chiếc bồn tắm đặt trên ghế dài gần cửa ra vào. Almanzo lau khô bằng chiếc khăn cuốn ( *khăn cuốn: Roller-towel: loại khăn bằng vải cuốn vào một trục lăn, đoạn nào dùng rồi sẽ bị cuốn vào trục ) rồi bước tới tấm gương nhỏ trên vách. Rẽ mái tóc ướt và chải thật mượt. Bếp đầy những vành váy đung đưa và xoay vòng. Eliza Jane và Alice bày biện các món ăn bữa tối. Mùi béo ngậy đậm đà của món thịt đùi chiên khiến dạ dày Almanzo cồn cào. Cậu dừng lại chỉ một phút trong phòng để đồ ăn. Má đang lọc sữa ở cuối căn phòng dài, quay lưng về phía cậu. Các giá đồ ở hai bên đầy ắp những món ăn ngon lành. Những miếng phô-mai màu vàng chất đống bên những ổ bánh màu nâu làm bằng đường trường khế, những ổ bánh mì mới ra lò với lớp vỏ khô giòn, bốn ổ bánh ngọt lớn và một giá chất đầy bánh patê nhân ngọt. Một chiếc bánh patê được cắt ra và một mảng vỏ rời đầy quyến rũ thôi thúc không bao giờ nên bỏ lỡ. Almanzo vẫn chưa bước tới, nhưng Eliza Jane đã kêu lên: - Almanzo dừng lại đó, má ơi! Má không quay lại, nói: - Để nguyên đó, Almanzo. Con sẽ làm hư bữa ăn tối của con đó. Almanzo muốn phát điên lên vì cảm thấy vô lý. Một miếng nhỏ làm sao có thể làm hư cả bữa ăn tối. Cậu đang chết đói mà bắt cậu phải chờ tới lúc ngồi vào bàn ăn chứ không để cho cậu ăn trước một miếng. Điều này quả là không có ý nghĩa gì. Nhưng đương nhiên cậu không thể nói điều đó ra với má. Cậu phải hoàn toàn im lặng vâng lời bà. Cậu le dài lưỡi ra với Eliza Jane. Cô không thể làm gì nổi vì cả hai tay đều vướng bận. Rồi cậu vội vã bước vào phòng ăn. Ánh đèn sáng loá. Gần khu lò sưởi lấn vào vách, ba đang nói chuyện về chính trị với thầy Corse. Mặt ba hướng về phía bàn ăn và Almanzo không dám sờ vào một thứ gì trên đó. Có những lát mỏng phô-mai hấp dẫn, một đĩa giò thủ run rẩy, những đĩa thuỷ tinh mứt, kẹo, một bình cao đựng sữa và một xoong đậu hấp với mỡ heo khô giòn trong những mẩu vỏ bánh nâu bóng đang bốc hơi. Almanzo nhìn hết một lượt và thấy một thứ gì xoắn vặn trong người. Cậu nuốt nước miếng và từ từ lảng ra xa. Phòng ăn rất đẹp. Giấy dán vách màu sô-cô-la với những sọc xanh lá cây, những hàng hoa đỏ nhỏ li ti và má đã kết vào những mảnh thảm phù hợp, má nhuộm những mảnh xanh lá cây và màu sô-cô-la đính vào các sọc với một mảnh sọc đỏ trắng xoắn ở giữa. Những chiếc tủ búp-phê cao ở góc phòng chất đầy những món đồ quyến rũ - vỏ sò, cây hoá đá, những hòn đá kì lạ và sách vở. Và phía trên ngay chính giữa bàn treo lơ lửng một thứ chỉ có trong mơ. Alice chọn những sợi rơm sạch màu vàng, kết lại một cách thông thoáng với những miếng vải màu sáng đính ở các góc. Một hơi gió nhje nhất đủ khiến nó đu đưa lay động và ánh đèn chuyển động lấp lánh dọc theo những cọng rơm vàng óng. Nhưng với Almanzo, hình ảnh đẹp nhất là má đang bưng chiếc đĩa lớn bằng sứ có vẽ hình nhành liễu đầy ắp món thịt đùi đang sôi xèo xèo. Má thấp, phốp pháp và duyên dáng. Mắt má màu xanh và mái tóc màu nâu giống hệt những cánh chim mượt bóng. Một hàng nút màu đỏ chạy dọc phía trước chiếc áo choàng len màu rượu nho từ vòng khăn cổ bằng vải trắng xuống tới chiếc tạp dề trắng quấn quanh eo. Những ống tay áo rộng buông xuống tựa hồ những mảng loe ra từ phía trên kia của chiếc đĩa sứ màu xanh. Má hơi khựng lại rồi giật mạnh để bước qua cửa vì vành váy của má rộng hơn khuôn cửa. Mùi vị món thịt đùi hầu như khiến Almanzo không còn chịu đựng nổi. Má đặt chiếc đĩa sứ lên mặt bàn, quan sát coi mọi thứ đã sẵn sàng và hoàn hảo chưa. Má cởi tạp dề treo trong nhà bếp, chờ cho tới lúc ba dứt câu đang nói với thầy Corse. Cuối cùng, má lên tiếng: - James, bữa ăn sẵn sàng rồi. Thời gian dường như quá dài trước khi mọi người ngồi vào chỗ. Ba ngồi ở đầu bàn còn má ngồi ở cuối bàn. Rồi tất cả đều cúi đầu trong lúc ba đọc lời cảm tạ Chúa đã ban cho thực phẩm. Sau đó là một giây ngưng nghỉ trước khi ba mở tấm khăn ăn cài cẩn thận vào cổ chiếc áo choàng dài. Ba bắt đầu lấy thức ăn vào các đĩa ăn. Trước tiên, ba tiếp đầy đĩa của thầy Corse. Rồi tới đĩa của má. Kế tiếp là đĩa của Royal, Eliza Jane và Alice. Cuối cùng, ba tiếp đầy đĩa của Almanzo. Almanzo nói: - Cám ơn ba. Đó là những lời duy nhất cậu được phép nói trong bàn ăn. Trẻ nhỏ luôn bị canh chừng và không được nêu ý kiến. Ba, má và thầy Corse có thể chuyện trò, nhưng Royal, Eliza Jane, Alice và Almanzo phải im lặng. Almanzo ăn món đậu hầm mềm rục ngọt lịm. Cậu cắn miếng thịt heo ướp muối toả mùi thơm như kem trong miệng. Cậu ăn những củ khoai tây nhừ như bột với nước thịt hầm nâu sậm. Cậu ăn tiếp thịt đùi hầm. Cậu cắn sâu vào phần ruột bánh mì mềm nhũn trét bơ bóng mượt và ăn luôn phần vỏ bánh vàng ngậy giòn tan. Cậu phá vỡ phần đỉnh cao của món củ cải nghiền màu trắng xám và một phần trái bí ngô hầm vàng rượi. Rồi cậu thở ra, ấn sâu hơn tấm khăn ăn vào cổ áo ghilê màu đỏ. Cậu ăn thêm món mứt mận, mứt dâu, kẹo nho và những miếng cùi dưa hấu dầm. Cậu cảm thấy đã khá đủ. Từ từ, cậu ăn tiếp một miếng bánh bí nhồi patê. Cậu nghe ba nói với thầy Corse: - Royal nói với tôi là hôm nay lũ trẻ Hardscrabble đã đến trường. Thầy Corse đáp: - Dạ. - Tôi có nghe chúng nói là sẽ liệng thầy ra khỏi lớp. Thầy Corse nói: - Tôi nghĩ là chúng sẽ làm thế. Ba thổi nhẹ ly trà. Ông nhấm nháp uống cạn và rót thêm nước vào ly. Ông nói: - Chúng đã tống khứ hai thầy giáo. Năm ngoái, chúng đã đánh thầy Jonas Lane nặng tới mức chết sau đó. Thầy Corse nói: - Tôi biết. Jonas Lane và tôi học cùng trường. Anh ấy là bạn tôi. Ba không nói gì thêm nữa. Chương 3: Đêm Mùa Đông Sau bữa ăn tối, Almanzo lo cho đôi giày da của mình. Mỗi đêm, cậu đều ngồi bên bếp lò, chà mỡ lên giày. Cậu hơ giày trên hơi nóng và dùng lòng bàn tay chà thứ mỡ khô bốc mùi lên lớp da. Giày da của cậu lúc nào cũng mềm mại và giữ khô các bàn chân cậu chừng nào mà da giày còn được bôi mỡ hoàn hảo và cậu chỉ ngừng chà khi da giày đã thấm đủ mỡ. Royal cũng ngồi bên cạnh bôi mỡ lên đôi ủng của mình. Almanzo không có ủng nên phải mang giày vì cậu còn là một đứa bé. Má và các cô gái lo rửa chén dĩa cùng quét dọn phòng ăn, nhà bếp, còn ở tầng hầm dưới, ba lo cắt cà-rốt, khoai tây dành cho lũ bò vào ngày mai. Khi làm xong việc, ba leo lên thang hầm chứa, mang theo một bình rượu táo ngọt và một nắm táo. Royal xách một chảo rang bắp và một chảo bắp rang. Má dùng tro ủ lửa trong lò bếp cho âm ỉ suốt đêm và khi mọi người đã ra khỏi nhà bếp, má thổi tắt các ngọn đèn. Tất cả quây quần ấm áp bên lò sưởi lớn trong vách phòng ăn. Sau lò sưởi là phòng khách, nơi không ai đi tới trừ khi có khách viếng thăm. Lò sưởi này thật hoàn hảo, sưởi ấm cả phòng ăn lẫn phòng khách, còn ống khói sưởi ấm các phòng ngủ ở tầng trên và toàn thể đầu ống khói là lò hấp. Royal mở cánh cửa sát lò sưởi, dùng cây cời đập những khúc cây đã cháy hết thành một lớp than sáng rực. Cậu bỏ ba nắm bắp rang lớn vào chiếc chảo rang lớn bọc kẽm và hơ trên lớp than. Một lát sau, một hạt bắp nổ lốp bốp, rồi một hạt khác, rồi ba, bốn hạt nữa cùng nổ và tức thời hàng trăm hạt bắp nổ loạn xạ. Khi chiếc chảo lớn chất đầy những hạt bắp rang nở trắng như hoa. Alice tưới lên một lớp bơ thơm ngậy, đảo đều và trộn thêm muối. Bắp nóng, giòn tan, thơm mùi bơ, đậm đà và mọi người có thể ăn tuỳ thích. Má vừa đan vừa đung đưa trong chiếc ghế đu có lưng tựa cao. Ba dùng một miếng miểng chai thận trọng chuốt chiếc cán búa mới. Royal khắc một chuỗi mắt xích nhỏ xíu trên một cành thông nhẵn bóng và Alice ngồi trên chiếc gối quì đang o bế những món đồ len thêu. Tất cả đều ăn bắp rang, táo và uống rượu táo ngọt, ngoại trừ Eliza Jane. Eliza Jane đang đọc lớn những tin tức trên tờ tuần báo New York. Almanzo ngồi trên chiếc ghế kê chân gần lò sưởi, một trái táo trong bàn tay, một chén bắp đặt bên cạnh và một ca rượu táo ngọt đặt dưới đất gần bàn chân. Cậu cạp táo, nhai thêm vài hạt bắp rang rồi uống rượu táo ngọt. Cậu đang nghĩ về món bắp rang. Bắp rang là đặc sản Mỹ. Ngoài trừ người da đỏ, không một ai biết bắp rang cho tới sau khi tổ tiên của dòng Pilgrim đặt chân tới Mỹ. Vào dịp lễ Tạ Ơn đầu tiên, những người da đỏ được mời tới dùng bữa. Họ đến và trút lên bàn một túi lớn đựng đầy bắp rang. Những người trong dòng Pilgrim không biết đây là thứ gì. Người da đỏ đã rang bắp nhưng có lẽ chưa ngon lắm. Bởi họ không thêm bơ, không thêm muối và đã để bắp nguội đi, cứng ngắc sau khi chuyển đi trong một chiếc túi da. Almanzo ngắm từng hạt bắp trước khi ăn. Tất cả đều có hình thù khác nhau. Cậu đã ăn hàng ngàn nắm bắp rang và chưa bao giờ tìm được hai hạt bắp giống nhau. Rồi cậu nghĩ đến, nếu thêm sữa thì cậu sẽ có bắp rang ngào sữa. Chỉ cần lấy một chiếc ly đổ đầy sữa và một chiếc ly khác đầy bắp rang rồi lần lượt bỏ từng hạt bắp rang vào trong sữa cho tới khi hết bắp mà sữa không tràn ra. Làm thế này không phải là làm bánh. Bắp rang và sữa vẫn là hai thứ được đặt chung lại. Như thế cũng khá ngon để ăn. Nhưng Almanzo không đói lắm và cậu biết má không muốn xoong sữa bị khuấy động. Nếu sữa bị khuấy trong lúc đang chuyển thành kem thì kem sẽ không dày. Thế là Almanzo ăn một trái táo khác, uống rượu táo ngọt với bắp rang và không nói gì về món bắp ngào sữa. Đã đến giờ ngủ, khi chiếc đồng hồ gõ chín tiếng, Royal cất chuỗi mắt xích, Alice cất mấy món đồ len. Má cắm những cây kim vào chỉ và ba lên dây đồng hồ. Ba đặt thêm một khúc cây vào trong lò và đóng những cánh chặn. Thầy Corse nói: - Đêm lạnh lắm. Ba đáp: - Bốn mươi độ âm. Gần sáng còn lạnh hơn nữa. Royal thắp một cây nến và Almanzo nặng chĩu mắt bước theo. Hơi lạnh ở những bậc thang lập tức làm cậu tỉnh hẳn. Cậu chạy ào lên gác. Phòng ngủ lạnh đến nỗi cậu hết sức khó khắn mới cởi nổi nút quần áo để mặc chiếc áo ngủ dài bằng len và chụp lên đầu chiếc mũ ngủ. Cậu còn phải quì xuống để đọc kinh cầu nguyện nhưng cậu không làm. Mũi cậu lạnh buốt và hàm răng vao vào nhau lách cách. Cậu nhào vào chiếc giường nệm lông ngỗng mềm mại, chúi vào giữa những tấm phủ và kéo chăn trùm kín mũi. Điều sau đó cậu biết là chiếc đồng hồ lớn ở nhà dưới gõ mười hai tiếng. Bóng đêm đã đè nặng trên mắt, trên trán cậu và giống như chứa đầy những gai băng nhọn. Cậu nghe thấy ai đó đi xuống nhà dưới rồi cửa bếp mở ra và đóng lại. Cậu biết là ba đang đi ra nhà kho. Ngay cả những nhà kho lớn cũng không thể giữ sức khoẻ cho lũ ngựa, bò, dê, heo và cừu. Hai mươi lăm con vật nhỏ phải ngủ dưới một nhà lán trong sân khi. Nếu chúng nằm bất động suốt đêm trong những đêm lạnh thế này, chúng sẽ chết cóng trong khi ngủ. Vì thế, vào nửa đêm, giữa cái lạnh cắt da, ba phải rời chiếc giường ấm áp tới đánh thức chúng dậy. Trong đêm lạnh tối đen, ba khuấy động tất cả đám thủ nhỏ. Ba vừa vung chiếc roi vừa chạy sau chúng quanh khắp sân kho. Ba chạy và giữ cho chúng chạy tới khi nóng người lên. Almanzo lại mở mắt ra và thấy ngọn nến đang nổ lách tách trên bàn. Royal đã mặc quần áo. Hơi thở của cậu đóng thành một lớp trắng trong không khí. Ánh nến lù mù tựa hồ bóng đêm đang cố dập tắt đi. Đột nhiên Royal biến mất, cây nến cũng không còn ở đó nữa và có tiếng má kêu từ ở dưới chân cầu thang: - Almanzo! Có việc gì thế? Con bệnh sao? Năm giờ rồi! Cậu trườn ra, run rẩy. Cậu mặc quần dài, áo ghilê và vừa chạy xuống nhà dưới vừa cài nút, tới bên lò bếp, ba và Royal đã ra nhà kho. Almanzo cầm lấy mấy thùng đựng sữa hối hả chạy. Đêm có vẻ yên tĩnh mênh mông và những vì sao le lói giống như đông cứng giữa bầu trời đen kịt. Khi mọi việc đều xong xuôi, cậu cùng ba và Royal quay lại khu nhà bếp ấm áp thì bữa ăn sáng đã gần sẵn sàng. Mùi thức ăn tuyệt vời biết bao! Má đang chiên bánh xếp và chiếc đĩa sứ màu xanh đựng đầy ắp những khoanh thịt nhồi căng phồng màu nâu sậm trong lớp nước thịt hầm cùng màu đang được hâm nóng trên khoảng trống trước lò bếp. Almanzo rửa ráy thật mau và chải tóc. Ngay khi má lọc sữa xong, cả nhà ngồi xuống và ba đọc lời cầu nguyện cho bữa ăn sáng. Bữa ăn có cháo bột yến mạch với rất nhiều kem và đường trường khế. Cũng có khoai tây chiên, bánh bột kiều mạch vàng óng nhiều ngang tới mức thèm ăn của Almanzo. Còn có các thứ mứt kẹo và bánh rán. Nhưng thứ mà Almanzo thích nhất là món bánh táo kẹp với rất nhiều gia vị, dày dặn, ngọt lịm và có lớp vỏ mềm vụn. Cậu ăn hết hai phần đầu lớn của một chiếc bánh. Rồi, với chiếc mũ phủ kín tai và chiếc khăn trùm trên mặt, thùng đồ ăn trong bàn tay mang găng, cậu khởi sự đi xuống con đường dài để có thêm một ngày tới trường. Cậu không muốn đi. Cậu không muốn tới đó khi những đứa học trò lớn đánh đập thầy Corse. Nhưng cậu phải đến trường vì cậu chưa đầy chín tuổi. Chương 4: Chuyện Bất Ngờ Mỗi ngày vào buổi trưa, những người chở gỗ xuống đồi Hardscrabble và đám học trò cột xe trượt tuyết của chúng vào những chiếc xe chở gỗ trượt thẳng xuống dưới đường. Nhưng chúng chỉ đi được một đoạn ngắn là phải lo trở về cho kịp giờ. Chỉ riêng Bill Lớn Ritchie và các bạn của nó không thèm biết đến hình phạt mà thầy Corse sẽ dành cho chúng. Một ngày, chúng đi luôn cho tới sau giờ nghỉ. Khi lết bộ về lớp học, chúng cười hô hố một cách láo xược với thầy Corse. Thầy chờ cho chúng ngồi vào chỗ. Rồi, thầy đứng lên, tái xanh và nói: - Nếu việc này mà còn xảy ra lần nữa, tôi sẽ phạt các em. Cả đám học trò đều biết chắc sự việc sẽ lại xảy ra vào hôm sau. Tối hôm đó, khi về nhà, Royal và Almanzo đem chuyện kể với ba. Almanzo nghĩ chuyện không hợp lí chút nào. Thầy Corse không đủ lớn con đánh với một trong mấy đứa nó, thế mà tất cả bọn chúng chắc chắn sẽ nhào lên thầy cùng một lúc. Cậu nói: - Con ước là con đủ lớn để đánh với chúng. Ba đáp: - Con trai, thầy Corse được trả công để dạy học. Những người uỷ thác lớp học đã xử sự hợp lý và thẳng thắn với ông ấy. Họ đã nói với ông ấy những gì mà ông ấy cam kết. Ông ấy đã cam kể, đó là công việc của ông ấy, không phải của con. Almanzo vẫn nói: - Nhưng có thể chúng sẽ giết thầy chết! Ba nói: - Đó là việc của ông ấy. Khi một người đàn ông nhận lãnh một công việc, người đó phải nắm trọn quyền cho tới khi hoàn thành công việc. Nếu thầy Corse là một người đàn ông thì ba nghĩ là ông ấy sẽ tự lo. Ông ấy không cần nhờ ai can thiệp. Almanzo vẫn không thể kìm mình không nhắc lại: - Không hợp lý chút nào. Thầy không thể đánh với cả năm đứa chúng nó. Ba nói: - Ba sẽ không ngạc nhiên nếu con bị bất ngờ, con trai! Bây giờ, các con hãy lo làm việc thôi. Nhiều việc không thể chờ suốt đêm được. Vậy là Almanzo đi lo công việc và không nói thêm nữa. Trọn buổi sáng hôm sau, trong lúc ngồi với cuốn sách vỡ lòng cậu không thể học nổi. Cậu sợ muốn chết về điều sắp xảy ra với thầy Corse. Khi lớp học vỡ lòng được gọi lên, cậu không thể đọc bài mới. Cậu phải ngồi lại trong lớp với đám học trò con gái trong giờ nghỉ và cậu ước là cậu có thể đánh được Bill Ritchie. Buổi trưa, cậu ra ngoài chơi và cậu nhìn thấy ông Ritchie, cha của Bill, từ trên đồi xuống với cỗ xe chất đầy gỗ. Tất cả đám học trò đứng nguyên tại chỗ nhìn ông Ritchie. Ông to con, dữ dằn, nói cười ầm ĩ. Ông rất tự hào về Bill vì Bill có thể trừng trị thầy giáo và làm đảo lộn lớp học. Không đứa nào chạy tới buộc xe trượt vào sau xe của ông Ritchie, nhưng Bill và mấy đứa lớn leo lên đống gỗ của ông. Chúng nói lớn tiếng, trượt xuống khúc đường cong và mất hút. Đám học trò không chơi nữa. Tất cả dừng lại nói về điều sẽ xảy ra. Khi thầy Corse gõ lên cửa sổ, tất cả ngoan ngoãn bước vào và ngoan ngoãn ngồi xuống. Chiều hôm đó, không ai thuộc bài. Thầy Corse gọi to lớp này qua lớp khác và tất cả đứng thành hàng bám ngón chân lên nền nhà, không trả lời nổi một câu hỏi nào của thầy. Thầy Corse không phạt ai hết, thầy nói: - Chúng ra sẽ học lại bài này vào ngày mai. Tất cả đều nghĩ là thầy Corse sẽ không còn có mặt ở đây vào ngày mai. Một cô bé bắt đầu khóc, rồi ba bốn cô gục đầu trên bàn nức nở. Almanzo ngồi bất động trên ghế nhìn sững cuốn sách vỡ lòng. Một lúc sau, thầy Corse gọi cậu lên bàn coi cậu đã thuộc bài chưa. Almanzo biết hết mọi từ nhưng như có một cục bướu chắn ngang họng không cho cậu nói nên lời. Cậu đứng nhìn vào trang giấy trong lúc thầy Corse chờ đợi. Rồi họ nghe thấy mấy đứa học trò lớn đang trở về lớp. Thầy Corse đứng dậy, khẽ đặt bàn tay mảnh dẻ lên vai Almanzo. Thầy xoay người cậu lại, nói: - Về chỗ, Almanzo. Căn phòng im phắc. Tất cả đều chờ đợi. Đám học trò lớn đã lên hết đường mòn, vừa la hét vừa xô đẩy nhau. Cánh cửa ra vào bật mở tung và Bill Ritchie nghênh ngang bước tới. Mấy đứa khác nối đuôi sau nó. Thầy Corse nhìn cả bọn không nói gì. Bill Ritchie nhìn vào mặt thầy cười hô hố và thầy vẫn im lặng. Mấy đứa khác xô đẩy Bill và nó lại cười thầy Corse. Rồi nó dẫn cả bọn dẫm chân thình thịch dọc lối đi giữa hai dãy bàn về chỗ. Thầy Corse nhấc chiếc nắp bàn và một bàn tay đặt sau chiếc nắp bàn được nhấc lên. Thầy gọi: - Bill Ritchie, tới đây! Bill Lớn nhảy bật lên, xé toạc áo, kêu lớn: - Tiến lên, các chàng trai! Nó xông thẳng lên giữa hai dãy bàn. Almanzo cảm thấy muốn bệnh, cậu không muốn thấy nhưng cậu không thể tránh. Thầy Corse bước ra khỏi bàn giấy. Bàn tay thầy đặt sau nắp bàn bật tới và một lằn chớp đen dài, mỏng rít lên trong không khí. Đó là một ngọn roi da quất bò dài mười lăm bộ. Thầy Corse nắm chiếc cán ngắn nhồi sắt có thể đủ giết chết một con bò đực. Đầu roi dài, mỏng quấn quanh hai bàn chân Bill và thầy Corse giật mạnh. Bill loạng choạng gần ngã xuống. Nhanh như một tia chớp đèn, đầu roi xoay quanh, quất, xiết, rồi thầy Corse lại giật mạnh. - tới đây, Bill Ritchie! Vừa quất, thầy vừa kéo Bill tới trong lúc thầy lui ra sau. Bill không thể tới gần thầy. Càng lúc đầu roi càng nhanh hơn rít lên quất đen đét rồi lại cuốn và giật trong lúc thầy Corse cũng lui nhanh hơn về phía sau và lôi gần như sắp đứt lìa hai bàn chân Bill. Rồi họ tới khoảng trống trước bàn giấy. Đầu roi xiết chặt Bill và giật nó ngã trong lúc thầy Corse nhảy lui ra sau và tiếp tục quất. Chiếc quần dài của Bill tơi tả, chiếc sơ mi bị xé nát, hai cánh tay bật máu ở những chỗ đầu roi quất vào. Chiếc roi vun vút tới lui, rít lên, nhanh tới mức không thể nhìn kịp. Bill nhào lộn và nền nhà chuyển động khi đầu roi da cuốn giật nó từ phía sau. Nó gào lớn và chửi rủa, cố nhích lại chộp chiếc ghế để ném tới. Đầu roi giật nó quay ngược lại. Nó bắt đầu rống lên như một con bê. Rồi nó khóc lớn và van xin. Đầu roi vẫn rít lên, quay tròn và giật mạnh. Từng bước, từng bước, chiếc roi lôi Bill tới cửa ra vào. Thầy Corse liệng nó cắm đầu ra ngoài lối ra vào và đóng sập cửa, khoá lại. Quay người thật nhanh, thầy lên tiếng: - Bây giờ, John bước tới! John đứng ở giữa hai hàng bàn đang nhìn chằm chằm. Nó quay cuồng kiếm đường tháo chạy nhưng thầy Corse đã kịp xấn tới một bước, siết nó bằng đầu sợi roi da và giật mạnh tới. John van nài: - Ô, xin thầy, xin thầy, xin thầy! Thầy Corse không thèm đáp. Thầy thở hổn hển, mồ hôi lăn dài trên má. Đầu roi da cuốn lại, rít lên và lôi John tới cửa. Thầy Corse liệng nó ra ngoài và đóng sập cửa lại, quay vào. Mấy đứa lớn khác nhào qua khuôn cửa sổ đang mở. Một đứa, hai đứa, ba đứa phóng ra ngoài đám tuyết dày và loạng choàng chạy đi. Thầy Corse cuốn sợi roi da lại gọn gàng, đặt vào trong hộc bàn. Thầy lấy khăn tay lau mặt, kéo thẳng lại cổ áo và nói: - Royal, em đóng cửa sổ lại được chứ? Royal đi bằng ngón chân tới bên cửa sổ và đóng lại. Rồi thầy Corse kiểm tra bài số học. Trọn thời gian còn lại của buổi chiều, không một ai trả bài nổi. Và chiều hôm đó không có giờ nghỉ. Tất cả đều quên bẵng. Almanzo nôn nóng chờ tới khi tan buổi học để cậu có thể nhào ra ngoài cùng đám trẻ khác la hét. Mấy đứa học trò lớn đã bị trừng trị. Thầy Corse đã trừng trị nhóm Bill Ritchie của khu Hardscrabble. Nhưng Almanzo không hề hay biết phần hay nhất của câu chuyện cho tới khi cậu lắng nghe ba nói chuyện với thầy Corse trong bữa ăn tối đó. Ba nói: - Royal đã nói với tôi là đám trẻ không liệng được thầy ra ngoài. Thầy Corse đáp: - Đúng thế. Rất cảm ơn cây roi da của ông. Almanzo ngừng ăn. Cậu ngồi nhìn sững cha. Ba đã biết rõ từ trước. Chính sợi roi da của ba đã đánh quị Bill Lớn Ritchie. Almanzo đoan chắc ba là người khôn nhất thế giới và cũng vĩ đại nhất, mạnh mẽ nhất. Ba đang nói chuyện. Ba kể rằng trong lúc mấy đứa học trò lớn leo lên chiếc xe chở gỗ của ông Ritchie, chúng đã nói với ông Ritchie rằng chúng sẽ đập thầy giáo vào chiều hôm đó. Ông Ritchie nghĩ đó là một trò vui. Ông ấy tin là mấy đứa đó sẽ làm được và ông ấy kể với mọit người trong thị trấn là chúng đã làm việc đó rồi nên trên đường về nhà, ông ấy đã chặn ba lại để nói rằng Bill đã đập thầy Corse và làm đảo lộn hết lớp học. Almanzo nghĩ rằng ông Ritchie sẽ ngạc nhiên chừng nào khi ông về tới nhà và nhìn thấy Bill. Chương 5: Kỷ Niệm Sinh Nhật Sáng hôm sau, trong lúc Almanzo đang ăn cháo yến mạch thì ba nói hôm đó là sinh nhật của cậu. Almanzo quên mất điều đó. Cậu đã tròn chín tuổi vào buổi sáng hôm mùa đông giá lạnh này. Ba nói: - Trong nhà lán có một thứ dành cho con. Almanzo muốn đi coi ngay, nhưng má bảo nếu không ăn điểm tâm cậu sẽ bị bệnh và phải uống thuốc. Thế là cậu ăn hối hả và má nói: - Không ăn ngồm ngoàm như thế. Mọi bà mẹ điều quan tâm quá đáng về cách ăn uống của các con. Thật khó có thể ăn sao cho các bà vui. Nhưng cuối cùng, bữa ăn sáng cũng qua và Almanzo chạy tới nhà lán. ở đó có một ách bò nhỏ! Ba làm bằng gỗ tuyết tùng đỏ tươi nên chiếc ách chắc và nhẹ. Chiếc ách thuộc riêng của Almanzo và ba nói: - Con trai, lúc này con đã đủ lớn để dạy dỗ mấy con bê. Almanzo nghỉ học bữa đó. Cậu không phải tới trường khi có những điều quan trọng hơn để làm. Cậu mang chiếc ách nhỏ vào nhà kho và ba cùng đi với cậu. Almanzo nghĩ nếu cậu điều khiển hoàn hảo mấy con bê thì có thể ba sẽ cho cậu dự phần lo lũ ngựa vào năm tới. Star và Bright ở trong ngăn chuồng ấm áp của chúng tại kho Nam. Lông hai bên sườn chúng đỏ hoe, mượt óng như tơ do sự chăm lo chải chuốt của Almanzo. Chúng xô tới với cậu khi cậu vào ngăn chuồng và liếm bằng những chiếc lưỡi khô nhám ướt át. Chúng đã ngỡ cậu mang cà-rốt tới. Chúng không hề biết cậu sắp dạy chúng cách hành xử như những con bò đực trưởng thành. Ba chỉ cho cậu cách thức ghép khít chiếc ách vào những cần cổ mềm mại của chúng. Cậu phải dùng một mảnh kính vỡ chuốt phía trong những đường con cho tới khi chiếc ách nhẵn bóng và khớp vừa khít. Rồi Almanzo tháo gióng chuồng và mấy con bê ngơ ngác theo cậu ra ngoài sân kho ngập tuyết lạnh giá toả sáng. Ba giữ một đầu chiếc ách trong lúc Almanzo chồng đầu kia vào cổ Bright. Rồi Almanzo nhấc khúc cây cong áp vòng dưới hầu Bright và xỏ đầu khúc cây cong này qua những chiếc lỗ khoan trên ách. Cậu cài một chốt gỗ qua đầu khúc cây cong lú trên chiếc ách để nó giữ chắc khúc cây cong tại chỗ. Bright xoay đầu cố nhìn cái vật lạ lùng trên cổ nó. Nhưng Almanzo làm rất nhẹ nhàng khiến nó đứng im lặng và cậu thưởng cho nó một miếng cà-rốt. Star nghe thấy tiếng nhai của nó và bước tới để nhận phần. Ba đẩy nó xoay lại bên cạnh Bright, đứng ngay dưới đầu kia của chiếc ách và Almanzo lại móc khúc cây cong kia vòng dưới hầu nó, chốt lại. Thế là xong, cậu đã có một cặp bò nhỏ đóng ách. Lúc này, ba buộc một sợi dây quanh các mấu sừng của Star và Almanzo cầm lấy sợi dây. Cậu đứng trước hai con bê quát: - Bước tới! Cổ Star vươn ra dài hơn, dài hơn nữa. Almanzo kéo mãi cho tới cuối cùng Star bước lên phía trước. Bright khịt khịt mũi, lui lại. Chiếc ách vặn đầu Star xoay ngang cố kìm nó lại và hai con bê đứng sững ngơ ngác không hiểu sự gì. Ba giúp Almanzo đẩy chúng cho tới khi cả hai lại đứng sóng đôi với nhau. Rồi ba nói: - Tốt rồi, con trai! Bây giờ thì ba để con tự lo liệu lấy. Và ba đi vào nhà kho. Thế là Almanzo hiểu cậu đã thực sự đủ lớn để tự mình làm những việc quan trọng. Cậu tự hỏi làm cách nào để dạy cho chúng hiểu “bước tới” nghĩa là gì. Không có một cách nào để nói với chúng. Nhưng cậu phải tìm ra một cách để nói: - Khi tớ nói “bước tới”, các cậu phải đi thẳng lên trước. Almanzo nghĩ một hồi rồi cậu rời hai con bê tới thùng thức ăn dành cho bò, nhét cà-rốt đầy túi. Cậu quay lại dừng trước hai con bê ở một khoảng cách thật xa, bàn tay trái nắm sợi dây. Cậu thọc bàn tay phải trong túi chiếc áo khoác chui đầu mặc trong nhà kho. Rồi cậu kêu: - Bước tới! Và cậu cho Star và Bright nhìn thấy củ cà-rốt trong bàn tay cậu. Chúng hối hả bước đi. - Oa! Almanzo hô lớn khi chúng tới gần cậu và chúng dừng lại chờ ăn cà-rốt. Cậu cho mỗi con một miếng và khi chúng ăn xong, cậu lui lại thật xa về phía sau, đặt bàn tay trong túi áo, hô lớn: - Bước tới! Thật đáng kinh ngạc về việc cả hai đã hiểu mau tới thế ý nghĩa của tiếng “bước tới” là đi thẳng và tiếng “oa” là dừng lại. Chúng làm đúng như những con bò trưởng thành khi ba trở lại nhà kho và lên tiếng: - Đủ rồi, con trai. Almanzo không nghĩ là đã đủ những cậu không thể làm trái lời ba. Ba giải thích: - Chúng sẽ khó chịu và không nghe lời con nữa nếu trong lần đầu con bắt chúng làm quá lâu. Vả lại, đến giờ ăn trưa rồi. Almanzo khó tin nổi điều đó. Trọn buổi sáng đã qua đi như chỉ một phút. Cậu tháo các chốt cài cho những cây cong rơi xuống và nhấc chiếc ách ra khỏi cổ hai con bê. Cậu cho Star và Bright trở lại ngăn chuồng ấm áp của chúng. Lúc đó ba chỉ cho cậu lau sạch những khúc cây cong và chiếc ách bằng mấy nắm cỏ khô sạch và treo lên móc. Cậu cần giữ cho chiếc ách và những khúc cây cong luôn khô, sạch để tránh làm đau cổ lũ bê. Bước vào kho Ngựa, cậu dừng lại một phút để ngắm những chú ngựa non. Cậu thích Star và Bright nhưng những con bê luôn thô kệch, vụng về so với những chú ngựa non thon thả, nhanh nhẹn, xinh xắn. Mũi chúng phập phồng khi chúng hít thở và tai chúng vẫy nhẹ nhàng như những con chim. Khi chúng hất đầu thì những chiếc bờm như cánh vỗ và những ống chân thon mảnh với những chiếc móng nhỏ gõ xuống đất thật thành nhã con mắt chúng luôn luôn có thần. Almanzo liều nói với ba: - Con thích dạy một con ngựa con. Ba nói: - Đó là công việc của người lớn, con trai ạ. Chỉ một sơ hở nhỏ cũng đủ làm hư một con ngựa non tuyệt nhất. Almanzo không nói thêm nữa. Cậu bình thản bước vào nhà. Thật lạ lùng được một mình ngồi ăn chung với ba mé. Họ ăn ở bàn ăn trong nhà bếp vì hôm nay không có khách mời. Nhà bếp sáng trưng do tuyết ngoài trời lấp lánh. Nền nhà và bàn ghế đều được chùi trắng bóng như nhà, bằng cát và bột giặt. Những chiếc xoong thiếc toả ánh sáng bạc và những chiếc bình đồng vàng choé trên vách, chiếc ấm trà kêu vo vo và màu hoa phong lữ trên thành cửa sổ đỏ thắm hơn cả màu áo của má. Almanzo đã đói lắm. Cậu lặng lẽ ăn, bận rộn nhồi cho đầy chiếc bụng trống trong khi ba và má trò chuyện. Sau bữa ăn, má đứng lên và bắt đầu dọn dẹp bát đĩa. Má nhắc: - Chất xong cái thùng gỗ đó đi, Almanzo. Sau đó còn có nhiều việc khác cho con làm. Almanzo mở cánh cửa nhà lán bên cạnh lò bếp. Tại đó, ngay phía trước cậu; à một cỗ xe trượt tuyết mới toanh. Cậu không thể tin nổi cỗ xe là của mình. Cậu đã có quà sinh nhật là một chiếc ách bê. Cậu hỏi: - Xe trượt của ai đó, ba? Nó là… nó không phải là của con hả? Má cười lớn và ba long lanh ánh mắt, hỏi: - Con biết còn có đứa trẻ chín tuổi nào khác thích nó không? Cỗ xe đẹp tuyệt vời. Ba làm xe bằng gỗ hồ đào. Xe dài, cân đối và có vẻ thanh thoát. Những thanh trượt bằng gỗ hồ đào đã được ngâm tẩm và uốn thành những đường cong dài sạch bóng tựa hồ sẵn sàng bay lên. Almanzo đặt tay lên mặt gỗ nhẵn bóng. Nó láng tới nỗi cậu cảm thấy như không hề có đầu những chốt gỗ nối liền những bộ phần của cỗ xe. Giữa những thanh trượt là một gióng ngang để cậu đặt bàn chân. Má cười, nhắc: - Đem nó theo với con đi. Đem ra ngoài trời là chỗ của nó. Độ lạnh vẫn đang là bốn mươi độ âm nhưng trời vẫn có nắng và trọn buổi chiều Almanzo quần với cỗ xe trượt. Đương nhiên, xe không lướt trên những đám tuyết dày xốp mềm mà trên đường đã được thanh trượt của các xe chở gỗ vạch thành hai vết cứng ngắc trơn bóng. Almanzo khởi trượt từ đỉnh đồi và phóng vùn vụt xuống xe. Chỉ có một đường trượt độc nhất cong quẹo và hẹp nên cậu khó tránh khỏi ngã nhào vào trong tuyết. Vấp trật rồi lại vấp trật, cỗ xe vẫn bay xuống và Almanzo vẫn liều lĩnh phóng tới. Rồi cậu loạng choạng leo ngược lên đỉnh đồi. Nhiều lần cậu ghé vào nhà kiếm mấy trái táo, mấy chiếc bánh rán hoặc bánh qui. Tầng dưới căn nhà vẫn ấm áp và vắng hoe. Tầng trên vang lên những tiếng thình thịch từ chiếc máy dệt của má xen lẫn tiếng khua lách cách của chiếc thoi đang bay qua lại. Almanzo mở cửa nhà lán và nghe thấy tiếng con dao bào đảo nhẹ nhàng cùng với tiếng lay động và day trở của một tấm ván mỏng. Cậu leo lên phòng làm việc trên gác mái của ba. Cặp găng tay đầy tuyết của cậu treo lủng lẳng trước cổ, tay phải cậu cầm một chiếc bánh rán và hai chiếc bánh qui trong tay trái. Cậu cạp một miếng bánh rán rồi một miếng bánh qui. Ba ngồi dang hai chân trên chiếc ghế bào gần cửa sổ. Chiếc ghế thoai thoải chúi về phía trước và ở đầu thấp có hai chốt đứng. Bên tay phải ba là một đống ván xù xì mới được ba dùng rìu chẻ dọc ra từ những khúc sồi ngắn. Ba chọn một tấm ván mỏng đặt tựa đầu vào mấy chiếc chốt và kéo con dao bào ngược lên. Một mạch bào nhẵn ván, một mạch bào khác bào cho đầu trên mỏng hơn đầu thấp ở dưới. Ba đảo ngược miếng ván lại. Lại thêm hai mạch bào cho mép kia và thế là hoàn tất. Ba đặt miếng ván vào trong đống ván đã bào xong và lấy miếng xù xì khác đặt tựa vào chốt. Hai bàn tay ba cử động nhịp nhàng và mau lẹ. Chúng không ngừng lại khi ba nhìn lên, nháy mắt với Almanzo. Ba hỏi: - Chơi vui chứ, con trai? Almanzo nói: - Ba, con bào được không? Ba nhích lui lại chừa một khoảng trống trên phần ghế phía trước. Almanzo ngồi lên dang hai chân ra, nhồi nốt miếng bánh rán còn lại vào miệng. Cậu cầm lấy cán con dao bào bằng hai bàn tay và bào trên tấm ván một cách cẩn thận. Công việc không có vẻ dễ chút nào. Thế là ba đặt những bàn tay lớn của mình lên tay của Almanzo và hai cha con cùng bào tấm ván. Rồi Almanzo đảo tấm ván lại, hai cha con bào tiếp cạnh kia. Tất cả mong muốn của cậu là được làm như thế. Cậu rời khỏi ghế và đi kiếm má. Hai bàn tay má đang bay lượn trong lúc bàn chân phải má đạp nhẹ đều đều trên cần đạp cỗ máy dệt. Con thoi phóng tới lui thoăn thoắt từ bàn tay phải qua bàn tay trái của má và ngược lại, giữa những sợi chỉ dọc và rất nhanh, những sợi chỉ dọc này được đan chéo vào nhau, móc thật lẹ vào sợi chỉ mà con thoi để lại phía sau. Thịch! Chiếc cần đạp thốt lên. Tách-tách! Con thoi đáp lại. Thịch! Gióng đạp lên tiếng và con thoi bay vụt lại. Phòng làm việc của má rộng, sáng và ấm áp do hơi nóng toả ra từ ống khói lò bếp. Chiếc ghế đu nhỏ của má đặt gần một ô cửa sổ và cạnh nó là một giỏ mảnh nệm rách để khâu lại. ở góc phòng và một guồng quay tơ bỏ không. Dọc một mé vách là một giá treo đầy những cuộn chỉ màu đỏ, nâu, xanh, vàng do má nhuộm vào mùa hè vừa qua. Nhưng tấm vải trên máy dệt lại có màu trắng xám của cừu. Má đang dệt loại sợi không nhuộm lấy từ lông cừu trắng và lông cừu đen trộn chung với nhau. Almanzo hỏi: - Cái này để làm gì? Má nói: - Không thọc tay vào, Almanzo! Đó không phải là cách hay. Almanzo lại hỏi, lần này không chỉ chỏ: - vải này may cho ai? Má đáp: - Cho Royal! Để may đồng phục học sinh cho nó. Royal sắp theo học một trường chuyên ở malone vào mùa đông sau và má dệt vải để may đồng phục cho cậu. Vậy là trong nhà hoàn toàn êm ả, ngăn nắp và Almanzo xuống tầng dưới lấy thêm hai chiếc bánh rán từ trong bình đựng bánh rán rồi ra ngoài tiếp tục chơi với cỗ xe trượt. Không bao lâu, vệt tối buông xuống các triền dốc phía đông và cậu phải bỏ cỗ xe lại để phụ lấy nước vì đã tới giờ lo công việc. Giếng ở cách nhà kho khá xa. Một căn nhà nhỏ che trên máy bơm và nước chảy xuống theo một ống máng xuyên qua vách vào máng nước phía ngoài. Những ống máng đều bị phủ băng và tay máy bơm lạnh đến nỗi có cảm giác như bị cháy phỏng khi đụng vào bằng những ngón tay trần. Thỉnh thoảng có những đứa trẻ thách thức những đứa trẻ khác dám liếm vào tay bơm khi trời lạnh. Almanzo biết rõ ra sao khi nhận lời thách thức. Lưỡi sẽ đông cứng khi chạm vào thỏi sắt và hoặc là phải chịu chết hoặc là phải lui xa với một phần lưỡi dính lại đó. Almanzo đứng trong nhà bơm, ráng sức bơm trong khi ba đưa lũ ngựa đến máng nước bên ngoài. Trước tiên, ba đưa tới cả nhóm, ngựa con đi theo mẹ của chúng. Rồi ba đưa ra ngoài từng con ngựa con lớn hơn. Chúng chưa được huấn luyện nên đi đứng nghênh ngang, nhảy dựng lên, giằng giật sợi dây thòng lòng vì lạnh. Nhưng ba ghìm lại và không cho chúng chạy ra xa. Suốt thời gian đó, Almanzo ráng sức bơm thật nhanh. Nước từ vòi bơm tuôn ra lạnh ngắt và lũ ngựa thọc những chiếc mũi đang run rẩy vào uống thật nhanh. Rồi ba cầm lấy tay máy bơm. Ba bơm đầy ống máng lớn và đi vào các nhà kho để lùa tất cả đám bò bê ra. Bò bê không cần dắt đi uống nước. Chúng háo hức lao tới máng nước và uống trong lúc Almazo bơm rồi chúng hối hả quay về các nhà kho ấm áp, đi vào ngăn chuồng riêng và đặt đầu giữa những gióng trụ chuồng. Không một con nào lầm chỗ bao giờ. Ba cũng không biết chắc là chúng tinh khôn hơn lũ ngựa hay chúng kém ý thức đến nỗi chỉ làm theo thói quen. Bây giờ Almanzo cầm lấy chĩa và bắt đầu dọn dẹp các ngăn chuồng trong lúc ba lường lúa mạch và đậu cho vào các máng ăn. Royal đã đi học về và tất cả đều làm nốt công việc thường lệ. Ngày sinh nhật của Almanzo đã qua đi. Cậu nghĩ rằng hôm sau cậu phải đi học. Nhưng đêm đó ba nói đang lúc có việc cần, Almanzo có thể nghĩ ở nhà để lo đỡ và Royal cũng vậy. Chương 6: Chất Đầy Nhà Chứa Đá Thời tiết lạnh đến nỗi tuyết giống như cát dưới chân. Một giọt nước bay trên không cũng rớt xuống thành một trái cầu băng tí hon. Ngay mé nam ngôi nhà, vào buổi trưa tuyết cũng không mềm hơn. Đây là lúc thích hợp để cắt đá, vì khi nhất những khối đá lên khỏi ao, sẽ không còn nước đọng và đã đông cứng tức khắc. Mặt trời đang lên và hết thảy những dãy tuyết phía đông đều ửng hồng dưới ánh nắng, khi Almanzo ấm áp giữa những lớp áo da ngồi giữa ba và Royal trên cỗ xe trượt chở đồ lớn đi ra vùng ao trên sông Trout. Lũ ngựa háo hức xoải vó, lắc những chiếc chuông leng keng. Hơi thở của chúng đọng lại ngay trước mũi chúng và những thanh trượt của cỗ xe kêu ken két trên mặt tuyết cứng. Hơi lạnh lòn vào mũi Almanzo đang ngứa ran nhưng từng phút mặt trời đang chiếu sáng làm nổi bật vẻ lộng lẫy của những tia sáng đỏ và xanh biếc từ mặt tuyết dội lại đồng thời qua khắp các lùm cây đều lấp lánh ánh sáng trong suốt của những nhũ băng. Ao ở trong rừng còn cách một dặm và ba phải bước xuống đặt tay lên mũi ngựa. Hơi thở của chúng đông lại quanh mũi khiến chúng hít thở khó khăn. Bàn tay của ba giúp làm tan chảy hơi đọng lại và lũ ngựa tiếp tục chạy một cách hăng hái. French Joe và Lazy John đang chờ ở bên ao khi cỗ xe trượt tới nơi. Họ là những người Pháp sống trong mấy căn nhà gỗ nhỏ trong rừng cây. Họ không có trại. Sinh kế của họ là săn bắn, đặt bẫy, lưới cá. Họ ca hát, đùa giỡn, nhảy múa và uống rượu vang đỏ thay vì rượu táo ngọt. Khi ba cần một người giúp việc, họ tới làm cho ông và ông trả công họ bằng thịt heo ướp muối trong những chiếc thùng dưới hầm chứa. Họ đứng trên mặt ao đầy tuyết trong những đôi ủng cao, những chiếc áo choàng kẻ sọc vuông, những mũ da phủ kín tai và hơi thở của họ đọng thành sương bám trên ria mép. Mỗi người đều vác một chiếc rìu trên vai và mang theo cưa. Cưa có một chiếc lưỡi mỏng, dài và tay cầm bằng gỗ ở hai đầu. Hai người phải kéo đẩy lưỡi cưa qua những gì muốn cắt ra làm đôi. Nhưng không thể cưa đá theo cách đó vì đá rất cứng ở dưới chân giống như một mặt nền. Nó không hề có cạnh để cưa ngang qua. Khi nhìn thấy hai người, ba cười và hỏi lớn: - Các anh búng đồng xu đó chưa? Tất cả đều cười ngoại trừ Almanzo. Cậu không hiểu câu nói giỡn đó, vì vậy French Joe kể cho cậu nghe: - Trước đây có hai người Ái Nhĩ Lan được đưa tới để cưa đá bằng một chiếc cưa. Trước đó họ chưa từng cưa đá bao giờ. Họ nhìn khối đá và nhìn chiếc cưa cho tới cuối cùng, Pat lấy trong túi ra một đồng xu và nói. Anh ta nói thế này: - Bây giờ, Jamie, phải công bằng nghe. Đầu hay đuôi. Ai là người đi xuống dưới? Thế là Almanzo bật cười, nghĩ tới một người sẽ đi xuống lớp nước lạnh ngắt, tối om ở dưới mặt đá để kéo một đầu cưa. Thật tức cười lại có những người không biết cưa đá cách nào. Cậu bám theo mọi người bước trên băng tới giữa ao. Một cơn gió bất chợt nổi lên ở đó dồn xua một nắm tuyết ở phía trước. Trên lớp nước sâu, mặt đã nhẵn thín và tối, gần như quét sạch hết tuyết. Almanzo đứng ngắm trong lúc Joe và John bổ một lỗ ba góc cạnh trên đó. Họ moi những miếng đá vụn ra xa và để nước dâng lên đầy lỗ trống. Lazy John nói: - Nó dày tới khoảng hai mươi inch. Ba nói: - Vậy thì cưa đá hai mươi inch. Lazy John và French Joe quì gối ở cạnh lỗ hổng. Họ thọc những chiếc cưa xuống nước và bắt đầu cưa. Không có ai kéo những đầu cưa ở dưới nước. Từng cạnh từng cạnh, họ cưa hai đường thẳng qua khối đá, rộng hai mươi inch và dài hai mươi bộ. Rồi với lưỡi rìu, John chặt ngang khối đá và một thỏi rộng hai mươi inch, dày hai mươi inch, dài hai mươi bộ hơi nhô lên và trôi lơ lửng. John lấy một cây sào đẩy thỏi đá về lỗ hổng ba góc và khi cuối thỏi đá được đẩy mạnh làm nứt khối đá đang đông cứng trên mặt nước. John cưa rời thành những thỏi có chiều dài hai mươi inch. Ba vớt những thỏi đá này bằng chiếc kẹp đá bằng sắt lớn và chất chúng lên xe trượt. Almanzo chạy tới bên lỗ hổng ngó chiếc cưa. Đột nhiên cậu trượt chân ngay sát mép lỗ hổng. Cậu thấy mình rơi cắm đầu xuống làn nước tối om. Hai bàn tay cậu không đụng được bất kì thứ gì. Cậu thấy là cậu bị chìm xuống và bị lôi xuống dưới khối đá cứng. Một dòng nước sẽ cuốn cậu vào gầm khối đá và không ai có thể tìm thấy cậu. Cậu sẽ bị kéo đi và dìm sâu trong tối tăm dưới khối đá. French Joe chụp kịp cậu đúng lúc. Cậu nghe thấy một tiếng kêu và cảm thấy một bàn tay thô cứng lôi mạnh một chân cậu. Cậu cảm thấy một va chạm khủng khiếp rồi cậu thấy nằm sấp trên khối đá cứng ngắc, yên lành. Cậu lồm cồm đứng lên. Ba đang chạy tới. Ba đứng sát bên cậu, to lớn và giận dữ, ba nói: - Con phải lãnh một trận đòn để nhớ đời. Almanzo thì thào: - Dạ, thưa ba! Cậu biết rõ điều đó. Cậu biết cậu sẽ phải cẩn thận hơn. Một đứa trẻ chín tuổi là đủ lớn để tránh những chuyện điên rồ. Almanzo biết thế và cậu cảm thấy xấu hổ. Cậu co rúm người lại và hai chân run lẩy bẩy sợ bị đòn. Những roi quất của ba rất mạnh. Nhưng cậu biết cậu xứng đáng bị đòn. Ngọn roi đang nằm trên xe trượt. Ba bỗng quyết định: - Lần này ba tha cho không đánh con. Nhưng thấy đó để luôn đứng xa những bờ này. Almanzo thì thào: - Dạ, thưa ba! Cậu tránh xa lỗ hổng và không dám bước lại gần một lần nào nữa. Ba đã chất đầy xe trượt. Rồi ba phủ vải lên che đống đá và Almanzo leo lên xe cùng ba với Royal trở về nhà chứa đá gần khu nhà kho. Nhà chứa đá làm bằng những tấm ván cứng có những khe hở rộng ở giữa. Nó được dựng cao lên trên những khối gỗ và trông giống như một chiếc lồng lớn. Chỉ có nền và mái là kiên cố. Trên nền là một đống lớn mạt cưa do ba chuyển từ chỗ máy cưa về. Ba dùng xẻng tải thành một lớp mạt cưa dày khoảng ba inch trên mặt nền. Trên lớp mạt cưa này, ba xếp những thỏi đá cách nhau khoảng ba inch. Sau đó, ba lái xe trở lại ao, còn Almanzo làm chung với Royal trong nhà chứa đá. Các cậu lấp đầy những khe hở giữa các thỏi đá bằng mạt cưa rồi dùng cây nhồi xuống thật chặt. Rồi, các cậu xúc dồn hết mạt cưa lên các thỏi đá trong một góc dọn trống nền để đặt tiếp các thỏi đá và nhồi mạt cưa xung quanh. Xong, các cậu lại phủ lên trên đá một lớp mạt cưa dày đúng ba inch. Các cậu ráng làm thật nhanh, nhưng trước khi làm xong thì ba đã trở về với một đống đá khác. Ba lại đặt một hàng đá khác với khoảng cách ba inch giữa các thỏi đá rồi lái xe đi để mặc các cậu lo trét cứng các khe hở bằng mạt cưa, trải mạt cưa lên mặt đá và xúc dồn phần còn lại của đống mạt cưa. Các cậu làm nặng tới mức phát nóng người lên, nhưng rất lâu trước buổi trưa, Almanzo đã cảm thấy thèm ăn hơn cả lũ sói. Cậu không thể ngừng làm việc để chạy về nhà kiếm một chiếc bánh rán. Bụng cậu giống như một hố trống với một cảm giác cào xe ở bên trong. Cậu quì gối trên mặt đá, nhồi mạt cưa vào các khe hở với hai bàn tay bọc trong găng, dùng một cây tống mạt cưa xuống hết sức nhanh và hỏi Royal: - Anh thích ăn món gì nhất? Các cậu nói về món sườn heo, món gà tây nêm gia vị, món đậu hầm, món bánh bột bắp nướng giòn và nhiều món ăn ngon lành khác. Nhưng Almanzo nói món ăn cậu thích nhất trên đời là món hành chiên với táo. Cuối cùng, khi các cậu trở về nhà vào bữa ăn trưa thì trên bàn đã có một đĩa lớn món ăn mà cậu thích. Má biết cậu thích món gì nhất nên đã nấu riêng cho cậu. Almanzo ăn luôn bốn phần táo chiên hành lớn. Rồi cậu ăn thịt bò nướng với chất nước thịt nâu xám, khoai tây nghiền, cà-rốt kem, củ cải luộc và vô số những khoanh bánh mì bơ với mứt táo. Má bỗng nói: - Món này rất cần cho một cậu bé đang lớn. Và má đặt lên một khoanh bánh pút-đinh tổ chim dày lên chiếc đĩa của cậu và trao cho cậu bình đựng kem ngọt trộn với đậu khấu. Almanzo trút chất kem đặc sệt lên những miéng táo gắn trên lớp vỏ cứng nổi sọc. Lớp nước trái cây màu nâu ngọt lịm bao quanh các mép kem. Almanzo lấy muỗng xúc lên và ăn từng miếng một. Rồi cậu và Royal trở lại nhà chứa đá làm việc cho tới giờ lo các công việc thường lệ. Trọn ngày hôm sau các cậu vẫn làm như vậy và trọn ngày hôm sau nữa. Đúng chạng vạng tối ngày thứ ba, ba giúp các cậu trải lớp mạt cưa cuối cùng lên lớp đá cao nhất trên sát mái nhà chứa đá. Tới đó mới xong công việc. Vùi kĩ trong mạt cưa, những tảng đá không tan chảy trong thời tiết mùa hè nóng nực nhất. Đôi khi các cậu đục lấy ra một tảng cho má để làm món kem lạnh, nước chanh hoặc món trứng lạnh. Chương 7: Đêm Thứ Bảy Đêm đó là đêm thứ bảy. Trọn ngày dài má nướng bánh và khi almanzo mang những thùng sữa vào bếp, má còn đang chiên bánh rán. Một hương vị đậm đà, nóng hổi tràn ngập, mùi thơm bột của những ổ bánh mới; mùi gia vị ngào ngạt và mùi si-rô ngọt dịu. Almanzo chộp chiếc bánh rán lớn nhất tron chảo và cạp đứt rời phần dưới khô giòn. Má đang cuốn bột nhào vàng óng, khía thành những sợi dài rồi ghép đôi, vặn xoắn lại. Mấy ngón tay má thoăn thoắt bay lượn khó thể nhìn kịp. Những sợi bột tựa hồ xoắn lại dưới hai bàn tay của má rồi nhảy vào chiếc chảo đồng lớn đầy mỡ nóng đang sôi sục. Bụp! Chúng chìm xuống đáy, sủi tăm lên. Rồi rất may, chúng lách tách nở ra, nổi lên và từ từ phồng lớn cho tới khi tự động lật lại dìm phần lưng vàng nhạt vào trong mỡ và để ngửa phần bụng đang phồng xậm nâu lên trên. Má bảo chúng tự xoay lại dược là vì chúng đã được vặn xoáy. Có người làm ra loại bánh rán hình tròn với một lỗ hổng ở chính giữa. Loại bánh rán hình tròn này không thể tự xoay lại được. Má không có đủ thời giờ hoang phí ngồi lật những chiếc bánh rán và để chúng tự lật lại mau hơn. Almanzo thích ngày nướng bánh nhưng cậu không thích đêm thứ bảy. Đêm thứ bày không phải là buổi tối thoải mái với hơi lửa ấm, với bắp rang, với rượu ngọt. Đêm thứ bảy là đêm tắm rửa. Sau bữa ăn tối, almanzo và royal lại phải đóng bộ đủ hết nào áo khoác, nào mũ, nào khăn choàng, nào bao tay. Hai cậu khiêng chiếc thùng từ bồn tắm ngoài trời tới thùng đựng nước mưa. Mọi vật đều mờ mịt trong tuyết. Những ngôi sao nhoà nhạt trên nên trời và chỉ một tia sáng yếu ớt le lói từ ngọn nến trong nhà bếp. Trong thùng đựng nước mưa, một lớp băng dày bao quanh chỉ còn một lỗ nhỏ ở chính giữa được đập ra mỗi ngày để giữ cho thùng khỏi bị vỡ tung ra, nhung chiếc lỗ này mỗi lúc cứ nhỏ lại hơn. Royal thọc xuống đó khi chiếc búa xuyên qua với một tiếng bùm tung vỡ thì nước dâng lên thật mau do sức ép của băng từ mọi phía. Khi đông cứng lại, nước nở lớn hơn. Mọi thứ khác lại rút nhỏ hơn trong băng giá. Almanzo bắt đầu múc nước và những mảnh băng trôi nổi vào bồn tắm. Trời lạnh, việc làm chậm khi nhắn qua lỗ hổng nhỏ và cậu nảy ra một ý nghĩ. Những dải băng dài treo lơ lửng dưới mái hiên nhà bếp. Sát trên cao chúng là phần băng cứng nhưng phần đầu nhọn buông xuống gần như cắm tới mặt tuyết. Almanzo nắm lấy một dải và giật mạnh, nhưng chỉ có phần đầu gãy ra. Cây búa nhỏ đã đóng băng trên nền cống ngay chỗ royal đặt nó nhưng almanzo cố kéo lên. Cậu nhấc nó bằng cả hai bàn tay và chặt những dải băng. Một loại băng sập xuống với tiếng đổ vỡ loảng xoảng. Đó là tiếng la chiến thắng. - hi, đưa cho anh! Royal nói, nhưng almanzo đập tiếp những dải băng và tiếng ồn lớn hơn nữa. Almanzo nói: - anh lớn hơn em. Anh phá chúng bằng hai nắm tay được mà. Thế là royal dùng hai nắm tay phá những dải băng, còn almanzo tiếp tục sử dụng cây búa. Tiếng ồn vang khắp. Almanzo la hét và royal la hét, phá thêm, thêm thật nhiều những dải băng. Những mảnh băng lớn bay văng khắp trên nền cống và những mảnh băng cám lỗ chỗ trên mặt tuyết. Dọc mái hiên lộ ra một khoảng trống tựa hồ một hàm răng bị gãy mấy chiếc răng. Má lao ra mở cửa nhà bếp. Má kêu lên: - chúa ơi! Royal! Almanzo! Các con bị đau hả? Almanzo lên tiếng một cách ngoan ngoãn: - không, má! - có chuyện gì vậy? Các con đang làm gì? Almanzo cảm thấy có lỗi, nhưng sự thực các cậu không đùa giỡn khi làm việc. Cậu nói: - chúng con đang lấy băng vào làm nước tắm, má. - trời đất ơi! Má chưa từng thấy ồn ào tới mức đó bao giờ! Có phải các con la hét giống như bọn comanches không? - không đâu, má! Almanzo đáp. Răng má va lách cách vì lạnh và má đóng cửa lại. Almanzo và royal lặng lẽ gom tất cả những dải băng đã đổ xuống và lặng lẽ chất đầy thùng. Thùng nặng quá khiến các cậu khiêng lảo đảo và ba phải giúp nhấc lên lò bếp. Băng chảy tan trong lúc almanzo bôi mỡ cho đôi giày da và royal bôi mỡ đôi ủng. Trong nhà chứa thực phẩm, má đang dồn đầy đậu nấu vào chiếc chảo sáu lít, thêm hành, tiêu, mỡ heo vào, xối lên trên những cuộn mật mía. Rồi almanzo thấy má mở những thùng bột. Má trút bột lúa mạch đen và bột bắp vào một bình sành lớn màu vàng, khuấy đều sữa với trứng rồi đổ đầy chiếc chảo hấp lớn thứ bột lúa mạch nhào màu vàng xám. Má nói: - almanzo, bưng chảo bột này và đừng làm đổ. Má bưng chảo đậu lên và almanzo theo sau với chảo bột nặng chịch. Ba mở các khuôn cửa lớn của lò hấp và má đặt đậu và bánh vào bên trong. Bánh sẽ được hấp nướng từ từ trong đó cho tới giờ ăn trưa ngày chủ nhật. Sau đó, almanzo một mình quay xuống nhà bếp lo tắm rửa. Bộ đồ lót sạch của cậu đang treo trên lưng ghế để hong cho ấm. Khăn tắm, khăn lau và chiếc chén nhỏ đựng xà phòng ở trên một chiếc ghế khác. Cậu lấy từ nhà lán ra thêm một bồn tắm đặt ngay trên nền nhà phía trước khung cửa rộng. Cậu cởi bỏ áo ghi-lê, vớ dài và quần lót. Rồi cậu đổ một ít nước nóng từ chiếc bồn trên lò vào chiếc bồn trên nền nhà. Cậu cởi bỏ nốt đôi vớ dài và bộ đồ lót và thấy thú vị với lớp da trần trong hơi nóng và nghĩ là sẽ có thể mặc ngay bộ đồ lót sạch mà khỏi cần tắm. Nhưng má sẽ thấy ngay khi cậu bước vào phòng ăn. Vậy là cậu bước vào trong nước. Nước phủ ngập các bàn chân cậu. Mấy ngón tay cậu moi một ít xà phòng mềm nhũn lầy nhầy từ chiếc chén nhỏ, trét lên khăn tắm. Rồi cậu kỳ cọ khắp mình. Nước ủ ấm ngón chân nhưng gây cảm giác lạnh trên thân hình cậu. Phía trước thân hình hấp hơi nóng từ lò bếp nhưng sau lưng ướt át run rẩy. Và khi cậu xoay lại, lưng cậu hình như nóng rộp lên nhưng phía trước lại rát lạnh. Thế là cậu tắm hết sức nhanh, lau khô người và chui vào bộ đồ lót ấm áp, mặc chiếc quần len dài rồi choàng thêm chiếc áo ngủ dài cũng bằng len. Lúc này cậu nhớ tới mấy cái tai. Cậu lại cầm lấy khăn tắm lau sạch tai và gáy. Cậu chụp lên đầu chiếc mũ ngủ. Cậu cảm thấy sạch sẽ và sảng khoái với những lớp quần áo mới, ấm trơn mịn trên da. Đó là cảm giác đêm thứ bảy. Cảm giác thật dễ chịu nhưng almanzo không thích đạt tới qua sự tắm rửa. Nếu được làm theo cách của mình. Cậu sẽ không tắm một lần nào cho tới mùa xuân. Cậu không phải đổ nước trong bồn vì như thế cậu sẽ phải ra ngoài sau khi tắm và bị nhiễm lạnh. Alice sẽ đổ nước, kì cọ bồn trước khi cô dùng để tắm. Rồi tới phiên eliza jane đổ bồn nước cho alice, tiếp đó là royal đổ bồn nước cho eliza jane và má đổ bồn nước cho royal. Tới khuya, ba sẽ đổ bồn nước cho má và sáng hôm sau, chính ba sẽ đổ nước trong bồn lần chót. Almanzo bước vào phòng ăn trong bộ đồ lót màu trắng ngà sạch sẽ cùng với vớ dài, áo ngủ và mũ. Má nhìn cậu đi tới cho má xem lại. Má đặt món đồ đang đan xuống, ngắm kĩ tai, gáy và gương mặt đã sạch xà phòng của cậu rồi ôm cậu, ve vuốt. - thôi! Đi ngủ! Cậu thắp một cây nến, leo vội lên cầu thang lạnh ngắt và thổi tắt nến, nhảy ngay lên tấm nệm lông ngỗng mềm, lạnh. Cậu bắt đầu đọc lời cầu nguyện nhưng cậu đã ngủ thiếp trước khi đọc dứt. Chương 8: Ngày Chủ Nhật Sáng hôm sau, khi Almanzo với hai thùng sữa đầy mải miết bước vào nhà bếp thì má đang xếp đống những chiếc bánh xếp vì đã là ngày chủ nhật. Chiếc đĩa sứ lớn màu xanh đặt ngay trước lò đựng đầy những chiếc bánh kẹp nhồi thịt căng phồng. Eliza Jane đang cắt những chiếc bánh táo còn Alice đang cho cháo yến mạch vào đĩa như thường lệ. Nhưng chiếc đĩa sứ nhỏ màu xanh đang sôi phía sau lò và mười đống bánh xếp chất như những ngọn tháp cao trên đĩa. Mười đống bánh xếp đang nằm trên vỉ bốc khói và ngay khi chúng vừa chín má thêm liền vào mỗi đống một chiếc bánh xếp khác, phết đẫm bơ và phủ thêm bằng đường trường khế. Bơ và đường chảy tan ra thấm vào những chiếc bánh xếp nổi gân rồi nhỏ xuống khắp các cạnh bánh khô giòn. Thế là bánh xếp đã kết thành đống. Almanzo thích thứ bánh này hơn bất kỳ thứ bánh xếp nào khác. Má tiếp tục nướng bánh cho tới khi mọi người ăn xong món cháo bột yến mạch. Má không khi nào làm quá nhiều đống bánh xếp. Mọi người ăn dứt từng đống một nối theo nhau và khi Almanzo còn đang ăn thì má đã đẩy lui chiếc ghế về phía sau, nói: - Cảm ơn Chúa! Tám giờ rồi! Phải đi nhanh thôi! Má luôn vội vã. Bàn chân má khua lộp bộp còn hai bàn tay cử động nhanh tới mức khó ai nhìn kịp. Má không bao giờ ngồi xuống vào ban ngày ngoại trừ bên chiếc guồng quay sợi hoặc chiếc máy dệt và lúc đó, bàn tay má tiếp tục bay và bàn chân má nhấn đạp, biến guồng quay sợi thành một vệt mờ hoặc khiến chiếc máy dệt kêu inh ỏi, thình – thình, tách – tách! Nhưng vào ngày chủ nhật má cũng bận rộn hối thúc những người khác. Ba chà chải lông lũ ngựa màu nâu mượt mà cho tới khi sạch bóng lên. Almanzo quét bụi cỗ xe còn Royal lau chùi bộ yên bịt bạc. Mấy cha con đóng ngựa vào xe rồi trở vào nhà thay những bộ đồ dành cho ngày chủ nhật. Má ở trong nhà chứa đồ ăn đang đặt mẩu vỏ bánh trên đỉnh món bánh patê gà ngày chủ nhật. Ba con gà mái mập ngậy đã nằm trong ổ bánh dưới lớp nước thịt đang sủi tăm. Má rải vỏ bánh, rạch thành những mép bờ và nước thịt tràn lên qua hai cây thông dùng cắt bột nhào. Má đặt chiếc bánh vào lò hấp ở giữa lò cùng với những hạt đậu và bột lúa mạch đen. Ba chất đầy những khúc gỗ hồ đào vào trong lò và đóng cánh cửa lò trong lúc má đi thay quần áo và sắp xếp quần áo cho ba. Những người nghèo vẫn mặc quần áo vải thô trong ngày chủ nhật còn Royal và Almanzo được mặc vải hồ nhuyễn. Phần ba má và hai cô gái rất hoàn hảo với những bộ đồ được má may bằng vải mua ở cửa hàng và may bằng máy may. Má may cho ba một bộ đồ lót bằng len đen thật đẹp. Áo ngoài của ba có lót nhung và sơ-mi bằng vải chúc bâu Pháp. Vớ dài của ba bằng lụa đen và các ngày chủ nhật ba không mang ủng mà mang giày da mềm. Má mặc áo bằng len sợi màu nâu với cổ viền ren trắng và đính những tua ren ở cổ tay, dưới những ống tay áo rộng loe ra. Má kết ren bằng những sợi chỉ nhuyễn tột cùng và trông giống như lông tơ thiên nga. Còn có những đường viền nhưng màu nâu quang các ống tay áo và nón của má cũng bằng thứ nhung màu nâu và dây buộc bằng nhung nâu ở dưới cằm. Almanzo rất tự hào thấy má tuyệt vời trong bộ trang phục ngày chủ nhật. Các cô gái cũng rất tuyệt vời nhưng không tạo cho cậu cảm giác đó. Vành váy của mọi người rộng tới mức Royal và Almanzo leo vào xe rất khó khăn. Các cậu phải co rúm người lại để những chiếc vành trùm lên đầu gối. Và, nếu các cậu cử động là Eliza Jane kêu lên: - Coi chừng, đồ lóng ngóng! Và Alice than phiền: - Ô, trời ơi! Mấy dải băng của tôi rối tung hết rồi! Nhưng khi tất cả đã chui vào dưới những chiếc áo choàng da với những viên gạch nung nóng dưới bàn chân, ba đã cho lũ ngựa phóng chạy đi thì Almanzo quên hết mọi thứ. Chiếc xe lao nhanh như gió. Những con ngựa mượt bóng dưới ánh mặt trời, cần cổ vươn ra, đầu ngẩng cao, những ống chân thon chắc đập tung trên con đường đầy tuyết. Chúng tựa hồ đang bay với những chiếc bờm và đuôi dài bay ngược trong gió. Ba ngồi thẳng người, kiêu hãnh nắm dây cương thúc lũ ngựa phi nước đại. Ba không khi nào dùng roi vì lũ ngựa được huấn luyện thuần thục và ngoan ngoãn. Ba chỉ cần ghì chặt hoặc nới lỏng dây cương là chúng làm đúng ý. Lũ ngựa của ba là những con ngựa tuyệt nhất bang New York và cũng có thể là tuyệt nhất trên thế giới. Malone ở cách xa tới năm dặm, nhưng ba không bao giờ phải khởi hành sớm hơn ba mươi phút trước giờ lễ nhà thờ. Cặp ngựa nuốt hết năm dặm đường rồi được đưa vào chuồng, được phủ mền xong và mọi người đặt chân lên thềm của nhà thờ đúng lúc chuông đổ. Khi Almanzo nghĩ còn phải nhiều năm nữa cậu mới có thể cầm cương điều khiển lũ ngựa, cậu chịu không nổi. Nhưng không còn thời gian cho cậu vì ba đang lái xa vào khu nhà lán của nhà thờ Malone. Khu nhà lán gồm một dãy nhà thấp, dài, bao quanh bốn phía của một khoảng sân vuông lớn. Ba lái xe vào sân qua cổng lớn. Mỗi người thuộc nhà thờ đều trả tiền thuê một ngăn nhà lán theo ý kiến của ba bà ba có một nhà lán thuộc hạng nhất. Nhà lán này đủ cho ba lái xe thẳng vào trong để tháo ngựa và còn có máng ăn với những thùng chứa thức ăn và khoảng trống dành chứa cỏ khô, lúa mạch. Ba cho Almanzo phủ chăn lên lũ ngựa trong lúc má và hai cô gái sửa lại váy áo, vuốt lại những dải băng. Rồi cả nhà từ tốn thả bộ đi vào nhà thờ. Tiếng chuông đầu tiên gióng lên khi mọi người bước tới thềm. Sau đó không có việc gì khác ngoài việc ngồi bất động cho tới khi dứt buổi lễ. Phải mất hai giờ đồng hồ thăm thẳm. Chân Almanzo tê nhức và cằm cậu muốn ngáp hoài nhưng cậu không dám ngáp hoặc nôn nóng. Cậu phải ngồi yên lặng hoàn toàn, không rời mắt khỏi khuôn mặt nghiêm trang và bộ râu đang lay động của vị tu sĩ. Almanzo không hiểu bằng cách nào ba thấy cậu không nhìn vị tu sĩ khi chính ba cũng không được rời mắt khỏi vị tu sĩ. Nhưng ba lại luôn luôn biết rõ. Sau đó buổi lễ chấm dứt. Dưới ánh nắng bên ngoài nhà thờ, Almanzo cảm thấy dễ chịu hơn. Vào ngày chủ nhật, các cậu bé không được chạy nhảy, cười đùa hoặc nói to tiếng, nhưng có thể trò chuyện nhỏ nhẹ và đứa em họ của Almanzo là Frank đang có mặt tại đây. Cha của Frank là cậu Wesley, làm chủ một nhà máy xay bột khoai và sống ở thị trấn. Ông không có trang trại nên Frank chỉ là một đứa trẻ thành thị. Sáng chủ nhật này, Frank đội một chiếc nón mua ở ngoài cửa hàng. Chiếc nón bằng vải kẻ ô vuông, may bằng máy và có hai miếng che tai cài nút ở dưới cằm. Frank bật nút ra chỉ cho Almanzo thấy có thể lật ngược hai miếng này lên và cài nút ngay ở trên đỉnh đầu. Cậu bé bảo chiếc nón ở mãi từ thành phố New York. Ba cậu bé đã mua nón trong cửa hàng của ông Case. Almanzo chưa từng thấy một chiếc nón như thế và rất muốn có một chiếc. Royal chê là chiếc nón ngớ ngẩn. Cậu nói với Frank: - Mấy miếng che tai trên đỉnh đầu là nghĩa lí gì? Không ai có tai trên đỉnh đầu cả. Dù vậy, Almanzo biết là Royal cũng thích có một chiếc nón như thế. Almanzo hỏi: - Cái nón này giá bao nhiêu? Frank đáp một cách tự hào: - Năm mươi xu. Almanzo biết là cậu không thể có một chiếc nón như thế. Những chiếc nón má may đã đủ ấm và tốt rồi nên thật điên rồ mới bỏ nhiều tiền như thế để mua một chiếc nón. Năm mươi xu là quá nhiều tiền. Cậu nói với Frank: - Bồ phải xem mấy con ngựa của tụi này. Frank đáp: - Xì, đâu phải ngựa của mấy bồ. Đó là mấy con ngựa của ba mấy bồ. Mấy bồ chẳng có một con ngựa nào, kể cả ngựa con. Almanzo cãi: - Tớ sắp có một con ngựa con. Frank hỏi: - Khi nào? Đúng lúc đó Eliza Jane quay lại kêu: - tới mau, Almanzo! Ba đóng ngựa xong rồi! Cậu vội quay đi theo Eliza Jane, nhưng Frank gọi với theo: - Bồ sẽ không có ngay cả một con ngựa con đâu. Almanzo bước lên xe một cách bình thản. Cậu chỉ tự hỏi mình đã đủ lớn để có những thứ mình muốn chưa. Lúc cậu còn bé hơn, thỉnh thoảng ba vẫn cho cậu nắm những đầu dây cương trong lúc ba đang lái xe nhưng bây giờ cậu đâu còn là một em bé nữa. Cậu muốn được tự mình điều khiển ngựa. Ba đã cho phép cậu được chải lông và chà tắm cho lũ ngựa kéo cày già hiền lành và còn được điều khiển chúng bừa đất nữa. Nhưng cậu lại không được đặt chân vào chuồng của lũ ngựa kéo xe lanh lợi và lũ ngựa con. Cậu còn ít dám sờ vào những chiếc mũi mềm của chúng thò qua gióng hoặc gãi nhẹ một chút dưới chùm lông trước trán chúng. Ba vẫn nhắc: - Trẻ con như các con phải tránh xa lũ ngựa con. Các con chỉ cần năm phút đã đủ tạo cho chúng những thói tật mà ba phải mất nhiều tháng mới uốn nắn chúng trở lại ngoan ngoãn được. Cậu cảm thấy thoải mái hơn khi ngồi xuống với bữa ăn trưa ngon lành ngày chủ nhật. Má quét mượt bóng lớp bột bánh lúa mạch đen nóng hổi trên mâm bánh bằng chiếc đĩa của má. Chiếc muỗng của ba cắt sâu vào món bánh thịt gà và ba xúc những mảng cùi lớn dày ra ngoài lật ngửa cạnh dưới vàng óng nổi gân lên đĩa. Ba tưới nước thịt rồi đặt thêm những miếng thịt gà giò ngọt mềm, phần thịt trắng hoặc sậm màu đều tróc hết xương. Ba đặt thêm lên một nắm đậu hầm rồi xếp lên trên cùng một khoanh mỡ heo mỏng. Bên mép đĩa, ba chất một mớ củ cải đường ngâm dấm vào đỏ xậm. Và, ba chuyển đĩa cho Almanzo. Almanzo ăn hết một cách lặng lẽ. Rồi cậu ăn tiếp một miếng bánh bí và cảm thấy đã khá no. Nhưng cậu vẫn ăn thêm một miếng bánh táo với phô-mai. Sau bữa ăn, Eliza Jane và Alice rửa chén đĩa còn ba má, Royal và Almanzo không có việc gì làm hết. Má đọc Kinh Thánh, Eliza Jane đọc một cuốn sách còn ba gục đầu cho tới lúc giật mình choàng tỉnh rồi ba lại gục đầu nữa. Royal mân mê chuỗi xích bằng gỗ mà cậu không được chuốt, còn Alice nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ. Riêng Almanzo chỉ ngồi. Cậu bắt buộc phải làm vậy vì không được phép làm bất cứ điều gì. Ngày chủ nhật không phải là ngày làm việc hay chơi đùa. Đó là ngày để tới nhà thờ và ngồi bất động. Almanzo hết sức mừng khi tới giờ đi làm công việc thường lệ trong nhà. Chương 9: Dạy Những Con Bê Almanzo bận rộn chứa đầy nhà chứa đá tới mức không còn thời giờ dạy dỗ mấy con bê của cậu. Vì vậy, vào buổi sáng thứ hai, cậu nói: - Ba, sáng nay con không đi học có được không? Con đã không làm việc với lũ bê, sợ chúng quên hết những điều đã học được. Ba đưa tay vuốt râu và mắt ba lấp lánh. Ba nói: - Cũng giống như một cậu bé có thể quên những bài học. Almanzo không nghĩ tới điều này. Cậu ngưng lại một phút và nói: - Dạ, con đã có nhiều bài học hơn lũ bê và hơn nữa, chúng nhỏ hơn con. Mắt ba nhìn nghiêm trang nhưng một nụ cười ẩn dưới hàm râu của ba và má lên tiếng: - Ô, hãy để cậu bé ở nhà nếu nó thích thế! Một lần như vậy cũng chẳng hại gì và nó cũng có lý, lũ bê cần được dạy. Thế là Almanzo xuống nhà kho và kêu hai con bê nhỏ ra ngoài. Cậu đặt chiếc ách nhỏ lên cổ chúng, bắt những cây cong lên, chốt lại và buộc một sợi thừng quanh những gốc sừng nhỏ của Star. Cậu làm tất cả một mình. Trong buổi sáng hôm đó, cậu lui từng bước, từng bước quanh sân kho và kêu lớn “Bước tới!” Rồi “Oa!”. Star và Bright háo hức đi tới khi nghe cậu kêu “Bước tới!” Và dừng lại ngay khi cậu hô “Oa!” Để nhai những mẩu cà-rốt từ chiếc bao tay len của cậu. Thỉnh thoảng cậu cũng ăn sống một củ cà-rốt. Phần bọc ngoài cà-rốt thật tuyệt. Nó là một vòng dày, cứng và ngọt. Phần trong có nhiều nước hơn, màu vàng sáng, nhưng mỏng và vị chua. Tới trưa, ba nói lũ bê đã làm việc đủ cho cả ngày rồi nên chiều hôm đó ba chỉ cho Almanzo cách làm roi. Hai cha con vào rừng và ba chặt một ít cây sừng nai. Almanzo vác hết lên phòng làm việc của ba trên lán gỗ và ba chỉ cho cậu cách lột vỏ để kết dây và kế đó là cách kết đầu roi. Trước hết, cậu buộc chung năm đầu sợi dây lại rồi cậu bện chúng thành một bím tròn, chắc. Suốt buổi chiều cậu ngồi bên chiếc ghế dài của ba. Ba bào những tấm ván mỏng còn Almanzo thận trọng bện cây roi của cậu đúng như ba bện những sợi roi da dài. Khi cậu xoay vặn những sợi dây, lớp vỏ cây mỏng bọc ngoài rớt xuống phô ra lớp vỏ trắng mềm ở bên trong. Cây roi thành trắng toát ngoại trừ vài đốm dơ do các bàn tay của Almanzo để lại. Cậu không thể làm xong trước giờ lo công việc trong nhà và hôm sau cậu phải đi học. Nhưng mỗi tối cậu đều ngồi bên lò sưởi tiếp tục bện roi cho tới khi phần dây đầu roi dài tới năm bộ. Lúc đó, ba cho cậu mượn con dao nhíp và Almanzo vót một chiếc cán gỗ ráp phần đầu roi vào đó bằng những sợi dây bằng vỏ cây sừng nai. Chiếc roi đã hoàn tất. Đây là một cây roi tuyệt hảo cho tới khi nó bị khô gãy trong cái nóng mùa hè. Almanzo có thể quất cho roi rít lớn như ba quất sợi roi da. Và cậu làm roi xong đúng lúc cậu cần để dạy cho mấy con bê bài học tiếp. Lúc này cậu dạy chúng quay về bên trái khi cậu hô “Vắt!” Và quay về bên phải khi cậu hô “Diệt!”. Ngay khi chiếc roi được làm xong, cậu bắt đầu liền. Mỗi sáng thứ bảy, cậu miệt mài trong sân kho dạy Star và Bright. Cậu không bao giờ đánh chúng mà chỉ quất chiếc roi trong không khí. Cậu đã biết không thể dạy các con vật một điều gì nếu đánh đập hoặc giam giữ hay la hét chúng. Cậu cần luôn ngọt ngào nhỏ nhẹ và kiên nhẫn kể cả khi chúng lầm lẫn. Star và Bright phải yêu thích cậu, tin cậy cậu và biết cậu không bao giờ làm đau chúng vì nếu chúng sợ cậu, chúng sẽ không bao giờ trở thành những con bò chịu khó làm việc trong vui vẻ ngoan ngoãn. Lúc này chúng đã luôn làm theo lời cậu khi cậu hô “Bước tới!” Và “Oa!”. Cho nên cậu không còn đứng trước chúng lâu nữa. Cậu đứng ngay bên trái Star. Star đứng sát bên cậu nên Star là con bò ở gần. Bright đứng bên kia Star nên Bright là con bò ở xa. Almanzo hô “Diệt!” Và quất chiếc roi thật mạnh sát bên đầu Star. Star né tránh cây roi và thế là cả hai cùng xoay về bên phải. Rồi Almanzo nhắc “Bước tới!” Và để chúng thoải mái bước lên một đoạn ngắn. Tiếp đó, cậu quất cho đầu roi cuộn trong không khí và rít lớn phía bên kia của Bright trong lúc cậu hô “Vắt!”. Bright chuyển động rời xa khỏi chiếc roi và thế là cả hai con bê xoay về bên trái. Đôi lúc chúng chồm lên và nhớm chạy. Lúc đó Almanzo lại nhắc “Oa!” Bằng cái giọng trầm và nghiêm nghị như giọng của ba. Nếu chúng không chịu dừng lại, cậu lập tức chạy theo rồi vọt lên chặn đầu chúng lại. Khi sự cố xảy ra, cậu phải cho chúng tập lại theo hiệu lệnh “Bước tới!” Và “Oa!” Một hồi lâu. Cậu phải hết sức kiên nhẫn. Một buổi sáng thứ bảy quá lạnh khiến những con bê cảm thấy cần nhảy nhót và chúng phóng chạy ngay khi cậu quất roi lần thứ nhất. Chúng đá tung móng chân, vừa chạy vừa la rống quanh sân kho và khi cậu cố ngừng chúng lại thì chúng chạy tràn tới xô cậu ngã vào tuyết. Cậu không làm nổi điều gì với chúng buổi sáng hôm đó. Và cậu tức điên đến nỗi phát run lên, nước mắt chảy ròng ròng trên má. Cậu muốn la hét những con bê tồi tệ này. Nhưng cậu không làm thế. Cậu đặt roi xuống, buộc lại sợi thừng trên sừng Star và đưa chúng đi hai vòng sân kho theo cách bước lên khi cậu nói “Bước tới!” Và dừng lại khi cậu nói “Oa!”. Sau đó cậu kể lại mọi việc với ba, vì cậu nghĩ khi đã kiên nhẫn như thế với những con bê thì ít nhất cũng đủ kiên nhẫn để chải chuốt lũ ngựa con. Nhưng ba có vẻ không nghĩ thế, ba chỉ nói: - Làm thế là đúng, con trai. Hãy từ từ và kiên nhẫn. Cứ giữ đúng cách đó thì con sẽ có một cặp bò tốt. Ngày thứ bảy kế sau, Star và Bright làm theo lời cậu tuyệt đối. Cậu không cần quất cây roi vì chúng đã răm rắp tuân theo lời hô của cậu. Nhưng cậu vẫn quất cây roi dù sự việc ra sao vì cậu thích thế. Thứ bảy đó, mấy cậu bé người Pháp, Pierre và Louis, tới thăm Almanzo. Cha của Pierre là Lazy John và cha của Louis là French Joe. Chúng sống chung với rất đông anh chị em ở những căn nhà nhỏ trong rừng và đi câu cá, đi săn, đi hái trái cây chứ không phải tới trường. Nhưng chúng thường tới làm việc hoặc chơi đùa với Almanzo. Chúng đứng coi trong lúc Almanzo dạy lũ bê trong sân kho. Star và Bright xử sự tốt đến nỗi Almanzo nảy ra một ý nghĩ tuyệt vời. Cậu lô chiếc xe trượt xinh đẹp được tặng ngày kỉ niệm sinh nhật và dùng một mũi khoan để khoan một lỗ xuyên qua gióng ngang giữa cách thanh trượt phía trước. Rồi cậu lấy một sợi xích của ba và một cọc cột trong cỗ xe trượt lớn của ba để đóng lũ bê vào cỗ xe. Dưới chiếc ách của lũ bê có một khoen sắt nhỏ giống hệt như khoen của những chiếc ách lớn. Almanzo thọc tay cầm của cỗ xe trượt qua khoen sắt này cách xa với chốt ngang nhỏ của tay cầm. Chốt ngang nhỏ giữ cho tay cầm chuyển động qua khoen từ một khoảng xa. Rồi cậu buộc một đầu xích vào khoen và quấn đầu xích kia quanh cột cọc trong chiếc lỗ trên gióng ngang và xiết chặt lại. Khi Star và Bright kéo, chúng sẽ kéo cỗ xe bằng sợi xích. Khi chúng dừng lại, tay cầm bất động của cỗ xe sẽ giữ cho cỗ xe dừng theo. Almanzo nói: - Nào, Louis, lên xe đi! Pierre đẩy Louis lui lại nói: - Không, tớ lớn nhất. Tớ ngồi trước. Almanzo nói: - Không phải cậu thì hay hơn. Khi những con bê cảm thấy khoẻ chúng có thể chạy xa. Hãy để Louis ngồi trước vì nó nhẹ hơn. Louis lên tiếng: - Không, tớ không thích đâu. Almanzo nói: - Tớ cho là cậu thì hay hơn. Louis đáp: - Không. Almanzo hỏi: - Cậu sợ hả? Pierre chen vào: - Đúng, nó sợ. Louis cãi: - Tớ không sợ. Tớ chỉ không thích thôi. Pierre cười nhạo: - Nó sợ mà. Almanzo nói: - Đúng, nó sợ. Louis cãi lại là nó chẳng sợ gì hết. Almanzo và Pierre cùng nói: - Cậu sợ, sợ hết mức. Cả hai đều bảo nó là một con mèo ướt, rồi lại bảo nó là một em bé. Pierre nói nó nên về nhà với mẹ. Thế là cuối cùng Louis dè dặt ngồi lên cỗ xe trượt. Almanzo vung cây roi và hô: - Bước tới! Star và Bright bước lên rồi đứng lại. Chúng thử quay lại ngó coi có cái gì ở phía sau. Nhưng Almanzo lại hô, giọng chắc nịch: - Bước tới! Và lần này chúng đi lên, tiếp tục bước. Almanzo đi bên cạnh hai con bê, vung chiếc roi hô “Diệt!” Và hướng chúng vòng quanh sân kho. Pierre chạy sau cỗ xe và cũng vòng quanh theo cho tới khi những con bê xử sự hoàn hảo. Vậy là Almanzo mở cổng sân kho. Pierre và Louis vội vã rời xa cỗ xe và Pierre lo lắng: - Chúng sẽ chạy luôn! Almanzo nói: - Tớ nghĩ là tớ biết điều khiển những con bê của tớ. Cậu quay lại chỗ bên cạnh Star và Bright. Cậu quất cây roi và hô “Bước tới!” Đưa Star và Bright đi thẳng ra khỏi sân kho và tiến vào khoảng trống mênh mông lấp lánh phía ngoài. Cậu hô “Vắt!” Rồi hô “Diệt!” Và đưa chúng vượt qua ngôi nhà. Cậu đưa chúng ra hẳn ngoài đường. Chúng dừng lại khi cậu hô “Oa!”. Lúc này Pierre và Louis rất hào hứng. Cả hai leo lên chất đống trên cỗ xe, nhưng Almanzo đẩy chúng lui về phía sau. Cậu cũng lên xe. Cậu ngồi phía trước với Pierre ở sau lưng cậu và Louis ở sau lưng Pierre. Các cậu xoạc hai chân và giữ cứng lơ lửng trên mặt tuyết. Almanzo đắc ý vung cây roi và hô: - Bước tới! Đuôi Star cong lên, đuôi Bright cong lên và móng chân chúng đưa cao. Cỗ xe xóc nảy lên trong không và lập tức mọi chuyện xảy ra ngay. Star rống lên: - Bê-ô-ô! Bright rống theo: - Bê-ô-ô! Ngay trước mặt Almanzo những móng bò bay lên, những chiếc đuôi quất vun vút và những ống chân thú vật nhảy múa đắc ý cao vút. Almanzo hét lớn: - Oa! Oa! Bright rống lên: - Bê-ô! Star lại rống: - Bê-ô-ô! Cỗ xe lao đi vùn vụt càng xa càng nhanh hơn xuống đồi. Cây cối, tuyết và cẳng chân bê hoà lẫn vào nhau. Mỗi khi cỗ xe lao xuống, Almanzo lại cắn chặt răng vào nhau. Bright chạy nhanh hơn Star. Chúng sắp ra khỏi đường đi. Cỗ xe đảo vòng. Almanzo hét: - Vắt! Vắt! Cậu ngã cắm đầu trong tuyết trong lúc đang hét: - Vắt! Miệng đầy tuyết, cậu vừa nhổ ra, vừa lồm cồm trườn dậy. Mọi thứ đều yên tĩnh. Con đường trống hoe. Những con bê đã biến mất cùng với cỗ xe. Pierre và Louis đang loi ngoi ra khỏi tuyết. Louis đang chửi rủa bằng tiếng Pháp nhưng Almanzo không để ý tới. Pierre vuốt tuyết trên mặt, lắp bắp: - Mẹ kiếp! Vậy mà cậu bảo cậu điều khiển nổi những con bê của cậu. Chúng nó không chạy mất, hén? Phía xa dưới con đường gần như bị vùi lấp trong tuyết, Almanzo nhìn thấy những chiếc lưng màu hung đỏ của lũ bên bên một đụn tuyết phủ trên hàng rào đá. Cậu nói với Pierre: - Chúng nó đâu có chạy mất. Chúng chỉ chạy thôi. Chúng đang ở đó kìa. Cậu cuối xuống để xem xét lũ bê. Đầu và lưng chúng hở trên đám tuyết. Chiếc ách xộc xệch và cổ chúng nghiêng đi trong những thanh gỗ cong. Chúng chụm mũi vào nhau, mắt mở lớn ngạc nhiên. Hình như chúng đang hỏi nhau: - Chuyện gì xảy ra vậy? Pierre và Louis giúp moi tuyết ra khỏi lũ bê và cỗ xe. Almanzo sửa thẳng lại chiếc ách và sợi xích. Rồi cậu đứng trước lũ bê hô “Bước tới!” Trong lúc Pierre và Louis đẩy phía sau chúng. Lũ bê lên đường trở lại và Almanzo dẫn chúng về nhà kho. Chúng đi một cách thoải mái. Almanzo bước bên cạnh Star, huơ cây roi và hô. Lũ bê làm đúng theo mọi lời hô của cậu. Pierre và Louis đi bộ theo sau. Cả bọn đều không ngồi lên cỗ xe. Almanzo nhốt chúng vào ngăn chuồng, cho mỗi con một trái bắp non. Cậu lau chiếc ách thật kĩ và treo lên, đặt cây roi vào cái móc, lau sợi xích và cây cọc, đặt trả đúng chỗ ba đã cất chúng. Rồi cậu bảo Pierre và Louis ngồi sau cậu trên cỗ xe trượt trượt xuống dưới đồi chơi cho đến khi tới giờ lo việc nhà. Đêm đó, ba hỏi cậu: - Chiều nay, con đã có một chuyện không bình thường, phải không, con trai? Almanzo đáp: - Không! Con chỉ tìm cách dạy cho Star và Bright biết kéo xe thôi. Thế là cậu đã làm điều đó trong sân kho. Chương 10: Vòng Quay Của Năm Ngày đang dài hơn nhưng lạnh dữ hơn. Ba đọc: Ngày bắt đầu dài dặc. Tiết lạnh giá buốt hơn. Cuối cùng, tuyết trên các triền phía tây và phía nam mềm xốp một phần. Buổi trưa, những nhủ băng nhỏ giọt. Nhựa khởi dâng trong các thân cây và đã tới lúc làm đường. Trong buổi sáng lạnh, trước khi mặt trời lên, almanzo và ba đã rời nhà tới rừng trường khế. Ba đặt một cây đòn gánh gỗ lớn trên vai và almanzo một cây nhỏ hơn. Hai đầu gánh lủng lẳng những dây thừng bằng vỏ cây sừng nai với những móc sắt lớn và mỗi móc sắt treo một thùng lớn bằng gỗ. Mỗi cây trường khế, ba đều khoét một lỗ nhỏ và ráp khít một vòi nhỏ bằng gỗ vào đó. Nhựa trường khế ngọt ngào qua những vòi này nhỏ vào những chiếc xô nhỏ. Đi từ cây này qua cây khác, almanzo trút nhựa vào chiếc thùng gỗ lớn của cậu. Sức nặng đè trĩu hai vai nhưng cậu nắm chắc mấy chiếc thùng bằng hai bàn tay không cho đung đưa. Khi thùng đầy, cậu tới đổ vào chiếc vạc nấu lớn. Vạc nấu lớn treo vào một khúc cây gác giữa hai chạc cây. Ba giữ lửa cháy sáng đều ở phía dưới vạc để nấu sôi nhựa. Almanzo thích đi hoài qua những khu rừng hoang đông giá. Cậu đạp trên tuyết giống như chưa từng được đi như thế bao giờ và sau cậu chỉ kéo dài vết chân của cậu. Cậu bận rộn trút những xô đầy nhựa vào thùng và khi nào khát cậu uống một vài hớp nhựa lạnh như băng, ngọt mềm. Cậu thích quay lại chỗ ngọn lửa đang gào thét. Cậu cời lửa và ngắm những tia sáng rực bay lên. Cậu hơ nóng mặt và hai bàn tay trong hơi nóng hừng hực và hít hà mùi nhựa đang sôi. Rồi cậu lại đi vào rừng. Buổi trưa, tất cả nhựa đang sôi trong vạc. Ba mở xô thức ăn và almanzo ngồi lên khúc cây bên cạnh. Hai cha con ăn và nói chuyện. Họ duỗi dài chân về phía đống lửa và tựa lưng vào một đống gỗ. Xung quanh họ chỉ có tuyết, băng và rừng hoang nhưng họ thoải mái, ấm áp. Ăn xong, ba ngồi bên đống lửa canh chừng nhựa còn almanzo đi lùng kiếm những trái dâu mật mùa đông. Dưới lớp tuyết ở các triền phía nam, những trái dâu mật đã chín đỏ tươi giữa các chùm lá xanh. Almanzo lột găng tay, dùng bàn tay trần cào tuyết ra. Cậu kiếm được từng cụm dày đỏ chói và nhét đầy miệng. Những trái dâu ướp lạnh dập vỡ giữa hai hàm răng trào ra chất nước thơm ngọt. Không thứ gì khác có thể sánh ngang với những trái dâu mật mùa đông được đào ra từ trong tuyết. Quần áo almanzo dính đầy tuyết, các ngón tay cậu cứng ngắc và đỏ hỏn vì lạnh nhưng cậu không thể rời xa triền phía nam trước khi cào bới khắp hết. Khi mặt trời nghiêng xuống phía sau những cây trường khế, ba liệng tuyết lên đống lửa làm nổi lên những tiếng xèo xèo trong hơi nước mờ mịt. Rồi ba múc si-rô nóng vào các thùng. Ba và almanzo lại đặt những cây đòn gánh lên vai, gánh những đôi thùng về nhà. Họ trút si-rô vào chiếc chảo đồng lớn của má trên lò nấu. Rồi almanzo đi lo việc nhà trong lúc ba đi chuyển về số si-rô còn lại trong rừng. Sau bữa tối, si-rô đã trở thành đường. Má múc qua những chảo đựng sữa sáu lít và để ra ngoài lạnh. Tới sáng, mỗi chiếc chảo đều có một ổ đường trường khế lớn cứng ngắc. Má gỡ ra những ổ đường tròn, nâu vàng và cất lên hàng giá đựng thực phẩm. Ngày nối ngày, nhựa cây tiếp tục chảy và almanzo theo ba đi gom lại, nấu sôi lại để mỗi má làm thành đường. Tất cả số đường làm ra đủ để dùng cho đến hết năm sau. Lúc đó, phần si-rô nấu sôi cuối cùng không dùng làm đường mà chứa trong những chiếc vại ở dưới hầm đồ ăn để làm si-rô dùng cho cả năm. Khi alice đi học về, cô ngửi almanzo và kêu lên: - ô, em đã ăn dâu mật mùa đông rồi! Cô thấy không công bằng chút nào khi cô phải tới trường còn almanzo được đi gom nhựa và ăn dâu mật mùa đông. Cô nói: - con trai có mọi thứ thú vị. Cô buộc almanzo phải hứa sẽ không đụng đến những triền phía nam dọc sông trout bên kia bãi chăn cừu. Thế là vào những ngày thứ bảy, cả hai cùng nhau đến cào bới những triền này. Khi almanzo kiếm được một cụm đỏ tươi, cậu hét lên còn alice kêu the thé khi tìm thấy. Có lúc cả hai chia với nhau nhưng cũng có lúc không chia. Cả hai đều bò bằng tay và đầu gối khắp các triền phía nam và ăn dâu mật mùa đông suốt buổi chiều. Almanzo mang về nhà một xô đầy những chiếc lá dày, xanh biếc còn alice nhét lá vào một cái lọ lớn. Má đổ đầy whisky vào lọ và cất đi. Đó là thứ gia vị dâu mật mùa đông của má để thêm thơm cho bánh qui và bánh ngọt. Mỗi ngày, tuyết tan một ít. Những cây tuyết tùng và vân sam đã rũ hết tuyết và tuyết cũng biến thành những hạt tròn rơi xuống từ những nhánh sồi, nhánh trường khế trơ trụi. Dọc các bức vách nhà kho và ngôi nhà, mặt tuyết lỗ chỗ do nước từ các nhũ băng rơi xuống và cuối cùng các nhũ băng sụm vỡ. Mặt đất ướt át và các lối đi đen ngòm khắp nơi. Những lối đi kéo rộng ra thêm mãi. Chỉ riêng những lối đi bị nén đạp xuống là còn màu trắng và một phần tuyết còn đọng lại trên các mé phía bắc của dãy nhà và mấy đống gỗ. Rồi chương trình học mùa đông chấm dứt và mùa xuân đã tới. Một buổi sáng, ba lái xe đi malone. Trước buổi trưa, ba hấp tấp trở về nhà và từ trên xe đã la lớn thông báo tin tức. Các nhà buôn khoai tây new york đang có mặt ở thị trấn. Royal chạy ra kho giúp đóng ngựa vào xem alice và almanzo chạy vào nhà lán lấy những chiếc thùng đong ( thùng đong: bushel, bằng khoảng 36 lít ). Cả hai xoay tít đâm bổ xuống cầu thang dưới hầm chứa và bắt đầu xúc khoai tây thật nhanh. Trước khi ba lái cỗ xe tải vào cổng bếp, hai thùng khoai tây đã đầy ắp. Sau đó là một cuộc chạy đua. Ba và royal hối hả khuân những chiếc thùng lên cầu thang, đổ ụp vào thùng xe còn almanzo và alice hối hả nhồi đầy khoai vào sao cho nhanh hơn việc chuyển đi. Almanzo cố chất đầy nhiều thùng hơn alice nhưng không làm nổi. Cô làm nhanh đến nỗi cô xoay người về phía chiếc thùng lớn rồi mà vành váy của cô còn đang xoay về hướng khác. Khi cô đẩy những lọn tóc về phía sau, bàn tay của cô trét lên má cô đầy vết dơ. Almanzo cười giễu khuôn mặt dơ dáy của cô và cô cười lại: - soi gương coi! Mặt em còn dơ hơn chị nữa! Cả hai luôn giữ các thùng đầy, ba và royal không khi nào phải chờ. Khi thùng xe đầy rồi, ba vội vã đánh xe đi. Xế chiều ba mới trở về, nhưng royal, almanzo và alice vẫn chất đầy một thùng xe nữa khi ba ăn mấy món ăn nguội rồi ba lại chở đi. Đêm đó, alice giúp royal và almanzo làm các việc trong nhà. Ba không có mặt tron bữa ăn tối vì không về kịp trước giờ ngủ. Royal ngồi đợi ba. Tới khuya, almanzo nghe thấy tiếng xe và royal bước ra giúp ba lo cho lũ ngựa mệt nhọc phải kéo hàng suốt hai mươi dặm đường trong ngày hôm đó. Sáng hôm sau và sáng hôm sau nữa, cả nhà bắt đầu chất khoai dưới ánh nến và ba chở đi chuyến đầu trước khi mặt trời mọc. Vào ngày thứ ba, tàu chở khoai mới khởi hành đi về new york, nhưng toàn bộ khoai của ba đã chất xong lên tàu. Ba nói với má trong bữa ăn tối: - năm trăm thùng đong hết thảy với giá một đô la một thùng. Tôi đã nói với bà khi khoai tây xuống giá vào mùa thu vừa rồi là khoai sẽ lên giá vào mùa xuân. Thế là có năm trăm đô la trong ngân hàng. Tất cả đều hãnh diện vì ba đã trồng được loại khoai tây tốt như thế và biết rõ lúc nào giữ lại trong kho và lúc nào nên đem bán. Má nói, mặt rạng rỡ: - đúng là thật tốt. Cả nhà đều vui sướng. Nhưng ngay sau đó, má lại nhắc: - rồi, bây giờ chúng ta đều rảnh rỗi nên ngày mai sẽ dọn dẹp nhà cửa, phải lo làm sớm. Almanzo rất ghét việc lau dọn nhà. Cậu sẽ phải lôi những đường khâu lược trên tất cả các mép thảm dài hàng dặm. Rồi những tấm thảm được treo trên những dây vải phía ngoài và cậu phải đập chúng với một cây gậy dài. Khi còn bé, cậu chạy dưới những tấm thảm coi đó như những căn lều. Nhưng bây giờ, cậu đã chín tuổi và cậu phải đập những tấm thảm này cho tới không còn một chút bụi nào bay lên nữa. Mọi thứ trong nhà đều rời đi, mỗi thứ đều được lau chùi và đánh bóng. Màn cửa được hạ xuống, nệm giường khuân ra ngoài trời, tất cả khăn, chăn trải giường đều được giặt. Từ sáng sớm đến tối mịt, almanzo không ngưng chạy, bơm nước, khuân củi, trải rơm sạch lên mặt nền đã được lau chùi rồi giúp kéo căng những tấm thảm trên đó và khâu lược trở lại các mép thảm. Nhiều ngày nối sau, cậu quanh quẩn trong hầm chứa. Cậu giúp royal dọn trống khạp để rau. Cả hai lựa ra từng trái táo, từng củ cà-rốt, từng củ cải bị hư và đặt những thứ còn tốt vào mấy chiếc khạp do má đã lau sạch. Các cậu mang những khạp khác xuống và xếp chúng vào nhà lán gỗ. Các cậu cũng lôi ra đủ thứ vại sành, bình sứ cho tới khi hầm chứa gần như trống rỗng. Rồi má lau cọ vách và nền. Royal đổ nước vào các thùng vôi và almanzo khuấy cho tới khi nước vôi hết sôi và thành lớp nước màu trắng. Sau đó, các cậu quét trắng hết hầm chứa. Thật là thú vị. Khi các cậu lên nhà trên, má nói: - cám ơn chúa! Các con có quét vôi vách hầm trắng bằng quét các con không? Toàn thể hầm chứa đều sạch, mát và trắng như tuyết khi vôi khô. Má chuyển những chảo đựng sữa xuống những giá đồ đã được lau sạch. Các thau đựng bơ đã được đánh tráng bằng cát và phơi khô trong nắng. Almanzo đặt chúng thành một hàng trên nền hầm sạch sẽ để chờ đổ đầy bơ mùa hè. Ngoài trời, những khóm tử đinh hương và tuyết cần tươi rực rỡ. Bông tím và mao hương đang nở hoa trên những thảm cỏ xanh. Các loài chim rộn ràng xây tổ và thời gian làm việc ngoài đồng đã tới. Chương 11: Mùa Xuân Bây giờ bữa điểm tâm dứt trước lúc bình minh và mặt trời đang vươn lên phía bên kia đồng cỏ còn đẫm sương khi Almanzo dẫn cặp ngựa ra khỏi khu nhà kho. Cậu phải leo lên một cái thùng để nhấc bộ vòng nặng nề đặt lên vai lũ ngựa và choàng dây cương qua vai chúng, nhưng cậu biết cách điều khiển chúng. Cậu đã học được từ khi còn nhỏ. Ba không cho cậu sờ tới lũ ngựa non hoặc ngựa trẻ kéo xe lanh lẹ, nhưng bây giờ cậu đã đủ lớn để làm việc ngoài đồng và cậu có thể điều khiển cặp ngựa cày già ngoan ngoãn Bess và Beauty. Chúng là những con ngựa cái khôn ngoan và điềm đạm. Khi chúng hướng về bãi cỏ, chúng không hí lên và lồng chạy như lũ ngựa con. Chúng chỉ nhìn quanh, nằm xuống, lăn mình một vài vòng rồi gặm cỏ. Khi được đóng yên, chúng bước đi trầm tĩnh, nối theo nhau qua ngưỡng cửa nhà kho, hít thở không khí mùa xuân rồi kiên nhẫn chờ buộc các dây kéo. Chúng đều già hơn Almanzo vì cậu chỉ sắp được mười tuổi. Chúng biết cách kéo cày mà không đạp lên cây bắp hoặc khiến các luống cày vặn vẹo. Chúng biết cách bừa và quay lui ở cuối đồng. Almanzo còn thích điều khiển chúng hơn nếu chúng không biết nhiều như thế. Cậu cột chúng vào chiếc bừa. Đồng được cày vào mùa thu trước và được rải phân, bây giờ cần bừa cho đất tơi cục. Bess và Beauty bước đi thoải mái, không quá nhanh mà chỉ vừa đủ nhanh để bừa tốt. Chúng thích làm việc vào mùa xuân sau một mùa đông dài đứng chôn chân trong các ngăn chuồng. Chúng bừa tới lui khắp đồng trong lúc Almanzo nắm dây cương đi theo sau chiếc bừa. Cuối mỗi hàng, cậu quay cặp ngựa lại và đặt chiếc bừa sao cho răng bừa chỉ hơi chồm qua hàng bừa trước. Rồi cậu sẽ đập sợi dây cương vào mông lũ ngựa và hô: - Bước tới! Và, chúng lại bước tới. Những đứa trẻ khác khắp vùng quê cũng đang bừa để làm xốp tơi đất dưới nắng. Xa xa về phía bắc, dòng sông St.Lawrence như một đường kẻ bạc ở chân trời. Những lùm cây thành những đám mây màu xanh lục nhẹ nhàng. Từn bầy chim tung tăng ca hát trên những vách đá trong lúc lũ sóc nhảy nhót nô đùa. Almanzo vừa bước tới, vừa huýt gió sau cặp ngựa. Khi bừa đứt một đường ngang hết cánh đồng, cậu bừa tiếp một đường khác. Hàng răng như răng lược sắc nhọn của chiếc bừa xới rồi lại xới thêm trong đất làm tan hết những tảng đóng cục. Tất cả đất cục đều phải được xới cho tan nhuyễn. Dần dần, Almanzo không còn huýt gió nổi vì quá đói. Hình như buổi trưa không bao giờ tới. Cậu tự hỏi cậu đã đi qua bao nhiêu dặm dài rồi. Vậy mà mặt trời giống như cứ đứng nguyên tại chỗ, những cái bóng chẳng hề thay đổi chút nào. Cậu cảm thấy đang đói lả đi. Cuối cùng thì mặt trời cũng vươn lên thẳng đỉnh đầu và không còn chiếc bóng nào. Almanzo bừa thêm một đường nữa rồi một đường khác nữa. Sau hết, cậu nghe thấy tiếng tù và nổi lên từ xa tới gần. m thanh báo giờ ăn từ chiếc tù và lớn bọc thiếc của má rõ ràng và vui vẻ. Bess và Beauty dựng đứng hai tai, bước một cách hăng hái. Tới cuối đồng, hướng về phía ngôi nhà, chúng dừng lại. Almanzo cởi dây kéo thả chúng ra và bỏ chiếc bừa lại trên đồng. Cậu leo lên tấm lưng rộng của Beauty. Cậu cưỡi ngựa về phía nhà máy bơm cho lũ ngựa uống nước. Cậu đưa chúng vào ngăn chuồng, tháo cương và lấy thức ăn cho chúng. Một người chủ ngựa giỏi luôn luôn săn sóc ngựa trước khi ăn hoặc nghỉ ngơi. Nhưng Almanzo rất vội. Bữa ăn trưa hấp dẫn biết chừng nào! Và cậu sẽ ăn ngon biết bao! Ba chất đống lên đĩa của cậu rồi lại chất đống tiếp và má mỉm cười đưa thêm cho cậu hai chiếc bánh patê. Cậu cảm thấy khá hơn khi trở lại làm việc. Nhưng buổi chiều có vẻ dài hơn buổi sáng nhiều. Cậu khá mệt khi về tới khu nhà kho lúc mặt trời lặn để bắt đầu lo công việc nhà. Mắt cậu như sụp xuống trong bữa ăn tối và ngay khi ăn xong, cậu liền leo lên cầu thang đi ngủ. Thật thoải mái được nằm dài trên chiếc giường mềm mại. Trước khi kịp kéo tấm chăn phủ lên tấm trải giường, cậu đã chìm vào giấc ngủ. Như chỉ trong một phút, ánh sáng nến của má đã rọi trên cầu thanh và má đang gọi. Một ngày khác đã bắt đầu. Không có thì giờ để bỏ phí. Không có thì giờ để hoang phí vào nghỉ ngơi hoặc đùa giỡn. Nhịp sống của đất dồn tới như nước cuốn trong mùa xuân. Tất cả hạt mầm cây hoang cỏ dại, bụi rậm, dây leo đều cố chiếm ngự các cánh đồng. Mọi nông dân với chiếc bừa, chiếc cày, cây cuốc phải phấn đấu với chúng để gieo xuống cực nhanh những mầm giống tốt. Almanzo là một chiến sĩ nhỏ trong trận đánh vĩ đại này. Từ sáng sớm tới tối mịt, cậu làm việc và ngủ từ tối đến sáng để lại trở dậy tiếp tục làm việc. Cậu bừa cánh đồng khoai cho tới khi đất cục tơi mịn và mọi mầm cỏ hoang nhỏ nhất bị chết hẳn. Rồi cậu giúp Royal lấy khoai giống từ chiếc vại trong hầm chứa ra, cắt thành miếng với hai hoặc ba mắt trên mỗi miếng. Khoai tây nở hoa và kết hạt, nhưng không ai biết mỗi một hạt giống sẽ cho thứ khoai nào. Tất cả cây khoai cùng loại đều được sinh ra từ một cây giống. Cây giống không phải hạt mà là một đoạn rễ cây. Những đoạn rễ cây được cắt ra, trồng xuống luôn cho nhiều khoai như hệt cây giống. Mỗi cây giống có nhiều chấm nhỏ giống những hố mắt. Từ các mắt này, những chiếc rễ nhỏ sinh ra và cắm vào trong đất và những chiếc lá nhỏ vươn lên đón nắng. Những cánh lá sống bằng chính phần cây giống khi chúng mới nhú cho tới lúc đủ mạnh để nhận thức ăn từ dưới lòng đất và trong không khí. Ba đang đánh luống trên đồng. Vật đánh luống là một khúc cây với một hành chốt gỗ cách khoảng ba bộ rưỡi. Một con ngựa kéo ngang khúc gỗ phía sau nó và những chiếc chốt vạch thành các luống nhỏ. Ba vạch theo chiều dọc và cả chiều ngang để các luống tạo thành những đường ô vuông nhỏ. Lúc đó, việc trồng cây bắt đầu. Ba và Royal cầm cuốc, còn Alice và Almanzo mang những xô đầy cây giống. Almanzo đi trước Royal còn Alice đi trước ba dọc theo các hàng. ở góc của mỗi ô vuông, nơi các luống giao nhau, Almanzo đặt một cây giống. Cậu phải đặt chính xác ở góc để giữ các hàng thật thẳng và có thể cày xới. Ba theo sau Alice để lấp những cây giống do cô đặt. Công việc trồng khoai thật thích thú. Mùi thơm xông lên từ hương đất mới và những cánh đồng cỏ ba lá. Alice duyên dáng và nhí nhảnh với những lọn tóc bay trong gió và khung vành váy đung đưa. Ba luôn đùa giỡn và tất cả cũng trò chuyện trong lúc làm việc. Almanzo và Alice cố đặt cây thật nhanh để tới cuối hàng sẽ có một phút ngắm những tổ chim hoặc đuổi một con thằn lằn vào vách đá. Nhưng ba và Royal không bao giờ cách xa ở phía sau. Ba luôn thúc: - Làm dọc theo đó, con trai, bước theo ngay! Thế là cả hai sấn và khi vượt lên trước đủ xa, Almanzo nhặt một cọng cỏ kẹp giữa mấy ngón tay cái huýt gió. Alice thử làm nhưng không thể làm được. Cô chỉ có thể huýt gió bằng cách dụm môi lại. Royal chọc cô: Con gái huýt gió và gà mái gáy Chuyện dữ dằn ắt sẽ đến ngay Họ đi tới đi lui khắp cánh đồng trọn buổi sáng rồi trọn buổi chiều liền ba ngày. Lúc đó, khoai đã trồng xong. Rồi ba gieo hạt. Ba gieo một vùng lúa mì để làm bột trắng và một vùng lúa mạch đen để làm bột mạch đen và một vùng yến mạch với đậu Canada để có thức ăn cho bò, ngựa trong mùa đông tới. Trong lúc ba gieo hạt, Almanzo theo sau ba khắp đồng với Bess và Beauty, bừa lấp hạt trong đất. Almanzo chưa thể gieo hạt vì còn phải tập một thời gian dài trước khi rải được đều hạt. Việc này không dễ làm. Một túi hạt nặng treo vào một dây da quàng trên vai trái ba. Khi bước đi, ba bốc một nắm hạt trong túi. Bằng một động tác đảo cánh tay vào uốn vòng cườm tay, ba cho những hạt nhỏ bay ra từ các ngón tay hoà nhịp với các bước đi của ba và khi ba gieo hạt xong, mỗi tấc đất trên đồng đều có hạt nằm đều rải rác, không chỗ nào quá nhiều, không chỗ nào quá ít. Hạt quá nhỏ khó nhìn rõ trên đất, nhưng tài năng của người gieo hạt được nhận biết khi các hạt nảy mầm. Ba đã kể cho Almanzo nghe về một cậu bé biếng nhác, bất tài được cho ra đồng gieo hạt. Cậu bé này không muốn làm việc nên trút hết hạt giống ra khỏi bao rồi đi bơi. Không ai nhìn thấy cậu làm như thế. Sau đó, cậu bừa lấp hết cánh đồng và không ai biết rõ việc làm thực của cậu. Nhưng những hạt giống biết rõ và mặt đất cũng biết để nhắc nhở cho cậu khi chính cậu đã quên bằng việc làm tệ hại của mình. Toàn cánh đồng chỉ có cỏ dại. Khi hạt được gieo xong, Almanzo và Alice lo trồng cà-rốt. Cả hai đeo trên vai những túi đầy hạt giống cà-rốt tròn, đỏ, nhỏ xíu, giống như những túi hạt giống lớn của ba. Ba đánh luống cà-rốt dọc cánh đồng với đồ đánh luống có răng chỉ cách nhau mười tám inch. Almanzo và Alice với những hạt giống cà-rốt đảo ngược xuôi dọc cánh đồng, dạng hai chân trên những luống nhỏ. Lúc này, thời tiết ấm áp đến mức cả hai có thể đi bằng bàn chân trần. Những bàn chân trần đưa lại cảm giác thật dễ chịu trong không khí và trên mặt đất mềm. Cả hai rắc hạt cà-rốt vào luống rồi dùng bàn chân gạt đất phủ lên, ép cứng lại. Almanzo có thể nhìn thấy bàn chân mình, nhưng Alice đương nhiên bị vành váy che khuất mắt. Vành váy của cô xoe tròn và cô phải đẩy lui về phía sau để cúi xuống rắc hạt vào đúng trong luồng. Almanzo hỏi cô có phải không thích làm con trai không. Cô trả lời không, cô thích chứ. Rồi cô lại bảo đúng, cô không thích. - Con trai không xinh bằng con gái và không được thắt các dây nơ. Almanzo nói: - Em khỏi cần mình phải xinh đẹp thế nào. Em cũng sẽ không đeo một thứ dây nơ nào hết. - Được, chị thích làm bơ, thích khâu vá chăn mền. Rồi còn nấu nướng, thêu may và kéo tơ nữa. Con trai không làm nổi như thế. Thêm nữa, dù là con gái chị vẫn trồng khoai được, vẫn gieo hạt cà-rốt được và điều khiển ngựa như con trai vậy. Almanzo nói: - Chị đâu có huýt gió với một cọng cỏ được. Tới cuối luống, cậu nhìn thấy mấy chiếc lá tần bì non quăn queo và hỏi Alice có biết khi nào sẽ trồng bắp không. Cô không biết và cậu nói cho nghe. Thời gian trồng bắp vào lúc những chiếc lá tần bì lớn ngang tai của lũ sóc. Alice hỏi: - Một con sóc lớn cỡ nào? - Chỉ bằng một con sóc bình thường thôi. - Được, những chiếc lá kia đã lớn bằng tai của một con sóc con. Vậy không phải đã tới lúc trồng bắp sao? Almanzo khựng lại một phút không biết nghĩ gì. Rồi cậu nói: - Một con sóc con không phải là một con sóc. Nó là một con vật bé xíu, một kitten. - Nhưng nó vẫn đúng là một con sóc… - Không phải. Nó là một kitten. Mèo con là kitten, cáo con là kitten, sóc con cũng là kitten. Một kitten không phải con mèo và một kitten cũng không phải là con sóc. Alice kêu lên: - Ôi. Khi những cánh lá tần bì đủ lớn, Almanzo lại phụ trống bắp. Cánh đồng được đánh luống bằng đồ đánh luống khoai và ba với Royal, Almanzo cùng nhau trồng bắp. Họ đeo các túi bắp giống quanh eo giống như đeo tạp dề và mang theo cuốc. Tại các góc của mỗi ô vuông, nơi các luống giao nhau, họ dùng cuốc xới đất lên và làm thành một hố cạn, bỏ vào đó hai hạt bắp, phủ đất lên rồi dập chặt xuống. Ba và Royal làm rất nhanh. Bàn tay và lưỡi cuốc của họ luôn thực hiện các động tác giống nhau. Ba nhát khía nhanh và một nhát bổ xuống với cây cuốc, một bàn tay vươn ra và một động tác múc và hai cái vỗ của lưỡi cuốc thế là xong một gồ bắp trồng. Kế đó, họ bước dài thật nhanh lên trước và lập lại các động tác. Phần Almanzo chưa từng trồng bắp trước đó. Cậu cầm cuốc không chắc lắm. Cậu lại phải nhảy hai bước mới tới điểm mà ba và Royal chỉ đi một bước vì chân cậu ngắn hơn. Ba và Royal luôn vượt lên trước và cậu không tài nào theo kịp. Một người phải phủ dứt luống cho cậu để cậu có thể bắt đầu trở lại. Cậu không thích thế. Nhưng cậu biết là cậu có thể trồng bắp nhanh như bất kì ai khi chân cậu dài hơn. Chương 12: Người Bán Đồ Thiếc Một buổi tối sau khi mặt trời lặn, Almanzo thấy một con ngựa trắng kéo một cỗ xe lớn màu đỏ tươi xuất hiện trên đường và cậu la lên: - Người bán đồ thiếc tới! Người bán đồ thiếc tới! Alice chạy ra khỏi chuồng gà với chiếc tạp dề đầy trứng. Má và Eliza Jane bước ra khỏi nhà bếp. Royal tuôn ra khỏi nhà máy bơm. Và những con ngựa non thò đầu ra ngoài các ô cửa sổ ngăn chuồng hí lên với con ngựa trắng. Nick Brown, người bán đồ thiếc, là một người mập mạp, vui nhộn, luôn kể đủ thứ chuyện và hát nhiều bài hát. Vào mùa xuân, ông đi dọc những con đường vùng quê đem những tin tức gần xa. Cỗ xe của ông như một căn nhà nhỏ đu đưa trên những sợi dây da chắc chắn giữa bốn bánh xe cao lênh khênh. Mỗi bên sườn xe có một khung cửa và từ sau xe có một bửng nghiêng lên tựa chiếc đuôi chim được giữ tại chỗ bằng những sợi dây da ràng lên nóc mui xe. Trên mui xe có một hàng lan can bọc khắp xung quanh để trang trí và xe, bửng, bánh xe đều sơn màu đỏ tươi với những đường cuốn màu vàng rất đẹp. Trên cao phía trước, Nick Brown ngất ngưởng trên chiếc ghế màu đỏ phía trên mông của con ngựa trắng lực lưỡng. Almanzo, Alice, Royal và cả Eliza Jane đều chờ sẵn khi cỗ xe ngừng gần bên cổng bếp và má đứng trong cửa mỉm cười. Má lên tiếng: - Khoẻ chứ, ông Brown! Ba nói vọng ra từ trong nhà kho: - Tháo ngựa ra và vào nhà đi. Bữa tối sẵn sàng rồi. Đưa xe vào nhà xe đi, Nick, còn dư khối chỗ mà. Almanzo tháo dây cho con ngựa to lớn, mượt bóng, dắt nó đi uống nước rồi đưa nó vào một ngăn chuồng, lấy cho nó hai suất lúa mạch và thật nhiều cỏ khô. Ông Brown cẩn thận vuốt chải lông cho nó và lau chùi nó bằng những tấm vải sạch. Ông đúng là một chủ ngựa giỏi. Sau đó, ông quan sát khắp trong kho và cho biết ý kiến. Ông nhìn say mê Star và Bright rồi khen ngời những con ngựa con của ba. Ông nói với ba: - Ông sẽ bán được giá những con ngựa sắp bốn tuổi này. Khắp vùng Saranac, các nhà buôn New York đang lùng kiếm ngựa kéo xe. Tuần vừa rồi, một người đã trả hai trăm đô la để mua một con không hơn chút xíu nào so với những con ngựa này. Dĩ nhiên, Almanzo không được lên tiếng trong khi người lớn đang nói chuyện. Nhưng cậu lắng nghe. Cậu nghe không sót một lời nào của ông Brown. Và cậu biết thời gian tốt nhất sẽ đến sau bữa ăn tối. Nick Brown có thể kể nhiều câu chuyện hấp dẫn và hát nhiều bài hát hơn bất kì người đàn ông nào. Chính ông đã nói thế và đó là sự thực. Ông đã nói: - Dạ, thưa ngài, tôi dám nói, không phải một mình tôi đương đầu với một người nào mà đương đầu với bất kể đám đông nào. Tôi sẽ kể từ chuyện này sang chuyện khác và hát từ bài này sang bài khác lâu tới chừng nào mà ngài còn dẫn người tới đấu với tôi và khi mà tất cả những người đó đã ngưng hết, tôi sẽ kể tiếp câu chuyện cuối cùng và hát bài hát cuối cùng. Ba biết đó là sự thực. Ba đã từng nghe Nick Brown làm thế tại cửa hàng của ông Case ở Malone. Thế là sau bữa ăn tối, cả nhà quây quần bên lò sưởi và ông Brown bắt đầu. Tới sau chín giờ tối trước khi mọi người lên giường, hai bên sườn Almanzo vẫn đau nhức vì cười. Sau bữa ăn điểm tâm sáng hôm sau, ông Brown đóng con ngựa trắng vào xe, lái ra trước cổng nhà bếp và mở những khung cửa xe màu đỏ. Tất cả các thứ trong xe đều làm bằng thiếc. Trên những giá dọc các vách xe là những bộ đồ nhôm sáng bóng, xô, chảo, thau, chảo hấp bánh ngọt, chảo nướng bánh patê, chảo nướng bánh mì và chảo xào nấu các món ăn. Phía trên cao lủng lẳng những chiếc ly, phễu múc, bình lọc, lưới lọc, lò hấp, xoong và vỉ lò. Còn có cả những chiếc sừng bịt thiếc, những chiếc còi thiếc, những chiếc đĩa đồ chơi và những cái kẹo bằng thiếc cộng thêm đủ loại hình những con vật nhỏ bằng thiếc được sơn bóng loáng. Tự tay ông Brown làm tất cả những thứ đó trong suốt mùa đông và mỗi bộ phận đều được làm bằng thứ thiếc dày, chế ráp kĩ và hàn rất chắc chắn. Má mang hết những túi vải lớn trên gác mái xuống và cuốn sạch tất cả những mảnh vải mà má để dành suốt nằm qua trong nền nhà mái vòm. Ông Brown xem xét những mảnh vải và len sạch, tốt trong lúc má xem xét các món đồ thiếc và hai bên bắt đầu thương lượng trao đổi. Cuối cùng, ông Brown nói: - Được, thưa bà. Tôi sẽ bán cho bà những xoong đựng sữa và mấy chiếc xô, chiếc lưới lọc và món đồ vợt cùng với ba lò hấp nhưng chiếc chảo nấu thì không. Đây là món quà biếu cuối cùng của tôi. Má nói một cách không nôn nóng: - Tốt quá, ông Brown. Má đã có được đúng thứ má muốn có. Almanzo đã biết má không cần chiếc chảo nấu. Má chỉ kéo nó ra để mặc cả thôi. Lúc này, ông Brown cũng biết điều đó. Ông nhìn má vừa ngạc nhiên vừa nể phục. Má tỏ ra là một người buôn bán sắc sảo. Má đã thắng được ông Brown. Nhưng ông ấy cũng hài lòng vì đã thu lại rất nhiều mảnh vải tốt khi đổi những món đồ thiếc của ông. Ông gom vải và gói lại thành một kiện chất lên chiếc bửng phía sau xe. Chiếc bửng nghiêng và hàng lan can trên nóc xe được làm để chứa những kiện hàng vải mà ông gom được. Rồi ông Brown xoa hai bàn tay vào nhau, nhìn quanh mỉm cười. Ông nói: - Bây giờ thi tôi tự hỏi những nông dân trẻ trung này thích thứ gì! Ông cho Eliza Jane sáu chảo hấp bánh nhỏ hình hột xoàn để hấp những chiếc bánh ngọt nhỏ và cho Alice sáu chiếc hình trái tim. Rồi ông cho Almanzo một chiếc sừng bịt thiếc sơn đỏ. Tất cả đều nói: - Cảm ơn ông Brown! Lúc này, ông Brown leo lên chỗ ngồi cao ngất ngưởng của mình và cầm lấy dây cương. Con ngựa trắng lực lưỡng háo hức bước tới sau khi đã được ăn no nê, được chải chuốt sạch sẽ và nghỉ ngơi khoẻ khoắn. Cỗ xe màu đỏ đi qua ngôi nhà, lắc lư lăn ra đường trong lúc ông Brown bắt đầu huýt gió. Má đã có đủ đồ thiếc xài cho năm đó còn Almanzo có chiếc tù và kêu thật lớn và Nick Brown đang huýt gió trên cỗ xe di chuyển giữa hàng cây xanh và cánh đồng. Mùa xuân năm tới ông mới trở lại nhưng mọi người nhớ mãi những tin tức của ông và luôn luôn bật cười về những câu đùa giỡn của ông, còn Almanzo bước sau những con ngựa ngoài đồng, huýt gió theo những bài hát mà ông đã hát. Chương 13: Con Chó Lạ Lùng Nick Brown đã cho biết những tay lái ngựa New York đang có mặt ở vùng lân cận nên mỗi đêm ba đều chăm sóc cho lũ ngựa bốn tuổi một vẻ ngoài đặc biệt. Ngựa bốn tuổi đều được luyện thuần hoàn hảo và Almanzo rất muốn phụ lo chải chuốt cho chúng nếu ba cho phép. Nhưng cậu chỉ được phép vào chuồng của chúng khi có ba ở đó. Almanzo chải hết sức cẩn thận những mảnh lông nâu bóng hai bên sườn của chúng, những vùng hông tròn đầy mượt mà và những ống chân thon mạnh mẽ của chúng. Rồi cậu lau kĩ càng bằng những mảnh vải sạch. Cậu chải và sắp xếp lại những chiếc bờm, những chiếc đuôi dài đen bóng. Với một chiếc bàn chải nhỏ, cậu thấm dầu lên móng của chúng cho tới khi tất cả đều đen bóng như chiếc lò được đánh bóng của má. Cậu cẩn thận để không bao giờ cử động đột ngột khiến chúng giật mình. Cậu trò chuyện với chúng bằng giọng nói nhỏ hiền hoà trong lúc cậu làm việc. Những con ngựa con thường nhấm nháp ống tay áo cậu và chúi mũi vào túi cậu dể kiếm những trái táo mà cậu mang tới cho chúng. Chúng vươn cao cần cổ khi cậu chùi những cái mũi mềm như nhung của chúng và những con mắt hiền hoà của chúng sáng lên. Almanzo cho rằng khắp thế giới không có gì đẹp và quyến rũ bằng những con ngựa đẹp đẽ này. Rồi cậu lại nghĩ cậu phải còn chờ nhiều năm, nhiều năm nữa mới có được một con ngựa con để tự săn sóc cho nó và thấy khó chịu đựng nổi với sự chờ đợi đó. Một buổi tối, một người buôn ngựa tiến vào sân nhà kho. Ông ta là một lái ngựa lạ, ba chưa từng gặp trước đó. Ông ta mặc quần áo kiểu thành thị may bằng máy và gõ chiếc roi nhỏ màu đỏ lên đôi ủng cao bóng loáng. Cặp mắt đen của ông ta như dính sát vào chiếc mũi mỏng, bộ râu cằm của ông ta được tỉa gọn vào một điểm còn hai đuôi râu mép đánh sáp bóng và xoắn ngược lên. Ông có vẻ lạ lùng, đứng giữa sân kho với vẻ tư lự, xoắn một đầu ria mép thành một điểm nhọn. Ba cho những con ngựa chạy ra. Tất cả đều là giống Morgans hoàn hảo, giống y chang nhau về kích cỡ, hình dáng, màu lông nâu bóng và cùng có một hình ngôi sao trắng trên trán. Chúng vươn cao cần cổ và nhấc những bàn chân sau nhỏ nhắn lên một cách dễ thương. Ba nói: - Đầy bốn tuổi vào tháng Năm này, hoàn toàn tráng kiện, không có một tì vết nào. Đã được luyện thuần để kéo đôi hoặc kéo đơn. Lanh lợi, hăng hái và ngoan như một con mèo con. Một phu nhân cũng điều khiển được. Almanzo lắng nghe. Cậu rất kích động nhưng cậu ghi nhớ kĩ lưỡng từng lời ba và người lái ngựa nói. Một ngày nào đó, chính cậu sẽ phải lo mua bán ngựa. Người lái ngựa sờ mó ống chân lũ ngựa, mở miệng chúng xem răng. Ba không lo lắng gì vì đã nói đúng về tuổi của chúng. Rồi người lái ngựa đứng lui lại ngắm, trong lúc ba cột mỗi con ngựa vào một sợi dây dài cho chúng đi, chạu và phi một vòng xung quanh ba. Ba nói: - Hãy coi cách cử động. Những chiếc bờm đen bóng và những chiếc đuôi dài như sóng gợn trong không khí. Những gợn sáng màu nâu dâng lên khắp những thân hình mềm mại và những bàn chân xinh xắn hình như không chạm tới mặt đất. Chúng đảo vòng, đảo vòng không hề sai trật. Người lái ngựa đã coi xong. Ông ta cố tìm lấy một khuyết điểm nhưng không được. Những con ngựa đứng im limg và ba đợi. Cuối cùng người lái ngựa đề nghị giá 175 đô la một con. Ba nói không thể bán dưới giá 225 đô la. Almanzo biết ba phải nói thế vì ba muốn bán với giá 200 đô la. Nick Brown đã nói với ba là người lái ngựa này chịu trả giá khá cao. Rồi ba cột cả hai con ngựa vào cỗ xe nhỏ. Ba và ông ta cùng leo lên cho ông ta ra ngoài chạy xuống đường. Đầu những con ngựa vểnh cao, mũi vươn tới, bờm và đuôi bay dài theo gió. Những vó chân phóng đều nhau tựa hồ như chỉ đang có một con ngựa phi. Trong khoảnh khắc cỗ xe đã xa khỏi tầm nhìn. Almanzo biết là cậu phải đi lo công việc trong nhà. Cậu vào nhà kho, cầm lấy cây chĩa rồi lại đặt trở xuống, trở ra chờ ngắm mấy con ngựa quay về. Khi trở về, ba và người lái ngựa vẫn không thoả thuận về giá cả. Ba giật mạnh những cọng râu và người lái ngựa xoắn xoắn đầu ria mép. Người lái ngựa nói về những phí tổn đưa lũ ngựa con về New York và về giá cả ở đó rất thấp. Ông ta phải nghĩ đến lợi nhuận. Giá cao nhất mà ông ta có thể trả là 175 đô la. Ba nói: - Tôi chặt đôi khoảng chênh lệch. Hai trăm đô la là cái giá chót của tôi. Người lái ngựa nghĩ ngợi và trả lời: - Tôi thấy không có lời với cái giá đó. Ba nói: - Tốt thôi. Khỏi cần phải băn khoăn thêm. Chúng tôi rất vui mời ông ở lại dùng bữa tối. Ba bắt đầu tháo ngựa. Người lái ngựa nói: - Khắp xứ Saranac người ta bán những con ngựa tốt hơn mấy con ngựa này với giá một trăm bảy mươi lăm đô la. Ba không trả lời, ba tháo ngựa và đưa chúng vào ngăn chuồng. Lúc đó, người lái ngựa nói: - Thôi được, hai trăm cũng được. Tôi không đủ tiền với cái giá này, nhưng ông ở đây mà. Ông ta lôi chiếc ví căng phồng ra khỏi túi đưa cho ba 200 đô la để chấm dứt cuộc trả giá. - Mai ông đưa chúng ra thị trấn và lấy nốt phần còn lại. Những con ngựa đã được bán theo giá của ba. Người lái ngựa không ở lại ăn bữa tối. Ông ta lên ngựa đi ngay và ba đưa tìên cho má trong nhà bếp. Má kêu lên: - Ông có ý định là mình phải giữ trọn số tiền này ở nhà qua đêm? Ba nói: - Quá trễ rồi, đâu còn gửi ngân hàng được. Mình bình yên mà. Không ai biết mình có tiền ở đây cả. - Tôi chắc là tôi không chợp mắt nổi một giây. Ba nói: - Chúa sẽ che chở cho chúng ta. Má đáp: - Chúa cứu giúp theo cách tự cứu giúp. Tôi cầu mong sẽ tốt lành khi những đồng tiền này nằm an toàn ở ngân hàng. Giờ làm việc nhà đã qua rồi và Almanzo vội vã chạy xuống nhà kho với những xô đựng sữa. Nếu những con bò cái không được vắt sữa đúng giờ vào buổi sáng và buổi tối, chúng sẽ không cho nhiều sữa. Rồi còn những máng ăn và những ngăn chuồng cần dọn sạch với việc cung cấp thức ăn cho tất cả. Trước khi làm xong mọi việc đã gần tám giờ và má đang hâm nóng bữa ăn tối. Giờ ăn tối không vui vẻ như thường lệ. Có một cảm giác nặng nề ám ảnh về số tiền. Má giấu trong phòng đựng đồ ăn rồi má lại giấu trong buồng riêng. Sau bữa ăn tối, má bắt đầu làm món bánh xốp để nướng vào ngày mai và lại lo ngại về số tiền. Bàn tay má thoăn thoắt, bánh xốp làm bật lên những tiếng rớt lốp bốp nhỏ dưới chiếc muỗng của má và má đang nói: - Không thể hình dung lại có ai nghĩ tới tìm kiếm giữa những cuộn giấy trong phòng vệ sinh, nhưng tôi nghĩ, tôi… Cái gì vậy? Cả nhà đều bật dậy, nín hơi lắng nghe. Má nói trong hơi thở: - Có một cái gì hoặc một người đang trườn quanh nhà. Tất cả những thứ được nhìn thấy khi mọi người nhìn về các ô cửa sổ chỉ là ngoài trời tối đen. Ba nói: - Xì! Chẳng có gì hết! - Tôi chắc là đã nghe thấy một cái gì. Ba nói: - Tôi chẳng nghe thấy gì cả. Má gọi: - Royal, con ra coi xem. Royal mở cửa bếp nhìn chăm chú ra màn đêm. Một phút sau cậu nói: - Chỉ có một con chó đi lạc. Má nói: - đuổi nó đi. Royal bước ra đuổi con chó. Almanzo đã ao ước có một con chó. Nhưng một con chó con sẽ đào xới khắp vườn, lùa lũ gà mái, xục tìm trứng, còn một con chó lớn có thể giết chết cừu. Má luôn bảo đã có quá đủ các thứ chất đống mọi chỗ rồi nên không cần thêm một con chó dơ dáy. Má đem cất món bánh xốp. Almanzo đã rửa chân. Cậu phải rửa các bàn chân mỗi đêm khi cậu đi chân trần. Cậu đang rửa thì mọi người đều nghe rõ tiếng động lén lút trên nhà vòm. Hai mắt má mở lớn. Royal nói: - Vẫn là con chó đó. Cậu mở cửa. Cả nhà không nhìn thấy gì và mắt má mở lớn hơn. Rồi mọi người thấy một con chó lớn, gầy ốm đang khép mình trong bóng tối. Hai bên sườn nó chỉ còn da bọc. Alice kêu: - Ô, má ơi! Con chó tội nghiệp quá! Con cho nó ăn một miếng được không, má! - Ờ, đáng thương thật, con gái! Má tiếp: - Royal, con có thể đợi sáng mai hãy đuổi nó đi. Alice bưng một chảo đồ ăn tới cho con chó. Nó không dám tới gần khi cửa còn mở nhưng lúc Almanzo đóng cửa lại thì cả nhà nghe tiếng nó nhai. Má thử lắc cửa tới hai lần để biết chắc là cửa đã được khoá. Bóng tối trở lại nhà bếp khi mọi người rời đi với những cây nến và bóng tối được xuyên thủng ở các cửa sổ phòng ăn. Má khoá cả hai cửa ra vào phòng ăn rồi đi vào phòng khách để coi lại dù cửa phòng khách luôn luôn khoá. Almanzo nằm trên giường và lắng nghe và nhìn vào bóng tối một hồi lâu. Nhưng cuối cùng cậu chìm vào giấc ngủ và không biết trong đêm xảy ra chuyện gì cho tới khi má kể lại vào sáng hôm sau. Má giấu tiền dưới những tấm lót trong ngăn kéo bàn giấy của ba. Nhưng sau khi lên giường, má lại trở dậy lấy tiền cất dưới gối của má. Má không nghĩ là má ngủ được ngay, nhưng hẳn là má đã ngủ vì trong đêm đã có một điều gì đó đánh thức má dậy. Má bước vội xuống giường, ba đang ngáy đều đều. Trăng rất sáng và má có thể nhìn rõ bụi tử đinh hương trong sân. Mọi thứ đều im lìm. Chuông đồng hồ gõ mười một tiếng, người má bỗng lạnh toát vì má nghe một tiếng gừ khẽ dữ dằn. Má rời khỏi giường, đến bên cửa sổ. Con chó lạ lùng đứng ngay dưới đó, xù lông, nhe răng. Nó làm như đang có một ai đó sau đống gỗ. Má đứng nghe và quan sát. Bóng tối đen đặc dưới những cội cây nên má không thể nhìn thấy gì. Nhưng con chó gầm gừ một cách dữ dằn trong bóng tối. Má đứng nhìn. Má nghe thấy tiếng đồng hồ điểm nửa đêm và một hồi lâu sau điểm một giờ. Con chó đi tới đi lui bên cọc rào vẫn gầm gừ. Cuối cùng, nó nằm xuống, nhưng hếch mõm lên và vểnh tai nghe ngóng. Má khẽ bước lại giường. Sáng sớm con chó đã đi mất. Cả nhà ra kiếm nhưng không thấy nó ở đâu/ nhưng trong sân còn dấu vết của nó và phía bên kia hàng rào, chỗ đống gỗ, ba tìm thấy dấu của hai người mang ủng. Ba đóng xe tức khắc trước khi ăn điểm tâm, cột hai con ngựa con vào sau xe, đi ra thị trấn liền. Ba gửi 200 đô la vào ngân hàng. Rồi ba đi giao ngựa cho người lái ngựa, lấy nốt 200 đô la còn lại và cũng gửi vào ngân hàng ngay. Khi trở về, ba nói với má: - Bà có lý. Tối qua mình suýt bị cướp. Một chủ trại gần Malone bán được một cặp ngựa vào tuần trước và giữ tiền ở nhà. Đêm đó, lũ cướp cạy cửa vào phòng khi ông đang ngủ. Chúng trói vợ con ông lại và tra khảo ông gần chết để buộc ông nói rõ số tiền giấu ở đâu. Lấy tiền xong, chúng mới bỏ đi. Cảnh sát hiện đang lùng kiếm. Ba nói: - Tôi không ngạc nhiên nếu thấy tay lái ngựa có nhúng vào chuyện này. Liệu còn ai khác biết mình có tiền ở nhà? Nhưng không thể tìm chứng cớ được. Tôi đã hỏi kĩ và biết ông ta ở nguyện tại khách sạn ở Malone tối qua. Má nói má luôn tin rằng Chúa đã gởi con chó kì lạ đến ngăn cản chúng. Almanzo thì nghĩ có thể con chó nằm lại vì nó được Alice cho ăn. Má nói: - Đúng là Chúa đã gửi nó tới giúp chúng ta. Đúng là Chúa đã thương chúng ta vì chúng ta luôn biết ơn Chúa. Họ không khi nào thấy lại con chó đó một lần nữa. Có thể nó là một con chó bị lạc tội nghiệp và số đồ ăn mà Alice cho nó đã giúp nó có đủ sức để tìm thấy đường trở về nhà. Chương 14: Xén Lông Cừu Cỏ mọc dày như nhung trên đồng và các bãi chăn cừu, trong lúc thời tiết ấm áp hơn. Thời điểm xén lông cừu đã tới. Vào một buổi sáng nắng chói, Pierre và Louis cùng với Almanzo ra bãi chăn, lùa cừu xuống bến tắm. Bến chạy dài từ bãi chăn đầy cỏ tới tận dòng sông Trout sâu và trong suốt. Bến có hai cổng mở vào bãi chăn và giữa hai cổng này là một hàng rào ngăn chạy tới mé nước. Pierre và Louis giữ cho bầy cừu không chạy tản ra xa trong khi Almanzo túm lấy một con cừu đầy lông đẩy qua một khuôn cổng. Trong bến, ba và Lazy John bắt con cừu, rồi Almanzo đẩy tiếp một con khác cho Royal và French Joe bắt giữ lại. Con cừu kia nhìn chòng chọc, be be kêu lên và hai con cừu vùng vẫy đạp đá, la rống. Nhưng mấy người chà đầy lên lông chúng một lớp xà phòng mềm màu nâu và lôi chúng xuống vùng nước sâu. Tại đó, cừu bắt buộc phải bơi. Mấy người đứng giữa dòng nước chảy xiết ngập tới ngang thắt lưng níu lấy con cừu kì cọ thật kỹ. Tất cả bụi dơ tróc khỏi lông cừu và trôi theo dòng nước cùng với nước xà phòng. Khi lũ cừu thấy cảnh này, con nào cũng kêu lên: - Be-ee, be-ee, be-ee! Và tất cả chúng đều cố chạy tản xa. Nhưng Almanzo, Pierre và Louis vừa chạy vừa la hét quanh bầy cừu và túm lấy một con lôi vào cổng. Chỉ một thoáng con cừu đã được chà sạch và mấy người buộc nó bơi vòng cuối hàng rào chắn và đưa nó lên bờ theo phía ngoài bến tắm. Con cừu tội nghiệp kêu be be và ướt sũng, nhưng không bao lâu, nắng đã chiếu khô bộ lông quằn quện và trắng tinh của nó. Liền ngay khi mấy người lùa con cừu lên, Almanzo đã đẩy một con khác vào bến tắm và mấy người lại chụp lấy nó, chà xà phòng và dìm nó xuống sông. Tắm cừu là việc làm thích thú với tất cả mọi người trừ lũ cừu. Mọi người té nước, la hét, cười giỡn và mấy cậu bé chạy quanh bãi reo hò. Nắng sưởi ấm lưng các cậu còn cỏ êm mát dưới những bàn chân trần và những tiếng cười như nhỏ đi trong cái tĩnh lặng mênh mông thoải mái của đồng cỏ xanh. Một con cừu húc đầu vào John khiến ông ta ngã ngồi xuống. Joe la lớn: - John, nếu bạn đã được chà xà phòng lên thì hãy sẵn sàng để cạo. Buổi tối, hết thảy bầy cừu đều được tắm xong với những cụm lông trắng quằn quện và sạch bóng, chúng đứng rải rác trên triền dốc gặm cỏ và bãi chăn giống như một bụi tuyết cầu đang nở hoa. Sáng hôm sau, John đến trước khi ăn sáng xong và ba nói Almanzo rời bàn ăn ngay. Cậu bẻ một đầu bánh táo lớn, đi ra bãi chăn vừa hít mùi thơm của cỏ ba lá vừa nhai ngồm ngoàm lớp vỏ bánh giòn rụm và những miếng táo đậm đà gia vị. Cậu liếm mấy ngón tay rồi gom lũ cừu lại, lùa qua bãi cỏ còn ướt sương vào bãi nhốt cừu trong Kho Năm. Ba đã dọn sạch bãi và đóng bục kín hết một đầu. Ba và Lazy John mỗi người bắt một con cừu đưa lên bục, bắt đầu xén lông chúng với những cây kéo dài. Thảm lông trắng dầy tróc ra gọm trọn trong một mảng để lộ ra lớp da cừu trơ trụi màu hồng. Sau nhát kéo cuối cùng, toàn bộ lông cừu rớt xuống bục và con cừu không còn lông, nhảy dựng lên, kêu lớn: - Be-ee-ee! Tất cả những con cừu khác đồng loạt kêu hùa theo, nhưng ba và John đã đang xén lông thêm hai con. Royal cuốn chặt lông cừu lại, buộc bằng dây và Almanzo vác leo lên cầu thang xép trên gác xép. Cậu chạy lên chạy xuống hết sức nhanh nhưng luôn có một bộ lông cừu chờ sẵn. Ba và Lazy John là những thợ xén lông cừu lành nghề. Những cây kéo dài cắt qua bộ lông dày nhanh như chớp và cắt thật sát nhưng không bao giờ phạm lớp da cừu đỏ hỏn. Đây là công việc rất khó khăn vì cừu của ba thuộc giống cừu quí đặc biệt Merinos. Giống cừu Merios cho loại lông tuyệt nhất nhưng da của chúng có những nếp nhăn sâu nên thật khó xén hết lông mà không cắt phạm vào da chúng. Almanzo ôm những bộ lông cừu chạy hết sức nhanh lên cầu thang. Lông cừu nặng đến mức cậu chỉ ôm nổi một bộ mỗi lần. Cậu không muốn làm biếng nhưng khi cậu thấy con mèo khoang ở nhà kho tha một con chuột chạy qua, cậu biết ngay là nó đang tha mồi về cho lũ con mới sinh. Thế là cậu chạy theo nó và xa mãi cuối hàng hiên Kho Lớn, cậu thấy một ổ cỏ khô nhỏ trong đó có bốn con mèo con. Con mèo khoang đảo quanh lũ mèo con gừ gừ lớn tiếng và những cặp mí đen nhướng lên. Những chiếc miệng màu hồng phát ra những tiếng kêu meo meo yếu ớt. Những bàn chân của chúng cũng bé xiu chưa có lông chỉ có những vuốt màu trắng li ti và mắt chúng nhắm nghiền. Khi Almanzo trở lại bãi nhốt cừu, sáu bộ lông đang chờ cậu và ba nói với cậu bằng một giọng nói nghiêm nghị: - Con trai, coi sao cho bắt kịp bọn ta sau chỗ đó. Almanzo vội vã trả lời: - Dạ được, ba. Nhưng cậu bé nghe Lazy John nói: - Cậu bé không làm nổi đâu. Mình sẽ xong trước cậu ấy. Lúc đó ba cười và bảo: - Đúng vậy, John. Nó không bắt kịp nổi mình đâu. Almanzo nảy ra ý nghĩ chứng tỏ cho mọi người thấy. Nếu cậu chạy đủ nhanh, cậu sẽ bắt kịp. Trước buổi trưa, cậu theo kịp Royal và phải chờ một bộ lông khác. Thế là cậu lên tiếng: - Ba thấy con có thể bắt kịp mọi người mà. John nói: - Ồ không đâu, cậu không bắt kịp nổi đâu! Tụi tôi sẽ đánh bại cậu. Tụi tôi sẽ làm xong trước cậu. Cứ chờ rồi coi. Rồi mọi người đều cười Almanzo. Họ còn đang cười thì đã nghe tiếng tù và báo hiệu giờ ăn trưa. Ba và Lazy John xén dứt những bộ lông đang xén dở dang và đi lên nhà. Royal buộc bộ lông cừu cuối cùng, bỏ lại đó và Almanzo còn phải mang lên cầu thang. Bây giờ cậu hiểu điều mà mọi người nói. Nhưng cậu nghĩ: - Mình sẽ không để mọi người đánh bại. Cậu kiếm một sợi dây ngắn, buộc quanh cổ một con cừu chưa xén lông. Cậu đặt nó lên cầu thang và từng bậc, từng bậc, cậu lôi nó lên. Nó kêu be be không ngừng nhưng nó cũng lên tới gác xép. Cậu buộc nó gần những bộ lông, cho nó ít cỏ khô để nó im lặng. Rồi cậu xuống ăn cơm. Suốt buổi chiều hôm đó, Lazy John và Royal luôn nhắc cậu phải ráng nhanh hơn để khỏi bị đánh bại. Almanzo trả lời: - Không, mọi người không thắng nổi tôi đâu. Tôi sẽ bắt kịp mà. Mọi người lại cười giễu cậu. Cậu chụp từng bộ lông ngay khi Royal buộc xong, hối hả đem lên cầu thanh rồi lại chạy ào xuống. Mọi người cười lớn nhìn cậu tất tả và nói: - Không đâu, cậu không thể thắng được. Bọn này sẽ xong trước. Đúng trước khi bắt đầu giờ lo việc trong nhà, ba và John xén nhanh hai con cừu cuối cùng. Ba xong trước. Almanzo chạy đi với bộ lông và trở lại vừa kịp bộ lông cuối vừa được xén xong. Royal buộc lại và nói: - mọi người đã xong hết rồi! Almanzo, mọi người đã thắng. Mọi người đã thắng! Royal và John cười như sấm vang và ngay cả ba cũng cười. Lúc đó Almanzo lên tiếng: - Không, mọi người đâu thắng nổi tôi. Tôi còn đưa lên gác một bộ lông cừu mà mọit người chưa xén. Mọi người ngưng cười ngạc nhiên. Ngay lúc đó, con cừu trên gác xép nghe thấy những con cừu khác được thả ra bãi chăn liền kêu lên: - Be-ee-ee! Almanzo kêu lên: - Đó là một bộ lông! Tôi đã đưa nó lên cầu thang và mọi người chưa xén nó! Tôi đã thắng! Tôi đã thắng. John và Royal nhìn sững kỳ quái đến nỗi cậu không thể nín cười nổi. Ba la lớn: - cười đã nhất là người cười sau cùng. Chương 15: Chống Lạnh Mùa xuân đó tới muộn và lạnh. Sáng sớm giá buốt và buổi trưa nắng nhạt. Lá cây từ từ cuốn lại. Các thứ đậu, cà-rốt, bắp như dừng lại chờ hơi ấm và không lớn nổi. Khi dòng lũ công việc mùa xuân đã qua, Almanzo phải trở lại trường học. Chỉ đám trẻ nhỏ tới trường trong học kỳ mùa xuân và cậu mong đủ lớn để được ở nhà. Cậu không thích ngồi đọc một cuốn sách trong lúc có bao nhiêu điều thích thú để làm. Ba đã chuyển hết số lông cừu tới nhà máy chải len ở Malone và mang về nhà những cuộn len dài mềm mại đã được chải thẳng và mượt láng. Má không còn tự chải len từ khi có một nhà máy nhận chải ăn chia. Nhưng má nhuộm len. Alice và Eliza Jane vào rừng gom rễ và vỏ cây, còn Royal đặt một lò lửa trong sân. Rễ cây và vỏ cây được nấu sôi trong những vạc nấu lớn rồi những cuộn len dài đã được má cuốn lại được nhúng vào và nhắc ra hong khô trên những cây gậy với đủ thứ màu nâu, đỏ, xanh. Lúc Almanzo từ trường trở về thì các dây phơi lủng lẳng những cuộn len đã nhuộm màu. Má cũng đang làm thứ xà phòng mềm. Tất cả tro xám trong mùa đông được cất lại trong thùng, lúc này, được xối nước lên để làm thành một dung dịch kềm thoát ra từ một lỗ nhỏ dưới đáy thùng. Má lường dung dịch này vào một vạc nấu, cho thêm vào đó những miếng da đùi heo ướp muối, những miếng mỡ heo, mỡ bò vụn mà má gom lại trong suốt mùa đông. Vạc được đem nấu sôi và dung dịch kềm hoà tan với mỡ làm thành xà phòng. Almanzo có thể giúp cho lửa cháy đều, có thể phụ múc những váng xà phòng lầy nhầy màu nâu khỏi vạc và đổ đầy các chiếc thau. Nhưng cậu phải tới trường. Cậu ngắm trăng một cách lo ngại vì lúc không có trăng vào tháng Năm cậu có thể nghỉ học và trồng bí. Rồi một sáng sớm giá buốt, cậu buộc quanh thắt lưng một túi đầy hạt bí và đi ra đồng bắp. Lúc này, khắp cánh đồng mờ tối, một mảng cỏ dại xanh ngắt phủ kín. Những chồi bắp không lớn nổi vì quá lạnh. Tại mỗi khoảng trống trên luống bắp và mỗi rãnh luống, Almanzo quì xuống, cầm một hạt bí giống mỏng, bẹt giữa ngón tay cái và ngón trỏ. Cậu cắm đầu nhọn của hạt bí xuống dưới đất. Công việc bắt đầu trong giá buốt nhưng không bao lâu sau mặt trời lên cao hơn. Không khí và mùi đất thật trong lành và cậu thích thú cắm ngón tay trỏ cùng ngón tay cái vào mặt đất mềm mại để ghim hạt giống xuống đó. Ngày nối ngày, cậu làm liên tục cho tới khi bí được trồng xong. Rồi cậu xin cho đi vun và tra cà-rốt. Cậu cuốc hết cỏ dại dọc những luống dài và vun kéo những ngọn cà-rốt mỏng mảnh cho tới khi chúng đứng thẳng cách đều nhau hai inch. Cậu hoàn toàn không vội vã. Không ai chăm nom những cây cà-rốt cần cù như cậu vì cậu không muốn trở lại trường học. Cậu kéo dài công việc cho tới khi chỉ còn đúng ba ngày học, sau đó học kỳ mùa xuân chấm dứt và cậu có thể làm việc suốt mùa hè. Trước hết, cậy phụ cuốc cỏ đồng bắp. Ba cày xới giữ các luống còn Royal với những cây cuốc rẫy hết mọi cọng cỏ dại còn sót lại và vun quanh từng gốc bắp. Những cây cuốc xoạt xoạt suốt ngày, xới tơi đất quanh những chồi bắp non và những cặp lá bí đầu tiên. Almanzo cuốc xong hai mẫu bắp rồi cuốc hai mẫu khoai. Việc cuốc xới chấm dứt trong một thời gian và đây là lúc dành cho những trái dâu tây. Năm đó dâu tây dại có trễ và rất ít, vì đợt hoa đầu tiên bị sương giá làm hư. Almanzo phải đi thật sâu vào trong rừng mới kiếm được đầy xô dâu thơm ngọt nhưng nhỏ. Khi cậu thấy những chùm túm tụm dưới đám lá xanh, cậu khó có thể không ăn một ít. Cậu cắt rời những chồi lá dâu mùa đông xanh non và cũng ăn chúng. Và cậu nhấm những cọng chua ngọt cho tới sát những chồi nụ mỏng manh thoang thoảng thơm. Cậu dừng lại liệng đá vào lũ sóc đang nô giỡn và đặt chiếc xô bên các bờ suối, lội xuống nước săn đuổi những con cá trắng nhỏ. Nhưng cậu không bao giờ chịu trở về khi chiếc xô chưa đầy. Thế là có món dâu tây và kem cho bữa ăn tối và ngày hôm sau má sẽ làm mứt dâu. Ba tỏ ý lo ngại: - Tôi chưa từng thấy bắp chậm lớn như vậy. Ba tiếp tục cày đất lại và Almanzo lại phụ Royal đi vun bắp. Nhưng những chồi bắp nhỏ yếu vẫn nguyên vị. Vào ngày đầu tháng bảy, bắp chỉ cao khoảng bốn inch. Dường như chúng cảm thấy một mối nguy hiểm đang đe doạ và sợ không dám lớn. Chỉ còn ba ngày nữa là tới ngày quốc khánh, ngày Bốn tháng Bảy. Rồi còn hai ngày. Rồi còn một ngày và đêm đó phải tắm rửa dù đêm đó không phải đêm thứ Bảy. Sáng hôm sau, mọi người sẽ đi Malone dự lễ. Almanzo chờ đến sáng một cách nôn nóng. Sẽ có một đám đông, những bài nói chuyện và khẩu súng thần công bằng đồng sẽ nổ. Đêm đó, không khí yên tĩnh và lạnh với những vì sao giống như nhạt hẳn. Sau bữa ăn tối, ba lại xuống khu nhà kho. Ba đóng hết cửa ra vào cùng những ô cửa nhỏ bằng gỗ trong các ngăn chuồng ngựa và đưa hết cừu cái, cừu con vào bãi nhốt. Khi ba quay vào, má hỏi liệu có ấm hơn không. Ba lắc đầu: - Tôi tin là sắp lạnh cóng. Má cãi lại: - Xì! Không chắc đâu! Nhưng má có vẻ lo. Trong đêm, có lúc Almanzo cảm thấy lạnh, nhưng cậu ngủ quá say nên không làm điều gì cả. Rồi cậu nghe thấy tiếng má kêu: - Royal! Almanzo! Cậu buồn ngủ tới mức không mở mắt nổi. Má kêu lớn: - Dậy ngay, các con! Mau lên! Bắp chết cóng rồi! Cậu nhào khỏi giường, mặc quần dài. Cậu chưa thể mở mắt, hai bàn tay quờ quạng và ngáp lớn liên hồi làm như quai hàm trật khớp. Cậu lảo đảo xuống cầu thang theo sau Royal. Má cùng Eliza Jane và Alice đã đội nón, trùm khăn. Nhà bếp lạnh ngắt không có ánh lửa. Phía ngoài mọi thứ đều có vẻ khác thường. Cỏ ngập trắng sương giá và một vệt màu xanh lục nhạt lớn trên nền trời phía đông nhưng trời còn tối mịt. Ba buộc Bess và Beauty vào thùng xe. Royal bơm nước đầy máng. Almanzo giúp má và các chị gái khuân thùng, xô và ba chất đầy những khạp lớn lên thùng xe. Tất cả thùng, khạp đều được đổ đầy nước rồi cả nhà theo sau xe ra đồng bắp. Tất cả bắp đều đông cứng. Những chiếc lá non nhỏ xíu cứng ngắt và vỡ ngay nếu đụng tay vào. Chỉ có nước lạnh mới cứu nổi những cây bắp. Mỗi gốc bắp đều phải tưới nước trước khi ánh nắng rọi xuống, nếu không những cây bắp nhỏ nhoi này sẽ chết. Như thế thì năm tới sẽ không có bắp. Cỗ xe dừng ở mé đồng. Ba, má, Royal, Eliza, Alice với các thùng, xô nước đầy, đi làm nhanh hết sức. Almanzo cố bước gấp, nhưng xô nước nặng và chân cậu ngắn. Những ngón tay ướt đẫm của cậu lạnh ngắt, nước tràn văng lên ống chân cậu trong lúc cậu vẫn buồn ngủ khủng khiếp. Cậu đi lướt dọc các luống và tại mỗi gốc cậu tưới một ít nước trên những chiếc lá đông cứng. Cánh đồng giống như lớn mênh mông. Có hàng ngàn gốc bắp. Nhưng cậu không dám đứng lại than phiền, cậu phải gấp rút, gấp rút, gấp rút cứu đám bắp. Các dải xanh biếc ở phía đông đã đổi sang hồng. Trời rạng sáng dần. Trước tiên, màn tối như một lớp sương mù phủ kín cành đồng vô tận, rồi Almanzo bắt đầu nhìn thấy cuối những luống bắp dài. Cậu cố làm việc nhanh hơn nữa. Almanzo chạy đi lấy nước đầy xô rồi chạy trở lại. Cậu chạy theo các luống, tưới nước lên các gốc bắp. Vai cậu đau nhức, tai cậu đau nhức và hai bên sườn đau nhức. Mặt đất đung đưa dưới bàn chân cậu. Cậu đói khủng khiếp nhưng vẫn tạt nước tưới một gốc bắp. Lúc này, dưới làn sáng nhạt, những cây bắp đã có những cái bóng mờ. Liền ngay đó, ánh nắng toả rộng trên khắp cánh đồng. Ba hô lớn: - Ráng lên! Thế là tất cả tiếp tục tưới nước. Họ không ngừng lại. Nhưng chỉ một thoáng sau, ba bỏ ý định. Ba nói: - Vô ích rồi! Không cách nào cứu nổi đám bắp sau khi nắng rọi vào chúng. Almanzo đặt chiếc xô xuống đứng thẳng người để chống chọi cảm giác sống lưng đau nhức. Cậu đứng và ngắm đồng bắp. Tất cả mọi người cũng đứng và nhìn, không nói một lời. Họ đã tưới nước cho gần trọn ba mẫu. Chưa kịp tưới chỉ có khoảng một phần tư mẫu và đây là phần sẽ bị hư. Almanzo quay về chỗ cỗ xe, leo lên. Ba nói: - Hãy cảm ơn Chúa vì chúng ta đã kịp cứu gần hết số bắp. Mọi người ngật ngưỡng leo lên xe trở về khu nhà kho. Almanzo dật dờ nửa mê nửa tỉnh và chỉ cảm thấy mệt, lạnh, đói. Hai bàn tay cậu thành vụng về khi làm các việc nhà. Nhưng hầu hết số bắp đã được tưới. Chương 16: Ngày Quốc Khánh Almanzo ngồi vào bàn ăn bữa sáng trước khi kịp nhớ ra hôm ấy là ngày mồng Bốn tháng Bảy. Cậu cảm thấy vui hơn. Hôm ấy giống như một buổi sáng chủ nhật. Sau khi ăn sáng, cậu rửa mặt bằng xà phòng cho thật sạch, rẽ mái tóc ướt và chải cho thật láng mượt. Cậu mặc chiếc quần trắng xám màu lông cừu, chiếc áo sơ-mi bằng vải chúc bâu Pháp, choàng thêm áo ngoài và chiếc áo khoác ngắn. Má đã cắt cho cậu chiếc áo theo mốt mới. Chiếc áo khoác có những dải vải nhỏ buộc quanh cổ, hai bên sườn được cắt xéo về phía sau để hở một phần áo ngoài rôi buông rủ xuống phủ kín tới túi quần. Cậu đội thêm chiếc mũ rơm do má bện bằng những cọng rơm lúa mạch và đó là trang phục của cậu trong ngày Quốc Khánh. Cậu thấy đẹp tuyệt. Những con ngựa bóng mượt của ba đã được buộc vào cỗ xe bánh sơn đỏ sáng bóng và cả nhà sẽ ra đi trong nắng nhạt. Khắp vùng quê đều có không khí hội hè. Không một ai làm việc trên đồng và suốt dọc đường là những đoàn người với trang phục dành cho ngày chủ nhật đang lái xe lên thị trấn. Mấy con ngựa nhanh nhẹn của ba vượt qua hết thảy. Chúng vượt qua tất cả xe thùng, xe thồ, xe độc mã. Chúng vượt qua những con ngựa xám, những ngựa đen và những con ngựa đốm. Almanzo vẫy nón mỗi khi lướt qua một người quen và cậu hoàn toàn hạnh phúc nếu được tự tay điều khiển cặp ngựa đẹp và lanh lẹ kia. Tại nhà lán nhà thờ ở Malone, cậu phụ ba tháo ngựa. Má cùng các chị gái và Royal hối hả bước đi. Những Almanzo thấy phụ lo mấy con ngựa còn thích thú hơn bất kỳ việc gì khác. Cậu không được điều khiển chúng nhưng cậu có thể buộc những sợi lòng thòng và những mắt khoá trên các tấm chăn phủ cho chúng. Vuốt ve những chiếc mũi mềm mại của chúng và đem cỏ khô tới cho chúng. Rồi cậu cùng ba bước ra, đi trên những lối đi đầy người. Tất cả các cửa hàng đều đóng cửa, nhưng các bà các ông sang trọng vẫn dạo bước qua lại, trò chuyện. Các cô gái nhỏ tóc rợn sóng đều mang theo dù, còn các cậu bé đều ăn mặc bảnh bao hệt Almanzo. Cờ bay khắp nơi và dàn nhạc trong công viên đang chơi bản Chú Mèo Doole. Tiếng tù và bốc lên trong tiếng sáo lảnh lót va tiếng trống khua lạc nhịp rầm rập. Chàng Mèo khờ lên thăm thành phố Cưỡi trên lưng một chú ngựa con Chiếc mũ rơm cắm cọng lông chim Được chú gọi là dây mì ống Mọi người lớn đều vỗ nhịp theo bài hát. Và tại đó, ngay góc công viên là hai khẩu đại bác bằng đồng. Công viên không hoàn toàn vuông vức vì đường sắt xén nó thành ba góc. Nhưng mọi người bất chấp điều đó. Công viên đầy cỏ và có rào chắn. Những ghế dài được đặt thành hàng trên cỏ với những dòng người qua lại ở giữa hoặc ngồi trên ghế như khi họ ở trong nhà thờ. Almanzo kéo ba tới một trong những ghế ngồi ở trước hết. Tất cả những người có vai về đều ghé lại bắt tay ba. Đám đông tiếp tục kéo tới cho tới khi các chỗ ngồi chật hết và còn đầy người ở phía ngoài hàng rào chắn. Ban nhạc ngừng chơi và mục sư đọc lời cầu nguyện. Rồi dàn nhạc lại bắt đầu và mọi người đứng lên. Đàn ông và các cậu bé bỏ hết mũ xuống. Nhạc nổi lên và mọi người đều hát: Cất cao tiếng ca trong bình minh nắng mới Từ chiều tàn ta hãnh diện đứng lên Chào ngọn cờ sọc sao phá vỡ đêm đen Đạp luỹ san thành, ta hào hùng thác lũ Trên đỉnh cột cờ, cao vút giữa trời xanh, ngọn cờ sao sọc vùng vẫy tung bay. Mọi người đều nhìn lá quốc kì và Almanzo hát như tận lực gào lên. Rồi mọi người ngồi xuống và một đại biểu Quốc hội bước lên trên bục. Chậm rãi và trang nghiêm, ông đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập. - Trong tiến trình cuộc sống nhân loại, điều trở nên khẩn thiết cho một dân tộc… là nhìn nhận giữa những quyền lực trên trái đất, quyền được độc lập và bình đẳng… Đây là những sự thực hiển nhiên vì mọi người được tạo ra bình đẳng… Almanzo cảm thấy nghiêm trọng và vô cùng tự hào. Rồi hai người đàn ông lên bục đọc những bài diễn thuyết dài về chính trị. Một người tin tưởng ở giá biểu thuế quan cao và người kia tin tưởng ở thương mại canh trạnh. Tất cả người lớn đều cố lắng nghe, nhưng Almanzo không hiểu rõ các bài diễn thuyết và cậu bắt đầu thấy đói. Cậu mừng khi dàn nhạc lại trỗi lên. Tiếng nhạc tưng bừng, nhạc công mặc đồng phục hai màu xanh đỏ với những chiếc nút đồng khua rộn rã và tay trống mập mạp gõ thình thình đều đặn lên mặt trống. Mọi lá cờ đều tung bay và mọi người đều sung sướng vì tất cả đều tự do, độc lập và đây là ngày kỉ niệm Độc Lập. Rồi tới lúc ăn bữa trưa. Almanzo phụ ba cho ngựa ăn trong lúc má và hai chị gái bày bữa ăn trưa dã ngoại trên bãi cỏ nhà thờ. Nhiều người khác cũng cắm trại tại đó và sau bữa ăn trưa thả dàn, Almanzo quay trở lại công viên. Có một quầy bán nước chanh cạnh các trụ cột ngựa. Một người đàn ông đứng bán thứ nước chanh màu hồng, một ly giá năm xu và một đám đông các cậu bé đứng bao quanh ông. Cậu bé anh em họ Frank cũng ở đó. Almanzo đã uống nước ở máy bơm thành phố những Frank nói sẽ mua một ly nước chanh. Cậu ta có một đồng năm xu. Cậu ta tới đứng mua một ly nước chanh màu hồng và uống từ từ. Cậu nhấm vị ngọt trên môi rồi nuốt xuống và lên tiếng: - Hà! Sao cậu không mua một ly? Almanzo hỏi lại: - Cậu lấy đâu ra đồng năm xu vậy? Cậu chưa bao giờ có một đồng năm xu. Mỗi chủ nhật ba chỉ cho cậu một xu để bỏ vào thùng công đức ở nhà thờ và cậu không có một món tiền nào khác. Frank khoe: - Ba tớ cho tớ. Mỗi khi tớ hỏi xin, ba tớ đều cho một đồng năm xu. Almanzo nói: - Ba tớ cũng làm vậy nếu tớ xin. Frank tỏ ra không tin việc ba sẽ cho Almanzo một đồng năm xu. Phần Almanzo cũng không biết rõ liệu ba có cho hay không. Cậu nói: - Vì tớ không thích. Frank nói: - Ông ấy không cho cậu một đồng năm xu đâu. - Ba cho chứ. Frank nói: - Tớ thách cậu đi hỏi xin đó. Những đứa trẻ khác đều chú ý theo dõi. Almanzo thọc tay vào túi, lên tiếng: - Tớ chỉ xin khi nào tớ thích thôi. Frank cười chế nhạo: - A, cậu sợ rồi. Cá hai ăn một đó! Cá hai ăn một đó! Ba đứng cách một khoảng cuối phố, đang nói chuyện với ông Paddock, thợ đóng thùng xe. Almanzo đi từ từ về phía đó. Cậu rất ngán, nhưng cậu phải đi tới. Càng tới gần ba, cậu càng kinh hãi về việc phải lên tiếng xin một đồng năm xu. Từ trước, cậu chưa khi nào nghĩ tới sẽ làm một việc như vậy. Cậu tin chắc ba sẽ không cho cậu. Cậu chờ cho tới khi ba ngưng nói chuyện và quay nhìn cậu. Ba hỏi: - Có chuyện gì, con trai? Almanzo khiếp hãi, cậu cố nói: - Ba! - Sao, con trai? Almanzo ráng lên tiếng: - Ba! Ba có chịu… ba có chịu cho con… một đồng năm xu không? Cậu đứng im trong lúc ba và ông Paddock nhìn cậu rồi cậu mong mình có thể biến mất. Cuối cùng, ba hỏi: - Để làm gì? Almanzo cúi nhìn xuống đôi giày và nói khẽ: - Frank có một đồng năm xu. Nó đã mua một ly nước chanh màu hồng. Ba nói chậm rãi: - Được, nếu Frank đãi con thì con đãi lại nó là điều hớp lý. Ba thọc tay vào túi. Rồi ba ngưng lại, hỏi: - Frank đã đãi con uống nước chanh hả? Almanzo muốn có ngay đồng năm xu đến nỗi cậu gật đầu đại. Rồi cậu lại lúng túng nói: - Không, ba. Ba nhìn cậu một hồi lâu. Rồi ba rút ví, mở ra và từ từ lấy ra một đồng nửa đô la bằng bạc hình tròn, lớn. Ba bảo: - Almanzo, con có biết đồng tiền này là gì không? Almanzo đáp: - Đồng nửa đô la. - Đúng. Nhưng con có biết nửa đô la là gì không? Almanzo không biết nó là gì ngoại trừ là nửa đô la. Ba nói: - Nó là công việc, con trai. Để có món tiền này thì phải làm việc rất cực nhọc. Ông Paddock bật cười. Ông nói: - Cậu bé còn bé quá mà, Wilder. Đừng cố làm cho một cậu bé hiểu điều đó. Ba nói: - Almanzo biết nhiều hơn ông tưởng. Almanzo không hiểu ngay những điều đó. Cậu chỉ muốn biến mất. Nhưng ông Paddock đang nhìn ba giống như Frank đã nhìn Almanzo khi cậu ta cá hai ăn một với cậu, và ba đã nói Almanzo hiểu biết nên Almanzo phải cố tỏ ra là một đứa trẻ hiểu biết. Ba hỏi: - Almanzo, con có biết khoai tây lớn lên ra sao không? Almanzo dạ. - Hãy nói coi khi có một củ khoai giống vào mùa xuân thì làm gì với nó? - phải cắt thành mẩu. - Nói tiếp đi, con trai. - rồi phải bừa đất, nhưng trước hết đất phải được rải phân và cày lên đã. Sau đó sẽ bừa và đánh luống. Rồi trồng khoai giống, cày lấp và cuốc vun. Cày và cuốc vun hai lần. - Đúng rồi, con trai. Rồi sau đó? - Sau đó thì chờ đào lên và đem về hầm chứa. - Đúng. Sau đó là chọn lựa suốt mùa đông, lọc ra những củ nhỏ và hư thối. Khi mùa xuân tới, sẽ chất lên xe, kéo tới đây, tới Malone này, để bán. Và nếu bán được giá hời thì sẽ thu được bao nhiều cho tất cả công việc đó, con trai? Con sẽ thu được bao nhiêu với nửa giạ ( Giạ: Bushel, đơn vị đo lường bằng 36 lít ) khoai tây? Almanzo đáp: - Nửa đô la. Ba nói: - Đúng. Đó là tất cả những gì có trong đồng nửa đô là này, Almanzo. Tất cả những công việc phải làm để có nửa giạ khoai tây nằm trong đó. Almanzo ngắm đồng tiền tròn ba đang cầm. Nó quá nhỏ so với tất cả các công việc đã làm. Ba nói: - Con sẽ có nó, Almanzo. Almanzo không tin nổi tai của mình. Ba đưa cho cậu đồng tiền nặng chịch. Ba nói: - Của con đó. Với số tiền này, con có thể mua một cặp heo đang bú, nếu con muốn. Con có thể nuôi cho chúng lớn và chúng sẽ thành một lứa heo đáng giá bốn hoặc năm đô la mỗi con. Hoặc con có thể mua nước chanh hết nửa đô la này và uống hết. Con muốn tiêu sao tuỳ ý vì nó là tiền của con. Almanzo quên cả nói lời cảm ơn. Cậu giữ đồng nửa đô la trong một phút rồi đặt cả hai bàn tay vào trong túi và chạy lại chỗ lũ trẻ bên xe nước chanh. Người bán đang rao lớn: - Đi lối này! Đi lối này! Nước chanh hồng, nước chanh ướp lạnh chỉ năm xu một ly. Chỉ có nửa dime một ly nước chanh màu hồng ướp lạnh. Một phần hai mươi của một đô la. Frank hỏi Almanzo: - Đồng năm xu đâu? Almanzo nói: - Ba không cho tớ đồng năm xu. Frank kêu lên: - A, a! Tớ đã nói là ông ấy không cho mà. Tớ đã nói với cậu trước như vậy. Almanzo nói: - Ba cho tớ nửa đô la. Lũ trẻ đều không tin cho tới khi cậu đưa đồng tiền ra cho thấy. Cả bọn xúm quanh chờ cậu tiêu tiền. Cậu chìa ra cho tất cả nhìn rõ rồi cất trong túi. Cậu nói: - Tớ sẽ đi loanh quanh và mua cho tớ một con heo con thuộc giống tốt. Dàn nhạc đang diễu hành trong phố và lũ trẻ chạy theo. Lá cờ lộng lẫy tung bay dẫn đầu rồi tới dàn kèn đồng vang dội, dàn ống sáo lảnh lót và tay trống vung tít chiếc dùi trên mặt trống. Dàn nhạc đi xuôi xuống rồi đi ngược lên theo đường phố với tất cả lũ trẻ chạy bám theo và cuối cùng đứng lại tại công viên cạnh mấy khẩu súng đồng. Hàng trăm người đã tập trung tại đó, chờ đợi. Những khẩu đại bác được đặt trụ trên bậc, những ống nòng dài hướng lên. Dàn nhạc tiếp tục trình diễn. Hai người đàn ông hô lớn: - Đứng lui lại! Đứng lui lại! Và, những người đàn ông khác đang đổ thuốc nổ màu đen vào miệng khẩu súng rồi tống sâu xuống với những nút đậy nòng súng bằng vải tròn trên những cây dài. Những cây dài bằng sắt có hai cán do hai người đàn ông cùng đẩy và kéo để dồn hết thuốc nổ vào nòng súng bằng đồng. Rồi tất cả các cậu bé chạy đi kéo cỏ dọc đuờng sắt. Các cậu ôm từng ôm tới chỗ đặt các khẩu súng và những người đàn ông chất cỏ vào nòng súng, dùng những cây sắt dài nhồi xuống. Một đống lửa đang được đốt bên đường sắt, một người đàn ông vốc thêm một nắm thuốc nổ cẩn thận trút đầy vào hai lỗ kích nổi nhỏ trong nòng súng. Lúc này mọi người đều hô: - Đứng lui lại! Đứng lui lại! Má nắm lấy cánh tay Almanzo kéo cậu ra xa cùng với bà. Cậu nói: - Chà, má, súng chỉ nhồi thuốc nổ với cỏ thôi mà. Con không sao đâu, má. Con sẽ cẩn thận coi chừng mà. Nhưng má vẫn kéo cậu đứng xa khỏi mấy khẩu súng. Hai người đàn ông lấy những que sắt dài ra khỏi đống lửa. Mọi người nín lặng, coi. Đứng cách khá xa phía sau mấy khẩu súng, hai người đàn ông chĩa những que sắt dài tới đặt đầu que sắt nung đỏ vào các lỗ kích nổ. Một ngọn lửa nhỏ giống như lửa nén vụt sáng trên thuốc nổ. Ngọn lửa nhỏ bùng cháy tại đó và mọi người nín thở. Rồi – BÙNG! Những khẩu súng giật lui và khắp vùng trời bay đầy cỏ. Almanzo cùng các cậu bé khác chạy ùa tới để kịp nhận hơi nóng toả ra từ các họng súng. Mọi người đang bàn tán xôn xao về tiếng nổ của mấy khẩu súng. Ông Paddock nói với ba: - Đó là tiếng nổ làm cho bọn áo đỏ ( Áo đỏ: Red-Coast, chỉ các binh sĩ Anh ) tháo chạy. Ba kéo mạnh những sợi râu, nói: - Có thể! Nhưng súng chỉ đem lại thành công cho cuộc cách mạng thôi. Đừng quên rằng chính những lưỡi rìu và những cây cày đã làm nên đất nước này. Ông Paddock nói: - Đành là thế, nhưng vẫn phải nhớ tới nó. Ngày Quốc Khánh đã qua. Những khẩu thần công đã nổ và không còn việc gì khác ngoài việc đóng ngựa vào xe, lái về nhà để làm công việc thường lệ. Đêm đó, khi đang mang sữa lên nhà, Almanzo hỏi ba: - Ba, rìu và cày đã làm nên đất nước này như thế nào? Có phải mình đã dùng những thứ đó để đánh bại người Anh không? Ba nói: - Chúng ta đã chiến đấu để giành độc lập, con trai à. Nhưng tất cả đất đai mà tổ tiên chúng ta có được chỉ là một dải nhỏ giữa núi đá và biển sâu. Toàn thể đất đai từ đây về miền tây là lãnh thổ của người da đỏ và thuộc về các nước Tây Ban Nha, Pháp, Anh. Chính các nông dân đã chiếm giữ tất cả phần đất này và làm thành nước Mỹ. Almanzo hỏi: - Bằng cách nào vậy? - Như thế này, con trai, những người Tây Ban Nha là các quân nhân và những nhà quí tộc quyền uy sang trọng chỉ thích vàng. Những người Pháp là những người lái buôn da muốn làm tiền thật nhanh. Còn những người Anh lại bận rộn với những cuộc chiến tranh. Chỉ có chúng ta là nông dân, con trai à, chúng ta thích có đất đai. Chính các nông dân đã vượt qua những dãy núi, khai phá đất đai, định cư tại đó, lo lắng trồng trọt và bắm chắc vào các trang trai của mình. Bây giờ xứ sở này kéo dài ba ngàn dặm về phía tây. Nó đã đưa đường ranh tới bên kia Kansas, bên kia vùng sa mạc Mỹ vĩ đại, vượt qua cả những dãy núi lớn hơn những dãy núi này, kéo mãi xuống tới bờ Thái Bình Dương. Nó đã là xứ sở lớn nhất trên thế giới và đó chính là cách mà những nông dân đã chiếm lấy tất cả đất đai để làm thành nước Mỹ, con trai. Đừng bao giờ con quên điều đó. Chương 17: Mùa Hè Lúc này nắng nóng hơn và mọi thứ màu xanh đều lớn mau. Bắp đang trổ những cọng lá dài luôn xào xạc và ba lại cày xới đất để Royal và Almanzo cuốc vun thêm. Rồi bắp hồi phục, giành lại ưu thế chống với cỏ hoang trên đồng không cần phải trợ giúp thêm. Những hàng khoai tây xanh tốt được chăm lo và những chùm hoa trắng của chúng giống như những miếng bọt biển nổi khắp đồng. Lúa mạch thành những gợn sóng xanh nhạt và những ngọn lúa mì mỏng manh lởm chởm những vỏ non bọc ngoài thành những hạt lúa đang lớn. Đồng cỏ ngợp màu hồng tím của những bông hoa mà loài ong ham thích. Bây giờ công việc không còn căng thẳng nữa. Almanzo đã có thời giờ giãy cỏ vườn và vun luống khoai tây do cậu trồng từ hạt giống. Cậu đã trồng thử vài hạt giống khoai để chỉ coi chúng sẽ thành thứ gì. Và mỗi buổi sáng cậu lo tưới bón cho cây bí mà cậu trồng để tham gia hội chợ địa phương. Ba đã chỉ cho cậu cách bón nuôi bí bằng chất sữa. Cậu lựa một dây bí tốt nhất cánh đồng, cắt bỏ hết các nhánh để chỉ còn một ngọn và cắt bỏ hết những bông hoa vàng chỉ chừa lại một bông. Rồi ở giữa phần rễ và trái bí xanh tí xíu, cậu thận trọng khứa một khứa nhỏ phía bên kia dây bí. Almanzo bới một hõm đất ngay dưới vết khứa này đặt một chén sữa vào đó. Cậu đặt một tim nến vào trong chén sữa và đính một đầu sợi tim nến này thật cẩn thận vào vết khứa. Hàng ngày, qua sợi tim nến, dây bí hút chén sữa đầy và trái bí lớn lên thật dị thường. Nó lớn gần gấp ba những trái bí trong đồng. Almanzo cũng có cả một con heo con. Cậu mua nó bằng số tiền nửa đô la của cậu và nó nhỏ đến nỗi lúc đầu khi cho nó ăn cậu phải lấy một miếng vải nhúng vào sữa. Nhưng không bao lâu sau nó tự biết uống. Cậu giữ nó trong một ngăn chuồng dưới bóng mát vì heo con rất mau lớn trong bóng mát và cậu cho nó ăn thả dàn. Vì vậy nó lớn rất mau. Almanzo cũng ăn thả dàn như thế, nhưng cậu không lớn mau nổi. Cậu uống mọi thứ sữa mà cậu cầm được và trong những bữa ăn, cậu luôn chất đầy đĩa đến mức không thể nào ăn hết. Ba nghiêm nghị nhìn cậu vì thấy cậu bỏ lại thức ăn trên đĩa và hỏi: - Gì vậy, con trai? No bụng đói con mắt hả? Thế là Almanzo cố nuốt thêm một ít nữa. Cậu không nói với ai về việc cậu đang cố tìm cách lớn nhanh để có thể giúp huấn luyện lũ ngựa con. Mỗi ngày ba dắt những con ngựa hai tuổi ra, từng con một, với một sợi dây dài, dạy chúng đi tới và ngừng lại theo lời ba hô. Ba huấn luyện chúng mang yên cương và không sợ hãi thứ gì. Không bao lâu, ba buộc chung mỗi con với một con ngựa già hiền lành và dạy nó cách kéo một chiếc xe nhẹ ở phía sau mà không hoảng sợ. Nhưng ba không cho Almanzo đặt chân vào sân nhà kho trong lúc ba đang dạy ngựa. Almanzo hứa chắc là cậu không làm cho ngựa sợ, không dạy chúng phóng nhảy hoặc khiến chúng do dự hay bỏ chạy. Nhưng ba không tin tưởng một cậu bé mới chín tuổi. Năm đó, Beauty đẻ một con ngựa con xinh xắn nhất mà Almanzo được thấy. Nó có một ngôi sao trắng hoàn hảo trên trán và Almanzo đặt tên nó là Starlight. Nó chạy theo mẹ trên bãi chăn và một lần khi ba lên thành phố, Almanzo đã vào bãi chăn. Beauty ngẩn cao đầu khi cậu bước tới và con ngựa con chạy ra phía sau mẹ nó. Almanzo dừng lại, đứng hoàn toàn bất động. Một hồi sau, Starlight lén nhìn cậu từ dưới cổ của Beauty. Almanzo vẫn không cử động. Từng chút, từng chút mộ, con ngựa con vươn cổ về phía Almanzo, ngắm cậu với cặp mắt mở lớn, lạ lùng. Beauty cọ mũi vào lưng nó, ve vẩy đuôi rồi bước ra một bước gặm một lùm cỏ. Starlight run rẩy đứng ngắm Almanzo. Beauty nhìn cả hai trong lúc nhai cỏ một cách điềm tĩnh. Con ngựa con nhích lên một bước, rồi một bước nữa. Nó tới gần đến nỗi Almanzo có thể đụng vào nó nhưng cậu không làm, vẫn đứng im. Starlight bước thêm một bước tới gần hơn nữa. Almanzo gần như nín thở. Đột nhiên, con ngựa quay ngoắt lại chạy về phía mẹ nó. Almanzo nghe thấy tiếng Eliza Jane đang gọi lớn: - Ma-a-a-nzo! Cô đã nhìn thấy. Đêm đó cô kể lại với ba. Almanzo nói cậu không làm một điều gì, cậu thề như thế nhưng ba nói: - Ba bắt được con làm trò điên rồ như thế một lần nữa với con ngựa con, ba sẽ đánh cho tan xác ra. Đó là một con ngựa con cực tốt không thể làm hư nó. Ba không để con dạy nó những thói xấu mà ba phải cố sửa chữa. Bây giờ, những ngày hè trở nên dài và nóng bức và má bảo đây là lúc tốt nhất để mọi thứ lớn lên. Nhưng Almanzo cảm thấy mọi thứ quả nhiên đang lớn, ngoại trừ cậu. Ngày nối ngày qua đi và chẳng có gì thay đổi. Almanzo giẫy cỏ, cuốc vườn, giúp sửa những hàng rào bằng đá rồi chẻ củi và làm việc nhà. Vào những buổi chiều nóng nực không có nhiều việc để làm, cậu đi bơi. Thỉnh thoảng tỉnh dậy vào buổi sáng, cậu nghe thấy tiếng mưa rơi như trống thúc trên mái nhà. Điều này có nghĩa là cậu và ba có thể đi câu. Cậu không dám nói về chuyện đi câu với ba vì hoang phí thì giờ cho tính lười biếng là không đúng. Ngay cả những ngày mưa cũng có không ít việc để làm. Ba có thể sửa chữa các yên ngựa, mài bén các dụng cụ hoặc bào ván. Almanzo ăn sáng một cách lặng lẽ, nhưng cậu biết ba cũng đang cố chống lại sự cám dỗ. Cậu rất sợ ý thức của ba giành được phần thắng. Má hỏi: - rồi, hôm nay sẽ có việc gì để làm? Ba trả lời một cách chậm rãi: - Tôi đã tính trồng cà-rốt và sửa lại hàng rào. - Mưa thế này làm mấy việc đó sao được. Ba đáp: - Ừ! Sau bữa ăn, ba đứng nhìn mưa và cuối cùng lên tiếng: - Thôi! Ướt át quá không thể làm việc ở bên ngoài được. Con thấy sao nếu chúng ta đi câu, Almanzo? Thế là Almanzo lao đi lấy cuốc và chiếc vỏ hộp đừng mồi câu, lo đào giun làm mỗi. Mưa gõ trống trên chiếc mũ rơm cũ của cậu, chảy xuống lưng và hai cánh tay trong lúc bùn ép lạnh ngắt giữa các ngón chân. Cậu ướt sũng khi ba cầm mấy chiếc cần câu cùng cậu đi xuống, băng ngang qua bãi chăn cừu tới sông Trout. Không có hương vị nào sánh nổi với nước mưa xối trên đám cỏ ba lá. Không có cảm giác nào thích thú bằng những giọt mưa đập trên mặt Almanzo và những cọng cỏ ướt cào soàn soạt quanh ống chân cậu. Không có âm thanh nào vui vẻ ngang tiếng những giọt nước rơi thánh thót từ những bụi cây dọc theo sông Trout và tiếng nước sông chảy xiết chồm qua các tảng đá. Hai cha con bước nhẹ dọc bờ sông không gây một tiếng động rồi thả những chiếc lưỡi câu xuống nước. Ba đang đứng dưới một cây độc cần còn Almanzo ngồi dưới tán lá của một nhánh tuyết tùng cùng ngắm những hạt mưa bay làm xao động mặt sông. Đột nhiên, cậu thấy một tia sáng bạc loé lên trong không. Ba đã câu được một con cá hồi. Nó quẫy lộn và loé sáng dưới mưa rơi khi ba giật nó lên bờ. Almanzo nhảy dựng lên nhưng nhớ ra kịp là không được la lớn. Lúc đó, cậu cảm thấy một sự trì kéo dây câu của mình, đầu cần câu uốn cong xuống gần đụng mặt nước và cậu dùng hết sức giật mạnh lên. Một con cá lớn sáng trắng mắc ở đầu dây câu. Nó quẫy lộn cố trườn khỏi bàn tay của cậu, nhưng cậu nắm chắc nó, gỡ ra khỏi lưỡi câu - một con cá hồi đốm cực đẹp và lớn hơn con cá do ba câu được. Cậu giơ nó lên cho ba coi. Rồi cậu móc mồi vào lưỡi câu và lại quăng dây câu ra. Cá luôn ham đớp mồi khi mưa đang rơi trên sông. Ba câu được một con nữa, rồi Almanzo câu thêm được hai con nữa, tiếp theo ba câu liền hai con rồi Almanzo câu được một con lớn hơn cả con câu được đầu tiên. Không cần nhiều thời gian hai cha con đã có hai xâu cá ngon lành. Ba nhìn Almanzo thán phục và Almanzo thán phục ba rồi cả hai cuốc bộ về nhà băng qua bãi cỏ ba lá dưới trời mưa. Cả hai đều ướt sũng nhưng khắp người ấm áp. Đứng dưới trời mưa bên đống gỗ gần nhà chẻ củi, họ chặt bỏ đầu cá, đánh vảy, mổ vứt ruột cá. Chảo đựng sữa lớn đầy ắp cá hồi và má đem bao bột chiên cho bữa ăn trưa. Má nói: - Chiều nay thì Almanzo sẽ giúp má đánh sữa để làm bơ. Lũ bò cái cho sữa nhiều đến nỗi mỗi tuần phải đánh sữa hai lần. Má và mấy cô chị gái mệt nhoài vì đánh sữa nên vào những ngày mưa Almanzo phải phụ giúp. Trong hầm chứa quét vôi trắng, chiếc thùng đánh sữa lớn bằng gỗ đứng trên giàn chân gỗ và chứa nửa thùng kem. Almanzo đảo chiếc tay cầm và thùng đánh sữa đung đưa. Trong thùng, kem xô lắc theo óc ách, óc ách! Almanzo giữ cho thùng đong đưa hoài cho tới khi mức va đập khiến kem tụ lại thành những hạt bơ nổi trong kem sữa. Rồi Almanzo uống một ca kem sữa chua, ăn bánh qui, trong lúc má vớt những hạt bơ ra, rửa trong một chén đựng bơ tròn bằng gỗ. Má rửa sạch những mảng sửa bơ bám dính rồi ướp thêm muối và đổ vào các thau đựng bơ thành thứ bơ cứng màu vàng. Câu cá không phải là thú vui duy nhất trong mùa hè. Một buổi tối tháng Sáu, ba nói: - Làm việc hoài mà không nghỉ sẽ biến Jack thành một cậu bé đần độn. Ngày mai chúng ta sẽ đi hái trái cây. Almanzo không nói gì những trong lòng cậu là một tiếng reo vui. Trước rạng sáng hôm sau, cả nhà đã ngồi trên cỗ xe gỗ kềnh càng ra đi với những bộ quần áo cũ nhất, đem theo đủ thứ xô, giỏ lớn và một bữa ăn trưa dã ngoại ê hề. Họ đi thật xa tới dãy núi gần hồ Chateaugay nơi có nhiều dâu lùn dại và dâu xanh dại mọc hoang. Trong rừng đầy xe và những gia đình khác đang hái trái. Mọi người cười nói, ca hát và tiếng chuyện trò râm ran trong các lùm cây. Hàng năm, tất cả chỉ gặp bạn bè ở đây chứ không còn thời giờ nào khác để gặp gỡ. Nhưng tất cả lại bận rộn hái dâu nền đã trò chuyện trong lúc làm việc. Những bụi thấp lè tè lá phủ sát mặt đất mọc trên các khoảng trống giữa các cội cây lớn. Những trái dâu màu xanh đen tụ đầy dưới lá và toả mùi thơm ngọt dưới ánh nắng nóng. Chim từng bầy tới mở tiệc trong những khóm dâu khiến bầu trời đầy những cặp cánh vỗ và trên đầu những người canh giữ, lũ giẻ cùi màu xanh vừa đảo vừa bay vừa kêu la giận dữ. Một lần, hai con giẻ cùi bám vào tấn công chiếc mũ của Alice và Almanzo phải đập xua chúng đi. Và một lần tách ra hái trái một mình, cậu đã gặp một con gấu đen ở sau một cây tuyết tùng. Con gấu đứng trên hai chân sau đang nhét những trái dâu vào miệng bằng cả hai chân trước xù xì. Almanzo như biến thành phỗng đá và cả con gấu cũng thế. Almanzo thất thần và con gấu cũng nhìn cậu bằng những con mắt nhỏ sợ hãi. Rồi con gấu đổ ụp xuống trên bốn chân và chạy biến vào trong rừng. Buổi trưa, những giỏ ăn dã ngoại được mở ra bên bờ suối và mọi người xúm quanh vừa ăn vừa nói chuyện. Rồi tất cả tới suối uống nước và quay lại với những khóm dâu. Xế chiều, những chiếc giỏ lớn và tất cả thùng, xô đều đầy ắp và ba lái xa trở về. Tất cả đều buồn ngủ, say nắng và hơi thở nồng mùi trái dâu. Trong nhiều ngày, má và các cô gái lo làm đủ thứ mứt kẹo và mỗi bữa ăn đều có món bánh nhồi thịt nhân trái dâu hoặc bánh pút-đinh dâu xanh. Rồi vào một bữa ăn tối ba nói: - Đã tới lúc ba má phải tạm nghỉ xả hơi. Ba má tính tới chơi ở nhà chú Andrew khoảng một tuần. Các con có thể tự lo việc nhà và tự lo cho nhau trong lúc ba má đi vắng không? Má tiếp: - Má chắn chắn là Eliza Jane và Royal có thể lo mọi việc ổn thoả trong một tuần lễ với sự phụ giúp của Alice và Almanzo. Almanzo nhìn Alice rồi cả hai cùng nhìn về Eliza Jane. Rồi tất cả đều nhìn ba và nói: - Dạ được, ba. Chương 18: Giữ Nhà Chú Andrew sống cách xa mười dặm. Suốt một tuần ba má chuẩn bị cho chuyến đi và suốt thời gian đó, ba và má luôn nghĩ tới những điều cần phải làm trong lúc ba má vắng nhà. Ngay cả khi đã bước lên xe, má còn nhắc: - mỗi tối phải nhớ gom trứng và việc đánh sữa má trông ở con đó, Eliza Jane. Đừng bỏ quá nhiều muối vào bơ, nhớ đóng vào các thau nhỏ và phủ kín. Đừng quên chọn lại chỗ dâu mà má dành làm giống. Thôi, ráng ngoan trong lúc ba má đi vắng và… Má đang xếp lại vành váy giữa ghế ngồi và chiếc đồng hồ đo trên xe. Ba mở rộng vạt áo trong lúc má vẫn nói tiếp: - … và ráng nhớ, Eliza Jane, phải để ý bếp lửa, không được rời nhà khi lửa đang cháy trong lò và không được bỏ lộn xộn những cây nến đang cháy khi làm bất cứ việc gì, và… Ba đã kéo căng dây cương và lũ ngựa bắt đầu cất vó. Má nói vọng lại: - … Đừng có ăn hết đường! Cỗ xe đảo vòng vào đường đi. Lũ ngựa xoải vó phóng nhanh đưa ba và má đi xa. Một thoáng sau tiếng bánh xe mất hẳn. Ba và má đã đi khỏi. Không ai nói một điều gì. Ngay cả Eliza Jane cũng có vẻ hơi hoảng sợ. Ngôi nhà và dãy nhà kho cùng những cánh đồng hình như cực lớn và trống hoe. Ba và má sẽ cách xa mười dặm trọn một tuần lễ. Đột nhiên, Almanzo quăng chiếc mũ lên trời và hét lớn. Alice xiết chặt tay quanh người, kêu lên: - Làm gì trước tiên đây? Tất cả có thể làm điều gì mình thích. Không còn có ai ở đây để kìm chế họ. Eliza Jane lên tiếng với vẻ hống hách: - Hãy đi rửa chén đĩa và dọn dẹp giường. Royal hét: - Hãy làm kem đã! Eliza Jane rất thích kem. Cô do dự rồi nói: - Được… Almanzo chạy theo Royal tới nhà chứa đá. Cả hai đào một tảng đá ra khỏi đống mạt cưa, bỏ vào một túi đựng hạt. Các cậu đặt túi ở nhà vòm phía sau, dùng búa đập cho tảng đá vỡ ra. Alice bước ra nhìn cả hai trong lúc cô đang đánh những lòng trắng trứng trên chiếc đĩa mỏng. Cô đánh trứng bằng chiếc nĩa cho tới khi đông cứng lại không chảy xuống dù cô đặt chiếc đĩa nghiêng hẳn về một phía. Eliza Jane lường sữa và kem rồi lấy đường từ phòng chứa đồ ăn đổ vào. Cô không lấy đường trường khế thường dùng mà lấy đường trắng mua ở cửa hàng. Má chỉ dùng loại đường này khi nhà có khách viếng thăm. Eliza Jane múc sáu muỗng đầy rồi gạt bằng số đường còn lại để không ai có thể dễ dàng nhận ra là đã bị hụt. Cô lấy một xô lớn đựng sữa làm một xô đầy món trứng sữa màu vàng. Họ đặt chiếc xô vào một cái thau và nhồi những mảnh đá như tuyết xung quanh rồi thêm muối và phủ kín tất cả bằng một tấm chăn. Cứ mỗi vài phút, họ lại nhấc tấm chăn, mở xô và khuấy nước kem lạnh đang đông lại. Khi kem đông cứng, Alice lo lấy ly, muỗng còn Almanzo mang ra một ổ bánh ngọt và con dao phay. Cậu cắt bánh thành những miếng lớn trong lúc Eliza Jane chất kem lên đĩa. Họ có thể mặc sức ăn kem và bánh mà không có ai ngăn cản. Buổi trưa đó, họ đã ăn hết ổ bánh và gần hết số kem đông lạnh. Eliza Jane nói đã tới giờ ăn trưa nhưng tất cả đều không muốn ăn. Almanzo nói: - Em thích nhất là được ăn một miếng dưa hấu. Alice nhảy bật lên: - Ngon quá! Hãy lấy một trái đi! Eliza Jane quát: - Alice! Lại đây ngay và lo rửa đĩa bữa ăn sáng! Alice nói lớn: - Em sẽ làm khi em trở lại. Alice và Almanzo chạy ra đồng dưa nóng hừng hực, ở đó có những trái dưa tròn xoe đang nằm trên những tàu lá lớn rũ xuống. Almanzo búng ngón tay lên lớp vỏ màu xanh của trái dưa và lắng nghe. Khi một trái dưa kêu như chín thì nó chín, còn khi nó kêu như xanh thì nó xanh. Nhưng lúc Almanzo bảo trái dưa kêu như chín thì Alice nghĩ trái dưa kêu như xanh. Không có cách nào để phân biệt chính xác, dù Almanzo đoan chắc cậu biết về dưa nhiều hơn các cô gái. Thế là cuối cùng, cả hai chọn sáu trái dưa lớn nhất, kéo lê từng trái một về nhà chứa đá và đặt lên đám mạt cưa ẩm lạnh. Sau đó Alice trở về lo rửa chén đĩa. Almanzo bảo cậu sẽ không làm việc gì nữa và cậu có thể đi bơi. Nhưng ngay khi Alice vừa đi khuất, cậu đã nhảy qua khu nhà kho lén đi vào bãi chăn đang có những con ngựa con ở đó. Bãi chăn rộng mênh mông và nắng nóng gắt. Không khí như mờ đi và gợn sóng với hơi nóng, và lũ sâu nhỏ kêu inh ỏi. Bess và Beauty nằm dưới một bóng cây, mấy con ngựa con đứng gần chúng đang ve vẩy những chiếc đuôi nhỏ xù xì và hơi xoạc rộng những ống chân dài lênh khênh. Đám ngựa trên một tuổi, hai tuổi và ba tuổi đang gặm cỏ. Tất cả đều ngẩng đầu lên nhìn Almanzo chòng chọc. Cậu đi chầm chậm về phía chúng, mở hai bàn tay. Hai bàn tay cậu không có gì, nhưng lũ ngựa con không hiểu điều đó. Cậu không tính làm điều gì mà chỉ muốn đến đủ gần để làm thân với chúng. Starlight và những con ngựa con khác chạy chúi lại gần mẹ chúng. Bess và Beauty ngẩng đầu lên nhìn rồi lại cúi xuống. Những con ngựa tương đối lớn vểnh tai đồng loạt. Một con bước về phía Almanzo, rồi tới một con khác. Tất cả có sáu con bước tới. Alamzno mong có mang theo cà-rốt để cho chúng. Chúng đều rất đẹp, thanh thoát, lực lưỡng, những chiếc bờm hất lên để lộ tròng trắng của những con mắt. Ánh sáng lấp lánh trên những cần cổ uốn cong mạnh mẽ và những bắp thịt cuồn cuộn trên ức. Đột nhiên một con hí lên: - Huu-úú-ú! Một con hất chân đá, một con khác ré lên và lập tức những chiếc đầu vươn lên, những chiếc đuôi múa lên và những chiếc móng khua trên mặt đất như sấm rền. Tất cả những chiếc hông màu nâu, những chiếc đuôi màu đen vươn cao đảo quanh Almanzo. Như một cơn lốc chấn động, sáu con ngựa này chạy vòng quanh và Almanzo luôn nghe thấy chúng từ phía sau. Cậu cũng xoay theo như gió xoắn, nhìn những chiếc móng đang khua và những chiếc ức đồ sộ đang đâm sầm vào mình. Chúng chạy nhanh tới mức không thể dừng lại nổi. Không còn thời gian để né tránh, Almanzo nhắm nghiền mắt, hét lớn: - Oa! Không khí và mặt đất đều rung chuyển. Cậu mở mắt ra. Trước mắt cậu là những khuỷu chân màu nâu đang cất cao trong không, một bộ ngực tròn đầy và những bắp chân sau đột ngột xô lên khỏi đầu. Những mảng sườn màu nâu lao tới sát bên đe doạ. Mũ cậu bay đi và cậu thấy choáng váng. Một con ngựa ba tuổi phóng chồm qua cậu. Những con ngựa khác vụt tan chạy xuống bãi chăn và Almanzo thấy Royal đang chạy tới. Royal hét: - Tránh xa lũ ngựa con ra! Cậu chạy tới và bảo đáng tặng cho Almanzo một cú đá để nhớ đời. Royal nói: - Em phải đủ hiểu biết để không khiến những con ngựa con nổi điên lên chứ. Cậu nắm lấy tai Almanzo. Almanzo vùng chạy nhưng tai cậu đã bị nắm lôi về dãy nhà kho. Cậu nói là cậu không hề làm điều gì nhưng Royal không thèm nghe. Royal nói: - Nếu còn bắt gặp em trong bãi chăn thêm một lần nữa thì anh sẽ lột da em. Anh cũng sẽ nói với ba nữa. Almanzo vừa vùng vẫy vừa chà xát tai. Cậu chạy xuống phía sông Trout và phóng xuống bơi cho tới khi cảm thấy dễ chịu hơn. Nhưng cậu nghĩ thật không công bằng chút nào khi cậu phải là đứa nhỏ nhất trong gia đình. Chiều hôm đó, những trái dưa đã đủ lạnh và Almanzo khuân về đám cỏ dưới cây bóng nước trong sân. Royal thọc con dao phay vào lớp vỏ xanh còn tươi và mọi trái dưa đều chín đến mức lớp vỏ tách ra liền. Almanzo, Alice, Eliza Jane và Royal cạp những miếng dưa lạnh mọng nước và ăn tới nó. Royal bóp những hạt dưa đen bóng cho vọt vào Eliza Jane tới khi cô bắt phải ngưng. Lúc đó cậu ăn từ từ miếng dưa cuối cùng và nói: - Em sẽ cho Lucy ăn hết vỏ dưa. Eliza Jane nói: - Đừng có làm như thế! Thật quái đản! Một con heo già dơ dáy ở ngay sân trước. Almanzo cãi: - Nó đâu phải là con heo già dơ dáy! Lucy là một con heo con nhỏ nhắn, sạch sẽ và heo là những con vật sạch nhất trong sân. Chị phải thấy cách Lucy giữ sạch ổ nằm của nó. Nó xoay ổ, hong ổ cho khô và làm ổ mỗi ngày. Lũ ngựa không làm thế, bò cũng không, cừu cũng không, không thứ nào làm thế. Những con heo… Eliza Jane cắt ngang: - Chị chắc là chị biết rõ điều đó! Chị chắc chị cũng biết về lũ heo nhiều như em! - Vậy thì không thể nói Lucy dơ dáy. Nó rõ ràng sạch ngang với chị. Eliza Jane đáp: - Thôi, má dặn em phải nghe lời chị. Và chị sẽ không bỏ phí vỏ dưa cho bất kỳ con heo nào. Chị sẽ làm mứt vỏ dưa. - Em thấy là vỏ dưa của em cũng nhiều bằng vỏ dưa của chị. Almanzo lại lên tiếng nhưng Royal đã đứng dậy, nói: - Đi thôi, Manzo. Tới lúc làm việc nhà rồi. Almanzo không nói gì thêm, nhưng khi làm xong công việc, cậu cho Lucy ra khỏi chuồng. Con heo nhỏ trắng như một con cừu non và rất thích Almanzo. Chiếc đuôi nhỏ của nó cuộn lại ngoắc ngoắc mỗi khi nó thấy cậu. Nó ủn ỉn một cách thích thú đi theo cậu lên nhà và kêu eng éc với cậu ngay trước cửa cho tới khi Eliza Jane nói là không còn nghe nổi gì nữa. Sau bữa ăn tối, Almanzo vét một đĩa đồ dư đem cho Lucy. Cậu ngồi trên bậc thang cửa sau, cào cào chiếc lưng nhám xì của nó. Lũ heo đều thích như thế. Trong nhà bếp, Eliza Jane và Royal đang tranh luận về món kẹo đường. Royal muốn lấy một ít nhưng Eliza Jane nói kẹo đường chỉ dành cho những buổi tối mùa đông. Royal bảo không có lý do gì để cho rằng ăn kẹo đường trong mùa hè là không tốt. Almanzo cũng nghĩ như thế và cậu bước vào hỗ trợ cho Royal. Alice nói cô biết cách làm kẹo đường. Eliza Jane không chịu làm nhưng Alice trộn đường với mật mía và nước, đem nấu cho sôi rồi đem đổ kẹo lên những chiếc đĩa đẹp có tráng bơ, đặt lên mái vòm cho lạnh. Mấy anh em xắn cao ống tay áo, trét bơ vào bàn tay sẵn sàng kéo kẹo và Eliza Jane cũng trét bơ vào bàn tay mình. Suốt thời gian đó, Lucy eng éc kêu Almanzo. Cậu đi ra coi kẹo đủ lạnh chưa và cậu nghĩ có thể cho con heo nhỏ một ít. Kẹo đã lạnh. Không ai nhìn thấy nên cậu bốc một nắm kẹo đường màu nâu mềm bỏ vào chiếc mõm đang há lớn của Lucy. Rồi tất cả cùng kéo kẹo, kéo thành những tao dài, gấp đôi các tao và kéo tiếp. Mỗi khi gấp đôi lại, tất cả đều cạp một miếng. Kẹo rất dính, bám vào răng, vào ngón tay, vào mặt, bám lên cả tóc và khi Almanzo làm rớt một chút xuống nền thì kẹo bám lên nền. Lẽ ra kẹo phải trở nên khô giòn, nhưng nó lại không như vậy. Tất cả kéo và kéo nữa, nhưng kẹo vẫn cứ mềm và dính như keo. Kéo quá giờ ngủ thật lâu, tất cả đành phải bỏ đó lên giường. Sáng hôm sau, lúc Almanzo bắt đầu đi lo việc nhà, Lucy đang đứng trong sân. Đuôi nó ẻo lả và đầu rũ xuống. Nó không kêu ré lên khi nhìn thấy cậu. Nó lắc lắc đầu một cách buồn bã và mũi nhăn lại. Tất cả những chiếc răng trắng của nó đều có một lớp sọc nâu mềm nhuyễn. Hàm răng của Lucy đã bị kẹo đường gắn dính cứng lại! Nó không ăn được, không uống được, không kêu được, nó không thể ủn ỉn. Nhưng khi nhìn thấy Almanzo bước tới, nó bỏ chạy. Almanzo kêu Royal. Cả hai đuổi theo Lucy vòng quanh ngôi nhà, dưới những khóm tuyết cầu và tử đinh hương. Các cậu tiếp tục đuổi theo nó khắp vườn. Lucy xoay như chong chóng, né tránh, hụp đầu, lao chạy. Suốt thời gian đó, nó không kêu một tiếng vì không thể kêu. Kẹo đường đã dính đầy mõm nó. Nó chạy vào giữa hai chân Royal, hất cậu ngã ngửa. Almanzo gần như túm được nó và cậu bị lôi sóng xoài đập mũi xuống. Nó xé toạc khóm đậu Hà Lan, tràn qua luống khoai tây đâng chín và làm bung rễ nhưng cây cải bắp xanh mởn. Eliza Jane kêu Royal và Almanzo cố bắt lấy nó còn Alice đuổi theo nó. Cuối cùng, nó bị dồn vào góc. Nó vướng vào váy của Alice, Almanzo ngã nhào lên nó và chộp được. Nó quẫy đạp, xé toạc một miếng dài chiếc áo của cậu. Almanzo kìm nó xuống. Alice giữ chặt hai chân sau nó đang cố vùng vẫy. Royal bóp mõm nó há ra và cào kẹo đường ra hết. Rồi Lucy ré lên khủng khiếp! Nó ré thay cho tất cả những tiếng ré suốt đêm và tất cả những tiếng ré nó không cất lên nổi khi bị rượt đuổi, trong lúc hoảng hốt chạy về chuồng. Eliza Jane cằn nhằn: - Almanzo James Wilder, hãy nhìn lại mình coi! Cậu không thể tự nhìn mình và cậu cũng không muốn. Ngay cả Alice cũng kinh hoàng vì cậu đã hoang phí kẹo đường cho một con heo. Và chiếc áo của cậu đã bị làm rách. Đành rằng vết rách có thể vá lại nhưng không thể che giấu. Almanzo nói: - Em khỏi cần! Cậu mừng là phải một tuần nữa má mới biết chuyện. Hôm đó, tất cả lại làm kem lạnh và ăn ổ bánh ngọt cuối cùng. Alice nói cô còn biết làm bánh bột nện. Cô nói cô phải làm một ổ rồi đi vào ngồi trong phòng khách. Almanzo nghĩ việc đó chẳng thú vị chút nào. Còn Eliza Jane nói: - Em không được làm điều đó, Alice. Em biết rõ là phòng khách chỉ để dành cho khách. Nhưng phòng khách không phải của Eliza Jane và má không hề nói cấm Alice ngồi trong đó. Almanzo nghĩ là Alice có thể ngồi ở phòng khách nếu thích. Chiều hôm đó, cậu vào bếp và thấy một chiếc bánh bột nện đã làm xong. Alice đang lấy bánh ra khỏi lò hấp. Mùi bánh hấp dẫn đến nỗi cậu bẻ ngay một miếng nhỏ ở góc. Rồi Alice cắt thành khoanh để che chỗ bị bẻ và sau đó cả hai ăn thêm hai khoanh bánh với phần kem lạnh cuối cùng. Alice nói: - Chị có thể làm thêm. Eliza Jane đang ở tầng trên và Almanzo nói: - Vào phòng khách đi. Cả hai rón rén đi không gây một tiếng động. Ánh sáng mờ mờ vì rèm cửa buông xuống hết nhưng phòng khách tuyệt đẹp. Giấy dán tường màu trắng và vàng còn tấm thảm là công trình đan hạnh nhất của má gần như vô cùng hoàn hảo để đặt chân lên. Một chiếc bàn đặt ở giữa phòng làm bằng đá hoa, trên đó có một cây đèn phòng khách cao, hoàn toàn bằng sứ với nước men trắng cẩn vàng và những bông hoa sơn màu hồng. Bên cạnh nó là một cuốn album bìa nhung màu đỏ và cẩn xà cừ. Nhiều chiếc ghế ngựa trang trọng được đặt đứng chung quanh các bức tường và hình George Washington nhìn nghiêm nghị từ trong khung treo giữa các ô cửa sổ. Alica buộc vành váy phía sau cao lên, ngồi xuống ghế sofa, mặt ghế trơn bóng khiến cô trượt thẳng xuống nền nhà. Cô không dám cười lớn sợ Eliza Jane nghe thấy. Cô lại ngồi lên ghế và lại trượt xuống. Rồi Almanzo trượt khỏi một chiếc ghế. Khi có khách viếng thăm, các cô cậu phải ngồi trong phòng khách bằng cách chống những ngón chân lên nền nhà để tránh bị trượt khỏi ghế. Nhưng lúc này cả hai có thể để chân thoải mái và trượt xuống. Cả ai trượt khỏi chiếc ghế sofa và những chiếc ghế cho tới khi Alice nín cười không nổi và không dám trượt thêm nữa. Rồi cả hai ngắm những vỏ sò, san hô và những đồ trang trí nhỏ, nhưng không dám chạm tay vào bất kì thứ nào. Cả hai ngắm cho tới khi nghe thấy tiếng Eliza Jane đang xuống cầu thang thì nhón chân ra khỏi phòng khách và đóng cửa lại không có một tiếng động. Eliza Jane không hề bắt gặp. Tuần lễ đó giống như kéo dài mãi nhưng qua đi thật đột ngột. Một buổi sáng, trong bữa ăn điểm tâm, Eliza Jane nhắc: - Ba má sẽ về nhà vào ngày mai. Tất cả ngừng ăn. Vườn không được làm cỏ. Các thứ dâu không được hái còn nho đang sắp sửa chín. Chuồng gà đẻ không được rửa sạch. Eliza Jane nói: - Việc nhà sẽ nhìn thấy ngay và nội hôm nay, mình sẽ phải khuấy tung lên. Nhưng biết nói sao với má về số đường sạch trơn đây? Không ai ăn thêm miếng nào nữa. Tất cả đều nhìn về phía thùng đường và thấy có thể nhìn rõ tới đáy. Chỉ riêng Alice cố tỏ ra vui vẻ. Cô bắt chước nói như má: - Mình phải hy vọng điều tốt đẹp nhất. Vẫn còn một ít đường. Má đã nói: “Đừng ăn hết đường” và mình đã làm đúng. Vẫn còn một ít đường xung quanh đáy thùng. Đó là màn mở đầu của một ngày kinh hoàng. Tất cả đều lao vào công việc với mức độ cao nhất. Royal và Almanzo lo giẫy cỏ vườn, quét vôi chuồng gà đẻ, dọn sạch các ngăn chuồng bò và quét nền Kho Nam. Hai cô gái quét dọn và lau chùi trong nhà. Eliza Jane còn bắt Almanzo đánh sữa cho tới khi bơ tụ lại và những bàn tay cô bay múa rửa, rắc muối, đóng kem vào thùng. Bữa ăn trưa chỉ có bánh mì, bơ, mứt dù Almanzo đói muốn xỉu. Eliza Jane nói: - Bây giờ Almanzo lau chùi nhà bếp. Cậu ghét lau chùi nhưng cậu hy vọng Eliza Jane không mách chuyện cậu hoang phí kẹo cho con heo. Cậu bắt tay vào việc với hộp xi đánh lò và chiếc bàn chải. Eliza Jane hối hả quét bụi và nói: - Cẩn thận đừng để xi chảy tràn ra. Almanzo chắc là mình đã đủ hiểu biết để không làm xi tràn ra lò. Nhưng cậu không nói gì. - Dùng ít nước thôi, Almanzo. Rồi, cảm ơn! Chà mạnh hơn nữa đi! Cậu tiếp tục không nói gì. Eliza Jane bước vào phòng khách để quét bụi. Cô gọi: - Almanzo, xong lò chưa? Almanzo đáp: - Chưa. - trời ơi! Đừng biếng nhác thế! Almanzo lẩm bẩm: - Bà là chủ của ai vậy? Eliza Jane hỏi: - Em nói gì? Almanzo đáp: - Không có gì. Eliza Jane bước tới cửa: - Em vừa nói gì vậy? Almanzo đứng thẳng người lên và hét lớn: - Tôi nói BÀ LÀ CHỦ CỦA AI VẬY? Eliza Jane thở hổn hển. Rồi cô cố gào lên: - Chờ đó Almanzo James Wilder! Chờ cho tới lúc tao sẽ nói với má là… Almanzo không có ý đinh liệng chiếc bàn chải dính đầy xi nước. Chiếc bàn chải như tự bay thẳng khỏi bàn tay cậu. Nó vượt qua trên đầu Eliza Jane. Chát! Chiếc bàn chải đập mạnh vào tường. Một vết đen lớn loang trên mặt giấy dán tường màu trắng – vàng. Alice kêu thét lên. Almanzo quay người chạy thẳng ra nhà kho. Cậu trèo lên đống cỏ khô, luồn thật xa vào bên trong. Cậu không khóc nhưng chắc chắn cậu phải khóc nếu cậu không sắp lên mười tuổi rồi. Khi trở về, má sẽ thấy cậu làm hư phòng khách tuyệt đẹp của má. Ba sẽ lôi cậu vào nhà lán gỗ và sẽ quất cậu bằng roi da. Cậu không muốn ra khỏi đống cỏ chút nào. Cậu mong sẽ nằm ở đây mãi mãi. Một hồi lâu sau Royal leo lên đống cỏ và gọi cậu. Cậu chui ra vì cậu thấy là Royal đã biết. Royal nói: - Mannie, em sẽ bị một trận đòn đau lắm. Royal tỏ ý buồn nhưng không thể làm gì được. Cả hai đều biết Almanzo đáng bị đánh đòn và không có cách nào giấu ba nổi. Thế là Almanzo nói: - Em không sợ. Cậu phụ làm việc nhà và ăn bữa tối. Cậu không đói nhưng ăn để Eliza Jane thấy là cậu không sợ. Rồi cậu lên giường. Cửa phòng khách đóng kín nhưng cậu đã biết vết đen trên màu tường vàng trắng lớn bao nhiêu. Hôm sau, ba và má lái xa vào trong sân. Almanzo phải cùng các anh chị ra ngoài đón. Alice thì thầm với cậu: - Đừng lo nhiều. Có thể ba má không để ý. Nhưng chính cô cũng tỏ ra lo ngại. Ba lên tiếng vui vẻ: - rồi, chúng ta đã tới nhà. Tất cả đều ổn chứ? Royal đáp: - Dạ ổn, ba. Almanzo không phụ việc tháo lũ ngựa ra khỏi xe, cậu ngồi ở trong nhà. Má rảo quanh nhìn mọi thứ trong lúc cởi dây buộc mũ. Má nói: - Có thể nói Eliza Jane và Alice dọn dẹp trong nhà không thua má chút nào. Alice rụt rè nói nhỏ: - Má! Má… - Sao, có chuyện gì, con? Alice có vẻ vững tâm, nói: - Má, má dặn tụi con không được ăn hết đường. Má, tụi con… tụi con chỉ ăn gần hết thôi. Má cười: - Tất cả các con đều ngoan lắm. Má không la các con về vụ đường đâu. Má không biết trên tường phòng khách đã có một vết đen. Cửa phòng khách vẫn đóng. Má không biết trong ngày hôm đó và không biết trong cả nhiều ngày tiếp sau. Almanzo nuốt thức ăn một cách khó khăn trong nhiều bữa và má lo ngại. Má đưa cậu vào phòng chứa đồ ăn và cho cậu uống một muỗng thuốc đen khủng khiếp do má chế bằng các rễ cây. Cậu không muốn má biết về cái vết đen nhưng cậu bé lại muốn má biết. Cậu chỉ ngưng khiếp sợ khi sự việc thực sự trôi qua. Buổi chiều thứ hai, cả nhà nghe thấy tiếng xe ngựa lăn vào trong sân. Ông và bà Webb ở trên xe. Ba má ra đón họ và chỉ một phút sau, tất cả đã ở trong phòng ăn. Almanzo nghe má nói: - Xin mời qua phòng khách. Cậu cứng người lại, không thể lên tiếng. Cậu không thể nghĩ tới một chuyện nào tồi tệ hơn nữa. Má rất tự hào về phòng khách của mình. Má còn tự hào đã giữ nó luôn xinh xắn. Má không biết rằng cậu đã làm hư nó và bây giờ má mời khách vào phòng khách. Họ sẽ phải nhìn thấy vết loang lớn trên tường. Má mở cửa phòng khách và bước vào. Bà Webb bước nối theo, rồi ông Webb và ba. Almanzo chỉ nhìn thấy lưng mọi người. Tuy nhiên cậu nghe thấy tiếng rèm cửa sổ kéo lên. Cậu thấy phòng khách đầy ánh sáng. Hình như thời gian rất dài đối với cậu trước khi có người lên tiếng. Rồi má nói: - mời bà ngồi trên chiếc ghế lớn này, bà Webb, và xin bà cứ tự nhiên. Mời ông Webb ngồi đây, trên ghế sofa. Almanzo không tin ở chính tai mình. Ông Webb nói: - Ông bà có một phòng khách thật tuyệt. Tôi phải nói là hết sức tuyệt khi ngồi ở đây. Lúc này Almanzo có thể nhìn lên chỗ mà chiếc bàn chải đầy xi đập vào bức tường và cậu không tin vào mắt mình. Giấy dán tường vẫn nguyên vẹn màu trắng và vàng. Không hề có một vết loang đen nào trên đó. Má nhìn cậu và nói: - tới đây, Almanzo. Almanzo bước vào. Cậu ngồi thẳng người trên tấm lót ghế, bám chắc ngón chân trên nền nhà để không bị trượt xuống. Ba và má đang kể về chuyến đi thăm nhà chú Andrew. Trên vách không hề có một vết loang đen ở bất kỳ chỗ nào. Bà Webb hỏi: - Để lũ nhỏ ở nhà một mình và đi xa như thế, ông bà không lo ngại sao? Má đáp đầy vẻ tự hào: - Không đâu, tôi biết lũ nhỏ có thể lo mọi thứ không thua gì khi James và tôi ở nhà. Almanzo nhớ tới cách cư xử của mình và không nói một lời. Hôm sau, khi không ai nhìn thấy, cậu lẻn vào phòng khách. Cậu nhìn thật kỹ chỗ có vết đen loang. Giấy dán tường đã được vá lại. Miếng vá được cắt cẩn thận theo đường viền vàng bao quanh và được gắn vào vừa khít và cạo mỏng tới mức khó thể nhận ra. Cậu đợi tới lúc có thể nói chuyện một mình với Eliza Jane và cậu hỏi: - Eliza Jane, chị đã vá lại giấy dán tường phòng khách cho em hả? Cô nói: - Ừ, chị lấy cuộn giấy dán tường cất trên gác mái, cắt ra một miếng và dán vào bằng keo. Almanzo nói một cách sôi nổi: - Em rất tiếc đã ném bàn chải vào chị. Thực tình em không tính làm thế đâu, Eliza Jane. Cô nói: - Chị chắc là chị cũng quá đáng. Nhưng chị đâu có muốn thế. Em vẫn là đứa em nhỏ duy nhất của chị mà. Almanzo không bao giờ biết là cậu thương Eliza Jane nhiều hơn trước bao nhiêu. Tất cả đều không bao giờ, không bao giờ nói về cái vết đen loang trên tường phòng khách và má không bao giờ biết điều đó. Chương 19: Vụ Mùa Sớm Đã vào thời điểm cắt cỏ. Ba lấy những chiếc liềm cán dài ra và Almanzo một tay quay hòn đá mài, tay kia xối nước lên trong lúc ba giữ cho những chiếc lưỡi thép chạm nhẹ vào hòn đá đang kêu vo vo. Nước giữ cho những lưỡi liềm không nóng quá trong khi hòn đá mài lưỡi liềm mỏng và sắc hơn. Rồi Almanzo băng rừng tới những túp lều nhỏ của mấy người Pháp nhắc French Joe và Lazy John tới giúp việc vào ngày hôm sau. Ngay khi mặt trời vừa chiếu khô lớp sương đọng trên đồng cỏ, ba đã cùng Joe và John bắt đầu cắt cỏ. Họ đi thành hàng ngang, vung lưỡi liềm vào những đám cỏ cao và đám ngưu thảo đổ rạp xuống từng khoảng lớn. Xoẹt! Xoẹt! Xoẹt! Những lưỡi liềm vụt qua trong lúc Almanzo cũng Pierre và Louis đi phía sau, tải những đám cỏ nặng chịch bằng chiếc chĩa để hong khô dưới nắng. Gốc cỏ mềm và mát rượi dưới bàn chân trần của các cậu. Những con chim vụt bay lên phía trước những người cắt cỏ rồi một con thỏ nhảy ra phóng chạy đi. Cao tít trên không, những con sơn ca đồng cỏ đang hót. Nắng mỗi lúc một nóng hơn. Mùi cỏ khô nồng hơn và đượm vị ngọt hơn. Rồi những đợt sóng hơi nóng từ mặt đất dâng lên. Hai cánh tay nâu sạm của Almanzo bắt nắng thành sậm hơn và mồ hôi nhỏ giọt trên trán cậu. Tất cả ngừng lại, ngắt những nhánh lá xanh nhồi vào vành nón. Những nhánh lá giúp làm mát đỉnh đầu họ trong một khoảnh khắc. Giữa buổi sáng, tiếng tù và báo hiệu bữa ăn trưa của má nổi lên. Almanzo biết tiếng tù và báo hiệu việc gì. Cậu cắm cây chĩa xuống mặt đất và chạy băng ngang đồng cỏ về nhà. Má đợi cậu ở vòm mái sau nhà với một xô đựng sữa chứa đầy tới miệng món trứng sữa. Món trứng sữa chế biến với sữa, kem và rất nhiều trứng và đường. Lớp váng trên của nó được chế thêm gia vị và rất nhiều mảng kem nổi lên. Các cạnh xô như phủ sương vì lạnh. Almanzo bước từ từ về phía đồng cỏ với chiếc xô nặng chịch và một chiếc vá để múc. Cậu nghĩ chiếc xô quá đầy nên cậu có thể làm tràn món trứng sữa ra ngoài. Má vẫn bảo hoang phí là có tội. Cậu chắc chắn sẽ phạm tội do để rớt một giọt trứng sữa. Cậu phải làm một điều gì đó để không hoang phí như thế. Vậy là cậu đặt xô xuống, múc đầy một vá và uống. Trứng sữa mát lạnh trôi tuột qua cổ cậu khiến cậu thấy thoải mái. Khi cậu về tới đồng cỏ, mọi người ngưng làm việc. Tất cả đứng trong bóng mát của một cây sồi, nón hất về phía sau và chuyền tay nhau chiếc vá cho tới khi trọn món trứng sữa tiêu hết. Almanzo uống hết phần đầy của mình. Lúc này hơi gió dịu mát và Lazy John vừa lau lớp váng kem trên ria mép vừa nói: - Chà! Nó làm trái tim người ta tươi lại. Bây giờ mấy người lớn đi mài liềm khiến những phiến đá mài reo lên vui vẻ trên những lưỡi thép. Và họ tự động trở lại với công việc. Ba luôn cho rằng một người sẽ làm được nhiều hơn trong mười hai giờ đồng hồ nếu có một khoảng nghỉ ngơi và uống đủ mức trứng sữa vào buổi sáng và buổi chiều. Tất cả làm công việc trong đồng cỏ cho tới khi nào ánh sáng còn đủ soi tỏ cho công việc và mọi việc nhà sẽ làm dưới ánh đèn. Sáng hôm sau, các đống cỏ đã khô và mấy cậu bé cào lại thành những cuộn dài bằng những cây cào lớn bằng gỗ rất nhẹ do ba làm. Rồi John và Joe đi cắt cỏ còn Pierre cad Louis tải cỏ phơi phía sau họ. Nhưng Almanzo làm việc trên mảng cỏ. Ba lái xe đưa cỏ về khu nhà kho, rồi ba và Royal liệng các cuộn cỏ vào máng trong lúc Almanzo giậm đạp chúng xuống, nhấn chúng xuống nhanh ngang với mức ba và Royal quăng lên để làm thành đống. Khi đống cỏ không cao hơn được nữa thì cậu đứng chót vót trên đỉnh. Tại đó, cậu nằm sấp chống chịu bằng gót chân trong lúc ba chuyển vào Kho Lớn. Đống cỏ chỉ lọt vừa vặn dưới khung cửa ra vào và phải trượt một đoạn dài trên đất. Ba và Royal dồn cỏ vào kho chứa còn Almanzo xách bình nước đi ra giếng. Cậu bơm rồi bơm và hứng những dòng nước vọt ra bằng hai bàn tay để uống. Cậu mang nước về cho ba và Royal rồi hứng thêm một bình đầy. Sau đó, cậu quay về máng cỏ rỗng và đạp một đống cỏ khác. Almanzo thích thời gian gom cỏ khô. Hàng ngày, từ sáng sớm đến tối mịt, cậu rất bận rộn nhưng công việc luôn đổi khác. Giống hệt như chơi đùa và sáng, chiều lại có hai bữa trứng sữa. Nhưng sau ba tuần lễ thì các nhà chứa cỏ đã nhồi chặt ních và đồng cỏ đã trống. Rồi dòng lũ mùa vụ tới. Lúa mạch đã chín, đứng chen chúc, lêu đêu và vàng rực. Lúa mì còn vàng sậm hơn lúa mạch. Đậu đã chín và bí, cà-rốt, củ cải, khoai tây đều sẵn sàng cho thu hoạch. Lúc này không còn nghỉ ngơi và vui đùa với bất kì ai. Tất cả đều khởi sự làm việc trong ánh nến và dứt việc trong ánh nến. Má và mấy cô gái lo ngâm đám dưa leo, ngâm dấm cà chua xanh, ngâm dấm vỏ dưa hấu và phơi bắp, phơi táo, làm mứt. Mọi thứ đều được gom lại, không thể hoang phí bất kì tặng vật nào của mùa hè. Ngay cả vỏ tảo cũng được giữ lại để làm giấm và một bó cọng lúa mạch đang được ngâm trong một chiếc thùng trên nền vòm sau nhà. Mỗi khi chỉ có một phút rảnh rang, má cũng kết lấy một inch, hai inch cọng rơm lúa mạch để làm những chiếc nón cho mùa hè sau. Lúa mạch không cắt bằng liềm cán dài mà bằng hái. Hái có lưỡi tương tự liềm cán dài nhưng còn có những răng gỗ dài để giữ những cọng lúa được cắt. Khi cắt đủ một bó, Joe và John trút những cọng lúa đã cắt ra thành đống gọn gàng. Ba, Royal và Almanzo đi theo sau buộc lại thành bó. Từ trước Almanzo chưa từng buộc lúa mạch. Ba chỉ cho cậu cách kết hai nắm cọng lúa thành một dải dài, rồi cách gom một ôm hạt lên, kéo dải dây thật chặt xung quanh ở khoảng chính giữa, xoắn các đầu dây lại với nhau và gài nó chặt cứng. Trong một thoáng, cậu có thể buộc được một bó lúa khá tốt, nhưng không nhanh lắm. Ba và Royal có thể bó lúa nhanh ngang với những người gặt lúa cắt chúng. Đúng trước mặt trời lặn, những người gặt lúa ngừng cắt lúa và tất cả bắt đầu tụ những bó lúa. Tất cả lúa mạch đã cắt đều phải tụ trước khi trời tối vì chúng sẽ bị hư nếu nằm trên mặt đất ẩm sương. Almanzo có thể tụ lúa tốt như mọi người. Cậu dựng đứng mười bó lúa trên các cọng rạ và cho các đầu có hạt chụm sát vào nhau. Rồi cậu đặt hai bó lúa lên trên cùng và rải các cọng ra tành một mái che phía trên mười bó lúa. Các tụ lúa có vẻ giống những chiếc lều nhỏ của người da đỏ rải rác khắp đồng rạ xanh xám. Lúa mì cũng đang chờ đợi nên không có thời giờ để mất. Ngay sau khi lúa mạch được tụ xong, mọi người lại hối hả cắt, buộc và tụ lúa mì. Lúa mì khó bó vì nặng hơn lúa mạch, nhưng Almanzo quyết làm thật tốt. Rồi còn có đồng lúa mạch và đậu Canada. Những dây đậu quắn tối tung trong lúa nên không thể tụ nổi. Almanzo cào chúng ra thành những cuộn dài. Đã tới thời điểm sẵn sàng nhổ đậu. Alice phải phụ giúp mọi người. Ba kéo những cọc tụ đậu ra đồng, dùng vồ đóng xuống đất. Rồi ba và Royal kéo lúa mạch đã được tụ về nhà kho, trong khi Almanzo và Alice nhổ đậu. Trước tiên cả hai khuân đá chất xung quanh các cột tụ đậu để giữ cho đậu không chạm đất. Sau đó cả hai đi nhổ đậu. Phải dùng cả hai bàn tay nắm đậu nhổ bật hẳn lên. Cả hai mang đậu tới các tụ đậu đặt rễ chụm vào nhau, dây trải ra trên các tảng đá. Từng lớp, từng lớp, đậu được chất thành đống quanh từng cột tụ đậu. Rễ đậu lớn hơn dây nên đống càng cao thêm ở trong. Những mớ dây rối nhằng nhịt đầy những vỏ đậu đang nổ lách tách treo rũ xuống khắp xung quanh. Khi gốc đậu chất thành đống tới các ngọn cọc tụ, Almanzo và Alice phủ dây chùm lên trên làm thành một cái mái để che mưa. Lúc này, cây tụ đậu đã xong và cả hai bắt đầu lo một cây khác. Những cây tụ đậu cao ngang Almanzo và những đám dây tủa quanh tương tự vành váy của Alice. Một hôm, khi Almanzo và Alice về nhà ăn trưa thì thấy người mua bơ đang ở đó. Hàng năm, ông ta đều từ thành phố New York tới. Ông ta mặc một bộ đồ thành phố rất đẹp với một chiếc đồng hồ vàng có dây đeo và lái một cặp ngựa thực tốt. Mọi người đều rất thích người lái bơ và bữa cơm trưa luôn sôi động khi có mặt ông ta. Ông ta đem lại mọi thứ tin tức về chính trị, thời trang và giá cả tại thành phố New York. Sau bữa ăn, Almanzo quay lại với công việc nhưng Alice ở nhà coi má bán bơ. Người lái bơ xuống hầm chứa, nơi các thùng bơ được phủ kín bằng những tấm vải trắng sạch sẽ. Má kéo những tấm vải cho người lái bơ thọc cây thử qua tận đáy thùng để coi bơ. Cây thử bơ là một cây thép dài rỗng ruột với một bên có cắt khía. Khi cây thử được kéo lên, bơ mẫu nằm trong vết khía này. Má không nói giá ngay mà chỉ lên tiếng một cách tự hào: - Bơ của tôi tự nói rõ. Mẫu bơ trong tất cả các thùng đều không có một sọc màu nào. Từ miệng bơ tới đáy thùng, bơ của má đều cùng một màu vàng, cứng, thơm ngọt. Almanzo thấy người lái bơ đánh xe đi và Alice vừa chạy vừa nhảy trở ra đồng đậu với chiếc mũ đung đưa trong dây buộc. Cô gọi lớn: - Thử đoán coi! Almanzo hỏi: - Cái gì? - Ông ta bảo bơ của má là loại bơ ngon nhất mà ông ta được thấy. Và ông ta đã trả giá cho má - thử đoán coi ông ta trả giá thế nào! Năm mươi xu một pao! Almanzo kinh ngạc. Cậu chưa bao giờ nghe nói một giá bơ như thế. Alice tiếp: - Má có năm trăm pao! Thế là có hai trăm năm mươi đô la! Ông ta trả má tất cả bằng tiền mặt và má đang đóng xe để đi tới ngân hàng. Chỉ một lát sau, má lái xe đi ra với chiếc nón đẹp thứ nhì và bộ đồ vải chéo go màu đen. Má đi tới thành phố vào buổi chiều một ngày làm việc giữa vụ mùa. Từ trước, má không bao giờ làm một điều như thế. Nhưng ba đang bận rộn ngoài đồng và má không dám giữ trọn số tiền đó tại nhà qua đêm. Almanzo cảm thấy tự hào. Má cậu có thể là người làm bơ giỏi nhất trong toàn bang New York. Mọi người ở thành phố New York sẽ ăn và khoe với người khác đây là thứ bơ ngon vô kể và tất cả sẽ tự hỏi ai là người làm ra nó. Chương 20: Vụ Mùa Muộn Lúc này trăng mùa gặt tròn vành vạnh suốt đêm toả sáng trên các cánh đồng và không khí đã hơi se lạnh. Tất cả lúa đã cắt xong và đứng trong các tụ dựng cao. Ánh trăng in bóng những tụ lú trên mặt đất ngổn ngang các trái bí nằm phơi mình trên những tàn lá héo úa. Trái bí của Almanzo lớn khủng khiếp. Cậu cắt ra khỏi dây nhưng không thể nào nhấc nổi, thậm chí còn không lăn nổi nó đi nữa. Ba nhấc nó lên thùng xe, cẩn thận đưa về nhà kho, đặt nó lên một đám cỏ khô để chờ tới lúc có hội chợ địa phương. Almanzo vần tất cả những trái bí khác lại thành đống và ba lôi hết về khu nhà kho. Những trái tốt nhất được chuyển xuống hầm chứa để làm bánh bí và những trái còn lại được chất đống ở nền kho nam. Mỗi đêm, Almanzo dùng rìu xả một vài trái cho bò bê ăn. Táo đã chín, Almanzo và Royal cùng ba dựng thang vào cây leo lên trên những ngọn cây rậm rạp. Họ cẩn thận hải từng trái táo hoàn hảo, đặt vào một chiếc giỏ. Ba lái xe, chở đầy các giỏ táo chầm chậm về nhà và Almanzo giúp mang các giỏ táo xuống hầm chứa, đặt những trái táo vào thùng một cách kĩ lưỡng. Không thể làm trầy sưng một trái táo vì khi bị trầy sưng, một trái táo sẽ bị thối và một trái táo bị thối thì toàn bộ thùng táo đều hư hết. Hầm chứa bắt đầu có hương vị táo và mùi mứt của mùa đông. Các thùng đựng sữa của má được rời lên phòng chứ đồ ăn ở tầng trên cho tới khi mùa xuân trở lại. Sau khi những trái táo tốt nhất được hái xong, Almanzo và Royal có thể đi lắc rung các cây táo. Trò này thật thú vị. Các cậu vận hết sức rung cây và những trái táo đang héo rớt xuống như mưa đá. Các cậu lượm lên, quăng vào trong thùng xe. Thứ táo này chỉ để làm rượu táo. Almanzo có thể lấy ăn bất cứ lúc nào thích. Bây giờ là thời điểm thu hoạch các thứ trong vườn. Ba lo kéo táo tới nhà máy làm rượu táo còn Almanzo phải ở nhà nhổ củ cải, củ cải đường, su hào và khuân xuống hầm chứa. Rồi cậu nhổ hành cho Alice bện những ngọn khô của chúng thành những túm dài. Những củ hành tròn trịa chen chúc quanh các túm và má đem treo trên gác mái. Almanzo nhớ tới đám ớt trong lúc alice dùng cây kim xâu những trái ớt thành chuỗi như các hạt trong một xâu chuỗi. Tất cả được đem treo bên cạnh những túm hành. Tối đó ba trở về với hai thùng rượu táo lớn. Ba vần thùng xuống hầm chứa. Thế là có dư rượu táo để kéo dài cho tới mùa táo năm sau. Sáng hôm sau, một cơn gió lạnh nổi lên và mây giông cuồn cuộn trên nền trời xám. Ba nhìn trời lo ngại. Cà-rốt và khoai tây cần phải đào thật mau. Almanzo mang giầy, vớ, đội mũ, khoác áo, đeo bao tay còn alice trùm mũ trùm, quấn khăn choàng. Cô theo phụ giúp. Ba đóng Bess và Beauty vào cây cày và cày một đường dọc hai bên luống cà-rốt dài. Đường cày khiến cà-rốt chỉ còn đứng trong một lớp đất mỏng nên sẽ nhổ dễ dàng. Almanzo và Alice nhổ hết sức nhanh còn Royal cắt đứt các cọng lá phía trên và ném cà-rốt vào thùng xe. Ba kéo cà-rốt về nhà, xúc đổ vào thùng đựng cà-rốt trong hầm chứa. Những hạt giống nhỏ màu đỏ mà Almanzo và Alice trồng đã lớn lên thành hai trăm giạ cà-rốt. Má có thể nấu thả dàn tuỳ thích còn lũ bò, ngựa có thể ăn cà-rốt tươi suốt mùa đông. Lazy John tới giúp đào khoai tây, ba và john dùng cuốc đào khoai trong lúc Almanzo và Alice lượm bỏ vào giỏ rồi trút giỏ vào thùng xe. Royal để một thùng xe trống ở ngoài đồng trong lúc cậu chuyển một thùng xe đầy về nhà, xúc đổ qua cửa sổ hầm chứa vào các thùng đựng khoai. Almanzo hối hả lượm chất đầy thùng xe trống trong lúc royal đi khỏi. Tất cả chỉ ngưng lại một thoáng để ăn trưa. Họ làm việc cho tới lúc tối mịt khi không còn nhìn rõ nữa. Nếu không mang kịp khoai tây về hầm chứa trước khi đất giá lạnh thì công sức đổ ra trọn năm trên đồng khoai đều tiêu hết. Ba sẽ phải đi mua khoai tây. Ba nói: - Chưa hề thấy thứ thời tiết này suốt năm qua. Sáng sớm, trước khi mặt trời mọc, tất cả lại làm việc quần quật. Mặt trời không hoàn toàn chiếu sáng. Những đám mây xám dày đặc lửng lơ treo thấp ngay trên đỉnh đầu. Đất se lạnh nên khoai lạnh và một cơn gió lạnh đột ngột cuốn bụi thẳng vào mắt Almanzo. Cậu và alice đều buồn ngủ. Cả hai cố làm thật nhanh nhưng những ngón tay lạnh tới mức thành lóng ngóng làm rớt những củ khoai. Alice nói: - Mũi chị lạnh quá. Mình đã có cái che tai sao lại không có cái che mũi nhỉ? Almanzo nói với ba rằng cả hai rất lạnh và ba bảo: - Hãy nhảy nhót một chút, con trai. Vận động sẽ giúp các con ấm lại. Cả hai thử làm nhưng không thể nhảy nhót nhanh vì quá lạnh. Một lúc sau, ba tới gần bên và nói: - Đi gầy một đống lửa bằng những cọng khoai khô, Almanzo. Lửa sẽ sưởi ấm các con. Thế là Alice và Almanzo gom thành một đống lớn các cọng khoai khô. Ba cho Almanzo một que diêm và cậu nhóm lửa. Ngọn lửa nhỏ bén vào một chiếc lá khô rồi lan trên cọng cây, nổ lách tách và bùng ra bốc lên gầm hú trong không khí. Đống lửa cỏ vẻ khiến cho cánh đồng ấm hơn. Tất cả làm việc túi bụi một hồi lâu. Mỗi khi Almanzo cảm thấy quá lạnh, cậu chạy tới chất thêm cọng khoai khô vào đống lửa. Alice đưa mấy bàn tay đầy bụi đất ra hơ ấm và ánh lửa chiếu trên mặt cô như ánh nắng. Almanzo nói: - Em đói rồi. Alice nói: - Chị cũng đói. Chắc gần tới giờ ăn trưa rồi. Almanzo không thể trò chuyện dưới những bóng cây vì ở đó không có nắng. Cả hai lại làm, làm cho tới lúc nhớ là không có tiếng tù và báo hiệu giờ ăn trưa. Almanzo thấy trong người trống rỗng. Cậu nói với Alice: - Trước khi đi tới cuối luống này, mình sẽ nghe thấy tiếng tù và. Nhưng cả hai không nghe thấy. Almanzo cho rằng chắc có một điều gì xảy ra cho chiếc tù và. Cậu nói với ba: - Con chắc là đã đến giờ ăn trưa rồi. John cười giễu cậu và ba nói: - Mới đúng giữa buổi sáng mà, con trai. Almanzo tiếp tục đi lượm khoai. Rồi ba kêu: - Vùi một củ khoai vào đống tro nóng, Almanzo. Nó sẽ giúp con đỡ đói đó. Almanzo lấy hai củ khoai lớn vùi vào trong tro nóng. Một củ cho cậu và một củ cho Alice. Cậu phủ tro nóng lên mấy củ khoai và chất thêm bên trên một ít cọng khoai khô cho lửa bùng lên. Cậu biết là cậu nên đi làm việc nhưng cậu vẫn đứng nán lại bên đống lửa nóng đợi mấy củ khoai nướng chín. Cậu không cảm thấy yên tâm ngoài cảm giác được sưởi ấm và cậu tự nhủ: - Mình phải ở lại lo nướng khoai. Cậu thấy mình thật tệ vì đã bỏ Alice làm việc một mình nhưng cậu nghĩ: - Mình đang mắc nướng khoai cho chị ấy mà. Đột nhiên, cậu nghe thấy một tiếng bụp nhẹ kéo dài như hơi gió và một vật gì đập vào mặt cậu. Nó dính vào mặt cậu nóng bỏng. Cậu thét lên và thét tiếp. Cậu đau khủng khiếp và không nhìn thấy gì nữa. Ba nghe tiếng kêu và chạy tới. Hai bàn tay hộ pháp của ba chụp lấy mấy bàn tay của cậu mở ra và những bàn tay Ba kéo nghiêng đầu cậu về phía sau. Lazy John đang nói bằng tiếng pháp và Alice khóc la: - Ô, ba! Ô, ba ơi! Ba nói: - Mở mắt ra, con trai. Almanzo cố thử nhưng chỉ mở được một bên mắt. Ngón tay cái Ba nhấn mạnh trên mí mắt bên kia và cậu thấy đau. Ba nói: - Ổn rồi! Mắt không bị va trúng. Một mảnh khoai nướng đã nổ và mảnh ruột nóng văng vào Almanzo. May là mí mắt khép lại kịp lúc. Chỉ mí mắt và má cậu bị phỏng. Ba buộc chiếc khăn tay che kín một bên mắt cho cậu rồi cùng Lazy John trở lại làm việc. Almanzo không biết còn có thứ gì khác làm đau như vết phỏng. Nhưng cậu nói với Alice rằng không đau nhiều lắm. Cậu lấy một chiếc que lấy củ khoai kia ra. Cậu gạt lớp vỏ cháy đen ở ngoài, nói: - Em chắc đây là củ khoai của chị. Cậu không khóc la mà chỉ có những dòng nước mắt tuôn ra lan xuống mũi. Alice nói: - Không đâu, của em đó. Củ khoai của chị đã nổ rồi. Almanzo hỏi: - Chị làm cách nào biết nó của ai? - Nó là của em vì em đang bị đau, còn chị thì không đói, đúng ra là không đói lắm. Almanzo nói: - Chị cũng đói như em vậy. Cậu không chịu nổi bị mang tiếng ích kỉ. Cậu nói với Alice: - Chị ăn một nửa, em ăn một nửa. Củ khoai cháy đen ở phía ngoài nhưng bên trong trắng bóc, mịn bột và mùi khoai nướng ngọt dịu nhất toả ra. Cả hai để khoai nguội thêm một chút rồi bóc hết lớp ngoài cháy đen và gặm phần ruột bên trong. Đó là củ khoai ngon nhất mà cả hai được ăn. Cả hai cảm thấy khá hơn và trở lại làm việc. Almanzo bị phỏng giộp trên mặt và mí mắt sưng phồng lên nhắm chặt. Nhưng Má đắp thuốc lên vào buổi trưa rồi đắp thêm một lần nữa vào buổi tối và hôm sau cậu không còn đau nhiều nữa. Vào lúc sập tối ngày thứ ba, cậu và Alice theo đống khoai cuối cùng trở về nhà. Thời tiết lạnh hơn trong từng phút. Ba xúc khoai vào hầm chứa dưới ánh đèn trong khi Royal và Almanzo làm tất cả việc nhà. Khoai tây đã được cứu kịp lúc. Ngay đêm đó đất đầy sương giá. Mẹ nói: - Thất bại cũng tốt như một việc có ý nghĩa. Nhưng Ba lắc đầu. Ba nói: - Hết sức gấp rút lại phù hợp với tôi. Sắp tới sẽ có tuyết. Mình lại phải lao vào lo cho đám đậu và lúa một cách khó khăn. Ba đặt chiếc máng cỏ lên thùng xe và Royal cùng Almanzo phụ giúp Ba kéo đậu. Những cọc tụ đậu được kéo lên, bỏ vào thùng xe cùng với đậu và tất cả. Họ làm rất cẩn thận vì một rung động mạnh có thể làm văng hạt đậu ra khỏi những lớp vỏ khô và rớt mất. Khi tất cả đậu được chất đống trên nền kho nam. Họ lo đi kéo các tụ lúa. Vụ lúa tốt đến nỗi ngay cả những nhà kho mênh mông của ba cũng không che nổi hết. Nhiều tụ lúa phải bỏ ngoài sân kho và ba dựng một hàng rao xung quanh để không cho đám gia súc nhỏ đụng tới. Lúc này, tất cả mùa vụ đã thu hết về. Hầm chứa, gác mái và các dãy nhà kho đều chật ních. Vô số thực phẩm và thức ăn cho gia súc được chất đống và tồn trữ cho mùa đông. Mọi người đã có thể tạm nghỉ một thời gian và đây là lúc thoai mái để tham gia hội chợ địa phương. Chương 21: Hội Chợ Địa Phương Rất sớm trong buổi sáng lạnh giá, cả nhà đã chuẩn bị lên đường dự Hội Chợ. Mọi người đều mặc quần áo ngày chủ nhật, ngoài trừ má. Má mặc quần áo bình thường và mang theo tạp dề vì má sẽ giúp lo bữa ăn trưa ở nhà thờ. Dưới băng ghế sau của cỗ xe là những hộp kẹo, mứt, rau quả ngâm giấm mà Eliza Jane và Alice mang ra trưng bày tại Hội Chợ. Alice cũng mang theo cả món đồ thêu đan của cô. Riêng trái bí sữa của Almanzo được đưa đi từ ngày hôm trước. Nó quá lớn để mang theo trong xe. Almanzo đã chùi sạch nó một cách kĩ càng. Bố nhấc nó lên thùng xe, lăn lên một đống cỏ khô mềm mại và hai cha con chở tới địa điểm mở Hội Chợ, giao cho ông Paddock. Ông Paddock là người phụ trách những việc như vậy. Sáng hôm đó, đường xá tấp nập người lái xe tới dự Hội Chợ và tại Malone còn có nhiều đám đông hơn cả ngày Quốc Khánh. Khắp xung quanh mặt bằng Hội Chợ là những khoảng đất mênh mông dành cho xe tải, xe ngựa và người tụ tập đông như ruồi. Cờ tung bay phấp phới và dàn nhạc đang trình diễn. Má cùng Royal và các cô gái ra khỏi xe tại mặt bằng Hội Chợ còn Almanzo theo ba đưa xe vào nhà lán nhà thờ để giúp tháo ngựa. Các gian lán đầy ắp và dọc theo các lề đường, những người ăn mặc đẹp nhất đang đổ dồn về phía Hội Chợ trong lúc những cỗ xe ngựa hăm hở ngược xuôi tung bụi mù mịt khắp phố xá. Ba hỏi cậu: - Sao, con trai, mình sẽ làm gì trước. Almanzo đáp: - Con muốn đi xem ngựa. Thế là ba bảo đi xem ngựa trước tiên. Mặt trời đã lên cao, ngày nắng sáng và ấm áp một cách dễ chịu. Những dòng người tuôn vào Hội Chợ với tiếng chân bước, tiếng trò chuyện ồn ào và dàn nhạc đang trỗi lên hết sức vui nhộn. Các cỗ xe đến và đi, nhiều người ngưng lại nói với ba và các cậu bé có mặt khắp nơi Frank đi tới cùng đám bạn thành phố và Almanzo thấy có Miles Lewis và Aaron Webb. Nhưng cậu đứng nguyên bên ba. Hai cha con đi chầm chậm qua dàn sau sau vút của khán đài tới nhà thờ dài, thấp. Đây không phải là nhà thờ mà là nhà bếp của nhà thờ và phòng ăn trưa của Hội Chợ Địa Phương. Tiếng ồn của đĩa, chảo va chạm và giọng nói của các bà các cô đang trò chuyện vọng ra ầm ĩ. Má và các chị gái đang ở một chỗ nào trong đó. Phía bên kia là một dãy khán đài, lều, bạt trang hoàng bằng cờ xí, tranh ảnh và có những người đàn ông đang hô lớn: - Bước theo lối này, bước theo lối này, chỉ mười xu thôi, tròn một dime, một phần mười của một đô-la. - Cam đây, cam đây! Cam ngọt Florida đây! - Hạ giá cho tất cả! Hạ giá cho tất cả! - lời hô cuối cùng nè, các cậu bé, hãy đặt tiền của các cậu xuống! - Quay lại, đừng chen lấn! Một dãy khán đài là một rừng gậy bó sọc trắng đen. Nếu quăng được một chiếc vòng bọc qua cây gậy thì sẽ được tặng cây gậy đó. Lại có hàng đống cam, những khay bánh ướp gừng, những thùng nước chanh màu hồng. Một người đàn ông mặc áo đuôi tôm, đội chiếc nón cao lóng lánh giấu một hạt đậu dưới chiếc vỏ sò rồi trao tiền cho bất cứ ai chỉ đúng hạt đậu đang ở đâu. Almanzo nói: - Ba, con biết nó nằm ở đâu. Ba hỏi: - Chắc không? - Dạ, dưới cái đó. Almanzo nói và chỉ. Ba nói: - Được, con trai. Mình sẽ chờ coi. Đúng lúc đó có một người đẩy đám đông sang một bên và đặt một tờ năm đô la bên cạnh chiếc vỏ sò. Cả thảy có ba chiếc vỏ sò. Người đàn ông chỉ đúng chiếc vỏ sò mà Almanzo đã chỉ. Người đàn ông đội nón cao nhấc chiếc vỏ sò lên. Không có hạt đậu nào ở dưới đó. Ngay lập tức, tờ năm đô la nằm trong túi người mặc áo đuôi tôm và ông ta mở lên cho thấy hạt đậu và đặt nó nằm dưới một chiếc vỏ sò khác. Almanzo không hiểu nổi điều đó. Cậu đã nhìn thấy rõ hạt đậu nằm dưới chiếc vỏ sò kia và nó lại biến mất sau đó. Cậu hỏi ba bằng cách nào người đàn ông kia làm nổi chuyện đó. Ba nói: - Ba không biết, Almanzo. Nhưng ông ta biết. Đó là cờ bạc. Đừng bao giờ đặt cược tiền của con vào những trò cờ bạc của người khác. Hai cha con đi về các nhà lán hàng hoá. Mặt đất bị xéo đạp bởi những đám đông biến thành một lớp bụi dày. ở đây khá yên tĩnh. Almanzo và ba ngắm thật lâu những con ngựa giống Morgan hạt dẻ, nâu, hồng thật đẹp với những ống chân đầy đặn, thon chắc và những móng chân gọn, nhỏ. Những con ngựa Morgan hất hất chiếc đầu nhỏ của chúng, mắt chúng hiền và sáng. Almanzo ngắm chúng kỹ càng và thấy không con nào tốt bằng những con ngựa con mà ba đã bán vào mua thu vừa qua. Rồi cậu và ba ngắm những con ngựa thuần chủng với thân hình dài hơn, cổ mỏng hơn và những vùng hông gầy. Đám ngựa thuần chủng tỏ ra nóng nảy, tai chúng vểnh lên và mắt lộ màu trắng. Chúng có vẻ lanh lợi hơn lũ ngựa Morgan nhưng không chắc chắn lắm. Gần bên chúng là ba con ngựa đốm xám lớn. Hông chúng tròn săn cứng, cổ dày và những ống chân nặng nề. Những bàn chân lớn của chúng bị che kín dưới lớp lông dài rậm rạp. Đầu chúng to lớn với những con mắt bình thản và hiền lanh. Almanzo chưa bao giờ thấy một con ngựa nào giống như chúng. Ba nói đây là giống ngựa Belgian. Xứ sở của chúng là một quốc gia ở u Châu có tên là Belgium, tức nước Bỉ. Nước Bỉ ở sát cạnh nước Pháp và người Pháp đã đưa những con ngựa này xuống tàu chở qua Canada. Lúc này, giống ngựa Belgian từ Canada được đưa tới Mỹ. Ba ngắm chúng bằng ánh mắt thán phục. Ba nói: - Hãy coi những bắp thịt kìa: chúng có thể kéo nổi một nhà kho nếu buộc được nhà kho vào chúng. Almanzo hỏi: - Con ngựa kéo nổi một nhà kho thì có lợi gì? Mình đâu muốn kéo cả một nhà kho. Một con ngựa Morgan cũng có bắp thịt đủ sức kéo một thùng xe và nó cũng đủ nhanh để kéo một chiếc xe độc mã. Ba nói: - Con có lí lắm, con trai. Ba nhìn một cách tiếc rẻ những con ngựa lớn và lắc đầu: - Thật hoang phí thức ăn để nuôi tất cả những bắp thịt đó và mình lại không dùng đến. Con có lí lắm. Almanzo thấy mình quan trọng và lớn hẳn lên khi nói chuyện với ba về ngựa. Bên kia những con ngựa Belgian là một đám đàn ông và các cậu bé đứng bọc kín một ngăn chuồng khiến ba không thể thấy gì ở bên trong. Almanzo rời khỏi ba luồn lách, chen lấn giữa những hàng chân cho tới khi đến được những gióng ngăn chuồng. Bên trong có hai con vật màu đen. Cậu chưa bao giờ được nhìn thấy một con vật giống như chúng. Chúng có một vẻ gì giống như ngựa nhưng chúng lại không phải ngựa. Đuôi chúng trơ trụi chỉ có một cụm lông ở phía cuối. Bờm chúng ngắn, tua tủa dựng đứng và cứng ngắc. Tai chúng lại giống như tai thỏ. Những chiếc tai dài ngoẵng này dựng thẳng trên khuôn mặt dài hốc hác và trong lúc Almanzo ngắm chúng, một con chĩa tai về phía cậu và vươn dài cổ ra. Áp sát cặp mắt thô lố của Almanzo là chiếc mũi nhăn nheo và những đường mép uốn ngược lên để hở những chiếc răng dài màu vàng. Almanzo không thể cục cựa nổi, con vật từ từ há lớn chiếc miệng dài lởm chởm răng nanh và từ trong họng nó phát ra một tiếng rống the thé kéo dài. - Eeeeeeeeee-ap: Heeeeeeee-haap: Almanzo kêu lên và quay người đâm bổ vào đám đông cào xé, xô lấn chạy về chỗ ba. Điều sau đó cậu nhận biết là đã tới được bên cạnh ba và mọi người đang cười giễu cậu. Chỉ riêng ba không cười. Ba nói: - Nó chỉ là con vật lai ngựa thôi, con trai. Đó là con la đầu tiên mà con nhìn thấy. Con cũng không phải là người duy nhất sợ nó đâu. Vừa nói ba vừa đưa mắt nhìn quanh khắp đám đông. Almanzo thấy dễ chịu hơn khi nhìn lũ ngựa con. Có những con hai năm tuổi, những con hơn một năm tuổi và một số còn nhỏ đứng chung với mẹ chúng. Almanzo ngắm những con ngựa con thật kĩ và cuối cùng lên tiếng: - Ba, con thích… Ba hỏi: - Cái gì, con trai? - Ba à, ở đây không có con ngựa nào bằng nổi với Starlight. Sang năm ba có thể mang Starlight tới Hội Chợ được không? Ba nói: - Được, được. Tới sang năm mình sẽ tính về điều đó. Rồi họ đi xem trâu bò. Có những con màu nâu vàng gọi là giống Guernsey và Jersey theo tên các đảo Guernsey và Jersey gần bờ biển nước Pháp. Họ ngắm tiếp những con Devons màu đỏ tươi và những con Durhams màu xám đến từ nước Anh. Rồi họ ngắm những con bê nhỏ hoặc khoảng một năm tuổi, trong số đó có vài con đẹp hơn Star và Bright. Họ ngắm tới những cặp bò đực lực lưỡng mạnh mẽ. Suốt thời gian đó, Almanzo cứ nghĩ nếu ba mang Starlight tới Hội Chợ thì chắc chắn Starlight sẽ được lãnh giải. Sau đó, họ ngắm những con heo Chester White to lớn và những con heo Bershire màu đen nhỏ hơn, bóng mượt hơn. Con heo Lucky của Almanzo thuộc giống Chester White. Nhưng cậu quyết định là tới một ngày nào đó cậu phải có một con heo thuộc giống Bershire. Họ cũng ngắm những con cừu Merino như cừu của ba với nếp da nhăn và bộ lông ngắn, đẹp rồi ngắm những con cừu Cotswold lớn hơn với bộ lông dài nhưng thô hơn. Ba rất hài lòng với lũ cừu Merino của mình. Thà rằng có ít len hơn nhưng là thứ len có phẩm chất cao hơn do má dệt. Đã gần tới buổi trưa và Almanzo chưa được nhìn thấy trái bí của cậu. Nhưng cậu đã đói bụng nên họ đi ăn trưa. Phòng ăn nhà thờ đông nghẹt. Mọi chỗ ngồi dọc chiếc bàn dài đều có người chiếm và Eliza Jane với Alice đang tất tả cùng nhiều cô gái khác đang mang những đĩa thức ăn đầy ứ từ dưới bếp lên. Mùi vị thức ăn khiến Almanzo tứa nước miếng trong miệng. Ba vào bếp và Almanzo vào theo. ở đây chen chúc các bà đang vội vã cắt khoanh thịt đùi hầm, thịt bò nướng và xẻ thịt gà quay, xếp rau lên đĩa. Má mở lò hấp trong lò bếp khổng lồ và lấy ra món gà tây và vịt quay. Ba thùng nước đứng sát từng và những ống sắt nối từ đó tới vạc nước đang sôi trên lò bếp. Hơi nước phụt ra từ kẽ hở trên các thùng. Ba mở nắp một chiếc thùng và hơi nước bốc lên mù mịt. Almanzo nhìn vào trong thùng và thấy đầy khoai tây hấp trong lớp vỏ màu nâu nhạt sạch bong. Lớp vỏ tróc ra khi gặp không khí và cuốn lên để lộ phía trong mịn bột. Khắp xung quanh Almanzo là bánh ngọt, bánh nhồi thịt đủ loại và cậu đói đến nỗi cậu cho rằng có thể ăn hết tất cả. Nhưng cậu không dám đụng tới dù chỉ một mảnh vụn. Cuối cùng cậu và ba tìm được chỗ bên chiếc bàn dài trong phòng ăn. Mọi người đều vui vẻ trò chuyện, cười đùa nhưng Almanzo chỉ ăn. Cậu ăn thịt đùa, ăn thịt gà giò, thịt gà tây cùng gia vị và nước trái cây rồi cậu ăn khoai tây với nước thịt, đậu nấu hạnh nhân, đậu hầm, đậu hấp, hành và bánh mì, bánh bột mạch đen, các món trái cây giầm và các loại mứt. Rồi cậu thở ra một hơi dài và ăn bánh nhồi thịt. Khi bắt đầu ăn bánh nhồi thịt, cậu muốn ăn đủ các thứ. Cậu ăn một miếng bánh mì nhồi, ăn một miếng bánh nhồi trứng sữa và ăn gần hết một miếng bánh nhồi giấm. Cậu cố ăn một miếng mỏng nhưng không ăn nổi. Cậu không thể ăn được nữa. Vẫn còn bánh nhồi dâu, bánh nhồi kem, bánh nhồi nho nhưng cậu không còn ăn thêm được. Cậu mừng được ngồi xuống với ba trong khán đài. Họ ngắm những con ngựa xoải vó phóng vụt qua để làm nóng cho cuộc thi. Những cụm bụi nhỏ bốc lên trong ánh nắng phía sau những con ngựa phóng nhanh. Royal cùng với đám con trai lớn xuống sát đường đua cùng với những người đàn ông đang đánh cá vào cuộc đua. Ba nói nếu muốn thì đánh cá vào các cuộc đua là ổn. Ba nói: - Hãy cho tiền của con lưu chuyển một chuyến. Phần ba thì đặt tiền vào một cái gì cụ thể sẽ hay hơn. Khán đài lớn đông thêm mãi cho tới khi hai phần ba chỗ ngồi kín hết. Những cỗ xe đua nhẹ nhõm dàn thành một hàng và những con ngựa nghểnh đầu cao, đạp vó xuống đất nôn nóng muốn khởi chạy. Almanzo bị kích động tới mức khó ngồi yên nổi. Cậu chọn một con ngựa mà cậu nghĩ là sẽ thắng, con ngựa thuần chủng màu hạt dẻ nhạt, sắc sảo. Mọi người hô lớn. Ngay lập tức, những con ngựa bay vào đường đua và đám đông rập la lên vang dội. Đột nhiên, tất cả bỗng im bặt, kinh ngạc. Một người da đỏ đang chạy trên đường đua bám sau những cỗ xe đua. Anh ta chạy nhanh ngang với lũ ngựa. Mọi người bắt đầu hô hoán: - Anh ta không theo nổi đâu. - Hai đô-la, anh ta sẽ bắt kịp! - Ngựa hồng! Ngựa hồng! Tiến lên, tiến lên! - Ba đô-la cho anh chàng da đỏ! - Coi con ngựa hạt dẻ kìa! - Coi anh chàng da đỏ! Bụi cuốn tung hai bên đường đua. Những con ngựa phi như bay, choài người trên mặt đất. Trọn đám đông đứng hết lên trên ghế la hét. Almanzo cũng la hét và la hét. Dưới đường đua, lũ ngựa phóng rầm rập. - Tiến lên! Tiến lên! Ngựa hồng! Ngựa hồng! Lũ ngựa phóng nhanh khó nhìn theo kịp. Phía sau người da đỏ đang chạy một cách thoải mái. Tới trước khán đài lớn, anh ta tung mình nhảy vút lên cao, đảo ngược người và đứng xuống đưa cánh tay phải lên chào mọi người. Khắp khán đài lớn rung chuyển trong tiếng la hét và tiếng giậm chân. Ngay cả Ba cũng la lớn. - Hoan hô! Hoan hô! Người da đỏ đã chạy hết một dặm chỉ trong hai phút bốn mươi giây, nhanh ngang với con ngựa đang dẫn đầu. Anh ta không hề thở hổn hển. Anh ta lại chào những người đang hoan hô và bước ra khỏi đường đua. Con ngựa hồng đã thắng cuộc. Vẫn còn nhiều cuộc đua, nhưng đã sắp đến ba giờ, giờ trở về nhà. Trên đường về hôm ấy thật hào hứng vì có quá nhiều chuyện để nói. Royal đã ném vòng lọt qua một cây sọc đen trắng và được một cây. Alice đã tiêu một đồng năm xu mua kẹo bạc hà. Cô bẻ thỏi kẹo làm đôi và mỗi đứa có một nửa để mút từ từ. Có vẻ lạ là thời gian ở nhà chỉ đủ dài cho các công việc và để ngủ. Sáng sớm hôm sau, cả nhà lại lên xe đi. Hội Chợ còn kéo dài thêm hai ngày nữa. Sáng nay Almanzo và ba đi nhanh qua lán hàng hoá, tới nơi trưng bày rau quả và lúa gạo. Almanzo nhìn thấy ngay các trái bí. Chúng rạng sáng giữa các thứ mờ mờ. Và, trái bí của Almanzo lớn nhất tại đó. Ba nói: - Đừng quá tin chắc là sẽ đoạt giải, con trai. Ngoài kích thước còn phải tính đến chất lượng nữa. Almanzo cố không lưu ý quá nhiều đến giải thưởng. Cậu theo ba rời khỏi đống bí, dù cậu không thể ngăn mình chốc chốc lại nhìn trái bí. Cậu thấy đủ thứ khoai tây, củ cải và hành tuyệt vời. Cậu xăm xoi những hạt lúa no tròn màu nâu, những hạt lúa mạch khía đều, các loại đậu xanh, đậu đốm, đậu Canada. Cậu ngắm những loại bắp màu trắng. Ba chỉ cho thấy cách những hạt lúa mọc đầy trên các bông lúa tốt nhất và cách các hạt bắp phủ kín đầu các lõi bắp. Mọi người từ từ thả bộ qua lại, xem ngắm. Luôn luôn có một số người ngắm những trái bí và Almanzo mong rằng họ biết trái bí to nhất là của cậu. Sau bữa ăn trưa, cậu vội vã quay lại coi chấm giải. Lúc này đám đông tụ lại lớn hơn và thỉnh thoảng cậu phải rời khỏi ba len vào giữa nhiều người để thấy rõ các người chấm giải đang làm gì. Ba và người chấm giải đều mang huy hiệu trên áo, hết sức trang nghiêm, nói chuyện với nhau nhỏ đến nỗi không ai nghe thấy họ nói gì. Họ cân độ nặng các loại hạt trên bàn tay và quan sát thật gần. Họ nhấm một vài hạt lúa mì, lúa mạch để coi hương vị ra sao. Họ lột vỏ các thứ đậu, tróc vài hạt lúa từ mỗi bông lúa để biết chắc kích thước của nhân hạt. Với những con dao nhíp, họ bổ hành làm hai và cắt những củ khoai tây. Họ cắt những miếng khoai thật mỏng và soi trong ánh sáng. Phần giá trị nhất của khoai tây nằm sát dưới lớp vỏ và độ dày của phần này sẽ được xác định khi đưa một lớp mỏng lên cho ánh sáng rọi qua. Đám đông chen chúc quanh bàn của những người chấm giải, im lặng theo dõi, không có một tiếng động nào, khi cuối cùng, người chấm giải xao, ốm có râu cằm lấy từ trong túi ra một dải băng màu đỏ và một dải băng màu xanh. Băng màu đỏ là giải nhì còn băng màu xanh là giải nhất. Người chấm giải đặt các dải băng lên số rau trái được chấm xong và đám đông thở ra một hơi dài. Ngay lập tức sau đó, mọi người ồn ào trò chuyện. Almanzo thấy những người không đoạt giải và đoạt giải nhì đều tới chúc mừng người đoạt giải nhất. Nếu trái bí của cậu không đoạt giải, cậu cũng phải làm như thế. Cậu không muốn làm nhưng cậu nghĩ là phải làm. Sau hết, những người chấm giải xét đến các trái bí. Almanzo cố nhìn lơ tựa hồ không lưu ý tới nhưng khắp người cậu nóng ran. Những người chấm giải phải chờ cho tới khi ông Paddock mang tới cho họ một con dao phay lớn, bén ngọt. Người chấm giải to béo nhất cầm dao thọc mạnh vào một trái bí. Ông ta nhấn chuôi dao xuống một cách khó khăn, cắt ra một miếng dày. Ông ta giơ lên và tất cả những người chấm giải đều ngắm phần thịt bí dày dặn màu vàng. Họ ngắm độ dày của cùi bí và ngắm khoảng trống chứa hạt trong ruột bí. Họ cắt ra những khoanh nhỏ nếm thử. Rồi người chấm giải to béo cắt một trái bí khác. Ông ta bắt đầu từ trái nhỏ nhất. Đám đông áp sát vào Almanzo khiến cậu phải há miệng ra để thở. Cuối cùng, người chấm giải cắt trái bí lớn của Almanzo. Almanzo cảm thấy chóng mặt. Trong trái bí của cậu có một khoảng trống lớn chứa hạt, nhưng nó là một trái bí lớn nên có nhiều hạt hơn. Almanzo không biết điều này có tạo ra một khác biệt nào không. Những người chấm giải nếm thử và cậu không thể nói hương vị trái bí ra sao qua nét mặt của họ. Lúc đó, họ nói với nhau một hồi lâu. Cậu không thể nghe rõ họ nói gì. Người chấm giải cao lớn lắc đầu và kéo mạnh râu cằm. Ông ta cắt một khoanh mỏng từ trái bí vàng nhất và một khoanh mỏng từ trái bí của Almanzo nếm thử. Người chấm giải to béo nói một điều gì và mấy người đều mỉm cười. Ông Paddock nghiêng người khỏi bàn, nói: - Chào ông Wilder. Tôi thấy ông và cậu bé đang ở trong tầm ngắm rồi. Vui vẻ chứ, Almanzo? Almanzo khó nói thành tiếng. Cậu cố xếp đặt trả lời: - Dạ, thưa ông. Người chấm giải cao ốm đã lấy trong túi ra chiếc băng màu đỏ và chiếc băng màu xanh. Người chấm giải to béo nắm lấy ống tay áo của ông ta và cả ba người lại chụm đầu vào nhau. Người chấm giải cao ốm xoay người lại từ từ. Từ từ, ông ta lấy ra một chiếc ghim từ vẹ áo cắm qua dải băng màu xanh. Ông ra đứng xa trái bí lớn của Almanzo. Khoảng cách đủ khiến ông ra không chạm nổi tới trái bí. Ông ta chìa dải băng trên một trái bí khác. Cúi người xuống, ông ta vươn dài cánh tay một cách chậm chạp và cắm chiếc ghim lên trái bí của Almanzo. Bàn tay ba vỗ mạnh trên vai Almanzo. Ngay lập tức, Almanzo thở ra một hơi dài và khắp người ngứa ran. Ông Paddock nắm lấy bàn tay cậu lắc mạnh. Tất cả những người chấm giải đều đang mỉm cười. Chưa từng có nhiều người như vậy cùng nói: - Tốt, tốt, ông Wilder, thế là cậu bé của ông đoạt giải rồi. Ông Webb lên tiếng: - Đúng là một trái bí tuyệt vời, Almanzo. Nhưng cháu không biết là ta đã từng nhìn thấy một trái bí tuyệt hơn nữa. Ông Paddock nói: - Tôi chưa từng thấy một trái bí nào có kích thước lớn hơn trái bí này. Cháu làm cách nào mà trồng nổi trái bí lớn như thế, Almanzo? Đột nhiên, mọi thứ bỗng như lớn lên và im lìm. Almanzo cảm thấy lạnh, nhỏ đi và hoảng hốt. Từ trước, cậu không hề nghĩ là có thể không được phát giải với trái bí nuôi trồng bằng sữa. Có thể giải thưởng sẽ chỉ giành cho những trái bí trồng theo cách thông thường. Có thể, người ta sẽ thu hồi giải đã dành cho cậu khi cậu nói ra. Họ có thể nghĩ là cậu cố tình lừa đảo. Cậu nhìn ba nhưng vẻ mặt ba không gợi ý cho cậu nên làm gì. Cậu nói: - Cháu… cháu chỉ cuốc xới cho nó và… Cậu bỗng thấy là mình đang nói và ba đang nghe cậu nói. Cậu nhìn ông Paddock và nói: - … Cháu trồng nó với sữa. Đó là một trái bí sữa. Có… có ổn không, ông? Ông Paddock trả lời: - Được, ổn lắm chứ. Ba cười: - Mọi trò buôn bán đều có mưu mánh, ngoại trừ chúng ta Paddock. Mà có thể trong trồng trọt và đóng xe cungc vẫn có vài mưu mánh chứ, hả? Lúc này Almanzo thấy là mình quả đã điên rồ cùng cực. Ba biết tất cả về bí và ba không lừa đảo. Sau đó, cậu cùng ba bước đi giữa đám đông. Hai cha con lại đi xem ngựa và thấy con ngựa đoạt giải không so nổi với Starlight. Almanzo hy vọng ba sẽ mang Starlight tới Hội Chợ vào năm sau. Rồi, họ đi xem chạy đua, thi nhảy, thi vật. Đám trẻ Malone tham dự mọi trò chơi nhưng thắng giải hầu hết là đám trẻ ở các nông trại. Almanzo nhớ mãi trái bí đoạt giải của cậu và cảm thấy thú vị. Trở về nhà đêm đó, cả nhà đều vui. Mẫu thêu đan của Alice đoạt giải nhất, còn Eliza Jane có dải băng đỏ và Alice lại đoạt dải băng xanh về kẹo mứt. Ba nói gia đình Wilder đáng tự hào trong ngày hôm đó. Hội Chợ còn thêm một ngày nữa nhưng không có nhiều thú vị. Almanzo đã mệt vì vui sướng. Ba ngày là quá nhiều. Hội Chợ không có vẻ chỉ là thay quần áo và rời trại. Cậu cảm thấy vẫn tiếp tục khi cậu lo các việc nhà. Cậu rất mừng khi Hội Chợ chấm dứt và mọi thứ có thể trở lại như lệ thường Chương 22: Mùa Thu Trong Năm - Gió bấc thổi rồi! Lúc ăn điểm tâm, ba nói và tiếp: - Mây đang dồn tới. Tốt hơn là nên đi lấy hạt dẻ gai trước khi có tuyết. Cây dẻ gai mọc trong những vùng cây lớn cách đường chừng hai dặm. Ông Webb là một người láng giềng tốt bụng, đã đồng ý cho ba lái xe qua đất của ông ta. Almanzo và Royal đội nón, mặc áo ấm còn Alice mang áo choàng, chùm khăn rồi tất cả cùng ba lên xe đi gom hạt dẻ gai. Khi tới một bờ đá, Almanzo phụ nhấc đá cho xe qua. Lúc này bãi chăn vắng hoe, mọi thứ hàng hoá súc vật đều nằm trong các dãy nhà kho ấm áp nên có thể bỏ ngỏ bờ rào đá tới chuyến chót trở về. Trong các lùm bụi dẻ gai, tất cả lá vàng đã rụng. Lá vàng chất đầy mặt đất dưới những thân cây gầy guộc và những nhánh mảnh mai trơ trụi. Hạt dẻ rụng sau khi lá rụng và nằm bên trên. Ba và Royal dùng chĩa cẩn thận đưa những đám lá bện lại lên thùng xe cùng với hạt và mọi thứ dính trong đó. Alice và Almanzo chạy lên chạy xuống thùng xe đạp lá xuống để lấy thêm chỗ. Gió se lạnh và nắng mờ nhạt. Những con sóc chạy nhảy khắp nơi tha những hạt dẻ gai về tích trữ cho mùa đông. Trên không trung, từng bầy ngỗng trời lại lên tiếng gọi nhau và hối hả bay về phía Nam. Đúng là một ngày tuyệt với để chơi trò người da đỏ hoang dã giữa những cội cây. Khi Almanzo đã mệt với trò chơi người da đỏ, cậu cùng Alice ngồi trên một gốc cây, tách hạt dẻ gai giữa hai hàm răng. Hạt dẻ gai nhỏ, nâu bóng, có ba góc và một lớp vỏ cứng bao kín. Hạt dẻ gai hấp dẫn tới mức không ai ăn mà thấy chán. Ít nhất, Almanzo cũng không bao giờ thấy mệt vì có hạt dẻ ăn trước khi xe quay lại. Rồi cậu và Alice lại đạp những lớp lá xuống trong khi mấy chiếc chĩa tất bật dọng trống đất nhiều hơn và nhiều hơn. Phải mất trọn ngày mới gom hết hạt dẻ. Trong ánh sáng hoàng hôn mờ nhạt, Almanzo phụ vần lấp lại những tảng đá bờ giậu sau chuyến xe cuối cùng. Hết thảy hạt dẻ gai đọng trên lá chất thành một đống lớn ở nền Kho Nam bên cạnh cối xay cánh quạt. Đêm đó ba nói mọi người đã thấy ngày cuối cùng của mùa thu muộn. Ba nói: - Đêm nay sẽ có tuyết. Khi Almanzo thức dậy vào sáng hôm sau, ánh sáng đã có ánh tuyết và từ cửa sổ cậu nhìn thấy mặt đất và các mái nhà kho trắng màu tuyết. Ba tỏ ra hài lòng. Tuyết mềm, dày chừng sáu inch nhưng đất chưa bị đóng băng. Ba đặt tên cho tuyết là “phân bón của người nghèo” và ba sắp xếp cho Royal cào tuyết trên khắp cánh đồng. Tuyết sẽ đem một thứ gì đó từ không khí vào đất và khiến cho mùa màng khá hơn. Trong lúc đó, Almanzo phụ giúp ba. Hai cha con sửa chắc lại các cửa sổ nhà kho bằng gỗ, đóng đinh qua từng tấm ván đã bị nắng mưa mùa hạ làm bong ra. Các bước từng nhà kho được bồi thêm rơm từ các ngăn chuồng và tường nhà được bồi thêm bằng thứ rơm sáng sạch. Đá được đặt lên rơm để giữ chắc chống lại gió. Các cửa ra vào và cửa sổ chống bão, cửa ngôi nhà cũng được ghép khít kịp thời. Tuần lễ đó chấm dứt với đợt đông giá đầu tiên. Thời tiết lạnh cắt da đã tới và đây là thời gian mổ thịt. Trong sáng sớm giá lạnh, trước bữa điểm tâm, Almanzo phụ với Royal đặt chiếc vạc sắt lớn gần nhà kho. Vạc được đặt trên những tảng đá, được đổ đầy nước và đốt lửa ở dưới. Vạc chứa tới ba thùng nước. Trước khi các cậu làm xong, Lazy John và French Joe đã tới và chỉ còn đủ thời gian chộp vội một món điểm tâm. Hôm đó phải mổ thịt năm con heo và một con bê vừa một tuổi. Ngay khi một con vật bị giết xong, ba cùng Joe và John nhúng nó vào trong vạc nước đang sôi cho nóng rồi đem ra đặt trên những tấm ván. Với những con dao phay, họ cạo sạch hết lông. Rồi họ treo ngược chân sau nó lên một cành cây để mổ và lấy hết bộ đồ lòng cho vào một chiếc thùng. Almanzo và Royal khiêng thùng vào bếp cho má và mấy cô gái rửa sạch tim, gan, lọc lấy các miếng mỡ để chiên. Ba và Joe lột da con bê một cách cẩn thận. Bộ da được lột ra thành một mảng lớn. Hàng năm, ba giết một con bê lấy da để làm giày. Suốt buổi chiều hôm đó, mọi người lo chặt thịt còn Almanzo và Royal tất tả khuân đi. Tất cả mỡ heo đều được ướp muối trong những chiếc thùng dưới hầm chứa. Các phần thịt đùi, thịt vai được chuyển cẩn thận vào các thùng thụt heo giầm trong đó. Má đã trộn đều muối, đường trường khế, hoả tiêu và nấu sôi. Heo giầm toả ra một mùi rất kì lạ khiến ngửi thấy là nhảy mũi. Sườn, tim, gan, lưỡi và tất cả những thứ làm thịt nhồi đều đưa lên lán gỗ gác mái. ở đó, ba và Joe cùng treo những góc thịt bò xả tư. Thịt sẽ đông lạnh trong gác mái và tiếp tục đông lạnh trong mùa đông. Việc mổ thịt chấm dứt vào đêm hôm đó. French Joe và Lazy John vừa đi vừa huýt sáo trở về nhà với những phần thịt tươi trả công cho ngày làm việc của họ còn má nướng thịt sườn cho bữa ăn tối. Almanzo thích gặm thịt từ những khúc xương dài uốn cong và nhiều mỡ. Cậu cũng thích món nước thịt heo màu nâu trên những củ khoai tây phủ kem. Trọn tuần lễ sau đó, má và các cô gái làm việc rất cực nên má giữ Almanzo ở lại phụ giúp trong bếp. Họ cất mỡ heo chiên sôi trong những chảo lớn trên lò bếp. Khi chiên xong, má lấy những tấm vải trắng căng lọc lấy nước mỡ nóng, sạch vào các vại lớn bằng đá. Những vụn tóp mỡ giòn màu nâu vướng lại trên vải sau khi má ép xong và Almanzo lén lấy một ít để ăn bất kỳ lúc nào cậu thích. Má bảo tóp mỡ quá nhiều chất béo đối với cậu. Má cất đi để thêm gia vị cho những chiếc bánh bắp. Sau đó má làm món giò thủ. Má hầm sáu chiếc đầu cho tới khi thịt rã hết khỏi xương, bằm nhỏ, trộn gia vị rồi trộn thêm nước luộc thịt và trút vào trong những chiếc xoong sáu lít. Khi trời lạnh, nó giống như thịt đông vì chỉ là một chất sền sệt không có xương. Sau đó, má làm món thịt hầm. Má luộc chính những miếng thịt bê và thịt heo ngon nhất, băm thật nhuyễn. Má trộn với nho, gia vị, đường, giấm, táo bằm, rượu mạnh rồi dồn đầy hai vại lớn. Mùi vị món ăn thật ngon và má cho Almanzo ăn những phần vụn dính trên chén trộn. Suốt trong thời gian đó, cậu lo nghiền món thịt nhồi. Cậu tống hàng ngàn miếng thịt vào cối nghiền và xoay tròn chiếc cán quay giờ này qua giờ khác. Cậu rất mừng khi công việc chấm dứt. Má bỏ gia vị vào thịt rồi nhồi vào những khuôn tròn lớn và Almanzo phải mang tất cả lên lán gỗ trên gác mái, chất thành đống trên những tấm vải sạch. Thịt nhồi được đặt tại đó cho đông lạnh suốt mùa đông và mỗi buổi sáng má lấy một thỏi để làm những chiếc bánh nhỏ và đem chiên cho bữa điểm tâm. Sau thời gian mổ thịt là lúc làm nến. Má lau sạch các chảo đựng mỡ lớn và đổ đầy vào đó những miếng mỡ bò. Mỡ bò không dùng làm mỡ mà nấu chảy để làm nến. Trong lúc tan chảy, Almanzo giúp bện dây cho các khuôn nến. Một khuôn nến là hai hàng ống thiếc buộc lại với nhau và dựng đứng thẳng trên sáu chân. Có mười hai ống trong một khuôn. Các ống để hở ở phía trên nhưng vuốt thon nhỏ thành một điểm dưới đáy và ở mỗi điểm có một lỗ nhỏ. Má cắt một sợi tim nến theo chiều dài của mỗi ống. Má gấp đôi dây tim qua một cây gậy nhỏ xoắn thành một sợi dây kết. Má lướt ngón tay cái và ngón tay trỏ xoay dây kết thành một mũi nhọn. Khi đã có đủ sáu sợi dây kết trên cây gậy, má thả các sợi dây vào sáu chiếc ống và đặt cây gậy nằm ngang trên đầu các ống. Điểm nhọn của những sợi dây xuyên qua những lỗ nhỏ ở dưới đáy các ống và Almanzo kéo căng từng sợi dây rồi giữ cho căng bằng cách thọc mũi nhọn của ống vào một củ khoai tươi. Khi mỗi ống đều có một sợi dây tim kéo căng thẳng ở chính giữa, má cẩn thận đổ mỡ nóng mới nấu chảy vào. Má đổ đầy từng ống. Lúc đó, Almanzo đặt khuôn ra ngoài trời cho nguội. Lúc mỡ khô cứng lại, cậu mang khuôn vào, gỡ những củ khoai tây ra. Má nhúng trọn khuôn thật mạnh vào trong nước sôi và nhấc những cây gậy nhỏ lên. Trên mỗi cây gậy có sáu cây nến. Rồi Almanzo cắt những cây nến rời khỏi cây gậy. Cậu cắt đầu dây tim ở đầu bằng của cây nến và chừa lại đủ phần dây tim để mồi lửa ở đầu nhọn của cây nến. Và cậu xếp những cây nến thẳng, nhẵn bóng thành những đống sáp trắng. Trọn một ngày, Almanzo giúp má làm nến. Đêm đó, họ đã có đủ nến kéo dài cho tới thời gian mổ thịt năm sau. Chương 23: Người Thợ Sửa Giày Má lo lắng và cằn nhằn vì người thợ sửa giày không đến. Đôi giày da của Almanzo đã rách còn đôi ủng của Royal thì chật từ năm ngoái. Cậu phải bỏ vào một chỗ và đi chân đất. Chân cậu nhức buốt vì lạnh nhưng không thể làm được gì cho tới khi người thợ giày đến. Royal lại cùng Eliza và Alice sắp sửa lên đường tới Học Viện mà tất cả đều không có giày. Vậy mà người thợ sửa giày còn chưa đến. Chiếc kéo của má đang cắt qua cuộn vải xám màu lông cừu mà má đã dệt. Má cắt, ghép, lược chỉ và khâu lại để may cho Royal một chiếc sơ-mi mới thật đẹp và một chiếc áo choàng xứng hợp. Má còn may cho cậu một chiếc mũ có dải cài nút giống như những chiếc mũ mua ở tiệm. Má may cho Eliza Jane một chiếc áo mới màu rượu nho và may cho Alice một chiếc áo mới màu xanh chàm. Các cô gái gỡ tung những bộ quần áo và những chiếc mũ cũ, chải sạch, ủi thẳng và lật mặt trong ra khâu lại giống như đồ mới. Nhiều buổi tối, những cây kim đan của má thoăn thoắt lên xuống va nhau lách cách để đan những đôi vớ mới cho các cô cậu. Má đan nhanh đến nỗi những cây kim nóng lên vì chà xát. Nhưng tất cả không thể có giày mới nếu như người thợ giày không đến. Người thợ giày không đến, các cô gái có thể dùng váy che kín những đôi giày cũ nhưng Royal phải đến Học Viện với bộ đồ mới cùng đôi ủng đã bỏ xó năm ngoái và để lòi những chiếc vớ trắng ra ngoài. Không thể có cách nào lo liệu được. Buổi sáng cuối cùng đã đến. Ba và Almanzo làm các việc nhà. Mỗi ô cửa sổ trong nhà đều có ánh nến chiếu sáng và Almanzo không thấy Royal trong nhà kho. Royal và các cô gái đều mặc quần áo chỉnh tề ngồi ăn điểm tâm. Không ai ăn nhiều được. Ba đi đóng ngựa vào xe còn Almanzo kéo những túi hành lí xuống cầu thang. Cậu mong là Alice sẽ không rời nhà. Bỗng có tiếng chuông xe ngựa leng keng tiến tới trước cửa và má tươi cười, kéo tạp dề lau mắt. Tất cả đều chạy ra đón chiếc xe ngựa chở khách. Lũ ngựa gõ móng lắc rung những chiếc chuông. Alice kéo vạt áo dài phủ trên váy phồng và ba thả cho lũ ngựa qua. Chiếc xe ngựa chở khách lăn tới, quẹo vào con đường lớn. Khuôn mặt phủ dưới tấm mạng che màu đen của Alice nhìn về phía sau và cô kêu lớn: - Tạm biệt! Tạm biệt! Almanzo không thích ngày hôm đó. Mọi thứ đều có vẻ lớn hơn, im lìm và vắng vẻ. Cậu một mình ăn trưa cùng với ba má. Thời điểm làm việc nhà sớm hơn vì Royal đi vắng. Almanzo ghét bước vào nhà mà không nhìn thấy Alice. Cậu cũng nhớ cả Eliza Jane. Sau khi lên giường, cậu nằm không ngủ nổi và tự hỏi các anh chị đang làm gì ở một nơi cách xa năm dặm. Sáng hôm sau, người thợ sửa giày đến. Má ra cửa đón và nói với ông ta: - Tốt, tôi chắc phải nói ông tới lúc này là đúng lúc! Đã chậm ba tuần rồi và các con tôi đều đi chân đất. Nhưng người thợ giày tự nhiên đến nỗi má không thể giận lâu. Ông giải thích không phải lỗi của ông ta vì ông ta mắc kẹt ba tuần ở nhà để lo giày cho một đám cưới. Người thợ giày là một người mập mạp, vui vẻ. Má và bụng ông ta đều rung lên khi cười. Ông ta dựng chiếc ghế bên cửa sổ phòng ăn và mở hộp đồ nghề. Ông ta đã khiến má cười vui với những câu đùa giỡn của ông ta. Ba mang những tấm da sống từ năm ngoái tới và bàn chuyện với người thợ giày trọn buổi sáng. Bữa ăn trưa thật vui. Người thợ giày kể lại mọi thứ tin tức, tán tụng tài nấu nướng của má và nói giỡn cho tới khi ba cười lớn và má lau nước mắt. Rồi người thợ giày hỏi ba là ông ta nên làm thứ gì trước và ba đáp: - Tôi tính ông nên bắt đầu đóng ủng cho Almanzo. Almanzo không thể tin điều đó. Cậu đã ao ước từ lâu có một đôi ủng. Cậu nghĩ cậu còn phải mang giày da cho tới lúc bàn chân cậu không lớn lên quá nhanh. Má lên tiếng: - Ông sẽ làm hư thằng bé đó, James. Nhưng ba trả lời: - Nó đủ lớn để mang ủng rồi. Almanzo chờ đợi nôn nóng cái lúc mà người thợ giày bắt đầu. Trước hết người thợ giày ngắm tất cả gỗ trong lán gỗ. Ông ta muốn kiếm một mảnh gỗ trường khế hoàn toàn thích hợp với thớ gỗ mịn và thẳng. Khi kiếm được, ông ta lấy chiếc cưa nhỏ cưa thành hai miếng ván mỏng. Một mảng dày đúng một inch và mảnh kia dày một inch rưỡi. Ông ta đo rồi cắt những góc vuông vức Ông ta mang mấy miếng gỗ tới ghế, ngồi xuống, mở hộp đồ nghề. Hộp chia thành hai ngăn nhỏ và mỗi ngăn đặt vừa in các dụng cụ đóng giày. Người thợ giày đặt mảnh ván dày hơn lên ghế, ngay phía trước ông ta. Ông ta lấy con dao dài, bén cắt những lằn nhỏ li ti khắp trên mảnh ván. Rồi ông ta xoay mảnh ván lại, cắt những lằn nhỏ theo hướng khác làm thành những đỉnh nhọn bé xíu. Ông ta đặt lưỡi dao mỏng, thẳng trên những đường soi giữa hai vết lằn và lấy một chiếc búa gõ khe khẽ. Một dải gỗ mỏng tách ra, khía dài suốt một phía. Rồi cầm một đầu dải gỗ, ông ta nhấn con dao vào vết khía và mỗi lần nhấn là một chốt giày rơi ra. Mỗi chốt dài một inch, vuông vức tám phần inch và một đầu nhọn. Miếng ván trường khế mỏng hơn được ông ta làm thành hai chốt và những chốt này dài một inch rưỡi. Bây giờ người thợ giày chuẩn bị đo ủng cho Almanzo. Almanzo cởi đôi giày da, tháo vớ, đứng trên một miếng giấy trong khi người thợ giày dùng một cây viết chì lớn vẽ cẩn thận quanh các bàn chân của cậu. Rồi, người thợ giày đo bàn chân theo mọi hướng và viết lại những con số. Lúc này ông ta không còn cần tới Almanzo nữa nên cậu đi giúp ba tróc vỏ bắp. Cậu có một chiếc móc tróc vỏ nhỏ giống như chiếc móc của ba. Cậu cột một sợi dây da đeo quanh bao tay phải và chiếc móc gỗ đứng thẳng như một ngón tay cái thứ nhì giữa ngón tay cái và ngón trỏ của cậu. Ba và cậu ngồi trên những dụng cụ làm việc hàng ngay ở giữa sân kho lạnh giá bên những tụ bắp. Họ bẻ những trái bắp khỏi thân bắp rồi kẹp phần đầu bỏ bắp khô giòn giữa ngón tay cái và chiếc móc, tách vỏ bắp khỏi trái bắp. Những trái bắp đã tróc vỏ được ném vào những chiếc giỏ hàng. Những cọng thân bắp với những nhánh lá khô lao xao được chất thành đống. Đám gia súc nhỏ sẽ ăn những chiếc lá này. Khi tróc hết đám bắp trong một tụ, họ chuyển lên kéo những đồ ngồi tới trước, chậm chạp nhích sâu hơn vào những tụ bắp dựng tua tủa. Vỏ và thân bắp chất đống phía sau họ. Ba trút những giỏ bắp đầy vào thùng đựng bắp và các thùng đầy lên dần dần. Trong sân kho không lạnh lắm. Những dãy nhà kho lớn đã cản gió bớt và tuyết không còn bám trên những trái bắp. Chỉ mấy bàn chân Almanzo đau nhức, nhưng cậu nghĩ tới đôi ủng mới. Cậu nôn nóng chờ tới giờ ăn trưa để coi người thợ giày đã làm được những gì. Hôm đó, người thợ giày chuốt xong hai khuôn gỗ giống hình thù các bàn chân của Almanzo. Các khuôn gỗ được gắn ngược vào cây cọc cao trên chiếc ghế đóng giày, chia thành hai phần. Sáng hôm sau, người thợ giày cắt phần đế từ giữa những miếng da bò dày và phần lót bên trong từ những mép da mỏng hơn. Ông ta cắt phần trên của giày từ những khoảng da mềm nhất. Rồi ông ta đánh sáp vào chỉ khâu. Bàn tay phải của ông ta kéo chiều dài của sợi chỉ ngang qua miếng bông có tẩm sáp màu đen giữ trong lòng bàn tay trái và ông ta lăn sợi chỉ dưới lòng bàn tay phải xuôi xuống trước tấm da tạp dề. Rồi, ông ta lại kéo và lăn nữa. Sáp bật thành tiếng động lanh canh và hai cánh tay người thợ giày tiếp tục ra vào, ra vào cho tới khi sợi chỉ đen bóng và thấm cứng chất sáp. Lúc đó, ông ta đặt một sợi lông heo cứng vào mỗi đầu chỉ đánh sáp và lăn nhiều lần cho tới khi những cọng lông heo được sáp gắn chặt vào sợi chỉ. Cuối cùng, ông ta chuẩn bị khâu. Ông ta ghép những phần trên của một chiếc ủng lại với nhau, ép chặt trong một gọng kìm vặn. Các cạnh dựng thẳng, đều và chắc. Ông ta xâu hai cọng lông heo cứng qua những lỗ nhỏ ở hai mép và dang cánh tay xiết chặt sợi chỉ. Ông khoan một lỗ khác, xâu hai cọng lông qua, kéo sợi chỉ sáp chìm hẳn xuống dưới da. Thế là xong một mũi khâu. Ông ta nói: - Thế mới là một đường khâu nối! Chân của cháu sẽ không bị ẩm trong những chiếc ủng ta khâu, ngay cả khi cháu lội vào trong nước. Chưa bao giờ ta khâu một đường khâu nối mà không có chỗ thoát nước. Từng mũi, từng mũi, ông ta khâu dứt phần trên. Khi xong các phần này, ông ta ngâm phần đế giày cho ướt sũng suốt đêm. Sáng hôm sau, ông đặt một chiếc khuôn lên cọc, gắn phần đế. Ông ta gắn miếng da lót bên trong lên khuôn, kéo phần ủng phía trên phủ xuống, gấp mép vào miếng da lót bên trong. Rồi ông ta đặt phần đế nặng lên trên hết, thế là đã có một chiếc ủng đặt ngược trên khuôn. Người thợ giày dùng chiếc dùi khoan lỗ quanh mép đế giày. Mỗi chiếc lỗ, ông ta đóng một cây chốt ngắn bằng gỗ trường khế. Ông ta làm một chiếc gót bằng da dày và gắn bằng những cây chốt trường khế dài. Chiếc ủng đã hoàn tất. Những đế giày ướt phải hong khô suốt đêm. Tới sáng, người thợ giày gỡ khuôn ra và với một cái giũa, ông ta gắn đầu trong của những chiếc chốt. Almanzo đặt chân vào ủng. Chân cậu vừa khít và gót giày khua một cách oai vệ trên nền nhà bếp. Sáng thứ bảy, ba lái xe đi Malone đón Alice, Royal và Eliza jane về nhà để đo làm giày mới. Má nấu một bữa ăn thịnh soạn và Almanzo quấn quanh cổng để chờ thấy lại Alice. Cô không thay đổi bao nhiêu. Ngay trước khi kịp bước ra khỏi xe, cô đã kêu: - Ôi, Almanzo, em có đôi ủng mới rồi! Cô đang học để trở thành một phụ nữ thanh lịch. Cô kể cho Almanzo nghe về tất cả những bài học âm nhạc, học cách cư xử nhưng cô rất mừng lại được về nhà. Eliza Jane thì có vẻ kiểu cách hơn bao giờ hết. Cô bảo ủng của Almanzo làm ồn quá. Cô còn nói với má là cô thấy bị xúc phạm vì ba đã uống trà bằng chén. Má hỏi: - trời đất ơi! Ba làm nguội trà bằng cách nào khác được? Eliza Jane nói: - Kiểu uống trà bằng chén đã không còn hợp nữa. Người lịch sự uống trà bằng ly. Alice kêu lên: - Eliza Jane! Thật là xấu hổ! Em thấy ba vẫn lịch sự như mọi người. Má ngưng làm. Hai bàn tay má rời chiếc chảo nấu đảo vòng trước mặt Eliza Jane. Má nói: - Thưa tiểu thư, nếu tiểu thư muốn chứng tỏ sự giáo dục hoàn hảo của tiểu thư thì xin tiểu thư cho biết những chiếc chén uống trà từ đâu đến. Eliza Jane mở miệng ra rồi ngậm miệng lại và tỏ ra không biết gì. Má nói: - Chúng đến từ Trung Hoa. Những thuỷ thủ Hà Lan mang chúng từ Trung Hoa tới đây, những thuỷ thủ đầu tiên vòng qua Mũi Hảo Vọng và tìm thấy Trung Hoa. Trước thời đó nông dân vẫn uống nước bằng ly vì không có chén. Kể từ khi có chén, mọi người uống nước bằng chén. Tôi nghĩ là điều mà nông dân đã làm suốt hai trăm năm thì chúng tôi cần làm theo. Chúng tôi không thích thay đổi theo một ú niệm vừa mới nhú lên mà tiểu thư nhận được ở Học Viện Malone. Eliza Jane ngậm cứng miệng. Royal không nói nhiều. Cậu lôi mấy bộ đồ cũ ra mặc và đi lo phần việc nhà của cậu. Nhưng cậu có vẻ khá lơ là. Đêm đó trên giường, cậu nói với Almanzo là cậu sẽ là chủ của một cửa hàng. Cậu nói: - Em sẽ ngu ngốc hơn anh, nếu em lao theo công việc một nông trại từ ngày này qua ngày khác. Almanzo nói: - Em thích những con ngựa. Royal trả lời: - Hừ! Chủ cửa hàng vẫn có ngựa. Mỗi ngày quần áo chỉnh tề sạch sẽ, vợ chồng đủ đôi, lái xe ngựa chạy quanh. ở thành phố còn có nhiều người thuê người đánh xe cho mình. Almanzo im lặng nhưng cậu không thích có người đánh xe. Cậu muốn huấn luyện những con ngựa con và tự tay điều khiển những con ngựa riêng của mình. Sáng hôm sau, mọi người lại cùng đi nhà thờ. Rồi Royal, Eliza Jane và Alice ở lại Học Viên, chỉ có người thợ giày cùng trở về trại. Hàng ngày, ông ta huýt gió và làm việc trên chiếc ghế của ông ta trong phòng ăn cho tới khi tất cả giày và ủng được đóng xong. Ông ta ở đó hai tuần lễ và khi ông ta đưa chiếc ghế cùng các dụng cụ lên cỗ xe độc mã của ông ta lái tới nhà một khách hàng kế tiếp thì ngồi nhà lại có vẻ vắng vẻ và im lìm. Tối hôm đó, ba nói với Almanzo: - Tốt rồi, con trai, vỏ bắp đã lột xong. Con thấy sao về việc ngày mai mình đóng một cỗ xe trượt cho Star và Bright? Almanzo nói: - Ô, ba! Liệu con… liệu ba có cho con tự lo kéo gỗ trong rừng vào mùa đông này không? Mắt ba sáng lên, ba hỏi: - Con còn cần cỗ xe vào một việc nào khác hả? Chương 24: Cỗ Xe Trượt Nhỏ Sáng hôm sau, khi Almanzo theo ba vào khu rừng cây, tuyết còn đang rơi. Những bông tuyết lớn nhẹ như lông chim tạo thành một màn che phủ mọi vật và nếu đi một mình thì có thể nghe rõ tiếng rơi của những cụm bông tuyết mềm mại nhỏ li ti. Ba, và Almanzo đạp qua lớp tuyết vừa rơi trong rừng cây, lùng kiếm những cây sồi nhỏ thẳng. Khi tìm thấy một cây ba liền đốn hạ. Ba chặt hết các nhánh cây và Almanzo xếp thành đống gọn gàng. Rồi, hai cha con chất những khúc gỗ nhỏ lên chiếc xe trượt. Sau đó, họ đi kiếm hai cây nhỏ cong để dùng làm bàn trượt. Cây phải có đường kính năm inch và thẳng dài sáu bộ trước chỗ bắt đầu cong lên. Thật không dễ tìm ra. Trong khắp lùm cây, không có nổi hai cây giống nhau. Ba nói: - Con không thể tìm nổi hai cây giống nhau dù đi khắp thế giới, con trai. Ngay cả hai chiếc lá cỏ cũng không giống nhau được. Nếu xét kỹ, con sẽ thấy mọi thứ đều khác với thứ khác. Họ đành phải chọn hai cây hơi giống nhau. Ba đốn hạ và Almanzo phụ mang lên xe. Rồi họ lái xe trở về đúng vào giờ ăn trưa. Chiều hôm đó ba và Almanzo đóng cỗ xe trượt nhỏ trên nền Kho Lớn. Trước hết, ba đẽo cho bằng và nhẵn phần đáy của các bàn trượt, lóc sạch xung quanh các khúc uốn cong lên ở phía trước. Kế liền sau khúc uốn cong, ba đẽo một khoảng bằng phẳng ở bên trên và đẽo một khoảng bằng phẳng khác gần phía dưới. Tiếp theo, ba đẽo hai cây đà để làm những thanh ngang. Những cây đà rộng mười inch, cao ba inch và dài bốn bộ. Đà ghép đúng mép. Ba chặt góc cho khít trên khaỏng phẳng ở phía trên các bàn trượt. Rồi ba chặt cong ở cạnh dưới của đà cho chúng có thể vượt qua những khoảng tuyết cao ở giữa đường. Ba đặt hai bàn trượt song song, cách nhau ba bộ rưỡi và ghép các đà ngang vào chúng. Nhưng ba chưa ghép chặt vào nhau ngay. Ba đẽo hai tấm ván dài sáu bộ và phẳng cho cả hai bên. Ba đặt tấm ván lên các đà ngang nằm dọc phía trên các bàn trượt. Với một mũi khoan, ba khoét lỗ xuyên qua tấm ván, xuống qua đà ngang thấu tới bàn trượt. Ba khoan vào cây đà rất kỹ và mũi khoan ngưng ở nửa chừng một phía. Ba lật phía bên kia lên và khoan ngược lại một lỗ khoan tương tự. Ba chốt vào những lỗ khoan những cây chốt bằng gỗ. Những cây chốt xuyên qua tấm ván xuống tới tận bàn trượt và ghép vừa khít với những lỗ khoan một nửa trên các mặt của cây đà. Hai cây chốt ghim chắc tấm ván, đà ngang và bàn trượt với nhau ở một góc của cỗ xe. Tại ba góc khác, ba khoan lỗ và Almanzo lấy búa ghép chốt. Thế là xong phần khung của cỗ xe nhỏ. Lúc này, ba khoan một lỗ trên mỗi bàn trượt ở sát đà ngang phía trước. Ba tróc vỏ một cây thon và chuốt nhọn đầu để có thể cắm vài vừa lỗ khoan. Almanzo và ba đẩy phần cong của các bàn trượt cho cách xa tối đa và ba cài hai đầu cây được chuốt vào những lỗ khoan. Khi Almanzo và ba buông tay ra, các bàn trượt bật lại ghì cứng khúc cây ở giữa. Ba lại khoan thêm hai lỗ vào trong cây chuốt vừa gắn, ở sát bên đầu các bàn trượt để gắn cây vạt kẹp của cỗ xe. Để làm vạt kẹp, ba dùng một cây du nhỏ vì cây du cong hơn mà lại uốn được nhiều hơn gỗ sồi. Cây du có chiều dài mười bộ từ gốc tới ngọn. Ba bao một khoen sắt ở phía ngọn và lấy búa đóng vào cho tới khi nó ôm vừa khít ở khoảng cách phần góc hai bộ rưỡi. Ba chẻ phần gốc ra làm hai, tách lên tới chỗ khoen sắt. Ba chuốt nhọn đầu những phần được tách ra và kéo chúng cách xa cắm vào hai lỗ khoan trên cây cột gióng nhỏ. Rồi ba lại khoan lỗ xuyên qua cây gióng và đầu của vạt kéo và đóng chốt vào những lỗ khoan này. Gần ngọn vạt kéo, ba đóng một chốt sắt từ trên xuống. Chốt sắt xuyên qua dưới vạt kéo. Ngọn của vạt kéo sẽ được đặt vào trong vòng sắt phía dưới cỗ ách bò và khi bò bước lui thì khoen sắt sẽ đẩy mạnh chốt sắt khiến vạt kéo cứng ngắc sẽ đẩy xe lui lại. Bây giờ cỗ xe đã hoàn thành. Đã gần tới giờ làm việc nhà nhưng Almanzo không muốn rời cỗ xe cho tới lúc nó có thêm các giá chặn đồ. Ba khoan rất nhanh những lỗ khoan xuyên qua các đầu ván xuống những đà ngang và Almanzo đóng vào đó một cây cọc dài bốn bộ. Những cột cao đứng thẳng ở các góc của cỗ xe và giữ cho các đống gỗ khi chở gỗ. Bão đang nổi lên. Tuyết cuốn rơi như lốc xoáy và gió gào than một âm điệu buồn nản khi Almanzo và ba xách những thùng sữa đầy vào nhà tối hôm đó. Almanzo mong tuyết sẽ rơi dày để cậu có thể bắt đầu dùng cỗ xe mới đi chở gỗ. Nhưng ba lắng nghe bão và bảo hôm sau không thể làm việc ở ngoài trời. Họ sẽ phải ngồi dưới chỗ có che chắn và như thể có thể họ phải bắt đầu đập lúa. Chương 25: Đập Lúa Gió gầm hú và tuyết cuốn bay tạo thành một âm thành ảm đạm dội lại từ những cây tuyết tùng. Những nhánh cây khẳng khiu như các lóng xương khua đập vào nhau trên những cây táo chỉ còn mang hình thù của những bộ xương. Ngoài trời âm u, hoang sơ và ầm ĩ. Nhưng những khu nhà kho vững vàng kiên cố rất yên ắng. Giông bão gầm hú vẫn va đập nhưng nhà kho đứng bình thản. Bên trong nhà kho vẫn ấm áp. Khi Almanzo cài chốt cửa ra vào thì tiếng ồn của giông bão chìm hẳn xuống so với sự yên tĩnh trong khu nhà kho. Không khí hoàn toàn lặng lẽ. Lũ ngựa loay hoay trong những ngăn chuồng, kêu lên nho nhỏ trong lúc những con ngựa con nghểnh đầu lên và khẽ đạp móng. Lũ bò đứng thành hàng điềm tĩnh phe phẩy những túm lông đuôi và nhai nhóp nhép. Almanzo vuốt ve chiếc mũi mềm mại của lũ ngựa và ngắm thật lâu những con ngựa con mắt sáng rực. Rồi cậu đi kiếm ba đang sửa một cái néo trong lán dụng cụ. Cây néo bị sút tay cầm và ba phải gắn lại. Néo là một cành gỗ cứng như sắt dài ba bộ và to bằng cán chổi, có một lỗ hổng xuyên qua ở một đầu. Tay cầm của néo dài năm bộ và một đầu tròn tựa một nắm tay. Ba thọc một sợi dây da bò qua lỗ hổng trên néo rồi tán ghép hai đầu dây lại làm thành một thòng lọng bằng da. Ba lấy một sợi dây da khác, cắt khứa ở hai đầu. Sợi dây da này được luồn qua vòng thòng lọng và những vết khứa được tròng vào cuối nắm tròn trên tay cầm của néo. Néo và tay cầm được gắn lỏng lẻo với nhau bằng hai thòng lọng da và néo có thể đu đưa về mọi phía một cách dễ dàng. Néo của Almanzo cũng giống như của ba nhưng còn mới nên không cần sửa chữa. Khi chiếc néo của ba sửa xong, hai cha con đi về nền Kho Nam. ở đây còn phảng phất mùi bí, dù gia súc đã ăn hết bí. Từ đống lá dẻ gai, mùi gỗ bốc lên hoà với mùi rơm khô từ các đống lúa. Ngoài trời, gió đang gào thét và tuyết quay cuồng bay nhưng nền Kho Nam ấm và lặng lẽ. Ba và Almanzo cởi dây buộc các tụ lúa và trải lúa trên nền gỗ sạch. Almanzo hỏi ba sao không thuê máy đập lúa. Ba người đàn ông đã mang máy tới đây và ba đã đi coi. Máy có thể đập hết một vụ lúa chỉ trong vài ngày. Ba nói: - Đó là cách đập lúa của một người lười biếng. Vội vàng thường gây hoang phí, nhưng một kẻ lười biếng luôn luôn muốn làm xong công việc của mình thật nhanh. Cỗ máy đó nghiền nát rơm khiến gia súc không còn ăn được và thổi hạt ra xung quanh vung vãi sẽ làm mất mát. Tất cả lợi ích của máy chỉ là tiết kiệm thời gian. Nhưng thời gian có ích gì nếu không dùng cho công việc? Con muốn ngồi xoay xoay mấy ngón tay cái suốt những ngày giông bão này sao? Almanzo nói: - Không đâu! Cậu đã ngồi không quá đủ vào những ngày chủ nhật. Họ trải lúa dày chừng hai ba inch trên nền. Rồi ngồi đối mặt nhau, nắm tay cầm của những chiếc néo bằng cả hai bàn tay, họ vung những chiếc néo cao khỏi đầu và quật xuống lúa. Ba đập, rồi Almanzo đập, rồi lại tới ba, lại tới Almanzo. - Thịch! Thịch! Thịch! Thịch! Giống như nhịp nhạc hành khúc trong ngày Quốc Khánh. - Thịch! Thịch! Thịch! Thịch! Những hạt lúa văng ra, rơi như mưa khỏi các cọng rơm. Một mùi dễ chịu bốc lên từ những cọng rơm bị đập giập giống như hương lúa chín trong đồng khi trời nắng. Trước khi Almanzo thấm mệt với chiếc néo, đã là lúc cậu cầm cây chĩa. Cậu xóc những cọng rơm lên nhẹ nhàng hất sang bên cạnh. Những hạt lúa màu nâu nằm rải rác đầy trên nền. Almanzo và ba lại trải lúa lên và cầm néo trở lại. Khi hạt lúa văng đầy nền, Almanzo lại cào dồn lại một bên bằng chiếc trang gỗ lớn. Suốt ngày, đống hạt lúa cứ cao dần thêm. Đúng trước giờ lo việc nhà, Almanzo quét sạch nền nhà phía trước cỗ máy cánh quạt. Sau đó ba xúc lúa đổ vào máng máy và Almanzo quay tay máy. Cánh quạt quay vo vo trong máy, một đám mây trấu bay ra phía trước trong lúc những hạt lúa sạch trút xuống hai bên thành đống cao trên nền nhà. Almanzo bốc một nắm cho vào miệng nhai và nhấm nhấm vị ngọt đọng lại một lúc lâu. Cậu tiếp tục nhai trong lúc giữ túi cho ba đổ đầy lúc vào trong đó. Ba kéo những túi đầy cho đứng sát vách thành một hàng. Một ngày làm việc tốt đẹp đã qua. Ba hỏi: - Con nghĩ sao về việc mình cho máy thổi hạt dẻ gai. Vậy là họ liệng lá dẻ gai vào máng máy và lúc này cánh quạt kêu vo vo thổi bay những chiếc lá trong lúc trút xuống đất đám hạt dẻ gai ba góc màu nâu. Almanzo đổ đầy một thùng đong ( Thùng đong: Peck Measure, một loại đấu đong lớn, khoảng 9 lít ) giữ lại nướng ăn vào buổi tối. Sau đó cậu huýt gió trở lại với các việc nhà. Trọn mùa đông dài, những ngày giông bão đều dành cho việc đập lúa. Đập xong lúa mì thì tiếp đến lúa mạch, rồi các thứ đậu. Hạt để nuôi gia súc nhiều ê hề và lúa mì, lúa mạch để xay thành bột cũng thật nhiều. Almanzo đã bừa những thửa ruộng, đã phụ giúp trong mùa vụ và bây giờ cậu đập lấy hạt. Cậu phụ việc nuôi ăn những con bò cái nhẫn nại, những con ngựa nôn nóng hí qua các gióng ngăn chuồng, những con cừu đang đói kêu be be và những con heo luôn ủn ỉn. Và cậu có cảm giác như cậu đang nói với tất cả: - Các cậu cứ tin tớ. Tớ đã đủ lớn để lo cho hết thảy các cậu rồi. Rồi cậu đóng cửa cẩn thận, rời khỏi những con vật no nê, ấm áp có đầy đủ mọi thứ trong đêm và miệt mài bước qua giông gió quay lại với bữa ăn tối ngon lành đang chờ đợi trong nhà bếp. Chương 26: Lễ Giáng Sinh Đã từ lâu dường như Lễ Giáng Sinh không bao giờ tới. Vào dịp Giáng Sinh, chú Andrew và cô Delia, chú Wesley và cô Lindy cùng tất cả đám anh chị em họ đều tới ăn bữa trưa. Đó là bữa ăn trưa lớn nhất trong năm. Và tất cả những cậu bé ngoan đều nhận được một thứ gì đó trong chiếc vớ của mình. Riêng những cậu bé hư thì chẳng nhận được gì ngoại trừ những cây roi nằm trong vớ vào buổi sáng ngày Giáng Sinh. Almanzo cố sức giữ ngoan ngoãn lâu tới mức cậu cảm thấy căng thẳng. Nhưng cuối cùng cũng đã tới trước ngày Lễ Giáng Sinh và Alice, Royal và Eliza Jane đều đã trở về nhà. Các cô gái lo lau dọn khắp ngôi nhà còn má lo nấu nướng. Royal giúp ba đập lúa nhưng Almanzo phải phụ mọi thứ trong nhà. Cậu nhớ tới chiếc roi và cố tỏ ra thoải mái, vui vẻ. Cậu phải lau chùi dao nĩa và đánh bóng các đồ dùng bằng bạc. Quấn một chiếc tạp dề quanh cổ, cậu lấy một thỏi xà phòng cạo thành một đống bọt màu đỏ rồi dùng một miếng vải ướt chà lên dao nĩa. Nhà bếp ngào ngạt mùi thơm. Những ổ bánh mì mới chín đang để nguội, bánh ngọt đông lạnh, bánh bích qui, bánh thịt nhồi, bánh bí chất đầy các giá đựng thức ăn, món canh chua đang sủi tăm trên lò. Má lại đang nêm gia vị cho món thịt ngỗng. Phía ngoài, nắng chiếu long lanh trên tuyết. Những dải băng lấp lánh dọc các mái hiên. Từ xa vang lại tiếng chuông xe ngựa leng keng và trong nhà kho vang lên tiếng néo đập vui vẻ: - Thịch, thịch! Thịch, thịch! Nhưng khi tất cả dao nĩa đã lau rửa xong, Almanzo lại phải đánh bóng các đồ dùng bằng bạc một cách điềm tĩnh. Cậu còn phải chạy lên gác mái lấy rau thơm, chạy xuống hầm chứa lấy táo và lại leo lên cầu thang lấy hành. Cậu chất đầy chiếc thùng gỗ, hối hả ra ngoài trời lạnh kiếm nước ở máy bơm. Cậu đã nghĩ sau đó, mọi thứ sẽ dứt chỉ trong một phút. Nhưng không phải thế vì cậu còn phải lau sạch phòng ăn sát nhà bếp. Má lên tiếng: - Con hãy lo phòng khách đi, Eliza Jane. Almanzo có thể làm tràn văng xi ra nhà đó. Almanzo thấy run ở trong bụng. Cậu hiểu điều gì sẽ xảy ra nếu má biết về chỗ loang đen được che lấp trên tường phòng khách. Cậu không muốn nhận một cây roi tron chiếc vớ nhận quà Giáng Sinh nhưng thà nhận một cây roi như thế còn hơn là bị ba lôi vào lán gỗ. Đêm đó mọi người đều mệt mỏi và ngôi nhà sạch sẽ, ngăn nắp tới mức không ai dám đụng vào một thứ gì. Sau bữa ăn tối, má đặt con ngỗng nhồi thịt và con heo sữa lên giữa lò để nướng từ từ suốt đêm. Ba đặt lại bộ phận chỉnh lửa và lên dây đồng hồ. Almanzo và Royal treo vớ ở sau một chiếc ghế còn Alice và Eliza Jane treo vớ ở sau một chiếc ghế khác. Sau đó, tất cả cầm nến đi về giường. Trời còn tối đen khi Almanzo thức giấc. Cậu cảm thấy phấn khởi và sực nhớ ra đã là buổi sáng ngày Lễ Giáng Sinh. Cậu giật các lớp chăn ra và nhào lên một ai đó nằm co ro. Đó là Royal. Cậu đã quên khuấy có Royal ở đó, nhưng cậu bò trường qua và kêu lên: - Giáng Sinh! Giáng Sinh! Chúc mừng Giáng Sinh vui vẻ! Cậu kéo quần dài choàng lên ngoài đồ ngủ. Royal nhảy ra khỏi giường thắp nến. Almanzo chụp lấy cây nến và Royal kêu: - Này, để lại đó! Quần chẽn của anh đâu rồi? Nhưng Almanzo đã chạy ào xuống cầu thang. Alice và Eliza Jane đang bay ra khỏi phòng, nhưng Almanzo đã thắng. Cậu nhìn thấy chiếc vớ treo u lên nhiều cục, vội đặt cây nến xuống và chộp lấy. Thứ trước nhất cậu kéo ra là một chiếc mũ, chiếc mũ mua ở cửa hàng. Chiếc mũ bằng vải kẻ sọc vuông dệt máy. Lại có thêm lớp vải lót. Mũ được may bằng máy may. Và những tấm phủ tài gài nút ở ngay đỉnh. Almanzo hét lớn. Cậu không hy vọng lại có lúc có một chiếc mũ như thế này. Cậu ngắm từ trong ra ngoài chiếc mũ, sờ mó lớp vải bao, rồi lớp vải lót mượt trơn. Cậu chụp chiếc mũ trên đầu. Hơi rộng một chút, nhưng cậu còn đang lớn. Như thế, cậu sẽ đội nó lâu hơn. Eliza Jane và Alice đang sục tìm trong những chiếc vớ và kêu lên the thé còn Royal đã có một chiếc khăn choàng lụa. Almanzo lại thọc sâu bàn tay vào chiếc vớ và kéo ra một cây kẹo bạc hà giá năm xu. Cậu cắn rời một đầu cây kẹo. Lớp kẹo bọc ngoài tan rời như đường trường khế nhưng lớp bên trong cứng ngắc có thể mút nhiều giờ. Rồi cậu lôi ra thêm một đôi găng tay mới. Má đan phần cườm tay và phần lưng găng bằng những đường trang hoàng rất bắt mắt. Cậu còn lôi ra được một trái cam và một gói nhỏ trái vả khô. Cậu nghĩ tới thế là hết và không có một cậu bé nào có một ngày Giáng Sinh tốt hơn. Nhưng ở chót cùng của chiếc vớ vẫn còn một thứ gì nữa. Một vật nhỏ, mỏng và cứng. Almanzo không thể nghĩ ra nổi là thứ gì. Cậu lấy ra và đó là một con dao nhíp. Con dao có bốn lưỡi. Almanzo la lớn và la lớn. Cậu bật tất cả các lưỡi dao ra, sắc nhọn và sáng loáng. Và cậu la lớn: - Alice, nhìn coi! Nhìn coi, Royal! Nhìn nè, nhìn con dao nhíp của em! Nhìn chiếc mũ của em! Từ trong phòng ngủ tối om, giọng ba vọng ra. Ba nói: - Hãy nhìn đồng hồ coi! Tất cả đưa mắt nhìn nhau. Rồi Royal đưa cao cây nến và tất cả đều nhìn chiếc đồng hồ cao. Kim đồng hồ chỉ ba giờ rưỡi. Ngay cả Eliza Jane cũng không biết nên làm gì. Mấy cô cậ đã đánh thức cả ba lẫn má dậy sớm hơn một giờ rưỡi. Ba hỏi: - Mấy giờ rồi! Almanzo nhìn Royal. Royal và Almanzo cùng nhìn Eliza Jane. Eliza Jane nuốt nước miếng và há hốc miệng nhưng Alice nói: - Chúc mừng Giáng Sinh, ba! Chúc mừng Giáng Sinh, má! Bây giờ bốn giờ thiếu ba mươi phút ba! Chiếc đồng hồ lắc đều “Tích, tắc! Tích, tắc!”. Rồi ba bật cười. Royal mở các bộ phần điều chỉnh lửa trong lò và Eliza Jane cời lửa bùng lớn, đặt ấm nước lên. Ngôi nhà ấm hẳn khi ba và má dậy và cả nhà có một giờ ngồi chung. Đó là thời gian ngắm nghía những quà tặng. Alice có một khuôn lồng ảnh bằng vàng để đeo cổ và Eliza Jane có một đôi bông tai bằng đá đỏ. Má đã đan cho hai cô những dải cổ áo viền ren và những đôi găng hở ngón màu đen cũng viền ren. Royal có chiếc khăn choàng lụa và một chiếc ví da tuyệt đẹp. Nhưng Almanzo cho rằng cậu có những quà tặng tuyệt hơn hết. Đó là một ngày Giáng Sinh kỳ diệu. Rồi má bắt đầu tất bật và hối thúc mọi người. Còn có nhiều việc nhà để làm, hớt váng sữa, lọc sữa mới để cất đi, ăn điểm tâm, lặt rau và sắp đặt trong nhà cho thứ tự rồi mỗi người phải mặc quần áo xong trước khi khách tới. Mặt trời đã lên cao. Má có mặt ở khắp nơi, nhắc nhở mọi lúc: - Almanzo, rửa tai con thật sạch đi! - trời ơi, Royal, không chạy quẩn quanh nữa! - Eliza Jane, nhớ gọt những củ khoai này, đừng cắt mỏng và cũng đừng để nhiều mắt cho chúng thấy đường mà nhảy hết ra khỏi bình. - Đếm lại các đồ bạc, Alice rồi bày ra cùng với dao nĩa. - Các khăn tốt nhất nằm hết trên giá kia. - Cám ơn Chúa, hãy nhìn đồng hồ kìa. Tiếng chuông xe ngựa reo vang trên đường và má đóng sập cánh cửa lò, chạy đi thay chiếc tạp dề và ghim lại tóc. Alice lao xuống cầu thang còn Eliza Jane chạy lên, cả hai đều nhắc Almanzo kéo thẳng lại cổ áo. Ba đang gọi má tới thắt cà-vạt giúp. Rồi xe của chú Wesley ngưng lại với tiếng va chạm cuối cùng của những chiếc chuông. Almanzo reo hò chạy ra. Ba và má theo sau cậu bình thản tựa hồ họ không bao giờ vội vã trong cuộc sống. Frank, Fred, Abner, Mary nhào ra khỏi xa, vội vã chạy lên trước khi cô Lindy kịp trao em bé cho má thì xe của chú Andrew chạy tới. Trên sân đầy các cậu bé và khắp nhà chen chúc những vành váy. Mấy ông chú giậm chân rũ tuyết ra khỏi ủng và cởi khăn quàng. Royal cùng cậu em họ James đưa xe vào trong nhà xe, tháo ngựa đưa vào ngăn chuồng và lau tuyết bám trên chân của chúng. Almanzo đội chiếc mũ mua ở cửa hàng và khoe con dao nhíp với đám anh em họ. Chiếc mũ của Frank lúc này đã cũ rồi. Cậu ra cũng có con dao nhíp nhưng lại chỉ có ba lưỡi. Rồi Almanzo chỉ cho thấy Star và Bright cùng cỗ xe trượt và cho cả đám gãi lên chiếc lưng màu trắng phẳng phiu của Lucy bằng những chiếc lõi bắp. Cậu nói tất cả có thể tới ngắm Starlight nếu giữ im lặng không làm cho nó sợ. Con ngựa con co rúm đuôi lại và bước về phía lũ nhỏ một cách nhẹ nhàng. Rồi nó ngẩng đầu cao và né tránh bàn tay của Frank thọc qua gióng ngăn chuồng. Almanzo nói: - Để yên cho nó đi! Frank nói: - Tớ đánh cá là cậu không dám vào đó và cưỡi lên lưng nó. Almanzo nói: - Tớ dám chứ, nhưng phải có ý thức. Tớ biết hay nhất là đừng làm hỏng một con ngựa tốt như thế. Frank nói: - Cách nào làm hư nó được? Chà! Cậu sợ nó đá cậu! Cậu sợ con ngựa con đó! Almanzo nói: - Tớ không sợ. Nhưng ba không cho. Frank nói: - Tớ nghĩ tớ là cậu thì tớ sẽ làm nếu tớ muốn. Tớ chắc là ba cậu không biết đâu. Almanzo không trả lời và Frank leo lên các gióng ngăn chuồng. Almanzo lên tiếng: - Cậu xuống khỏi nó ngay. Cậu nắm lấy chân Frank, nhắc: - Cậu không được làm lũ ngựa sợ. - Tớ sẽ làm nó sợ nếu tớ muốn. Frank vừa nói vừa đá. Almanzo đeo cứng, Starlight chạy quanh ngăn chuồng và Almanzo la lớn kêu Royal. Nhưng cậu biết làm thế sẽ khiến Starlight sợ hơn nữa. Cậu nghiến răng kéo hết sức và Frank nhào xuống. Tất cả lũ ngựa nhảy chồm lên và Starlight bước lui đạp vỡ máng ăn. Frank choàng dậy, nói: - Tớ sẽ nện cậu vì việc đó! Almanzo nói: - Cậu thử nện tớ đi! Royal hối hả từ Kho Nam chạy tới. Cậu nắm lấy vai Almanzo và Frank lôi ra ngoài. Fred, Abner, John lặng lẽ đi theo. Đầu gối Almanzo lảo đảo. Cậu sợ Royal nói lại với ba. Royal nói: - Nếu còn gặp mấy đứa làm những điều ngu dại quanh mấy con ngựa con này một lần nữa thì anh sẽ nói với ba và chú Wesley. Mấy đứa sẽ bị đánh tróc da hết. Royal nắm Almanzo chặt tới mức cậu không thể biết Royal đang nắm Frank chặt ra sao. Rồi Royal cụng đầu cả hai vào nhau. Almanzo nổ đom đóm mắt. Royal nói: - Để anh dạy cho mấy đứa đánh lộn này. Đúng vào ngày Giáng Sinh! Thật là xấu hổ! Almanzo nói: - Em chỉ muốn nó đừng làm Starlight sợ thôi. Royal quát: - Im đi! Đừng nói lôi thôi nữa! Bây giờ hãy tự giữ mình hoặc sẽ phải nhận những thứ đáng phải nhận. Đi rửa tay đi, tới giờ ăn trưa rồi. Tất cả kéo xuống bếp rửa tay. Má cùng các cô và đám con gái chị em họ đang lo bày bữa ăn trưa Giáng Sinh. Bữa ăn được kê vòng và kéo dài gần như hết phòng ăn và mỗi inch trên bàn đều chất đống thức ăn. Almanzo cúi đầu, nhắm chặt hai mắt trong lúc ba đọc lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện khá dài vì là ngày Giáng Sinh. Cuối cùng Almanzo cũng có thể mở mắt ra. Cậu ngồi im lặng nhìn bàn ăn. Cậu ngắm con heo sữa quay giòn nằm trên chiếc đĩa sứ màu xanh với một trái táo ngậm nơi miệng. Cậu ngắm con ngỗng quay mập căng với những chiếc đùi chĩa ra và lớp da bọc ngoài cuốn cong lên. Tiếng lưỡi dao của ba lanh lảnh trên hòn đá mài khiến cậu cảm thấy đói hơn. Cậu ngắm tô canh chua lớn rồi ngắm đống khoai tây nghiền với lớp bơ tan chảy đang nhỏ xuống thành giọt. Cậu ngắm sang đống củ cải nghiền, món bí hầm vàng quánh và món su hào xào xanh xám. Cậu nuốt nước miếng và cố không nhìn thêm nữa. Tuy vậy cậu vẫn không thể không nhìn thấy món táo chiên hành và món cà-rốt bọc đường. Cậu cũng không thể không ngắm những ổ bánh nhồi thịt hình tam giác đang chờ bên cạnh đĩa của cậu, bánh bí nhồi thịt ướp gia vị, bánh nhồi thịt phủ kem với lớp kem mỏng béo ngậy trào ra giữa khía vỏ bánh. Cậu ép hai bàn tay giữa đầu gối. Cậu ngồi im chờ nhưng cảm thấy cồn cào trong ruột. Tất cả người lớn ngồi ở đầu bàn được lo tiếp trước hết. Những chiếc đĩa qua lại trong tiếng nói chuyện và tiếng cười vui tư. Món thịt heo mềm được xẻ thành những miếng mỏng dưới con dao có chạm khắc của ba. Khuôn ức ngỗng trắng phau theo nhau biến thành từng miếng để lại khung xương trơ trọi. Những chiếc muỗng vục vào món canh chua, nhấn sâu vào món khoai tây nghiền rồi múc món nước xúp màu nâu. Almanzo phải ngồi đợi tới cuối cùng. Cậu nhỏ nhất ngoại trừ Abner và các em bé, nhưng Abner lại là khách. Sau hết thì đĩa của Almanzo cũng được chất đầy. Ngay miếng nếm thử đầu tiên đã đưa lại cho cậu một cảm giác khoan khoái và cảm giác này cứ lớn lên, lớn lên mãi trong lúc cậu ăn và ăn tiếp tục. Cậu ăn cho tới lúc không thể ăn thêm nổi nữa và cảm thấy vô cùng dễ chịu. Cậu nhấm nháp chậm chạp hồi lâu phần bánh ngỏ nhân trái cây thứ nhì. Rồi cậu nhét một khoanh bánh vào túi và chạy ra ngoài chơi. Royal và James đang chia phe để chơi trò pháo đài tuyết. Royal chọn Frank còn James chọn Almanzo. Khi chọn người xong, tất cả cùng lo lăn những trái cầu tuyết qua những dòng chảy sau gần nhà kho. Tất cả lăn cho tới khi những trái cầu tuyết cao gần bằng Almanzo thì lăn chụm lại thành một bức tường. Tuyết đã chất đống làm thành một pháo đài chắc chắn ngăn giữa hai phe. Lúc đó mỗi phe làm những trái cầu tuyết nhỏ riêng của mình. Tất cả đều hà hơi vào tuyết rồi nén lại thật chắc. Mỗi phe làm mười hai trái cầu tuyết cứng. Khi đã sẵn sàng chiến đấu, Royal liệng một cây gậy lên không rồi chụp lấy khi nó rơi xuống. James chộp vào cây gậy trên bàn tay của Royal, rồi Royal chộp trên bàn tay của James và cứ lần lượt như thế cho hết cây gậy. Bàn tay của James chộp cuối cùng và như thế là phe của James được giữ pháo đài. Những trái cầu tuyết bay mù mịt. Almanzo hụp đầu, né tránh, la hét và vận hết sức ném những trái cầu tuyết thật xa cho tới khi không còn trái nào. Royal dẫn một toán địch quân phía sau lao lên tấn công pháo đài và Almanzo vùng dạy, chộp lấy Frank. Cả hai đâm đầu xuống hố tuyết sâu phía ngoài pháo đài, vật lộn, đấm đá nhau thật mạnh. Mặt và miệng Almanzo đầy tuyết nhưng cậu bám cứng lấy Frank. Frank đập thẳng vào mũi cậu và mũi cậu chảy máu. Almanzo không lưu ý tới. Cậu lật lên trên Frank đấm vùi đối thủ cực mạnh, dí xuống dưới tuyết. Cậu tiếp tục hét: - Ha-a, chết! Ha-a, chết! Frank rên rỉ, oằn oại, gần lăn ra được nhưng Almanzo lại đè lên cậu ta. Almazno không thể ngồi trên Frank để đấm đá nên cậu dùng hết sức nặng đè đối thủ xuống, nhấn mặt Frank vào sâu hơn, sâu hơn nữa trong tuyết. Và Frank hổn hển: - Chết! Almanzo quì dậy và cậu thấy má đứng trong khung cửa. Má gọi: - Các con! Ngưng chơi thôi! Tới lúc phải vào nhà sưởi cho ấm! Tất cả đều đang nóng và thở hổn hển. Nhưng má và các cô nghĩ là đám anh chị em họ phải sưởi ấm trước khi lên xe trở về nhà. Cả đám bước vào nhà một cách nặng nề, đầy người dính tuyết khiến má giơ cả hai tay kêu lên: - Chúa ơi! Người lớn ngồi trong phòng khách nhưng các cậu bé phải ở lại trong phòng ăn, như thế tuyết không chảy trên tấm thảm phòng khách. Các cậu không thể ngồi vì ghế chất đầy chăn, áo đang được hơ nóng. Nhưng các cậu đứng quanh quẩn ăn táo, uống rượu ngọt và Almanzo và Abner vào nhà chứa đồ ăn ăn mấy đĩa đồ ăn. Sau đó các chú, các cô và các cô gái nhỏ phủ choàng khăn áo, bồng các em bé đang ngủ ra khỏi phòng ngủ quấn quanh trong những chiếc săn san. Những chiếc xe leng keng từ nhà kho lăn tới và ba má giúp tấn chăn phủ, áo choàng ngoài những vành váy. Mọi người đều nói: - Tạm biệt! Tạm biệt! Tiếng nhạc ngựa vang lại một hồi rồi tắt hẳn. Ngày Giáng Sinh đã qua. Chương 27: Kéo Gỗ Tháng Giêng năm đó khi trường học khai giảng như thường lệ, Almanzo không phải đi học. Cậu đang kéo gỗ trong rừng. Vào những buổi sáng lạnh cóng, trước lúc mặt trời mọc, ba đóng con bò đực vào cỗ xe trượt lớn còn Almanzo đóng hai con bò hơn một tuổi vào cỗ xe của mình. Lúc này Star và Bright đã quá lớn so với chiếc ách nhỏ và Almanzo không thể một mình nhấc chiếc ách lớn hơn. Pierre phải giúp cậu đặt ách lên cổ Star và Louis giúp cậu đẩy Bright đứng vào dưới đầu ách kia. Những con bò mới hơn một tuổi đã chạy rông trên các bãi chăn trọn mùa hè nên lúc này chúng không thích làm việc. Chúng lắc đầu, xô đẩy rồi bước lui. Thật khó khăn để đặt những vòng cung vào đúng chỗ và cài chốt lại. Almanzo phải hết sức kiên nhẫn và nhỏ nhẹ. Cậu vỗ về lũ bò, ngay cả những lúc cậu muốn đập chúng, cho chúng những củ cà-rốt và ngọt ngào dỗ dành. Trước khi cậu đặt xong ách và cột chúng vào cỗ xe, ba đã lên đường đi vào rừng cây. Almanzo cho xe theo sau. Những con bò bước đi khi cậu hô “bước tới!” Và quay sang phải hoặc sang trái khi cậu quất roi hô “diệt!” Hoặc “vắt!”. Chúng mải miết bước dọc con đường hết lên lại xuống đồi còn Almanzo đứng trên cỗ xe trượt cùng Pierre và Louis ở sau lưng. Bây giờ cậu đã mười tuổi đang điều khiển những con bò của riêng mình trên cỗ xe của mình và đang tới rừng cây để kéo gỗ. Trong rừng, tuyết chất cao trên các cội cây. Những cành thông và tuyết tùng thấp nhất đều bị vùi lấp trong tuyết. Trên tuyết không còn đường, không còn dấu vết lối đi mà chỉ có dấu chân chim nhẹ nhàng và những chấm mờ nhạt ở nơi lũ thỏ nhảy nhót. Từ thật sâu trong rừng cây, tiếng những lưỡi rìu đốn chặt đang vang lên. Cặp bò lớn của ba dầm mình trong tuyết mở ra một con đường và lũ bò nhỏ của Almanzo miệt mài bước theo sau. Họ đi xa mãi vào trong rừng cây tới chỗ phát hoang đang có French Joe và Lazy John đang đốn cây. Những khúc cây nằm ngổn ngang, chìm một nửa trong tuyết. John và Joe cưa cây thành những khúc cây dài mười lăm bộ có đường kính lớn tới hai bộ. Những cây lớn nặng tới nỗi sau người không khiêng lên nổi nhưng ba vẫn phải chất lên xe. Ba ngừng xe sát bên khúc cây rồi John và Joe tới giúp. Họ dùng ba cây trượt là những cây gỗ cứng chắc. Những cây trượt được cắm vào dưới khúc cây, nâng nó lên cho tựa vào xe. Lúc đó, họ dùng tới những cây sào lật. Sào lật có một đầu nhọn với những móc sắt lớn thả lủng lẳng ở phía dưới. John và Joe đứng gần hai đầu của khúc cây. Họ thọc đầu sào nhọn vào sát khúc cây và khi họ đẩy dựng đứng cây sào lên thì những móc sắt bám vào khúc cây lăn nó nhích lên một chút. Ba cũng có một cây sào lật chống ở giữa khúc cây để giữ cho nó không lăn xuống trong lúc John và Joe lấy cây sào của họ ra để lăn tiếp. Họ lăn cây lên thêm một chút nữa và ba lại lập tức chống cây sào giữ cây lại để cho họ lấy sào ra và đặt lấn lên. Từng chút, từng chút, khúc cây được lăn lên mãi cho tới khi nó vượt qua mấy cây trượt vào cỗ xe. Almanzo không có sào móc lật và cậu phải tự chất gỗ lên xe. Cậu kiếm ba cây gỗ thẳng dùng làm thanh trượt. Rồi với những cây sào ngắn hơn, cậu bắt đầu chất những khúc cây nhỏ nhất. Những khúc cây này có đường kính cỡ tám, chín inch nhưng cong queo rất khó giữ. Almanzo đẩy Pierre và Louis ra hai đầu cây còn cậu đứng ở giữa giống như ba. Các cậu hổn hển đẩy, trục, nâng lên đưa khúc cây vượt qua thanh trượt. Việc không dễ làm vì sào lật của các cậu không có móc nên rất khó kìm giữ khúc cây. Các cậu đã chất được sáu khúc cây nên lúc đó phải chất thêm ở trên cao khiến những thanh trượt dựng thành dốc đứng. Xe của ba đã được chất đầy và Almanzo càng vội hơn. Cậu vung chiếc roi hối Star và Bright mau chóng tới khúc cây gần nhất. Một đầu của khúc cây này lớn hơn đầu kia rất nhiều vì vậy không thể lăn một cách bình thường được. Almanzo bảo Louis đứng ở đầu nhỏ hơn và dặn không được lăn nhanh quá. Pierre và Louis lăn khúc cây lên khoảng một inch cho Almanzo cắm sào giữ cây lại trong lúc Pierre và Louis lăn tiếp. Các cậu đưa khúc cây lên cao trên các thanh trượt. Almanzo vận hết sức cố kìm giữ thật chặt. Cậu trụ hai chân, nghiến chặt răng, cổ căng cứng và mắt lồi ra đúng lúc toàn bộ khúc cây đột nhiên trượt xuống. Cây sào bật khỏi tay đập thẳng vào đầu cậu. Khúc cây ào ào lăn xuống. Cậu cố tránh xa nhưng khúc cây đã đè nhấn cậu vào trong tuyết. Pierre và Louis hét lên thất thanh. Almanzo không thể nào dậy nổi. Khúc cây đè ngang trên người cậu. Ba và John nhấc khúc cây lên cho Almanzo trườn ra. Cậu đứng lên được. Ba hỏi: - Đau không, con? Almanzo sợ tới mức muốn ói. Cậu cố lên tiếng: - Không, ba. Ba sờ nắn vai và cánh tay cậu, nói một cách vui vẻ: - Tốt, tốt, không bị gãy xương! John nói: - Nhờ có tuyết dày, không thì khó tránh chấn thương nặng. Ba nói: - Dễ gặp tai nạn lắm, con trai. Lần sau phải ráng cẩn thận. Vào rừng cây là phải tự coi chừng cho mình. Almanzo muốn nằm nghỉ. Cậu thấy đau ở đầu, ở bụng và đau khủng khiếp ở chân phải. Nhưng cậu vẫn giúp Pierre và Louis đặt thẳng khúc cây trở lại và lần này cậu không vội vã nữa. Các cậu đưa được khúc cây lên xe nhưng khá lâu sau khi ba đã ra đi với cỗ xe chất đầy. Lúc này, Almanzo quyết định không chất thêm gỗ. Cậu leo lên đống cây, vung roi hô: - Bước tới! Star và Bright kéo những cỗ xe không nhúc nhích. Rồi Star cố kéo và ngưng lại. Đến lượt Bright kéo và ngưng đúng lúc Star bắt đầu kéo. Rồi cả hai cùng ngưng. Almanzo tiếp tục vung và hô: - Bước tới! Bước tới! Star lại kéo, rồi đến Bright, rồi đến Star. Cỗ xe vẫn không nhúc nhích. Star và Bright thở khói ra mũi. Almanzo cảm thấy muốn hét lên và chửi thề. Cậu quát: - Bước tới! Bước tới! John và Joe ngừng cưa và Joe đến trước cỗ xe. Ông ta nói: - Cháu chở nặng quá rồi. Mấy đứa xuống xe đi bộ đi. Còn Almanzo, cháu phải nhỏ nhẹ với lũ bò suốt đường. Cháu sẽ khiến mấy con bê này do dự nếu cháu không cẩn thận. Almanzo nhảy xuống. Cậu lau cổ cho lũ bò và gãi quanh sừng của chúng. Cậu hơi nhấc chiếc ách lên, lòn bàn tay xuống đặt nhẹ nhẹ lại đúng chỗ. Suốt thời gian đó, cậu trò chuyện với mấy con bê đực nhỏ. Rồi cậu đứng bên Star vung roi và hô: - Bước tới! Star và Bright cùng kéo chiếc xe chuyển động. Almanzo mải miết đi suốt đoạn đường về nhà. Pierre và Louis bước theo những vệt nhẵn sau mấy thanh bàn trượt, nhưng Almanzo phải vật lộn với lớp tuyết dày mềm xèo bên cạnh Star. Khi cậu về tới đống gỗ ở nhà, ba nói cậu đã làm tốt trong việc kéo gỗ. Ba nói: - Con trai, lần sau nên nhớ chỉ đặt một cỗ xe chở nặng như thế vào con đường đã mở. Con sẽ làm hư lũ bò nếu con để chúng do dự cò cưa. Chúng sẽ có ý nghĩ là chúng không kéo nổi cỗ xe và không cố gắng. Sau đó, chắc chắn chúng sẽ hư. Almanzo không thể ăn nổi bữa trưa. Cậu cảm thấy bệnh và bàn chân đau nhức. Má nghĩ là có lẽ cậu nên nghỉ nhưng Almanzo không chịu để một tai nạn nhỏ ngăn trở mình. Tuy nhiên, cậu đi chậm. Trước khi đến khu rừng cây, cậu gặp ba đang đưa xe gỗ trở về. Cậu biết rằng một cỗ xe trống phải mở đường cho một cỗ xe chở nặng. Vậy là cậu quơ roi, hô: - Diệt! Star và Bright chuyển hướng bất ngờ về bên phải và trước khi Almanzo kịp kêu, chúng đã sa vào một mương tuyết sâu. Chúng không biết cách mở đường như những con bò lớn. Chúng khịt khịt mũi, loạng choạng, nhào tới và cỗ xe chìm sâu hơn dưới tuyết. Hai con bê đực nhỏ xoay quanh, chiếc ách vặn đi khiến chúng gần nghẹt thở. Almanzo lăn lộn trong tuyết, cố tới sát đầu của chúng. Ba đã trở lại và nhìn thấy khi đi ngang. Nhưng ba hướng về phía trước và lái cỗ xe đi thẳng về nhà. Almanzo đã nắm được đầu Star và nói với nó nhỏ nhẹ. Pierre và Louis giữ được đầu của Bright và hai con bê đực ngưng nhào tới. Chỉ có đầu và lưng của chúng còn hở trên tuyết. Almanzo chửi thề: - Mẹ kiếp! Các cậu phải đào lôi lũ bê đực và cỗ xe ra. Các cậu không có xẻng nên các cậu phải dọn tất cả chỗ tuyết bằng tay và chân. Không còn cách nào khác cho các cậu. Các cậu mất rất nhiều thời gian. Các cậu đá, đạp tất cả tuyết khỏi phía trước cỗ xe và lũ bê đực. Các cậu giậm tuyết xuống cho nén cứng và trơn trước các bàn trượt. Almanzo đặt thẳng lại cây vạt trước xe, chỉnh lại sợi xích và chiếc ách. Cậu thấy cần phải ngồi xuống nghỉ một chút. Nhưng cậu đứng lên ngay tới vỗ về Star và Bright, dịu giọng khuyến khích chúng. Cậu lấy một trái táo của Pierre, bẻ làm hai và chia cho hai con bê đực. Ngay khi chúng ăn xong, cậu huơ cây roi và nói một cách vui vẻ: - Bước tới! Pierre và Louis tận lực đẩy cỗ xe. Cỗ xe nhích đi. Almanzo hô và quơ chiếc roi. Star và Bright gò lưng kéo. Chúng bước ra khỏi mương tuyết và cỗ xe tròng trành lao lên. Thế là Almanzo đã vượt qua một tai nạn bằng chính sức của mình. Lúc này, đường tới rừng cây đã được mở và chuyến xe này Almanzo không chất gỗ quá nhiều. Thế là trên đường đưa xe chở gỗ về nhà cậu đã ngồi trên đống gỗ cùng với Pierre và Louis ở phía sau. Xuống tới con đường dài, cậu nhìn thấy ba đang tới và cậu tự nhủ lần này chắc ba quẹo qua dẫn đường cho cậu. Star và Bright nước đi một cách phấn khởi với cỗ xe trượt một cách dễ dàng trên con đường trắng toát. Chiếc roi của Almanzo huơ mạnh trong bầu không khí lạnh cóng. Cặp bò lớn của ba càng lúc càng tới gần hơn và ba đang cưỡi trên cỗ xe trượt lớn. Dĩ nhiên những con bò lớn lúc này sẽ mở đường cho cỗ xe chở nặng của Almanzo. Nhưng có lẽ Star và Bright nhớ ra là chúng phải quẹo qua trước. Có lẽ chúng biết là chúng phải tỏ ra lễ độ với những con bò lớn, già hơn. Thế là ngoài hẳn sự chờ đợi của mọi người, chúng đột ngột quẹo qua đường trước. Một bàn trượt rớt vào lớp tuyết dày. Rồi cỗ xe nghiêng qua khiến đống gỗ và mấy cậu bé ở trên nháo nhào, đảo lộn. Almanzo văng ra ngoài cắm đầu xuống tuyết. Cậu bị chìm lún, cố nhoài người đứng dậy. Cỗ xe của cậu lật nghiêng về một phía. Những khúc cây cắm đứng rải rác trong các mương tuyết. Còn có một đống cẳng chân màu nâu đỏ và các khung sườn chìm vào trong tuyết. Những con bò lớn của ba đi tới một cách điềm tĩnh. Pierre và Louis đứng dậy khỏi các hố tuyết, chửi thề bằng tiếng Pháp. Ba cho các con bò lớn ngưng lại, bước xuống xe. Ba nói: - Được, được rồi, con trai! Thế là mình hình như lại gặp lại. Almanzo và ba cùng ngắm những con bê đực. Bright nằm chồng lên Star, các cẳng chân của chúng lẫn lộn với sợi dây xích, cây vạt kéo và chiếc ách chồm lên tai Star. Chúng nằm im lìm như không dám cử động. Ba gỡ rối cho chúng và giúp chúng đứng lên. Chúng không bị thương. Ba giúp Almanzo đưa xe nằm thẳng lại trên các bàn trượt. Ba lấy những cây chặn trên xe của ba làm thanh trượt và những cây chặn trên xe của Almanzo làm sào lật để chất các khúc cây lên xe trở lại. Rồi ba đứng lui lại, im lặng trong lúc Almanzo đặt ách lên Star và Bright rồi vuốt ve khuyến khích chúng cho chúng kéo cỗ xe đầy gỗ dọc theo bờ rãnh nghiêng bình yên vào đường lớn. Ba nói: - Đúng đường rồi đó, con trai! Xuống rồi lại lên! Trọn tuần và trọn tuần tiếp theo, cậu kéo gỗ từ rừng cây về. Cậu đã học được cách điều khiển bò tốt và cách kéo gỗ tốt. Mỗi ngày bàn chân cậu bớt đau một chút và cuối cùng cậu hoàn toàn không cà nhắc nữa. Cậu giúp ba kéo một đống gỗ lớn, cưa xong, cắt xẻ và cột lại trong nhà lán gỗ. Rồi vào một buổi tối, ba nói số gỗ kéo về đã đủ dùng cho cả năm và má nhắc là đã tới thời gian Almanzo đi học, nếu cậu muốn có mặt trong học kì mùa đông năm đó. Almanzo nói là còn lo đập các thứ hạt và những con bò con đang cần được huấn luyện. Cậu hỏi: - Con đi học để làm gì? Bất quá con sẽ biết đọc, biết viết, biết đánh vần trong khi con không muốn làm thầy giáo hay chủ cửa hàng. Ba nói từ tốn: - Con có thể đọc, viết và đánh vần. Nhưng con có thể tính toán được không? Almanzo đáp: - Dạ, con có thể tính toán một chút. - Một nông dân phải biết tính toán nhiều hơn mức đó, con trai. Tốt hơn là con nên đến trường. Almanzo không nói gì thêm vì biết rằng có nói cũng vô ích. Sáng hôm sau, cậu xách thùng đồ ăn dành cho bữa trưa đến trường. Năm nay, chỗ ngồi của cậu đã chuyển lui xa hơn về phía cuối của phòng, thế là cậu đã có bàn để đặt sách và bảng viết. Và cậu học môn toán hết sức chăm chỉ, vì cậu càng học mau chóng bao nhiêu thì càng sớm được rời khỏi trường học bấy nhiêu. Chương 28: Chiếc Ví Của Ông Thompson Năm đó, ba có dư quá nhiều cỏ khô, bò ngựa không thể nào ăn hết nên ba quyết định đem lên thành phố bán bớt. Ba vào rừng, đem về một khúc tần bì thẳng, nhẵn nhụi. Ba đẽo hết lớp vỏ ngoài, dùng một cây vồ lớn đập đều khắp khúc cây cho tới khi lớp gỗ mới phát triển vào mùa hè vừa qua mềm hẳn rồi ba lấy ra một lớp gỗ mỏng ở phía dưới, đây là lớp gỗ phát triển từ mùa hè trước. Lúc đó ba đang dùng dao rạch những vết rạch dài từ đầu tới cuối cây cách nhau khoảng một inch rưỡi. Ba tróc lớp gỗ mỏng cứng đó ra thành những dải rộng một inch rưỡi. Đây là những cọng tần bì. Khi Almanzo thấy ba chất đống những cọng này trên nền Kho Lớn, cậu đoán ba sắp đóng cỏ khô thành kiện và cậu hỏi: - Ba cần phụ giúp chứ? Mắt ba sáng lên. Ba nói: - Phải, con trai. Con có thể nghỉ học để ở nhà. Từ nhỏ con vẫn chưa học đóng kiện cỏ khô. Sáng sớm hôm sau, ông Weed, người đóng kiện cỏ khô tới với cỗ máy ép và Almanzo phụ đặt máy trên nền Kho Lớn. Máy là một thùng bằng gỗ chắc chắn, dài và rộng bằng một kiện cỏ, nhưng cao mười bộ. Vỏ bao của máy có thể đóng chặt khít với phần đáy thả lỏng. Hai cần nâng bằng sắt nối khớp với phần đáy thả lỏng và các cần nâng này chạy trên những bánh xe nhỏ nằm trên một guồng sắt chạy ra từ mỗi đầu thùng. Guồng xích giống như một đường sắt nhỏ và máy ép được gọi là máy ép đường sắt. Đây là loại máy mới, hoàn hảo cho việc đóng kiện cỏ khô. Trong sân kho, ba và ông Weed dựng một máy trục đứng với một mái chèo dài ở bên trên. Một sợi thừng từ máy trục kéo xuyên qua một vòng khoen dưới máy ép cỏ buộc vào một sợi dây chạy tới những bánh xe ở cuối các cần nâng. Khi tất cả đã xong, Almanzo buộc Bess vào mái chèo. Ba nhồi cỏ vào trong thùng và ông Weed đứng trong thùng đạp cỏ xuống cho tới khi không thể đưa thêm cỏ vào thùng. Rồi, ông ta đóng chặt vỏ bao trên thùng và ba kêu: - Ổn rồi, Almanzo! Almanzo giật cho những sợi dây đập vào người Bess và hô: - Bước tới, Bess! Bess bắt đầu đi vòng quanh trục đứng và máy trục bắt đầu cuốn vòng sợi thừng. Sợi thừng kéo đầu những cần nâng về phía máy ép và đầu phía trong của các cần nâng đẩy phần đáy thả lỏng của thùng máy lên. Phần đáy nhấc lên từ từ ép vào cỏ khô. Sợi thừng kêu cót két và thùng máy trĩu xuống cho tới khi cỏ khô được ép chặt tới mức không thể nào chặt hơn nổi. Lúc đó, ba hô: - Oa! Và Almanzo hô: - Oa, Bess! Ba leo lên máy ép cỏ khô và kéo những cọng tần bì xuyên qua các kẽ hở hẹp vào thùng máy. Ba đẩy chúng thật khít quanh kiện cỏ khô và buộc nút một cách chắc chắn. Ông Weed mở vỏ bao và kiện cỏ bật lên, căng phồng giữa những cọng tần bì ép khít. Kiện cỏ nặng 250 pao nhưng ba nhấc lên một cách dễ dàng. Rồi ba và ông Weed bố trí lại máy ép. Almanzo tháo sợi thừng trên máy trục đứng và tất cả lại bắt đầu ép một kiện cỏ khác. Họ làm việc suốt ngày và tối đó ba bảo cỏ đóng kiện đã đủ. Almanzo ngồi trên bàn ăn bữa tối, thầm ước sẽ không phải trở lại trường. Cậu đã nghĩ tới tính toán và nghĩ nhiều tới mức phát ra thành lời trước khi cậu nhận ra. Cậu nói: - Một lố là ba mươi kiện, một kiện là hai đô-la. Vậy là một lố sáu mươi đô… Cậu ngưng lại, hốt hoảng. Cậu biết khi ngồi bên bàn ăn thì không lên tiếng là hay hơn. Má nói: - Chúa ơi! Hãy nghe thằng bé nói kìa! Ba cũng nói: - Được, được, con trai! Ba thấy con đang học cho một mục đích. Ba nhấc ly trà lên uống rồi đặt xuống, nhìn Almanzo tiếp: - Việc học tốt nhất là ở trong thực tế. Con thấy sao về việc ngày mai sẽ cùng đi bán cỏ khô với ba? Gần như Almanzo bật kêu lên: - Ô, dạ! Con vui lắm, ba! Sáng hôm sau cậu không phải đến trường. Cậu leo cao ngất ngưởng trên đám cỏ khô, nằm úp bụng, chống chịu bằng hai gót chân. Chiếc mũ của ba nằm thấp hơn cậu và dưới nữa là những chiếc lưng phẳng phiu của lũ ngựa. Cậu ngồi cao như đang ở trên một ngọn cây. Đống cỏ khô hơi lắc lư và thùng xe kêu cót két trong lúc vó ngựa kêu vang những âm thanh buồn nản trên mặt tuyết cứng. Không khí trong suốt, se lạnh và trời trong ngắt trên những cánh đồng đầy tuyết lấp lánh. Almanzo chợt nhìn thấy một vật nhỏ màu đen đang nằm bên đường ngay bên kia cây cầu bắc ngang sông Trout. Khi cỗ xe chạy ngang, cậu nghiêng người ra ngoài đống cỏ khi và nhận ra đó là một cuốn sổ tay. Cậu kêu lên và ba ngưng lũ ngựa lại để cậu nhảy xuống lượm lên. Cuốn sổ là một chiếc ví màu đen căng phồng. Almanzo leo lên những kiện cỏ và lũ ngựa tiếp tục chạy. Cậu ngắm chiếc ví rồi mở ra và thấy một xấp tiền giấy. Không có gì chứng tỏ chiếc ví là của ai. Cậu đưa xuống cho ba và ba chuyền dây cương cho cậu. Lũ ngựa có vẻ rất xa ở phía dưới với những sợi dây dốc xiên xuống những khuôn vòng cổ và Almanzo cảm thấy mình quá nhỏ. Nhưng cậu rất thích thú được lái xe. Cậu nắm dây cương một cách cẩn thận và lũ ngựa phóng đều đặn. Ba coi chiếc ví và số tiền. Ba nói: - Có tới mười lăm tờ một trăm đô-la. Nhưng là của ai đây? Người này hẳn phải là một tay sợ ngân hàng mới mang một số tiền lớn như thế này ở trong người. Con cứ nhìn những nếp nhăn trên những tờ giấy bạc là thấy ông ta mang theo một thời gian rồi. Đây là loại giấy bạc lớn gấp chung lại và rõ ràng ông ta thu được tất cả trong một lần. Ông ta phải là một thứ hay ngờ vực hoặc lừa đảo và mới vừa bán một thứ gì rất có giá. Almanzo không biết nổi nhưng ba không chờ nghe câu trả lời. Lũ ngựa chạy vòng theo một đoạn đường cong tốt như khi ba đang điều khiển chúng. Ba bỗng la lên: - Thompson! Ông ta bán đất vào mùa thu vừa rồi. Ông ta sợ các ngân hàng, luôn ngờ vực và đã gạt bán quá giá món da sống làm xà phòng cho một người mua đồ cũ. Thompson là con người này! Ba đút chiếc ví vào túi và cầm lại dây cương từ tay Almanzo. Ba nói: - Mình sẽ biết rõ khi gặp ông ta trong thị trấn. Ba đưa thẳng xe tới chỗ mua bán thức ăn cho ngựa. Người mua cỏ bước ra và ba giao cho Almanzo bán cỏ. Ba đứng lui lại, im lặng trong lúc Almanzo chỉ cho người mua có thấy đây là loại cỏ dài và cỏ ba lá sạch, tươi và mỗi kiện đều nén chắc, đủ khối lượng. Người mua cỏ hỏi: - Cậu muốn bán bao nhiêu? Almanzo nói: - Hai đô-la hai mươi lăm xu một kiện. Người mua cỏ nói: - Tôi không mua tới giá đó. Cỏ này không đáng như thế. Almanzo hỏi: - Theo ông thì mua giá nào là vừa phải? Người mua cỏ nói: - Hai đô-la, không hơn một xu. Almanzo đáp tức khắc: - Được thôi, cháu đồng ý bán hai đô-la. Người mua cỏ nhìn ba rồi hất chiếc mũ về phía sau và hỏi Almanzo tại sao cậu nếu giá hai đô-la hai mươi lăm xu. Almanzo hỏi lại: - Ông chịu mua với giá hai đô-la rồi chứ? Người mua cỏ đáp là đã chịu rồi. Almanzo nói: - Như thế này, cháu đòi hai đô-la hai mươi lăm xu vì nếu cháu đòi hai đô-la thì ông sẽ trả bớt xuống mỗi đô la còn bảy mươi lăm xu. Người mua cỏ cười nói với ba: - Cậu con ông thông minh lắm. Ba nói: - Vẫn phải chờ thời gian cho thấy. Nhiều người mở đầu tốt nhưng về sau lại tồi. Vẫn phải chờ xem nó vào cuộc lâu dài ra sao. Ba không nhận tiền bán cỏ mà để cho Almanzo nhận và kiểm lại cho là đã đủ sáu mươi đô-la. Rồi hai cha con bước vào cửa hàng ông Case. Cửa hàng này luôn đông khách nhưng ba thường mua tại đây vì ông Case thường bán hàng cho ba với giá hạ hơn những nhà buôn khác. Ông Case nói: - Thà tôi có ngay một đồng sáu xu còn hơn phải chờ đợi để có một đồng si-linh. Almanzo chen vào đám đông cùng với ba, đứng chờ trong lúc ông Case tiếp những người tới trước. Ông Case rất lễ độ và thân mật với mọi người như nhau. Ông phải như thế vì tất cả đều là khách hàng. Ba cũng lễ độ với mọi người nhưng không thân mật với người này giống như thân mật với người khác. Một lúc sau, ba đưa cho Almanzo chiếc ví và nhắc cậu đi kiếm ông Thompson. Ba phải ở lại cửa hàng chờ tới lượt và không muốn trễ giờ trở về làm việc nhà. Không có một cậu bé nào trên đường phố vì tất cả đều đang ở trường học. Almanzo thích thú đi ra phố mang theo số tiền như thế và cậu nghĩ tới sự vui mừng của ông Thompson khi nhận lại số tiền. Cậu nhìn vào các cửa hàng, các tiệm hớt tóc và ngân hàng. Rồi cậu thấy cặp ngựa của ông Thompson đang đứng bên lề phố ngay trước cửa hàng bán xe của ông Paddock. Cậu mở khuôn cửa ra vào của toà nhà dài thấp lè tè và bước vào. Toà nhà ấm áp và có mùi vị dễ chịu của ván xẻ, da và sơn. Bên kia lò, hai người thợ đang đóng một thùng xe và một người khác đang sơn những đường màu đỏ mỏng trên các nan hoa màu đỏ của một chiếc xe độc mã mới. Cỗ xe lấp lánh một cách tự hào trong lớp sơn đen. Những tấm ván dài uốn cong chất thành đống và toàn thể chỗ làm việc thoải mái như một nhà kho trong ngày mưa. Những người thợ huýt gió trong lúc đo, đánh dấu, cưa, bào những mảnh gỗ thơm phức. Ông Thompson, đang tranh luận về giá cả của một cỗ xe mới. Almanzo thấy rõ là ông Paddock không thích ông Thompson nhưng ông đang cố bán cỗ xe mới. Ông tính giá cả bằng cây bút chì lớn của thợ mộc và cố dịu giọng thuyết phục ông Thompson: - Ông thấy đó, tôi không thể hạ giá hơn nữa và không thể giảm công thợ. Tôi đã đưa ra một cái giá tốt nhất để ông mua. Tôi bảo đảm là chúng tôi đã đóng một cỗ xe hoàn toàn làm hài lòng ông trừ phi ông không muốn có nó. Ông Thompson lên tiếng một cách ngờ vực: - Được, có lẽ tôi sẽ trở lại gặp ông nếu tôi không kiếm được một cái nào khác tốt hơn. Ông Paddock đáp: - Rất vui được tiếp ông bất kì lúc nào. Rồi ông nhìn Almanzo và hỏi cậu con heo ra sao rồi. Almanzo rất thích ông Paddock mập mạp vui nhộn vì ông luôn hỏi về Lucy. - Lúc này nó nặng khoảng một trăm năm mươi pao. Almanzo nói với ông rồi quay về phía ông Thompson hỏi: - Ông có đánh rơi một cái ví không? Ông Thompson giật nảy người lên. Ông thọc một bàn tay vào túi và kêu lớn: - Có, tôi mất! Trong đó có mười lăm tờ một trăm đô-la. Nó ra sao rồi? Cháu biết gì về nó? Almanzo hỏi: - Có phải cái này không? - Đúng, đúng, đúng nó rồi. Ông Thompson vừa nói vừa chộp chiếc ví. Ông ta mở ra và hối hả đếm tiền. Ông ta đếm tất cả những tờ giấy bạc hai lần và tỏ ra đúng là người đã gạt người mua đồ cũ về món da sống và món da làm xà phòng. Rồi, ông thở ra một hơi dài nhẹ nhõm và nói: - Tốt, thằng nhóc ngu si này không ăn cắp một tờ nào. Almanzo thấy nóng mặt. Cậu muốn đấm ông ra ngay. Ông Thompson thọc bàn tay xương xẩu vào túi quần lục tìm. Ông ra lấy ra một thứ gì đó. Ông ta đặt vào bàn tay Almanzo nói: - Này! Đó là một đồng năm xu. Almanzo giận đến mức không thèm nhìn. Cậu ghét ông Thompson đến mức muốn đánh ông ta thật đau. Ông ta đã kêu cậu là thằng nhóc ngu si và còn coi cậu như một tên ăn cắp. Almanzo không muốn có đồng năm xu cũ kĩ này. Đột nhiên cậu nghĩ ra điều phải nói: - Này! Cậu lên tiếng vừa đưa đồng năm xu lại. - Hãy giữ lấy đồng năm xu của ông. Tôi không thể đổi nó ra tiền lẻ được. Khuôn mặt ti tiện keo kiệt của ông Thompson đỏ bừng lên. Một người thợ bật lên một tiếng cười giễu cợt. Nhưng ông Paddock giận dữ bước xốc tới trước ông Thompson, lên tiếng: - Ông không được gọi thằng bé này là một thằng ăn cắp, ông Thompson! Và nó cũng không phải là một người đi ăn xin! Đó có phải là cách để đối xử đúng với nó không? Khi nó mang tới trả lại cho ông mười lăm tờ một trăm đô-la! Thế mà ông lại gọi nó là đứa ăn cắp và cho nó một đồng năm xu, ông là thứ gì? Ông Thompson bước lui lại nhưng ông Paddock bước lên chặn đường ông ta. Ông Paddock dí nắm đấm sát dưới mũi ông Thompson và nói: - Ông là thứ keo kiệt dơ dáy! Không may cho ông là tôi lại biết chuyện này! Chuyện đã xảy ra ở nhà tôi! Một đứa bé đàng hoàng, lương thiện, ngoan ngoãn, còn ông… Tôi sẽ… Thôi! Ông đưa cho cậu bé một trăm đồng, mau lên! Không, hai trăm! Hai trăm đô-la, tôi nói rõ rồi đó, nếu không ông sẽ lãnh hậu quả! Ông Thompson muốn nói một điều gì và cả Almanzo cũng muốn nói. Nhưng nắm tay của ông Paddock siết chặt lại và những múi thịt trên cánh tay ông căng lên. Ông hét: - Hai trăm! Đưa ngay! Tôi không chờ đâu! Ông Thompson co rúm người lại nhìn ông Paddock rồi ông ta liếm ngón tay cái, vội vã rút ra mấy tờ giấy bạc. Ông ta lấy ra dúi cho Almanzo. Almanzo nói: - Ông Paddock… - Bây giờ cút ra khỏi đây ngay nếu muốn còn nguyên vẹn! Cút ngay! Ông Paddock quát lớn và trước khi Almanzo đang đứng sững với mấy tờ giấy bạc trong tay kịp phản ứng, ông Thompson đã đóng sập cánh cửa lại. Almanzo căng thẳng đến nỗi nói lắp bắp. Cậu nói là cậu nghĩ ba không thích như thế. Cậu thấy khó xử về việc đã cầm mấy tờ giấy bạc và không muốn giữ lại. Ông Paddocl nói ông sẽ tới nói chuyện với ba. Ông buông ống tay áo xuống, khoác áo choàng và hỏi: - Ông ấy đâu? Gần như Almanzo phải chạy để theo kịp những bước sải chân dài của ông Paddock. Bàn tay cậu nắm chặt mấy tờ giấy bạc. Ba đang xếp các gói đồ lên xe và ông Paddock kể hết chuyện đã xảy ra. Ông Paddock nói: - Tôi chỉ muốn đập vỡ cái bộ mặt khinh khỉnh của lão ta. Nhưng thình lình tôi lại thấy lột tiền của lão sẽ khiến lão đau đớn hơn. Vả lại, tôi cũn nghĩ là phải đền đáp đúng cho cậu bé. Ba phản đối: - Tôi không thấy cần phải đền đáp cho một người vì đã làm một điều thiện bình thường. Dù sao, tôi rất cảm kích trước cái tinh thần mà ông đã biểu lộ, Paddock. Ông Paddock nói: - Tôi không nói là cần đền đáp xứng đáng cho cái việc trả lại số tiền của ông Thompson. Nhưng thật quá đáng khi đòi thằng bé đứng đó để chửi nó về việc kia. Chính vì cái điều quá đáng này mà tôi nói phải đền đáp cho Almanzo hai trăm. Ba nói: - Thôi, cứ nhìn sự việc như ông nói. Cuối cùng, ba quyết định: - Tốt, con trai, con có thể giữ số tiền đó. Almanzo vuốt lại mấy tờ giấy bạc và ngắm chúng, những hai trăm đô-la. Số tiền lớn ngang với món tiền bán một con ngựa bốn tuổi của ba. Ba tiếp: - Tôi đã chịu ơn ông rất nhiều, Paddock, qua cái việc ông đương đầu để bênh vực thằng nhỏ. Ông Paddock nói: - Thôi, tôi có đủ điều kiện để thỉnh thoảng mất một khách hàng vì lí do chính đáng. Ông quay lại hỏi Almanzo: - Cháu sẽ làm gì với số tiền đó? Almanzo nhìn ba, cậu hỏi: - Con có thể gửi vào ngân hàng được không? Ba đáp: - Đó đúng là nơi để gửi tiền. Được, được, được! Hai trăm đô-la. Trước đây, ba lớn gấp đôi tuổi con mà vẫn chưa có số tiền như thế. Ông Paddock cũng nói: - Tôi cũng vậy. Đúng, tôi còn nhiều tuổi hơn thế nữa! Ba và Almanzo tới ngân hàng. Almanzo chỉ có thể ngắm người thủ quĩ ngồi trên chiếc ghế cao với cây viết nhét sau tai qua rìa bàn. Người thủ quĩ phải nghểnh lên để nhìn xuống Almanzo và hỏi ba: - Tôi thấy tốt hơn là nên đưa số tiền này vào trương mục của ông, thưa ông? Ba nói: - Không, đây là tiền của thằng nhỏ, cứ để cho nó tự lo. Nó chưa từng được học điều này từ trước. Người thủ quĩ đáp: - Dạ, thưa ông! Almanzo phải kí tên hai lần. Rồi người thủ quĩ cẩn thận đếm những tờ giấy bạc và ghi tên Almanzo vào một cuốn số nhỏ. Ông ta viết con số $200 trong cuốn sổ và đưa cho Almanzo. Almanzo theo ba rời ngân hàng và hỏi: - Làm sao con có thể lấy số tiền ra? - Con yêu cầu là họ sẽ trả lại. Nhưng cần nhớ điều này, con trai, khi nào tiền còn nằm ở ngân hàng thì nó còn làm việc cho con. Mỗi đô-la trong ngân hàng sẽ đem lại cho con bốn xu một năm. Đây là cách làm ra tiền dễ hơn bất kì cách nào khác. Bất kì lúc nào con muốn tiêu một đồng năm xu, con phải ngưng lại và suy nghĩ coi phải làm bao nhiêu việc mới có nổi một đô-la. Almanzo nói: - Dạ, thưa ba. Cậu đang nghĩ là cậu đã có dư tiền để mua một con ngựa con. Cậu có thể huấn luyện con ngựa con của riêng cậu và có thể dạy nó mọi thứ. Ba không bao giờ chịu cho cậu huấn luyện những con ngựa con của ba. Đây là điều chấm dứt một ngày căng thẳng. Chương 29: Cậu Bé Quê Ông Paddock gặp Almanzo và ba ở phía ngoài ngân hàng. Ông ta nói với ba là ông ta vừa mới nảy ra một ý nghĩ. Ông ta nói: - Tôi muốn nói về điều này một chút thôi. Về thằng nhỏ này của ông. Almanzo hết sức ngạc nhiên. Ông Paddock hỏi: - Có khi nào ông nghĩ sẽ để cho cậu bé trở thành một thợ đóng bánh xe không? Ba trả lời chậm rãi: - Không đâu, tôi không thể bảo là đã có lúc nghĩ như thế. Ông Paddock lên tiếng: - Vậy thì bây giờ hãy nghĩ tới điều đó. Đây là một dịch vụ đang phát đạt, Wilder. Xứ này đang phát triển, dân số tiếp tục tăng lên và nông dân rất cần có xe chuyên chở và đi lại. Họ cần phải qua lại tới lui. Đường sắt không làm hại nổi chúng tôi. Mỗi lúc chúng tôi lại có thêm khách hàng. Đây đúng là một cơ hội tốt mở ra cho một đồng nghiệp trẻ thông minh. Ba nói: - phải lắm! Ông Paddock tiếp: - Tôi không có con trai, con ông lại có hai đứa. Lẽ ra ông nên nghĩ về bước đầu vào đời của Almanzo từ trước đây. Hãy để thằng bé theo học nghề với tôi, phần tôi sẽ đối đãi đàng hoàng với nó. Nếu nó theo hướng này, tôi nghĩ là không có lí do gì mà nó lại không có cơ hội làm ăn. Nó sẽ thành người giàu có, có thể có dưới tay cả năm chục nhân công. Đúng là một việc đáng nghĩ tới. Ba nói: - Đúng, đúng, đúng là một việc đáng để nghĩ tới. Tôi rất hiểu giá trị điều ông vừa nói, Paddock. Trên đường về nhà, ba không trò chuyện. Almanzo ngồi cạnh ba cũng không nói điều gì. Cậu nghĩ về những điều vừa dồn dập xảy ra, dồn dập xô bồ. Cậu nghĩ tới những ngón tay dính mực của người thủ quĩ, tới cái miệng mỏng dính của ông Thompson gắn chặt vào những trò đầu cơ, tới những nắm đấm của ông Paddock và nghĩ tới khung cảnh cửa hàng bán xe vui vẻ, ấm áp, bận rộn. Cậu nghĩ nếu cậu theo học việc với ông Paddock thì cậu sẽ không còn phải đến trường. Cậu vẫn thường mong ước được làm thợ cho ông Paddock. Công việc thật vô cùng quyến rũ. Những miếng ván dài, mỏng được uốn cong từ những cạnh sắc bén của cây tiêu huyền. Các ngón tay của người thợ vuốt ve các mặt gỗ trơn bóng. Almanzo cũng thích làm những công việc đó. Cậu còn thích cầm cây cọ lớn để phết những lớp sơn và thích kẻ những đường thẳng tinh vi với cây cọ nhọn hoắt bé xíu. Khi một cỗ xe độc mã được đóng xong với lớp sơn mới sáng bóng lên hoặc khi một cỗ xe thùng hoàn tất bằng những miếng gỗ hồ đào, gỗ sồi chắc chắn với những bánh xe sơn đỏ, thùng xe sơn xanh lá cây và một bức hình nhỏ sơn trên chiếc thùng rời, những người thợ đều tự hào. Họ đã làm những cỗ xe thùng kiên cố như cỗ xe trượt của ba và đẹp hơn rất nhiều. Rồi Almanzo nhận thấy cuốn sổ ngân hàng nhỏ cứng ngắc trong túi và cậu nghĩ về một con ngựa con. Cậu rất thích một con ngựa con với những ống chân thon thả và những con mắt lớn hiền hoà luôn ngơ ngác giống như Starlight. Cậu muốn dạy con ngựa nhỏ mọi thứ như cậu đã dạy Star và Bright. Thế là ba và Almanzo không nói tiếng nào suốt đoạn đường về nhà. Không khí yên ắng, se lạnh và những bóng cây giống hệt những đường kẻ đen trên tuyết và nền trời. Hai cha con về tới đúng giờ lo việc nhà. Almanzo phụ làm mọi thứ nhưng vẫn mất một ít thời giờ đứng ngắm Starlight. Cậu vuốt nhẹ chiếc mũi mềm như nhung, lùa bàn tay dọc cần cổ nhỏ uốn cong mạnh mẽ của Starlight và dưới chiếc bờm. Starlight gặm nhẹ ống tay áo của cậu. - Con trai, con đang ở đâu? Ba gọi và Almanzo như người phạm tội, hối hả chạy đi vắt sữa. Lúc ăn cơm tối, cậu ngồi ăn một cách điềm đạm trong lúc má nói về những điều đã xảy ra. Ba trả lời những câu hỏi của má. Cuối cùng, má hỏi gặng: - James, ông đang nghĩ gì vậy? Lúc đó ba nói rằng ông Paddock muốn dạy nghề cho Almanzo. Cặp mắt nâu của má nhìn lên thật nhanh và hai gò má của má đỏ không kém chiếc áo len đỏ của má. Má đặt dao nĩa xuống, nói: - Tôi chưa bao giờ nghe thấy một điều như thế! Ông Paddock nảy ra ý nghĩ đó trong đầu sớm thì hay! Tôi hy vọng ông đã cho ông ta thấy rõ ý nghĩ của ông! Vì sao mà Almanzo lại phải ra thành phố để sống ngoan ngoãn phục tùng theo một gã Tom, Dick hay Harry nào đó! Ba lên tiếng: - Paddock làm ra tiền khá lắm. Nếu thực sự đúng như người ta nói thì hàng năm ông ta gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn mình. Ông ta coi việc đó như một cơ hội vào đời tốt cho thằng bé. Má gắt lớn: - Tốt! Rồi như một con gà mẹ đang nổi giận xù hết người lên: - Sẽ là một cơ hội tốt lắm nếu mọi người đàn ông đều nghĩ phải rời bỏ trang trại để về thành phố! Ông Paddock sẽ kiếm tiền ra sao nếu không bán đồ cho mình? Tôi thấy ông ta sẽ khó đứng vững nếu không làm xe cho những khách hàng nông dân quen thuộc! Ba nói: - Sự thực là thế. Nhưng… Má ngắt ngang: - Không có “nhưng” trong chuyện này! Ô, đã đủ tồi tệ khi nhìn Royal lên thành phố để không làm gì ngoài việc muốn trở thành chủ một cửa hàng! Có thể nó sẽ kiếm ra iền, nhưng nó không bao giờ là một người như ông. Suốt ngày phải luồn cúi người khác để có sự sống… Nó sẽ không bao giờ giữ nổi phần hồn của nó cho riêng nó. Trong một thoáng, Almanzo thấy má như sắp khóc. Ba lên tiếng một cách buồn rầu: - Đó, đó! Đừng quá buồn phiền như vậy. Có thể rồi mọi thứ sẽ tốt đẹp bằng một cách nào đó. Má nói như gào lên: - Tôi không chịu cho Almanzo theo cái cách đó! Tôi không chịu, ông nghe không? Ba nói: - Tôi hiểu điều bà nói. Nhưng thằng bé phải tự quyết định. Mình có thể giữ nó lại đây theo luật định cho tới khi nó đủ hai mươi mốt tuổi, nhưng điều đó chẳng tốt đẹp gì nếu nó muốn ra đi. Không! Nếu Almanzo muốn theo cái cách của Almanzo thì tốt hơn là mình nên cho nó theo học nghề ông Paddock lúc nó còn nhỏ. Almanzo tiếp tục ăn. Cậu lắng nghe nhưng cũng đang thưởng thức hương vị món thịt heo quay với nước xốt táo trong miệng. Cậu uống một hơi dài món sữa lạnh rồi thở ra, nhấn lại chiếc khăn ăn và với lấy món bánh bí nhồi thịt. Cậu cắt một góc bánh bí vàng cháy rung rinh dưới lớp sữa và hương liệu màu sậm. Bánh tan ngay trên đầu lưỡi cậu và hương liệu toả ra khắp mũi, miệng. Má vẫn bài bác: - Nó còn quá nhỏ để có được ý kiến riêng. Almanzo lấy thêm một miếng bánh khác. Cậu không thể lên tiếng cho tới khi nào được phép nói, nhưng cậu tự nghĩ là cậu đã đủ lớn để biết rằng cậu thà sống như ba chứ không thích giống như bất kì ai khác. Cậu không thích giống ngay cả như ông Paddock. Ông Paddock phải chiều chuộng cả một người bần tiện như ông Thompson hoặc sẽ mất dịp bán một cỗ xe. Nếu ba đổi cách mà chiều chuộng một người nào chỉ bởi ba thích như thế. Đột nhiên cậu nhận ra là ba đang nói với cậu. Cậu nuốt vội miếng bánh, gần như bị mắc nghẹn và nói: - Dạ, ba! Ba đang nhìn cậu nghiêm nghị. Ba nói: - Con trai, con đã nghe rõ ông Paddock nói sẽ dạy nghề cho con chứ? - Dạ, thưa ba! - Con nghĩ gì về việc đó? Almanzo không biết chính xác điều cần nói. Cậu không tưởng tượng nổi là cậu được nói một điều gì. Cậu vẫn nghĩ là phải làm những gì mà ba nhắc. Ba nói: - Được, con trai! Con hãy nghĩ về việc đó. Ba muốn con có ý nghĩ riêng của mình. Với ông Paddock, con sẽ có một cuộc sống dễ dàng theo một cách nào đó. Con sẽ không phải ở ngoài trời dưới mọi thời tiết. Những đêm đông giá buốt, con có thể nằm thoải mái ở trên giường không lo lắng về việc lũ gia súc nhỏ sẽ bị chết cóng. Mưa hay nắng, bão hay tuyết, con vẫn luôn ở dưới một mái che. Con luôn được bao kín giữa những bức tường. Con còn luôn có thừa mứa thức ăn, áo mặc và cả tiền gửi trong ngân hàng nữa. Má lên tiếng: - James! Ba đáp: - Đó là sự thật mà. Chúng ta cần phải thẳng thắn về điều đó. Ba tiếp: - Nhưng cũng có mặt trái của nó, Almanzo. Con sẽ phải phụ thuộc những nông dân khác trong thành phố. Mọi thứ con có là do con nhận được từ những người nồng dân kia. Một chủ trại phụ thuộc vào chính bản thân mình, vào đất đai và thời tiết. Nếu con là một chủ trại, con làm ra thức ăn của mình, làm ra áo mặc của mình, con sưởi ấm bằng những cây gỗ từ khoảnh rừng cây của riêng con. Con phải làm việc cực nhọc nhưng con làm theo ý mình, không một ai có thể sai phái, bắt buộc con. Con sẽ tự do và tự chủ trong trang trại của mình, con trai. Almanzo cảm thấy lúng túng. Ba nhìn cậu chăm chăm và má cũng vậy. Almanzo không thích sống giữa những bức tường, không thích chiều chuộng những người mình không ưa, và không thích thiếu những con ngựa, những con bò và những cánh đồng. Cậu thích giống hệt như ba. Nhưng cậu không nói như vậy. Ba nói: - Con cần có thời gian, con trai. Hãy nghĩ kĩ. Hãy nghĩ kĩ để thấy rõ con muốn gì. Almanzo bỗng kêu lên: - Ba! - Sao, con trai? - Con có thể…? Con có thế nói rõ với ba điều con muốn được chứ? Ba khuyến khích: - Được chứ, con trai. Almanzo nói: - Con muốn có một con ngựa con. Liệu con có thể được mua riêng một con bằng một phần số tiền hai trăm đô-la và ba sẽ cho phép con huấn luyện nó? Nụ cười của ba khiến hàm râu như từ từ mở lớn ra. Ba đặt chiếc khăn ăn xuống, cúi người nhìn má. Rồi ba quay về phía Almanzo và nói: - Con rai, con cứ để yên số tiền đó trong ngân hàng. Almanzo cảm thấy mọi thứ sụp đổ trong người. Nhưng đột nhiên, ngay lúc đo, toàn thế giới lại rạng rỡ, lớn lao đầy những tia sáng ấm áp. Vì ba tiếp tục nói: - Nếu con thích Starlight, ba cho con đó. Almanzo hổn hển: - Ba! Ba cho riêng con? - Đúng, con trai. Con có thể huấn luyện nó, điều khiển nó và khi nó đủ bốn tuổi, có có thể bán nó hay giữ nó lại tuỳ ý. Mình sẽ cột cho nó một sợi dây là điều mình phải làm vào sáng mai và con có thể bắt đầu làm thân với nó. Hết tập 3 Tập 4: Trên bờ suối Plum Chương 1: Khuôn Cửa Dưới Đất Vết xe mờ nhạt kéo xa mãi trên đồng cỏ cho tới khi bố dừng ngựa lại. Bánh xe vừa ngừng quay là Jack lập tức buông mình xuống giữa bóng mát dưới thùng xe. Nó xoải chân nằm úp sấp trên mặt cỏ, mũi áp vào dưới lông. Toàn thân nó đều trong tư thế nghỉ ngơi thoải mái, ngoại trừ hai tai. Từ sáng tới tối suốt nhiều ngày, Jack chạy đều dưới thùng xe. Nó đã phải chạy trọn đoạn đường dài từ ngôi nhà nhỏ trên vùng đất của người da đỏ qua Kansas, qua Missouri, qua Iowa và qua thêm một khoảng rất xa vào sâu trong vùng Minnesota. Nó đã học được cách nằm nghỉ mỗi khi cỗ xe ngừng lại. Laura nhảy lên trong thùng xe và Mary cũng vậy. Chân các cô đều mỏi nhừ vì bất động quá lâu. Bố nói: - Chắc là chỗ này. Đúng chỗ là cách nhà Nelson khoảng một dặm rưỡi và có suối. mình đã đi được một dặm rưỡi và ở đây có suối. Laura không thể nhìn thấy suối. trước mắt cô chỉ có một bờ cỏ và phía bên kia là một hàng ngọn liễu đang chao động trong làn gió nhẹ. Ngoài ra là đồng cỏ đang chập chờn rợn sóng kéo dài tới tận chân trời. Bố nói trong lúc nhìn qua tấm bạt mui xe: - Giống như có người hay thứ gì đang ở trên đó. Nhưng nhà ở đâu nhỉ? Laura bỗng co dúm người lại. một người đàn ông đang đứng bên cạnh mấy con ngựa. không ai nhìn thấy gì nhưng bỗng nhiên người đàn ông hiện ra ở đó. Tóc ông ta màu vàng nhạt. mặt tròn ửng đỏ như mặt một người da đỏ và cặp mắt xanh xám. Jack gầm gừ. - Nằm im, Jack! Bố lên tiếng, rồi hỏi người đàn ông: - Có phải ông là Hanson? - Dà – à. Người đàn ông đáp. Bố nói chậm và lớn tiếng: - Tôi nghe nói ông muốn đi về miền tây và muốn bán khu này? Người đàn ông chậm rãi ngắm cỗ xe, ngắm mấy con ngựa, Pet và Patty. Một lát sau ông lại đáp: - Dà – à. Bố bước xuống xe và mẹ nói: - Các con, các con có thể xuống chạy quanh một chút. mẹ chắc các con đã mệt vì phải ngồi bó gối lâu quá. Jack đứng lên khi Laura leo xuống bánh xe, nhưng nó vẫn đứng dưới thùng xe cho tới khi Bố lên tiếng cho nó đi. Nó nhìn theo Laura trong lúc cô chạy dọc một lối mòn nhỏ. Lối mòn chạy ngang một khoảng cỏ ngắn đầy ánh nắng dẫn tới một mé bờ. Phía dưới chỗ đó là con suối róc rách chảy lấp lánh dưới ánh nắng. Bên kia bờ suối là những cây liễu. Lối mòn chạy dọc mép bờ rồi uốn quanh và nghiêng xuống tới sát một bờ cỏ dựng đứng như một bức tường. Laura bước xuống một cách thận trọng. Bờ đất dựng cao bên cạnh khiến cô không còn nhìn thấy cỗ xe. Trên đầu cô chỉ còn bầu trời cao vút và phía dưới là dòng nước đang chảy róc rách như trò chuyện một mình. Laura bước xa hơn thêm một bước, rồi thêm một bước nữa. Lối mòn ngưng lại ở một khoảng đất rộng bằng phẳng uốn cong xuống suối qua những bước đi bậc thang. Lúc đó, Laura nhìn thấy một khuôn cửa. Khuôn cửa đứng thẳng trong bờ cỏ ngay chỗ lối mòn uốn cong. Đúng là một khuôn cửa ra vào của một ngôi nhà, nhưng ở phía sau nó lại nằm trong đất. Khuôn cửa đang đóng kín. Hai con chó lớn có khuôn mặt xấu xí đang nằm ngay trước cửa. Chúng nhìn thấy Laura và từ từ đứng lên. Laura vùng chạy cực nhanh, ngược trở lại lối mòn dẫn lên chỗ cỗ xe. Mary đang đứng ở đó và Laura thì thầm: - Có một khung cửa ở dưới đất và hai con chó lớn… Cô nhìn về phía sau. Hai con chí đang đi tới. Jack gừ gừ trong họng, rời khỏi gầm thùng xe, bọc vòng tới. nó nhe răng một cách dữ tợn trước mấy con chó kia. Bố lên tiếng hỏi ông Hanson: - Mấy con chó của ông hả? Ông Hanson quay lại và nói những tiếng mà Laura không thể hiểu nổi. Nhưng mấy con chó kia lại hiểu. Lập tức con nọ nối sau con kia len lén chạy trở lại theo mép bờ cỏ và khuất khỏi tầm nhìn. Bố và ông Hanson chậm chậm bước đi về phía chuồng bò. Chuồng rất nhỏ và không làm bằng cây. Cỏ mọc dầy trên vách chuồng và trên mái chuồng cỏ cũng phủ kín đang ngả nghiêng trong gió. Laura và Mary ngồi gần cỗ xe có Jack ở bên cạnh. Các cô ngắm đồng cỏ đang ngả nghiêng chao động và những bông hoa vàng lắc lư. Từng bầy chim phóng lên, bay liệng rồi chúi mình xuống cỏ. Bầu trời uốn cong rất cao và ở xa thẳm, chân trời và mặt đất ghép khít với nhau thành một đường tròn. Khi Bố và ông Hanson quay lại, các cô nghe thấy Bố nói: - Ổn rồi, Hanson. Mai mình sẽ tới thị trấn làm giấy tờ. tối nay, bọn tôi cắm trại tại đây. Ông Hanson tán thành: - Dà – à, dà – à! Bố nhấc Mary và Laura lên xe, lái ra đồng cỏ. Bố nói với Bẹ là Bố đã đổi Pet và Patty lấy mảnh đất của ông Hanson. Bố còn đổi còn ngựa con Bunny và chiếc mui xe để lấy mùa màng và mấy con bò của ông Hanson. Bố tháo dây cho Pet và Patty, dắt chúng xuống suối uống nước. Rồi Bố cột chúng vào dây cộc và giúp Mẹ dựng trại để nghỉ qua đem. Laura im lặng. Cô không muốn chơi và không thấy đói khi cùng mọi người quây quần bên đống lửa để ăn bữa tối. Bố nói: - Đêm nay là đêm cuối ở ngoài trời. Ngày mai mình lại ổn định trở lại. Nhà nằm ngay tron bờ suối đó, Caroline! Mẹ nói: - Ô, Charles! Một căn nhà hầm. Mình chưa từng được sống trong một căn nhà hầm. Bố nói với mẹ: - Chắc là em sẽ thấy nó rất sạch. Người Na Uy là những người sạch sẽ. Nhà sẽ rất ấm trong mùa đông và không ở xa lắm. Mẹ tán thành: - Chắc vậy, căn nhà sẽ rất đầy đủ trước khi tuyết rơi. Bố nói: - Chỉ còn phải chờ tới khi anh gặt xong vụ lúa mì đầu tiền. Lúc đó, mình sẽ có một căn nhà xinh xắn, có lại những con ngựa và có thể có cả một cỗ xe độc mã nữa. Đây là một vùng lúa mì vĩ đại, Caroline! Đất màu mỡ, phẳng phiu không hề có cây hay đá chen lấn. Anh chưa tìm ra nổi tại sao mà ông Hanson lại gieo trồng quá ít như thế. Có thể vụ mùa này bị hạn hán hoặc là do ông Hanson không phải là nông dân nên lúa mì của ông ta mỏng manh thưa thớt quá. Dưới ánh lửa sáng, Pet và Patty cùng Bunny đang gặm cỏ. Chúng cạp từng mảng cỏ lớn rồi đứng nhai trong lúc nhìn xuyên qua màn đêm về phía những ngôi sao xa thấp đang lấp lánh. Đuôi chúng ve vẩy một cách bình yên. Chúng không hề biết là chúng đã bị bán. Laura đã là một cô gái lớn tròn bảy tuổi. Cô đủ lớn để không còn la khóc. Nhưng cô không thể kìm mình lên tiếng hỏi: - Bố, vậy là Bố đã bán Pet và Patty, phải không Bố? Cánh tay bố vòng ôm quanh cô, ve vuốt. bố nói: - Sao vậy, bình rượu nhỏ. Pet và Patty rất thích di chuyển. Chúng là giống ngựa của người da đỏ, Laura, nên việc kéo cày là quá nặng nề đối với chúng. Chúng sẽ sung sướng hơn nếu đi về miền tây. Chắc con không muốn giữ chúng ở đây để chúng phải khổ sở với một chiếc cày. Pet và Patty sẽ tiếp tục di chuyển trên đường và bố với những con bò lớn kia sẽ khai phá một cánh đồng thật lớn để trồng lúa mì vào mùa xuân tới. Một vụ lúa mì tốt đẹo sẽ mang lại cho mình thật nhiều tiền, Laura. Khi đó, mình sẽ có ngựa, có quần áo mới và mọi thứ mà các con muốn. Laura không nói gì. Cô cảm thấy dễ chịu hơn trong vòng tay âu yếm của Bổ, nhưng cô không muốn bất kì thứ gì, ngoại trừ được giữ lại Pet, Patty và con ngựa con tai dài Bunny. Chương 2: Căn Nhà Hầm Sáng sớm Bố đã lo giúp chuyển dàn khung mui và mui xe qua cỗ xe của ông Hanson. Sau đó, hai người mang hết đồ đạc ra khỏi căn nhà hầm đưa lên bờ đất rồi chất vào thùng cỗ xe buông mui. Ông Hanson có ý giúp bố khuân đồ đạc từ thùng xe vào căn nhà hầm, nhưng Mẹ nói: - Thôi, Charles. Mình sẽ dọn đồ vào nhà khi anh trở về. Thế là Bố buộc Pet và Patty vào cỗ xe của ông Hanson. Bố buộc Bunny vào sau xe và lái xe rời nhà ra thị trấn cùng với ông Hanson. Laura nhìn theo Pet cùng Patty và Bunny đang xa dần. Mắt cô cay xè và họng cô nghẹn đau. Pet và Patty vươn cong cần cổ, bờm và đuôi bay tung trong gió. Chúng phóng đi một cách hăm hở, không hề hay biết chúng không bao giờ còn trở lại. Dòng suối như đang lên tiếng hát giữa những hàng liễu và một làn gió nhẹ thổi rạp đám cỏ trên đỉnh cao bờ đất. ánh nắng chói chang và xung quanh thùng xe là đồng cỏ bát ngát không gợn bụi nhỏ. Việc làm đầu tiên là cởi dây cột Jack khỏi bánh xe. Hai con chó của ông Hanson đã ra đi nên Jack có thể chạy tung tăng tuỳ thích. Nó mừng rỡ nhảy bổ tới liếm mặt Laura và khiến cô không ngồi yên nổi. Rồi nó chạy xuống lối mòn và Laura đi theo nó. Mẹ bồng Carrie lên, nói: - Tới đây, Mary. Mình đi coi căn nhà hầm. Xung quanh cửa những dây leo xanh ngắt bò kín bờ cỏ và nở đầy hoa. Những bông hoa đủ màu đỏ, xanh, tím, hồng, trắng, pha trộn đều nở lớn tựa hồ đang cất tiếng ca chào mừng buổi sáng. Đó là những bông bìm bìm tía. Laura bước qua dưới những bông hoa vào căn nhà hầm. nhà chỉ có một phòng trắng toát. Các bức vách đất nhẵn bóng và được quét vôi trắng. nền nhà bằng đất nên cứng và phẳng lì. Khi Mẹ và Mary đứng giữa khung cửa thì ánh sáng mờ hẳn đi. Các ô cửa sổ nhỏ bằng giấy dầu ở bên cạnh khung cửa nhưng các bờ vách quá dầy nên ánh sáng chỉ đọng lại gần ô cửa sổ. Bức vách phía trước là một mảng cỏ tự nhiên. Ông hanson đào thành một căn nhà rồi cắt những dải đất dài trên đồng cỏ đặt chồng lên nhau làm thành bờ vách phía trước. Đó là một bức vách dầy kiên cố không có một kẽ hở. Gió lạnh không thể nào thấm qua bức vách này. Mẹ rất bằng lòng, nói: - Nhà nhỏ nhưng thật sáng và thoải mái. Rồi mẹ nhìn lên trần và nói: - Nhìn coi, các con! Trần làm bằng cỏ khô. Những cành liễu được đặt chéo cho các nhánh nhỏ đan vào nhau rồi phủ kín cỏ khô ở trên. Mẹ nói: - Tốt lắm! Ba mẹ con đi ngược trở ra theo lối mòn và dừng trên mái nhà. Không một ai có thể nghĩ đây là mái nhà. cỏ mọc đầy trên mái nhà và chập chờn trong gió y hệt như tất cả những thảm cỏ dọc theo suối. Mẹ nói: - Hay thật! Mọi người đều có thể đi ngay trên căn nhà này và không biết có căn nhà ở dưới. Nhưng Laura đã phát hiện một điều. cô khom người xuống, dùng bàn tay vạch cỏ ra và kêu lên: - Em kiếm thấy ống khói lò rồi! Nhìn coi, Mary, nhìn coi! Mẹ và Mary ngừng lại nhìn và Carrie cũng nghiêng người khỏi cánh tay mẹ để nhìn trong lúc Jack chen tới. tất cả đều có thể nhìn thẳng xuống căn phòng quét vôi trắng ở dưới nền cỏ. Họ tìm kiếm quan sát cho tới lúc mẹ lên tiếng: - Mình phải quét dọn sạch sẽ căn nhà rồi chuyển bớt những món đồ có thể chuyển được vào, trước khi khi Bố trở về. Mary và Laura, các con đi lấy các thùng đựng nước tới đi. Mary xach một chiếc thùng lớn còn Laura xách một chiếc thùng nhỏ và lại theo lối mòn bước xuống. Jack chạy trước rồi ngừng lại bên khung cửa. Mẹ tìm được một cây chổi bằng cành liễu trong góc nhà và quét các bức vách thật kĩ. Mary theo canh chừng Carrie để giữ cho cô bé không ngã xuống suối còn Laura xách chiếc xô nhỏ đi lấy nước. Cô nhảy từng 2 bước một xuống các bực thang ở đầu cây cầu nhỏ bắc ngang dòng suối. cây cầu là một tấm ván có bề mặt khá lớn và đầu cầu bên kia nằm dưới một cây liễu. những cây liễu lớn đu đưa những nhánh lá thon dài in lên nền trời và đám liễu nhỏ mọc quanh thành bụi rậm rạp. bóng liễu cho khắp mặt đất trống, lạnh lẽo. lối mòn bằng ngang khoảng đất này tới một lạch nguồn nhỏ tại đó làn nước trong veo mát lạnh chảy xuống thành một vũng nhỏ rồi từ từ chảy xuống dòng suối. Laura múc đầy xô nước quay trở lại cây cầu ngập nắng và bước lên các bậc thang. Cô lui tới nhiều lần với chiếc xô nhỏ lấy nước đổ đầy chiếc thùng lớn đặt trên một chiếc ghế dài phía trong khung cửa. Sau đó, cô giúp Mẹ mang từ trên thùng xe xuống những món đồ có thể mang được. Hai mẹ con chuyển gần hết các món đồ vào căn nhà hầm thì bố trở về đi xuống lối mòn một cách ầm ĩ. Bố mang theo một lò sấy nhỏ bằng thiếc và hai mảnh ống khói lò. Vừa đặt mấy món đồ xuống, bố vừa nói: - Hà! Thật mừng là anh chỉ phải mang chúng trong ba dặm. em thử nghĩ coi, Caroline! Thị trấn chỉ cách đây có ba dặm! Đúng là một khoảng đường dễ chịu. này, bây giờ thì Hanson đang trên đường đi về miền tây còn khu đất này thuộc về chúng ta. Em có thích ở đây không, Caroline? Mẹ nói: - Em thích lắm. nhưng em không biết đặt giường thế nào. Em không muốn đặt giường trên nền đất. Bố hỏi mẹ: - Chuyện đó có gì đâu? Mình vẫn ngủ trên mặt đất mà. Mẹ nói: - Bây giờ khác chứ. Em không thích đã ở trong nhà mà vẫn ngủ trên mặt đất. Bố nói: - Được, xong ngay thôi. Anh sẽ chặt một ít cành liễu làm giường tạm cho đêm nay. Ngày mai, anh sẽ kiếm mấy cây liễu thẳng làm thành một đôi giường. bố cầm cây rìu, huýt gió theo lối mòn băng trên mái nhà và qua phía sườn dốc bên kia suối. Có một thung lũng nhỏ liễu mọc dầy dọc theo bên mé nước. Laura chạy theo bén gót bố, hổn hển: - Để con giúp bố! Con có thể vác một ít cành cây. Bố ngắm cô bằng ánh mắt sáng rỡ, nói: - Con làm được chứ! Khi một người đàn ông làm một việc nặng thì luôn cần một sự giúp đỡ. Bố thường nói bố không biết xoay sở ra sao nếu không có Laura. Cô đã từng giúp Bố làm khung cửa cho ngôi nhà gỗ nhỏ ở vùng đất của người da đỏ. Lúc này cô giúp Bố vác những nhánh liễu đầy lá về trải trong căn nhà hầm. Sau đó cô đi cùng Bố tới chuồng bò. Bốn bức vách chuồng bò đều làm bằng đất đồng cỏ và mái là những nhánh liễu cùng với cỏ khô và cũng là đất đồng cỏ phủ bên trên. ở đó có một máng ăn ghép bằng cây liễu và có một hai con bò. Một con màu xám rất lớn với những chiếc sừng ngắn và cặp mắt hiền hoà. Con kia nhỏ hơn có những chiếc sừng dài dữ tợn và cặp mắt hoang dại. Con bò này có màu lông nâu đỏ sáng. Bố nói với con bò nhỏ: - Chào Bright! Bố vỗ nhẹ con bò lớn, hỏi: - Khoẻ chứ, anh bạn già Pete? Bố nói: - Lui lại tránh đường, Laura, để coi mấy con bò này xử sự ra sao. Mình sẽ dẫn chúng đi uống nước. Bố buộc dây dẫn quanh sừng của chúng và dắt chúng ra khỏi chuồng. Chúng chậm rãi bước theo bố xuống con dốc tới lối mòn bằng phẳng qua vùng cây xanh tới bên bờ suối. Laura từ từ bước theo chúng. Chân chúng bước vụng về và những móng chân lớn xẻ ra ở chính giữa. Mũi chúng bệt ra và lầy nhầy. Laura ngừng lại bên ngoài chuồng trong lúc bố cột chúng vào máng ăn. Rồi cô đi cùng với bố về phía căn nhà hầm. Cô hỏi, giọng lí nhí: - Bố, có đúng Pet và Patty thích đi về miền tây không? Bố nói: - Đúng chứ, Laura. Cô lại nói, lần này giọng hơi run run: - Ô, bố, con không nghĩ là con sẽ thích lũ bò… nhiều! Bố cầm lấy bàn tay cô như để dỗ dành, bố nói: - Mình cần làm những điều tốt nhất và không nên ca cẩm. điều tốt nhất để làm cũng là điều đem lại vui vẻ. một ngày nào đó, mình sẽ có ngựa trở lại. Cô hỏi: - Chừng nào, bố? Bố đáp: - Khi chúng ta trồng vụ lúa mì đầu tiên. Hai cha con bước vào căn nhà hầm. mẹ rất vui, Mary và Carrie đã tắm rửa, chải tóc và mọi thứ đều gọn gàng. mấy chiếc giường được đặt trên các cành liễu còn bữa ăn tối đã sẵn sàng. Sau bữa ăn tối, cả nhà ngồi ngay đoạn lối mòn trước cửa nhà. Bố và Mẹ ngồi trên các thùng gỗ. Carrie cuộn mình ngủ trong lòng mẹ, còn Mary và Laura ngồi bệch trên đường đi thả chân lủng lẳng bên mép đất. Jack đảo quanh ba vòng rồi nằm xuống, gác đầu lên đầu gối Laura. Tất cả ngồi lặng lẽ nhìn qua dòng suối Plum và hàng liều, ngắm mặt trời chìm xuống thật xa ở phía tây, thật xa trên những đồng cỏ. Cuối cùng Mẹ thở ra một hơi dài, nói: - Mọi thứ đều hết sức tẻ nhạt và bình lặng. đêm nay sẽ không có tiếng sói và tiếng người da đỏ hú. Không biết từ bao giờ em đã mất hẳn cảm giác bình yên và được nghỉ ngơi. Bố trả lời giọng trầm xuống: - Ổn rồi, chúng ta đã được an lành. ở đây không thể có chuỵên gì xảy ra. những màu sắc êm ả toả khắp chân trời. hàng liễu thì thầm và dòng nước róc rách trong ánh hoàng hôn. mặt đất đổi thành màu xám sậm. Mấy vì sao nổi bật trên nền trời màu xám nhạt. Mẹ nhắc: - Tới giờ ngủ rồi. và ở đây sẽ có một điều mới lạ hẳn. từ thuở nào mình chưa từng ngủ trong một căn nhà hầm. Mẹ cười và Bố cười hoà theo Mẹ. Laura nằm trên giường lắng nghe dòng nước róc rách và hàng liễu thì thầm. Cô mong thà ngủ ngoài trời kể cả khi cô nghe thấy tiếng sói hú còn hơn là nằm an toàn trong căn nhà dưới mặt đất như thế này. Chương 3: Cỏ Ống Và Cỏ Lưỡi Bào Mỗi buổi sáng, sau khi rửa chén đĩa, dọn giường, quét nhà xong, Mary và Laura được ra ngoài chơi. Bọc quanh khung cửa ra vào, những dải hoa bìm bìm mới nở tươi rói vươn lên trên những cụm lá xanh. Dọc theo dòng suối Plum, chim đang ríu rít. Thỉnh thoảng, một con cất tiếng hót nhưng hầu hết dường như đang trò chuyện. Một con kêu: - Chuýt, chuýt! Ô, chuýt-chơ, chuýt! một con khác lên tiếng: - Chee, che-e, che-e! Và một con khác nữa giống như cười vui: - Ha-ha-ha, ti-ra-lo! Laura và Mary bước trên mái nhà rồi xuống lối mòn theo bố dẳt mấy con bò đi uống nước. Dọc theo dòng suối đầy đặc cỏ ống và cỏ lưỡi bào với những bông hoa màu xanh da trời. Mỗi buổi sáng lại thêm một đợt hoa lưỡi bào mới. Những bông hoa lưỡi bào xanh xẫm vươn lên ngạo nghễ giữa đám cỏ ống màu xanh lục. Mỗi bông lưỡi bào đều có ba cánh mượt như nhung bẻ cong xuống hệt vạt áo ngoài của các bà phủ choàng vành váy. Từ một khoảng thắt hẹp, những cánh hoa vươn lên rồi cuốn lại cùng nhau. Khi nhìn vào trong đó, Laura thấy giống như có ba chiếc lưỡi nhỏ xanh nhạt và mỗi chiếc lưỡi có một dải lông vàng óng ở bên trên. Đôi lúc trong đó có một con ong nghệ loang lổ đen-vàng đang vo ve rúc đầu tới. Bờ suối bằng phẳng là một lớp bùn mềm, ấm. Từng đàn bướm nhỏ màu xanh và màu vàng chập chờn bay lượn, đáp xuống, tấp vào các bông hoa. Những con chuồn chuồn lanh lời vụt bay với những chiếc cánh mờ mờ. ở các điểm cô và Mary bước lên hoặc lũ bò nhấc chân lên đều có những vũng nước nhỏ xíu đọng lại trong các dấu chân. ở những nơi nước cạn, dấu chân không lưu lại lâu. Trước hết một cuộn xoáy giống như khói bốc lên rồi gợn sóng lan xa trong nước. Sau đó, dấu chân từ từ tan đi. Các vết bám của ngón chân và gót chân chỉ còn lại là một chiếc hố nhỏ. Trong nước cũng có những con cá tí hon, nhỏ tới mức khó nhận ra nổi. Chỉ thỉnh thoảng khoảng ức trắng như bạc của chúng mới loé lên khi chúng bơi lướt nhanh. Lúc Laura và Mary đứng im, bầy cá xúm quanh bàn chân các cô, rỉa nhẹ nhẹ. Cảm giác lúc đó nhột nhạt một cách kì lạ. Trên mặt nước có những con bọ nước lướt cực nhanh. Những cẳng chân dài ngoẵng của chúng tạo thành những chấm nhỏ ti ti trên mặt nước. Rất khó nhìn kịp những con bọ nước này vì chúng lướt nhanh tới mức vừa phát hiện thấy thì chúng đã ở một nơi nào đó rồi. Đám cỏ ống ngả nghiêng trong gió tạo thành một âm thanh đơn điệu hoang dã. Loại cỏ này không mềm, mỏng mà tròn, cứng, bóng mướt và có nhiều khớp nối. Một bữa, khi dầm chân ở một chỗ nước sâu bên bụi cỏ ống. Laura nắm lại một cọng cỏ lớn lôi lên bờ. Cô bỗng thấy giống như nó kêu ré lên. Trong một phút, Laura thấy như bị nghẹt thở. Rồi cô kéo thêm một cọng khác. Nó cũng kêu ré lên và kêu tới hai lần. Cỏ ống là những ống nhỏ rỗng ruột ghép khít vào nhau ở những mắc nối. Những ống rỗng này kêu ré lên khi bị tách rời ra và khi ghép lại với nhau cũng lại kêu. Laura và Mary tách rời chúng ra để nghe chúng kêu ré lên. Sau đó, các cô ghép những ống nhỏ với nhau làm thành một xâu chuỗi đeo cổ. Các cô cũng ghép các ống lớn lại đểl àm thành những ống dài. Các cô thổi hơi qua những ống dài này vào trong nước để làm nổi lên những chiếc bong bóng. Các cô còn nhắm thổi vào những con cá nhỏ để làm chúng hoảng sợ. Khi cảm thấy khát. Các cô uống nước suối bằng cách hút qua những chiếc ống này. Mẹ bật cười khi Laura và Mary trở về vào các giờ ăn toàn thân ướt át lấm lem với những xâu chuỗi màu xanh quấn quanh cổ và trong bàn tay là những ống dài lớn màu xanh. Các cô còn đem về những bó hoa lưỡi bào màu xanh da trời để trưng trên bàn. Mẹ nói: - Các con mà chơi trong suối quá nhiều thì sẽ thành bọ nước đó. Bố và Mẹ không lo về việc các cô chơi nhiều trong dòng suối. Các cô chỉ cần giữ không được lội ngược qua phía bên kia khu thung lũng nhỏ đầy liễu. Dòng suối uốn cong ở ngay chỗ đó dẫn tới một vùng nước sâu thẳm. Các cô không được bén mảng tới chỗ này dù chỉ để đứng ngắm. Bố hứa với các cô: - Sẽ có bữa bố đưa các con tới đó. Và một buổi chiều chủ nhật Bố bảo là đã tới ngày đi thăm chỗ đó. Chương 4: Nước Sâu Trong căn nhà hầm, Laura và Mary trút bỏ hết quần áo để khoác lên lớp da trần những bộ đồ cũ vá lại. Mẹ buộc lại dây nón, còn bố bồng bé Carrie và tất tả ra đi. Mẹ đi qua lối mòn của mấy con bò và khu cỏ ống, qua thung lũng dương liễu và những bụi mận, xuống một dốc cỏ tới một khu đất bằng có các loại cỏ cao và thô. Rồi họ đi ngang một vách đất cao gần như thẳng đứng và không có một cọng cỏ nào. Laura hỏi: - Cái này là cái gì hả bố? Bố đáp: - Đó là một gò đất. Bố đạp trên đám cỏ cao, dầy mở lối cho mẹ cùng Mary và Laura. Thình lình, họ vượt qua đám cỏ cao và dòng suối đã ở đó. Nước chảy long lanh trên lớp sỏi thắng phau thành một mặt hồ rộng uốn vòng sát dải bờ thấp với một lớp cỏ ngăn. Những hàng liễu cao vút đứng thẳng ở phía bờ bên kia. Mặt nước phẳng như mặt gương in hình những cây liễu với từng chiếc lá xanh đang lay động. Mẹ ngồi trên bờ giữ Carrie trong lúc Laura và Mary xuống hồ. Mẹ nhắc các cô: - Đứng ở gần bờ thôi, các con gái! Không được tới chỗ nước sâu. Nước dâng lên dưới các mép váy khiến chúng nổi lềnh bềnh. Rồi lớp vải thấm ướt rũ xuống chân các cô. Laura nhích tới sâu hơn, sâu hơn nữa. nước cao dần lên tới ngang eo và cô ngồi xổm xuống cho lên tới cằm. Mọi thứ đều ngập nước, mát lạnh và dao động. Laura cảm thấy nhẹ lâng lâng. Bàn chân cô nhẹ tới nỗi gần như nhấc lên khỏi đáy nước. Cô nhảy chồm tới và đập hai cánh tay cho nước văng tung tóe. Mary kêu lên: - Ôi, Laura, không làm như vậy! Mẹ lên tiếng: - Không ra xa hơn nữa, Laura. Laura tiếp tục đập nước. Một cú đập mạnh nhấc bổng cả hai bàn chân cô lên. Bàn chân cô đưa lên, hai cánh tay máu thoải mái và đầu cô chìm trong nước. cô kinh hoàng. Không có gì để bám víu và không có gì chắc chắn ở bất cứ chỗ nào. Lúc đó, tự nhiên cô đứng thẳng lên giữa dòng nước đang chảy khắp xung quanh. Bàn chân đã đặt trên nền cứng. Không ai nhìn thấy điều cô vừa làm. Mary đang lo kéo lại nếp váy. Mẹ đang chơi với Carrie. Bố đã đi khuất vào giữa những hàng liễu. Laura đi cực nhanh ở trong nước. Cô bước xuống sâu hơn và sâu hơn nữa. Nước dâng lên ngang người rồi tới ngang cánh tay. Đột nhiên, sâu trong đáy nước, một thứ gì chụp lấy bàn chân cô. Một cái giật mạnh và cô rơi vào vùng nước sâu. Cô không thể thở, không thể nhìn. Cô quờ quạng vồ chụp và không thể níu được thứ gì. Nước tràn vào tai, vào mắt, vào miệng cô. Liền đó, đầu cô vươn lên khỏi mặt nước ngay sát đầu bố. bố đang đỡ cô. Bố nói: - Con đã nghe mẹ nhắc phải ở gần bờ. Tại sao con không làm theo lời mẹ? Con đáng bị dìm xuống nước và bố đã dìm con. Lần sau con nhớ làm đúng theo bố dặn. Laura lắp bắp: - D…dạ! Ô, x…xin bố làm lại một lần nữa đi! Bố nói: - Được, bố sẽ…! Rồi tiếng cười của bố vang động cả hàng liễu. Bố hỏi Laura: - Sao con không kêu lúc bố dìm con? Con không sợ à? Laura thở hổn hển: - Con s…sợ kinh khủng! Nhưng x…xin bố dìm thêm lần nữa đi. Rồi cô hỏi: - Làm cách nào mà bố ở dưới đó được hả bố? Bố nói là bố lặn ở dưới nước từ phía hàng liễu. Nhưng hai cha con không thể ở lâu trong vùng nước sâu mà phải trở lại gần bờ chơi với Mary. Trọn buổi chiều hôm đó, bố cùng Mary và Laura đùa dưới nước. Mấy cha con đạp nước, xô đẩy dưới nước và mỗi khi Mary hoặc Laura tới gần vùng nước sâu, bố liền dìm các cô xuống. Mary biết vâng lời hơn nên chỉ bị dìm một lần nhưng Laura bị dìm rất nhiều lần. Rồi gần tới giờ lo công việc nhà và tất cà phải trở về. Tất cả đều chảy nước ròng ròng dọc lối đi xuyên qua đám cỏ và khi tới gò đất Laura muốn trèo lên trên đó. Bố leo lên rồi Mary và Laura nắm tay bố leo lên. Đất khô trơn trượt. Rễ cỏ rối rũ xuống từ mép đất nhô ra trên đầu. Thế là bố nhấc Laura lên và đặt cô dứng xuống gò đất. Gò đất giống như một chiếc bàn. Gò vươn cao khỏi đám cỏ cao, tròn xoe và bằng phẳng ở phía trên. Cỏ ở đây ngắn và mềm. Bố cùng Mary và Laura đứng trên gò đất nhìn vượt trên ngọn cỏ và mặt hồ tới đồng cỏ phía bên kia. Đồng cỏ nối nhau trải dài tới tận chân trời. Rồi mấy cha con lại trượt xuống mặt đất thấp để trở và nhà. Đúng là một buổi chiều ki thú. Bố nói: - Còn có hàng lố trò vui nữa. Nhưng các con cần nhớ lời bố dặn. Không bao giớ được tới gần hồ bơi đó nếu không có bố ở bên cạnh. Chương 5: Con Vật Lạ Lùng Trọn ngày hôm sau, Laura nhớ lại. Cô nhớ lại vùng nước sâu mát lạnh dưới bóng của những hàng liễu cao vút. Cô nhớ lại rằng cô không được phép tới gần đó. Bố vắng nhà, Mary ngồi với mẹ trong căn nhà hầm. Laura chơi một mình dưới nắng nóng. Những bông hao lưỡi bào màu xanh da trời đang héo úa giữa đám cỏ ống ủ rũ. Cô đi qua thung lũng dương liễu và chơi trong đồng cỏ giữa những bụi hoa dại. Nắng nóng gắt với gió hừng hực. Rồi Laura nghĩ tới gò đất. Cô muốn lại được trèo lên đó. Cô tự hỏi liệu có thể trèo lên nổi không. Bố không dặn là cô không được trèo lên gò đất. Cô chạy xuống bờ dốc, băng qua vùng đất thấp, qua khu cỏ cao thô ráp. Gò đất đứng thẳng và cao vút. Không dễ gì trèo lên nổi. Đất khô trơn trượt dưới chân Laura, áo cô dính đất dơ ngay chỗ cô thúc đầu gối vào trong khi cô bíu lấy đám cỏ cố đu mình lên. Bụi đất khiến làn da đẫm mồ hôi của cô ngứa ngáy. Nhưng ít nhất thì cô đã áp được bụng vào mép gò. Cô ráng sức nhào lên và lăn tròn. Thế là cô đã lên trên được gò đất. Cô nhảy dựng lên và có thể nhìn thấy hồ nước đầy bóng mát dưới hàng liễu. Ở đó mát và ẩm ướt khiến cô thấy khát cả toàn thân. Nhưng cô nhớ rằng không được tới đó. Gò đất có vẻ lớn, trống hoe và chẳng có gì đáng chú ý. Nó rất hấp dẫn vào lúc có bố ở đây, còn lúc này nó chỉ là một mặt đất bằng phẳng và Laura nghĩ nên trở về nhà kiếm nước uống. Cô khát quá rồi. Cô trượt xuống theo bên bờ gò đất và từ từ đi dọc theo con đường mà cô đã qua. Phía dưới đám cỏ cao, không khí rất ngột ngạt và nóng bức. Căn nhà ở quá xa còn Laura thì khát nước kinh khủng. Cô nhớ rất rõ là không được đến gần khu hồ bơi nước sâu đầy bóng mát nhưng thình lình cô quay ngước lại và hối hả chạy về phía đó. Cô nghĩ là cô chỉ ngắm nó thôi. Chỉ ngắm nó thôi cũng đủ đem lại cho cô một cảm giác dễ chịu. Rồi cô nghĩ cô có thể dầm chân ở sát bờ và dứt khoát không đi tới chổ nước sâu. Cô đã tới lối đi mà bố mở ra và chạy nhanh hơn. Đúng giữa lối đi, một con vật đứng trước mặt cô. Laura nhảy lui phắt lại, đứng, nhìn nó. Cô chưa hề thấy một con vật như thế. Nó dài gấn bằng Jack những chân lại ngắn ngủn. Bộ lông màu xám của nó xù lên khắp người. Đầu nó bẹt và những cái tai rất nhỏ. Cái đầu bẹt của nó từ từ nghểng lên và nhìn Laura. Cô ngắm chăm chú khuôn mặt kì lạ của nó. Và trong khi người và vật đứng bất động nhìn nhau, thân hình con vật co ngắn lại đồng thời nở lớn ra và áp sát trên mặt đất. Nó trở thành mỏng hơn và mỏng hơn mãi cho tới khi chỉ là một bộ lông xám nằm tại đó. Nó hoàn toàn không còn giống một con vật vì chỉ có đôi mắt nhìn lên. Từ từ và thận trọng, Laura cúi xuống, lượm một cành liễu lên. Lúc này cô cảm thấy yên tâm hơn. Cô nghiêng người quan sát bộ da phẳng lì màu xám kia. Cả bộ da và Laura đều không cử động. cô thầm hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu cô thọc nó. Nó có thể sẽ đổi sang một hình thức khác. Cô thọc nó nhè nhẹ với cành cây ngắn. Một tiếng gừ khủng khiếp bật ra. Mắt con vật lộ hung quang và hàm răng trắng ỏn dữ dằn của nó gần chụp sát vào mũi của Laura. Laura vùng bỏ chạy. Cô chạy cực nhanh, không hề ngơi nghỉ cho đến khi về tới nhà căn hầm. Mẹ nói: - Chúa ơi, Laura! Tự đầy ải mình trong cái nóng như thế này thì con sẽ đổ bệnh thôi. Trọn thời gian đó, Mary ngồi như một vị tiểu thư đánh vần những từ trong một cuốn sách do mẹ dùng để dạy cô đọc. Mary đúng là một cô bé ngoan ngoãn. Laura thật tệ hại và cô biết điều đó. Cô đã không giữ đúng lời hứa với bố. Nhưng không ai nhìn thấy cô, không ai biết là cô đã đi về phía hồ nước sâu. Nếu cô không nói ra thì không một ai biết nổi. chỉ có con vật lạ lùng kia biết nhưng nó không thể kể lại. Dù vậy, cô vẫn thấy xốn xang khó chịu trong lòng. Đêm đó, Laura nằm thức mải bên cạnh Mary. Bố và mẹ cùng ngồi trong ánh sao bên ngoài khung cửa và bố đang chơi đàn. - Ngủ đi, Laura. Mẹ nói dịu dàng và cây đàn cũng dịu dàng nói với cô. Bố là một cái bòng in lên nền trời và chiếc vĩ cầm của bố nhảy múa giữa những vì sao lớn. Mọi thứ đều đẹp và tốt lành, ngoại trừ Laura. Cô đã thất hứa với bố. Thất hứa cũng tồi tệ như nói dối. Laura ước thầm là cô đã không làm việc đó. Nhưng cô đã làm rồi, và khi bố biết, bố sẽ phạt cô. Bố tiếp tục chơi đàn nhè nhẹ dưới ánh sao. Cây đàn của bố hát ru cô một cách ngọt ngào, êm ái. Bố vẫn nghĩ cô là một cô bé ngoan. Cuối cùng, Laura không chịu đựng được thêm nữa. Cô tụt xuống khỏi giường, rón rén bước qua nền nhà bằng đất lạnh lẽo. Trong chiếc áo dài và chiếc mũ ngủ, cô đứng bên cạnh bố. Bố kéo những nốt nhạc cuối cùng trên mầy sợ dây đàn và cô thấy bố đang mỉm cười với cô. Bố hỏi: - Có chuyện gì vậy, bình rượu nhỏ? Con giống như một bóng ma nhỏ trắng toát trong bóng đêm. Laura lên tiếng, lí nhí và run giọng: - Con…con … đã đi về hồ nước sâu. - Con đã làm thế sao. Bố bật kêu. Rồi bố hỏi: - Được, thế cái gì đã ngăn con lại? Laura thì thào: - Con không biết. Nó có bộ lông màu xám và nó…nó căng mỏng ra. Nó gừ nữa! Bố hỏi: - Nó lớn cỡ nào? Laura kể lại tất cả về con vật lạ lùng kia. Bố nói: - Chắc là một con nhím. Rồi bố im lặng một hòi lâu và Laura chờ đợi. Laura không nhìn rõ mặt bố trong bóng tối nhưng cô ngã người vào đầu gối bố và cảm thấy bố mạnh mẽ và tử tế vô cùng. Cuối cùng, bố lên tiếng: - Này, Laura, bố không biết phải làm gì. Con thấy đó, bố đã tin tưởng con. Thật khó biết điều cần làm với người không thể tin tưởng nổi. Nhưng con có biết điều mà người ta cần làm với một người không thể tin tưởng nổi không? Laura run giọng: - Đ…điều gì vậy? Bố nói: - Cần phaỉ canh chừn. Cho nên bố nghĩ cần canh chừng con. Mẹ sẽ làm việc này vì ngày mai bố có công việc ở nhà Nelson. Ngày mai con phải luôn ngồi ở chỗ nào mà mẹ có thể canh chừng con. Suốt ngày con không được rời khỏi tầm mắt của mẹ. nếu con ngoan ngõan trọn ngày thì bố mẹ sẽ cho con được thử thách lại như một cô bé mà bố mẹ có thể tin tưởng. Bố hỏi mẹ: - Em thấy sao, Caroline? Mẹ nói từ ngoài bóng tối: - Được mà Charles. Ngày mai em sẽ trong chừng nó. Nhưng em đoán chắc là con bé sẽ ngoan ngoãn. Thôi, trở lại giường ngủ đi, Laura. Hôm sau là một ngày khủng khiếp. Mẹ lo khâu vá và Laura phải ngồi trong căn nhà hầm. Cô không thể ra suối lấy nước vì như thế sẽ ra khỏi tầm nhìn của mẹ. Mary đi lấy nước rồi đưa Carrie đi chơi trên đồng cỏ. Laura phải ngồi ở trong nhà. Jack nằm đặt mũi trên mấy bàn chân và ngoắc ngoắc đuôi. Rồi nó nhảy chồm chồm ra ngoài lối mòn, quay lại nhìn cô, vẫy vẫy tai như nài nỉ cô bước ra. Nó không thể hiểu nổi lí do cô phải ngồi lại. Laura phụ giúp mẹ. Cô rửa chén đĩa, dẹp cả 2 chiếc giường, quét sạch nền nhà và bày bàn ăn. Bữa ăn trưa, cô ngồi cúi đầu trên ghế và ăn bất cứ thứ gì mẹ đặt trước mặt. rồi cô lo lau chùi chén đĩa. Sau đó, cô tháo mảnh vá ở giữa một tấm khăn trải bàn. Mẹ lật những mảnh vải lại, ghép khít với nhau và Laura khâu một đường mới với những mũi kim bé xíu. Cô nghĩ đường khâu đó và ngày hôm đó đều kéo dài vô tận. Nhưng cuối cùng, mẹ cuôn gói đồ khâu lại và đã tới giờ lo bữa ăn tối. Mẹ nói: - Con đã tỏ ra là một cô bé ngoan rồi đó, Laura. Mẹ sẽ nói điều này với bố. Và sáng mai mẹ con mình sẽ đi kiếm con nhím kia. Mẹ đảm bảo là nó đã cứu con khỏi chết đuối vì nếu con đi tới chỗ nước sâu, con sẽ lao xuống đó. Khi con làm một điều hư hỏng thì con sẽ rất dễ tiếp tục hư hỏng và sớm hay muộn, một điều khủng khiếp sẽ xảy ra. Laura nói: - Dạ, mẹ. Lúc này, cô đã hiểu điều đó. Một ngày đã trôi qua. Laura không được thấy mặt trời mọc và cũng không thấy những bóng mây in trên đồng cỏ. Những bông hoa bìm bìm đã héo và những bông lưỡi bào trong ngày hôm đó đã tàn rụi. Suốt ngày, Laura không được thấy nước chảy trong suối, không được thấy những con cá nhỏ và những con bọ nước chạy lăng quăng. Cô đã được nhìn nhận là ngoan ngõan để không bao giờ còn bị coi chừng nghiêm ngặt nữa. Hôm sau, cô cùng mẹ đi kiếm con nhím. Cô chỉ cho mẹ nơi thấy con nhím nằm ép xuống cỏ trên lối đi. Mẹ kiếm ra hang của nó. Đó là một miệng lỗ tròn dưới một lùm cỏ trên bờ sông. Laura gọi lớn và thọc một cành cây vào bên trong lỗ hang. Nếu con nhím đang ở trong hang, nó cũng không bò ra. Không bao giờ Laura còn nhìn thấy lại con nhím già màu xám đó. Chương 6: Vòng Hoa Hồng Trên đồng cỏ phía bên kia chuồng bò, có một dải đá màu xám. Dải đá vườn lên khỏi thảm cỏ gợn sóng và những cụm hoa dại đu đưa. Mặt dải đá bằng phẳng gần như nhẵn thín, đủ rông cho Laura và Mary chạy từ mép này qua mép khác và dài tới mức các cô có thể chạy đùa. Dải đá trở thành một chỗ chơi tuyệt vời. Những lớp rêu xám xanh có cạnh nhám xù xì phủ bằng trên mặt đá. Bầy kiến lang thang qua lại. Một con bướm cũng thường đáp xuống nghỉ ngơi. Lúc đó, Laura thấy những chiếc cánh như nhung từ từ mở ra rồi khép lại tựa hồ con bướm đang thở bằng cánh. Cô còn thấy những bàn chân li ti trên mặt đá, những sợi râu rung rinh và cả những con mắt tròn không có mí mắt. Cô không bao giờ cố bắt một con bướm. Cô biết cánh bướm phủ một lớp lông nhỏ không nhìn thấy nổi. Một va chạm sẽ chà đứt lớp lông này và khiến con bướm đau đớn. Mặt trời luôn sưởi ấm dải đá lớn màu xám. Ánh nắng luôn dọi trên các gợn sóng cỏ trên đồng và chim bướm bay lượn trong nắng. ở đây cũng luôn có những làn gió nhẹ đưa lại hơi ấm và hương thơm của đồng cỏ đang được sưởi ấm trong nắng. Xa xa, về phái chân trời vươn xuống mặt đất, có những vật nhỏ xám đen chuyển động trên đồng cỏ. Đó là bầy bò đang gặm cỏ. Laura và Mary không khi nào chơi trên dải đá vào buổi sáng và ở lại cho tới khi mặt trời sắp lặn, vì đó là lúc bầy bò đi ngang qua. Chúng đi thành từng bầy với những chiếc móng đạp rầm rập và những chiếc sừng hất lên. Người chăn bò Johnny Johnson đi theo chúng. Anh ta có khuôn mặt tròn đỏ rực, cặp mắt tròn xanh lơ và mái tóc vàng bạc phếch. Anh ta chỉ cười và không nói gì. Anh ta không thể nói vì không biết một tiếng nói nào của Mary và Laura. Một buổi chiều, bố gọi các cô từ bên dòng suối. bố sắp tới dải đá để xem Johnny Johnson đưa bầy bò trở về và Laura với Mary có thể đi theo bố. Laura nhảy lên vì thích thú. Cô chưa bao giờ được nhìn bầy bò ở thật gần và cô hoàn toàn không sợ gì khi có bố ở đó. Mary bước tới từ từ và đứng sát bên bố. Bầy bò sắp tới nơi. Tiếng rống của chúng trở nên lớn hơn, những chiếc sừng hất lên và một lớp bụi mỏng bốc cao phía sau chúng. Bố nói: - Chúng tới đấy! Leo lên! Bố nhấc Mary và Laura lên dải đá. Lúc này, tất cả ngắm bầy bò. Những thớt lưng đủ màu đỏ, nâu, đen, trắng và đốm vá chập chờn ngay bên cạnh. Những con mắt tròn, những chiếc lưỡi đang liếm những chiếc mũi bẹt, những chiếc đầu lật nghiêng hung hãn để thúc những chiếc sừng dữ dằn tới. Nhưng Laura và Mary đứng ngắm an toàn trên dải đá cao và bố đứng sát đó. Con bò cuối bầy đi ngang lúc cả Laura lẫn Mary cùng nhận ra một con bò đẹp nhất so với tất cả những con bò mà các cô từng thấy. Đó là một con bò màu trắng với những chiếc tai đỏ ngay giữa trán. Những chiếc sừng nhỏ của nó cũng màu trắng uốn cong vào bên trong chĩa thẳng tới điểm đỏ trên trán. Và chính giữa bên sườn màu trắng của nó là một vòng tròn hoàn hảo các điểm đỏ lớn như những bông hồng. Ngay cả Mary cũng nhảy lên. Laura kêu lớn: - Ô, coi kìa! Ô, coi kìa! Bố coi con bò với một vòng hoa hồng. Bố cười vui. Bố giúp Johnny Johnson tách con bò này ra khỏi bầy bò. Bố gọi với lại: - Tới đây, các co gái! Tới giúp bố đưa nó về chuồng! Laura nhảy phắt khỏi dải đá vừa chạy tới giúp bố vừa la: - Sao, bố nói sao? Ô, bố, mình sẽ nuôi nó sao? Con bò trắng đã được lùa vào chuồng và bố đáp: - Nó là con bò của mình. Laura đảo người lại và cắm đầu chạy. Cô nện chân thình thịch trên lối đi, đâm bồ vào căn nhà hầm, la lên: - Ô, mẹ, mẹ! Tới coi con bò! Nhà mình có một con bò! Ô, mẹ ơi, con bò đẹp nhất! Mẹ bồng Carrie lên và tới coi. Mẹ nói: - Charles! Bố lên tiếng: - Của mình đó, Caroline! Em thấy nó thế nào? Mẹ nói: - Nhưng mà... Charles! Bố nói: - Con bò này của Nelson. Anh phải trả lại ông ấy bằng một số ngày làm việc. Nelson cần người giúp việc để cắt cỏ và gặt lúa. Hãy nhìn nó coi. Nó là một con bò sữa nhỏ nhưng rất tốt. Caroline, mình sắp có sữa và bơ rồi. Mẹ nói: - Ô, Charles! Laura không chờ nghe thêm nữa. Cô xoay người và lại chạy, chạy hết sức nhanh xuống lối mòn, vào căn nhà hầm. Cô chộp lấy chiếc ca thiếc trên bàn ăn và lao ngược trở ra. Bố đã cột con bò cái trắng vào ngăn chuồng nhỏ riêng của nó, bên cạnh Pete và Bright. Nó đứng lặng lẽ nhai. Laura ngồi xổm xuống bên cạnh nó, một tay cầm cẩn thận chiếc ca thiếc, còn tay kia nắm lấy con bò cái và vắt sữa giống hệt như cô vẫn thấy bố làm khi bố vắt sữa. Và lập tức, một tia sữa trắng ấm phun vào chiếc ca. Mẹ kêu lên: - Chúa ơi! Con đang làm gì vậy! Laura đáp: - Con đang vắt sữa, mẹ! Mẹ nó nhanh: - Không phải ở bên đó. Nó đá con bây giờ. Nhưng con bòn cái hiền lành chỉ quay đầu lại nhìn Laura với cặp mắt dịu dàng. Nó có vẻ ngạc nhiên nhưng không đá. Mẹ tiếp: - Khi lấy sữa bò cái, phải luôn đứng bên phải, Laura. Nhưng bố lân tiếng: - Hãy coi bình rượu nhỏ kìa! Ai dạy con vắt sữa vậy? Không ai dạy Laura hết. Cô biết cách vắt sữa là do đã quan sát bố vắt sữa. Bây giờ, tất cả đều đứng ngắm cô. Từng tia sữa nối theo nhau phun vào chiếc ca rồi tia này sau tia khác kêu xì xì và nổi bọt cho tới khi bọt trắng dâng lên gần ngang miệng ca. Lúc đó, bố,mẹ, Mary, Laura mỗi người hớp một lớp sữa ấm, ngọt dịu và để phần còn lại cho Carrie uống. Tất cà đều thấy dễ chịu và cùng đứng ngắm con bò cái tuyệt đẹp kia. Mary hỏi: - Nó tên là gì? Bố bật cười lớn, nói: - Nó tên là Reet. Mẹ nhắc lại: - Reet? Đó hẳn là một cái tên nước ngoài? Bố nói: - Gia đình Nelson bảo nó là một cái tên Nauy. Khi anh hỏi cái tên đó nghĩa là gì thì bà Nelson nói nó là “Reet”. Mẹ hỏi: - Reet là cái gì ở trên đời này? Bố nói: - Đó cũng là điều anh hỏi bà Nelson. Bà ấy chỉ đáp “một Reet” và anh thấy muốn điên cái đầu vì cuối cùng bà ấy nói “một Reet hoa hồng”. Laura hô lên: - Một vòng! Một vòng hoa hồng! Thế là cà nhà đều cười cho tới khi không còn cười được nữa. Bố nói: - Nó vượt xa tất cả. Bố tiếp: - Ở Wisconsin, mình đã sống với người Thụy Điển và người Đức. Ở vùng đất của người da đỏ, mình sống với người da đỏ. Bây giờ ở đây, Minnesota, tất cả láng giềng của mình là người Nauy. Họ cũng là những người láng giềng tốt. Nhưng anh cho rằng loại bạn nông dân này của mình là rất hiếm có. Mẹ nói: - Thôi, mình sẽ không gọi con bò này là “Reet” hay là “Weath of Roses” nữa. Tên nó là Spot. 7. CON BÒ ĐỰC TRÊN MÁI NHÀ Bây giờ Laura và Mary có thêm việc để làm. Mỗi buổi sáng trước khi mặt trời mọc, các cô phải đưa Spot tới dải đá xám lớn chờ bầy bò để Johnny có thể dẫn nó theo những con bò khác ra ăn cỏ suốt ngày ngoài đồng. Và, mỗi buổi chiều, các cô phải nhớ tới đón bầy bò để đưa Spot về chuồng. Vào buổi sáng, các cô chạy băng qua những bụi cỏ đẫm sương khiến bàn chân ướt nhẹp và các dải viền quần áo như nhúng nước. Các cô thích hất bàn chân trần vào những cọng cỏ có sương đọng thành chuỗi. Các cô cũng thích nhìn mặt trời mọc lên từ chân trời. Lúc đầu, mọi thứ đều bất động và xám xịt. bầu trời màu xám, cỏ màu xám với sương đọng, ánh sáng màu xám và gió như kìm hơi thở lại. Rồi những vệt màu xanh lục xuất hiện ở phía trời đông.Nếu ở đó có một cụm mây thì cụm mây đổi thành màu hồng. Laura và Mary ngồi trên dải đá ẩm lạnh vòng ôm những ống chân rét cóng. Các cô đặt cằm trên đầu gối và ngắm nhìn trong lúc Jack ngồi trên đám cỏ phía dưới các cô cũng nhìn ngắm. Nhưng các cô không bao giờ kịp thấy lúc bầu trời khởi sự chuyển thành màu hồng. Chân trời có màu hồng rất nhạt rồi chuyển thành màu hồng đậm. Màu hồng lan cao hơn trên bầu trời trong lúc chân trời rạng sánh hơn và cao hơn. Chân trời bỗng chói lọi ánh lửa và thính lình những cụm mây nhỏ lấp lánh vàng rực. Ở chính giữa khoảng màu lửa chói lọi ngay trên mặt đất phẳng, một viền nhỏ mặt trời xuất hiện. Đường viền như một tia lửa ngắn màu trắng. Đột ngột, mặt trời vọt lên, tròn xoe, cực lớn, lớn khác xa mặt trời bình thường và tưng bừng với vô vàn ánh sáng thiêu cháy gần hết nét tròn đã có. Laura luôn bị choá mắt. Chính ngay lúc cô bị choá mắt, bầu trời chuyển thành màu xanh và đám mây vàng rực vụt biến mất. Hằng ngày, mặt trời chiếu sáng khắp đồng cỏ cho hàng ngàn con chim bay lựơn và hót líu lo. Chiều tối, khi bầy bò trở về, Laura và Mary luôn chạy thật nhanh tới dải đá trước khi những cái đầu, những chiếc sừng, những ống chân thình thịch tới gần. Lúc này, bố đang làm việc cho ông Nelson nên Pete và Bright không có việc để làm. Chúng cũng theo Spot đi với bầy bò ra ăn cỏ ngoài đồng. Laura không bao giờ sợ con bò trắng Spot hiền lành, nhưng Pete và Bright lớn đến nỗi ai cũng khiếp hãi. Một buổi tối, hết thảy bầy bò bỗng nổi giận. Chúng la rống, chạy rầm rập trở về và khi tới chỗ dải đá, chúng không đi thẳng. Chúng chạy vòng vòng, rống lớn và húc lẫn nhau. Mắt chúng lộ tròn, sừng chĩa tới phang chém lẫn nhau. Móng chân chúng hất bụi mù mịt trong tiếng sừng va đập chan chát rợn người. Mary sợ tới mức không cử động được. Laura kinh hoàng nhảy đại xuống khỏi dải đá. Cô biết là cô phải đưa Spot cùng Pete và Bright về chuồng. Bầy bò chạy loạn trong đám bụi. Chân chúng đập thình thịch, sừng chọi nhau chát chúa và chúng rống lớn. Nhưng Johnny giúp dồn được Spot cùng Pete, Bright và Spot quay đầu về hướng chuồng. Jack cũng theo giúp. Jack gầm gừ sát chân chúng và Laura vừa chạy vừa hét ở phía sau. Trong lúc đó, với một cây gậy lớn, Johnny lùa được bầy bò ra xa. Spot đi vào chuồng. Rồi tới Bright vào chuồng theo. Pete sắp sửa bước vào và Laura không còn thấy kinh hoàng nữa. Đột nhiên, Pete bỗng xoay tròn ngược lại. Cặp sừng nó hất ngang, đuôi nó dựng đứng và nó phóng chạy theo bầy bò. Pete nhảy thẳng lên mái nhà hầm. Laura thấy chân của nó thụt xuống, xuyên qua mái nhà. Con bò đực khổng lồ này sẽ rớt đè lên mẹ và Carrie và đó là lỗi của Laura vì cô đã không ngăn nó lại. Nó cố nhấc người lên để rút chân ra. Laura không ngưng chạy. Cô vòng được tới phía trước Pete và Jack cũng đã ở phía trước nó. Pete bị đuổi dồn về chuồng và Laura đóng gióng chuồng lại. Toàn thân cô run lên và chân như muốn khuỵ xuống. Hai đầu gối cô đập vào nhau. Mẹ đang chạy ngược lên lối mòn, tay bồng bé Carrie. Nhưng không có tổn hại nào đáng kể. Trên mái nhà chỉ có một lỗ thủng do chân của Pete tụt xuống và kéo lên lại. Mẹ bảo đây cũng là dịp để xem lại cả trần nhà có bị xuyên thủng không. Mẹ nói: - Nhưng không có hư hại đáng kể. Mẹ nhồi đầy cỏ vào lỗ hổng và quét sạch đất đã rớt xuống căn nhà hầm. Rồi mẹ và Laura cùng cười vì thấy kì lạ khi sống trong căn nhà mà một con bò đực có thể leo lên mái. Hoàn toàn giống như lũ thỏ trong hang. Sáng hôm sau, lúc rửa chén đĩa, Laura thấy những vật nhỏ gì đó đang lăn xuống bức vách quét vôi trắng. Đó là những mảnh đất vụn. Cô nhìn lên và nhảy tránh xa ra khỏi chỗ đó nhanh hơn một con thỏ. Một tàng đá lớn đè xuống và toàn thể trần nhà sụp vỡ. Nắng xối xuống căn nhà và không khí đầy bụi. Mẹ cùng Mary và Laura nghẹt thở và hắt hơi nhìn lên bầu trời ở chổ góc trần bị sụp vỡ. Bé Carrie ngồi trong vòng tay mẹ cũng ho sặc sụa. Jack nhào tới và khi nhìn thấy bầu trời ở phía trên, nó gừ gừ. Rồi nó cũng hắt hơi. Mẹ nói: - Rồi, phải lo làm lại. Laura hỏi: - Làm gì, mẹ? Cô ngỡ là mẹ muốn nói tới việc phải quét bụi. Mẹ nói: - Ngày mai bố sẽ phải sửa lại mái nhà. Sau đó, mấy mẹ con lo khuân đá, đất cùng các cành cây đầy cỏ khô rơi xuống ra khỏi nhà. Mẹ quét, rồi lại quét với cây chổi làm bằng cành liễu. Đêm đó, cả nhà ngủ trong nhà, dưới bầu trời đầy sao. Một điều như thế chưa bao giờ xảy ra trước đó. Hôm sau, bố ở nhà để làm lại mái nhà mới. Laura giúp bố khuân về những cành liễu tưoi và chuyển cho bố trong lúc bố lo chèn vào đúng chỗ. Cỏ sạch được phủ dầy trên những cành liễu rồi đất được đắp lên trên cỏ. Ở trên cùng, bố đặt những dải đất xắn ra từ đồng cỏ. Bố gắn những dải dất lại với nhau và Laura giúp đạp nhấn xuống. Bố nói: - Đám cỏ không bao giờ biết nổi chúng đã được chuyển chỗ. Vài ngày nữa các con cũng không nói được là mái nhà mới này là từ đồng cỏ đưa vào. Bố không la Laura về việc đã để cho Pete chạy xa. Bố chỉ nói: - Mái nhà của mình đâu phải chỗ cho một con bò lớn chạy lên. Chương 7: Con Bò Đực Trên Mái Nhà Bây giờ Laura và Mary có thêm việc để làm. Mỗi buổi sáng trước khi mặt trời mọc, các cô phải đưa Spot tới dải đá xám lớn chờ bầy bò để Johnny có thể dẫn nó theo những con bò khác ra ăn cỏ suốt ngày ngoài đồng. Và, mỗi buổi chiều, các cô phải nhớ tới đón bầy bò để đưa Spot về chuồng. Vào buổi sáng, các cô chạy băng qua những bụi cỏ đẫm sương khiến bàn chân ướt nhẹp và các dải viền quần áo như nhúng nước. Các cô thích hất bàn chân trần vào những cọng cỏ có sương đọng thành chuỗi. Các cô cũng thích nhìn mặt trời mọc lên từ chân trời. Lúc đầu, mọi thứ đều bất động và xám xịt. bầu trời màu xám, cỏ màu xám với sương đọng, ánh sáng màu xám và gió như kìm hơi thở lại. Rồi những vệt màu xanh lục xuất hiện ở phía trời đông.Nếu ở đó có một cụm mây thì cụm mây đổi thành màu hồng. Laura và Mary ngồi trên dải đá ẩm lạnh vòng ôm những ống chân rét cóng. Các cô đặt cằm trên đầu gối và ngắm nhìn trong lúc Jack ngồi trên đám cỏ phía dưới các cô cũng nhìn ngắm. Nhưng các cô không bao giờ kịp thấy lúc bầu trời khởi sự chuyển thành màu hồng. Chân trời có màu hồng rất nhạt rồi chuyển thành màu hồng đậm. Màu hồng lan cao hơn trên bầu trời trong lúc chân trời rạng sánh hơn và cao hơn. Chân trời bỗng chói lọi ánh lửa và thính lình những cụm mây nhỏ lấp lánh vàng rực. Ở chính giữa khoảng màu lửa chói lọi ngay trên mặt đất phẳng, một viền nhỏ mặt trời xuất hiện. Đường viền như một tia lửa ngắn màu trắng. Đột ngột, mặt trời vọt lên, tròn xoe, cực lớn, lớn khác xa mặt trời bình thường và tưng bừng với vô vàn ánh sáng thiêu cháy gần hết nét tròn đã có. Laura luôn bị choá mắt. Chính ngay lúc cô bị choá mắt, bầu trời chuyển thành màu xanh và đám mây vàng rực vụt biến mất. Hằng ngày, mặt trời chiếu sáng khắp đồng cỏ cho hàng ngàn con chim bay lựơn và hót líu lo. Chiều tối, khi bầy bò trở về, Laura và Mary luôn chạy thật nhanh tới dải đá trước khi những cái đầu, những chiếc sừng, những ống chân thình thịch tới gần. Lúc này, bố đang làm việc cho ông Nelson nên Pete và Bright không có việc để làm. Chúng cũng theo Spot đi với bầy bò ra ăn cỏ ngoài đồng. Laura không bao giờ sợ con bò trắng Spot hiền lành, nhưng Pete và Bright lớn đến nỗi ai cũng khiếp hãi. Một buổi tối, hết thảy bầy bò bỗng nổi giận. Chúng la rống, chạy rầm rập trở về và khi tới chỗ dải đá, chúng không đi thẳng. Chúng chạy vòng vòng, rống lớn và húc lẫn nhau. Mắt chúng lộ tròn, sừng chĩa tới phang chém lẫn nhau. Móng chân chúng hất bụi mù mịt trong tiếng sừng va đập chan chát rợn người. Mary sợ tới mức không cử động được. Laura kinh hoàng nhảy đại xuống khỏi dải đá. Cô biết là cô phải đưa Spot cùng Pete và Bright về chuồng. Bầy bò chạy loạn trong đám bụi. Chân chúng đập thình thịch, sừng chọi nhau chát chúa và chúng rống lớn. Nhưng Johnny giúp dồn được Spot cùng Pete, Bright và Spot quay đầu về hướng chuồng. Jack cũng theo giúp. Jack gầm gừ sát chân chúng và Laura vừa chạy vừa hét ở phía sau. Trong lúc đó, với một cây gậy lớn, Johnny lùa được bầy bò ra xa. Spot đi vào chuồng. Rồi tới Bright vào chuồng theo. Pete sắp sửa bước vào và Laura không còn thấy kinh hoàng nữa. Đột nhiên, Pete bỗng xoay tròn ngược lại. Cặp sừng nó hất ngang, đuôi nó dựng đứng và nó phóng chạy theo bầy bò. Pete nhảy thẳng lên mái nhà hầm. Laura thấy chân của nó thụt xuống, xuyên qua mái nhà. Con bò đực khổng lồ này sẽ rớt đè lên mẹ và Carrie và đó là lỗi của Laura vì cô đã không ngăn nó lại. Nó cố nhấc người lên để rút chân ra. Laura không ngưng chạy. Cô vòng được tới phía trước Pete và Jack cũng đã ở phía trước nó. Pete bị đuổi dồn về chuồng và Laura đóng gióng chuồng lại. Toàn thân cô run lên và chân như muốn khuỵ xuống. Hai đầu gối cô đập vào nhau. Mẹ đang chạy ngược lên lối mòn, tay bồng bé Carrie. Nhưng không có tổn hại nào đáng kể. Trên mái nhà chỉ có một lỗ thủng do chân của Pete tụt xuống và kéo lên lại. Mẹ bảo đây cũng là dịp để xem lại cả trần nhà có bị xuyên thủng không. Mẹ nói: - Nhưng không có hư hại đáng kể. Mẹ nhồi đầy cỏ vào lỗ hổng và quét sạch đất đã rớt xuống căn nhà hầm. Rồi mẹ và Laura cùng cười vì thấy kì lạ khi sống trong căn nhà mà một con bò đực có thể leo lên mái. Hoàn toàn giống như lũ thỏ trong hang. Sáng hôm sau, lúc rửa chén đĩa, Laura thấy những vật nhỏ gì đó đang lăn xuống bức vách quét vôi trắng. Đó là những mảnh đất vụn. Cô nhìn lên và nhảy tránh xa ra khỏi chỗ đó nhanh hơn một con thỏ. Một tàng đá lớn đè xuống và toàn thể trần nhà sụp vỡ. Nắng xối xuống căn nhà và không khí đầy bụi. Mẹ cùng Mary và Laura nghẹt thở và hắt hơi nhìn lên bầu trời ở chổ góc trần bị sụp vỡ. Bé Carrie ngồi trong vòng tay mẹ cũng ho sặc sụa. Jack nhào tới và khi nhìn thấy bầu trời ở phía trên, nó gừ gừ. Rồi nó cũng hắt hơi. Mẹ nói: - Rồi, phải lo làm lại. Laura hỏi: - Làm gì, mẹ? Cô ngỡ là mẹ muốn nói tới việc phải quét bụi. Mẹ nói: - Ngày mai bố sẽ phải sửa lại mái nhà. Sau đó, mấy mẹ con lo khuân đá, đất cùng các cành cây đầy cỏ khô rơi xuống ra khỏi nhà. Mẹ quét, rồi lại quét với cây chổi làm bằng cành liễu. Đêm đó, cả nhà ngủ trong nhà, dưới bầu trời đầy sao. Một điều như thế chưa bao giờ xảy ra trước đó. Hôm sau, bố ở nhà để làm lại mái nhà mới. Laura giúp bố khuân về những cành liễu tưoi và chuyển cho bố trong lúc bố lo chèn vào đúng chỗ. Cỏ sạch được phủ dầy trên những cành liễu rồi đất được đắp lên trên cỏ. Ở trên cùng, bố đặt những dải đất xắn ra từ đồng cỏ. Bố gắn những dải dất lại với nhau và Laura giúp đạp nhấn xuống. Bố nói: - Đám cỏ không bao giờ biết nổi chúng đã được chuyển chỗ. Vài ngày nữa các con cũng không nói được là mái nhà mới này là từ đồng cỏ đưa vào. Bố không la Laura về việc đã để cho Pete chạy xa. Bố chỉ nói: - Mái nhà của mình đâu phải chỗ cho một con bò lớn chạy lên. Chương 8: Đống Rơm Khi mùa gặt của ông Nelson chấm dứt, bố đã trả hết nợ về con Spot. Lúc này, bố có thể lo cho mùa gặt của riêng mình. Bố mài bén chiếc phảng dài dễ sợ mà các cô bé không bao giờ được đụng tới và bố đi cắt thửa lúa mì nhỏ ở phía bên kia chuồng bò. Bố buộc thành từng bó rồi chất đống lại. Rồi mỗi buổi sáng, bố tới làm việc trên khoảng đất bằng phẳng ngang suối. Bố cắt cỏ và để tại đó hong khô dưới nắng. Với cây cào gỗ, bố cào cỏ lại thành nhiều đống. Bố đóng ách Pete và Bright vào xe, kéo cỏ lại chất thành sáu đống lớn. Lúc này, về đêm bố mệt tới mức không thể chơi đàn được. Nhưng bố rất vui khi cỏ khô được chất đống xong và bố có thể cày mảnh đất lởm chởm gốc rạ để sẽ biến thành đồng lúa mì. Một buổi sáng, ba người đàn ông lạ tới với một chiếc máy đập. Họ đập đống lúa của bố. Khi đưa Spot qua bãi cỏ còn đọng sương, Laura nghe tiếng máy nổ nhức óc và lúc mặt trời lên, vỏ trấu bay vàng rực trong gió. Đập lúa xong, mấy người đàn ông đưa máy đi trước lúc ăn sáng. Bố nói bố mong ông Hanson đã gieo nhiều hạt hơn. Bố tiếp: - Nhưng cũng đã có đủ để mình có một số bột. Còn rơm thì với số anh đã cắt đủ để nuôi mấy con bò qua hết mùa đông. Năm tới mình sẽ có một vụ lúa mì đáng kể hơn là một cái gì đó. Khi Laura và Mary ra chơi ngoài đồng vào sáng hôm đó, điều trước tiên các cô nhìn thấy là một đống rơm vàng rực rất đẹp. Đống rơm rất cao phản chiếu ánh nắng sáng lấp lánh. Mùi rơm thơm ngọt hơn hẳn mùi cỏ khô. Mấy bàn chân của Laura trượt trên sườn đống rơm trơn tuột, nhưng cô có thể leo nhanh hơn mức trượt. Sau một phút, cô đã ở trên đỉnh đống rơm. Cô nhìn qua ngọn những cây liễu và xa tít phía bên kia suối tới vùng đất xa thẳm. Cô có thể nhì bao quát khắp đồng cỏ rộng mênh mông. Cô đứng cao tít trên không, gần như cao ngang đàn chim. Cánh tay cô khua động và bàn chân cô nhảy nhót trên lớp rơm nhún nhảy. Gần như cô đang bay giữa khoảng trời lộng gió. Cô kêu lên với Mary: - Em đang bay! Em đang bay! Mary trèo lên với cô. Laura nói: - Nhảy! Nhảy này! Cả hai nắm tay và nhảy vòng vòng, cao hơn, cao hơn nữa. gió thổi váy các cô bay phần phật và những chiếc nón đung đưa chỉ được giữ bằng mấy sợi dây buộc quấn quanh cổ. Laura vừa hát vừa nhảy: - Cao hơn! Cao hơn! Thình lình rơm trượt ngay dưới chân cô. Cô ngồi thụp xuống bên một cạnh đống rơm. Bum! Mary lên đè người cô. Cà hai lật người lại và cười trong những cọng rơm. Rồi các cô lại trèo lên đống rơm để trượt xuống. Chưa bao giờ các cô chơi vui như thế. Các cô leo lên trượt xúông, leo lên trượt xúông cho tới khi ngọn đống rơm không còn nữa. Thế là các cô tỉnh lại. Bố đã chất đống rơm này và bây giờ nó không còn giữ nguyên hình dạng nữa. Laura nhìn Mary và Mary nhìn cô và cả hai cùng nhìn đống rơm bị vẹt ngọn. Rồi Mary nói cô sẽ quay về nhà và Laura lặng lẽ bước theo chị. Cả hai ngoan ngoãn giúp mẹ và chơi đùa thật dễ thương với bé Carrie cho tới khi bố trở về ăn cơm trưa. Vừa bước vào, bố nhìn thẳng vào Laura và Laura cúi xuống ngó nền nhà. Bố lên tiếng: - Các con không được trượt trên đống rơm thêm một lần nào nữa. Bố đã phải quăng lên tất cả chỗ rơm bị tụt xuống. Laura nói một cách sốt sắng: - Chúng con không làm nữa đâu ba! Và Mary nói: - Dạ, bố, chúng con sẽ không làm nữa! Sau bữa ăn trưa, Mary rửa chén đĩa còn Lauar lo lau khô. Rồi cả hai đội mũ bước lên lối đi ra ngoài đồng. Đống rơm đứng vàng chói dưới ánh nắng. Mary nói: - Laura! Em đang làm gì vậy! Laura nói: - Em không làm gì hết. Ngay cả sờ vào nó em cũng không làm! Mary nói: - Em cần tránh xa chỗ đó, nếu không chị sẽ nói với mẹ! Laura cãi lịa: - Bố không nói là em không được tới hửi nó. Cô đứng sát vào đống rơm vàng hực và hít thở những hơi thở thật sâu. Rơm ấm nắng và thơm hơn cả hạt lúa mì khi nhấm chúng. Laura úp mặt vào đống rơm, nhắm mắt lại và hửi sâu hơn, sâu hơn nữa. Cô bật lên: - Hààà! Mary bước tới, hửi và cũng bật lên: - Hààà! Laura ngước lên nhìn đống rơm vàng rực, chói sáng chênh vênh. Cô chưa hề thấy nền trời xanh như thế trên cái màu vàng kia. Cô không thể đứng ở dưới đất. Cô phải lên cao giữa trời xanh. Mary quát: - Laura! Bố nói không được trèo lên! Laura đang trèo. Cô cãi lại: - Bố không nói thế! Bố không nói không được trèo lên. Bố nói là không được trượt xuống. Em chỉ trèo lên thôi. Mary nói: - Em sẽ nhảy thẳng từ đó xuống. Laura đã ở trên ngọn đống rơm. Cô nhìn xuống Mary và nói như một cô bé ngoan ngoãn: - Em sẽ không trượt xuống. Bố nói không được trượt. Không gì cao hơn cô, ngoài bầu trời xanh. Gió thổi lồng lộng. Đồng cỏ mênh mông xa tắp. Laura dang rộng hai cánh tay, nhún nhảy, và rơm đưa cô lên cao. Cô hát: - Em đang bay! Em đang bay! Mary trèo lên và cô cũng bắt đầu bay. Cả hai nhảy cho tới khi không thể nhảy cao hơn nữa. Rồi các cô ngồi phịch xuống trên lớp rơm ấm ngọt. Những cọng rơm lòi ra thọc vào hai bên sườn Laura. Cô lăn đè lên thì những cọng khác lại lòi ra. Cô lại lăn trên những cọng này và lăn nhanh hơn, nhanh hơn nữa không dùng lại nổi. Mary hét lên: - Laura! Bố nói… Nhưng Laura đang lăn. Lăn qua, lăn lại, lăn qua và cô lăn thẳng từ đống rơm xuống đất. Cô nhảy bật dậy, trèo lên đống rơm cực nhanh. Cô ngồi phịch xuống và lại bắt đầu lăn. Cô la lớn: - Lăn đi, Mary! Bố không bảo mình không được lăn. Mary ngồi trên ngọn đống rơm và tỏ vẻ đồng ý: - Chị biết bố không cấm mình lăn, nhưng… Laura đã lăn xuống: - Được rồi! Lăn đi! Cô gọi vọng lên: - Thích lắm! Mary lưỡng lự: - Ừ, nhưng mà chị… Rồi Mary lăn xuống. Thích thú thật, thích thú hơn trượt xuống nhiều. Cả hai lại trèo lên và lăn xuống, trèo lên và lăn xuống nữa, và cười không ngừng. Những cọng rơm bị cuốn theo các cô rơi xuống mỗi lúc một nhiều hơn. Các cô đạp lên, cuộn chúng lại và trèo tiếp tục để lại lăn xuống cho tới khi không cò gì để tiếp tục trèo lên. Lúc đó, các cô phủi những cọng rơm trên quần áo, gỡ các cọng rơm dính trong tóc và lẳng lặng trở về căn nhà hầm. Khi bố từ đồng cỏ trở về đêm đó, Mary đang bận rộn bày bàn ăn cho bữa tối. Laura ở sau khung cửa loay hoay với chiếc hộp búp bê giấy. Bố nói giọng khủng khiếp: Laura từ từ bước ra từ sau khung cửa. Bố nhắc: - Tới đây, ngay chỗ này, cạnh Mary. Bố ngồi xuống và để các cô đứng phía trước sát cạnh nhau. Nhưng bố nhìn thẳng vào Laura. Bố nói giọng nghiêm khắc: - Các con lại trượt từ đống rơm xuống. Laura nói: - Không, bố! Bố nói: - Mary, con có trượt trên đống rơm xuống không? Mary đáp: - Kh…không, bố! Giọng bố thật khủng khiếp: - Laura, nói lại coi, con có trượt từ đống rơm xuống không? Laura lại đáp: - Không, bố! Cô nhìn thẳng vào cặp mắt khó chịu của bố. Cô không hiểu vì sao bố lại nhìn như thế. Bố nói: - Laura! Laura giải thích: - Chúng con không trượt, bố! Nhưng chúng con lăn xuống. Bố đứng bật dậy thật mau, bước tới cửa, đứng nhìn ra ngoài. Lưng bố rung lên. Laura và Mary không biết bố đang nghĩ gì. Khi bố quay lại, mặt bố nghiêm nghị, nhưng mắt bố lóe sáng. Bố nói: - Được, Laura. Nhưng bây giờ bố muốn các con phải tránh xa đống rơm đó. Pete, Bright và Spot không có gì để ăn suốt mùa đông này, ngoài cỏ khô và rơm. Chúng cần từng cọng rơm. Các con không muốn chúng phải nhịn đói chứ, phải không? Cả hai đều đáp: - Ô, không, bố! - Tốt, đống rơm kia cần giữ nguyên để nuôi chúng nên phải chất đống lại. Các con hiểu không? Laura và Mary nói: - Dạ, bố! Ngày chơi trên đống rơm của các cô kết thúc như thế. Chương 9: Thời Tiết Châu Chấu Lúc này những bụi mận hoang dọc suối Plum đang chín. Mận là một loại cây thấp. Chúng mọc chen vào với nhiều cành nhỏ quấn quýt chĩu nặng những quả mận mọng nước dưới lớp vỏ ngoài căng mịn. Cả một vùng không khí như đọng lại trong vị ngọt và những tiếng vỗ cánh vo vo. Bố đang cày trên mảnh đất bên kia suối mà bố đã dọn sạch cỏ. Rất sớm trước khi mặt trời mọc, lúc Laura đưa Spot tới gặp bầy bò bên kia dải đá xám, Pete và Bright đã ra khỏi chuồng. bố đóng ách chúng vào cây cày và đi làm việc. Khi Laura và Mary rửa chén đĩa của bữa ăn sáng xong, các cô xách những chiếc thùng thiếc đi hái mận. Từ trên nóc nhà, các cô nhìn thấy bố đang cày. Mấy con bò cùng cây cày và bố trườn đi chậm chạp dọc một mép đồng. Tất cả có vẻ nhỏ lại và từ cây cày một lớp khói bụi nhỏ bốc lên bay đi. Mồi ngày, khoảnh đất đã được cày mượt mà màu nâu thẫm cứ lớn thêm. Nó nuốt hết cánh đồng lởm chởm gốc cỏ phía bên kia những đống cỏ khô và lấn tràn lên những ngọn sóng đồng cỏ. Nó sắp trở thành một cánh đồng lúa mì rất lớn và khi bố cắt lúa vào một ngày nào đó thì Laura và Mary sẽ có mọi thứ mà tất cả có thể nghĩ tới. Họ sẽ có một ngôi nhà, một bầy ngựa, có đường để ăn mỗi ngày khi bố thu hoạch lúa mì. Laura đang đạp trên những vùng cỏ cao đi tới các bụi mận bên dòng suối. Chiếc mủ của cô lủng lẳng phía sau gáy và cô đung đưa chiếc thùng thiếc. Lúc này cỏ đang khô vàng và hàng tá châu chấu nhỏ nhảy rào rào từ những bàn chân khua động sột soạt của Laura. Mary đang đi theo lối đi do Laura mở và cô vẫn đội mủ trên đầu. Khi tới một bụi mận, các cô đặt những thùng lớn xuống. Các cô hái mận vào các thùng nhỏ rồi mang đổ vào thùng lớn cho tới khi đầy thùng. Lúc đó, các cô khiêng chiếc thùng lớn về đặt trên mái nhà hầm. mẹ trải rộng những tấm vải sạch trên thảm cỏ để Laura và Mary đổ mận ra đó phơi khô trong nắng. Mùa đông tới họ sẽ có mận khô để ăn. Bông của những bụi mận rất mỏng. Nắng rung rinh giữa những lá cánh hẹp ở trên đầu. Những cành mận nhỏ nặng trĩu trái uốn vòng xuống và trái mận rụng lăn lóc giữa những khóm cỏ dài dưới chân. Nhiều trái dập vỡ, nhiều trái còn căng mọng nguyên vẹn và nhiều trái nứt ra để lộ phần ruột vàng mọng nước phía trong. Đủ loại ong lớn nhỏ bám đầy quanh các trái bị nứt đang cố sức hút chất nước của trái mận. Phần đuôi đầy vẩy của chúng uốn éo một cách hả hê. Chúng bận rộn và vui thích tới độ không còn chích nổi những. Khi Laura chọc chúng bằng một cọng lá cỏ, chúng chỉ rời đi một bước và vẫn không ngừng hút chất nước mận ngon lành. Laura bỏ tất cả những trái mận nguyên lành vào thùng của cô. Nhưng cô dùng móng tay hất những con ong lớn khỏi các trái mận bị nứt và liệng thật nhanh vào trong miệng. Trái mận ngọt lịm, ấm và mọng nước. Lũa ong bay vo ve hỗn loạn xung quanh cô. Chúng không biết điều gì đã xảy ra với những trái mận của chúng. Nhưng chỉ trong một phút, chúng đã xúm quanh trên mọi trái mận khác để hút nước. Mary nói: - Phải nói là em lo ăn mận nhiều hơn là em hái mận. Laura phản đối: - Em đâu có làm thế. Em chỉ ăn trái nào em hái thôi. Mary nói cắt ngang: - Em hiểu rất rõ ý chị muốn nói mà. Em chỉ chơi trong lúc chị làm. Nhưng Laura kịp hái đầy thùng khi Mary hái đầy. Mary khó chịu vì cô thích khâu vá hay đọc sách hơn là đi hái mận. Nhưng Laura ghét ngồi yên một chỗ và thích đi hái mận. Cô thích lay lắc những trái mận. Lắc cây không dễ mà phải biết chính xác lắc ra sao. Lắc mạnh quá, những trái mận xanh sẽ rụng và uổng phí. Còn lắc nhẹ quá thì sẽ chẳng nhặt được một trái mận chín nào. Làm thế còn hiến chúng rụng vào ban đêm và một số sẽ hư dập thì cũng thật uổng phí. Laura biết rất rõ phải hái một cây mận ra sao. Cô nắm chắc thân cây thô nhám và lắc một cái nhẹ cực nhanh. Mọi trái mận đều đung đưa trên cành và xung quanh cô, trái rơi lộp độp. Rồi thêm một cái giật giữa lúc các trái mận đang đung đưa để những trái chín cuối cùng rơi xuống lộp bộp, lộp bộp. Có nhiều loại mận. Hái xong mận tía thì mận vàng đã chín. Rồi tới mận xanh. Thời gian ra trái của mận khá dài. Những trái mận trong mùa sương giá có thể chưa chín hết khi sương giá đã qua. Một buổi sáng, tòn thể cảnh vật đều như trắng bạc. Mỗi lá cỏ đều sáng trắng và lối mòn cũng có một lớp bạc mỏng. Dưới bàn chân trần của Laura giống như có lửa nóng và dấu chân in thành một vệt sậm trên nền bạc. Không khí lạnh buốt trong mũi và hơi thở của cô đọng lại thành hơi nước. Hơi thở của Spot cũng vậy. Khi mặt trời hiện ra, toàn thể đồng cỏ đều lấp lánh. Hành triệu những tia phản chiếu li ti chói sáng ánh lửa trên thảm cỏ. Đó là những ngày mận sương giá chìn. Đó là những trái mận lớn màu tím và phủ lên trên lớp vỏ màu tím là một lớp mỏng màu trắng bạc giống như sương giá. Lúc náy, nắng không nóng lắm và ban đêm rất lạnh. Hầu như khắp đồng cỏ đều nhuốm màu hung hung của các đồng cỏ khô. Không khí như có mùi vị khác và bầu trời không còn xanh thẫm nữa. Ban trưa, nắng ấm lại. Không có mưa và không còn sương giá. Sắp tới mùa Lễ tạ ơn và không có tuyết. Bố nói: - Không biết thứ gì làm ra như vậy. Chưa bao giờ anh thấy loại thời tiết này. Ông Nelson bảo những nhà thiên văn ngày xưa gọi đây là thời tiết châu chấu. - Thời tiết châu chấu nghĩa là gì? Mẹ hỏi và bố lắc đầu: - Anh không thể giải thích nổi. Ông Nelson chỉ nói gọn “thời tiết châu chấu”. Anh chịu không hiểu nổi ý nghĩ của mấy tiếng đó. Mẹ nói: -Chắc đó là lời nói của một số người già Nauy. Laura thích âm điệu của mấy từ đó và khi chạy ngang qua những bãi cỏ khô dò, nhìn thấy những con châu chấu đang nhảy, cô hát lên một mình: - Thời tiết châu chấu! Thời tiết châu chấu! Chương 10: Bầy Bò Trong Cỏ Khô Mùa hè đã qua, mùa đông đang tới và đã tới lúc bố thực hiện một chuyến đi về thị trấn. Vùng này thuộc Minnesota và thị trấn ở rất gần, đi về chỉ trong một ngày nên mẹ đi cùng bố. Mẹ mang theo bé Carrie vì Carrie quá nhỏ không thể rời xa mẹ. Nhưng Mary và Laura đều là những cô gái đã lớn. Mary sắp 9 tuổi và Laura sắp lên 8 nên cả hai có thể ở lại nhà trông coi mọi thứ vào lúc mẹ đi vắng. Vì đi ra thị trấn nên mẹ khâu áo mới cho bé Carrie từ chiếc áo vải màu hồng mà Laura mặc khi còn bé. Còn dư vải đủ để may thêm cho Carrie một chiếc mũ ủ hồng. tóc Carrie được cuốn trọn đêm trong những cuốn kẹp giấy. Khi mẹ buộc những dải mũ màu hồng dưới cằm Carrie, những lọn tóc uốn tròn vàng óng rủ dài xuống. Carrie giống như một bông hoa hồng. Mẹ mặc váy xòe và chiếc áo đẹp nhất, chiếc áo bằng vải len với hình những trái dâu tây nhỏ mà mẹ mặc vào dịp dự buổi khiêu vũ ở nhà bà ngoại hồi nào ở Big Woods. - Bây giờ ráng làm các cô gái ngoan nghe, Laura và Mary. Đó là lời dặn chót của mẹ. Mẹ đã ngồi trên ghế ngồi ở thùng xe với bé Carrie ở bên cạnh. Bữa ăn trưa đã có trong thùng xe. Bố cầm gậy thúc bò lên. Bố hứa hẹn: - Bố mẹ sẽ trở về trước lúc mặt trời lặn. Bố hô với Pete và Bright: - Hi-úp! Con bò lớn và con bò nhỏ tựa vào chiếc ách và cỗ xe chuyển động. Laura và Mary gọi lớn từ phía sau: - Tạm biệt bố! Tạm biệt mẹ! Tạm biệt Carrie! Tạm biệt! Từ từ cỗ xe rời xa. Bố đi bộ bên cạnh mấy con bò. Mẹ, bé Carrie, cỗ xe và bố nhỏ dần mãi rồi mất hút trên đồng cỏ. Đồng cỏ giống như rộng ra, vắng ngắt nhưng lúc này ở đó không có gì đáng sợ. Ở đó không có sói và không có người da đỏ. Ngoài ra, còn có Jack ngồi sát bên Laura. Jack là một con chó có trách nhiệm. Nó biết là nó phải trông chừng mọi thứ khi bố đi vắng. Sáng hôm đó, Mary và Laura chơi đùa bên bờ suối giữa những bụi cỏ ống. Các cô không tới gần vùng nước sâu và cũng không đụng tới đống rơm. Buổi trưa các cô ăn bánh bột bắp với mật mía và uống sữa mà mẹ đã để lại sẵn. Xong, các cô rửa những chiếc ly thiếc của mình và cất đi. Lúc đó Laura muốn chơi trên dải đá lớn còn Mary muốn ngồi lại trong căn nhà hầm. Mary bảo Laura cũng phải ở lại. Laura nói: - Mẹ mới bắt được em còn chị thì không. Mary nói: - Chị có thể bắt vậy. Khi mẹ đi vắng, em phải làm theo lời chị vì chị lớn hơn. Laura nói: - Chị phải chiều theo em vì em nhỏ hơn. Mary nói với cô: - Chị chỉ chiều theo bé Carrie thôi chứ không phải em. Nếu em không nghe lời, chị sẽ mách mẹ. Laura nói: - Em nghĩ là em có thể chơi ở những chỗ nào em thích. Mary chộp lấy cô nhưng Laura rất nhanh. Cô lao vút ra ngoài chạy ngược lên lối đi, nhưng Jack đã ở trên đường. Nó đứng cứng ngắt nhìn qua dòng suối. Laura nhìn theo và cô hét thất thanh: - Mary! Bầy bò đang vây quanh mấy đống cỏ khô của bố. Chúng đang ăn cỏ. Chúng thọc sừng vào các đống cỏ, hất cỏ ting ra rồi vừa ăn vừa đạp lên. Sẽ không còn gì để nuôi Pete, Bright và Spot trong mùa đông. Jack biết phải làm gì. Nó gầm gừ chạy xuống những bực đi dẫn xuống cây cầu. Bố không có ở đây để giữ những đống cỏ khô nên các cô phải đuổi bầy bò ra xa. Mary kêu lên kinh hãi: - Ô, không thể được! Không thể được! Nhưng Laura đã phóng theo Jack và Mary chạy theo cô. Các cô băng qua dòng suối tới lạch nước. Các cô tới đồng cỏ và lúc này nhìn rõ bầy bò lớn, hung dữ ở rất gần. Những chiếc sừng dài đang khoét, những chiếc ống chân chắc nịch đang đạp và chen lấn còn những chiếc miệng rộng đang rống lên. Mary sợ đến tê bại người. Laura cũng kinh hoàng không đứng yên nổi. Cô giật Mary bước lên. Cô chộp một cành cây chạy thẳng tới bầy bò và la hét, Jack gầm gừ xông vào. Con bò cái lớn màu đỏ đưa mấy chiếc sừng ra nhắm đánh vào Jack nhưng nó đã chạy ra phía sau con bò. Con bò thở ra phì phì và phóng chạy. Tất cả những con bò khác gò lưng chen lấn chạy theo sau nó và Jack cùng Mary, Laura đuổi theo. Nhưng các cô không thể xua nổi bầy bò rời xa khỏi đống cỏ. Bầy bò cứ chạy vòng quanh, vòng quanh giữa các đống cỏ, chen lấn, la rống, giật cỏ khô ra và đạp lên. Càng lúc cổ khô càng bị giựt ra nhiều hơn. Laura chạy đuổi vừa hổn hển la hét vừa vung gậy. Cô chạy nhanh hơn bao nhiêu thì bầy bò chạy nhanh bấy nhiêu. Những con bò đen, nâu, đỏ, vằn, đốm to lớn với những cặp sừng dễ sợ không ngừng hất tung cỏ lên. Một vài con còn cố leo qua những đống cỏ bị xô đẩy. Laura chóng mặt và nóng hừng hực. Tóc cô xõa tung thọc vào trong mắt.Họng cô khan đục nhưng cô tiếp tục hét, tiếp tục chạy và vung tít gậy. Cô rất sợ đụng phải một con bò cái với cặp sừng lớn này. Cỏ khô tiếp tục bị xuống nhiều hơn và bầy bò xéo đạp lên cỏ mỗi lúc một nhanh hơn. Thình lình Laura đảo ngược người đổi hướng chạy. Cô đối diện với con bò cái màu đỏ đang chạy vòng quanh một đống cỏ. Những bắp chân, những thớt vai đồ sộ, những chiếc sừng khủng khiếp đang vùn vụt phóng tới. Lúc mà Laura không còn kêu gào nổi. Nhưng cô nhảy tới con bò múa tít gậy. Con bò có ngưng lại nhưng không ngừng được vì phía sau nó tất cả bầy bò đang xô tới. Nó lập tức chuyển hướng phóng qua mảnh đất đã được bố cày và tất cả bầy bò phóng theo nó. Jack, Mary và Laura cùng đuổi theo bầy bò thật xa khỏi những đống cỏ khô. Các cô đuổi theo chúng vào tận đồng cỏ cao. Johnny Johnson đứng giữa đồng cỏ đang dụi mắt. Anh ta vứa ngủ vùi trong một trũng cỏ ấm. Laura hét lớn: - Johnny! Johnny! Thức dậy và canh chừng bầy bò đi! Mary nói với anh ta: - Anh phải kỹ hơn chứ! Johnny Johnson nhìn bầy bò đang gặm cỏ trên đồng rồi nhìn Laura, Mary và Jack. Anh ta không hiểu chuyện gì đã xảy ra và các cô không thể kể cho anh ta nghe vì ngôn ngữ duy nhất anh ta hiểu là tiếng Nauy. Các cô quay bước qua vùng cỏ cao cản vướng những ống chân đang run của các cô. Các cô mừng vì có thể uống nước trong lạch nguồn. Các cô cũng mừng là được ngồi trong nghỉ êm ả trong căn nhà hầm. Chương 11: Bỏ Chạy Các cô ngồi trọn buổi chiều yên tĩnh dài dặc trong căn nhà hầm. Bầy bò không quay lại phá các đống cỏ khô nữa. Mặt trời từ từ nghiêng xuống phía trời tây. Sắp tới lúc đi gặp bầy bò ở chỗ dải đá lớn màu xám và cả hai cũng ao ước bố mẹ sớm về nhà. Các cô liên tục leo lên lối mòn để chờ thấy cỗ xe. Cuối cùng các cô ngồi luôn trên nóc nhà đầy cò cùng với Jack để chờ. Mặt trời đã xuống thấp hơn và hai tai của Jack lộ vẻ chăm chú hơn. Nó và Laura thường đứng lên nhìn về phía trời mà cỗ xe đã mất hút hồi sáng, mặc dù vẫn có thể nhìn rất rõ hướng đó khi ngồi yên. Cuối cùng Jack xoay một bên tai, rồi tai bên kia. Nó ngước nhìn Laura và đột ngột lắc mạnh toàn thân. Cỗ xe đang xuất hiện. Các cô đứng lên nhìn cho tới khi cỗ xe chạy tới đồng cỏ. Khi nhận rõ mấy con bò đực, rồi nhận rõ mẹ và Carrie ngồi trên thùng xe, Laura nahy3 lên, lột nón ra vẫy vẫy và la hét: - Mọi người đang tới! Mọi người đang tới! Mary nói: - Mọi người chạy tới mau khủng khiếp! Laura dừng lại bất động. Cô nghe thấy cỗ xe chạy rầm rầm nặng nề. Pete và Bright đi tới cực nhanh. Chúng đang chạy và bỏ chạy luôn. Cỗ xe lao tới ầm ĩ và xốc nẩy lên. Laura nhìn thấy mẹ ở trong một góc thùng xe, đang đeo vào đó và ôm chặt bé Carrie. Bố đang sải chân nhảy dài sát bên Bright, la hét và đập nó bằng cây gậy thúc bò. Bố đang cố buộc Bright đổi hướng không chạy về phía bờ suối. Bố không thể làm nổi điều đó. Những con bò cứ chạy đều gần hơn, gần hơn và gần hơn nữa bờ dốc đứng. Bright đang dồn bố bật ra khỏi lối đi. Tất cả đều đang chạy tới. Cỗ xe, mẹ và Carrie sắp sửa rời khỏi bờ để lăn thẳng xuống suối. Bố hét lớn một tiếng khủng khiếp. Bố vận hết sức đánh vào đầu Bright và Bright xoay người đảo hướng. Laura chạy tới hét thất thanh. Jack nhảy bổ thẳng tới mũi Bright. Lúc này cỗ xe, mẹ và Carrie thóang hiện sát bên cạnh. Bright đâm sầm vào trong chuồng và mọi thứ đột ngột khựng hẳn lại. Bố chạy tới theo cỗ xe và Laura chạy theo sau bố. Bố quát: - Oa, Bright! Oa, Pete! Bố níu lấy cỗ xe và nhìn mẹ. Mẹ nói: - Ổn rồi, Charles! Mặt mẹ tái xam và mẹ còn đang run bần bật. Pete cố chạy qua khung cửa để vào chuồng nhưng nó đóng ách chung với Bright và Bright sấn lên trước đâm vào vách chuồng. Bố nhấc mẹ và Carrie ra khỏi thùng xe và mẹ dỗ bé: - Đừng khóc, Carrie! Con coi xem, mình ổn rồi! Chiếc áo hồng của Carrie rách toạc phía trước. Cô bé áp vào cổ mẹ thút thít và cố ngưng khóc khi mẹ dỗ dành. Bố lên tiếng: - Ô, Caroline! Anh nghĩ là em sẽ rơi xuống dưới bờ. Mẹ đáp: - Em cũng đã nghĩ vậy. Nhưng em lại biết là anh sẽ không chịu để cho điều đó xảy ra. Bố nói: - Chà! Nhờ Pete tốt bụng đó. Nó không muốn bỏ chạy. Bright làm thế và Pete chỉ chạy theo. Khi nhìn thấy chuồng, nó muốn có bữa ăn tối. Nhưng Laura bie6t1 chắc là mẹ cùng bé Carrie sẽ phải rơi xuống suối với cỗ xe và lũ bò nếu bố không chạy hết sức nhanh tới để đánh cực nhanh lên Bright. Cô lấn sát vành váy mẹ, ôm thật chặt và nói: - Ôi, mẹ! Ôi, mẹ! Mary cũng làm vậy: Mẹ nói: - Thôi, thôi! Chuyện tốt đẹp đã kết thúc tốt đẹp! Bây giờ, các cô lo giúp mang các gói đồ vô để bố lo nhốt bò. Các cô mang tất cả các gói nhỏ vào trong căn nhà hầm. Xong, các cô tới chờ bấy bò nơi dải đá lớn để đón Spot về chuồng, rồi Laura phụ giúp vắt sữa Spot trong lúc Mary phụ mẹ lo bữa tối. Trong bữa ăn, các cô kể lại cách bầy bò phá các đống cỏ khô và các cô đuổi chúng đi như thế nào. Bố nói là các cô đã làm đúng việc phải làm. Bố nói: - Bố mẹ biết là có thể giao phó cho các con lo liệu mọi thứ phải không, Caroline? Các cô đã quên khuấy rằng mỗi khi ra thành phố bố luôn mua quà. Cho tới sau bữa ăn, lúc đó bố mới đẩy lui chiếc ghế về phía sau và nhìn quanh tựa hồ đang chờ đợi một điều gì. Lập tức Laura nhào lên đầu gối bố còn Mary nhào lên đầu gối bên kia. Laura nhún nhảy và hỏi: - Bố mang quà gì về cho tụi con, hả bố? Quà gì? Bố nói: - Đoán coi? Các con không đoán nổi. Nhưng Laura cảm thấy có một thứ gì lách cách trong túi áo ngoài của bố và cô chộp lấy. Cô kéo ra một bịch bằng giấy có in những sọc nhỏ li ti màu xanh lục và màu đỏ rất đẹp. Trong bịch giấy có hai cây kẹo, một cho Laura, một cho Mary! Đó là loại kẹo có một mặt bằng và làm bằng đường trường khế. Mary khẽ liếm cây kẹo của mình. Những Laura cắn cây kẹo và làm vỡ vụn lớp bọc bên ngoài. Phần trong cây kẹo màu nân sậm rất cứng. Mùi kẹo thơm nồng đậm đà. Bố nói đây là loại kẹo đặc biệt. Sau khi chén đĩa được rửa xong, Laura và Mary cầm lấy cây kẹo của mình tới ngồi trên đầu gối bố ở ngoài cửa trong bóng tối lạnh lẽo. Mẹ ngồi trong căn nhà hầm đang khe khẽ hát ru Carrie trong vòng tay. Dòng suối róc rách như đang kể lể một mình dưới hàng liễu vàng. Từng ngôi sao lớn lần lượt hiện ra đung đưa thật thấp và tựa hồ run rẩy, rung rinh trong làn gió nhẹ. Laura hoàn toàn ấm áp trong cánh tay của bố. Bộ râu của bố cào nhẹ trên má cô trong khi vị kẹo ngọt ngào tan trong lưỡi. Một hồi sau cô gọi: - Bố! - Gì vậy, bình rượu nhỏ? Giọng nói bố cật lên từ sát mái tóc của cô. Cô nói: - Con thấy thích lũ sói hơn cả bầy bò. Bố nói: - Bò giúp ích nhiều lắm mà,Laura. Cô suy nghĩ về điều đó một lúc. Rồi cô nói: - Dù thế nào con cũng thích lũ sói hơn, Cô không phủ nhận điều bố nói nhưng cô chỉ nói điều cô nghĩ. Bố nói: - Này, Laura! Mình sắp có một cặp ngựa tốt. Cô biết khi nào điều đó sẽ đến. Đó là lúc thu hoạch mùa lúa mì. Chương 12: Những Con Ngựa Ngày Giáng Sinh Thời tiết châu chấu là một thời tiết kì lạ. Ngay cả vào dịp Lễ Tạ Ơn cũng không có tuyết. Cửa căn nhà hầm mở rộng trong lúc cả nhà ăn bữa trưa dịp Lễ Tạ Ơn. Laura có thể nhìn qua những ngọn liễu trơ trụi vượt trên đồng cỏ tới tận nơi mặt trời lặn xuống. Không có một đóm tuyết nhỏ nhoi nào. Đồng cỏ giống như một da thú mỏng màu vàng. Đường chân trời lúc này không còn gợn sắc mà lem nhem, mờ mịt. Laura tự nhủ: - Thời tiết châu chấu! Cô nghĩ ngay tới những chiếc cáng dài gấp nếp, Những chiếc cẳng sau nối khớp, những bàn chân mỏng nhám sắc, những chiếc đầu cứng với những con mắt lón nằm ngay trên góc và cái miệng nhỏ xíu nhai liên tục. Ngay cả khi bắt giữ một con châu chấu trong tay mà đặt nhẹ một lá cỏ non vào miệng nó thì nó vẫn gậm nhấm thật nhanh. Chỉ một thoáng, chúng đã gậm nhấm hết một nhánh lá cỏ và nhảy đi. Bữa ăn Lễ Tạ Ơn rất ngon. Bố đã bắn hạ một con ngỗng trời để nấu bữa. Mẹ phải hầm ngỗng vì ở đây không có lò sưởi cũng không có lò hấp trong khu bếp lò nhỏ. Nhưng mẹ đã nhồi nhân táo vào nước thịt. Còn có bột bắp và khoai tây nghiền cùng với bơ, sữa, mận kho hầm. Và, bên cạnh mỗi chiếc đãi thiếc còn có ba hạt bắp rang. Trong bữa ăn trưa dịp Lễ Tạ Ơn đầu tiên, những người thuộc dòng Pilgrim không có gì để ăn ngoại trừ bắp rang. Rồi, những người da đỏ tới viếng và mang tặng họ những con gà tây nên họ rất biết ơn. Lúc này, sau bữa ăn trưa thịnh soạn dịp Lễ Tạ Ơn, Laura và Mary có thể ăn những hạt bắp và nhớ đến những người thuộc dòng Pilgrim. Bắp rang cứng rất ngon. Nó vỡ vụm giòn tan với vị ngọt đậm đà. Rồi ngày Lễ Tạ Ơn qua đi và đã tới lúc nghĩ đến ngày Giáng sinh. Vẫn không có tuyết và không có mưa. Nền trời xám ngoét, đồng cỏ buồn thảm và gió thổi lạnh buốt. nhưng gió lạnh chỉ thổi lướt qua trên nóc căn nhà hầm. Mẹ nói: - Ở trong một căn nhà hầm thì ấm áp và dễ chịu thật, nhưng em cứ thấy giống như một con vật nhốt mình suốt mùa đông. Bố nói: - Không bao giờ nên nghĩ như vậy, Caroline. Sang năm, mình sẽ có một ngôi nhà đàng hoàng. Mắt bố sáng lên và giọng bố như đang hát: - Những con ngựa tốt và một cỗ xe độc mã! Anh sẽ lái xe đưa em đi, diện toàn đồ lụa! Nghĩ coi, Caroline…Mảnh đất phì nhiêu, bằng phẳng này không có một tảng đá hay một cây cội chen lấn và chỉ cách đường sắt vỏn vẹn ba dặm. Mình có thể bán sạch trơn số lúa mì trồng được. Rồi bố thọc những ngón tay vào trong mái tóc và nói: - Anh đã mong là có được một cặp ngựa. Mẹ nói: - Thôi, Charles! Mình hiện đang ở đây khỏe mạnh, bình an và đầy đủ với số thực phẩm dự trữ cho đến hết mùa đông. Hãy cảm ơn Chúa về những điều mình đang có. Bố nói: - Đúng lắm. Những Pete và Bright quá chậm chạp trong việc bừa đất và làm mùavụ. Anh dùng chúng để khai phá cánh đồng lớn kia những không thể gieo hạt kín đồng mà không cần những con ngựa. Lúc đó, Laura tìm được dịp may lên tiếng mà không phải cắt lời ai: - Ở đây không có lò sưởi gì hết trơn. Mẹ hỏi: - Con đang nói cái gì vậy? Laura đáp: - Ông già Noel. Mẹ nói: - Ăn xong bữa đi, Laura! Và không được đi qua cầu cho tới khi bố mẹ tới đó. Laura và Mary biết là ông già Noel không thể đến khi nhà không có ống khói. Một hôm, Mary hỏi mẹ là ông già Noel có thể đến bằng cách nào. Mẹ không trả lời được. Thay vì trả lời, mẹ hỏi ngược lại: - Các cô có muồn thứ gì vào dịp lễ Giáng sinh? Mẹ đang ủi đồ. Một đầu tấm ván ủi đồ để gác lên bàn ăn như thế là có dụng ý. Carrie đang chơi trên giường còn Laura và Mary ngồi ở bàn ăn. Mary đang sắp xếp những tấm bọc nệm trải giường còn Laura đang khâu một chiếc tạp dề nhỏ cho con búp bê vải Charlotte. Gió gầm rú ở trên cao và rên rỉ trong ống khói lò những vẫn chưa có tuyết. Laura nói: - Con muốn có kẹo. Mary nói: - Con cũng muốn vậy. Và, Carrie la lớn: - Kẹo? Mary nói tiếp: - Và thêm một áo choàng mới, một áo lạnh và một chiếc mũ trùm đầu. Laura cũng nói: - Con cũng muốn vậy. Và thêm một chiếc áo lạnh cho Charlotte. Và … Mẹ nhắc bàn ủi lên khỏi lò và chìa ra trước các cô. Các cô có thể thử bàn ủi bằng cách lướt chậm ngón tay cực nhanh trên bề mặt trơn bóng và nóng hực. Nếu bàn ủi kêu lách tách là đã đủ nóng. Mẹ nói: - Cảm ơn các con. Rồi mẹ bắt đầu ủi thận trọng từng miếng vá trên chúng áo sơ-mi của bố. - Các con có biết bố thích thứ gì vào dịp Giáng sinh không? Laura và Mary đưa mắt nhìn nhau. Mẹ tiếp tục nói: - Mẹ chỉ nghĩ là nếu tất cả chúng ta đều mong có ngựa và không cần gì khác ngoài những con ngựa thì có thể… Laura cảm thấy khó chịu. Ngựa là thứ thuộc sinh hoạt mỗi ngày chứ không thuộc về ngày Giáng sinh. Nếu bố có ngựa bố nên bán để lo cho ngày Giáng sinh. Laura không thể hình dung nổi việc ông già Noel và những con ngựa xuất hiện cùng một lúc. Cô kêu lớn: - Mẹ! Có một ông già Noel phải không? Mẹ đáp: - Dĩ nhiên có một ông già Noel. Mẹ đặt chiếc bàn ủi lên lò cho nóng trở ại, nói tiếp: - Khi nhiều tuổi hơn các con sẽ biết nhiều hơn về ông già Noel. Còn bây giờ thì các con biết ông ấy không thể chỉ như người, phải không? Ông ấy có mặt ở khắp nơi vào buổi chiều trước ngày Giáng sinh. Ông ấy có mặt ở Big Woods, ở vùng đất của người da đỏ, ở tận bang York xa mù và cả ở đây nữa. Ông ấy xuống các ống khói cùng một lúc. Các con có biết điều đó, phải không? - Dạ, thưa mẹ. Laura và Mary cùng nói. Mẹ tiếp: - Tốt. Lúc đó các con thấy … Mary lên tiếng chậm rãi: - Con nghĩ ông ấy giống như các thiên thần. Và Laura cũng có thể thầy điều đó giống hệt như Mary. Mẹ kể thêm với các cô vài điều khác về ông già Noel. Ông ấy có mặt ở khắp mọi nơi, và đặc biệt, có mặt ở cùng một lúc. Nếu một người nào đó không ích kỉ thì đúng là người đó là ông già Noel. Buồi chiều trước ngày Giáng sinh là thời khắc mà mọi người đều không ích kỉ. Trong dêm đó, ông già Noel có mặt ở khắp nơi vì mọi người đồng loạt không nghĩ tới mình mà chỉ muốn làm cho người khác hạnh phúc. Và buổi sáng hôm sau, tất cả đều thấy điều gì đã được làm. Laura hỏi: - Nếu mọi người lúc nào cũng muốn cho mọi người khác hạnh phúc thì lúc nào cũng có Giáng sinh hả? Mẹ đáp: - Đúng, Laura! Laura nghĩ về điều này. Mary cũng thế. Các cô nghĩ rồi nhìn nhau và cùng hiểu mẹ muốn các cô làm điều gì. Mẹ muốn các cô không đòi có riêng thứ gì ngoại trừ những con ngựa cho bố. Các cô lại nhìn nhau và nhìn nhanh ra xa, im lặng. Ngay cả Mary luôn được tiếng là ngoan ngoãn cũng không nói một lời. Đêm đó, sau bữa ăn, bố kéo Laura và Mary tới gần, trong vòng tay của bố. Laura ngước nhìn lên mặt bố rồi cô chúi vào sát người bố và nói: - Bố! - Có điều gì vậy, bình rượu táo nhỏ ngọt ngào? Bố hòi và Laura nói: - Bố, con muốn ông già Noel sẽ mang tới… - Mang cái gì? Laura đáp: - Mấy con ngựa. Nếu chịu cho con thỉnh thoảng được cưỡi chúng. Mary nói: - Con cũng muốn thế. Nhưng Laura đã nói trước. Bố rất ngạc nhiên. Mắt bố sáng long lanh dọi vào các cô. Bố hỏi: - Có đúng là các con thích có ngựa không? Cà hai đều nói: - Ô, đúng, bố. Bố mỉm cười nói: - Trong trường hợp này thì bố nghĩ là ông già Noel sẽ mang lại cho chúng ta một cặp ngựa thật hoàn hảo. Chuyên đã xong. Các cô sẽ không có món quà Giáng sinh nào ngoài những con ngựa. Laura và Mary thay đồ một cách thanh thản và thanh thản cài nút áo ngủ, buộc dải mũ. Các cô quỳ xuống và đọc: Con sắp sửa đi vào giấc ngủ Cầu xin người giữ gìn hồn con Nếu con chết trước giờ thức dậy Cầu xin người cứu rỗi hồn con Và cầu xin Chúa giáng hạnh phúc cho bố, mẹ và bé Carrie cùng tất cả mọi người và chúa chỉ vạch cho chúng con biết cách để trở thành một cô gái ngoan ngoãn mãi mãi. Amen! Laura còn thêm rất nhanh trong đầu: - Xin chúa giúp con chỉ vui mừng với những con ngựa Giáng sinh cho tới mãi mãi, Amen! Cô nhảy lên giường và gần như vui mừng ngay. Cô nghĩ tới những con ngựa bóng mượt, tới cách tung bay trong gió của những chiếc bờm và những chiếc đuôi, cách chúng có những bàn chân lanh lẹ, hếch những chiếc mũi mềm như nhung lên hít thở và nhìn ngắm mọi thứ bằng những con mắt sáng hiền lành. Và, bố sẽ cho cô cưỡi trên mình chúng. Bố đã chỉnh dây đàn và đặt cây đàn trên vai. Trên cao, gió đang than vãn nỉ non trong màn đêm lạnh lẽo. Nhưng trong căn nhà hầm, tất cả đều ấm cúng gọn gàng. Những tia lửa trong lò lóe sáng trên những cây kim đan bằng thép của mẹ và như đang cố bắt lấy khuỷu tay bố. Trong bóng tối, chiếc vĩ cầm nhảy múa, ngón chân cái bố đang nhịp trên nền đất và tiếng nhạc vui tươi át hẳn tiếng gió đang than khóc nỉ non. Chương 13: Giáng Sinh Vui Vẻ Sáng hôm sau, tuyết đầy trong không khí. Những mảng tuyết quay cuồng xoay tít trong gió đang gào hú. Laura không thể chơi ở ngoài trời. Trong chuồng, Spot cùng Pete và Bright đứng chôn chân trọn ngày ăn cỏ khô và rơm. Ở căn nhà hầm, bố sửa đôi ủng trong lúc mẹ đọc lại cho bố nghe câu chuyện có tên là “ Ngân hàng cối xay”. Mary khâu và còn Laura chơi với Charlotte. Cô có thể cho Carrie bồng Charlotte nhưng Carrie còn quá bè chưa biết chơi búp bê nên nó có thể xé rách. Chiều hôm đó, khi Carrie ngủ say, mẹ vẫy tay ra dấu cho Mary và Laura. Mắt mẹ sáng lên một cách bí mật. Mẹ kéo đầu các cô chụm lại và thì thào. Các cô có thể làm một dải nút làm quà Giáng sinh cho Carrie. Các cô leo lên giường, xoay lưng về phía Carrie và kéo căng các vạt áo. Mẹ mang ra cho các cô hộp nút áo của mẹ. Hộp gần như đầy ắp. Mẹ để dành từ khi mẹ còn nhỏ hơn Laura và mẹ còn có cả những chiếc nút áo của bà ngoại khi bà ngoại chỉ là một cô bé. Có những chiếc nút màu xanh lơ, những chúng màu đỏ, những chiếc mạ bạc, mạ vàng, những chiếc có khắc trên mặt hình các tòa lâu đài, các nhịp cầu, các thân cây li ti, những chiếc đen lấp lánh như hạt huyền, những chiếc bằng sứ sơn vẽ, những chiếc kẻ sọc, những chiếc giống hệt các trái mâm xôi và có cả một chiếc nút mang hình đầu chó nhỏ xíu. Laura kêu ré lên khi thấy chiếc nút này. - Suỵt! Mẹ ra dấu cho cô im lặng. Nhưng bé Carrie vẫn ngủ. Mẹ giao trọn số nút cho các cô để làm cho bé Carrie một dải nút. Sau đó. Laura không lưu ý nhiều đến việc ngồi lại trong căn nhà hầm. Khi cô nhìn ra ngoài, gió đang thổi những nắm tuyết bay trên mặt đất đông cứng. Dòng suối đã đóng thành băng và các ngọn liễu khua lộp độp. Trong căn nhà hầm, cô và Mary đã có một điều bí mật. Các cô chơi đùa một cach dễ thương với bé Carrie, trao cho bé mọi thứ nó muốn. Các cô bồng ẵm bé, hát cho bé nghe và ru bé ngủ. Rồi các cô tiếp tục làm dải nút. Mary làm một đầu và Laura làm đầu kia. Các cô chọn lấy những chiếc nút các cô thích đem gắn lại. Các cô đưa dải băng ra ngắm rồi tháo ra vài chiếc nút thay bằng những chiếc nút khác. Đôi khi các cô tháo hết mọi chiếc nút đã gắn và làm lại từ đầu. Các cô quyết tâm làm một dải nút đẹp nhất trên đời. Một bữa, mẹ nhắc rằng hôm sau đã là ngày Giáng sinh rồi. Các cô phải làm xong dải nút trong ngày hôm đó. Các cô không thể dỗ Carrie ngủ nổi. Nó chạy quanh la hét, leo lên ghế phóng xuống rồi nhảy nhót, ca hát. Mary bảo bé hãy ngồi im như một vị tiểu thư nhưng nó không nghe. Laura đưa Charlotte cho nó ẵm và nó vật cho Charlotte nẩy lên rồi liệng vào vách. Cuối cùng mẹ bồng bé lên và khẽ hát, giải thoát cho Laura và Mary. Mẹ hát nhỏ dần, nhỏ dần và hai mắt bé Carrie chũi xuống khép lại. Nhưng mẹ vừa ngưng hát thì Carrie lại mở mắt kêu lên: - Hát nữa! Mẹ! Nữa đi! Cuối cùng bé cũng ngủ say. Laura và Mary làm hết sức nhanh để hoàn thành sợi dải nút. Mẹ buộc hai đầu dải lại với nhau. Công việc đã xong và các cô không còn có thể đổi một chiếc nút nào nữa. Đó là dải nút rất đẹp. Sau bữa ăn tối hôm đó, khi Carrie đã ngủ, mẹ lấy một đôi vớ sạch của bé treo bên cạnh bàn. Laura và Mary trong những chiếc áo dài ngủ, nhấn sợi dải nút vào trong một chiếc vớ. Thế là xong hẳn. Mary và Laura sửa soạn lên giường thì bố hỏi: - Các con gái không lo treo vớ sao? Laura nói: - Con nghĩ…con nghĩ là ông già Noel sẽ mang ngựa tới cho mình. Bố nói: - Có thể ông ấy làm vậy. Nhưng các cô bé luôn luôn treo vớ trước ngày Giáng sinh, đúng không? Laura không biết nghĩ gì. Mary cũng thế. Mẹ lấy ra khỏi thùng đồ hai chiếc vớ sạch và giúp bố treo bên cạnh vớ của Carrie. Laura và Mary đọc lời nguyện cầu rồi đi ngủ với những lời tự hỏi. Buổi sáng Laura nghe thấy tiếng lửa reo lách tách. Cô hé mở một mắt, nhìn thấy ánh đèn và thấy một u bướu lồi ra ở chiếc vớ Giáng sinh của cô. Cô hét lớn nhảy xuống giường. Mary cũng chạy tới và bé Carrie ngồi bật dậy. Có những gói giấy nhỏ giống hệt nhau trong vớ của Laura và Mary. Đó là những gói kẹo. Laura có sáu thỏi và Mary cũng có sáu thỏi. Chưa bao giờ các cô có những thỏi kẹo đẹp như thế. Kẹo đẹp tới mức không dám ăn. Có thỏi giống như dải băng uốn gợn sóng. Có thỏi là những mảnh ngắn của một cây kẹo tròn với những bông hoa ở một đầu chạy xuống mọi phía. Có thỏi hoàn toàn trong và kẻ sọc. Trong một chiếc của Carrie có bốn thỏi kẹo như thế. Chiếc vớ khác là sợi dải nút. Mắt, miệng Carrie đều tròn vo khi bé thấy sợi dải nút. Rồi nó ré lên, chộp lấy và ré tiếp tục. nó ngồi lên đầu gối bố, ngắm thỏi kẹo, ngắm dải nút, vặn vẹo người và cười thích thú. Lúc đó đã tới giờ bố đi lo việc trong nhà. Bố nói: - Các con có nghĩ là sẽ có một thứ gì cho mình ở trong chuồng bò không? Và, mẹ tiếp: - Mặc quần áo nhanh lên, các con gái, rồi ra chuồng bò coi bố tìm thấy thứ gì. Đang trong mùa đông nên các cô phải đi vớ, mang giày. Nhưng mẹ giúp các cô cài nút giày và buôc khăn sam ở dưới cằm. Rồi cả hai chạy ra ngoài trời lạnh. Mọi thứ đều màu xám, ngoại trừ một vệt đỏ dài ở chân trời phía đông. Ánh sáng đỏ phản chiếu trên những đốm tuyết trắng xám. Tuyết đọng cỏ khô trên các bức vách, trên mái chuồng và đều ửng đỏ. Bố đang đứng đợi ở cửa chuồng. Bố cười khi Laura với Mary và nhích sang bên cho các cô bước vào trong. Ở đó, đang đứng ở chỗ của Pete và Bright là hai con ngựa. Chúng lớn hơn Pet và Patty, lông màu đỏ, óng ánh như tơ. Bờm và đuôi chúng đen bóng. Mắt chúng sáng và rất hiền. Chúng đưa những chúng mũi mềm như nhung về phía Laura, nhấm nhè nhẹ bàn tay cô và phà lên một làm hơi thở ấm. Bố nói: - Tốt, nhà-kho-vỗ-cánh! Và Mary nữa! Các con có thích món quà Giáng sinh của các con không? - Thích lắm, bố! Mary nói còn Laura chỉ thốt lên nổi: - Ô, bố! Mắt bố sáng lên và hỏi: - Ai muốn cưỡi Giáng sinh này đi uống nước nhỉ? Laura chờ đợi một cách khó khăn trong lúc bố nhấc Mary lên chỉ dẫn cách nắm bờm ngựa ra sao và nhắc đừng sợ. Rồi những bàn tay mạnh mẽ của ố tung Laura lên. Cô ngồi trên thớt lưng lớn, êm của con ngựa và cảm thấy mình đang được đưa đi hết sức sinh động. Lúc này, ngoài trời sáng chóa với ánh nắng dội trên tuyết và sương giá. Bố đi trước dắt mấy con ngựa và cầm theo cây rìu để phá băng trên suối cho ngựa uống nước. Mấy con ngựa nhấc cao đầu hít vào thật sâu rồi thở hơi lạnh ra khỏi mũi. Những chiếc tai mượt mà của chúng hướng về trước rồi bật ra sau và lại hướng tới trước. Chương 14: Cơn Lũ Mùa Xuân Khoảng nửa đêm, Laura bỗng ngồi thẳng dậy trên giường. Cô chưa từng bao giờ nghe thấy một điều gì ầm ĩ như gào thét ở ngoài cửa. Cô hét thất thanh: - Bố ơi! Bố, chuyện gì vậy? Bố bước khỏi giường: - Giống như tiếng động ở suối. Bố mở cửa và tiếng ầm ĩ ùa vào căn nhà hầm tối mịt. Tiếng động khiến Laura kinh hoàng. Cô nghe thấy bố đang hô lớn: - Ngập ổ dế! Mưa dầm rồi! Mẹ nói một điều gì đó mà Laura không nghe rõ. Bố lại hô: - Không thấy gì hết! Trời tối đen như mực! Đừng lo, mực nước suối không dâng tới độ này đâu! Nước sẽ theo bờ thấp trút qua phía bên kia. Bố đóng cửa lại và tiếng ồn giảm bớt. Bố nói: - Đi ngủ đi, Laura. Nhưng Laura nằm thức lắng nghe tiếng ồn như sấm rền ở ngoài cửa. Rồi cô mở mắt ra. Cửa sổ xám xịt. Bố không có nhà. Mẹ đang nấu bữa ăn sáng nhưng dòng suối vẫn đang gào thét. Như một tia chớp, Laura tụt khỏi giường nhào tới mở cách cửa. Húp! Mưa giá buốt trút xuống khiến cô muốn đứt hơi. Cô nhảy ra sấn vào lớp mưa xối lạnh khắp người. Ngay dưới bàn chân cô dòng suối đang lồng lộn, gào thét. Lối mòn chấm dứt ngay chỗ cô đứng. Mặt nước hung dữ đang vỗ đạp nhào lăn trên những bực đi dẫn xuống cây cầu. Những bụi liễu bị dìm ngập và các ngọn cây quật ngã giữa lớp bọt nước đục ngầu. Tiếng động như dồn hét vào tai Laura. Cô không thể nghe thấy tiếng mưa. Cô cảm thấy chiếc áo dài ngủ của cô thấm nước ướt đẫm, cô cảm thấy đầu cô giống như không còn có tóc dưới những hạt mưa xối xả, nhưng cô chỉ nghe thấy tiếng dòng suối gào lên man rợ. Dòng nước cuốn trôi phăng phăng vừa dễ sợ vào mê hoặc. Nước dồn tụ sủi bọt ở những ngọn liễu và xoáy ra xa ngoài đồng cỏ. Quanh khúc suối lượn cong, nước dâng cao trắng xóa, thay đổi rồi trở lại như cũ, mạnh mẽ và hung tợn. Thình lình mẹ giật mạnh Laura vào căn nhà hầm, hỏi: - Con có nghe mẹ gọi không? Laura đáp: - Không, mẹ. Mẹ nói: - Được, không nghe thấy! Mẹ cho là như thế. Nước từ người Laura chảy xuống thành một vũng quanh các bàn chân trần của cô. Mẹ lột chiếc áo dài ngủ ướt đẫm ra, lau người cho cô bằng một chiếc khăn. Mẹ nhắc: - Bao giờ mặc áo vào ngay kẻo chết vì lạnh đó. Nhưng Laura cảm thấy người đang nóng bừng. Chưa bao giờ cô thấy dễ chịu và muốn đùa như thế. Mary lên tiếng: - Chị thấy em lạ quá, Laura. Chị không ra ngoài trời mưa để chịu ướt như thế. - Ô, Mary, chị cần phải nhìn dòng suối mới được! Laura kêu lên và quay hỏi mẹ: - Mẹ, sau bữa ăn sáng, mẹ cho con ra ngoài coi một lần nữa nha. Mẹ nói: - Không được. Không ra ngoài vào lúc trời đang mưa. Nhưng lúc cả nhà đang ăn điểm tâm thì mưa tạnh hẳn. Mặt trời đang chiếu sáng và bố nói Laura với Mary có thể theo bố ra coi dòng suối. Không khí sạch, mát và thấm hơi nước, phảng phất hương vị mùa xuân. Bầu trời xanh ngắt với nhưng lớp mây đang lững lờ trôi. Tất cả tuyết đã chảy tan thành nước trên mặt đất. Từ trên bờ cao, Laura vẫn nghe tiếng suối gào thét. Bố nói: - Bố thua thứ thời tiết này. Chưa bao giờ bố thấy một điều như vậy. - Vẫn là thời tiết châu chấu, hả bố? Laura hỏi nhưng bố không biết. Họ đi dọc theo bờ đất cao nhìn nhưng quang cảnh lạ lùng. Dòng suối sủi bọt, gầm thét thay đổi mọi thứ. Những bụi mậma65chi3 còn là những nhánh cây chìm trong mặt nước. Gò đất cao biến thành một hòn đảo tròn. Xung quanh gò, nước cuồn cuộn chảy làm thành một mặt sông mênh mông đầy gò đóng. Ở vùng nước sâu, những cây liễu cao chỉ còn là những cây liễu thấp lè tè đứng trong một hồ nước. Phía bên kia, khoảng đất mà bố đã cày xong nằm đen ngòm và ngập nước. Bố ngắm khoảng đất và nói: - Chắc phải chờ lâu lắm mới có thể gieo trồng lúa mì được. Chương 15: Cây Cầu Nhỏ Hôm sau, Laura tin chắc là mẹ không cho cô chơi trong dòng suối. Dù dịu hơn nhiều, nhưng nước vẫn đang gào thét. Từ trong căn nhà hầm, cô nghe rõ tiếng suối đang mời gọi mình. Thế là Laura lén đi ra ngoài không nói một điều gì với mẹ. Lúc này mức nước không còn cao lắm. Nước đã rút xuống dưới các bực đi và Laura có thể nhìn thấy cây cầu nhỏ đang có bọt nước bọc quanh. Một phần ván cầu đã nổi trên mặt nước. Trọn mùa đông, suối bị đóng băng trở thành bất động và không tạo ra một tiếng động nào. Bao giờ nó chảy phăng phăng bật lên tiếng ồn náo nhiệt. Chỗ nước va vào mép ván cầu, bọt ngầu trắng nổi bong bóng và như đang cười giỡn. Laura tháo giày, vớ, đặt trên bậc đi cuối. Rồi cô bước lần ra xa trên tấm ván đứng nhìn dòng nước chày ào ạt. Những giọt nước văng từ bàn chân trần của cô làm thành các gơn sóng nhỏ lan rộng ra xung quanh. Cô nhúng một bàn chân vào giữa đám bọt nước đang xoáy cuộn. Rồi cô ngồi xuống tấm ván ngâm cà hai chân vào trong nước. Dòng nước chảy phăng phăng đạp mạnh vào chân cô và cô co chân đá vào nước. Cảm giác thật thích thú. Lúc này gần như toàn thân cô ướt đẫm nhưng đó lại giống như mong ước của da thịt cô. Cô nằm sấp xuống, nhấn hai bên cánh tay ở hai bên tấm ván sâu vào dòng nước đang chảy nhnah. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Cô muốn thực sự hòa vào trong dòng suối đang gào thét cuồng nhiệt. Cô chắp các bàn tay vào nhau dưới tấm ván rồi lăn xuống. Ngay lập tức cô hiểu dòng suối không phải đang nô giỡn. Nó chảy dữ dằn khủng khiếp. Nước bám lấy người cô và xô đẩy cô dưới tấm ván cầu. Chỉ có đầu cô nghếch lên và một cánh tay ôm bám tuyệt vọng qua mảnh ván cầu hẹp. Nước lôi cô đi rồi lại đẩy cô tới. Nó cố dìm đầu cô chìm xuống dưới tấm ván. Cằm cô tì trên bờ ván và cánh tay cô bám chặt trong lúc nước xô toàn thể phần còn lại của thân thể cô một cách dữ dằn. Bao giờ không thể nào cười đùa nổi nữa. Không một ai biết cô đang ở đây. Không một ai có thể nghe thấy cô dù cô lớn tiếng kêu cứu. Nước gào lớn và giật người cô thật mạnh rồi mạnh hơn nữa. Laura đá đạp nhưng nước mạnh hơn các ống chân của cô. Cô vòng cả hai cánh tay qua tấm ván, lôi người lên nhưng nước lôi mạnh hơn. Nước xô gáy cô chúi xuống rồi giật mạnh tựa hồ muốn bứt cô ra làm đôi. Nước lạnh. Hơi lạnh thấm vào trong người cô. Nước khác hẳn với lũ chó sói và lũ bò. Dòng suối không phải vật sống. Nó mạnh khủng khiếp và không bao giờ ngưng lại. Nó cố kéo cô xuống, cuốn cô ra xa, lăn tròn và đẩy tới như một cành liễu. Nó không hề bận tâm. Chân cô rã rời và các cánh tay cô cảm thấy tấm ván một cách khó khăn. Cô nghĩ: - Mình phải thoát ra! Mình phải vậy! Tiếng suối gào vang ở trong đầu cô. Cô hết sức đá với cả hai chân và hai cánh tay tận lực co lên, rồi cô thấy mình lại đang nằm trên mảnh ván. Tấm ván rất chắc dưới bụng và dưới mặt cô. Cô nằm trên ván thở và mừng là nó rất chắc. Khi cơ cử động, đầu cô quay cuồng. Cô bò khỏi tấm ván. Cô lại mang vớ, giầy rồi từ từ leo lên những bậc đi lầy bùn. Tới cửa căn nhà hầm, cô dừng lại. Cô không biết phải nói gì với mẹ. Một lát sau cô mới bước vào nhà. Cô đứng im ngay phía bên trong cửa cho nước trong người nhỏ xuống. Mẹ đang khâu vá. Mẹ nhìn lên, hỏi: - Con ở đâu thế, Laura? Rồi mẹ phóng đến thật nhanh, nói: - Chúa ơi! Quay lại, mau! Mẹ cởi nút áo phía sau lưng Laura, hỏi: - Xảy ra chuyện gì vậy? Con ngã xuống suối hả? Laura nói: - Không, mẹ, con…con nhấn vào. Mẹ lắng nghe trong Laura tiếp tục cởi áo cho Laura và lấy khăn lau người cho cô. Mẹ không nói một điều nào ngay cả khi Laura kể lại mọi việc. Răng Laura va vào nhau lách cách và mẹ phủ lên người cô một tấm chăn, đặt cô ngồi sát lò bếp. Cuối cùng mẹ nói: - Này, Laura! Con hư quá đỗi rồi và mẹ nghĩ là con biết rất rõ điều đó. Nhưng mẹ không thể phạt con cũng không thể la mắng con. Con gần như sắp chết đuối rồi. Laura im lặng. Mẹ tiếp: - Con không được đến gần suối cho tới khi nào bố hoặc mẹ cho phép con và điều này sẽ không thể đến trước khi nước rút hết. Laura nói: - Dạ, mẹ! Dòng suối đã rút xuống. Nó lại là một nơi dễ chịu, thích thú để chơi đùa. Nhưng không một ai có thể buộc nó làm thế. Không một ai có thể buộc nó làm điều gì cả. Laura này Laura đã biết có những điều mạnh hơn bất kì người nào. Nhưng dòng suối không thắng được cô. Nó đã không buộc nổi cô hét lên và nó cũng không khiến cô phải gào khóc. 16.CĂN NHÀ KÌ DIỆU Nước suối đã hã xuống. Lập tức ngày trở nên ấm áp và mỗi buổi sáng từ tinh mơ, bố đã tới đồng lúa cầu những con ngựa Giáng sinh Sam và David. Mẹ nói: - Em cho rằng anh đang làm hư đất và giết chính anh đó. Nhưng bố nói đất rất khô vì không có nhiều tuyết. Bố cần cày sâu, bừa kỹ và gieo hạt thật nhanh. Mỗi ngày, bố làm việc từ trước Laura mặt trời mọc cho tới khi tối mịt. Laura đợi trong bóng tối cho tới khi nghe thấy Sam và David té nước trong khúc suối cạn. Laura đó cô chạy vào căn nhà hầm lấy đèn rất lật đật đem lên chuồng bò để bố thấy đường mà làm việc. Bố không còn cười đùa hoặc trò chuyện vì quá mệt. Ăn bữa tối xong bố đi ngủ liền. Cuối cùng, lúa mì đã được gieo. Sau đó, bố gieo lúa mạch, đánh luống trồng khoai tây và làm vườn. Mẹ cầu Mary, Laura giúp trồng khoai tây và rải những hạt giống nhỏ trên các luống vườn còn bé Carrie phải chơi một mình. Laura này, khắp nơi cỏ đều xanh ngắt, những nhánh lá liễu xang vàng không còn xoắn lại nữa. Hoa tím và cây mao hương mọc đầy trong các trũng cỏ thấp trên đồng. Búp cỏ mẹ và chồi nụ cam tùng dương đã có vị chua quyến rũ. Chỉ riêng đồng lúa mì vẫn giữ màu nâu trần trụi. Một buổi tối, bệnh chỉ cho Laura thấy một lớp màn xanh lục mờ mờ phủ trên cánh đồng nâu đó. Lúa mì đang mọc! Từng chồi cây li ti khó thể nhìn thấy ghép chung dày đặc lại với nhau làm thành lớp màn màu xanh kia. Đêm đó cả nhà đều vui mừng vì lúa mì khá tốt. Hôm sau bố ra thị trấn. Sam và David có thể đi tới thị trấn và trở về nội trong một buổi chiều. Không có đủ thời gian cho các cô bé nhớ bố và các cô chưa kịp mong thì bố đã trở về rồi. Laura nghe thấy tiếng xe trước nhất và cô chạy lên lối mòn trước nhất. Bố đang ngồi trên ghế xe. Gương mặt bố rạng rỡ nét vui mừng và sau lưng bố, một đống ván chất cao trên thùng xe. Bố nói lớn: - Nhà mới của em đây rồi, Caroline. Mẹ thở hổn hển: - Căn nhà, Charles! Laura thoăn thoắt leo qua bánh xe lên đống ván gỗ. Cô chưa bao giờ được thấy những tấm ván thẳng, nhẵn và đẹp như thế. Tất cả đều được cắt bằng máy. Mẹ nói: - Nhưng còn lâu mới tới mùa lúa mì mà! Bố đáp: - Đúng vậy. Nhưng họ đồng ý giao gỗ cho anh trước và anh sẽ trả tiền họ khi bán lúa mì. Laura hỏi bố: - Mình sắp có một căn nhà bằng ván, hả bố? Bố nói: - Đúng đó, nhà-kho-vỗ-cánh! Mình sắp có một căn nhà dựng bằng ván xẻ. Và nhà sẽ có kính cửa sổ nữa! Sự thực đúng như thế. Sáng hôm sau, ông Nelson tới giúp bố và hai người khởi đầu bằng việc đào hầm chứa đồ. Thế là họ sắp có một căn nhà tuyệt vời vì lúa mì đang lớn. Laura và Mary khó có thể ngồi yên lâu trong căn nhà hầm để làm việc. Nhưng mẹ bắt phải như thế. Mẹ nói: - Mẹ không giao việc cho các con để làm qua quít hoặc hứa hẹn nhăng cuội. Thế là các cô phải rửa kỹ từng chiếc đĩa của bữa ăn sáng rồi đem cất. Các cô dọn dẹp giường thật gọn gàng, quét nền nhà bằng cây chổi cành liễu và cất chổi về đúng chỗ của nó. Sau đó, các cô mới được rời nhà. Các cô chạy xuống các bậc đi vượt qua cây cầu, băng dưới hàng liễu lên đồng cỏ. Các cô đi qua những thảm cỏ ngược mãi tới đỉnh ngọn đồi xanh ngắt là nơi bố và ông Nelson đang dựng căn nhà mới. Đứng xem dựng phần khung nhà là điều thật thú vị. Những thanh gỗ dựng đứng vững chắc vàng tươi in lên nền trời xanh thẫm. Những chiếc búa đập vang dội. Những chiếc bào nhả những mảnh vỏ bào dài xoắn cong khỏi những miếng ván thơm ngọt. Laura và Mary đeo những vỏ bào lên tai làm bông tai và quấn quanh cổ giả làm xâu chuỗi. Laura còn gắn những vỏ bào lên mái tóc, giả làm những lọn tóc màu vàng là màu tóc mà cô mong muốn có. Trên khung sườn mái nhà, bố và ông Nelson đang đập búa và cưa. Những mảnh gỗ vụn văng xuống. Laura và Mary lượm những mảnh vụn này xếp lại thành đống để xây những căn nhà riêng. Các cô chưa bao giờ vui như thế. Bố và ông Nelson ghép vách bằng những tấm ván đặt dốc xéo được chốt đinh. Mái nhà lợp bằng loại ván mỏng mua sẵn. ván lợp mái nhà sẵn rất mỏng và tất cả đều cầu một cỡ, hoàn hảo hơn rất nhiều so với những tấn ván do bố đẽo bằng rìu, ván ghép lại thành một mài nhà phẳng lì, chắc chắn và không có một kẽ hở nào. Sau đó, bố ghép thật khít lại cùng nhau những tấm ván đã được xoi rãnh ở mép và bào trơn bóng để làm nền nhà. Bố ghép thêm một nến nhà ở trên cao cho tầng trên và làm trần cho tầng dưới. Ngang tầng dưới, bố dựng một vách ngăn, chia căn nhà thành hai phòng! Một phòng ngủ và phòng kia dành cho mọi người sinh hoạt. Bố đặt hai ô cửa sổ bằng kính trong phòng này, một hướng về phía mặt trời mọc và một hướng về phía nam bên cạnh lối ra vào. Trên các vách phòng ngủ, bố cũng đặt thêm hai ô cửa sổ và đều có kính. Laura chưa từng thấy những cửa sổ tuyệt diệu như thế. Cửa có hai cánh, mỗi cánh có 6 ô kính và cánh bên dưới có thể chống lên bằng một cây gậy. Thẳng tới từ cửa trước, bố mở một khung cửa sau và dựng sát ngoài cửa sau một gian chái tựa vào căn nhà. Chái vừa để cản những cơn gió bấc trong mùa đông vừa là nơi để mẹ cất chổi, giẻ lau và thùng nước tắm rửa. Lúc này không có mặt ông Nelson nên Laura hỏi luôn miệng. Bố nói phòng ngủ lả để dành cho mẹ, bé Carrie và bố, còn gác xép dành cho Mary và Laura để ngủ và chơi. Laura náo nức muốn được ngó thấy khiến bố phải ngưng đóng nhà chái và chốt đinh ván vách để đặt cầu thang gác xép. Laura nhảy hai bậc một trên cầu thang cho tới khi đầu cô vượt lên khỏi sàn gác xếp. Gác xếp rộng bằng cả hai phòng ở tầng dưới. Sàn gác cũng bằng những tấm ván trơn bóng. Mái gác xiên nghiêng là mặt dưới của những tấn ván mỏng phẳng lì màu vàng. Bốn phía gác xếp đều có những ô cửa sổ nhỏ và là cửa sổ bằng kính. Lúc đầu Mary sợ bị ngã bay từ cầu thang xuống nền nhà. Rồi cô sợ bước từ cửa sàn gác xuống cầu thang. Laura cũng sợ, tuy nhiên cô làm như không sợ. Và không bao lâu các cô đều quen với việc lên xuống cầu thang. Lúc này các cô nghĩ là căn nhà đã hoàn thành. Nhưng bố còn gắn thêm một lớp giấy lụa màu đen lên khắp phía ngoài các bức vách. Rồi bố đóng thêm những dải ván đè lên lớp giấy lụa đó. Những dải ván đều dài, nhẵn, đầu dải này chờm lên đầu dải khác kéo qua hết vách nhà. Lúc đó, xung quanh các ô cửa sổ và cửa ra vào bố đóng thêm những nẹp phẳng. Bố nói: - Nhà này kín bưng như một cái trống. Trên mái, trên vách, trên nền nhà đều không có một kẽ hở nhỏ để mưa hoặc gió lạnh có thể lọt vào. Rồi bố ghép cánh cửa ra vào và cũng là những cánh cửa mua. Cánh cửa phẳng lì và mỏng hơn mọi tấm ván đẽo bằng rìu, ngay cả những ván đóng ở trên cánh cửa cũng hết sức mỏng. Bản lề của cửa cũng là bản lề mua và nó quay thật kì diệu khi đóng hay mở cửa. Chúng không kêu lẹt kẹt như các bản lề gỗ và cũng không lôi kéo các cánh cửa như các bản lề da. Trong các cánh cửa, bố đặt những khóa mua với chìa khóa cắm vào các lỗ nhỏ có hình dáng đặc biệt và khi quay sẽ bật thành tiếng kêu clic. Những ổ khóa này đều có một nắm đấm bằng sứ màu trắng. Một hôm bố nói: - Laura. Mary! Các con có thể giữ kín nổi một điều bí mật không? Hai cô đáp: - Được chứ, bố! - Các con dám hứa là sẽ không nói với mẹ không? Bố hỏi và các cô đều hứa. Bố liền mở gian chái. Ở đó đang đứng sững một chiếc lò bếp đen bóng. Bố đã mang từ thị trấn về và giấu ở đây để khiến mẹ bị bất ngờ. Phía trên lò có bốn lỗ hổng tròn và bốn nắp vung tròn đậy vừa khít. Mỗi nắp vung đều có một đường lỗ xoi làm chỗ ghép một tay cầm bằng sắt để nhấc nắp vung lên. Trước lò có một khuôn cửa dài ở dưới thấp. Trên cánh cửa có những lá xếp và một mành sắt có thể trượt tới lui để đóng hay mở các lá xếp đó. Cửa này được gọi là cửa lùa. Phía dưới cửa là một ngăn kéo giống như một chiếc xoong hình chữ nhật lòi ra. Đây là bộ phận chặn và giữ tro không để rơi xuống nền nhà. Một chiếc nắp đặt trên phần ngăn nhô ra và có một hàng chữ nổi bằng sắt. Mary đặt ngón tay lên hàng cuối và đánh vần: - PAT. Một bảy bảy không. Cô hỏi bố: - Cái đó là gì, bố? Bố nói: - Đọc là pat. Laura mở một cánh cửa lớn ở một bên lò và nhìn thấy một ngăn giá bắc ngang một khoảng vuông lớn. Cô hỏi: - Ô, bố! Cái này để làm gì? Bố nhắc: - Đó là lò hấp bánh. Bố nhắc chiếc lò bếp tuyệt vời đó, đem đặt giữa phòng khách và dựng đứng ống khói lên. Từng phần, từng phần ghép lại, ống khói vươn cao khỏi trần nhà, khỏi gác xếp và xuyên qua lỗ mà bố cưa ở trên mái nhà. Lúc đó, bố leo lên mái nhà đặt một chiếc ống thiếc lớn phủ trên đầu ống khói. Không một hạt mưa nào có thể rơi xuống qua ống khói để lọt vào căn nhà mới. Đây là màu ống khói đồng cỏ. Bố nói: - Được rồi, thế là xong! Kể cả một ống khói đồng cỏ. Căn nhà không thể còn có thêm một thứ gì được nữa. Các ô cửa sổ bằng kính đưa ánh sáng vào đầy nhà khiến không ai ngỡ là mình đang ở trong nhà. Các tấm vách ván, vách nền vàng tươi tỏa mùi gỗ thông thơm phức. Chiếc lò bếp đứng oai vệ tại góc nhà sát cửa gian chái. Chỉ cần đẩy nhạ quả đấm cửa bằng sứ trắng là có thể đung đưa cánh cửa mua sẵn trên những bản lề mua sẵn và khiến chiếc chốt cửa nhỏ bằng sắt kêu lên clic để giữ cánh cửa đóng lại. Bố nói: - Sáng mai, mình dọn vào nhà. Đêm nay là đêm cuối mình ngủ trong căn nhà hầm. Laura và Mary nắm tay bố đi xuống đồi. Cánh đồng lúa mì mượt mà xinh xắn nợn sóng lăn tăn khắp một khúc quanh của đồng cỏ. Các đường ranh đồng thật thẳng và các góc vuông vức nằm thọt giữa đồng cỏ có vẻ sậm xanh hơn và thô nhám hơn. Laura nhìn lại căn nhà kì diệu. Trong ánh nắng chiếu trên đồi, những bức vách và mái nhà bằng ván vàng rực như một đống rơm. Chương 16: Căn Nhà Kỳ Diệu Nước suối đã hã xuống. Lập tức ngày trở nên ấm áp và mỗi buổi sáng từ tinh mơ, bố đã tới đồng lúa cầu những con ngựa Giáng sinh Sam và David. Mẹ nói: - Em cho rằng anh đang làm hư đất và giết chính anh đó. Nhưng bố nói đất rất khô vì không có nhiều tuyết. Bố cần cày sâu, bừa kỹ và gieo hạt thật nhanh. Mỗi ngày, bố làm việc từ trước Laura mặt trời mọc cho tới khi tối mịt. Laura đợi trong bóng tối cho tới khi nghe thấy Sam và David té nước trong khúc suối cạn. Laura đó cô chạy vào căn nhà hầm lấy đèn rất lật đật đem lên chuồng bò để bố thấy đường mà làm việc. Bố không còn cười đùa hoặc trò chuyện vì quá mệt. Ăn bữa tối xong bố đi ngủ liền. Cuối cùng, lúa mì đã được gieo. Sau đó, bố gieo lúa mạch, đánh luống trồng khoai tây và làm vườn. Mẹ cầu Mary, Laura giúp trồng khoai tây và rải những hạt giống nhỏ trên các luống vườn còn bé Carrie phải chơi một mình. Laura này, khắp nơi cỏ đều xanh ngắt, những nhánh lá liễu xang vàng không còn xoắn lại nữa. Hoa tím và cây mao hương mọc đầy trong các trũng cỏ thấp trên đồng. Búp cỏ mẹ và chồi nụ cam tùng dương đã có vị chua quyến rũ. Chỉ riêng đồng lúa mì vẫn giữ màu nâu trần trụi. Một buổi tối, bệnh chỉ cho Laura thấy một lớp màn xanh lục mờ mờ phủ trên cánh đồng nâu đó. Lúa mì đang mọc! Từng chồi cây li ti khó thể nhìn thấy ghép chung dày đặc lại với nhau làm thành lớp màn màu xanh kia. Đêm đó cả nhà đều vui mừng vì lúa mì khá tốt. Hôm sau bố ra thị trấn. Sam và David có thể đi tới thị trấn và trở về nội trong một buổi chiều. Không có đủ thời gian cho các cô bé nhớ bố và các cô chưa kịp mong thì bố đã trở về rồi. Laura nghe thấy tiếng xe trước nhất và cô chạy lên lối mòn trước nhất. Bố đang ngồi trên ghế xe. Gương mặt bố rạng rỡ nét vui mừng và sau lưng bố, một đống ván chất cao trên thùng xe. Bố nói lớn: - Nhà mới của em đây rồi, Caroline. Mẹ thở hổn hển: - Căn nhà, Charles! Laura thoăn thoắt leo qua bánh xe lên đống ván gỗ. Cô chưa bao giờ được thấy những tấm ván thẳng, nhẵn và đẹp như thế. Tất cả đều được cắt bằng máy. Mẹ nói: - Nhưng còn lâu mới tới mùa lúa mì mà! Bố đáp: - Đúng vậy. Nhưng họ đồng ý giao gỗ cho anh trước và anh sẽ trả tiền họ khi bán lúa mì. Laura hỏi bố: - Mình sắp có một căn nhà bằng ván, hả bố? Bố nói: - Đúng đó, nhà-kho-vỗ-cánh! Mình sắp có một căn nhà dựng bằng ván xẻ. Và nhà sẽ có kính cửa sổ nữa! Sự thực đúng như thế. Sáng hôm sau, ông Nelson tới giúp bố và hai người khởi đầu bằng việc đào hầm chứa đồ. Thế là họ sắp có một căn nhà tuyệt vời vì lúa mì đang lớn. Laura và Mary khó có thể ngồi yên lâu trong căn nhà hầm để làm việc. Nhưng mẹ bắt phải như thế. Mẹ nói: - Mẹ không giao việc cho các con để làm qua quít hoặc hứa hẹn nhăng cuội. Thế là các cô phải rửa kỹ từng chiếc đĩa của bữa ăn sáng rồi đem cất. Các cô dọn dẹp giường thật gọn gàng, quét nền nhà bằng cây chổi cành liễu và cất chổi về đúng chỗ của nó. Sau đó, các cô mới được rời nhà. Các cô chạy xuống các bậc đi vượt qua cây cầu, băng dưới hàng liễu lên đồng cỏ. Các cô đi qua những thảm cỏ ngược mãi tới đỉnh ngọn đồi xanh ngắt là nơi bố và ông Nelson đang dựng căn nhà mới. Đứng xem dựng phần khung nhà là điều thật thú vị. Những thanh gỗ dựng đứng vững chắc vàng tươi in lên nền trời xanh thẫm. Những chiếc búa đập vang dội. Những chiếc bào nhả những mảnh vỏ bào dài xoắn cong khỏi những miếng ván thơm ngọt. Laura và Mary đeo những vỏ bào lên tai làm bông tai và quấn quanh cổ giả làm xâu chuỗi. Laura còn gắn những vỏ bào lên mái tóc, giả làm những lọn tóc màu vàng là màu tóc mà cô mong muốn có. Trên khung sườn mái nhà, bố và ông Nelson đang đập búa và cưa. Những mảnh gỗ vụn văng xuống. Laura và Mary lượm những mảnh vụn này xếp lại thành đống để xây những căn nhà riêng. Các cô chưa bao giờ vui như thế. Bố và ông Nelson ghép vách bằng những tấm ván đặt dốc xéo được chốt đinh. Mái nhà lợp bằng loại ván mỏng mua sẵn. ván lợp mái nhà sẵn rất mỏng và tất cả đều cầu một cỡ, hoàn hảo hơn rất nhiều so với những tấn ván do bố đẽo bằng rìu, ván ghép lại thành một mài nhà phẳng lì, chắc chắn và không có một kẽ hở nào. Sau đó, bố ghép thật khít lại cùng nhau những tấm ván đã được xoi rãnh ở mép và bào trơn bóng để làm nền nhà. Bố ghép thêm một nến nhà ở trên cao cho tầng trên và làm trần cho tầng dưới. Ngang tầng dưới, bố dựng một vách ngăn, chia căn nhà thành hai phòng! Một phòng ngủ và phòng kia dành cho mọi người sinh hoạt. Bố đặt hai ô cửa sổ bằng kính trong phòng này, một hướng về phía mặt trời mọc và một hướng về phía nam bên cạnh lối ra vào. Trên các vách phòng ngủ, bố cũng đặt thêm hai ô cửa sổ và đều có kính. Laura chưa từng thấy những cửa sổ tuyệt diệu như thế. Cửa có hai cánh, mỗi cánh có 6 ô kính và cánh bên dưới có thể chống lên bằng một cây gậy. Thẳng tới từ cửa trước, bố mở một khung cửa sau và dựng sát ngoài cửa sau một gian chái tựa vào căn nhà. Chái vừa để cản những cơn gió bấc trong mùa đông vừa là nơi để mẹ cất chổi, giẻ lau và thùng nước tắm rửa. Lúc này không có mặt ông Nelson nên Laura hỏi luôn miệng. Bố nói phòng ngủ lả để dành cho mẹ, bé Carrie và bố, còn gác xép dành cho Mary và Laura để ngủ và chơi. Laura náo nức muốn được ngó thấy khiến bố phải ngưng đóng nhà chái và chốt đinh ván vách để đặt cầu thang gác xép. Laura nhảy hai bậc một trên cầu thang cho tới khi đầu cô vượt lên khỏi sàn gác xếp. Gác xếp rộng bằng cả hai phòng ở tầng dưới. Sàn gác cũng bằng những tấm ván trơn bóng. Mái gác xiên nghiêng là mặt dưới của những tấn ván mỏng phẳng lì màu vàng. Bốn phía gác xếp đều có những ô cửa sổ nhỏ và là cửa sổ bằng kính. Lúc đầu Mary sợ bị ngã bay từ cầu thang xuống nền nhà. Rồi cô sợ bước từ cửa sàn gác xuống cầu thang. Laura cũng sợ, tuy nhiên cô làm như không sợ. Và không bao lâu các cô đều quen với việc lên xuống cầu thang. Lúc này các cô nghĩ là căn nhà đã hoàn thành. Nhưng bố còn gắn thêm một lớp giấy lụa màu đen lên khắp phía ngoài các bức vách. Rồi bố đóng thêm những dải ván đè lên lớp giấy lụa đó. Những dải ván đều dài, nhẵn, đầu dải này chờm lên đầu dải khác kéo qua hết vách nhà. Lúc đó, xung quanh các ô cửa sổ và cửa ra vào bố đóng thêm những nẹp phẳng. Bố nói: - Nhà này kín bưng như một cái trống. Trên mái, trên vách, trên nền nhà đều không có một kẽ hở nhỏ để mưa hoặc gió lạnh có thể lọt vào. Rồi bố ghép cánh cửa ra vào và cũng là những cánh cửa mua. Cánh cửa phẳng lì và mỏng hơn mọi tấm ván đẽo bằng rìu, ngay cả những ván đóng ở trên cánh cửa cũng hết sức mỏng. Bản lề của cửa cũng là bản lề mua và nó quay thật kì diệu khi đóng hay mở cửa. Chúng không kêu lẹt kẹt như các bản lề gỗ và cũng không lôi kéo các cánh cửa như các bản lề da. Trong các cánh cửa, bố đặt những khóa mua với chìa khóa cắm vào các lỗ nhỏ có hình dáng đặc biệt và khi quay sẽ bật thành tiếng kêu clic. Những ổ khóa này đều có một nắm đấm bằng sứ màu trắng. Một hôm bố nói: - Laura. Mary! Các con có thể giữ kín nổi một điều bí mật không? Hai cô đáp: - Được chứ, bố! - Các con dám hứa là sẽ không nói với mẹ không? Bố hỏi và các cô đều hứa. Bố liền mở gian chái. Ở đó đang đứng sững một chiếc lò bếp đen bóng. Bố đã mang từ thị trấn về và giấu ở đây để khiến mẹ bị bất ngờ. Phía trên lò có bốn lỗ hổng tròn và bốn nắp vung tròn đậy vừa khít. Mỗi nắp vung đều có một đường lỗ xoi làm chỗ ghép một tay cầm bằng sắt để nhấc nắp vung lên. Trước lò có một khuôn cửa dài ở dưới thấp. Trên cánh cửa có những lá xếp và một mành sắt có thể trượt tới lui để đóng hay mở các lá xếp đó. Cửa này được gọi là cửa lùa. Phía dưới cửa là một ngăn kéo giống như một chiếc xoong hình chữ nhật lòi ra. Đây là bộ phận chặn và giữ tro không để rơi xuống nền nhà. Một chiếc nắp đặt trên phần ngăn nhô ra và có một hàng chữ nổi bằng sắt. Mary đặt ngón tay lên hàng cuối và đánh vần: - PAT. Một bảy bảy không. Cô hỏi bố: - Cái đó là gì, bố? Bố nói: - Đọc là pat. Laura mở một cánh cửa lớn ở một bên lò và nhìn thấy một ngăn giá bắc ngang một khoảng vuông lớn. Cô hỏi: - Ô, bố! Cái này để làm gì? Bố nhắc: - Đó là lò hấp bánh. Bố nhắc chiếc lò bếp tuyệt vời đó, đem đặt giữa phòng khách và dựng đứng ống khói lên. Từng phần, từng phần ghép lại, ống khói vươn cao khỏi trần nhà, khỏi gác xếp và xuyên qua lỗ mà bố cưa ở trên mái nhà. Lúc đó, bố leo lên mái nhà đặt một chiếc ống thiếc lớn phủ trên đầu ống khói. Không một hạt mưa nào có thể rơi xuống qua ống khói để lọt vào căn nhà mới. Đây là màu ống khói đồng cỏ. Bố nói: - Được rồi, thế là xong! Kể cả một ống khói đồng cỏ. Căn nhà không thể còn có thêm một thứ gì được nữa. Các ô cửa sổ bằng kính đưa ánh sáng vào đầy nhà khiến không ai ngỡ là mình đang ở trong nhà. Các tấm vách ván, vách nền vàng tươi tỏa mùi gỗ thông thơm phức. Chiếc lò bếp đứng oai vệ tại góc nhà sát cửa gian chái. Chỉ cần đẩy nhạ quả đấm cửa bằng sứ trắng là có thể đung đưa cánh cửa mua sẵn trên những bản lề mua sẵn và khiến chiếc chốt cửa nhỏ bằng sắt kêu lên clic để giữ cánh cửa đóng lại. Bố nói: - Sáng mai, mình dọn vào nhà. Đêm nay là đêm cuối mình ngủ trong căn nhà hầm. Laura và Mary nắm tay bố đi xuống đồi. Cánh đồng lúa mì mượt mà xinh xắn nợn sóng lăn tăn khắp một khúc quanh của đồng cỏ. Các đường ranh đồng thật thẳng và các góc vuông vức nằm thọt giữa đồng cỏ có vẻ sậm xanh hơn và thô nhám hơn. Laura nhìn lại căn nhà kì diệu. Trong ánh nắng chiếu trên đồi, những bức vách và mái nhà bằng ván vàng rực như một đống rơm. Chương 17: Chuyển Vào Nhà Buổi sáng nắng ráo, mẹ và Laura phụ mang mọi thứ từ căn nhà hầm lên đỉnh bờ đất để chất vào xe. Laura không dám nhìn bố vì cả hai đang nôn nóng về chuyện bất ngờ kinh ngạc dành cho mẹ. Phần mẹ không chờ đợi bất cứ điều gì. Mẹ lấy hết tro nóng ra khỏi lò bếp nhỏ cũ kĩ để bố có thể xách lò đi. Mẹ hỏi bố: - Anh nhớ mang theo ống khói không? Bố đáp: - Nhớ chứ, Caroline. Laura cố kim không bật cười đến nỗi muốn nghẹt thở. Mẹ hỏi: - Chúa ơi, Laura, con mắc nghẹn hả? David và sam kéo gỗ đi, qua đoạn suối cạn đảo trên đồng cỏ lên chỗ ngôi nhà mới. mẹ cùng Mary, Laura lễ mễ ôm xách với Carrie chập chững dẫn đường đi qua cây cầu nhỏ lên lối mòn dầy cỏ. Ngôi nhà gỗ xẻ với mái ván mua sẵn vàng rực trên đỉnh đồi và bố nhảy ra khỏi xe, chờ ngắm mẹ vào lúc mẹ nhìn thấy chiếc lò bếp. Mẹ bước vào nhà và khẽ dừng lại. Miệng mẹ mở ra rồi ngậm lại. mẹ khẽ kêu lên: - Trời đất ơi! Laura và Mary reo hò, nhảy múa và bé Carrie cũng làm theo dù bé không biết vì sao. Các cô la lớn: - Của mẹ đó, mẹ! Đó là chiếc lò bếp mới của mẹ! Nó có cả lò hấp bánh! Còn có bốn chiếc nắp vung và một tay cầm nữa! Mary nói tiếp: - Nó còn khắc chữ ở trên và con đã đọc rồi. P-A-T, pat! Mẹ nói: - Ô, Charles! Anh không nên …! Bố ôm xiết mẹ: - Đừng lo gì, Caroline! Mẹ đáp: - Em chẳng lo ngại bao giờ, Charles! Nhưng dựng một căn nhà thế này với đầy đủ kính cửa sổ mà lại mua thêm một lò bếp thì tốn quá. Bố nói: - Để lo cho em thì không có gì tốn kém cả. Đừng lo nghĩ về các khoản chi. Hãy nhìn qua kính cửa sổ ra đồng lúa mì coi! Nhưng Laura và Mary đẩy mẹ tới bên lò bếp. Mẹ nhấc các nắp vung khi Laura chỉ, đứng ngắm Mary mở cửa lùa rồi mẹ xem xét lò hấp bánh. Mẹ nói: - Của mình! Không biết mình có dám nấu bữa ăn trưa trên cái lò bếp lớm và đẹp thế này không. Nhưng mẹ đã nấu trên chiếc lò kì diệu đó, cón Mary và Laura bày bàn ăn trong căn phòng thông thoáng sáng sủa. Các khuôn kính cửa sổ đều mở cho không khí và ánh sáng ùa vào từ mọi hướng. Ánh nắng xuyên qua khung cửa ra vào và dội trên ô cửa sổ bên cạnh. Thật thích thú khi ngồi ăn trong căn nhà rộng thoáng và sáng sủa đến nỗi bữa ăn đã dứt mà mọi người vẫn còn ngồi quanh bàn để tận hưởng thêm cảm giác thoải mái. Bố nói: - Bây giờ thì ra vẻ rồi! Lúc đó, cà nhà lo treo màn cửa. Cửa sổ kính phải có màn và mẹ đã làm bằng những mảnh vải cũ được hồ cứng, trắng như tuyết. mẹ viền mép màn bằng những dải vải chúc bâu hẹp khá đẹp. Nhưng màn cửa trong phòng lớn được viền mép bằng các dải vải màu hồng lấy từ chiếc áo của Carrie bị rách khi mấy con bò lồng chạy. Màn cửa trong phòng ngủ được viền bằng những dải vải lấy từ một chiếc áo cũ màu xanh lơ của Mary. Mấy chiếc áo đó đều được bố mua từ thành phố về đã lâu lắm rồi, thuở còn ở Big Woods. Trong lúc bố đóng đinh để căng dây treo màn cửa, mẹ mang ra hai cuộn giấy gói màu nâu mà mẹ đã để dành được. Mẹ gấp giấy và chỉ cho Mary với Laura cách cắt rời khỏi mảnh giấy đã gấp những mảnh nhỏ li ti. Khi các cô mở mảnh giấy ra thì trên đó có một chuỗi các ngôi sao. Mẹ căng giấy trên các giá ngăn phía sau lò bếp. Những ngôi sao trên dán các mép giá ngăn và ánh sáng chiếu xuyên qua. Khi nhìn các màn cửa được treo xong, mẹ căng hai tấm chăn sạch như tuyết ngang một góc phòng ngủ. Đây là chỗ bố mẹ treo quần áo. Trên gác xếp, mẹ căng một tấm chăn phủ khác cho Laura và Mary treo quần áo ở phía sau. Căn nhà đẹp hẳn lên khi mẹ làm xong mọi việc. Ngựa tấm màn cửa trắng tinh buông rủ hai bên khuôn cửa sổ lồng kính. Ánh nắng chiếu xuyên vải màn trắng như tuyết với những dải hồng bọc quanh. Các bức vách đều sực nức mùi ván thông cùng với bộ khung căn nhà đen bóng và ở trong góc đó còn có những giá ngăn đầy ánh sao. Mẹ phủ lên bàn tấm vải kẻ ô vuông màu đỏ và đặt một cây đèn được chùi sáng bóng lên. Mẹ để ở đó cuốn kinh Thánh bìa mỏng, cuốn sách lớn màu xanh lá cây ”Những điều kì diệu trong thế giới loài vật” và cuốn tiểu thuyết “Ngân hàng cối xay”. Hai chiếc ghế dài đặt gọn bên cạnh bàn. Việc cuối cùng là bố gắn chiếc xích đông trên vách cạnh ô cửa sổ phía trước để mẹ đặt lên đó bức tượng cô gái chăn cừu bằng sứ. Đó là chiếc xích đông màu gụ mà bố đã khắc hình các ngôi sao, các dây nho và những bông hoa để làm quà Giáng sinh cho mẹ từ lâu rồi. vẫn là cô bé chăn cừu nhỏ nhắn đang mỉm cười với mái tóc vàng, cặp mắt xanh lơ, đôi má ửng hồng cùng vạt áo bằng sứ viền ren với những dải băng bằng sứ thép vàng, thêm chiếc tạp dề và những chiếc giày bằng sứ. Bức tượng đã vượt qua quãng đường dài từ Big Woods tới mảnh đất người da đỏ rồi lại lên đường tới suối Plum trong vùng đất Minesota để đứng đó mỉm cười. Tượng không bị sứt mẻ, không bị thất lạc và không bị chỉ một vết cào xước nào. Vẫn đúng là cô gái chăn cừu nhỏ nhắn đó đang mỉm cười nụ cười ngày nào. Đêm đó, Mary và Laura leo cầu thang lên căn gác xếp riêng thênh thang thóang đãng của các cô để đi ngủ. Ở đây chưa có màn cửa vì mẹ không còn vải cũ. Nhưng mỗi cô có một chiếc hộp để cất các đồ ưa thích và để ngồi lên. Charlotte và lủ búp bê giấy trú ngụ trong chiếc hộp của Laura còn hộp của Mary đầy vải để vá mền trải giường và những túi vải vụn. Mỗi cô còn có một chiếc đinh để móc quần áo lên vào lúc lấy chiếc áo ngủ treo ở đó. Điểm bất tiện duy nhất của căn phòng là Jack không thể leo lên cầu thang. Laura đi ngủ tức khắc. Cô đã chạy quanh ngôi nhà mới rồi lên xuống cầu thang trọn ngày. Nhưng cô không thể ngủ yên. Căn nhà mới hết sức tĩnh mịch. Cô thấy nhớ tiếng suối róc rách như khẽ hát ru cô trong giấc ngủ. Sự im lìm khiến cô tỉnh táo. Cuối cùng, một tiếng động khiến cô mở mắt ra. Cô lắng nghe, đó là tiếng của nhiều, rất nhiều những bàn chân nhỏ đang chạy ở phía trên đầu. hình như đang có hàng ngàn con vật nhỏ chạy nhốn nháo trên mái nhà. Cái gì vậy? Trời mưa! Từ lâu Laura không nghe thấy tiếng mưa rơi trên mái nhà và đã quên bẵng thứ tiếng động này. Trong căn nhà hầm, cô không thể nghe thấy tiếng mưa vì quá nhiều đất và cỏ ở phía trên mái nhà. Cô sung sướng trong lúc chập chờn ngủ lại dưới tiếng mưa rơi lộp độp trên mái nhà. Chương 18: Con Cua Già Và Con Đỉa Khi Laura nhảy xuống giường, các bàn chân trần của cô đập trên mặt sàn gỗ nhẵn bóng. Cô ngửi thấy mùi thơm gỗ thông toát ra từ những tấm ván. Trên cao, chiếc mái nghiêng bằng ván mỏng vàng tươi được nâng bằng những hàng rui. Qua ô cửa sổ ở phía đông, cô nhìn thấy lối đi nhỏ chạy xuống dưới đồi cỏ. Cô cũng nhìn thấy một góc đồng lúa mì mượt mà màu xanh nhạt và ở phía bên kia là đồng lúa mạch màu xanh xám. Một mảnh mặt trời trắng bạc đang ló ra trên mép bờ đất xanh mênh mông tít mãi phía xa thật xa. Suối nước bên hàng liễu và căn nhà hầm giống như đã trôi về một thuở nào lâu lắm và xa mù. Đột nhiên, ánh nắng vàng tươi ấm áp xối khắp người cô trên chiếc áo ngủ. Nắng chiếu qua các khuôn kính cửa sổ, in bóng những gióng nhỏ trên nền sàn ván gỗ vàng và đầu Laura trong chiếc mũ trùm với những lọn tóc và những bàn tay với các ngón tay duỗi ra đều sẫm hơn, đen đặc. Ở tầng dưới, những nắp vung khua nhẹ trên chiếc lò bếp mới. Giọng mẹ vọng lên qua khuôn cửa trống vuông vức ở đầu cầu thang: - Mary, Laura! Sáng rồi, các con! Một ngày mới đã mở đầu như vậy ở trong căn nhà mới. Nhưng trong lúc cả nhả ăn sáng trong tầng nhà dưới rộng rãi thoáng đãng, Laura lại muốn nhìn dòng suối. Cô hỏi bố liệu cô có thể quay lại đó chơi không. Bố nói: - Không được, Laura. Bố không muốn con trở lại dòng suối vẫn còn nhiều vùng nước sâu. Nhưng khi làm xong công việc của các con thì con và Mary được chạy dọc lối đi do ông Nelson đã đi và xem mọi thứ các con thấy được. Các cô vội vã làm việc. Và trong gian nhà chái, các cô bắt gặp một cây chổi mua. Trong căn nhà này dường như luôn luôn có những điều kì diệu. Cây chổi này có một chiếc cán thẳng, dài, nhẵn nhụi và tròn xoe. Chổi được làm bằng hàng ngàn những cọng vàng lục, cứng, mỏng. Mẹ bảo đây là cây chổi rơm. Các cọng rơm được cắt hết sức thẳng ở phần đáy và uốn cong ở đầu thành các mép phẳng, chắc chắn. Những mũi khâu bằng chỉ đỏ kết chúng cứng lại với nhau. Cây chổi không giống chút nào với những cây chổi tròn bằng cành liễu do bố làm. Nó có vẻ hoàn hảo dễ quét và trượt trên nền nhà trơn bóng giống như chuyện thần kỳ. Laura và Mary vẫn nôn nóng mong được chạy ra lối đi. Các cô làm việc nhanh rồi cất chổi và bước ra. Laura nôn nóng tới nỗi chỉ cố đi thong thả vài bước rồi bắt đầu phóng chạy. Chiếc mũ của cô trượt ra sau gáy với những dải mũ buộc quanh cổ và các bàn chân trần của cô bay trên lối mòn đầy cỏ ẩm ướt xuống đồi, qua khoảnh đất bằng phẳng ngược lên một đoạn dốc thấp. Ở đó là dòng suối! Laura hết sức kinh ngạc. Dòng suối tựa hồ đổi khác hẳn, hết sức êm ả dưới ánh mặt trời giữa những bờ cỏ thấp. Lối mòn dừng lại ngay dưới bóng của cây liễu lớn. Cây câu băng qua mặt nước vượt lên thảm cỏ bằng phẳng ngập ánh nắng. Rồi lối mòn uốn khúc chạy vòng một trái đồi nhỏ và khuất khỏi tầm mắt. Laura tưởng chừng lối mòn nhỏ kia cứ uốn vòng mãi trên thảm cỏ đầy nắng thân thiết vắt ngang những dòng suối và quấn quanh những ngọn đồi thấp để ngắm những gì có ở phía bên kia. Cô biết lối mòn thật sự dẫn tới nhà ông Nelson nhưng nó là một lối đi nhỏ không thích ngưng lại ở đâu. Nó muốn được luôn luôn đi mãi. Dòng suối chảy từ một bụi mận. Những cây thấp mọc đầy trên hai bên bờ của dòng nước hẹp và cành của chúng gần như áp trên mặt nước in đầy bóng lá cây. Rồi dòng suối mở rộng, chảy lan ra, cận hơn, gợn sóng lấp lánh trên những khoảng sỏi, cát. Tới dưới cây cầu nhỏ, dòng suối thu hẹp lại chảy ào ào cho tới khi dừng lại trong một vũng nước lớn. Vũng nước giống như một mặt gương phẳng lặng bên cạnh một khóm liễu. Laura chờ tới khi Mary đến nơi. Rồi hai cô đi trong khoảng nước cạn trên những soi cát sỏi lấp lánh. Từng bầy cá li ti bơi lội quấn quanh ngón chân các cô. Khi các cô đứng im, đám cá nhỏ táp nhẹ nhẹ bàn chân các cô. Đột nhiên Laura nhìn thấy một con vật kì lạ ở trong nước. Con vật dài bằng bàn chân Laura, bóng mượt và màu nâu tái. Phía trước nó có hai cánh tay dài tận cùng bằng những vuốt kẹp lớn bẹt. Dọc hai bên nó là những chiếc chân ngắn và chiếc đuôi của nó cứng, có vảy với một lớp vảy hình chĩa mỏng ở cuối. Mấy sợi lông cắm trên mũi nó và cặp mắt tròn xoe của nó lồi hẳn ra. Mary nói: - Con gì vậy? Cô hoảng sợ. Laura không dám bước tới gần con vật. Cô cẩn thận cúi người xuống quan sát nó và thình lình nó không còn đó nữa. Nhanh hơn một con bọ nước, nó bật lui và một cuộn nước bùn từ dưới một tảng đá phẳng tỏa ra ở chỗ nó biền mất. Một phút sau, nó thò một vuốt kẹp ra và khẽ táp táp. Rồi nó có vẻ canh chừng. Khi Laura nhích lại gần hơn, nó thụt lui vào dưới tảng đá. Nhưng khi cô tát nước vào tảng đá thì nó chạy ra, bật lách tách chiếc vuốt kẹp cố chụp ngón chân trần của cô. Laura và Mary kinh hoảng vùng chạy té nước tung tóe về phía con vật. Các cô lấy một cây que dài chọc nó. Chiếc vuốt kẹp của nó chụp gẫy cây que. Các cô kiếm một cây que lớn hơn và chiếc vuốt kẹp của nó quắp chặt không chịu bỏ ra cho tới khi Laura nhấc cả nó lên khỏi mặt nước. Mắt nó như có nhợt chảy và chiếc đuôi uốn dưới thân hình trong lúc chiếc vuốt kẹp kia đang quay tới. Rồi nó buông rời ra và rớt xuống, thụt lui nhanh trở lại dưới tảng đá. Khi các cô tạt nước vào tảng đá, nó luôn lao ra chiến đấu như điên. Và các cô luôn kinh hãi vùng chạy khõi những chiếc vuốt kẹp dễ sợ của nó. Các cô ngồi lại một hồi dưới bóng cây liễu lớn trên cầu lắng nghe tiếng nước chảy và ngắm ánh nước lấp lánh. Rồi các cô lại đạp trên nước đi về phía những bụi mận. Mary không bước vào vùng nước phía dưới những cây mận. Ở đó lòng suối đầy bùn và cô không thích đạp chân lên bùn. Cho nên cô ngồi trên bờ trong lúc Laura lội xuống nước. Nước giống như đọng lại với những chiếc lá khô nổi lềnh bềnh. Bùn lẹp nhẹp giữa các ngón chân Laura và đám nước đục vẩn lên khiến Laura không nhìn rõ phía dưới. Không khí nồng mùi hôi mốc. Thế là Laura xoay lại bước về vùng nước sạch dưới ánh nắng. Giống như có những đám bùn tròn bám trên các ống chân và bàn chân cô, cô té nước sạch vào đó để rửa cho trôi đi. Nhưng những đám bùn không rơi ra. Cô đưa bàn tay gỡ cũng không được. Đó là những thứ có màu bùn và mềm như bùn nhưng bám rất chặt vào da Laura. Laura kêu thét lên. Cô đứng tại chỗ kêu thất thanh: - Ô, Mary, Mary! Tới mau! Mary đã chạy tới nhưng không đụng vào những vật khủng khiếp kia. Cô bảo đó là giun sán và khiến cô muốn ói. Laura cảm thấy muốn ói hơn cả Mary nhưng để những thứ này bám vào da còn ghê hãi hơn là đụng tay vào chúng. Cô nắm lấy một con, bấm móng tay vào nó và lôi ra. Nó dãn dài ra, dài hơn, dài hơn nữa những vẫn bám chặt tại chỗ. Mary kêu lên: - Ôi đừng! Ôi đừng! Ôi, em sắp kéo nó đứt đôi rồi! Nhưng Laura cứ kéo dài hơn nữa cho tới khi nó bật ra. Máu phun ra trên chân cô từ chỗ con vật đó bám vào. Từng con một, Laura lôi bật ra hết. Mỗi con rời ra đều để lại một dòng máu tuôn xuống. Laura hết còn ham thích chơi nữa. Cô rửa sạch tay chân rồi cùng Mary trở về nhà. Đã tới giờ ăn trưa và bố đang ở nhà. Laura kể với bố về con vật giống như bùn không có mắt, không có đầu, không có chân đã bám vào chân cô ở trong suối. Mẹ bảo đó là những con đải mà các bác sĩ vẫn dùng để chữa cho một số người bệnh. Nhưng bố lại gọi chúng là những vật hút máu. Bố nói chúng sống ở dưới bùn trong các vùng nước lặng tối tăm. Laura nói: - Con không ưa chúng đâu. Bố nói: - Vậy thì hãy tránh xa các chỗ có bùn, nhà-kho-vỗ-cánh! Nếu không muốn bị chúng quấy rầy thì đừng đi kiếm chúng. Mẹ nói: - Này, dù sao thì các con cũng không nên dành quá nhiều thời giờ để chơi đùa mãi ở dưới suối nữa. Lúc này mình đã ổn định chỗ ở và chỉ cách thị trấn có hai dặm rưỡi nên các con có thể tới trường. Laura không thể nói được một tiếng nào. Mary cũng vậy. Các cô ngó lẫn nhau và cùng tự hỏi: - Tới trường? Chương 19: Cái Bẫy Cá Càng được nói về trường học, Laura càng không muốn tới đó. Cô không biết bằng cách nào cô có thể ở xa dòng suối trọn ngày. Cô hỏi: - Ôi, mẹ, con phải tới trường hả? Mẹ nói một cô gái lớn gần tám tuổi cần phải đi học thay vì chạy hoang trên các dải bờ của suối Plum. Laura năn nỉ: - Nhưng con có thể đọc mà, mẹ. Xin mẹ đừng bắt con tới trường. Con đọc được mà. Mẹ nghe này! Cô mở cuốn sách có tựa đề “Ngân hàng cối xay” và vừa lo ngại nhìn mẹ vừa đọc: - Các cửa ra vào và cửa sở của Ngân hàng cối xay đều đóng kín. Một dải nhiễu đen buông từ quả đấm cửa… Mẹ cắt ngang - Ô, Laura. Không phải con đang đọc. Con chỉ lặp lại những gì mà con đã nghe do mẹ thường đọc cho bố. Ngoài ra, còn có nhiều thứ khác để học như đánh vần, viết, làm toán. Không nói thêm gì về việc này nữa. Con sẽ cùng Mary đến trường vào sáng thứ hai. Mary đang ngồi khâu vá. Cô giống như một cô bé ngoan ngoãn muốn được đi học. Ngoài cửa gian chái, bố đang đập búa trên một cái gì. Laura nhảy bổ ra ngoài nhanh tới nỗi suýt nữa thì cây búa đập phải cô. Bố nói: - Ui da! Suýt đụng phía con rồi. Lẽ ra bố phải chờ con chứ, nhà-kho-vỗ-cánh. Con luôn luôn dính trên tay như một ngón tay cái bị đau. Laura hỏi: - Ô, bố đang làm gì vậy? Bố đang ghép chung những thanh ván hẹp làm nhà còn dư lại với nhau. Bố nói: - Làm một cái bẫy cá. Con có giúp bố không? Con có thể lấy đinh cho bố. Laura đưa cho bố từng chiếc đinh một và bố đóng vào ván, làm thành một khung thùng. Đó là một cái hộp dài, hẹp, không có phần trên và có những kẽ hở rộng giữa các thanh gỗ. Laura hỏi: - Cái này bắt cá bằng cách nào? Nếu bố đặt nó xuống suối cá có thể bơi qua những kẽ hở này vào nhưng chúng lại bơi ra. Bố nói: - Con chứ chờ coi. Laura chờ cho tới khi bố cất đinh và búa đi. Bố vác chiếc bẫy cá trên vai, nói: - Con có thể theo giúp bố đặt bẫy. Laura nắm tay bố nhảy nhót xuống đồi, đi qua khoảng đất bằng xuống suối. Hai cha con theo mé bờ thấp qua bụi mận. Bờ ở đây dốc đứng hơn, dòng suối hẹp hơn và nước chảy ầm ĩ hơn. Bố đạp xéo qua những bụi cây cho Laura leo xuống một cách khó khăn và có một thác nước. Nước chảy nhanh và êm cho tới bờ thì trút xuống bắn văng đột ngột ấm ĩ. Từ dưới đáy sâu, nước lại cuốn lên, xoáy dòng rồi quật ngã xô tới ào ạt. Laura ngắm dòng nước không biết mệt. Nhưng cô phải giúp bố đặt bẫy bắt cá. Hai cha con đặt bẫy đúng ngay dưới thác nước. Dòng nước trút hết vào trong bẫy cuốn xoáy lên đột ngột hơn hẳn trước đó. Nước không thể bắn ra ngoài bẫy mà chỉ sủi bọt qua các kẽ hở. Bố nhắc: - Bây giờ nhìn đi, Laura. Cá sẽ theo dòng nước đổ xuống rơi vào bẫy và chỉ cá con lọt ra khỏi kẽ hở còn cá lớn thì không ra nổi. Chúng cũng không thể leo ngược dòng suối đang đổ xuống để trồi lên. Như thế chúng chỉ còn cách bơi quanh trong thùng cho tới khi bố tới bắt chúng ra. Ngay lúc đo, một con cá lơn lảo đảo theo dòng nước đd9o63x1. Laura kêu ré lên và hét: - Coi kìa, bố! Coi kìa! Bàn tay bố nhấn vào trong nước chộp lấy con cá và nhấc nó lên, Laura gần như ngã vào dưới thác nước. Hai cha con ngắm con cá lớn ánh bạc rồi bố thả nó vào trong bẫy trở lại. Laura hỏi: - Ô, bố, mình ở lại đây bắt cho đủ cá ăn bữa tối được không? Bố nói: - Bố còn phải lo làm một nhà kho chứa cỏ, Laura. Rồi còn phải cày vườn, phải đào một cái giếng và… Bố bỗng ngắm Laura và nói: - Được, bình rượu nhỏ, có thể ở lại một lát. Bố ngồi xổm trên gót chân và Laura ngồi xổm theo, cùng chờ. Dòng suối trút xuống văng tung tóe luôn luôn lập lại và luôn luôn thay đổi. Những tia phản chiếu ánh nắng nhảy múa trên mặt nước. Hơi lạnh bốc lên nhưng không khí ấm đọng trên cổ Laura. Những bụi cây dựng ngược hàng ngàn cánh lá in lên nền trời. Lá tỏa hơi ấm và tỏa mùi ngọt dịu dưới ánh nắng. Laura nói: - Ô, bố! Con phải đi học sao? Bố nói: - Con sẽ thích đi học đó, Laura. Laura nói một cách buồn bã: - Con thích ở đây hơn. Bố nói: - Bố biết, bình rượu nhỏ, nhưng không phải mọi người đều có dịp may được đi học, học đọc và học viết những con số đâu. Mẹ con là một cô giáo khi bố mẹ gặp nhau và khi mẹ tới miền tây với bố thì bố đã hứa phải tạo được dịp may cho các cô gái đi học. Đó là lí do mình ngừng tại đây, ở gần một thị trấn là nơi có trường học. Lúc này, con đã gần 8 tuổi rồi, còn Mary sắp 9 tuổi là tuổi bắt đầu đi học. Hãy cảm ơn việc các con đã có dịp may này, Laura. Laura thở ra: - Dạ, thưa bố! Đúng lúc đó, một con cá lớn khác cuốn theo dòng nước trút xuống. Trước khi bố kịp bắt nó thì một con khác rớt xuống theo. Bố chặt và chóc vỏ một cành chĩa. Bố bắt bốn con cá lớn ra khỏi bẫy, buộc vào cành. Laura và bố trở về nhà mang theo những con cá đang giẫy giụa này. Mắt mẹ tròn xoe khi nhìn thấy mấy con cá. Bố đánh vảy ba con và cô bé đánh vảy gần hết một con. Mẹ đem bao bột rồi chiên trong mỡ và cả nhà có món cá tươi ngon lành cho bữa tối. Mẹ nói: - Anh luôn nghĩ ra một điều gì đó, Charles. Lúc này là mùa xuân và em đang tự hỏi là không biết mình sẽ kiếm đâu ra thức ăn ở đây. Bố không thể đi săn vào mùa xuân vì đây là lúc thỏ đều phải lo nuôi thỏ con và chm chóc cũng đang bận bịu với những con chim con trong tổ. Bố nói: - Hãy chờ tới lúc anh gặt vụ lúa mì kia. Lúc đó, hàng ngày mình sẽ có thịt heo ướp muối. Phải, có cả nước thịt và thịt bò tươi nữa. Sau đó, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, bố đều mang cá từ bẫy về. Bố không bao giờ mang về nhiều hơn mức cần cho bữa ăn. Những con cá không cần, bố bỏ ra ngoài bẫy thả cho chúng bơi đi. Bố mang về nhiều loại cá khác nhau kể cả những loại cá mà bố không biết tên là gì. Mỗi ngày, món cá có trong bữa ăn sáng, có trong bữa ăn trưa và có trong cả bữa ăn tối. Chương 20: Trường Học Sáng thứ hai đã tới. Ngay sau khi rửa chén đĩa trong bữa ăn sáng, Laura và Mary chạy ngay lên cầu thang, mặc những bộ đồ dành riêng cho ngày chủ nhật. Áo của Mary in hình những cánh hoa màu xanh lơ, còn áo của Laura thì in hình những cánh hoa màu đỏ. Mẹ bện tóc cho các cô thật chặt và buộc ở cuối bím bằng một sợi dây chỉ. Các cô không thể cài những chiếc dây băng dành cho ngày chủ nhật vì có thể bỏ mất. Mũ của các cô được giặt rất sạch và mới ủi xong. Rồi mẹ dắt hai cô vào phòng ngủ. Mẹ quỳ gối bên chiếc hộp đưng những đồ quý của mẹ và lấy ra ba cuốn sách. Đây là những cuốn sách của mẹ khi mẹ còn là một cô bé. Một cuốn dạy đánh vần, một cuốn dạy đọc và một cúôn dạy các phép tính. Mẹ nhìn Mary và Laura một cách nghiêm trang và các cô cũng hết sức nghiêm trang. Mẹ nói: - Laura và Mary, mẹ tặng cho các con mấy cuốn sách này. Mẹ biết rằng các con sẽ giữ chúng cẩn thận và học hành một cách có trách nhiệm. Các cô nói: - Dạ, thưa mẹ! Mẹ trao sách cho Mary cầm và trao cho Laura chiếc xô thiếc nhỏ đựng các món ăn trưa bọc dưới một lớp vải sạch. Mẹ nói: - Tạm biệt. Ráng ngoan nghe, các con. Mẹ và Carrie đứng ở trong khung cửa ra vào còn Jack theo các cô xuống chân đồi. Nó có vẻ bối rối. Tất cả đi ngang bãi cỏ in hằn vết bánh xe của bố và Jack ở sát bên Laura. Khi tới khúc suối cạn, nó ngồi xuống khẽ rít lên một cách lo lắng. Laura phải nói với nó rằng nó không được đi xa hơn nữa. Cô vỗ nhẹ nhẹ trên đầu nó và cố làm dịu những ý nghĩ lo lắng của nó. Nhưng nó ngồi nhìn khó chịu trong lúc các cô lội qua khúc suối cạn rộng. Các cô bước cẩn thận để tránh làm văng nước lên những bộ quần áo sạch. Một con diệc màu xanh lơ cất mình lên khỏi mặt nước, vỗ cánh bay đi với những chiếc cẳng dài ngoẵng đu đưa. Laura và Mary dè dặt bước lên mặt cỏ. Các cô không đi trên những vết xe đầy bịu bậm cho tới khi các bàn chân khô hẳn vì muốn giữ sạch bàn chân khi vào thị trấn. Căn nhà mới giống như thu nhỏ lại trên ngọn điồi bị bao bọc giữa đồng cỏ xanh ngắt trải rộng mênh mông. Mẹ và Carrie đã quay vào nhà. Chỉ còn một mình Jack đang ngồi bên khúc suối cạn nhìn theo. Mary và Laura lặng lẽ bước đi. Sương đọng long lanh trong cỏ. Những con chiền chiện đang hót. Bầy dẽ giun đang đi trên những cẳng chân khẳng khiu dài ngoẵng. Lũ gà gô mái kêu cục cục và đám gà con nhỏ xíu chíp chíp đáp lại. Những con thỏ đứng thẳng với những bàn chân trước đu đưa, tai co giật và những con mắt tròn mở thao láo nhìn Mary và Laura. Bố đã nói rõ thị trấn chỉ cách xa đúng hai dặm rưỡi vá con đường lớn đưa thẳng tới đó. Các cô sẽ biết đã vào thị trấn khi đi tới một căn nhà. Những cồn mây trắng trôi trên bầu trời bao la và bóng mây kéo ngang những thảm cỏ đang gợn sóng trên đồng. Con đường lớn luôn mất hút ở phía trước vào một lối đi nhỏ nhưng khi các cô tới chỗ chấm dứt này thì lại thấy nó tiếp tục vươn tới. Chỗ chấm dứt chỉ là vết xe của bố cắt ngang mặt cỏ. Mary nói: - Hãy lo cho em đi, Laura, kéo chiếc mũ lên! Em sắp rám nắng như một người da đỏ và như vậy thì đám con gái thị trấn sẽ nghĩ gì về chị em mình? Laura nói lớn một cách khinh thường: - Em khỏi cần! Mary nói: - Em phải cần! Laura nói: - Em khỏi cần! - Em phải! - Em khỏi! Mary nói: - Em sẽ sợ thị trấn như chị vậy. Mary im lặng. Một lát sau, cô kéo lại dải mũ và đội mũ lên đầu. Mary nói: - Dù sao mình cũng có hai người. Các cô tiếp tục đi tới. Một hồi lâu sau các cô đã nhìn thấy thị trấn. Nó giống như một vạt rừng nhỏ trên đồng cỏ. Khi con đường xuống thấp, các cô chỉ lại nhìn thấy cỏ và trời. Rồi các cô lại thấy thị trấn, rộng lớn hơn. Khói đang bốc lên từ những ống khói. Con đường sạch sẽ viền cỏ mất hút vào trong một vùng không có cây cỏ. Con đường phủ bụi này chạy bên một căn nhà nhỏ rồi ngang qua một cửa hàng. Cửa hàng đó có một khuôn cổng lớn với những bậc tam cấp đưa lên đó. Phía bên kia cửa hàng là một xưởng rèn. Xưởng nằm cách xa đường có một khoảng sân trống phía trước. Trong xưởng có một người đàn ông mập mạp mặc tạp dề bằng da đang kéo chiếc bễ phù phù để thổi đỏ các hòn than và vung cao chiếc búa lớn nện xuống, chát! Cả tá tia lửa văng ra li ti trong ánh sáng ban ngày. Phía bên kia khoảng đất trống là lưng của một toà nhà. Mary và Laura đi sát một bên toà nhà này. Mặt đất ở đó rất cứng. Không có một ngọn cỏ nào để đặt chân lên. Trước mặt toà nhà này lại có một con đường lón khác cắt ngang con đường của các cô. Mary và Laura ngừng lại. Các cô nhìn qua khoảng đất trống ở phía trước của hai cửa hàng khác nữa. Các cô nghe rõ tiếng ồn ào hỗn độn do giọng nói của nhiều đứa trẻ. Con đường của bố không đi xa hơn nữa. Mary nói khẽ: - Tới thôi! Nhưng cô vẫn đứng im nói tiếp: - Chỗ nào thì nghe thấy tiếng reo hò thì chỗ đó là trường học. Bố đã bảo mình phải nghe thấy mà. Laura muốn xoay người lại và phóng chạy trở về. Cô và Mary bước lên chậm chậm vào khoảng đất trống hướng về phía có tiếng ồn ào. Các cô đi dọc giữa hai cửa hàng. Các cô đi ngang qua những đống ván có thể là khoảng sân chứa gỗ mà bố đã tới mua về làm căn nhà mới. Rồi các cô nhìn thấy trường học. Trường nằm trên đồng cỏ phía cạnh cuối bên kia của khoảng đất trống. Một lối đi dài dẫn tới trường vươn qua mặt cỏ. Con trai, con gái đang xúm xít trước trường. Laura theo lối đi tiến tới trước tất cả và Mary bước theo cô. Hết thảy các cô cậu bé đều ngừng cười nói, quay lại nhìn. Laura tiến tới gần hơn và gần hơn trong tầm mắt của mọi người rồi thình lình không có một ý định gì, cô đu đưa chiếc xô đựng đồ ăn và nói lớn: - Tất cả các cậu ồn ào giống hệt một bầy gà gô. Hết thảy đều ngạc nhiên. Nhưng ngườii ngạc nhiên nhất chính là Laura. Cô cảm thấy xấu hổ nữa. Mary hổn hển: - Laura! Rồi một cậu bé mặt đầy tàn nhang có mái tóc hung màu lửa kêu lên: - Mấy đứa mày là dẽ giun! Dẽ giun! Dẽ giun! Dẽ giun cẳng dài! Laura muốn chui xuống đất và giấu biến hai ống chân của mình. Áo của cô quá ngắn, ngắn hơn rất nhiều so với áo của các cô bé thị trấn. Áo của Mary cũng thế. Trước khi các cô tới vùng suối Plum, mẹ đã bảo các cô quá lớn so với quần áo đang có. Những ống chân trần của các cô dài ngoẵng, khẳng khiu quả là giống hệt những cẳng chân dẽ giun. Hết thảy đám con trai đều hướng về các cô và hô hoán: - Dẽ giun! Dẽ giun! Bỗng một cô bé tóc đỏ hoe xô mạnh đám con trai ra nói; - Câm đi! Bây ồn ào quá rồi! Ngậm miệng lại, Sandy! Cô nói với cậu bé cũng có mái tóc đỏ hoe và cậu không hô hoán nữa. Cô bước tới sát bên Laura nói: - Tên tớ là Christy Kennedy còn thằng bé quá đáng kia là Sandy, em trai tớ, nhưng nó không có ý xúc phạm ai đâu. Tên bồ là gì? Mái tóc đỏ hoe của cô bé cũng kết chắc thành những dây bím cứng ngắc. Mắt cô màu xanh thẫm gần ngả thành đen và đôi má phúng phính của cô lóm đóm tàn nhang. Chiếc mũ của cô đeo lủng lẳng sau gáy. Cô nói tiếp: - Chị bồ đó hả? Còn kia là các chị gái của tớ. Mấy cô gái lớn hơn đang nói chuyện với Mary. - Chị lớn nhất là Nettie, chị có mái tóc đen là Cassie rồi tới Donald, tiếp tới là tớ và Sandy. Còn bồ có bao nhiêu anh chị em? Laura nói: - Hai. Đó là chị Mary và em bé Carrie. Em bé cũng có mái tóc vàng. Bọn tớ còn có một con chó săn tên là Jack. Bọn tớ sống ở bên bờ suối Plum. Các bồ sống ở đâu? Christy hỏi lại: - Có phải bố mấy bồ vẫn lái xe có hai con ngựa hồng bờm đen đuôi đen, phải không? Laura đáp: - Đúng rồi! Đó là Sam và David, những con ngưa Giáng sinh của nhà tớ. Christy nói: - Ông ấy đã kiếm thấy nhà bọn tớ nên chắc các bồ cũng kiếm thấy. Đó là căn nhà trước khi các bồ tới cửa hàng nhà Beadle và bưu điện, trước khi các bồ đến xưởng rèn. Cô Eva Beadle là cô giáo của chúng mình. Còn kia là Nellie Oleson. Nellie Oleson rất xinh xắn. Những lọn tóc dài màu vàng rũ xuống của cô có gắn hai dải nơ bươm bướm màu xanh lơ. Áo của cô bằng vải loại vải mịn trắng tinh in rải rác những bông hoa nhỏ màu xanh và cô còn mang giày nữa. Cô nhìn Laura rồi nhìn Mary và nhăn nhăn mũi. Cô nói: - Hừm! Mấy con nhả quê! Trước khi một người nào đó kịp lên tiếng thì chuông reng. Một người phụ nữ trẻ đứng ở cửa ra vào đang lắc chiếc chuông trong bàn tay. Các cô cậu bé vội bước vào trong lớp học. Người phụ nữ trẻ đó rất đẹp. Mái tóc nâu của cô uốn cong thành vòng buông trước cặp mắt nâu và kết thành bím dầy ở phía sau. Vạt áo trước của cô lấp lánh những chiếc nút và váy của cô kéo căng rồi buông rũ phía sau với những chỗ phồng lên và những vòng móc. Gương mặt cô dịu dàng và nụ cười của cô thật dễ thương. Cô đặt bàn tay lên vai Laura rồi hỏi: - Em là học trò mới, phải không? Laura đáp: - Dạ, thưa cô. Cô giáo mỉm cười với Mary và hỏi: - Và đây là chị của em? Mary lên tiếng: - Dạ, thưa cô. Cô giáo nói: - Hãy đi theo cô để cô ghi tên hai em vào trong sổ. Cả hai cùng đi theo cô giáo hết chiều dài lớp học và dừng lại trên một bục gỗ. Trường học là một gian phòng làm bằng những tấm vám còn mới. Trần là mặt dưới những tấm ván mỏng lợp mái tương tự như trần của căn gác xếp. Chính giữa phòng là một hàng những băng ghế dài, chiếc này đặt phía sau chiếc khác. Ghế đều làm bằng ván bào. Mỗi chiếc đều có phần lưng ghế với hai giá ngăn chia ra ở bên trên chiếc ghế phía sau. Chỉ riêng chiếc ghế ở hàng đầu là không có phần lưng. Mỗi bên vách trường học đều có hai ô cửa sổ có gắn kính. Tất cả cửa sổ và cửa ra vào đều mở. Gió lùa vào cùng tiếng rì rào của những gợn sóng cỏ với mùi hương và cảnh sắc của đồng cỏ vô tận trong ánh sánh chan hòa bầu trời rộng. Laura nhìn tất cả những thứ đó trong lúc đứng cùngúm bên bàn giấy của cô giáo để nói rõ tên họ và tuổi của mình. Cô không xoay đầu nhưng mắt cô nhìn quanh hết. Trên hc6 ghế dải bên cửa ra vào là một thùng xô đựng nước. Một cây chổi mua ở tiệm dựng đứng trong một góc nhà. Trên bức vách phía sau bàn giấy của cô giáo có một tấm bảng đóng bằng các tấm ván nhẵn bóng sơn màu đen. Dưới tấm bảng có một chiếc máng nhỏ trong đó có mấy thỏi ngắn màu trắng và một miếng gỗ được bao quanh bằng một mảnh len da cừu gắn chặt bằng đinh. Laura tự hỏi những thứ đó được dùng làm gì. Mary cho cô giáo biết là cô có thể đọc và đánh vần ra sao. Nhưng Laura nhìn cuốn sách của mẹ và lắc đầu. Cô không thể đọc được. Cô còn không biết chắc cả các mẫu tự nữa. Cô giáo nói: - Được rồi, em sẽ bắt đầu từ lớp vỡ lòng. Còn Mary có thể học ở lớp cao hơn. Các em có bảng viết không? Cả hai đều không có bảng viết. Cô giáo nói: - Cô sẽ cho các em mượn cái của cô. Các em không thể học viết mà không có bảng. Cô nhấc nắp bàn giấy của mình lên để lấy bảng ra. Bàn giấy giống như một chiếc thùng cao với một mặt chắn kín trước đầu gối cô giáo. Mặt bàn nhấc lên được nhờ những bản lề mua ở tiệm và phía dưới nó là nơi cô giáo cất đồ. Mấy cuốn sách của cô nằm tại đó cùng với cây thước. Mãi sau này Laura mới biết cây thước dùng để phạt kẻ nào phá rối hoặc trò chuyện trong lớp học. Bất kì kẻ nào hư hỏng như thế cũng phải lên đứng trên bàn giấy cô giáo đưa bàn tay ra để cô giáo dùng cây thước quất mạnh vào tay nhiều lần. Nhưng Mary và Laura không khi nào trò chuyện trong lớp và luôn không gây rối. Các cô ngồi bên nhau trên chiếc ghế dài và học. Mary đặt các bàn chân trên nền nhà thoải mái nhưng bàn chân Laura đu đưa lơ lửng. Các cô mở sách trên ngăn giá phía trước, Laura học phần đầu sách còn Mary học ở phần sau và các trang sách ở giữa dựng đứng lên. Một mình Laura một lớp riêng vì cô là cô học trò duy nhất không biết đọc. Mỗi khi có thời giờ, cô giáo gọi Laura tới bên bàn giấy và giúp cô đọc các mẫu tự. Đ1ung trước giờ ăn trưa các ngày đầu tiên tới lớp, Laura đã có thể đọc C-A-T, cat. Đột nhiên cô nhớ ra và đọc: - P-A-T, pat! Cô giáo ngạc nhiên. Cô đọc: - R-A-T, rat! Và Laura đọc nối theo liền: - M-A-T, mat! Cô đã có thể đánh vần trọn hàng đầu tiên trong cuốn sách đánh vần. Buổi trưa, các học trò khác và cô giáo đều về nhà ăn cơm. Laura và Mary mang xô thức ăn ra ngồi trên thảm cỏ sát bóng mát của một bên vách ngôi trường vắng hoe. Các cô ăn bánh mì với bơ và nói chuyện. Mary nói: - Chị thích trường học. Laura nói: - Em cũng thích. Chỉ có điều chân em bị mỏi quá. Và em không thích cô bé Nellie Oleson gọi mình là mấy đứa nhà quê. Mary nói: - Thì mình đúng là con gái nhà quê mà. Laura nói: - Đúng, nhưng nó không cần phải nhăn mũi lại như thế. Chương 21: Nellie Oleson Tối đó, Jack chờ đón các cô ở khúc suối cạn và trong lúc ăn cơm tối, các cô kể cho bố mẹ nghe mọi điều ở trường học. Khi nghe các cô nói đã phải mượn bảng viết của cô giáo, bố khẽ lắc đầu. Các cô không nên mắc nợ ơn huệ chỉ vì một tấm bảng. Sáng hôm sau, bố lấy tiền cất trong hộp đàn ra đếm. Bố cho Mary một đồng tiền tròn bằng bạc để mua bảng. Bố nói: - Trong suối nhiều cá lắm. Mình có thể kéo dài tới mùa cắt lúa mì. Mẹ nói: - Cũng sắp có khoai tây rồi. Mẹ buộc tiền vào trong chiếc khăn tay rồi nhét vào trong túi Mary. Mary nắm chặt chiếc túi đó suốt lúc đi theo con đường trên đồng cỏ. Gió thổi lồng lộng. Bướm và chim bay lượn trên những thảm cỏ gợn sóng và những khóm hoa dại. Bầy thỏ nhảy nhót trong gió và bầu trời bao la quang đãng uốn phủ khắp nơi. Laura đung đưa chiếc xô đựng thức ăn xoải chân phóng tới. Tới thị trấn, các cô băng qua phố Main lầm bụi, leo những bậc tam cấp lên cửa hàng của ông Oleson. Bố đã nhắc mua bảng ở đó. Trong tiệm là một quầy hàng dài bằng ván. Bức vách phía sau quầy hàng là những giá ngăn đầy chảo thiếc, bình, đèn cứng, đèn treo và những súc vải màu. Cạnh bức vách khác là những chiếc cày, những thùng đinh, những cuộn kẽm gai và lủng lẳng trên vách là những chiếc cưa, những chiếc búa, rìu cùng các loại dao. Ngay trên quầy hàng có một bánh phô mai lớn tròn màu vàng và trên nền nhà phía trước quầy là một thùng hoa quả giầm, một thùng gỗ lớn đầy bánh qui giòn và hai khạp kẹo cao bằng gỗ. Đây là loại kẹo Giáng sinh và đầy những hai khạp lớn. Đột nhiên, cánh cửa phía sau cửa hàng bật mở và Nellie Oleson cùng đứa em trai Willie chạy ào vào. Nellie nhăn mũi trước Laura và Mary còn Willie la lên: - Chà! Chà! Những con dẽ giun cẳng dài! Ông Oleson lên tiếng: - Câm ngay, Willie! Nhưng Willie không chịu im. Nó vừa chạy đi vừa hét: - Dẽ giun! Dẽ giun! Nellie bước vụt qua bên Mary và Laura tới thọc tay vào khạp kẹo. Willie học tay vào một khạp khác. Cả hai vục kẹo đầy tay và đứng nhồi vào trong miệng. Chúng đứng ngay trước Mary và Laura, nhìn hai cô chăm chăm và không chia cho ai một chiếc kẹo nào. Ông Oleson nói: - Nellie! Con với Willie ra khỏi đây ngay! Chúng tiếp tục nhai ngấu nghiến những chiếc kẹo trong miệng và nhìn Mary với Laura. Ông Oleson không chú ý tới chúng. Mary đưa tiền cho ông và ông trao cho cô tấm bảng. Ông nói: - Các cháu cũng còn cần một cây viết chì. Ở đây có sẵn. Một xu thôi. Nellie nói: - Chúng làm gì có nổi một xu. Ông Oleson nói: - Được mà, cứ lấy đi rồi nói cho bố biết để khi bố các cháu tới thị trấn lần sau ông ấy trả tiền cũng được. Mary nói: - Dạ thôi, cảm ơn ông! Cô quay ra và Laura bước theo cùng rời khỏi cửa hàng. Tới cửa Laura nhìn trở lại. Nellie đối mặt với cô. Lưỡi Nellie kẻ sọc xanh sọc đỏ vì kẹo. Mary nói: - Chúa ơi! Chị không thể nào tồi tàn như con bé Nellie Oleson đó. Laura nghĩ: - Mình thì có thể. Mình sẽ tồi tệ với nó hơn hẳn nó tồi tệ với chị em mình, nếu bố mẹ cho phép. Các cô cùng ngắm mặt bằng nhẵn bóng màu xám nhạt và mép viền bằng gỗ phẳng, cân đối ghép khít vào các góc. Đây là một tấm bảng ít có. Nhưng các cô còn cần một cây viết trên bảng. Bố đã phải tiêu quá nhiều tiền để mua bảng cho các cô nên các cô không muốn xin thêm bố một xu nữa. Các cô bước đi một cách bình thản cho tới khi Laura đột nhiên nhớ ra những đồng xu Giáng sinh của các cô. Các cô vẫn giữ những đồng xu mà các cô đã thấy trong những chiếc vớ vào buổi sáng Giáng sinh ở vùng đất người da đỏ. Mary có một xu và Laura có một xu nhưng các cô chỉ cần một xu để mua cây viết bảng. Vậy là các cô quyết định Mary sẽ đem đồng xu của cô ra mua cây viết và sau đó cô được làm chủ nửa đồng xu của Laura. Sáng hôm sau các cô mua cây viết chì nhưng không mua ở cửa hàng của ông Oleson. Các cô mua ở cửa hàng của ông Beadle và bưu điện là nơi cô giáo ở và sáng hôm đó các cô đi tới trường cùng với cô giáo. Trọn thời gian các cô đến trường là những tuần lễ nóng bức kéo dài, nhưng mỗi ngày các cô lại thấy thích thú hơn. Các cô thích đọc, thích viết, thích làm toán. Các cô thích các buổi chiều thứ sáu viết chính tả. Và Laura rất thích giờ ra chơi khi các cô bé cùng ùa ra giữa nắng gió chơi đùa hoặc đi hái những bông hồng dại đồng cỏ. Đám con trai chơi trò chơi của con trai ở một phía trường còn các cô bé chơi ở một phía khác trong lúc Mary ngồi với mấy cô gái lớn giống các tiểu thư đài các trên bậc tam cấp. Các cô bé luôn chơi trò vòng-nhảy-bông-hồng do Nellie Oleson nhắc. Tất cả đã nản với trò chơi này nhưng luôn tiếp tục chơi cho tới một bữa trước khi Nellie kịp lên tiếng nhắc thì Laura chặn ngang: - Mình chơi trò chú John đi! Các cô bé nắm tay nhau reo hò: - Chơi đi! Chơi đi! Nhưng Nellie chộp cả hai bàn tay lên mái tóc dài của Laura giật ngả cô dài trên đất. Nellie hét lớn: - Không! Không! Tao muốn chơi trò vòng-nhảy-bông-hồng! Laura chồm dậy và bàn tay vung nhanh như chớp đánh về phía Nellie. Nhưng cô sực nhớ lời bố dặn là không bao giờ được đánh ai và ngưng lại kịp. Christy giữ cả hai bàn tay Laura, nói: - Chơi thôi, Laura! Mặt Laura nóng như bốc lửa và cô nhìn không rõ nhưng cô cùng các bạn nhảy vòng quanh Nellie. Nellie hất những lọn tóc lên và vuốt lại nếp váy theo cung cách thường có. Rồi Christy bắt đầu hát và tất cả hòa theo: - Chú đau John nằm ép rẹp. Gửi chú món gì cho vui? Nellie hét lên the thé: - Không! Không! Nhảy-vòng-bông-hồng đi! Không thì tao khỏi chơi! Cô vẹt vòng người bước ra nhưng không ai bước theo. Christy lên tiếng: - Tốt thôi, bồ vào giữa đi, Maud! Tất cả lại bắt đầu hát: Chú đau John nằm ép rẹp Gửi chú món gì cho vui? Bánh kẹp thêm chiếc bánh ngọt Thêm táo và bánh bột nhồi Xếp lên thứ gì để gửi? Kiếm ngay chiếc đĩa vàng mười Ai sẽ gửi quà tới chú? Đúng con gái ông chủ rồi Con gái ông chủ đi vắng Ai sẽ gửi quà tới nơi? Tới đó, tất cả các cô bé đồng loạt hô lớn: - Nhò Laura Ingalls thôi! Laura bước vào giữa trong vòng và tất cả nhảy múa xung quanh cô. Các cô chơi trò chú John cho tới lúc cô giáo rung chuông. Nellie đã ở trong lớp học đang khóc và cô nói đã tức điên đến mức không bao giờ còn nói năng gì với Laura và Christy nữa. Những tuần lễ sau đó, cô lại mời tất cả các cô gái tới dự hội ở nhà cô vào buổi chiều thứ bảy. Đặc biệt, cô mời cả Laura và Christy. Chương 22: Buổi Hội Thành Phố Laura và Mary chưa từng tham dự một buổi hội nên không rõ buổi hội như thế nào. Mẹ bảo đó là lúc thoải mái nhất để cùng bạn bè họp mặt. Sau buổi học ngày thứ sáu, các cô giặt quần áo và mũ. Sáng thứ bảy các cô ủi quần áo và treo lên. Cả hai cùng tắm vào buổi sáng hôm đó thay vì chờ tới buổi tối. Lúc các cô đã mặc quần áo dự hội và bước xuống cầu thang, mẹ nói: - Các cô ngọt ngào và xinh đẹp như những bó hoa vậy. Mẹ thắt lại dải buộc tóc cho các cô và nhắc các cô không được làm mất. Mẹ nói: - Rồi, bây giờ thì hãy tỏ ra ngoan ngoãn và nhớ giữ gìn cách cư xử. Khi tới thị trấn, các cô ghé kiếm Cassie và Christy. Cassie và Christy cũng không bao giờ được dự hội. Tất cả rụt rè bước vào cửa hàng của ông Oleson và ông Oleson nói với các cô: - Vào trong nhà đi! Thế là các cô băng qua những hũ kẹo bánh, hoa quả giầm, những chiếc cày để tới cửa sau của cửa hàng. Cửa mở và Nellie đứng đó với trang phục lễ hội tề chỉnh còn bà Oleson mời các cô vào. Laura chưa từng thấy một gian phòng tuyệt hảo như thế. Cô khó khăn lắm mới lên tiếng nổi để « Chào bà Oleson » và « Dạ, thưa bà » rồi « Không, thưa bà ». Toàn thể nền nhà được phủ một loại vải dầy gây cảm giác thô nhám dưới bàn chân trần của Laura. Vải phủ nền màu nâu và xanh lục với những hình trang trí màu đỏ và vàng ở bên trên. Các bức vách và trần đều làm bằng những tấm ván hẹp, nhẵn thín ghép lại thật khít với những đường viền ở giữa. Bàn và ghế làm bằng thứ gỗ màu vàng sáng bóng như gương với những chiếc chân tròn hoàn hảo. Trên các bức vách có nhiều hình ảnh màu. Bà Oleson nói bằng một giọng kiểu cách: - Mời các cô vào phòng ngủ để cất nón mũ. Khung giường cũng bằng thứ gỗ sáng bóng. Ở đó còn có hai món đồ khác. Một món là những ngăn kép xếp chồng lên nhau với hai chiếc ngăn kéo nhở ở trên cùng có hai mảnh gỗ khác cong lên giữ ở chính giữa một tấm gương soi lớn. Món đồ kia có một chiếc bình sứ đặt trong một chiếc đĩa sứ lớn ở trên mặt và có thêm một chiếc đĩa sứ nhỏ với một miếng xà phòng ở bên trong. Cả hai gian phòng đều có các ô cửa sổ gắn kính và màn cửa làm bằng vải ren trắng tinh. Sau gian phòng phía trước là một gian chái lớn có đặt một lò bếp giống như chiếc lò bếp mới của mẹ cùng đủ loại bình và chảo thiếc treo trên các bức vách. Lúc này tất cả các cô bé đều có mặt và chiếc váy của bà Oleson kệu sột soạt giữa các cô. Laura muốn ngồi im ngắm mọi thứ nhưng bà Oleson nói: - Này, Nellie, mang các đồ chơi của con ra đi. Nellie nói: - Mọi người có thể chơi đồ chơi của Willie được mà. Willie la lớn: - Không ai được đụng tới chiếc xe đạp của tôi. Nellie nói: - Được, tất cả chỉ chơi chiếc thuyền Noah và những thằng lính của mày thôi. Và bà Oleson phải nạt cho Willie im. Chiếc thuyền của già Noah là điều kì diệu nhất mà Laura được nhìn thấy. Các cô quỳ gối, kêu ré lên, rồi la hét vào cười nói. Trên đó có những con ngựa vằn, những con voi, những con cọp, những con ngựa và đủ các loài vật giống như hình ảnh trong cuốn Kinh thánh bìa mỏng ở nhà. Và lại có hai đạo quân gồm các người lính bằng thiếc mặc quân phục màu xanh nhạt và màu đỏ tươi. Còn có thêm một hình nhân nhào lộn. Hình nhân được cắt bằng một miếng ván mỏng có chiếc áo nịt và chiếc quần dài bằng giấy kẻ sọc gắn dính vào bằng hồ dán. Mặt hình nhân sơn trắng với hai gò mà đỏ hoét, cặp mắt ve vòng tròn xung quanh và đội một chiếc mũ cao nhọn hoắt. Nó đeo lủng lẳng giữa hai thanh gỗ mỏng màu đỏ và khi các thanh gỗ bị bóp lại thì hình nhân nhảy. Hai bàn tay của nó nắm lấy những sợi dây xoắn lại. nó lộn nhào trên những sợi dây rồi đứng cắm đầu xuống với các ngón chân thọc vào trong mũi. Ngay cả các cô gái lớn cũng bàn tán, la hét về những con vật, những thằng lính và cười ngặt nghẽo tới chảy nước mắt vì anh hề nhào lộn. Rồi Nellie bước vào giữa đám, nói: - Các bồ hãy coi con búp bê của tớ. Con búp bê có đầu bằng sứ với cái miệng và đôi má đỏ hoe nhẵn bóng. Mắt búp bê đen láy và mái tóc bằng sứ gợn sóng cũng có màu đen. Hai bàn tay búp bê bằng sứ bé xíu và mấy bàn chân cũng bằng sứ nhỏ teo đặt trong những chiếc giầy đen cũng bằng sứ. Laura kêu lên: - Ôi! Con búp bê đẹp quá chừng! Ôi, Nellie, tên nó là gì? Nellie đáp: - Nó chẳng là gì cả mà chỉ là một con búp bê cũ thôi. Tớ cóc lưu tâm tới con búp bê cũ này. Các bồ chờ coi con búp bê sáp của tớ. Cô liệng con búp bê sứ vào một ngăn kéo và lấy ra một chiếc hộp dài. Cô đặt chiếc hộp lên giường và mở nắp. Tất cả các cô bé đều nghiêng người để ngó. Con búp bê nằm đó giống như một người thực. Mái tóc màu vàng với những lọn tóc mềm mại xõa trên chiếc gối nhỏ. Cặp môi hơi hé để hở hai hàm răng trắng nhỏ. Mắt nó nhắm nghiền. Con búp bê đang nằm ngủ trong hộp. Nellie nhấc nó lên và nó mở mắt ra, những con mắt lớn màu xanh lơ. Hình như nó đang mỉm cười. Nó đưa hai cánh tay ra và gọi: - Mama! Nellie giải thích: - Nó kêu khi nào tớ bóp bụng nó. Coi này! Cô nhấn mạnh nắm tay vào bụng con búp bê và con búp bê tội nghiệp kêu lớn: - Mama! Búp bê mặc áo lụa xanh da trời. Chiếc váy của nó y hệt váy thật được trang trí bằng những nếp gấp vá các viền ren, còn quần lót cũng là chiếc quần lót nhỏ hệt như quần thực. Trên các bàn chân nó là những chiếc giầy da thực màu xanh, nhỏ xíu. Suốt thời gian đó, Laura không nói nổi lời nào. Cô không thể nói được. Cô còn thực sự không có ý nghĩ sờ nhẹ vào con búp bê phi thường đó, nhưng ngoài hẳn ý nghĩ của cô, ngón tay cô vươn tới lớp áo lụa màu xanh. Nellie kêu rú lên: - Không được đụng vào nó! Lấy bàn tay ra xa con búp bê đi, Laura Ingalls! Rồi chụp vội lấy con búp bê, cô xoay lưng lại không cho Laura nhìn thấy cô đặt con búp bê vào trong hộp. Mặt Laura như bốc lửa và các cô gái khác không biết phải làm gì. Laura bước tới ngồi xuống một chiếc ghế. Các cô khác nhìn Nellie đang dặt chiếc hộp vào ngăn kéo và đóng lại. Sau đó tất cả ngắm các con vật, những người lính và bóp cho chú hình nhân hề nhào lộn. Bà Oleson bước vào và hỏi vì sao Laura không chơi. Laura nói: - Cảm ơn bà, cháu thích ngồi đây hơn. - Cháu có thích coi những thứ này không? Bà Oleson hỏi và đặt hai cuốn sách lên đùi Laura. Laura nói: - Cảm ơn bà! Cô lật những trang sách một cách cẩn thận. Một cuốn không hẳn là sách vì rất mỏng và không có bìa. Đó là một tạp chí dành cho trẻ em. Cuốn kia là một cuốn sách dày, bìa sáng và trên bìa có một bà già đội mũ chóp nhọn cưỡi trên một cây chổi bay ngang mặt trang vàng rực lớn. Phía trên đầu của bà già có một hàng chữ lớn, NGỖNG MẸ. Laura không biết trên đời lại có những cuốn sách kì diệu như thế. Mỗi trang trong cuốn sách đều có một bức hình và một bài thơ. Laura có thể đọc được một vài câu trong đó. Cô quên bẵng luôn buổi hội. Đột nhiên, bà Oleson lên tiếng: - Tới đây, cô bé. Không thể để mọi người ăn hết bánh chứ, phải không? Laura lúng túng: - Dạ… thưa…Không, thưa bà! Một tấm vải trắng láng bóng phủ kím mặt bàn. Trên đó là một ổ bánh ngọt làm bằng đường trắng rất đẹp và những chiếc ly cao. Nellie la lớn trong lúc chộp một phần bánh lớn nhất: - Tớ lấy phần lớn nhất! Các cô khác ngồi chờ bà Oleson chia phần bánh cho mình. Bà đặt mỗi phần lên một chiếc điã sứ. - Nước chanh có đủ ngọt không? Bà Oleson hỏi. Nhờ vậy Laura được biết nước chanh sẽ được đựng trong những chiếc ly. Cô chưa bao giờ được nếm một thứ gì như thế. Mới đầu cô thấy nước khá ngọt, nhưng sau khi ăn một ít đường trên miếng bánh, cô lại thấy nước chanh trở thành chua. Nhưng tất cả các cô đều lễ phép trả lời bà Oleson: - Dạ, cảm ơn bà! Các cô cẩn thận không để cho vụn bánh rơi trên khăn bàn và cũng không dám để một giọt nước chanh nào rớt xuống. Đã tới giờ phải trở về và Laura nhớ ra câu nói mà mẹ đã dặn phải nói: - Cảm ơn bà Oleson. Cháu đã có một buổi hội rất thoải mái. Tất cả các cô bé khác cũng nói như vậy. Khi ra khỏi cửa hàng, Christy nói với Laura: - Tớ mong là lúc nào đó bồ đập cái con Nellie Oleson bần tiện kia. Laura nói: - Ô, không! Không được! Nhưng tớ sẽ làm với nó! Suỵt! Đừng để Mary biết tớ đã nói điều này. Jack đang một mình chờ bên khúc suối cạn. Hôm nay là ngày thứ bảy và Laura đã không cùng chơi với nó. Nó phải chờ thêm một tuần lễ nữa mới có một ngày khác để cùng chơi dọc bên dòng suối Plum. Các cô kể lại với mẹ về buổi họp mặt và mẹ nói: - Mình không thể nhận sự tiếp đãi mà không mời lại. Mẹ đang nghĩ tới điều này đó, các con. Các cô phải mời Nellie Oleson và các bạn khác tới họp mặt ở đây. Có lẽ vào thứ bảy tới. Chương 23: Buổi Họp Mặt Đồng Quê Laura hỏi Christy, Maud và Nellie: - Các bồ tới dự họp mặt ở nhà tớ chứ? Trong lúc đó Mary mời các cô gái lớn. Tất cả đều nói sẽ tới. Sáng thứ bảy đó, căn nhà mới xinh đẹp một cách khác thường. Jack không được đi trên sàn nhà đã được lau chùi. Các ô cửa sổ sáng trưng, những tấm màn cửa viền màu hồng sạch như mới và trắng tinh. Laura và Mary cắt những chuỗi sao giấy mới cho các ngăn giá và mẹ làm những chiếc bánh ngọt xốp. Mẹ làm với trứng đánh và bột trắng. Mẹ nhỏ trứng và bột vào một chảo mỡ đang sôi. Mỗi chiếc bánh lớn dần lên lay động nổi lên cho tới khi tự lật lại đưa phần dưới nở phồng sậm màu mật lên. Lúc này phần đang chìm bên dưới lại phồng lên cho tới khi chiếc bánh thành hình tròn và mẹ dùng nĩa lấy ra. Mẹ cất hết bánh vào trong ngăn tủ để dành cho buổi họp mặt. Laura và Mary cùng với mẹ, bé Carrie thay quần áo sẵn sàng chờ đón khách mời từ thị trấn tới. Laura còn chải lông cho Jack mặc dù nó luôn sạch sẽ và rất đẹp với bộ lông màu trắng có điểm những chồng lông ngắn màu nâu. Nó đi theo Laura tới khúc suối cạn. Các cô bé kép tới cười nói, té nước lớn lấp lánh ánh nắng, ngoại trừ Nellie. Cô phải cởi giày, vớ ra và than phiền là sỏi làm đau các bàn chân cô. Cô nói: - Tớ không đi chân đất. Tớ phải đi giầy và vớ. Cô mặc một chiếc áo mới và gắn những nơ bướm lớn trên băng buộc tóc. - Jack đây hả? Christy hỏi và tất cả xúm lại bắt tay nó, khen nó là con chó ngoan. Nhưng khi nó vẫy đuôi mừng Nellie thì cô gắt: - Lui ra! Đừng đụng đến áo của tao! Laura lên tiếng: - Jack không đụng đến áo của bồ đâu. Tất cả đi ngược lên lối mòn giữa những thảm cỏ và những chùm hoa dại đang lay động trong gió tới chỗ mẹ đứng chờ. Mary giới thiệu từng cô bạn với mẹ và mẹ mỉm cười thật dễ thương cùng từng người trò chuyện. Riêng Nellie phủi phủi chiếc áo mới và nói với mẹ: - Đương nhiên cháu không mặc chiếc áo đẹp nhất để tới dự một buổi họp mặt ở nhà quê như thế này. Lúc đó, Laura không còn lưu tâm tới những gì mẹ đã nhắc và cũng không nghĩ tới chuyện sẽ bị bố trách phạt. Cô sẽ phải tính toán với Nellie về chuyện này. Nellie không thể nói năng với mẹ theo cách đó. Mẹ chỉ mỉm cười và nói: - Chiếc áo này rất đẹp, Nellie. Chúng tôi rất vui thấy cháu đã tới. Nhưng Laura sẽ không tha cho Nellie. Các cô bé đều thích căn nhà xinh xắn. Nhà thật sạch sẽ và thoáng mát với những làn gió nhẹ đưa hương cỏ ngọt thơm từ đồng cỏ tới. Các cô leo cầu thang lên thăm cán gác xếp riêng của Laura và Mary. Không cô bé nào có một thứ như thế. Nhưng Nellie hỏi: - Búp bê của các bồ đâu? Laura sẽ không khoe con búp bê Charlotte bằng vải với Nellie Oleson. Cô nói: - Tớ không chơi búp bê. Tớ chơi trong suối. Thế là tất cả đi ra cùng Jack. Laura dắt cả đám tới xem lũ gà con bên các đồng cỏ khô, ngắm các luống rau xanh trong vườn và cánh đồng lúa mì đang vươn lên dầy đặc. Các cô chạy xuống đồi tới khoảng bờ thấp bên suối Plum. Ở đó là hàng liễu, là cây cầu nhỏ, là dòng thác đổ ra từ dưới bóng của các bụi mận, chảy lan trên các cồn sỏi với những viên đá cuội phản chiếu lấp lánh rồi chảy ầm ĩ dưới cây cầu trút vào vùng nước sâu ngập đầu gối. Mary và mấy cô gái lớn đi chậm chậm theo bé Carrie. Nhưng Laura, Christy, Maud và Nellie kéo váy lên trên đầu gối đi theo dòng nước lạnh đang chảy. Ngang những cồn sỏi, từng bầy cá nhỏ đang bơi lượn tránh xa chỗ nước xao động, ồn ào. Mấy cô gái lớn đặt bé Carrie bước trên chỗ nước cạn lấp lánh ánh nắng và cùng lượm những viên đá cuội dọc bờ suối. Các cô bé thì bám theo nhau qua cây cầu. Các cô chạy trên thảm cỏ ấm áp rồi lại lội xuống nước. Và trong lúc đang chơi, Laura đột nhiên nảy ra ý nghĩ phải làm một điều gì đó với Nellie. Cô dẫn các bạn lôi về phía có hang của con cua già. Tiếng động và tiếng nước văng khiến nó chiu vào nằm dưới tảng đá. Laura đã nhìn thấy những chiếc càng kẹp giận dữ của nó và cía đầu màu xanh nâu ló ra nên cô dẫn Nellie tới gần. Đúng lúc đó cô đá mạnh tảng đá và kêu thất thanh: - Ui da, Nellie! Nellie, coi kìa! Con cua già sấn tới ngón chân Nellie, mở lớn chiếc càng kẹp để kẹp. - Chạy! Chạy! Laura hét thất thanh đẩy Christy và Maud về phía cây cầu, còn cô chạy theo Nellie. Nellie kinh hoàng đâm đầu chạy thẳng vào vùng nước bùn phía dưới bụi mận. Laura ngừng lại trên một cồn sỏi nhìn về phía tảng đá có hang cua. Cô nói: - Chờ coi, Nellie! Bồ cứ đứng đó. Nellie hỏi: - Ôi, con gì vậy? Con gì vậy? Nó đang đến hả? Cả áo và váy của cô đều nhúng trong nước bùn. Laura nói với cô: - Đó là một con cua già. Càng lớn của nó đã bẻ gãy đôi một cành cây lớn. Nó có thể kẹp đứt rời các ngón chân của tụi mình. Nellie hỏi: - Ô, nó đâu rồi? Nó có đang tới không? - Bồ cứ đứng im đó đi. Laura nói rồi bước đi chầm chậm, dừng lại, nhìn quanh. Con cua già đã chui lại vào dưới tảng đá nhưng Laura không nói điều đó. Cô đi thật chậm về hướng cây cầu trong lúc Nellie đứng chờ trong vũng nước dưới bụi mận. Rồi cô quay trở lại và nói: - Bây giờ thì bồ ra được rồi. Nellie đi tới chỗ nước sạch. Cô nói cô không thích dòng suối già ghê tởm kia và sẽ không chơi thêm ở đây nữa. Cô gột sạch bùn trên váy rồi rửa tới các bàn chân và cô hét lên thất thanh. Những con vật hút máu màu bùn đang bám vào ống chân và bàn chân cô. Cô không thể rửa cho chúng rơi ra. Cô thử nắm lấy một con và thế là cô hết hồn vùng chạy lên bờ suối. Cô đứng lại đá hết sức mạnh một bàn chân, rồi bàn chân khác và hét không ngừng. Laura cười ngặt nghẽo và lăn lên mặt cỏ. Vừa cười cô vừa hô lớn: - Ô, coi kìa, coi! Coi Nellie đang nhảy! Tất cả đều chạy tới. Mary nhắc Laura gỡ giúp Nellie mấy con đỉa nhưng Laura lờ đi. Cô tiếp tục lăn lộn và cười. Mary quát: - Laura! Đứng lên và gỡ mấy con đỉa đó ra, không thì chị mách mẹ đó. Lúc đó Laura mới bắt đầu giúp Nellie gỡ mấy con đỉa. Tất cả các cô gái đứng nhìn và kinh hãi khi thấy cô kéo nó dài ra, dài thêm, dài thêm mãi. Nellie gào lên: - Tao không thích buổi họp mặt này. Mẹ vội vã chạy tới xem chuyện gì đang xảy ra. Mẹ nhắc Nellie đừng khóc nữa vì vài con đỉa có đáng gì mà phải khóc. Mẹ nói đã tới giờ tất cả cần trở về căn nhà. Bàn ăn được bày một cách khá đẹp với tấm khăn trải màu trắng đẹp nhất của mẹ. Những chiếc ghế dài được rút ra khỏi hai bên cạnh bàn. Những chiếc ly thiếc sáng bóng đầy món kem sữa lạnh lấy từ hầm chứa và chiếc đĩa lớn chất đống những chiếc bánh xốp màu mật. Bánh xốp không ngọt nhưng béo, giòn và rỗng ở bên trong. Mỗi chiếc giống như một chiếc bong bóng lớn và khi cắn vào thì giòn tan trong miệng. Các cô ăn mãi và ăn mãi những chiếc bánh xốp. Các cô nói chưa khi nào được nếm một món ăn ngon thế và hỏi mẹ đây là thứ bánh gì. Mẹ nói: - Bánh xốp. Vì nó phồng lên, xốp xộp, giống như không có gì ở bên trong hết. Có rất nhiều bánh nên các cô có thể ăn cho tới khi không còn ăn thêm được và mặc sức uống sữa ngọt ướp lạnh. Rồi buổi họp mặt chấm dứt. Tất cả các cô bé đều nói cảm ơn, ngoại trừ Nellie. Nellie vẫn như đang lên cơn điên. Laura không lưu tâm tới điều đó. Christy níu lấy cô và thì thầm vào tai: - Tớ không bao giờ vui tới thế! Nellie đáng bị như vậy! Sâu thẳm trong lòng mình, Laura cảm thấy hài lòng khi cô nghĩ tới lúc Nellie nhảy nhót trên bờ suối. Chương 24: Đi Nhà Thờ Đó là tối thứ bảy và bố ngồi trên bậc cửa hút tẩu thuốc sau bữa ăn tối. Laura và Mary ngồi sát hai bên bố. Mẹ ôm Carrie đu dưa nhẹ nhẹ đi qua đi lại ngay phía trong cửa. Trời đứng gió. Các ngôi sao hạ thấp xuống và tỏa sáng. Nền trời tối sẫm xa thẳm mù mịt phía sau các ngôi sao và dòng suối Plum thủ thỉ một mình. Bố nói: - Chiều nay trong thị trấn người ta nói là ngày mai sẽ có buổi lễ tại ngôi nhà thờ mới. Anh đã gặp nhà truyền giáo địa phương là giáo sĩ Alden và ông ấy muốn mình đến dự lễ. Anh đã hứa với ông ấy. Mẹ la lên: - Ô, Charles! Đã lâu lắm rồi mình không tới nhà thờ. Laura và Mary chưa bao giờ nhìn thấy một ngôi nhà thờ. Nhưng qua giọng nói của mẹ, các cô biết đi nhà thờ quan trọng hơn đi dự hội rất nhiều. Một lát sau, mẹ nói: - Em mừng là em đã may xong chiếc áo mới. Bố nói với mẹ: - Em sẽ ngọt ngào như một bông hoa ở trong đó. Mình phải đi sớm. Sáng hôm sau là một buổi sáng vội vã. Vội vã ăn sáng, vội vã làm mọi việc, rồi mẹ vội vã mặc quần áo và mặc quần áo ncho Carrie. Mẹ hướng lên cầu thang gọi vội vã: - Xuống đi, các con gái. Mẹ sẽ thắt dải buộc tóc cho. Các cô vội vã chạy xuống. Rồi các cô đứng sững ngắm mẹ. Mẹ tuyệt vời trong chiếc áo mới. Áo may bằng vải chúc bâu đen trắng, một sọc trắng hẹp lại tới một sọc đen rộng hơn. Dựng đứng phía trước áo là một hàng nút màu đen. Và chiếc váy kéo lại với những chỗ phồng lại ở phía sau. Dải cổ áo nhỏ có thêu đường viền ren buông dài xuống chiếc nơ bướm trên ngực mẹ và cây ghim bằng vàng cài cổ áo vào chiếc nơ. Gương mặt mẹ thật dễ thương. Má mẹ ửng đỏ và hai mắt long lanh. Mẹ xoay người Laura và Mary mau chóng thắt băng buộc tóc trên bìm tóc của các cô. Rồi mẹ nắm lấy bàn tay Carrie. Mấy mẹ con bước ra bậc cửa và mẹ khóa cửa lại. Bé Carrie giống như một thiên sứ chim nhỏ trong Kinh thánh. Áo và mũ của bé đều màu trắng và tất cả đều gắn thêm các viền ren. Mắt bé lớn và nghiêm nghị. Những lọn tóc vàng của bé rũ xuống hai bên mà và bỏ ra ở phía sau mũ. Rồi Laura nhìn thấy dải băng hồng của mình trên bím tóc của Mary. Cô bịt vội bàn tay vào miệng trước khi một tiếng kêu thoát ra. Cô ngó đầu xuống phía sau gáy. Những dải băng màu xanh của Mary đang ở trên bím tóc của cô. Cô và Mary nhìn nhau không nói một tiếng nào. Mẹ đã lộn vì quá vội vã. Các cô hy vọng mẹ không nhận ra điều này vì Laura đã nản với dải băng màu hồng còn Mary thì nản với các dải băng màu xanh. Nhưng Mary phải đeo dai dẳng màu xanh vì tóc cô vàng và Laura phải mang băng màu hồng vì tóc cô màu nâu. Bố đã lái xe từ chuồng ngựa ra. Bố chải lông cho Sam và David bóng mượt dưới ánh nắng sáng. Lũ ngựa bước đi kiêu hãnh, hất cao đầu trong lúc bờm và đuôi như gợn sóng. Một chiếc khăn sạch phủ trên ghế xe và một chiếc chăn khác trải trên đáy thùng xe. Bố cẩn thận giúp mẹ leo lên bánh xe. Bố nhấc bé Carrie đặt vào lòng mẹ rồi hất mạnh Laura lên thùng xe kkhie61n bím tóc cô tung bay. Mẹ kêu lên: - Ô, hỏng rồi! Mẹ đã buộc lầm băng tóc cho Laura! Bố lên tiếng: - Anh chẳng bao giờ chú ý đến một con ngựa đang chạy. Vậy là Laura hiểu cô có thể mang những dải băng buộc tóc màu xanh. Ngồi bên cạnh Mary trên chiếc khăn trải trên đáy thùng xe, cô kéo các bím tóc lên trước vai. Mary cũng làm vậy và các cô mỉm cười với nhau. Laura có thể thấy những dải băng xanh mỗi khi nhìn xuống cũng như Mary sẽ nhìn thấy những dải băng hồng. Bố đang huýt gió và khi Sam và David khởi hành thì bố bắt đầu hát: Sáng chủ nhật trời trong Vợ kề sát bên chồng Một cỗ xe lướt nhẹ Dường dài vẫn ung dung - Charles! Mẹ gọi khẽ và khiến bố nhớ lại hôm nay đúng là ngày chủ nhật. Rồi cả hai cùng hát: Có một vùng ngập tràn hạnh phúc Nằm thật xa, xa thật là xa Nơi thần thánh vinh quang ngự trị Suốt ngày đêm ánh sáng chói lòa! Dòng suối Plum vươn khỏi những nhánh liễu lan dài phản chiếu ánh nắng chói chang. Sam và David phóng qua những cồn sỏi cạn lấp lánh. Những giọt nước long lanh văng lên và những gợn sóng tỏa ra từ các vành bánh xe. Rồi chúng xoải vó trên đồng cỏ mênh mông vô tận. Cỗ xe lăn nhẹ dọc theo con đường chỉ là những vết mờ trên thảm cỏ xanh. Chim đang hót những điệu hót mừng nắng sớm. Ong rung cánh vo vo và những con ong nghệ lớn vàng khè chập chờn từ đóa hoa này qua đóa hoa khác trong lúc từng bầy châu chấu nối nhau bay đi. Không bao lâu họ đã tới thị trấn. Xưởng rèn còn đóng cửa im lìm. Các cửa hàng cũng đóng cửa. Chỉ có một số người gồm cả đàn ông, đàn bà ăn mặc chỉnh tề cùng với những đứa trẻ cũng ăn mặc chỉnh tề đi dọc hai bên phố Main làm bụi. Họ đều hướng về phía nhà thờ. Nhà thờ Laura một tòa nhà mới dựng gần trường học. Bố lái xe băng qua đồng cỏ hướng thẳng tới đó. Nhà thờ giống nhưu trường học ngoại trừ bên trên mái có một phòng nhỏ bằng thiếc không có vách xung quanh và bên trong cũng chẳng có gì. Laura hỏi: - Cái gì vậy? Mẹ nói: - Đừng chỉ chỏ, Laura. Đó là tháp chuông. Bố dừng ngựa ngay trước cổng vòm cao của nhà thờ. Bố giúp mẹ bước xuống xe còn Laura và Mary chỉ bước tới sát bên thùng xe. Các cô chờ ở đó trong lúc bố đưa xe vào trong bóng mát của ngôi nhà thờ, tháo dây cho Sam và David và cột chúng vào thùng xe. Mọi người đang tới, băng qua các đám cỏ, trèo lên các bậc tam cấp để vào nhà thờ. Phía trong nhà thờ có tiếng sột soạt nhẹ nhàng trang trọng. Cuối cùng bố đã tới. Bố ẵm bé Carrie trên tay và đi cùng mẹ vào nhà thờ. Laura và Mary bước khẽ sát phía sau bố mẹ. Tất cả ngồi thành một hàng trên một chiếc ghế dài. Nhà thờ hoàn toàn giống như trường học, ngoại trừ cái cảm giác trống rỗng, rộng rãi lạ lùng. Mỗi tiếng ồn nhỏ cũng dội vang từ các bờ vách mới thành tiếng ồn. Một người đàn ông cao gầy đứng phía sau chiếc bàn cao kê trên bục. Ông mặc y phục đen, thắt cà-vạt đen và râu tóc bao quanh khuôn mặt ông cũng tối sầm. Giọng ông dịu dàng và tử tế. Tất cả những cái đầu đều cúi xuống. Giọng nói của người đàn ông nhắc tới Chúa trời một hồi lâu trong lúc Laura ngồi bất động nhìn vào chiếc băng màu xanh buộc trên bím tóc. Đột nhiên, ngay bên cạnh cô, một giọng nói cất lên: - Đi theo tôi! Mẹ gật đầu với các cô nên Laura và Mary trượt ra khỏi chiếc ghế dài. Các cô không hề biết sẽ có một buổi học vào ngày chủ nhật. Thiếu phụ dẫn các cô tới một góc phòng. Tất cả các cô bé ở trường đều có mặt và đều đưa mắt nhìn nhau dò hỏi. Thiếu phụ kéo những chiếc ghế dài xung quanh để làm thành một khuôn vuông. Bà ngồi xuống và kéo Laura với Christy tới bên cạnh. Khi tất cả các cô bé đã ngồi vào chỗ trên những chiếc ghế dài quây vuông, thiếu phụ tự giới thiệu tên bà là Tower rồi hỏi tên của các cô bé. Sau đó, bà nói: - Bây gời, tôi sẽ kể cho các cháu nghe một câu chuyện. Laura rất thoải mái. Nhưng bà Tower đã bắt đầu: - Đây là câu chuyện về một em bé ra đời đã lâu lắm ở mãi xứ Ai Cập. Em bé có tên là Moses. Thế là Laura không chú ý nghe thêm điều gì nữa. Cô đã biết mọi chuyện về Moses trong Kinh thánh. Ngay cả bé Carrie cũng biết chuyện đó. Sau câu chuyện, bà Tower mỉm cười nhiều hơn và nói: - Bây giờ chúng ta sẽ cùng học một đoạn Kinh thánh! Diều này dễ chịu chứ? - Dạ, thưa bà. Tất cả đều lên tiếng. Bà đọc một đoạn Kinh thánh lần lượt cho từng cô bé. Các cô phải học thuộc đoạn này để chủ nhật sao đọc lại cho bà nghe. Đó là bài học cho buổi học ngày chủ nhật. Khi tới lượt Laura, bà vuốt ve cô, mỉm cười ấm áp và dịu dàng gần giống như mẹ. Bà nói: - Cô gái bé nhất này sẽ có một bài học nhỏ nhất. Đây là một đoạn cực ngắn trong kinh thánh. Lúc đó Laura đã biết đó là đoạn nào. Nhưng những con mắt của bà Tower mỉm cười và bà nói: - Nó chỉ có đúng ba tiếng thôi. Bà đọc mấy tiếng đó và hỏi: - Cháu nghĩ liệu coi cháu có nhớ nổi suốt một tuần không? Laura kinh ngạc về bà Tower. Nhờ cái gì mà bà có thể nhớ hết những đoạn Kinh thánh dài và nhớ hết thảy những bài ca! Nhưng cô không muốn làm hư những cảm nghĩ cũng bà Tower. Vì vậy cô nói: - Dạ, thưa bà. Bà Tower nói: - Đúng là con gái nhỏ của ta! Nhưng Laura là con gái nhỏ của mẹ. Bà Tower nói tiếp: - Tôi sẽ nhắc cho cháu để cháu nhớ. Chỉ ba tiếng thôi. Bây giờ cháu có thể nhắc theo tôi không? Laura bối rối. Bà Tower khuyến khích: - Cố lên! Laura cúi đầu thấp hơn và cô thì thầm đoạn Kinh thánh. Bà Tower nói: - Tốt lắm! Thôi, cháu hãy ráng nhớ kỹ và nhắc lại cho tôi vào ngày chủ nhật tới. Laura gật đầu. Sau đó, mọi người đứng lên. Tất cả đều mở miệng và cố hát: « Jerusalem, đất hứa ». Không có mấy người thuộc lời và biết điệu bài ca. Những đường ngoằn nghòe khổ não rúc dọc sống lưng Laura và bên trong tai cô lùng bùng. Cô mừng khi tất cả lại được ngồi xuống. Lúc đó người đàn ông cao gầy đứng lên và nói. Laura có ý nghĩ là ông ta không bao giờ ngưng lại cả. Cô nhìn qua các ô cửa sổ mở về phía những con bướm đang nhởn nhơ bay lượn. Cô ngắm những thảm cỏ ngả nghiêng theo gió và lắng nghe tiếng gió nỉ non rầu rĩ dọc các gờ mái nhà. Rồi cô ngắm những dải băng tóc màu xanh lơ, ngắm từng chiếc móng tay và say mê nhìn xem cách nào sẽ ghép khít những ngón tay trên các bàn tay. Cô chĩa thẳng các ngón tay ra cho giống góc một căn nhà gỗ. Cô ngắm mặt dưới những tấm ván lợp ở trên đầu. Chân cô nhức buốt vì cứ đu đưa mãi. Cuối cùng mọi người đều đứng lên và lại cùng hát. Đã tới lúc buổi lễ chấm dứt, không còn cần thêm điều gì nữa và tất cả có thể trở về. Người đàn ông cao gầy đứng bên cửa ra vào. Ông chính là giáo sĩ Alden. Ông bắt tay mẹ, bắt tay bố và trò chuyện. Rồi ông nghiêng người xuống bắt tay Laura. Hàm răng của ông mỉm cười giữa bộ râu tối sậm. Ông hỏi: - Cháu có thích ngày chủ nhật không, Laura? Đột nhiên Laura cảm thấy thích. Cô nói: - Dạ, thưa ngài! Ông nói: - Rồi đây cháu sẽ phải có mặt vào mỗi ngày chủ nhật. Chúng tôi nhờ cháu đó. Và Laura biết là ông thực sự chờ cô. Ông sẽ không quên cô. Trên đường về nhà, bố nói: - Này, Caroline! Thật thoải mái khi cùng với cả một đám đông đều cố làm một điều tốt đúng như mình muốn. Mẹ nói, đầy vẻ biết ơn: - Đúng vậy, Charles! Sẽ có một niềm vui nhìn về phía trước trọn tuần lễ tới. Bố xoay người trên chỗ ngồi và hỏi: - Các cô nghĩ thế nào về lần đầu tiên tới nhà thờ, các con gái? Laura nói: - Không ai hát nổi hết. Bố cười rổn rảng như tiếng chuông rền. Rồi bố giải thích: - Không ai bắt nhịp một bản thánh ca bằng mấy thanh sắt gõ nhịp. Mẹ nói: - Charles, bây giờ người ta có những tập sách thánh ca mà. Bố nói: - Phải rồi, có lẽ chúng ta sẽ đủ sức tặng một vài cuốn vào một ngày nào đó. Sau đó, các cô có mặt đều đặn trong các buổi học ngày chủ nhật. Cứ ba hay bốn chủ nhật các cô tới học thì giáo sĩ Alden lại có mặt ở đó một ngày chủ nhật, và đó là ngày chủ nhật có lễ giảng của nhà thờ. Giáo sĩ Alden thực sự sống trong một giáo đường ở miền đông. Ông không thể thường xuyên tới ngôi nhà thờ này vì đây là nơi thuôc đoàn truyền giaó miền tây. Dù sao cũng không còn những ngày chủ nhật mệt mỏi, buồn nản dài lê thê vì đã có những buổi học ngày chủ nhật để tới lớp và được chuyện trò sau đó. Những ngày chủ nhật tuyệt vời nhất là những ngày chủ nhật có mặt giáo sĩ Alden. Ông luôn nhớ Laura và Laura thì nhớ ông mọi lúc. Ông gọi Mary và Laura là « những cô bé quê ». Rồi một ngày chủ nhật trong lúc bố mẹ cùng Laura và Mary đang ngồi ngồi ăn trong bữa ăn trưa và nói về buổi học ngày chủ nhật hôm đó thì bố nói: - Nếu anh chen vào giữa cái đám người áo quần chỉnh tề đó thì anh phải có một đôi ủng mới. Em ngó coi! Bố duỗi bàn chân ra. Chiếc ủng vá của bố hở lổ dài tới ngón chân. Tất cả đều nhìn rõ chiếc vớ ngắn màu đỏ của bố dưới những kẽ nứt. Các mép da đã mòn và uốn cong tới những kẽ hở. Bố nói: - Không còn vá sửa nổi nữa. Mẹ nói: - Ô, Charles! Em đã muốn anh mua ủng mà anh lại mang về một tấm vải chúc bâu cho em. Bố nảy ra một ý nghĩ: - Anh sẽ có một đôi mới khi anh ra thị trấn vào thứ bảy tới. Giá một đôi là ba đôla nhưng mình sẽ có cách để có trước khi anh gặt vụ lúa mì. Suốt tuần lễ đó, bố lo cắt và phơi cỏ. Bố đã giúp ông Nelson đánh đống cỏ khô và được ông Nelson cho sử dụng chúng máy cắt cỏ mau lẹ, hoàn hảo của ông. Bố nói đang ở trong thời tiết tuyệt nhất để gom cỏ khô. Bố chưa bao giờ thấy cái nắng mùa hè khô như vậy. Laura không thích tới trường. Cô muốn được theo bố ra ngoài đồng để ngắm cỗ máy kì diệu vào dàn lưỡi dài nghiến ken két sau những vành bánh và cắt qua những luống cỏ lớn. Sáng thứ bảy cô ngồi trên thùng xe ra đồng giúp bố khuân những đống cỏ khô cuối cùng. Hai cha con ngắm cánh đồng lúa mì mọc cao vượt hơn Laura. Những bông lúa lởm chởm trĩu cong do sức nặng của những hạt lúa đang chín. Hai cha con ngắt ba bông lúa dài chắc hạt đem về nhà cho mẹ coi. Bố nói khi gặt hái xong, họ không những trả hết nợ mà còn dư tiền để mua sắm. Bố cần có một cỗ xe ngựa. Mẹ cần có một chiếc áo lụa, cả nhà đều cần có giày mới và thịt bò để ăn vào mỗi ngày chủ nhật. Sau bữa ăn trưa, bố mặc chiếc áo sơ-mi sạch và lấy ba đôla ra khỏi hộp đàn. Bố sẽ vào thị trấn để mua đôi ủng mới. Bố đi bộ vì mấy con ngựa phải làm việc suốt tuần nên bố để chúng nghỉ cho lại sức. Chiều hôm đó bố trở về nhà rất muốn. Laura thấy bố đang lên đồi và cô cùng Jack chạy thẳng từ chỗ hang con cua già dưới suối về nhà sát ngay sau bố. Mẹ dang lo lấy đợt bánh hấp ngày thứ bảy ra khỏi lò hấp cũng lật đật rời lò quay ra. Mẹ hỏi: - Ủng của anh đâu? Bố nói: - Xong rồi, Caroline! anh đã tới gặp giáo sĩ Alden và ông ấy kể cho anh nghe là ông ấy đã không có đủ tiền để đặt chiếc chuông trên tháp chuông. Dân khắp thị trấn đã góp tới những đồng xu cuối cùng mà ông ấy vẫn còn thiếu ba đôla. Vì vậy, anh đã biếu tiền cho ông ấy. Mẹ kêu lên: - Ôi, Charles! Bố nhìn xuống chiếc ủng nứt nẻ. Bố nói: - Anh sẽ và lại. Anh có thể vá bằng một cách nào đó. Và em biết chứ, ngay ở đây mình cũng sẽ nghe rất rõ tiếng chuông nhà thờ. Mẹ quay rất nhanh về phía lò bếp còn Laura lặng lẽ ra ngồi trên bậc cửa. Họng cô như nghẹn lại. Cô đã mong muốn bố có đôi ủng mới biết chừng nào. Cô nghe thấy như bố đang nói với mẹ: - Đừng nghĩ ngợi gì nữa, Caroline. Cũng không phải đợi lâu mới tới mùa gặt lúa mì đâu. Chương 25: Đám Mây Chói Lọi Đã tới lúc sẵn sàng cắt lúa mì. Hằng ngày bố ra thăm đồng. Hằng đêm bố nói về vụ lúa và cho Laura coi một vài bông lúa dài với những hạt lúa chắc nịch. Những hạt lúa no tròn nằm dính cứng trong lớp vỏ trấu. Bố bảo thời tiết thật hoàn hảo cho lúa chín. Bố nói: - Cứ giữ đúng như vầy thì tuần sau mình sẽ khởi sự cắt lúa. Thời tiết rất nóng. Trời như cao hơn, mỏng ra và chỉ nhìn cũng thấy bốc nóng. Không khí như những lớp sóng dâng lên khắp đồng cỏ tựa đồng cỏ là một lò bếp nóng. Trong lớp, đám trẻ le lưỡi thở hổn hển không khác lũ rắn mối và trên các vách dính đầy nước trái cây. Sáng thứ bảy, Laura theo bố ra thăm đồng lúa mì. Lúa đã cao gần ngang với bố. Bố nhấc cô ngồi lên vai để có thể nhìn thấy những ngọn lúa nặng chĩu uốn cong. Cả cánh đồng hiện ra màu vàng xanh. Trong giờ ăn trưa, bố nói với mẹ về đồng lúa. Bố chưa từng thấy một mùa lúa như thế. Mỗi mẫu phải được bốn mươi thùng và giá lúa đang là một đôla một thùng. Vậy là họ giàu rồi. Đây là một vùng quê kì diệu. Họ sắp có mọi thứ mà họ cần. Laura lắng nghe và nghĩ bây giờ thì bố sẽ có đôi ủng mới. Cô ngồi quay về phía khung cửa mở và nắng xuyên qua đó. Nắng giống như đang bị một cái gì đó làm mờ đi. Nó cứ mờ thêm tới nỗi như không còn nắng nữa. Mẹ nói: - Em tin là sắp có bão. Bố vội đứng lên bước ra cửa. Một trận bão có thể phá hư lúa mì. Bố quan sát rồi bước hẳn ra ngoài. Anh sáng có vẻ rất lạ. Giống hệt như ánh sáng thay đổi trước một trân bão. Những không khí không bị dồn nén như trước lúc có bão. Laura cảm thấy sợ mà không biết vì sao. Cô chạy ra chỗ bố đang đứng nhìn lên trời. Mẹ và Mary cũng chạy ra và bố hỏi: - Em thấy đó là gì, Caroline? Một đám mây đang che khuất mặt trời. Đám mây không giống bất kỳ đám mây nào mà mọi người từng thấy từ trước. Nó giống như một cụm tuyết những rất lớn, mỏng manh và chói sáng. Ánh sáng dọi qua từng mảnh nhỏ lấp lánh. Trời đứng gió. Có đứng im lìm và bầu không khí nóng không xao động nhưng mép đám mây lan trên bầu trời nhanh hơn gió. Lông cổ Jack dựng đứng lên hết. Lập tức nó sủa lên đám mây một tiếng khủng khiếp, một tiếng vừa như gầm gừ và như rên rỉ. Bốp! Một cái gì đập trên đầu Laura và rơi xuống đất. Cô nhìn xuống và thấy một con châu chấu cực lớn so với những con châu chấu mà cô từng thấy. Rồi hàng loạt châu chấu màu nâu kếch sù rơi xuống xối xả khắp xung quanh, đập mạnh trên đầu, trên mặt, trên các cánh tay cô. Chúng rơi xuống lộp độp như một trận m7 đá. Đám mây là một đám châu chấu dồn tụ lại. Đám mây chính là châu chấu. Thân hình chúng che khuất mặt trời và tạo thành một vùng tối. Những chiếc cánh mỏng mở rộng tỏa sáng lấp lánh. Tiếng đập cánh rào rào của chúng lan khắp vùng và tiếng va chạm các chúng vào mặt đất và vào ngôi nhà giống như tiếng của một trận mưa đá dữ dội. Laura cố xua chắn chúng, nhưng chúng vẫn bám vào áo, vào da cô. Chúng nhìn cô bằng những cặp mắt lộ ra và đảo đầu lia lịa. Mary kinh hoàng vùng chạy vào nhà. Châu chấu bao kín mặt đất không còn chừa một mảnh trống nhỏ nào để mọi người đặt chân. Laura bước đạp lên chúng, xéo chúng lầy nhầy dưới bàn chân. Mẹ chạy đi đóng sập tất cả các cửa sổ xung quanh nhà. Bố đứng ngay trong khung cửa ra vào và nhìn ra. Laura và Jack đứng bên cạnh bố. Châu chấu từ trên trời lao xuống chất đầy nhung nhúc khắp mặt đất. Những chiếc cánh dài của chúng gấp lại và ngựa c83ng chân mạnh mẽ của chúng đưa chúng phóng đi mọi phía. Không khí vang động tiếng cánh vù vù và mái nhà bị va đập ầm ĩ như dưới một cơn bão kèm theo mưa đá. Rồi Laura nghe thấy một tiếng động khác, một tiếng động lớn hợp thành bởi hàng loạt ngựa tiếng gặm cạp và nhai nghiến li ti. Bố bỗng kêu lên: - Lúa mì! Bố tuôn ra cửa sau và chạy thẳng về đồng lúa mì. Đám châu chấu đang ăn lúa mì. Bình thường không thể nghe rõ tiếng nhai của một con châu chấu trừ phi cho nó một cọng cỏ và lắng nghe thật kĩ. Nhưng lúc này có hàng triệu triệu con châu chấu đang ăn và tiếng nhai nghiến của hàng triệu triệu chiếc hàm nổi lên thật rõ. Bố đang chạy ngược về chuồng ngựa. Qua ô cửa sổ, Laura thấy bố thắng Sam và David vào xe. Bố lôi đống cỏ dơ từ đống phân bón lên thùng xe cực nhanh. Mẹ chạy ra mang theo một chiếc nĩa tới giúp bố. Rồi bố lái xe chạy ra đồng và mẹ chạy theo sau xe. Bố đánh xe chạy vòng quanh đồng lúa liệng xuống những đống cỏ nhỏ rải rác trên lối đi. Mẹ cúi xuống từng đống một rồi từ đó một cụm khói bay lên và tỏa rộng. Mẹ đốt đống này qua đống khác. Laura nhìn cho tới khi một vùng khói dầy che khuất cả cánh đồng cùng với bố mẹ và cỗ xe. Châu chấu vẫn tiếp tục rớt xuống từ trên trời. Ánh sáng vẫn nhạt nhòa vì châu chấu còn phủ kín mặt trời. Mẹ đã quay về nhà và vào trong gian chái đóng kín cửa lại, cởi bỏ giũ hết châu chấu bám ra giết đi. Mẹ đã đốt lửa quanh khắp đồng lúa mì. Khói từ những đống lửa này có thể sẽ ngăn không cho châu chấu tới ăn lúa. Mẹ cùng Laura và Mary dều im lặng trong căn nhà đóng kín ngột ngạt. Carrie khóc thét lên ngay cả khi đã được mẹ ôm trong tay. Bé khóc đòi ru ngủ. Phía ngoài các bức vách, tiếng châu chấu nghiến cạp vẫn vang lên. Rồi bóng tối tan dần. Mặt trời lại chiếu sáng. Khắp mặt đất là những đám châu chấu đang trườn bò, phóng nhảy. Chúng đang ăn tất cả những chồi cỏ ngắn mềm trên đồi. Những vùng cỏ cao trên đồng đã bị bẻ cong hoặc ngã gục. Laura nhìn xuống qua ô cửa sổ và nói: - Ô, coi kìa! Châu chấu đang ăn những ngõn liễu. Những chùm lá liễu chỉ còn là những chồi nhánh gầy guộc trơ trụi giơ ra. Châu chấu bu trên các cành liễu như những tảng băng dóng cục lại và ăn sạch lá. - Chị không muốn nhìn thêm nữa. Mary nói rồi quay đi khỏi cửa sổ. Laura cũng không muốn nhìn thêm nhưng cô không thể không nhìn. Lũ gà mái tỏ ra rất thích thú. Hai con gà mái và bầy gà con lóng ngóng đang thả sức chộp bắt châu chấu. Chúng vươn dài cổ phóng đuổi sát phía sau những con châu chấu và táp. Mỗi khi vươn cổ ra là chúng tóm được một con châu chấu. chúng có vẻ ngạc nhiên và cứ vươn cổ ra chạy đi khắp mọi phía. Mẹ nói: - Được, mình khỏi phải mua thức ăn cho gà. K có cái nào thua lỗ lớn nào lại không đem lại một cái lợi nhỏ. Những luống rau xanh trong vườn đều rũ xuống. Khoai tây, cà rốt, củ cải đường và các thứ đậu dều bị ăn sạch. Những lá bắp dài bị ăn chỉ còn lại cuống lá và những chùm bông cùng những chiếc bắp non trong lớp bẹ xanh bị rơi xuống phủ đầy châu chấu. Không ai có thể làm được gì để ngăn chặn những điều đó. Khói vẫn che kín đồng lúa. Thỉnh thoảng Laura nhìn thấy bố thấp thoáng qua lại trong đó. Bố khơi những đống lửa đang âm ỉ cháy cho khói bốc lên dầy hơn để lại che khuất cả bố. Tới giờ đi đón Spot, Laura mang giầy, vớ và choàng thêm chiếc khăn sam. Spot đang đứng trong một đoạn suối Plum cạn lắc lắc người và ve vẩy đuôi. Bầy bò đi một cách buồn nản xuống phía bên kia căn nhà hầm cũ. Laura chắc rằng chúng không thể nào gặm nổi đám cỏ dầy đặc châu chấu như thế. Còn nếu châu chấu ăn hết cỏ thì bầy bò sẽ chết đói. Châu chấu bám đầy trên váy, áo và khăn san của cô. Cô chỉ phủi chúng không cho bám trên mặt và hai bàn tay. Giầy của cô và móng chân của Spot xéo rau ráu trên những con châu chấu. Mẹ choàng một chiếc khăn san đi ra ngoài vắt sữa. Mẹ mang theo một miếng vải để phủ thùng sữa nhưng hai mẹ con không thể phủ kín thùng khi vắt sữa. Mẹ phải dúng một chiếc ly thiếc vợt những con châu chấu rơi vào sữa. Châu chấu theo hai mẹ con ùa vào nhà. Quần áo của hai đều đầy châu chấu. Một số nhảy lên lò bếp nóng mà Mary đang lo nấu bữa tối. Mẹ phải phủ kín các món ăn cho tới khi xua ra và chà hết những con châu chấu. Mẹ quét xác châu chấu dồn lại xúc đổ vào lò bếp. Bố trở về nhà chỉ đủ ăn xong bữa tối trong lúc Sam và David ăn xong bữa của chúng. Mẹ không hỏi han về điều đã xảy ra trong đồng lúa mì. Mẹ chỉ mỉm cười và nói: - Đừng lo, Charles! Chúng mình luôn xoay sở được. Bố thấy khé cổ và mẹ nói: - uống thêm một ly trà sữa đi, Charles. Nó sẽ giúp cho khói không làm anh bị khé cổ. Uống xong ly trà, bố lại quay ra đồng lúa mì cùng với những đống cỏ khô và phân bò khác. Nằm trên giường, Laura và một vẫn nghe rõ tiếng cánh vỗ rào rào cùng với tiếng nhai nghiến. Laura cảm thấy những cẳng châu chấu đang bám vào người cô. Trên giường không có châu chấu, nhưng cô không thể rũ bỏ nổi cảm giác bị cào xước trên má, trên tay. Cô nhìn thấy trong bóng tối những cặp mắt châu chấu lồi ra và cảm thấy những móng chân của chúng đang trườn bò cho tới khi cô ngủ thiếp đi. Bố không có mặt ở dưới nhà vào buổi sáng hôm sau. Suốt đêm bố đốt lửa để giữ cho khói luôn phủ kín đồng lúa mì và bố không về ăn sáng. Bố vẫn đang làm việc. Toàn thể đồng cỏ đổi khác hẳn. Cỏ không còn gợn sóng mà đổ rạp thành luống. Mặt trời vươn lên khiến khắp đồng cỏ lởm chởm bóng của những khóm cỏ cao chồng chéo lên nhau. Hàng liễu hoàn toàn xơ xác. Những bụi mận chỉ còn một vài chồi mận treo lủng lẳng trên những cành trụi lá. Tiếng động gặm nhấm cạp nghiến của lũ châu chấu vẫn tiếp tục vang lên. Buổi trưa bố lái xe ra khỏi vùng khói hun. Bố đưa Sam và David vào chuồng và bước chầm chậm về nhà. Mặt bố nám khói đen kịt còn hai mắt bố thì đỏ hoe. Bố treo mũ lên chiếc móc phía sau cửa ra vào và ngồi xuống bên bàn ăn. Bố nói: - Vô ích, Caroline! Khói không ngăn nổi chúng. Chúng rơi thẳng từ trời xuống và phóng nhảy từ mọi hướng vào. Lúa mì đang rũ hết rồi. Chúng cắt ngang giống như một chiếc phảng và ăn sạch hết, kể cả rơm. Bố tì khuỷu tay lên mặt bàn và úp mặt vào hai bàn tay. Laura và Mary ngồi im. Chỉ riêng bé Carrie ngồi trên chiếc ghế cao khua chiếc muỗng ầm ĩ và đưa bàn tay nhỏ xíu về phía ổ bánh. Bé quá nhỏ nên chưa hiểu gì. Mẹ nói: - Đừng nghĩ ngợi nữa, Charles! mình đã qua nhiều lúc khó khăn hơn rồi mà. Laura nhìn xuống đôi ủng vá của bố dưới gầm bàn và cô thấy nghẹn đau trong họng. Bây giờ bố không thể có ủng mới. Hai bàn tay của bố không còn úp vào mặt mà cầm lấy dao và nĩa. Bộ râu của bố mỉm cười nhưng mắt bố không sáng lên. Chúng buồn bã và đờ đẫn. Bố nói: - Đừng lo, Caroline, mình sẽ ráng hết sức và mình sẽ qua khỏi bằng một cách nào đó. Lúc đó Laura bỗng nghĩ tới món nợ căn nhà mới chchu7tra3 được. Bố đã hứa trả hết món nợ này vào lúc bố gặt lúa. Đó là một bữa ăn lặng lúc và khi bữa ăn chấm dứt, bố nằm luôn trên nền nhà, ngủ thiếp đi. Mẹ luồn một chiếc gối xuống dưới đầu bố và đưa một ngón tay lên môi ra dấu nhắc Laura và Mary im lặng. Các cô đưa bé Carrie vào phòng ngủ và giữ cho bé im lặng với những con búp bê giấy. Chỉ có một thứ tiếng động duy nhất là tiếng châu chấu đang ăn. Ngày qua ngày đám châu chấu tiếp tục ăn. Chúng ăn hết lúa mì, lúa mạch. Chúng ăn hết những thứ có màu xanh, tất cả rau trong vườn và cỏ ngoài đồng. Laura hỏi: - Ô, bố, lũ thỏ sẽ ra sao? Và những con chim tội nghiệp nữa? Bố nói: - Hãy nhìn xung quanh, Laura. Lũ thỏ không còn đó. Đám chim nhõ vẫn lẩn quẩn trên những ngọn cỏ cũng vắng bóng. Những con chim còn ở lại thì đang ăn châu chấu. Và bầy gà gô trên đồng cỏ cũng vươn cổ dài đang chộp châu chấu. Ngày chủ nhật tới, bố cùng Laura và Mary đi bộ tới dự buổi học ngày chủ nhật. Nắng chói và quá nóng nên mẹ bảo mẹ phải ở nhà với Carrie còn bố để Sam và David nghỉ lại trong chuồng có bóng mát. Đã lâu không có mưa nên Laura có thể bước trên nhưng hòn đá khô băng ngang suối Plum. Khắp cánh đồng trơ trụi và sậm nâu. Hàng triệu châu chấu màu nâu bay rào rào sát mặt đất. Khắp nơi không còn một thứ màu xanh trong tầm mắt. Laura và Mary hất phủi châu chấu bằng mọi cách. Khi các cô tới nhà thờ, những con châu chấu nâu bám đầy trên áo váy. Các cô kéo vạt áo rũ văng chúng xuống trước khi bước vào nhà thờ, Nhưng dù các cô hết sức cẩn thận, những con châu chấu vẫn nhả những chất nước lá thuốc trên các tấm áo chủ nhật đẹp nhất của các cô. Không thứ gì tẩy sạch nổi những vết dơ khủng khiếp này. Các cô bắt buộc phải mặc những chiếc áo đẹp nhất với những chấm dơ màu nâu. Nhiều người trong thị trấn đang chuẩn bị về miền đông. Christy và Cassie phải ra đi. Laura chào tạm biệt Christy còn Mary chào tạm biệt Cassie, hai người bạn thân nhất của các cô. Các cô không tới trường nữa. Các cô phải giữ giày lại cho mùa đông và các cô không thể chịu nổi đạp chân trần trên những con châu chấu. Vả lại, khóa học cũng sắp chấm dứt và mẹ bảo mẹ sẽ dạy các cô qua mùa đông để các cô không bị tụt lớp khi trường học mở cửa lại vào mùa xuân tới. Bố đi làm cho ông Nelson để được sử dụng cây cày của ông ấy. Bố bắt đầu cạy khu đồng lúa mì trơ trụi để chuẩn bị sẵn sàng trồng lúa mì ở đó vào năm tới. Chương 26: Trứng Châu Chấu Một bữa, Laura cùng Jack lang thang xuống dưới suối. Mary thích ngồi đọc sách và làm toán trên những tấm bảng, nhưng Laura thấy nản với những thứ đó. Nhưng ngoài trời cảnh sắc cũng tội nghiệp tới mức cô không muốn chơi. Suối Plum gần như cạn khô. Chỉ cò một dòng nước nhỏ rỉ qua đám sỏi cát. Lúc này hàng liễu không còn rũ bóng trên cây cầu nhỏ. Dưới bụi mận không còn lá, nước nổi váng. Con cua già đã đi mất. Dất khô nẻ nóng hực, nắng như lửa thiêu và bầu trời nhuộm màu đồng thau. Những con châu chấu vỗ cánh giống như quạt lửa. Không có một thứ gì có mùi vị dễ chịu. Rồi Laura nhìn thấy một điều kì lạ. Khắp đồi, những con châu chấu đứng bất động với những cái đuôi kéo lê trên đất. Chúng không cục cựa ngay cả khi Laura cời thọc chúng. Cô gạt một con ra xa khỏi chiếc lỗ mà nó đang ngồi ở trên và với chiếc que, cô moi ra khỏi lỗ một vật màu xám. Nó giống một con trùn mập nhưng lại không phải là một vật sống. Cô không biết nó là thứ gì. Jack hửi nó và cũng ngơ ngác. Laura đi thẳng ra đồng lúa tìm bố để hỏi. Nhưng bố không cày đất. Sam và David đứng im với cây cày còn bố đi quanh chỗ đất chưa cày nhìn ngó. Rồi Laura thấy bố đi tới chỗ cây cày nhấc ra khỏi luống. Bố đưa Sam và David về chuồng với cây cày. Laura biết là phải có một điều gì khủng khiếp lắm mới khiến bố bỏ ngang công việc giữa buổi sáng. Cô cực nhanh về phía chuồng ngựa. Sam và David đã ở trong các gióng chuồng và bố đang treo những chiếc yên bóng mồ hôi của chúng lên. Bố bước ra không mỉm cười với Laura. Cô chậm chậm theo sát phía sau bố bước vào nhà. Mẹ nhìn lên hỏi: - Charles, có vấn đề gì vậy? Bố nói: - Châu chấu đang đẻ trứng. Đất bị chúng đục như tổ ong hết. Chỉ cần nhìn ra ngoài sân là em sẽ thấy những lỗ vùi trứng sâu khoảng vài inch đầy khắp. Trên đồng lúa mì cũng thế. Đầy khắp mọi nơi. Chúng dầy đến mức không có một lỗ hở để cắm vừa ngón tay. Em coi đây này! Bố lấy ra một vật màu xám từ trong túi và cầm trong lòng bàn tay. - Đây là một cái, một bọc trứng châu chấu. Anh đã mở ra và thấy mỗi bọc có từ ba mươi lăm đến bốn mươi trứng. Mỗi lỗ có một bọc và một bộ vuông có khoảng tám tới mười bọc. Trên khắp vùng này sẽ có bao nhiêu! Mẹ rớt khỏi ghế và buông xuôi cả hai tay. Bố tiếp: - Mình không còn cơ may nào gieo trồng mùa tiếp để mà xoay sở. Khi những trứng này nở ra thì không còn một vật màu xanh nào tồn tại nổi trên khắp vùng đất này. Mẹ nói: - Ôi, Charles! Mình sẽ làm gì? Bố buông người xuống ghế dài, nói: - Anh không biết nữa. Những bím tóc của Mary đu đưa bên mép lỗ cầu thang và cô ló mặt nhìn xuống Laura lo ngại trong lúc Laura nhìn lên cô. Rồi Mary bước xuống cầu thang không gây một tiếng động. Cô đứng sát bên Mary dựa lưng vào vách. Bố đứng thẳng lên. Cặp mắt lờ đờ của bố lóe lên một tia sáng dữ dội khác hẳn tia sáng mà Laura vẫn thường thấy lóe lên trong ánh mắt bố. Bố nói: - Nhưng anh biết điều này, Caroline! không một đám châu chấu gây rối hỗn loạn nào có thể thắng được mình! Mình sẽ làm một điều gì đó! Rồi em sẽ thấy! Mình sẽ xoay sở được bằng một cách nào đó. Mẹ nói: - Phải đó, Charles! Bố tiếp: - Sao lại không nhỉ? Mình đều khỏe mạnh, mình đã có một mái nhà ở trên đầu, mình khá hơn rất nhiều so với nhiều nông dân khác. Em lo bữa ăn trưa sớm đi, Caroline. Anh sẽ ra thị trấn. Anh sẽ tìm ra một điều gì đó để làm. Em đừng lo! Trong lúc bố ra thị trấn, mẹ cùng Mary sắp xếp làm cho bố một bữa ăn tối thật ngon. Mẹ đun nóng xoong sữa chua và làm những miếng phomai trắng mềm khá đẹp. Mary và Laura xắt mỏng những củ khoai tây luộc để nguội và mẹ làm nước sốt. Ngoài ra còn có bánh mì, bơ và sữa. Rồi tất cả tắm rửa, chải tóc. Các cô đều mặc những bộ quần áo đẹp nhất và buộc băng buộc tóc. Bè Carrie mặc chiếc áo trắng, tóc chải mượt và đeo quanh cổ sợi xâu chuỗi bằng những hạt đeo của người da đỏ. Tất cả đều chờ đón khi bố xuất hiện trên ngọn đồi còn đầy châu chấu. Đó là một bữa ăn tối vui vẻ. Khi mọi món ăn đã hết, bố đẩy chiếc điã ra và nói: - Rồi, Caroline! Mẹ hỏi: - Sao, Charles? Bố nói: - Đây là lối thoát: Anh sẽ đi về miền đông vào sáng mai. Mẹ kêu lớn: - Ôi, Charles! Đừng! Bố nói: - Ổn hết rồi, Laura! Câu nói của bố có nghĩa là « đừng khóc! » và Laura không khóc. Bố nói với tất cả: - Mùa vụ phải lui lại. Châu chấu chỉ có khỏang một trăm dặm từ đây về phía đông. Vượt qua khỏi mức đó mùa vụ đang tiếp tục. Đó là cơ hội để có việc làm và tất cả đàn ông ở miền tây dều đổ xô về đó để kiếm việc. Anh phải tới đó thật mau. Mẹ nói: - Nếu anh nghĩ đó là cách duy nhất thì các con và em có thể xoay sở được. Nhưng mà, Charles, đi bộ như thế thì quá cực cho anh! Bố nói: - Chậc! Đi về hai trăm dặm là cái quái gi? Nhưng bố liếc nhanh đôi ủng vá. Laura biết là bố đang tự hỏi coi chúng sẽ chịu đựng được bao nhiêu đoạn đường. Bố nói: - Đi về hai trăm dặm không có gì đáng kể! Rồi bố lấy cây đàn ra khỏi hộp. Bố chơi đàn một hồi lâu to ánh hoàng hôn. Laura và Mary ngồi sát cạnh bố còn mẹ đu đưa bé Carrie ở gần bên. Bố chơi bài « Đất miền Nam », bài « góp mặt dưới cò », bài « Mũ xanh đã tới » rồi bố hát: Hởi Susanna vô vàn yêu dấu Đừng khóc than khi anh bước chân đi Đất Cali nồng nàn vẫy gọi Dù hành trang anh chẳng có thứ gì! Bố chơi tiếp bài: « Hoan hô! Hoan hô! Campbell đang tới ». Rồi bố chơi bài « Cuộc đời yêu dấu » và xếp đàn cất đi. Bố phải ngủ sớm để dậy sớm vào sáng mai. Bố dặn mẹ: - Giữ kĩ cây đàn cũ đó nghe, Caroline! Nó nuôi sống con tim một người đó. Sau bữa điểm tâm, bố ôm hôn tất cả rồi ra đi. Chiếc sơ-mi thượng hạng của bố cùng đôi vớ ngắn được cuốn trong chiếc áo va-rơi đeo lủng lẳng dưới vai bố. Trước khi băng qua suối Plum, bố ngoái nhìn lại và vẫy tay. Rồi bố tiếp tục đi, xa khỏi tầm nhìn và không ngoái đầu lại. Jack đứng áp sát vào Laura. Tất cả đều đứng im thật lâu sau khi bố đi khuất một lúc. Rồi mẹ lên tiếng vui vẻ: - Bây giờ phải lo mọi thứ thôi, các con gái. Mary, Laura! Hãy mau đưa bò ra nhập bầy đi. Mẹ hối hả bước vào trong nhà với bé Carrie trong lúc Laura và Mary chạy tới đưa Spot ra khỏi chuồng, dẫn nó đi về phía dòng suối. Không còn cỏ trên đồng nên bầy bò đói chỉ có thể quanh quẩn dọc theo các bờ suối ăn những chồi liễu, chồi mận và số cỏ khô héo từ mùa hè vừa qua. Chương 27: Mưa Mọi thứ đều tẻ nhạt và buồn chán khi bố vắng mắt, Laura và Mary không còn tính nổi ngày tháng cho tới khi bố trở về. Các cô chỉ nghĩ tới việc bố cứ phải đi xa mãi với những chiếc ủng vá chằng chịt. Lúc này, Jack trở nên điềm tĩnh với chiếc mũi đã ngả màu xám. Nó thường ngó về phía con đường vắng hoe mà bố đã theo đó ra đi rất thở ra một hơi dài và nằm xuống ngóng nhìn. Nhưng nó thực sự không hy vọng thấy bố trở về. Cánh đồng trụi cỏ nằm chết dí dưới nắng gắt. Những lùm bụi điên loạn cuốn lên quay cuồng cùng khắp. Mé bờ xa xa của đồng cỏ giống hệt như một con rắn đang trườn. Mẹ bảo đó là hình ảnh gây ra do làn hơi nóng đang xao động như sóng gợn. Chỉ riêng bên trong nhà là có bóng mát. Những bụi mận, những cây liễu đều không có lá. Dòng suối Plum gần khô nước. Trong các trũng sâu chỉ còn lại một ít nước đọng. Giếng cũng đã cạn và lạch nguồn bên cạnh căn nhà hầm chỉ còn chảy nhỏ giọt. Mẹ đặt một chiếc xô nước vào nhà và đặt thay vào đó một chiếc xô khác hứng tiếp trọn ngày. Khi làm xong công việc buổi sáng, mẹ cùng Mary, Laura và bé Carrie ngồi trong nhà. Những cơn gió nóng rít lên và lũ bò đói cỏ không ngừng la rống. Spot sút hẳn đi. Những khớp xương hông của nó vêu nhọn và tất cả xương sườn phô ra cùng với những hõm sâu quanh nắng. Suốt ngày nó đi bên những con bò khác la rống tìm kiếm một thứu để ăn. Chúng đã ăn trụi những buị cây dọc bên dòng suối và ngắt những chiếc lá liễu ở trên cao mà chúng với tới nổi. sữa của Spot có pha vị đắng và mỗi ngày một ít hơn. Sam và David đứng trong chuồng. Chúng không thể ăn cỏ khô tùy thích vì những đống cỏ khô còn phải để dành cho tới mùa xuân sau. Khi Laura dắt chúng xuống lòng suối cạn tới trũng nước sâu ngày nào, chúng nhăn mũi lại trên lớp nước đầy váng nóng hầm hập. Nhưng chúng phải uống lớp nước đó. Bò và ngựa phải đều chịu chung những điều như thế. Thứ bảy, Laura tới nhà ông Nelson để coi xem có thư của bố gửi về không. Dãy nhà chuồng thấp dài của ông ta có một mái che dầy bằng cỏ khô. Nhà và chuồng ở đây đều khác hẳn căn nhà và khu chuồng của bố. Chúng dựa áp sát vào đất phía dưới một khoảng dốc của đồng cỏ và có vẻ như cố bộc lộ tính chất Nauy. Phía trong nhà sáng trưng. Chiếc giường lớn chồng cao nệm nhồi lông chim với những chiếc gối căng phồng. Trên vách là bức chân dung rất đẹp của một thiếu phụ mặc áo màu xanh lơ. Khung hình thép vàng dày và một lớp lưới muỗi màu hồng phủ kín cả hình lẫn khung để giữ không cho ruồi bay tới. Không có thư của bố. Bà Nelson bảo rằng thứ bảy sau ông Nelson sẽ lại tới hỏi bưu điện. Laura nói: - Cảm ơn bà! Và cô vội vã bước nhanh dọc lối đi. Rồi cô đi chậm lại qua cây cầu nhỏ và chậm hơn nữa lên đồi. Mẹ nhắc: - Đừng nghĩ ngợi gì, các con. Thứ bảy tới sẽ có thư. Nhưng thứ bảy tới vẫn không có thư. Các cô không còn tới dự buổi học ngày chủ nhật. Carrie chưa thể tự mình đi xa như thế và lại quá nặng khiến mẹ không bồng nổi. Laura và Mary cũng phải để dành các đôi giày. Các cô không thể đi chân trần tới buổi học còn nếu mang giày thì sẽ không có giày vào mùa đông tới. Vì vậy vào ngày chủ nhật, các cô mặc những bộ đồ đẹp nhất nhưng không mang giày, không cột dải buộc tóc. Mary và Laura nói về những đoạn Kinh thánh và mẹ đọc cho các cô nghe những đoạn ấy. Một ngày chủ nhật, mẹ đọc cho các cô nghe đoạn nói về dịch do loài châu chấu đem tới thuở xa xưa. Mẹ đọc: - Và giống châu chấu đi khắp vùng lãnh thổ Ai Cập, ngừng chân trên tất cả bờ biển Ai Cập, chúng chính là nỗi hận thù đau đớn. Bởi chúng phủ đầy kín mặt đất khiến đất thành đen tối và chúng ăn sạch từng cọng cỏ trên đất, ăn sạch hoa quả trên cây, trên đồng cỏ trên khắp vùng đất Ai Cập. Laura đã biết sự thật như thế nào. Khi nhắc lại những câu thơ trong đoạn Kinh thánh này cô nghĩ « trên khắp vùng đất Minnesota » Rồi mẹ đọc tới sự hứa hẹn của Chúa với những người tốt lành « sẽ mang những người đó ra khỏi vùng đất tai ương kia để tới một vùng đất an lành, một nơi bao la, một nơi mà sữa và mật tuôn trào như suối chảy ». Mary hỏi: - Ô, đó là đâu? Và Laura cũng hỏi: - Đất có thể phun ra sữa và mật như thế nào? Cô muốn đạp chân lên sữa và chất mật dính láp nháp. Mẹ đặt cuốn Kinh thánh lên đầu gối và suy nghĩ. Rồi mẹ nói: - Này, bố các cô đã nghĩ rằng vùng đất đó ở ngay đây trong vùng Minnesota. Laura hỏi: - Làm sao có thể như thế được? Mẹ nói: - Có thể lắm chứ, nếu chúng ta biến nó thành như thế. Này nhé, Laura, nếu những con bò cái cho sữa ăn no cỏ trên khắp vùng đất này, chúng sẽ cho một lượng sữa rất lớn như thế chính là đất đã tuôn ra sữa. Những con ong đi hút mật trên tất cả những bông hoa dại mọc lên ở khắp vùng đất này và cho mật thì có khác gì đất đã tuôn ra mật. Laura nói: - Ôi! Con mừng là mình sẽ không đạp chân lên sữa và mật. Bé Carrie đập những cánh tay nhỏ xíu lên cuốn Kinh thánh và hét: - Em nóng! Em đau! Mẹ nhấc bé lên nhưng bé dẩy mẹ ra và khóc: - Mẹ nóng! Da của bé Carrie tội nghiệp nổi sẩy nóng đỏ. Laura và Mary cũng cảm thấy nực nội trong đủ thứ quần áo, nào áo chẽn, áo lót, váy lót, áo cổ cao, ống tay áo và những băng nịt eo quấn giữa người. Sau gáy các cô, những bím tóc cũng gây cảm giác ngộp thở. Carrie đòi uống nhưng lại đẩy chiếc ly ra và nhăn mặt nói: - Dơ quá! Mary nói với bé: - Uống đỡ đi bé. Chị cũng muốn uống nước lạnh nhưng không có. Laura lên tiếng: - Em mong là em được uống một hớp nước giếng. Mary nói: - Chị mong có một nhũ băng. Laura bỗng nói: - Em ước gì mình là người da đỏ để khỏi phải mặc quần áo. Mẹ nói: - Laura! Đang là chủ nhật, nghe! Laura nghĩ: - Đúng, con biết chứ! Mùi gỗ trong căn nhà cũng nóng hầm hập. Trên tất cả các sọc nâu ở những tấm ván, nhựa cây nhỏ xuống khô lại thành những hạt cứng màu vàng. Gió nóng không ngừng rú và bầy bò không ngừng than vãn. - Bòò-òò, bòò-òò! Jack trở Mary, trút ra một hơi thở dài. Mẹ cũng thở ra và nói: - Mẹ giống như sẵn sàng đổi mọi thứ lấy một chút không khí. Đúng lúc đó, một làn không khí lan vào trong căn nhà. Bé Carrie ngưng khóc. Jack ngển đầu lên. Mẹ nói: - Các cô, có thấy… Liền đó, một hơi mát khác lan tới. Mẹ đi qua gian chái tới phần cuối bóng mát của căn nhà. Laura vội vã chạy theo mẹ và Mary tới dắt bé Carrie. Ngoài trời giống như một lò hấp. Không khí nóng hắt thẳng vào mặt Laura. Mãi góc trời phía bắc có một đám mây. Đám mây nhỏ xíu trong bầu trời chói chang mênh mông. Nhưng nó vẫn là một đám mây và in một vệt bóng mát lên đồng cỏ. Bóng mát dường như chuyển động nhưng có lẽ chỉ là hình ảnh do những gợn sóng hơi nóng. Không, nó thực sự đang tiến tới gần hơn. - Ôi, lạy trời, lạy trời, lạy trời! Laura thầm khấn một cách lặng lẽ. Tất cả đều đưa tay che mắt ngắm đám mây và bóng che của nó. Đám mây tiếp tục tới gần hơn. Nó trở nên lớn hơn, là một vệt đen dầy trong khoảng không trên đồng cỏ. Các cạnh đám mây uốn lại và căng phồng lên thành những khoảng phùng lớn. Lúc này, những đợt không khí lạnh bùng lên hòa với những đợt hơi nóng dữ dội hơn. Trên khắp đồng cỏ, những cột bụi quái đãng bốc lên hỗn loạn dữ dằn với những chiếc vòi đan xoay tít. Mặt trời đang đỏ lửa trên căn nhà, trên chuồng ngựa và trên mặt đất khô nẻ. Bóng của đám mây đã trôi đi. Đột nhiên, một tia lửa trắng vạch loằng ngoằng và một tấm màn xám từ đám mây ụp xuống treo lơ lửng tại đó, che kín hẳn vùng trời phía bên kia. Trời mưa. Rồi tiếng sấm rền lan tới. Mẹ nói: - Mưa ở xa quá, các con. Mẹ sợ là mưa không tới đây được. Nhưng bề gì thì cũng mát hơn. Hương vị mát mẻ của trận mưa thành những đợt hơi lạnh tràn tới xuyên qua làn gió nóng. Laura nói: - Ô, mưa có thể tới đây, mẹ ơi! Có thể mưa tới! Tất cả đều thầm cầu nguyện ở trong đầu: - Lạy trời! Lạy trời! Lạy trời! Gió thổi lạnh hơn. Bóng mây lan rộng mãi một cách từ từ, từ từ. Rồi gần như đám mây tỏa lớn trên bầu trời. Đột nhiên, một bóng mát chòm qua mặt đất khô khốc kéo lên đồi và cấp kì. Sau đó là mưa kéo tới. Mưa xối xuống đồi như có hàng triệu bàn chân nhỏ xíu đang đạp xuống rồi rơi xối xả trên người mẹ, trên người Mary, trên người Laura và bé Carrie. Mẹ kêu lại: - Vào nhà, mau! Tiếng mưa đổ ào ạt trên mái gian chái. Hơi lạnh lùa qua đó ùa vào căn nhà hầm hập. Mẹ mở toang cửa trước, buộc màn treo lên và mở tất cả cửa sổ. Hơi đất ngùn ngụt bốc lên nhưng mưa dập xuống rửa sạch ngay. Mưa như gõ trống trên mái nhà, chảy ròng ròng qua các mái hiên. Mưa gột sạch không khí và một làn hơi mát dịu tràn ngập căn nhà. Laura không còn thấy đầu óc bị đè nặng và cảm thấy da dẻ hết sức dễ chịu. Những dòng nước ngầu bùn chảy dài trên mặt đất khô cứng. Nước tràn qua các vết nứt dìm ngập tất cả. Nước mưa dâng xoáy những lỗ hổng chứa trứng châu chấu và biến những chỗ đó thành bùn lỏng. Trên trời chớp sáng lóe lên và tiếng sấm vang động rền rĩ. Carrie vỗ tay hét lớn. Mary và Laura nhảy nhót cười sảng khoái, Jack vặn người chạy nhốn nháo như một con chó con, nhìn qua từng ô cửa sổ ra ngoài mưa và tiếng sấm nổ lớn kéo dài nó khẽ gừ lên, tựa hồ muốn nói: - Ai mà thèm sợ! Mẹ nói: - Mưa này có thể kéo dài tới tối! Đúng trước khi mặt trời lặn, mưa dứt. Mưa chuyển xuôi theo suối Plum băng qua đồng cỏ về phía đông chỉ còn lưu lại một ít hạt thưa thớt rơi xuống lấp lánh trong ánh nắng chiều. Rồi đám mây chuyển thành màu tím đỏ với những đường viền vàng rực cuốn lên sát bầu trời quang đãng. Mặt trời đã lặn xuống và những ngôi sao hiện ra. Không khí mát lạnh và đất ẩm ướt thoải mái. Chỉ còn một điều duy nhất mà Laura mong ước là bố có mặt ở đó. Hôm sau, mặt trời vươn lên nóng cháy. Bầu trời lại nhuộm màu đồng và gió như thiêu đốt. Trước lúc trời sập tối, những chồi cỏ như những mũi giáo li ti đâm lên từ mặt đất. Chì vài ngày, một sọc màu xanh lục đã kéo ngang mặt đất màu nâu. Cỏ mọc lên ở những nơi mưa xối xuống và bầy bò đang đói mải miết gặm. Mỗi buổi sáng, Laura đưa Sam và David ra buộc vào dây cột để chúng cũng được ăn những ngọn cỏ non. Bầy bò không còn la rống nữa. Những khớp xương của Spot bớt nhô ra. Nó cho sữa nhiều hơn và sữa cũng ngọt hơn. Ngọn đồi phủ màu xanh trở lại và những cây liễu, những cây mận đang trổ lá non. Chương 28: Lá Thư Suốt ngày, Laura luôn nhớ bố và về đêm cô cảm thấy trống rỗng, dau nhức khi nghe tiếng gió thổi đơn độc qua vùng đất tối đen. Lúc đầu, cô hay nói về bố. Cô hỏi lúc này bố đang ở cách xa nhà khoảng bao nhiêu, rồi cô mong là những đôi ủng của bố còn chịu đựng được và cô hỏi tối nay bố đựng trại ở đâu. Về sau cô không nhắc tới bố với mẹ nữa. Mẹ đang nghĩ không ngừng về bố nhưng mẹ không thích nhắc đến điều này. Mẹ không thích ngay cả việc tính ngày cho đến ngày thứ bảy. Mẹ nói: - Thời gian trôi nhanh hơn khi người ta không nghĩ về nó. Suốt ngày thứ bảy, tất cả dều hy vọng ông Nelson nhận được một lá thư của bố gửi qua bưu điện trong thị trấn. Laura và Jack ra tận con đường lớn trên đồng cỏ để ngóng cỗ xe của ông Nelson. Lũ châu chấu đã ăn hết mọi thứ và lúc này đang bay đi xa không thành một đám mây lớn như khi chúng tới mà là nhiều đám mây nhỏ bay từng đoạn ngắn. Dù vậy, vẫn còn hàng triệu con châu chấu ở lại. Lại không có thư của bố. Mẹ nói: - Đừng nghĩ ngợi gì. Rồi thư sẽ tới. Mỗi lần Laura chậm chậm bước ngược lên ngọn đồi mà không có một lá thư, cô đều nghĩ: - Có khi nào không bao giờ có thư không? Cô cố xua đuổi ý nghĩ đó nhưng không làm nổi. Một hôm, cô nhìn Mary và biết rằng Mary cũng đang có cùng ý nghĩ. Đêm đó Laura không thể chịu đựng thêm nổi nữa. Cô hỏi mẹ: - Bố sẽ quay về nhà, phải không mẹ? Mẹ kêu lên: - Dĩ nhiên bố sẽ trở về chứ! Lúc đó, Laura và Mary đều biết mẹ đang sợ có một điều gì đã xảy ra với bố. Có lẽ đôi ủng của bố đã rã ra từng mảnh và bố đang lê khập khễnh những bàn chân trần. Có thể bầy bò đã khiến bố bị đau. Có thể một toa xe lửa đã đụng phải bố. Có thể bố đã gặp nạn với bầy sói vì bố không có súng. Cũng có thể trong rừng đêm tăm tối, một con báo từ ngọn cây đã phóng lên người bố. Chiều thứ bảy kế tiếp, khi Laura dắt Jack ra ngóng ông Nelson, cô thấy ông băng qua cây cầu nhỏ đi tới. Trong tay ông có một cái gì màu trắng. Laura bay thẳng xuống đồi. Vật màu trắng là một lá thư. Laura nói: - Ôi, cảm ơn ông! Cảm ơn ông! Cô chạy không kịp thở vào trong nhà. Mẹ đang lau mặt cho bé Carrie. Mẹ cầm lá thư bằng bàn tay ướt đẫm lóng ngóng và ngồi xuống. Mẹ nói: - Thư của bố. Tay mẹ run đến mức mẹ không lấy nổi chiếc kẹp ra khỏi mái tóc. Mẹ mở bao bì và lôi lá thư ra. Mẹ mở thư và trong đó có một tờ giấy bạc. Mẹ nói: - Bố ổn rồi. Mẹ chụp chiếc tạp dề lên mặt và khóc. Nhưng khuôn mặt đẫm nước của mẹ hiện ra sau chiếc tạp dề sáng rỡ niềm vui. Mẹ lau nước mắt trong lúc đọc thư cho Mary và Laura nghe. Bố phải đi bộ ba trăm dặm trước khi kiếm được một việc làm. Lúc này bó đang làm việc trong đồng lúa mì với số tiền công một đôla một ngày. Bố gửi về cho mẹ năm đôla và giữ lại ba đôla để mua đôi ủng mới. Mùa lúa ở đó rất tốt và nếu mẹ cùng các cô bé xoay sở được ổn thỏa thì bố sẽ ở lại đó làm việc lâu hơn. Cả nhà đều nhớ bố và mong bố trở về. Nhưng bố bình an và đã có đôi ủng mới. Tất cả đều sung sướng trong ngày hôm đó. Chương 29: Giờ Đen Tối Nhất Trước Lúc Bình Minh Lúc này gió thổi lạnh hơn và nắng không còn quá nóng vào buổi trưa. Buổi sáng giá buốt và đám châu chấu nhảy nhót một cách yếu ớt cho tới lúc nắng sưởi ấm cho chúng. Một buổi sáng, sương giá dày phủ khắp mặt đất. Trên từng chồi cây, từng mẫu ván đều có một lớp tơ trắng xuyên xoáy vào những bàn chân của Laura. Cô thấy hàng triệu con châu chấu hoàn toàn bất động. Vài ngày sau, khắp nơi không còn một con châu chấu nào nữa. Mùa đông đã tới gần mà bố không về. Gió lạnh như cắt. Gió không còn gào thét mà rít lên và rên rỉ. Bầu trời u ám và mưa lạnh rơi mù mịt. Mưa đã chuyển thành tuyết và bố vẫn không về. Laura đã phải mang giày mỗi khi ra ngoài. Giày làm bàn chân cô đau nhưng cô không rõ lí do. Giày của Mary cũng làm bàn chân Mary bị đau. Tất cả củi mà bố chẻ sẵn đã hết nên Mary và Laura phải đi lượm những mảnh ván rải rác. Mũi và ngón tay các cô nhức buốt trong lúc các cô lôi những mảnh ván cuối cùng khỏi mặt đất. Bao kín trong những chiếc khăn san, các cô tìm tới những rặng liễu lôi lên những nhánh cành chết khô để gầy một đống lửa nhỏ. Rồi một buổi chiều, bà Nelson tới thăm. Bà bồng theo bé Anna. Bà Nelson tròn trịa và rất xinh xắn. Tóc bà vàng như tóc của Mary, mắt bà màu xanh lơ. Bà luôn tươi cười và khi cười bà để lộ ra hai hàm răng trắng bóng. Laura thấy thích bà Nelson, nhưng cô không vui khi nhìn thấy bé Anna. Anna lớn hơn bé Carrie nhưng không thể hiểu nổi những lời nói của Mary và Laura và các cô cũng không thể hiểu bé nói gì. Bé nói tiếng Nauy. Không thích thú gì khi chơi với bé Anna và suốt mùa hè mỗi khi thấy bà Nelson với bé Anna tới là Mary và Laura chạy xuống bờ suối. Nhưng lúc này trời lạnh nên các cô phải ở lại trong căn nhà ấm áp và chơi với Anna. Mẹ nhắc vậy. Mẹ nói: - Nào các con, đi lấy mấy con búp bê ra và chơi ngoan với bé Anna đi. Laura lấy hộp búp bê giấy mà mẹ cắt ra khỏi giấy bọc và tất cả ngồi xuống nền nhà bên cạnh cửa lò để ngỏ. Anna cười vui khi thấy những con búp bê giấy. Nó thọc tay vào trong hộp lôi ra một hình phu nhân bằng giấy và xé thành hai mảnh. Laura và Mary đều kinh hãi, Carrie trợn tròn mắt nhìn. Mẹ và bà Nelson đang nói chuyện và không nhìn thấy Anna đang ve vẩy hai nửa người giấy cười thích thú. Laura đậy nắp hộp búp bê lại những chỉ một thoáng sau Anna đã chán con búp bê giấy bị xé và đòi xé một con khác. Laura không biết làm gì vá Mary cũng vậy. Nếu không được làm việc bé muốn thì nó sẽ chu chéo ngay. Nó còn quá nhỏ và lại là khách nên các cô không thể để cho nó khóc được. Nhưng nếu chụp được những con búp bê giấy thì nó sẽ xé rách ngay. Lúc đó Mary thì thào: - Đem Charlotte ra. Nó không xé nổi Charlotte đâu. Laura phóng chạy lên cầu thang trong lúc Mary tìm cách giữ cho Anna im lặng. Charlotte thân yêu nằm trong chiếc hộp dưới mái hiên mỉm cười với chiếc miệng bằng chỉ đỏ và đôi mắt nút giày. Laura cẩn thận nhấc nó lên vuốt lại mái tóc gợn sóng kết bằng chỉ đen và kéo lại chiếc váy. Charlotte không có bàn chân và hai bàn tay chỉ là đoạn chót bằng phẳng của cánh tay bởi nó là một con búp bê bằng vải. Nhưng Laura yêu nó vô cùng. Charlotte là của riêng Laura tử buổi sáng Giáng sinh đã lâu rồi khi cả nhà còn ở khu rừng Big Woods thuộc Wisconsin. Laura ẵm nó xuống cầu thang và Anna hét lên khi nhìn thấy. Laura đặt cẩn thận Charlotte vào vòng tay của Anna. Anna ôm nó thật chặt. Ôm chặt cũng không thể làm hư Charlotte. Laura chỉ lo ngại khi nhìn thấy Anna kéo mạnh những con mắt bằng nút giày của Charlotte và kéo những sợi tóc gợn sóng bằng chỉ hoặc đập mạnh nó xuống nền sàn. Nhưng Anna không thể làm hư Charlotte và Laura nghĩ là chỉ cần vuốt thẳng lại các nếp áo và mái tóc khi Anna đi khỏi. Các cô, chuyến viếng thăm dài dặc cũng chấm dứt. Bà Nelson sắp đi và ẵm Anna lên. Lúc đó, điều khủng khiếp nhất đã xảy ra. Anna không chịu trả lại Charlotte. Có lẽ cô bé nghĩ rằng Charlotte là của mình. Cũng có lẽ bé nói với mẹ rằng Laura đã cho bé con búp bê Charlotte. Bà Nelson mỉm cười. Laura thử lấy lại Charlotte thì Anna rú lên. Laura nói: - Búp bê của chị! Nhưng Anna ôm cứng Charlotte, đá đạp và ré lên. Mẹ lên tiếng: - Đừng xấu thế, Laura! Anna còn nhỏ và là khách mà. Dù sao con quá lớn rồi đâu còn chơi búp bê nữa. Cho Anna đi. Laura phải nghe lời mẹ. Cô đứng ở cửa sổ nhìn theo Anna chạy lon ton xuống đồi, đu đưa Charlotte dưới một cánh tay. Mẹ lại nói: - Mắc cỡ quá, Laura. Một cô gái lớn như con mà lại hờn dỗi vì một con búp bê vải. Hãy ngưng ngay trò đó đi. Con đã ít khi chơi với con búp bê đó vì không còn thích nó. Con không nên ích kỉ thế. Laura lặng lẽ leo lên cầu thang và ngồi trên chiếc thùng bên cửa sổ. Cô không khóc, nhưng cô thấy trong người cô đang gào thét vì Charlotte đã đi mất. Bố không có ở nhà và chiếc thùng dành cho Charlotte trống rỗng. Gió đang gào hú bên mái hiên. Mọi thứ đều vắng lạnh. Đêm đó mẹ nói: - Mẹ rất buồn Laura. Mẹ sẽ không cho con búp bê đó nếu mẹ biết con giữ nó kĩ như vậy. Nhưng dù sao chúng ta cũng không nên chỉ nghĩ cho riêng mình. Con hãy nghĩ tới niềm vui mà con đã đem đến cho Anna. Sáng sớm hôm sau, ông Nelson chở tới một đống gỗ mà bố đã cắt. Ông ở lại làm việc suốt ngày, chẻ củi giúp mẹ và chất lên thành đống lớn. Mẹ nói: - Con đã thấy nhà Nelson tốt với nhà mình ra sao chứ. Họ là những người láng giềng hết sức tử tế. Bây giờ con có còn thấy không vui vì đã cho Anna con búp bê không? Laura đáp: - Dạ không, mẹ. Nhưng trái tim cô không ngừng than khóc vì nhớ bố và Charlotte. Mưa lại rơi và đông giá. Bố không gởi thêm về một lá thư nào. Mẹ nghĩ có thể bố đã lên đường trở về. Trong dêm, Laura lắng nghe tiếng gió và tự hỏi bố đang ở đâu. Thường thường vào buổi sáng, tuyết chất đầy trên đống củi và bố vẫn không về. Mỗi chiều thứ bảy, Laura mang giày vớ, choàng khănn san lớn của mẹ đi tới nhà ông Nelson. Cô gõ cửa và hỏi ông Nelson coi có nhận được lá thư nào gởi cho mẹ không. Cô không bước vào nhà vì không muốn thấy Charlotte ở đó. Bà Nelson nói không có thư nào gửi đến cả và Laura cảm ơn bà rồi quay về. Một ngày giông bão, cô bỗng nhìn thấy một vật gì trong sân kho nhà Nelson. Cô đứng im và nhìn. Đó là Charlotte bị dìm đông cứng dưới một vũng nước. Anna d liệng Charlotte đi. Laura bước tới gõ cửa một cách khó khăn và nói với bà Nelson cũng rất khó khăn. Bà Nelson bảo thời tiết quá xấu nên ông Nelson không ra thị trấn nhưng chắc chắn tuần tới ông sẽ ra. Laura nói: - Cảm ơn bà. Và lật đật quay đi. Mưa tuyết đang trút trên người Charlotte. Anna đã lột da đầu của nó. Mái tóc gợn sóng xinh đẹp của Charlotte bị xé mất và nụ cười trên chiếc miệng bằng chỉ của nó bị cắt đứt đang tuôn máu đỏ lòm trên má nó. Một con mắt bằng nút giày của nó không còn nữa. Nhưng nó vẫn Laura Charlotte. Laura nhấc nó lên quấn vào dưới chiếc khăn san. Cô chạy muốn bứt hơi ngược làn gió cuồng loạn và mưa tuyết suốt đoạn đường về nhà. Mẹ nhìn lên và phát hoảng khi trông thấy Laura. Mẹ nói: - Chuyện gì vậy! Nói cho mẹ nghe, có chuyện gì! Laura đáp: - Ông Nelson không ra thành phố. Nhưng, ôi, mẹ, nhìn này! Mẹ kêu lên: - Đồ quỉ gì thế? Laura nói: - Charlotte đó! Con… con lén lấy lại. Con khỏi cần, mẹ, con khỏi cần biết con làm thế nào! Mẹ nói: - Chớ, chớ, đừng căng thẳng vậy! Tới đây kể cho mẹ nghe về nó đi! Và mẹ kéo Laura ngồi xuống lòng mẹ trên chiếc ghế đu. Mấy mẹ con đều cho rằng việc Laura đem Charlotte về không có gì là sai trái. Đây là một tai nạn khủng khiếp đối với Charlotte nhưng Laura đã kịp cứu nó và mẹ hứa là sẽ sửa lại nó tốt như mới. Mẹ lấy ra hết mái tóc bị xé toạc, những miếng làm thành chiếc miệng, con mắt còn lại và khuôn mặt. Thân hình Charlotte được hơ khô, gỡ ra để mẹ giặt sạch, hồ lại và ủi trong lúc Laura chọn từ một túi vải cũ lấy những chiếc nút làm con mắt mới và những mảnh vải để làm một khuôn mặt mới màu hồng nhạt. Đêm đó, lúc lên giường, Laura đặt Charlotte nằm vào chiếc hộp của nó. Charlotte đã sạch và chỉnh tề với chiếc miệng màu đỏ đang mỉm cười, cặp mắt đen lóng lánh, mái tóc bằng chỉ vàng nâu kết thành hai bím nhỏ có buộc những chiếc nơ nướm màu xanh lơ. Laura nắm ôm sát Mary dưới những tấm phủ chắp vá bằng len. Gió đang gào hú và mưa tuyết trút trên mái nhà. Trời lạnh tới mức Laura và Mary đều kéo tấm phủ lên trùm kín đầu. Một tiếng loảng xoảng khủng khiếp khiến các cô choàng thức. Cả hai hoang mang trong bóng tối đen kịt dưới những tấm phủ. Đúng lúc đó, các cô nghe thấy một giọng nói oang oang vang lên từ tầng dưới: - Anh đã nói là anh sẽ làm rớt bó gỗ đó mà, đúng không? Mẹ cười vui: - Anh có mục đích rõ ràng mà, Charles! Anh muốn đánh thức mấy cô con gái. Laura hét lên và bay ra khỏi giường và vừa hét vừa lao xuống cầu thang. Cô nhảy vào vòng tay của bố và Mary cũng làm y hệt. Sau đó là một cảnh náo nhiệt nói cười và nhảy nhót! Đôi mắt màu xanh lơ của bố sáng rực. Mái tóc bố dựng đứng. Bố đang mang một đôi ủng mới. Bố đã vượt hai trăm dặm từ miền đông Minnesota. Rồi bố lội bộ trong đêm tối giữa giông bão từ thị trấn về. Lúc này thì bố đã ở đây. Mẹ nói: - Vẫn còn mặc mấy cái áo ngủ, mắc cỡ quá, các con! Đi thay đồ đi. Sắp tới giờ ăn sáng rồi! Các cô thay quần áo nhanh hơn bao giờ hết. Cả hai lại nhào xuống cầu thang ôm bố rồi đi rửa tay, rửa mặt rồi trở lại ôm bố nữa. Jack ngúc ngoắc xoay tròn còn Carrie khua chiếc muỗng trên mặt bàn và hát: - Bố đã về! Bố đã về! Cuối cùng thì tất cả đều ngồi quanh bàn ăn. Bố bảo bố rất bận vào giờ chót nên không viết thư được. Bố nói: - Họ giữ hết bọn anh lại để khuân vác trên những cái máy đập từ trước lúc bình minh cho tới sau khi trời tối. tới khi chau63n bị trở về thì anh không thể ngừng lại để viết. Anh chẳng mang được món quà gì về nhưng anh có tiền để mua. Mẹ nói với bố: - Charles, món quà quí nhất mà anh mang về là anh đã về nhà. Sau bữa ăn sáng, bố đi thăm đám gia súc. Tất cả đều đi với bố và Jack bám sát theo gót chân bố. Bố vui thấy Sam cùng David và Spot đều có vẻ khỏe khoắn. Bố nói chính bố cũng không thể chăm sóc chúng tốt hơn thế. Mẹ bảo rằng Mary và Laura góp công rất lớn với mẹ. Bố nói: - Quỉ thật! Được ở nhà thật là dễ chịu! Rồi bố hỏi: - Bàn chân con có vấn đề gì thế, Laura? Cô quên khuấy những bàn chân của mình. Cô có thể đi không lết chân khi cô nhớ ra. Cô nói: - Giầy làm chân con đau, bố! Trở vào nhà, bố nhấc bé Carrie đặt ngồi lên đầu gối. Rồi bố nghiêng xuống sờ mó đôi giày của Laura. Laura kêu lên: - Ui cha! Mấy ngón chân con bị bóp lại! Bố nói: - Đúng là thế thôi! Bàn chân con đã lớn hơn từ mùa đông vừa rồi. Chân con thế nào,Mary? Mary nói mấy ngón chân của cô cũng bị bóp chặt. Bố nói: - Cởi giày của các con ra, Mary. Và Laura, con mang giày của Mary vào. Giày của Mary không bó chặt chân Laura. Chúng còn rất tốt, không có một vết rách hoặc lỗ thủng nào. Bố nói: - Đôi giầy này sẽ giống như mới tinh khi bố bôi mỡ lại. Mary phải có giày mới. Laura có thể mang giầy của Mary, còn giày của Laura để dành lại cho bé Carrie trong thời gian tới. Bố nói với mẹ: - Bây giờ còn thiếu món gì nữa không, Caroline? Hãy nghĩ ra những món mình cần và mình sẽ mua những thứ gì có thể mua được. Anh đi đóng ngựa vào xe và mình sẽ ra phố liền. Chương 30: Đi Phố Cả nhà đều lăng xăng hối hả. Tất cả đều mặc những bộ đồ tốt nhất dành cho mùa đông, choàng thêm áo khoác, khăn san và leo lên xe. Mặt trời chiếu sáng nhưng không khí đầy sương giá vẫn làm nhức mũi. Tuyết rơi lấp lánh trên mặt đất cứng sương giá. Bố ngồi trên ghế trước thùng xe cùng với mẹ và bé Carrie ngồi sát bên cạnh. Laura và Mary phủ khăn choàng qua người nhau ngồi khít lại trên tấm chăn trải trên đáy thùng xe. Jack ngồi trên bực cửa ra vào nhìn theo mọi người. Nó biết mọi người sẽ trở về nhà sớm. Ngay cả Sam và David hình như cũng biết rằng mọi chuyện đã ổn định vì biết rằng lúc này bố đã lại có mặt ở nhà. Chúng xoải vó một cách vui vẻ cho tới lúc bố kêu « Oa!» và cột chúng vào những cột buộc ngựa trước cửa hàng của ông Fitch. Trước hết, bố thanh toán món nợ mua gỗ của ông Fitch để làm nhà. Rồi bố thanh toán số tiền mà ông Nelson đã mua bột và đường cho mẹ trong thời gian bố đi vắng. Sau đó, bố đếm số tiền còn lại rồi bố và mẹ chọn mua giầy cho Mary. Đôi giày mới rạng rỡ trên bàn chân của Mary đến nỗi Laura cảm thấy việc Mary lớn nhất là điều không công bằng chút nào. Giầy của Mary sẽ luôn luôn vừa khít với bàn chân của Laura và Laura sẽ không bao giờ có giầy mới. Lúc đó, mẹ nói: - Bây giờ kiếm một chiếc áo mới cho Laura. Laura vội theo mẹ tới quầy hàng. Ông Fitch đang lấy xuống những súc vải len rất đẹp. Mùa đông trước, mẹ đã tháo những nếp gấp và mở hết các đường chỉ may chiếc áo lạnh của Laura. Mùa đông này, chiếc áo ngắn cũn cỡn và còn có nhiều lỗ trên hai ống tay, chỗ mà Laura thọc cùi chỏ qua vì nó quá chật. Mẹ đã và lại gọn gàng và những chỗ và rất kín nhưng khi mặc chiếc áo này Laura vẫn cảm thấy chật chội và cũ rách. Dù vậy, cô vẫn không mơ sẽ có một chiếc áo hoàn toàn mới. Mẹ hỏi: - Con thấy chiếc áo flanen màu nâu vàng kia thế nào, Laura! Laura không thể lên tiếng nổi, ông Fitch nói: - Tôi cam đoan đây là chiếc áo rất tốt. Mẹ đặt một dải nền đỏ ngang qua chiếc áo màu nâu vàng và nói: - Tôi nghĩ cần ba dải viền màu này quanh vòng cổ, vòng eo và gấu áo. Con nghĩ sao, Laura? Có đẹp không? Laura nói: - Dạ, thưa mẹ! Cô nhìn lên và mắt cô cùng với cặp mắt xanh lơ sáng rỡ của bố như cùng nhảy múa. Bố nói: - Lấy cái đó đi, Caroline! Ông Fitch đo miếng vải flanen màu nâu vàng và dải viền áo màu đỏ. Sau đó Mary được chọn một cái áo mới nhưng cô không thích thứ nào ở đó. Thế là cả nhà đi qua phố sang cửa hàng của ông Oleson. Tại đây, họ tìm được mẫu flanen màu nâu sẫm và dải viền màu mạ vàng là những thứ mà Mary thích. Mary và Laura đứng ngắm say sưa trong lúc ông Oleson đo vải khi Nellie bước vào. Cô mặc chiếc áo choàng không tay bằng da thú. - Xin chào! Cô nói và nhăn mũi nhìn những tấm vải flanen màu xanh. Cô nói những thứ đó rất hợp với những cô gái quê mùa. Rồi cô xoay người khoe chiếc áo da thú và nói: - Nhìn coi tớ mặc thứ gì. Cả hai đều nhìn, Nellie hỏi: - Bồ có muốn một cái áo choàng da thú không, Laura? Nhưng bố bồ không thể mua nổi cho bồ một cái đâu. Bố bồ đâu phải chủ cửa hàng. Laura không dám tát Nellie. Nhưng cô giận tới mức không lên tiếng được. Cô xoay người lại và Nellie cười khẩy bỏ đi. Mary đang chọn loại vải dày may áo khoác cho Carrie. Bố đang lo mau bột, bột bắp, muối, đường và trà. Rồi bố phải lo đổ đầy bình dầu lửa và dừng tại bưu điện. Đã qua bữa trưa và trời lạnh hơn trước khi họ rời thị trấn nên bố nói Sam và David phóng thật nhanh trên đường về nhà. Sau khi chén đĩa trong bữa ăn trưa đã được rửa sạch và cất đi, mẹ mở các gói ra và tất cả cùng ngắm những món đồ tuyệt đẹp. Mẹ nói: - Mẹ sẽ may hết sức nhanh cho các con. Vì rằng lúc này bố có mặt ở nhà nên mình sẽ lại cùng tới dự các buổi học ngày chủ nhật. Bố hỏi mẹ: - Miếng vải hoa xám mà em chọn cho em đâu rồi, Caroline? Mẹ đỏ mặt lên và hơi cúi đầu xuống trong lúc bố nhìn mẹ. Bố nói: - Em muốn nói là em không mua miếng vải đó hả? Mẹ nhìn bố: - Anh thấy chiếc áo khoác mới của anh thế nào, Charles? Bố có vẻ không thoải mái. Bố nói: - Anh biết mà, Caroline. Nhưng vụ mùa tới sẽ chưa có cho tới khi trứng châu chấu nở hết và thời gian còn dài cho tới khi anh được bắt tay vào việc. Chiếc áo cũ của anh còn đủ tốt. Mẹ mỉm cười nói với bố: - Đó chính là điều em nghĩ. Sau bữa cơm tối, khi bóng đêm và ánh đèn tới, bố lấy cây đàn ra khỏi hộp và lên dây một cách trìu mến. Bố nhìn mọi người xung quanh nói: - Nhớ nó quá! Rồi bố bắt đầu đàn. Bố đàn bản « Khi Johnnie quay về » rồi đàn bản « Cô gái dịu dàng mà tôi bỏ lại sau lưng». Bố đàn và hát bản « Ngôi nhà cũ » và bản « Sông Swanee ». Lúc đó bố đàn và tất cả cùng hát theo bố: Những niềm vui và điện đài tráng lệ Khắp bốn phương đất gần xa Lộng lẫy huy hoàng vẫn thành vô nghĩa So với căn nhà nhỏ của ta. Chương 31: Bất Ngờ Đó là mùa đông dễ chịu không có nhiều tuyết. Vẫn còn thời tiết châu chấu, nhưng có nhiều cơn gió lạnh, trời luôn u ám nên chỗ chơi tốt nhất cho các cô bé là trong căn nhà ấm áp. Bố vắng nhà suốt ngày. Bố đi kéo gỗ và chẻ củi. Bố đi ngược dòng suối Plum đã đóng băng tới những chỗ hoang vắng đặt bẫy bắt cầy hương, chồn và rái cá. Mỗi buổi sáng Laura và Mary đều học bài và tập làm toán trên tấm bảng viết. Mỗi buổi chiều, mẹ ngồi nghe các cô trả bài. Mẹ bảo các cô đều là học trò tốt và mẹ tin chắc khi trở lại trường các cô sẽ theo kịp bạn bè. Mỗi ngày chủ nhật, các cô tới dự buổi học ngày chủ nhật. Laura thấy Nellie khoe chiếc áo choàng ngắn tay bằng da thú. Cô nhớ lại những điều Nellie nói về bố và trong người ngùn ngụt lửa nóng. Cô hiểu rõ cảm gíac giận dữ này là tệ hại. Cô hiểu là cần tha thứ cho Nellie hoặc sẽ không bao giờ thành người được hưởng ơn phúc. Cô cố nghĩ về hình ảnh đẹp đẽ của các thiên thần trong cuốn Kinh thánh lớn đóng bìa mỏng ở nhà. Tất cả đều mặc những chiếc áo dài ngủ màu trắng. Không một ai mặc áo choàng ngắn tay bằng da thú. Một ngày chủ nhật hạnh phúc là ngày chủ nhật mà giáo sĩ Alden từ miền đông Minnesota tới thuyết giảng tại ngôi nhà thờ miền tây này. Ông giảng thật lâu trong lúc Laura ngắm cặp mắt xanh lơ dịu dàng của ông và ngắm bộ râu của ông đang lay động. Cô mong ông sẽ nói tới cô sau khi dứt bài giảng. Và đúng như thế. Ông nói: - Đây là những cô gái quê bé bỏng của tôi, Mary và Laura! Ông đã nhớ rõ tên các cô. Hôm đó Laura đang mặc chiếc áo mới. Áo dài rộng và những ống tay áo cũng thoải mái. Những ống tay áo có vẻ như ngắn hơn nhưng dải viền màu đỏ trên cổ tay áo giả hết sức đẹp. Giáo sĩ Alden nói: - Chiếc áo mới của con đẹp quá, Laura! Bữa đó, gần như Laura hoàn toàn tha thứ cho Nellie. Rồi lại tới những ngày chủ nhật mà giáo sĩ Alden vắng mặt và trong buổi học ngày chủ nhật, Nellie Oleson lại vênh mặt lên nhìn Laura và kéo những dải đeo của chiếc áo choàng bằng da thú. Sự giận dữ lại sôi trong người Laura. Một buổi chiều mẹ bảo không có bài học vì tất cả phải sẵn sàng tới thị trấn ngay tối hôm đó. Laura và Mary đều kinh ngạc. Mary nói: - Chưa bao giờ mình được tới thị trấn vào ban đêm! Mẹ nói: - Cần phải luôn là người tới trước. Laura hỏi: - Nhưng tại sao phải thế, mẹ? Tại sao mình phải ra thị trấn vào ban đêm? Mẹ nói: - Đây là chuyện bất ngờ. Bây giờ không hỏi thêm nữa. Hãy lo tắm rửa và ráng ngoan ngoãn nhất. Đang giữa tuần lễ mà mẹ mang bồn tắm vào, đun nước cho Mary tắm. Rồi tới Laura tắm và tiếp đến Carrie. Chưa bao giờ kì cọ vội vã như thế, thay đổi quần áo mới như thế, chải bụi giầy như thế và bện tóc, thắt nơ như thế. Chưa bao giờ lạ lùng như thế. Bữa ăn tối bắt đầu sớm hơn. Ăn xong, bố tắm trong phòng ngủ. Laura và Mary mặc quần áo mới. Các cô biết là không nên hỏi han gì nhưng các cô tự hỏi và thì thào với nhau. Thùng xe đầy cỏ khô. Bố đặt Mary và Laura lên đó, kéo phủ chăn trùm quanh người các cô. Bố leo lên ghế ngồi bên cạnh mẹ và lái xe về phía thị trấn. Các ngôi sao nhỏ hẳn và mờ sương trên nền trời tối. Vó ngựa khua lóc cóc và cỗ xe chạy rầm rầm trên mặt đất cứng. Bố chợt nghe thấy một điều gì. Bố kéo dây cương, hô: - Oa! Sam và David dừng lại. Chẳng có gì ngoài sự im lìm và cái lạnh mênh mông đen tối vươn tới các ngôi sao. Rồi sự im lìm nở ra thành một tiếng động vô cùng dễ thương. Hai tiếng thật rõ vang lên và lại vang lên, vang lên nữa. Không một ai cử động. Chỉ Sam và David làm va những chiếc lục lạc vào nhau và thở ra. Hai âm thanh tiếp tục chuyền đi, lan khắp, vang động, êm nhẹ và trầm trầm. m thanh giống như các ngôi sao đang hát. Liền đó mẹ thì thầm: - Tốt hơn là cứ tiếp tục đi, Charles! Và cỗ xe lăn tới. Trong tiếng xe chạy rầm rầm, Laura vẫn nghe thấy những âm thanh xao động kia. Cô hỏi: - Ô, cái gì vậy, bố? Bố đáp: - Đó là chiếc chuông mới ở nhà thờ đó, Laura! Để có nó, bố đã phải mang đôi ủng cũ vá chằng vá đụp. Thị trấn giống như đang ngủ. Các cửa hàng đều mờ tối khi bố lái xe chạy qua. Rồi bỗng Laura kêu lên: - Ôi, coi nhà thờ kìa! Nhà thờ đẹp làm sao! Nhà thờ tràn ngập ánh sáng. Ánh sáng dội qua tất cả các ô cửa sổ và tuôn chảy vào bóng đêm khi chiếc cửa ra vào mở ra để đón khách. Laura gần như nhảy ra khỏi tấm chăn phủ trước khi cô kịp nhớ ra là không bao giờ được đứng ở trên xe khi những con ngựa đang chạy. Bố lái xe tới trước bậc cửa nhà thờ và giúp tất cả bước xuống. Bố nhắc mọi người vào ngay nhà thờ nhưng tất cả đứng đợi trong đêm lạnh cho tới khi bố phủ xong tấm chăn phủ trên người Sam và David. Rồi bố bước tới và cả nhà cùng đi vào trong nhà thờ. Laura há hốc miệng, căng mắt ngó từng thứ bắt gặp. Cô nắm chặt bàn tay Mary, bước theo mẹ và bố. Tất cả đều ngồi xuống. Lúc đó, Laura tha hồ nhìn. Sừng sững trước những hàng ghế dài chen chúc người là một cái cây. Laura quả quyết đó là một cái cây vì cô nhận ra thân hình và những nhánh cành của nó. Nhưng từ trước cô không từng thấy một cái cây như thế. Ở mỗi chỗ có lá đều là những chùm băng giấy màu xanh lục. Chen giữa những băng giấy đó là những chiếc túi nhỏ làm bằng loại lưới muỗi màu hồng treo lủng lẳng. Laura gần như dám cá chắc có thể nhìn thấy những chiếc kẹo ở trong đó. Treo dưới các cành cây là những gói bọc giấy màu, có gói màu đỏ, có gói màu hồng, có gói màu vàng, buộc vào những sợi dây sặc sỡ. Những dải lụa căng chen giữa các thứ đó. Một đôi găng tay màu đỏ với sợi dây có thể quấn vòng quanh cổ để cho găng không bị rơi mất. Một đôi giầy mới treo ngược để trên một cành cây. Lòng thòng dày đặc trên mấy thứ này là những chùm bắp rang trắng xóa. Còn vô số loại đồ để dựa vào phía dưới cái cây. Laura thấy một tấm bảng, một bồn gỗ, một thùng đựng kem, một cây khuấy sữa, một cỗ xe trượt tuyết ghép bằng những tấm ván mới, một chiếc xẻng, một chiếc chĩa có cán dài. Laura bị kích động tới mức nói không nổi. Cô bóp thật chặt bàn tay Mary và nhìn mẹ với mong muốn sôi sục được biết về tất cả những thứ đang ở trước mắt. Mẹ nhìn cô mỉm cười và nói: - Đó là cây Noel, các con. Các con có thấy nó đẹp không? Cả hai không thể lên tiếng trả lời. Các cô chỉ gật đầu trong lúc nhìn chăm chăm cái cây kì diệu. Các cô không kịp ngạc nhiên khi biết đã tới ngày Giáng sinh dù các cô thấy tuyết chưa đủ nhiều và chưa mong đợi ngày Giáng sinh. Đúng lúc đó, Laura bỗng nhìn thấy một điều kì diệu hơn tất cả mọi thứ. Từ một cái cành xa của cái cây kia đang đung đưa một chiếc áo choàng nhỏ ngắn tay bằng da thú và một cặp bao tay. Giáo sĩ Alden đang ở đó. Ông thuyết giảng về lễ Giáng sinh nhưng Laura đang ngắm cái cây và không thể nghe rõ ông nói gì. Mọi người chợt đứng lên cất tiếng hát và Laura đứng lên theo, nhưng cô không thể hát. Không một âm thanh nào thoát nổi khỏi họng cô. Khắp nơi trên đời không đâu có nổi một cửa hàng kì diệu như cái cây kia. Sau bài hát, ông Tower và ông Beadle bắt đầu lấy mọi thứ ra khỏi cành cây và đọc tên. Bà Tower và bà Beadle mang những món đồ xuống các hàng ghế dài và trao cho những người được gọi tên. Tất cả các thứ trên cái cây kia đều là quà Giáng sinh để tặng cho mọi người. Khi Laura được biết điều đó thì những cây đèn, những đám đông, những giọng nói và ngay cả cái cây đều quay cuồng tới chóng mặt. Tất cả quay cuồng càng lúc càng nhanh hơn, càng ồn ào hơn và kích động hơn. Một người trao cho cô một chiếc túi màu hồng. Trong đó có kẹo và một bịch lớn bắp rang. Mary cũng có một túi và cả bé Carrie nữa. Tất cả các cô cậu bé đều có một túi như thế. Rồi Mary có thêm một đôi găng tay màu xanh lơ và Laura có một đôi màu đỏ. Mẹ mở một gói lớn và trong đó có một chiếc khăn choàng dầy lớn với những sọc nâu đỏ dành cho mẹ. Bố cũng được một chiếc khăn choàng bằng len. Rồi bé Carrie được một con búp bê vải có cái đầu bằng sứ. Bé hết lên mừng rỡ. Qua tiếng cười nói và tiếng giấy sột soạt, ông Beadle và ông Tower vẫn tiếp tục đọc tên. Chiếc áo choàng ngắn tay bằng da thú với đôi bao tay còn treo trên cây và Laura ao ước sẽ nhận được. Cô ngây người ngắm chiếc áo và rất muốn biết người nào sẽ nhận được. Những thứ không thể tặng cho Nelllie Oleson vì cô ta đã có một chiếc áo bằng da thú. Laura không mong đợi gì nữa. Nhưng bà Tower lại trao cho Mary một cuốn sách nhỏ in những bức hình trong Kinh thánh. Ông Tower đang lấy chiếc áo choàng ngắn tay nhỏ bằng da thú và chiếc bao tay ra khỏi cái cây. Ông đọc tên nhưng Laura không thể nghe rõ giữa tiếng reo hò chấn động. Cô không còn nhìn thấy chiếc áo và chiếc bao tay. Chúng đã biến mất. Rồi tới lượt Carrie lại có thêm một con chó nhỏ bằng sứ màu trắng có đốm nâu nhỏ rất tinh xảo. Nhưng vòng tay của Carrie và cả trong đôi mắt bé đang đầy ắp hình ảnh con búp bê. Thế là Laura cầm lấy, vuốt ve, cười đùa với con chó nhỏ bóng mượt. - Chúc mừng giáng sinh, Laura! Cô Beadle lên tiếng và cô đặt vào bàn tay Laura một chiếc hộp nhỏ thật đẹp.Nóđược làm bằng sứ với lớp men sáng bóng trắng phau như tuyết. Trên mặt hộp là một bình trà nhỏ xíu mạ vàng và một chiếc ly nhỏ xíu mạ vàng đặt trong một chiếc đĩa cũng mạ vàng. Nắp hộp cũng có thể nhấc rời ra. Bên trong là một khoảng trống xinh xắn có thể cất vừa một chiếc nơ hoa hồng, nếu một ngày nào đó Laura có một chiếc. Mẹ bảo đó là một hộp đựng nữ trang. Chưa bao giờ có một ngày Giáng sinh như thế này. Đó là một ngày Giáng sinh giàu có cùng cực, một ngày Giáng sinh tràn ngập cả khu nhà thờ. Có quá nhiều đèn, quá nhiều người, quá nhiều tiếng cười nói ồn ào và quá nhiều hạnh phúc. Laura cảm thấy mình như sắp nổ tung ra vì tất cả ngày Giáng sinh giàu có vĩ đại này đều nằm trong người cô cùng với đôi găng tay, chiếc hộp nữ trang có bộ đồ trà nhỏ xíu mạ vàng tuyệt đẹp, túi kẹo và bịch bắp rang. Và thình lình, lại có người lên tiếng: - Quà này là của cháu, Laura! Bà Tower đang đứng đó mỉm cười trao cho cô chiếc áo choàng nhỏ bằng da thú và chiếc bao tay. - Cho cháu? Laura sững sờ: - Cho cháu sao? Rồi mọi chuyện đều rõ ràng khi cô đưa cả hai tay ôm ghì lấy chiếc áo lông thú. Cô ôm thật chặt rồi ôm chặt hơn để tin chắc chúng thực sự là của mình. Chiếc áo bằng da thú màu nâu mềm như tơ và cả chiếc bao tay kia nữa. Xung quanh cô, lễ Giáng sinh đang tiếp tục, nhưng Laura chỉ biết tới sự mềm mại của những món đồ bằng da thú. Mọi người đang trở về nhà. Bé Carrie đang đứng trên ghế dài cho mẹ kéo lại áo và buộc mũ trùm của bé chặt hơn. Mẹ nói với giáo sĩ Alden: - Cảm ơn Cha rất nhiều về chiếc khăn san, thưa Cha. Đó đúng là thứ tôi đang cần. Bố nói: - Tôi cũng hết sức cảm ơn Cha về chiếc khăn choàng. Nó sẽ cho tôi cảm gíac thoải mái mỗi khi ra thị trấn trong lúc trời lạnh. Giáo sĩ Alden ngồi xuống ghế và hỏi: - Chiếc áo của Mary có vừa không? Tới lúc đó Laura vẫn không nhận ra chiếc áo khoác của Mary. Mary đã mặc một chiếc áo khoác mới màu xanh sẫm. Áo dài với những ống tay sát tới cườm tay Mary. Mary cài nút và chiếc áo vừa vặn. Giáo sĩ Alden mỉm cười: - Còn cô bé này thấy chiếc áo bằng da thú của mình thế nào? Ông kéo Laura vào giữa hai đầu gối, choàng chiếc áo da thú qua vai của cô và cài lại ở trước cổ. Ông quấn sợi dây buộc bao tay quanh cổ cô rồi đặt hai bàn tay cô vào trong chiếc bao tay mềm mại. Giáo sĩ Alden nói: - Đó! Bây giờ thì những cô gái quê nhỏ bé này sẽ không còn sợ lạnh khi tới dự những buổi học ngày chủ nhật. - Con có nói gì không, Laura? Mẹ hỏi nhưng giáo sĩ Alden nói: - Không cần thiết phải nói gì. Cứ coi cặp mắt sáng rỡ của cô bé là đủ thấy rồi. LAUra không thể nói nổi. Chiếc áo da thú nâu vàng áp vào cổ và ôm nhẹ trên vai cô. Vạt áo trước che khuất những nút móc đã tuột chỉ trên chiếc áo khoác của cô. Chiếc bao tay che rất cao trên cườm tay của cô và che khuất những ống tay áo ngắn của chiếc áo khoác. Giáo sĩ Alden nói: - Đây là một con chim nhỏ màu nâu được tô điểm bằng những mảnh trang trí màu đỏ. Laura bật cười và thấy đúng như thế. Tóc cô, áo khoác, áo mặc và cà chiếc áo choàng kì diệu bằng da thú đều màu nâu. Mũ trùm của cô, găng tay và những dải viền trên áo đều màu đỏ. Giáo sĩ Alden nói: - Tôi sẽ kể lại với mọi người trong nhà thờ của tôi ở miền đông về con chim nhỏ màu nâu của chúng ta. Các con thấy đó, khi nói với họ về nhà thờ của chúng ta ở đây thì tất cả đều bảo sẽ phải gởi đến cây Noel một hộp quà. Mỗi người đã đều làm như thế với tất cả những gì họ có. Các cô bé đã gởi tới chiếc áo choàng bằng da thú cho con và chiếc áo khoác của Mary thì do các cô gái lớn hơn. - Cảm ơn Cha! Laura chợt lên tiếng và tiếp: - Xin Cha cho con gởi lời cảm ơn tất cả. Khi cô lên tiếng được thì cách cư xử của cô cũng dễ thương không kém Mary. Rồi tất cả đều chúc mừng Giáng sinh và chào tạm biệt giáo sĩ Alden. Mary rạng rỡ trong chiếc áo khoác Giáng sinh. Bé Carrie rất xinh trong vòng tay của bố. Bố mẹ đều cười sung sướng và Laura hoàn toàn hạnh phúc. Ông bà Oleson cũng đang ra về. Ông Oleson ôm đầy quà trong tay và Nellie vơí Willie cũng vậy. Lúc này bên trong người Laura không còn sôi sục một ý nghĩ thù hận nào mà cô chỉ cảm thấy tràn đầy hạnh phúc. - Chúc mừng Giáng sinh, Nelllie. Laura nói. Nellie nhìn theo trong lúc Laura lặng lẽ bước đi với bàn tay thọc sâu trong chiếc bao tay mềm mại. Chiếc áo choàng da thú của cô đẹp hơn áo của Nellie và Nellie không có bao tay. Chương 32: Những Con Châu Chấu Đang Bò Sau Giáng sinh chỉ có mấy ngày chủ nhật có tuyết nhưng bố đã đóng một cỗ xe trượt bằng những mảnh liễu chẻ ra và các cô tới buổi học ngày chủ nhật hoàn toàn ấm áp với áo choàng mới, áo da thú, khăn san và khăn trùm. Một buổi sáng bố nói gió tây đang thổi. Gió tây là gió ấm thổi về từ phía tây bắc. Chỉ trong một ngày, tuyết đã tan chảy và dòng suối Plum đang đầy lên. Rồi mưa tới, xối xả ngày đêm. Suối Plum gầm rú cuồn cuộn ở giữa và cuốn xoáy tràn qua bên kia mé bờ thấp. Sau đó không khí dịu dần và dòng suối bình thường trở lại. Thình lình mận và liễu trổ bông và những đọt lá mới không còn uốn cong nữa. Cỏ bắt đầu xanh trên đồng và Mary cùng Laura với bé Carrie đã có thể chạy chân trần trên mặt đất mềm. Mỗi ngày lại ấm hơn ngày hôm trước cho tới lúc cái nóng mùa hè đến. Đây là thời gian Laura và Mary phải tới trường nhưng năm đó các cô nghỉ học vì bố lại phải đi xa nên mẹ muốn các cô ở nhà. Mùa hè rất nóng. Những cơn gió khô hừng hực thổi và không có mưa. Một bữa, lúc về nhà ăn cơm trưa, bố nói: - Châu chấu đang nở. Nắng nóng cỡ này sẽ mang chúng ra khỏi trứng và trườn trên mặt đất nhiều như bắp rang. Laura chạy ra ngoài coi. Cỏ trên đồi đầy những vật màu xanh đang phóng nhảy. Laura bắt giữ một con trong bàn tay và quan sát. Những cái cánh mỏng manh, những cái cẳng li ti, những cái đầu bé xíu và ngay cả những con mắt dều có màu xanh cỏ. Nó hếy sức nhỏ và hết sức hoàn hảo. Laura khó tin nổi có lúc nó lại trở thành một con châu chấu màu nâu kềnh càng và xấu xí. Bố nói: - Chúng lớn lên rất nhanh và sẽ ăn hết mọi thứ đang mọc. Càng ngày châu chấu càng nở nhiều hơn trên mặt đất. Những con châu chấu màu xanh cỏ đủ cỡ họp thành đàn ở khắp nơi và bắt đầu ăn. Gió thổi không đủ lớn để át tiếng động do những cái hàm của chúng cạp nghiến và nhai. Chúng ăn sạch những luống vườn màu xanh. Ăn mọi chồi ngọn khoai tây màu xanh. Chúng ăn cỏ, ăn lá liễu, ăn những bụi mận màu xanh và ăn cả những búp mận nhỏ màu xanh. Chúng ăn hết mọi thứ và biến cánh đồng thành màu nâu trơ trịu. Và chúng đã lớn. Chúng lớn lên, đổi thành màu nâu và xấu xí. Những cặp mắt lớn của chúng lồi ra và những cái chân đầy gai của chúng phóng nhảy về mọi phía. Chúng phóng nhảy đầy trên mặt đất nên Laura và Mary ở trong nhà. Trời không có mưa và ngày nối ngày trôi đi càng lúc càng nóng hơn, càng lúc càng tệ hơn và đầy tiếng động của lũ châu chấu cho tới kh hình như không còn thể nghe được gì khác. Một buổi sáng, mẹ nói: - Ôi, Charles. Em khó chịu đựng nổi tình trạng nà thêm một ngày nữa. Mẹ đổ bệnh. Mặt mẹ hốc hác trắng bệch và mẹ mệt nhọc ngồi xuống trong lúc nói. Bố không trả lời. Trong nhiều ngày bố ra ngoài rồi trở về với nét mặt lầm lỉ căng thẳng. Bố không hát cũng không huýt gió. Điều tệ nhất là bố không trả lời mẹ. Bố bước tới cửa đứng nhìn ra ngoài. Ngay cả bé Carrie cũng im lặng. Tất cả đều cảm thấy cái nóng lúc ngày bắt đầu và nghe tiếng châu chấu. Nhưng đám châu chấu đang tạo ra những tiếng động mới. Laura chạy ra nhìn căng thẳng và bố cũng thấy căng thẳng. Bố gọi: - Caroline! Ở đây lạ lắm! Ra coi! Khắp khoảng sân trước nhà, châu chấu đang bò tựa vai nhau và bám sát nối dài đen đặc giống như mặt đất đang chuyể n động. Không một con nào phóng nhảy. Không một con nào quay đầu. Chúng bò đi thật nhanh và dều bò về hướng tây. Mẹ đứng bên bố ngắm. Mary hỏi: - Ô, bố, chúng làm gì thế? Bố nói: - Bố không biết. Bố đưa tay che mắt nhìn ra xa từ tây qua đông. - Tít ngoài xa kia cũng hệt như thế. Giống như toàn thể mặt đất đang trườn về phía tây. Mẹ thì thào: - Ô, mong là chúng sẽ đi hết. Tất cả đều đứng nhìn cái quang cảnh lạ lùng đang diễn ra. Chỉ một mình bé Carrie ngồi trên chiếc ghế cao và đập chiếc muỗng lên mặt bàn. Mẹ nói: - Chờ một chút, Carrie. Mẹ vẫn ngắm những con châu chấu đang bò ngay bên cạnh. Chúng đi sát nhau không còn chừa một chỗ trống và kéo dài vô tận. Bé Carrie hô lớn: - Con muốn ăn! Không một ai rời chỗ. Cuối cùng bé Carrie gần như phát khóc lên: - Mẹ! Mẹ! - Cứ ở đó, con được ăn ngay mà! Mẹ nói và quay lại nhìn. Bỗng mẹ kêu lên: - Chúa ơi! Châu chấu đang bò tới Carrie. Chúng tuôn vào từ ô cửa sổ phía đông, chen chúc vô tận qua thành cửa xuống vách và bò trên nền sàn. Chúng leo lên các chân bàn, chân ghế và lên cả chiếc ghế cao của Carrie. Khắp gầm bàn, gầm ghế và trên mặt bàn, mặt ghế và thậm chí trên cả người Carrie đều tràn ngập châu chấu đang bò về hướng tây. Mẹ quát: - Đóng cửa sổ lại. Laura chạy xéo trên đám châu chấu tới đóng cửa sổ. Bố bọc phía ngoài chạy nhanh vào nhà. Bố quay vào nói: - Đóng ngay các cửa sổ tầng trên lại. Châu chấu đang bò đầy trên vách phía đông hệt như ở dưới đất và sắp tới cửa sổ gác xếp rồi. Chúng sẽ bò thẳng qua đó bây giờ. khắp bức vách và mái nhà rào rào tiếng cào trườn của những gai chân. Căn nhà gần như tràn ngập châu chấu. Mẹ và Laura quét chúng rơi xuống và quét ra ngoài cửa sổ về phía tây. Không một con nào bò từ phía tây vào nhà dù khắp mé tây nhà đen đặc châu chấu bò từ mái nhà xuống đất và tất cả đều theo nhau bò đi về phía tây. Trọn một ngày dài châu chấu bò về phía tây. Trọn ngày hôm sau chúng vẫn bò về phía tây. Và trọn ngày thứ ba chúng vẫn bò như thế không ngừng nghỉ. Không một con châu chấu nào đổi hướng đi vì bất cứ lí do nào. Chúng bò đều đặn qua căn nhà. Chúng bò qua chuồng ngựa. Chúng bó qua người Spot cho tới khi bố nhốt Spot vào trong chuồng đóng cửa lại. Chúng bò thẳng xuống suối Plum và chìm xuống trong khi những con phía sau vẫn bò tới để chìm xuống theo cho tới khi xác châu chấu chồng chất kín mặt suối làm thành đường cho những con còn sống vượt qua. Suốt ngày nắng thiêu đốt căn nhà. Suốt ngày tiếng chân châu chấu cào trườn trên vách qua mái rồi xuống vách. Suốt ngày những chiếc đầu châu chấu với những con mắt lộ ra và những chiếc chân châu chấu bám đầy dọc các kẽ cửa sổ. Suốt ngày chúng cố leo lên mặt kính trơn trượt và rơi xuống trong lúc hàng ngàn con khác ùa lên và lại rớt xuống. Mẹ xanh nhợt và căng thẳng. Bố im lặng và mắt bố không lóe sáng. Laura không thể ngăn tiếng chân trướn bò dội vào tai và rũ bỏ được cảm giác đang bị cào trên da. Ngaỳ thứ tư tới và châu chấu tiếp tục bò. Trời nóng hơn bao giờ hết trong ánh nắng chói chang khủng khiếp. Gần tới trưa bố từ khu chuồng quay về hô lớn: - Caroline! Caroline! Nhìn ra ngoài coi! Châu chấu đang bay! Laura và Mary chạy vội tới cửa. Khắp nơi châu chấu đang xéo rộng cánh bay lên khỏi mặt đất. Càng lúc chúng bay lên càng nhiều và bốc lên cao mãi cho tới khi nắng mờ hẳn đi rồi tối lại và tắt hẳn hệt y như khi những đám châu chấu bay đến. Laura bước hẳn ra ngoài. Cô nhìn thẳng lên mặt trời qua đám mây gần như những cụm tuyết. Đó là một đám mây tối sẫm le lói sáng lấp lánh, toả rạng và trắng hơn khi khi cô nhìn nó bay cao, xa hơn. Và nó đang bay lên thay vì hạ xuống. Đám mây bay ngang qua mặt trời về phía tây cho tới khi vượt hẳn khỏi tầm mắt. Không còn một con chấu chấu nào ở trên trời hay dưới đất, ngoại trừ những con què quặt không bay nổi nằm lại rải rác nhưng vẫn cố lết về phía tây. Sự im lìm giống như sự im lìm sau một cơn bão. Mẹ bước vào nhà lịêng mình xúông chiếc ghế đu. Mẹ nói: - Lạy Chúa! Lạy Chúa! Đó là những lời cầu nguyện nhưng lại vang lên giống như tiếng « Cảm ơn ». Laura và Mary ngồi trên bậc cửa ra vào. Bây giờ các cô có thể ngồi đây vì không còn châu chấu nữa. Mary nói: - Im lặng quá sức! Bố nghiêng người vào phía trong cửa và nói một cách nghiêm chỉnh: - Anh mong có ai nói cho biết tại sao chúng biết tức khắc lúc nào cần phải ra đi và do đâu chúng biết rõ con đường đi về phía tây và về quê cha đất tổ của chúng. Nhưng không ai có thể nói với bố. Chương 33: Những Vòng Lửa Sau cái ngày trong tháng bảy mà đám châu chấu bay đi là những ngày êm ả. Mưa trút xuống và cỏ đã mọc lại khắp vùng đất từng bị châu chấu ăn trơ trụi biến thành màu nâu tệ hại. Cỏ dại mọc lại nhanh hơn và những hạt giống trút bỏ hoặc đổ đóng lại cũng mọc lên thành lùm bụi. Liễu, bông gòn và các bụi mận đều trổ lá trở lại. Không có trái vì thời gian đơm bông đã qua. Không có lúa mì. Nhưng cỏ khô tràn lan khắp vùng đất thấp bên dòng suối. Khoai tây sống lại và lại có cá trong các bẫy cá. Bố cột Sam và David vào cây cày của ông Nelson và cày một phần cánh đồng đã gieo hạt lúa mì. Bố cày một đường rộng ngắn lúa ở phía tây căn nhà khỏi từ dòng suối và trở lại dòng suối. Trên đồng bố gieo hạt giống củ cải. Bố nói: - Trễ mất rồi. Các nông dân già thường nói phải gieo hạt củ cải vào khoảng hai mươi lăm tháng bảy dù trời mưa hay nắng. Nhưng anh nghĩ là những nông dân già không hình dung nổi về lũ châu chấu. Và có lẽ chỉ có đủ củ cải cho em và các con thôi, Caroline. Anh sẽ không ở lại đây để làm việc đó. Bố lại phải đi xa về miền đông để kiếm việc làm ỏ những nơi có mùa màng vì nợ nhà còn chưa sửa xong và bố còn phải mua muối, bột và đường. Bố không thể ở lại cắt cỏ khô để dành cho Sam, David và Spot vào mùa đông. Nhưng ông Nelson bằng lòng cắt và chất đống giúp bố số cỏ tràn lan khắp vùng đất thấp với điều kiện có phần chia. Rồi vào một buổi sáng sớm, bố ra đi. Bố vừa đi vừa huýt gió vượt khỏi tầm nhìn với chiếc áo va-rơi cuốn lại đeo dưới vai. Nhưng lần này không có những lỗ thủng trong đôi ủng của bố. Bố không bận tâm về chuyện đi bộ và một ngày nào đó bố sẽ đi bộ trở về. Vào buổi sáng, sau khi làm xong các công việc thường lệ và việc nhà, Laura và Mary ngồi học. Buổi chiều, mẹ lại nghe các cô trả bài. Rồi các cô có thể chơi đùa hoặc khâu vá cho tới giờ đi đón đàn bò để đem Spot và con của nó về. Lúc đó lại phải lo công việc thường lệ rồi tới bữa ăn tối, rửa chén đĩa và đi ngủ. Sau khi ông Nelson chất đống cỏ khô của bố bên khu chuồng, ban ngày rất ấm ở bên phía các đống cỏ có ánh nắng nhưng bên phía có bóng của chúng thì khá lạnh. Gió thổi lạnh buốt và buổi sáng bắt đầu đông giá. Một buổi sáng khi Laura đưa Spot và con bê con của nó tới chỗ bầy bò thì Johnny đang gặp rắc rối với những con vật anh ta đang cố hướng chúng qua khu đồng cỏ phía tây là nơi đám cỏ bị đông giá héo úa đã mọc cao. Lũ bò không chịu đi, chúng đảo vòng rồi chạy ngược trở lại. Laura và Jack giúp anh. Lúc đó mặt trời đang lên và bầu trời quang đãng. Trước khi trở về nhà Laura nhìn thấy một đám mây nhỏ ở phía tây. Cô nhăn mũi, hít một hơi dài sâu và nhớ lại hồi còn ở vùng đất của người da đỏ. Cô gọi: - Mẹ ơi! Mẹ chạy ra ngoài và nhìn về phía đám mây. - Ở xa mà, Laura! Mẹ nói rồi lại tiếp: - Cũng có vẻ như không xa lắm! Suốt buổi sáng gió thổi về phía tây. Buổi trưa, gió thổi mạnh hơn và mẹ cùng Mary, Laura đứng ngoài sân nhìn đám mây tối sầm đang chuyển gần tới. Mẹ lo lắng: - Mẹ không biết bầy bò ở đâu. Cuối cùng mấy mẹ con có thể nhìn thấy một đường sáng lóe phía dưới đám mây. Mẹ nói: - Nếu lũ bò bình an vượt qua suối thì không cần lo, lửa không thể lan qua các luống cày chặn lửa ở đó. Tốt hơn là vào nhà ăn trưa đi, các con. Mẹ bồng Carrie vào nàh nhưng Laura và Mary vẫn đứng nhìn một cột khói đang chuyển tới gần. Rồi Mary đưa tay chỉ và há hốc miệng nhưng không lên tiếng nói. Laura hét thất thanh: -Mẹ! Mẹ! Một bánh xe lửa! Ngay trước cột khói đang lóe lửa đỏ, một vòng lửa lan tới cực nhanh bắt cháy trên đám cỏ. Một vòng lửa khác, một vòng khác nữa rồi lại thêm những vòng khác đang lăn tới dưới sức gió. Vòng lửa đầu tiên đang cuốn xoáy qua luống cày chặn lửa. Mẹ xách một xô nước và một đống giẻ ướt chạy tới trước vòng lửa. Mẹ dập đống giẻ ướt lên ngọn lửa biến nó thành đen ngòm trên mặt đất. Mẹ sấn tới chặn một vòng lửa khác, nhưng càng lúc càng có nhiều vòng lửa lăn tới. Mẹ nói: - Laura, lui lại. Laura lui áp sát vào căn nhà nắm chặt bàn tay Mary đứng nhìn bé Carrie đang gào khóc vì bị mẹ đóng cửa nhốt ở trong nhà. Những bánh xe lửa đang lăn tới càng lúc càng nhanh hơn. Đó là những bụi cây khô không còn rễ bị gió thổi lan rải rác. Lúc này chúng bùng cháy và tiếp tục bị lửa đi trước sức gió và đám lửa đang gào hú. Khói cuốn mù mịt xung quanh mẹ khi mẹ lao tới dùng đám giẻ ướt đập những bánh xe lửa ngùn ngụt cháy. Jack run rẩy dựa vào chân Laura và nước mắt chảy ròng từ những con mắt đầy vẻ tuyệt vọng của nó. Con ngựa màu xám của ông Nelson soải vó phi tới và ông Nelson tụt xuống khỏi nó ngay khu chuồng ngựa. Ông chụp lấy cây chỉa và hô lớn: - Mau lên! Mang hết giẻ ướt tới! Ông lao tới giúp mẹ. Laura và Mary chạy nhào ra suối với những túi cối. Các cô nhúng chúng ướt sũng mang trở lại và ông Nelson thọc những chạc nhọn vào từng chiếc xô nước của mẹ đã cạn và các cô chạy đi xách đầy tiếp. Các bánh xe lửa đang lăn trên đồi. Những lưỡi lửa vươn qua các đám cỏ khô. Mẹ và ông Nelson cố ngăn và chống bằng những đống giẻ và túi cối ướt sũng. Laura bỗng hét lên thất thanh: - Những đống cỏ khô! Những đống cỏ khô! Một bánh xe lửa đã tới sát những đống cỏ khô. Ông Nelson và mẹ chạy băng qua đám khói mù mịt. Một bánh xe lửa lăn qua khu đất cháy nám đen về phía căn nhà. Laura kinh hoàng tới mức không còn biết phải làm gì. Carrie đang bị nhốt ở trong nhà. Laura nắm chặt một chiếc túi cối ướt sũng và dập cho tới khi bánh xe lửa đó tắt ngấm. Lúc này không còn một bánh xe lửa nào nữa. Mẹ và ông Nelson đã chặn đứng ngọn lửa lan về phía những đống cỏ khô. Những mảng cỏ và cỏ khô đen ngòm bay đầy trên không trong lúc lửa ào tới những luống cày chặn lửa. Ngọn lửa không tràn qua nổi và chuyển hướng nhanh về phía nam tới dòng suối. Gặp dòng suối, lửa dồn lên phía bắc và lại gặp dòng suối ở đây. Lửa không thể tiếp tục lan xa nên lụi dần và tắt hẳn tại đó. Những đám mây khói đang tan dần và lửa không còn cháy trên đồng cỏ. Ông Nelson nói phải phóng ngựa đi coi bầy bò. Chúng chắc chắn không sao ở phía bờ suối bên kia. Mẹ nói: - Chúng tôi rất biết ơn ông, ông Nelson. Ông đã cứu căn nhà của chúng tôi. Mấy mẹ con tôi sẽ không thể làm gì được nếu chỉ có một mình. Khi ông ấy đi khỏi, mẹ nói: - Không có gỉ ở trên đời tốt bằng những người láng giềng tốt. Thôi, lo tắm rửa rồi ăn cơm. Chương 34: Những Dấu Hiệu Trên Tấm Bảng Viết Sau trận cháy đồng, thời tiết lạnh đến nỗi mẹ phải vội vã đào khoai tây và nhổ củ cải trước khi chúng bị đông cứng. Mẹ đào khoai còn Mary và Laura lượm mang xuống bỏ vào những chiếc thùng dưới hầm chứa. Gió thổi dữ dội và lạnh buốt. Các cô trùm khăn nhưng đương nhiên không thể mang bao tay. Mũi Mary đỏ hoe còn mũi Laura như biến thành băng. Bàn tay các cô cứng ngắt còn các bàn chân tê cóng. Nhưng các cô đều mừng vì có khá nhiều khoai. Khi công việc làm xong, ngồi hơ ấm bên lò bếp ngửi hương vị khoai đang sôi và cá đang chiên thì thật là thú vị. Cũng rất thú vị khi được ăn và lên nằm trên giường. Rồi trong cái thời tiết tối tăm u ám, các cô nhổ củ cải. Nhổ củ cải nặng nhọc hơn lượm khoai nhiều. Củ cải lớn và rễ bám chắc nên Laura thường phải nhổ rất khó cho tới khi ngồi bệt xuống mới lôi được củ cải lên. Tất cả phần đầu màu xanh mọng nước của củ cải đều phải cắt rời bằng con dao phay. Nước củ cải ướt nhẹp bàn tay các cô và gió làm bàn tay nứt nẻ, chảy máu khiến mẹ phải lấy thuốc mỡ hòa với sáp ong để bôi bàn tay các cô vào buổi tối. Nhưng Spot và con bê con đã ăn những phần đầu củ cải màu xanh mọng nước và cứu nguy cho các cô. Và cũng rất thú vị khi được biết có đủ củ cải trong hầm chứa để kéo dài qua trọn mùa đông. Cũng còn củ cải hấp, củ cải nghiền và kem củ cải. Trong những buổi tối mùa đông, một đĩa củ cải sống đặt trên bàn bên cạnh cây đèn. Các cô gọt hết lớp vỏ dầy và ăn những khoanh củ cải sống mọng nước, giòn tan. Một ngày các cô cất số củ cải cuối cùng xuống hầm chứa và mẹ nói: - Rồi, bây giờ cứ việc đóng băng. Đêm đó mặt đất đông giá vào buổi sáng, tuyết rơi đầy phía ngoài cửa sổ. Lúc này Mary nghĩ ra một cách tính số ngày còn lại cho tới khi bố trở về. Lá thư cuối cùng của bố cho biết hai tuần lễ nữa công việc đập lúa ở chỗ bố sẽ chấm dứt. Mary mang tấm bảng ra và ghi bảy dấu hiệu cho bảy ngày trong tuần lễ. Phía dưới các dấu hiệu này cô nghi thêm bảy dấu hiệu khác chỉ bảy ngày của tuần lễ kế sau. Dấu hiệu cuối cùng là ngày bố sẽ trở về. Nhưng khi các cô đưa tấm bảng cho mẹ coi thì mẹ nói: - Phải thêm những dấu hiệu ghi một tuần lễ bố đi đường trở về nữa. Thế là Mary ghi thêm bảy dấu hiệu nữa một cách chậm chạp. Laura không thích quá nhiều dấu hiệu như thế chen giữa lúc này với lúc bố về tới nhà. Nhưng mỗi đêm, trước khi đi ngủ, Mary xóa đi một dấu hiệu. Điều đó có nghĩa là một ngày đã qua. Mỗi buổi sáng Laura đều nghĩ: - Ước gì trọn ngày này qua hết trước khi Mary xóa một dấu hiệu khác. Những buổi sáng lạnh lẽo đã dễ chịu hơn ở ngoài trời. Mặt đất còn đông cứng băng giá, nhưng tuyết đã tan dưới ánh nắng. Suối Plum tới lúc tỉnh giấc. Những chiếc lá màu nâu bập bềnh trôi theo dòng nước dưới bầu trời xanh lạnh lẽo. Về đêm thật dễ chịu ngồi dưới ánh sáng đèn trong nhà bên hơi ấm của lò bếp. Laura đùa với Carrie và Jack trên mặt nền sàn nhẵn sạch bóng. Mẹ ngồi vá đồ một cách thoải mái và cuốn sách của Mary mở rộng dưới ngọn đèn. Mẹ tháo chiếc đế ra nói: - Tới giờ ngủ rồi, các con. Mary xóa thêm một dấu hiệu và cất tấm bảng. Một đêm, cô xóa dầu hiệu chỉ ngày đầu tiên của tuần lễ cuối cùng. Tất cả đều nhìn cô làm và Mary nói khi cất tấm bảng: - Lúc này bố đang trên đường trở về. Những dấu hiệu này cho biết bố đang đi. Từ một góc nhà, Jack đột nhiên tạo ra một tiếng động tựa hồ nó hiểu rõ lời nói của cô. Nó chạy tới cửa ra vào, đứng thẳng sát khung cửa vừa cào chân vừa rít lên và ngúc ngoắc đuôi. Rồi Laura nghe thấy văng vẳng tiếng huýt gió theo điệu hát «Khi Johny quay về ». - Bố đó! Bố! Cô hét lên, đẩy bung cửa chạy như điên xuống đồi qua bóng tối lộng gió với Jack phóng nhảy phía trước. - Hà, bình rượu nhỏ. Bố nói và ôm ghì lấy cô. Ánh đèn tuôn ra cửa và Mary chạy tới, tiếp theo là mẹ và Carrie. - Bé cưng của bố thế nào? Bố nói và tung Carrie lên. Và bố giật bím tóc của Mary: - Con gái lớn của bố đây rồi. Bố nói với mẹ: - Hãy hôn anh đi, Caroline, nếu em vượt nổi những tay da đỏ này để tới gần anh được. Sau đó là bữa tối dành cho bố và không ai nghĩ đến việc đi ngủ. Laura và Mary kể cho bố nghe về mọi thứ, những bánh xe lửa, những củ khoai tây và củ cải, con bê của Spot đã lớn tới đâu còn các cô thì học được những gì và Mary nói: - Nhưng, bố à, bố không thể ở đây vào lúc này. Bố không đi bộ khác với những dấu hiệu trên bảng được. Cô chỉ cho bố thấy những dấu hiệu chưa xóa, những dấu hiệu cho biết bố còn đang đi. Bố nói: - Bố thấy rồi! Nhưng con đã không xóa những dấu hiệu ghi số ngày mà bố đã gửi thư rất lâu từ trước. Thêm nữa bố cũng đi thật nhanh vì người ta bảo một mùa đông khắc nghiệt đã tràn tới miền bắc. Mình có cần gì ở thị trấn không, Caroline? Mẹ nói không cần điều gì hết. Mấy mẹ con đã ăn rất nhiều cá và khoai tây nên còn giữ được nhiều bột, đường và cả trà nữa. Chỉ riêng muối đã hao nhiều nhưng còn đủ kéo dài cho nhiều ngày nữa. Bố nói: - Vậy thì tốt hơn hết là anh nên đi kiếm củi trước khi mình ra thị trấn. Anh không ưa thứ tiếng gió đó và người ta bảo các cơn bão tuyết ở Minnesota ập đến rất bất ngờ. Anh nghe nói một số nông dân ra thị trấn thì gặp ngay một cơn bão tuyết ào đến khiến không thể trở về nhà được. Con cái họ ở nhà đã đốt hết đồ đạc nhưng vẫn chết cóng trước khi cơn bão tan để họ có thể trở về. Chương 35: Giữ Nhà Bây giờ bố lái xe lên xuống suối Plum suốt ngày chở về hết đống gỗ này tới đống gỗ khác chất gần bên cửa. Bố đốn những cây mận, cây liễu, cây bông gòn già cỗi để những cây nhỏ vươn lên. Bố kéo về xếp dồn lại rồi chặt, bửa thành củi cho tới khi có một đống lớn. Sau đó, với cây rìu cán ngắn dắt trong dây lưng, những chiếc bẫy dưới cánh tay và cây súng trên vai, bố đi thật xa ngược dòng suối Plun đặt bẫy bắt cầy hương, chồn, rái cá và cáo. Một bữa ăn tối, bố nói đã tìm thấy một khu có hải ly. Nhưng bố không thể đặt bẫy ở đó vì chỉ còn mấy con hải ly. Bố nhìn thấy một con cáo và bắn nó nhưng bị trượt. Bố nói: - Anh đã hết hi vọng săn bắn. Ở đây mình có một chỗ thật tốt nhưng không có nhiều mồi săn. Cho nên có người đã nghĩ tới những địa điểm ở ngoài miền tây, nơi mà… - Nơi không có trường học cho tụi nhỏ, Charles ạ! Mẹ nói và bố bảo: - Em có lý, Caroline! Em vẫn thường như thế. Nhưng hãy nghe thứ gió kia. Ngày mai sẽ có bão. Nhưng hôm sau lại là một ngày dễ chịu như trong mùa xuân. Không khí nhẹ nhàng, ấm áp và nắng chan hòa. Giữa chừng buổi sáng, bố quay về nhà. Bố nói với mẹ: - Mình nên ăn cơm trưa sớm rồi làm một chuyến đi vào thị trấn chiều nay. Em không thể cứ ru rú ở trong nhà vào một ngày đẹp trời như thế này. Mình có dư thời giờ để làm chuyện này trước khi mùa đông thực sự tới. Mẹ nói: - Nhưng còn các con. Mình đâu có thể đưa Carrie đi bộ xa thế. Bố cười với mẹ: - Ui dà! Mary và Laura lúc này đều lớn bộn. Chúng có thể lo cho Carrie một buổi chiều mà. Mary lên tiếng: - Chúng con làm được, mẹ! Laura cũng nói: - Chúng con làm được! Các cô ngắm bố Mary vui vẻ rời nhà. Mẹ rất duyên dáng với chiếc khăn san Giáng sinh nâu đỏ, chiếc mũ len trùm đầu màu nâu cột dây ở dưới cằm. Mẹ bước đi thoăn thoắt và nhìn bố bằng ánh mắt tươi tỉnh đến nỗi Laura bỗng nghĩ mẹ giống như một con chim. Sau đó Laura quét nền sàn trong lúc Mary dọn dẹp bàn ăn. Mary rửa chén đĩa cho Laura lau khô và cất nó vào tủ chén. Các cô trải lên bàn tấm khăn kẻ ô vuông màu đỏ. Bây giờ trước mặt các cô là buổi chiều dài dặc mà các cô có thể tùy ý chơi đùa. Trước hết, các cô quyết định chơi trò dạy học. Mary bảo cô phải là cô giáo vì cô lớn hơn, và hơn nữa, cô biết nhiều hơn. Laura thấy đúng thế. Vậy là Mary thành cô giáo và rất thích, nhưng Laura chán trò chơi này rất mau. Laura nói: - Em biết rồi. Cả hai đứa mình cùng dạy chữ cho Carrie đi. Các cô đặt Carrie ngồi trên chiếc ghế dài với cuốn sách mở trước mặt bé và cả hai đều cố dạy theo cách hay nhất. Nhưng Carrie không thích. Bé không học chữ nên các cô đành ngưng trò chơi. Laura nói: - Thôi, mình chơi trò giữ nhà đi. Mary nói: - Mình đang giữ nhà rồi còn chơi trò ấy làm gì? Căn nhà vắng vẻ và lặng lẽ vì thiếu mẹ. Mẹ vẫn thướng im lìm và gượng nhẹ tới mức không bso giờ gây ra một tiếng ồn, nhưng lúc này cả căn nhà như đang lắng nghe mẹ. Laura ra ngoài một lát rồi trở vào. Buổi chiều trở nên dài hơn và dài hơn nữa. Không còn một việc gì để làm. Ngay cả Jack cũng nhấ nhổm không yên. Nó có vẻ muốn ra ngoài nhưng lúc Laura mở cửa thì nó lại không đi. Nó nằm xuống rồi đứng lên, đi vòng vòng trong phòng. Nó tới gần Laura nhìn cô đăm đăm. Laura hỏi nó: - Có gì vậy, Jack? Nó nhìn cô chăm chú và cô không hiểu ý nó và nó gần như hú lên. Laura vội nói với nó: - Đừng, Jack! Bạn làm ta phát hoảng bây giờ. Mary bỗng hỏi: - Có chuyện gì ở bên ngoài? Laura chạy ra nhưng Jack ngoạm vào áo cô kéo cô ghì lại ở bậc cửa. Phía ngoài trời lạnh như cắt. Laura đóng cửa lại. Cô lên tiếng: - Coi kìa! Nắng bị che tối hết. Chắc đám châu chấu đang quay lại? Mary gắt: - Làm gì có châu chấu ở mùa đông, đồ ngốc! Sắp mưa đó! Laura cãi lại: - Chị mới ngốc! Mùa đông làm gì có mưa! - Vậy thì sắp có tuyết! Có gì khác không? Mary nổi giận và Laura cũng thế. Các cô tiếp tục tranh cãi nhưng đột nhiên nắng tắt hẳn. Các cô vội tới cửa sổ phòng ngủ nhìn ra. Một đám mây đen với một đám mây trắng như lông cừu đang bay tới cực nhanh từ phía tây bắc. Mary và Laura nhìn qua ô cửa sổ phía trước. Đã tới giờ bố mẹ trở về nhưng các cô chưa thấy bóng dáng ai cả. Mary nói: - Có thể đó là mưa tuyết. Laura nói: - Giống như bố đã nói với mình. Cả hai nhìn nhau qua làn không khí u ám. Các cô cùng nghĩ về những đứa trẻ bị chết cóng trong đông giá. Laura nói: - Vựa củi hết trơn rồi! Mary chộp lấy cô. Mary nói: - Không được! Mẹ đã dặn mình phải ở trong nhà, nếu có bão. Mary giật thoát ra và Mary nói: - Jack không để cho em đi đâu. Laura bảo: - Mình cần mang củi vào nhà trước khi bão tới. Mau lên! Các cô đã nghe thấy những tiếng động lạ lùng trong gió tựa hồ tiếng kêu thét vẳng tới từ xa. Cả hai vội vàng choàng khăn và kẹp dính cứng dưới cằm với những kẹp khăn lớn rồi đeo găng tay. Laura làm xong trước. Cô nói với Jack: - Tụi mình đi khuân củi, Jack! Dường như nó hiểu. Gió thổi lạnh hơn băng. Laura chạy tới đống củi ôm đầy một ôm rồi quay vào với Jack chạy theo sau. Cô không thể mở cửa vì mắc ôm củi. mình phải mở cửa cho cô. Rồi các cô không biết đã làm những gì. Đám mây lướt đến cực nhanh và cả hai phải mang được củi vào nàh trước khi bão tới. Các cô không thể mở cửa khi tay ôm đầy củi và các cô cũng không thể để ngỏ cửa cho hơi lạnh ùa vào nhà. Bé Carrie nói: - Em mở cửa. Mary nói: - Em không mở được. - Em mở. Carrie cãi và đưa cả hai bàn tay lên xoay nắm đấm cửa. Bé xoay ngược! Carrie đã đủ lớn để mở cửa. Laura và Mary hối hả mang củi vào. Carrie mở cửa khi các cô tới và đóng lại khi các cô qua. Mary có thể ôm những ôm nhiều hơn nhưng Laura chạy nhanh hơn. Các cô chất đầy hộc củi trước khi tuyết trút xuống. Tuyết tuôn đến thình lình trong một cơn gió xoáy và giống như những hạt cát. Mặt đau rát dưới sức đập của tuyết. Khi Carrie mở cửa, tuyết cuốn vào trong nhà thành một cuộn mây trắng. Laura và Mary quên bẵng lời mẹ dặn phải ở trong nhà khi có bão. Cả hai chạy lui tới như điên, cố mang hết củi vào bỏ trong nhà. Các cô chất đầy củi xung quanh hộc rồi chất xung quanh lò. Các cô chất củi tựa vào vách, dồn thành những đống cao hơn, lớn hơn. Bang! Các cô sập mạnh cửa, phóng thẳng tới đám củi. Cốp! Cốp! Cốp! Các cô chất củi lên cánh tay. Các cô phóng trở lại cửa. Bùm! Cánh cửa mở ra và Bang! Các cô húc cánh cửa sập lại, rồi thịch thịch thịch, các cô trút củi xuống, bay trở lại lao ra ngoài tới đống củi, tiếp tục gom ôm. Các cô không thể nhìn rõ đống củi trong lớp màn trắng quay cuồng. Tuyết trút mù mịt trên đống củi. Các cô không còn nhìn rõ căn nhà và Jack chỉ còn là một khối tròn tối lật đật bên cạnh các cô. Tuyết xối trên mặt các cô. Các cánh tay Laura nhức buốt, ngực cô bị ép nghẹn nhưng suốt thời gian đó cô luôn nghĩ: Ôi, bố đâu rồi? Mẹ đâu rồi? Và cô hối mình: - Mau lên! Mau lên! Bên tai cô, tiếng gió không ngừng kêu thét. Đống củi đã hết. Mary lượm một vài thanh và Laura lượm một vài thanh cuối cùng. Các cô cùng chạy tới cửa. Laura đạp cửa mở ra và Jack nhảy vào nhà. Carrie ở trước cửa sổ, vỗ hai bàn tay, la lớn. Laura trút mấy thanh củi lớn và quay lại đúng lúc thấy bố và Mary thình lình xuất hiện đang cố chạy khỏi màn tuyết trắng xoay tít. Bố cầm tay mẹ đang giúp lôi Mary chạy tới. Cả hai lao vào được trong nhà, sập cửa lại và đứng thở hổn hển, người phủ đầy tuyết. Không ai nói gì trong lúc bố mẹ nhìn Laura và Mary đang đứng với những chiếc khăn trùm và bao tay đầy tuyết. Cuối cùng Mary nói nho nhỏ: - Chúng con đã ra ngoài trong lúc đang có bão, mẹ. Chúng con quên mất. Đầu Laura cúi xuống và cô nói: - Chúng con không muốn phải đốt cháy đồ đạc và không muốn bị chết cóng, bố. Bố nói: - Tốt, chính bố mới đáng bị trách, nếu các con không chuyển hết đống củi vào nhà. Đó là trọn số củi bố tính dành cho hai tuần lễ tới. Tất cả đống củi đã ở đó, chất đống trong nhà. Tuyết trên củi tan chảy ra thành những vũng nước. Một đường nước chảy ra cửa nơi tuyết đang nằm đọng không tan ra. Rồi bố vùng cười lớn và nụ cười mỉm dụi dàng của mẹ sưởi ấm Mary và Laura. Các cô biết là đã được tha cho lỗi không vâng lời vì đã khôn ngoan mang củi vào nhà, dù là đã mang quá nhiều củi. Không bao lâu nữa, các cô sẽ đủ lớn để không mắc những sai phạm và lúc đó các cô có thể tự quết định nên làm điều gì. Các cô không còn phải nhất nhất tuân theo mọi lời nhắc nhở của bố mẹ. Các cô lăng xăng mở khăn san và mũ trùm của mẹ ra rũ tuyết, treo lên để hong khô. Bố lật đật ra khu chuồng ngựa làm các việc thường lệ trước khi bão trở nên tồi tệ hơn. Rồi trong lúc mẹ ngồi nghỉ, các cô chất lại củi cho gọn gàng theo mẹ chỉ dẫn và quét rồi thấm khô nước trên nền sàn. Căn nhà đã ngăn nắp và ấm cúng trở lại. Ấm trà đang reo, ánh lửa lóe sáng từ những kẽ gió lùa trên lò bếp. Phía ngoài, tuyết đập ào ào trên các cánh cửa sổ. Bố bước vào nhà. - Đây là phần sữa anh đem về đây được. Gió đã tạt sữa bay ra khỏi thùng gần hết. Caroline, trận bão này thật khủng khiếp. Anh không nhìn rõ nỗi một inch trước mắt và gió từ mọi hướng thổi đến một lúc. Anh nghĩ là anh đi đúng đường nhưng không nhìn rõ căn nhà, thế rồi, thật may là anh đâm sầm vào góc nhà. Chỉ cần lệch sang trái một bước là anh không bao giờ vào nhà được. Mẹ kêu: - Charles! Bố nói: - Bây giờ thì không còn gì đáng sợ nữa. Nếu tụi mình không ráng chạy suốt đường từ thị trấn về để tới nhà trước cơn bão thì… Mắt bố bỗng sáng lên. Bố xoa mái tóc của Mary và kéo tai Laura. Bố nói: - Bố mừng là tất cả đống củi đã được chuyển vào trong nhà. bachmr vẫn chưa có mặt trong diễn đàn Trả Lời Với Trích Dẫn Chương 36: Mùa Đông Trên Thảo Nguyên Hôm sau, trận bão càng tồi tệ hơn. Không thể nào nhìn qua cửa sổ vì tuyết chất đầy biến những ô kính thành lớp kính màu trắng. Bố tháo một cuộn thừng khỏi chiếc móc trong gian chái. Bố nói: - Anh sợ sẽ không có gì hướng dẫn cho anh trở lại ngoài nó. Buộc sợi dây này vào đoạn cuối của dây phơi đồ rồi, anh còn phải kéo nó tới chuồng ngựa. Tất cả chờ đợi trong sự sợ hãi cho tới khi bố trở lại. Gió đã tạt sữa bay gần hết khỏi chiếc xô và bố phải ngồi sát lò để hơ nóng người trước khi có thể kể lại mọi chuyện. Bố chỉ cảm thấy hướng đi nhờ sợi dây phơi đồ cột vào gian chaí cho tới chỗ cây cọc cột đoạn cuối sợi dây. Tại đây, bố buộc sợi dây mang theo vào cọc rồi đi tới với sợi dây cánh tay. Bố không thể nhìn thấy bất kì thứ gì ngoài những đợt tuyết quay cuồng. Đột nhiên bố chạm phải một cái gì đó và nhận ra là bức vách chuồng ngựa. Đúng ra bố chỉ cảm thấy nó cho tới khi bố đến được tới khung cửa và bố đã cột đoạn cuối sợi dây vào khung cửa này. Nhờ vậy, sau khi làm xong mọi việc, bố đã trở về được nhờ lần theo sợi dây. Bão kéo dài suốt ngày. Các khung kính cửa sổ trắng xóa và gió không lúc nào ngưng gào hú, gầm thét. Thật dễ chịu được ngồi trong căn nhà ấm áp. Laura và Mary lo học bài, rồi bố chơi đàn trong lúc mẹ đu mình trên ghế và đan, còn nồi súp đậu đang sôi sùng sục trên lò. Bão kéo dài suốt đêm và qua trọn ngày hôm sau. Ánh lửa nhảy múa trên những kẽ lò trong lúc bố kể chuyện rồi chơi đàn. Buổi sáng kế tiếp, gió chỉ còn rít nhẹ và mặt trời đã tỏa sáng. Qua cửa sổ, Laura nhìn thấy tuyết cuốn theo gió thành những vòng xoáy trắng trên khắp mặt đất. Khắp nơi giống như dòng suối Plum sủi bọt trong cơn lũ với điểm khác biệt duy nhất cơn lũ lúc này là tuyết. Ngay cả ánh nắng lúc này cũng lạnh như cắt. Bố nói: - Tốt, cơn bão qua rồi. Nếu anh tới được thị trấn vào ngày mai thì sẽ lo liệu để được cung cấp thêm thức ăn. Hôm sau, tuyết trở thành những dòng chảy trên mặt đất. Những cụm khói tuyết được gió thổi bốc lên từ mọi nơi trên những dòng tuyết đang chảy. Bố lái xe ra thị trấn và mua về những túi lớn bột bắp, bột, đường và đậu. Thế là đã có đủ thức ăn cho một thời gian dài. Bố nói: - Thật lạ lùng khi phải hình dung thức ăn từ đâu tới. Tại Wisconsin, mình luôn có dư thịt nai, thịt gấu và vùng đất của người da đỏ thì có đủ thứ thịt linh dương, hươu, thỏ, ngỗng, gà tây và mọi thứ thịt mà người ta cần có. Còn ở đây chỉ có những con thỏ nhỏ. Mẹ nói: - Mình cần sắp xếp lo chăn nuôi dể có thức ăn. Đâu có khó gì việc nuôi béo những con vật của mình trên vùng đất là những cánh đồng gieo được nhiều loại hạt. Bố nói: - Đúng đó. Năm tới chắc chắn mình sẽ trồng lúa mì. Hôm sau, một cơn bão tuyết khác kéo tới. Lại là những đám mây tối, thấp lướt nhanh về từ phía tây bắc cho tới khi mặt trời bị xoá nhoà, mây che kín hết bầu trời, gió gào hú gào thét và tuyết quay cuồng xoáy tít phủ kín mọi vật dưới một lớp màu trắng mịt mù. Bố lần theo sợi dây thừng đi lại khu chuồng ngựa. Mẹ lo nấu ăn, lau dọn, khâu và và giúp Mary và Laura cùng học bài. Các cô rửa chén đĩa, dọn dẹp giường, quét sàn nhà, giữ tay chân, mặt mũi sạch sẽ và bện tóc gọn ghẽ. Các cô học bài rồi chơi với Carrie và Jack. Các cô vẽ hình trên tấm bảng và dạy Carrie viết những chữ A, B, C. Mary vẫn đang vá tấm bọc chăn phủ. Lúc này Laura bắt đầu khâu một tấm trải giường viền da gấu. Việc này khó hơn vì nhiều đường khâu chéo không dễ làm cho mềm đi. Mỗi đường khâu đều phải chính xác trước khi mẹ vạch ra một đường khác và Laura thường mất nhiều ngày mới khâu xong một đường ngắn. Vì vậy các cô bận rộn suốt ngày. Và ngày nọ nối theo ngày kia trôi đi với những trận bão tuyết nối theo nhau. Một trận bão tuyết vừa chấm dứt để có một ngày tạnh nắng thì liền ngay sau là một trận bão tuyết khác. Vào nhữnn ngày có nắng, bố hối hả làm việc, chẻ củi, thăm bẫy, lôi cỏ ra khỏi những đống bị ngấm tuyết trong chuồng. Nếu ngày nắng không phải là ngày thứ hai thì mẹ vẫn lo giặt đồ, treo lên dây phơi để hong khô. Ngày hôm đó không có bài học. Laura, Mary và Carrie bọc kín trong các bộ đồ ấm, chơi đùa dưới ánh nắng ở bên ngoài. Ngày kế tiếp, một trận bão tuyết khác tới, nhưng bố và mẹ đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng. Nếu ngày nắng là chủ nhật, các cô có thể nghe tiếng chuông nhà thờ. Tiếng chuông trong trẻo, dịu êm lan qua vùng trời lạnh và cả nhà đứng ngoài cửa lắng nghe. Các cô không thể dự các buổi học ngày chủ nhật vì một trận bão tuyết khác có thể ập đến trước khi các cô kịp về tới nhà. Nhưng mỗi ngày chủ nhật các cô vẫn có những buổi học chủ nhật của riêng mình. Laura và Mary nhắc lại những đoạn Kinh thánh. Mẹ đọc một câu chuyện trong Kinh thánh và một đoạn thánh thi. Rồi bố đàn một bản thánh ca và cả nhà cùng hát: - Khi mây giăng ngang trời u tối Bóng mây in mù mịt khắp nơi Đường tôi đi rạng ngời hi vọng Chúa Kitô dìu đỡ bên tôi. Mỗi ngày chủ nhật bố đều đàn và cả nhà hát: Chủ nhật ơi, ngọt ngào biết mấy Tiên cảnh nào xứng đáng sánh đôi Con tim này trọn đời trao gửi Chủ nhật ơi, chỉ riêng Người thôi. Chương 37: Cơn Bão Lê Thê Giờ ăn tối một ngày sắp dứt cơn bão, bố nói: - Ngày mai anh sẽ ra thị trấn. Anh cần mua thuốc hút và nghe ngóng tin tức. Em có cần gì không, Caroline? Mẹ nói: - Không, Charles. Anh không nên đi. Các trận bão tới nhanh lắm. Bố nói: - Ngày mai chẳng có gì nguy hiểm đâu. Mình đã chịu một trận bão ba ngày rồi. Anh đã chẻ củi đủ dùng hết tuần tới và lúc này anh có thể rảnh rang để ra thị trấn. Mẹ nói: - Cũng được. Nếu anh thấy đúng như thế. Nhưng ít nhất là anh phải hứa là sẽ ở lại thị trấn nếu bão kéo tới. Bố nói: - Anh sẽ không bước liều trong một trận bão nếu không nắm được sợi dây bảo đảm an toàn. Nhưng nếu lỡ xảy ra điều gì khác với ý em, Caroline, thì cũng đừng sợ là anh bị cuốn đi đâu. Mẹ đáp: - Em không thể làm gì được trong trường hợp đó. Em chỉ cảm thấy không yên tâm về việc anh đi. Em có cảm giác là… mà thôi, em điên quá! Bố cười: - Anh sẽ ra mang củi vào, phòng khi anh bị kẹt ở lại thị trấn. Bố chất đầy củi vào trong hộc củi và chất đống cao ở cả xung quanh. Mẹ đòi bố phải mang đôi vớ tốt nhất để đảm bảo giữ cho các bàn chân khỏi bị tê cóng. Thế là Laura mang đồ tháo giày ra cho bố để bố tháo ủng mang thêm đôi vớ khác choàng ra ngoài đôi vớ đang mang. Mẹ đưa cho bố đôi vớ len dày ấm mà mẹ mới đan xong. Mẹ nói: - Em mong anh có một chiếc áo khoác bằng da. Chiếc áo cũ đó mỏng quá. Bố nói: - Anh thì mong em sẽ có một mớ hột xoàn. Đừng buồn nghe, Caroline. Mùa xuân sắp đến rồi. Bố mỉm cười với mọi người trong lúc cài khoá dây lưng chíêc áo khoác cũ đã sờn và chụp chiếc mũ ấm bằng nỉ lên đầu. Mẹ lo lắng: - Gió lạnh khiếp lắm, Charles. Buông mấy mảnh che tai xuống đi. Bố nói: - Sáng nay không lạnh đâu! Cứ để cho gió thổi! Bây giờ, Các con gái, ráng ngoan cho tới lúc bố về, nghe! Và mắt bố sáng rỡ nhìn Laura lúc bố đóng cửa lại. Sau khi rửa lau chén đĩa, qúet nền sàn, dẹp giường, phủi bụi xong, Laura và Mary ngồi xuống với mấy cuốn sách. Nhưng căn nhà ấm áp và dễ thương tới mức Laura không thể không nhìn quanh. Chiếc bếp lò đen sạch bóng như toả sáng. Một chảo dầu đang sôi trên lò và bánh đang được hấp trong lò hấp. Nắng dọi nghiêng qua những khung cửa sổ sáng trưng với những màn che viền màu hồng. Tấm khăn kẻ ô vuông màu đỏ phủ trên mặt bàn. Cạnh chiếc đồng hồ, con chó màu nâu trắng của Carrie đứng gọn trên giá với chiếc hộp đựng đồ nữ trang của Laura. Và bức tượng cô gái chăn cừu trắng hồng xinh xắn đang đứng mỉm cười trên chiếc xích đông bằng gỗ nâu. Mẹ đem giỏ đồ khâu ra ngồi trên chiếc đu bên cửa sổ và bé Carrie ngồi trên miếng để chân cạnh đầu gối mẹ. Trong lúc đu đưa ngồi khâu vá, mẹ nghe bé Carrie đọc những chữ đầu tiên mới học. Carrie chỉ được chữ A lớn rồi chữ a nhỏ, chữ B lớn rồi chữ b nhỏ rồi bé cười nói và ngắm những tranh vẽ. Bé còn quá nhỏ nên không thể giữ im lặng trong lúc học. Chíêc đồng hồ báo mười hai tiếng. Laura ngắm chiếc quả lắc đu đưa và những chíêc kim màu đen di chuyển trên mặt đồng hồ màu trắng. Đã tới giờ bố trở về nhà. Đậu đã chín và bánh cũng nướng xong. Mọi thứ đều sẵn sàng cho bữa ăn trưa của bố. Mắt Laura hướng về phía cửa sổ. Cô nhìn một hồi trước khi nhận ra một điều bất thường trong ánh nắng. Cô kêu lên: - Mẹ! Màu trắng kì lạ quá! Mẹ ngước lên khỏi món đồ khâu và hoảng hốt. Mẹ bước nhanh về phía buồng ngủ để nhìn về phía tây bắc rồi vội vã quay lại. Mẹ nói: - Cất sách đi, các con. Ra bó củi mang vào nhà. Nếu bố chưa về nhà thì có thể bố sẽ ở lại thị trấn và mình cần có nhiều củi ở trong nhà. Từ chỗ đống củi, Mary và Laura nhìn thấy đám mây đen đang kéo tới. Các cô lật đật lấy củi rồi chạy nhưng chỉ còn đủ thời giờ cho các cô ôm được vài bó trước khi cơn bão gầm hú lao tới. Giống như bão gậin dữ vì các cô đã ôm đi hai bó củi. Tuyết xoay tít dày đặc đến nỗi các cô không còn nhìn thấy bậc cửa và mẹ nói: - Thế cũng tạm rồi. Bão sẽ không dữ hơn và có thể bố sẽ trở về tới nhà trong ít phút nữa. Mary và Laura trút bỏ khăn áo choàng và hơ ấm những bàn tay lạnh cóng. Các cô đợi bố về. Gió gầm hú, gào thét và quạt qua xung quanh nhà. Tuyết bay vun vút trên các khung cửa sổ. Chíêc kim đen dài nhích chậm chậm quanh mặt đồng hồ và chiếc kim ngắn chuyển tới số một, rồi tới số hai. Mẹ múc đầy ba chén đậu nóng, bẻ vụn một ổ bánh mì đang bốc hơi. Mẹ nói: - Đây, các con gái. Các con phải ăn trước thôi. Bố kẹt ở lại thị trấn rồi. Mẹ đã quên không múc đầy chén của mình. Rồi mẹ quên cả ăn cho tới khi Mary lên tiếng nhắc. Tới lúc đó mẹ cũng không ăn. Mẹ bảo mẹ không đói. Trận bão đang dữ dằn hơn. Căn nhà như đang run lên trong gió. Hơi lạnh trườn trên nền sàn và bụi tuýêt bám quanh các khung cửa sổ, cửa ra vào đã được bố đóng rất chắc. Mẹ nói: - Chắc chắn bố phải ở lại thị trấn rồi. Bố sẽ ở đó suốt đêm nên bây giờ mẹ phải lo làm các công việc thường lệ. Mẹ mang đôi ủng cũ mà bố vẫn dùng mang đi trong nhà chuồng. Mấy bàn chân nhỏ nhắn của mẹ lọt thỏm trong đôi ủng nên không tránh khỏi bị nhiễm tuyết. Mẹ cài kín cổ chíêc áo gió của bố và buộc chặt dây quanh eo rồi trùm mũ, đeo găng tay. Laura hỏi: - Con đi theo được không, mẹ? Mẹ nói: - Không. Bây giờ các con nghe mẹ dặn đây. Phải hết sức cẩn thận củi lửa. Ngoài Mary, không ai được đụng tới lò bếp và cũng không có gì phải quan tâm dù mẹ ở ngoài bao lâu. Cho tới khi mẹ trở lại, các con không được bước ra ngoài, kể cả không được mở cửa. Mẹ khoác chiếc xô đựng sữa vào cánh tay, đi vào phía tuyết đang quay cuồng cho tới khi nắm được vào sợi dây phơi đồ. Mẹ đóng cửa ra vào phía sau. Laura chạy tới bên khung cửa sổ tối đen nhưng không thể nhìn thấy mẹ. Cô không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì ngoại trừ một màn trắng xoá xoay tít và đập không ngừng lên kính cửa sổ. Gió kêu thét, la hú rồi lải nhải rên than. Lẫn trong tiếng gió giống như có những giọng nói. Mẹ bám chắc sợi dây, bước lần từng bước. Mẹ đã tới cây cọc và bước tiếp mò mẫm khó khăn trong tuyết đang đảo lộn, cào dập trên má mẹ. Laura nhẩm tính chầm chậm theo từng nhịp thời gian cho tới lúc cô tin là mẹ đã đâm sầm vào khung cửa chuồng ngựa. Mẹ mở cửa và bị xô vào cùng với tuyết. Mẹ xoay lại đóng cửa thật nhanh và cài chốt. Chuồng ngựa khá ấm nhờ hơi nóng của lũ gia súc và hơi thở của chúng đọng thành hơi nước. Vách đất dầy ngăn bão lại phía ngoài nên trong chuồng khá yên tĩnh. Sam và David quay đầu lại khẽ hí lên với mẹ. Con bò cái kêu lên “Boò- oò” và con bê kêu lên “Be-ee”. Những con gà mái đang cào bới và một con cất tiếng kêu: “Kéé- ééc! Kéé- ééc!”. Mẹ dọn tất cả các ngăn chuồng với cây chĩa. Từng chĩa, từng chĩa, mẹ dẹp ổ nằm cũ trên đống phân. Rồi mẹ lấy cỏ từ trong máng ăn trải lên làm thành các ổ nằm mới. Rồi mẹ lấy cỏ khô sạch từ trong đống nhồi đầy các máng ăn. Sam, David, Spot và con bê đứng nhai cỏ khô rào rạo. Chúng không khát vì bố đã đổ đầy nước cho chúng trước khi bố ra thị trấn. Mẹ cắt củ cải bằng con dao phay cũ do bố đặt bên đống củ cải. Mẹ trút một ít củ cải vào từng máng ăn và lúc này mấy con ngựa và bò đang nhai những miếng củ cải giòn tan. Mẹ coi lại đĩa nước dành cho đám gà mái để biết chắc còn nước. Mẹ trút thêm cho chúng một ít bắp và củ cải. Lúc này mẹ phải vắt sữa Spot. Laura chờ cho tối khi cô đoán chắc là mẹ đang treo chiếc ghế ngồi vắt sữa lên. Mẹ cẩn thận khóa cửa chuồng ngựa lại, nắm chắc sợi dây quay về căn nhà. Nhưng mẹ không về tới dù Laura đã chờ khá lâu. Cô quyết định chờ thêm một hồi nữa. Gió đang lay động căn nhà. Tuyết đọng thành hạt như đường phủ dày trên ngưỡng cửa sổ và rơi dày trên sàn như cát không tan chảy. Laura run rẩy trong chiếc khăn choàng. Cô tiếp tục nhìn các ô kính cửa sổ trong lúc lắng nghe tiếng tuyết bay và tiếng gió gào hú, quẫy đập. Cô nhớ tới những đứa trẻ mà bố mẹ chúng không về gặp kịp. Chúng đã đốt hết đồ đạc và bị đông cứng vì lạnh. Lúc đó Laura không thể chờ lâu hơn được nữa. Lửa trong lò đang cháy đều nhưng chỉ một góc phòng ấm áp. Laura lôi chiếc ghế đu tới gần cửa lò hấp bánh để ngỏ, đặt Carrie ngồi lên đó và kéo áo ngay ngắn lại. Carrie đu đưa chiếc ghế một cách thích thú trong lúc Mary và Laura chờ. Cuối cùng cửa sau bật mở. Laura chạy bay tới với mẹ. Mary đỡ chiếc xô sữa trong lúc Laura cởi mũ trùm đầu của mẹ. Mẹ quá lạnh và không còn hơi để nói. Các cô giúp mẹ cởi áo gió. Điều đầu tiên mẹ nói là: - Trong xô còn sữa không? Chỉ còn một ít dưới đáy xô và một ít đã đông cứng bên trong xô. Mẹ nói: - Gió khủng khiếp! Mẹ hơ ấm hai bàn tay rồi thắp đèn sáng đặt trên ngưỡng cửa sổ. - Tại sao để đèn ở đó, mẹ? Mary hỏi và mẹ đáp: - Con không nghĩ là ánh đèn sẽ dọi sáng phần nào tuyết ở ngoài đó sao? Khi mẹ đã khỏe lại là bữa tối với bánh mì và sữa. Rồi mấy mẹ con ngồi im bên lò bếp lắng nghe. Chỉ có tiếng gió gào hú, gấm thét, tiếng căn nhà chuyển động răng rắc và tiếng tuyết bay ào ào. Mẹ bỗng nói: - Bão khó thể ngừng nổi. Mình chơi trò cháo đậu nóng đi, Mary. Con bắt cặp với Laura, còn Carrie, nhấc bàn tay lên. Hai mẹ con mình sẽ chơi nhanh hơn Mary và Laura. Thế là mấy mẹ con chơi trò cháo đậu nóng, nhanh hơn mãi cho tới khi đọc trật hết nhịp vì lo cười. Sau đó Mary và Laura lo các rửa đĩa dùng trong bữa tối trong lúc mẹ ngồi xuống đan. Carrie đòi chơi tiếp trò chơi cháo đậu nóng nên Mary và Laura quay lại chơi cùng với bé. Mỗi khi các cô ngừng là Carrie lại kêu lên: - Nữa! Nữa! Bão vẫn gào hú, rên rỉ rồi gầm thét trong lúc căn nhà như đang run rẩy. Laura vỗ nhẹ lên bàn tay Carrie: - Người ưa cháo đậu nóng, người ưa cháo đậu nguội Người ưa cháo trong bình chín ngày… Thình lình ống khói lò nổ lách tách. Laura nhìn lên và hét thất thanh: - Mẹ! Nhà cháy! Một trái cầu lửa đang từ ống khói lăn xuống. Trái lửa lớn hơn cuộn chỉ của mẹ. Nó lăn qua lò bếp rơi xuống nền sàn đúng lúc mẹ nhảy bật lên. Mẹ chộp váy lên và đạp chân lên trái lửa. Nhưng hình như nó phóng qua bàn chân mẹ rồi lăn tới đám len do mẹ buông rơi xuống. Mẹ cố gạt nó vào trong chảo tro nhưng nó chạy về phía những cây kim đan và lăn theo sau. Một trái cầu lửa khác lại lăn xuống khỏi ống khói, rồi một trái khác nữa. Chúng lăn qua nền sàn theo sau những cây kim đan nhưng không bắt cháy trên nền sàn. Mẹ kêu lên: - Lạy Chúa! Trong lúc mấy mẹ con nhìn trái cầu lửa đang lăn thì thình lình chỉ còn lại hai trái rồi không còn gì cả. Không ai nhìn thấy chúng biến đi đâu. - Đây là điều kì lạ nhất mà mẹ thấy. Mẹ nói và cảm thấy sợ. Lông trên lưng Jack dựng đứng lên hết. Nó đi tới cửa hếch mũi lên hửi rồi hú. Mary co rúm người lại và mẹ đưa bàn tay lên bịt tai. Mẹ nói như cầu khẩn con chó: - Tội nghiệp, Jack, im đi! Laura chạy tới chỗ Jack nhưng nó không muốn được ve vuốt. Nó lui về góc phòng của mình và nằm xuống đặt mũi lên hai bàn chân, lông vẫn dựng đứng và mắt lóe sáng cho tới khi mẹ nói: - Thà rằng lên giường đi, các con. Ngủ sớm thì sáng sẽ tới sớm. Mẹ hôn chúc các cô ngủ ngon và Mary leo lên thang gác. Nhưng Laura ngưng lại ở lưng chừng. Mẹ đang hơ ấm chiếc áo dài ngủ của bé Carrie bên lò bếp. Laura thấp giọng, hỏi mẹ: - Có đúng bố ở lại thị trấn không, mẹ? Mẹ không nhìn lên, nhưng tiếng mẹ vui vẻ: - Chắc chắn mà Laura. Lúc này hẳn bố đang ngồi với ông Fitch bên lò sưởi để nói chuyện và đùa giỡn với nhau. Laura bước tới giường. Đêm khuya cô tỉnh giấc và nhìn thấy ánh đèn chiếu sáng qua cửa lên ở đầu cầu thang. Cô bò ra khỏi giường giữa đêm lạnh, quỳ gối lên sàn gác nhìn xuống. Mẹ ngồi một mình trong ghế. Đầu mẹ hơi cúi xuống. mẹ ngồi im nhưng mở mắt nhìn những bàn tay đang bám chặt vào vạt áo. Ngọn đèn đang chiếu sáng qua cửa sổ. Laura nhìn xuống một hồi lâu. Mẹ không cử động. Ngọn đèn vẫn chiếu sáng. Bão đang gào hú la hét qua bóng đêm kinh hoàng đang bao quanh căn nhà run sợ. cuối cùng Laura lặng lẽ bò trở lại giường và nằm run rẩy. Chương 38: Ngày Bày Trò Sáng hôm sau, mẹ gọi Laura dậy ăn sáng trễ. Cơn bão dữ dằn đã cuồng daị hơn. Sương giá đọng trắng như lông thú phủ trên cửa sổ. Trong nhà, tuyết như đường cát rải trên nền sàn và các tấm phủ giường. Trên gác lạnh tới nỗi Laura chộp vội quần áo vội vã chạy xuống thay đồ bên lò bếp. Mary đã thay đồ xong và đang cài nút áo cho Carrie. Trên bàn ăn, món cháo bắp nóng đã bày sẵn cùng với sữa, bơ và bánh mì mới nướng. Ánh sáng ban ngày mờ nhạt. Trên các ô cửa kính và cửa sổ, sương giá dày đặc. Mẹ khơi thêm lò bếp và nói: - Rồi, lũ ngựa phải được ăn thôi. Mẹ mang ủng, mặc áo gió của bố, choàng kín trong chiếc khăn san. Mẹ dặn Mary và Laura là lần này mẹ đi hơi lâu vì phải lấy nước cho bò và ngựa. Khi mẹ đi rồi, Mary kinh hoảng ngồi im lìm. Nhưng Laura không chịu nổi sự lặng lẽ. Cô nói với Mary: - Tới đây đi. Mình có việc để làm. Các cô rửa, lau chén đĩa. Các cô rủ sạch tuyết khỏi các tấm phủ giường, dọn lại giường. Các cô tới sưởi ấm bên lò bếp rồi lau lò sạch bóng và Mary dọn hộc củi trong lúc Laura quét nền sàn. Mẹ chưa về. Thế Laura Laura lại lấy khăn ra lau khung cửa sổ và mấy chiếc ghế dài, rồi lau từng mảnh cong trong chiếc ghế đu của mẹ. Cô leo lên một chiếc ghế dài cẩn thận lau chùi chiếc giá để đồng hồ và chiếc đồng hồ cùng con chó đốm nâu, chiếc hộp cất nữ trang với chiếc bình trà thép vàng và chiếc đĩa có đặt ly ở phía trên hộp. Nhưng cô không dám đụng tới bức tượng cô gái chăn cừu bằng sứ xinh xắn đứng trên chiếc xích đông mà bố đã khắc tặng mẹ. Mẹ không cho phép ai được sờ tới cô bé chăn cừu. Trong lúc Laura lau bụi, Mary chải tóc cho Carrie, trải tấm khăn bàn kẻ ô vuông màu đỏ và lấy sách học cùng tấm bảng ra. Cuối cùng gió hú lên trong gian chái cùng với sự xuất hiện của một đám mây tuyết và mẹ. Váy và khăn san của mẹ như bị đóng băng. Mẹ phải ra giếng lấy nước cho lũ ngựa, Spot và con bê. Gió tạt nước vào người mẹ và hơi lạnh làm quần áo ướt sũng của mẹ đông cứng lại. Mẹ không thể mang đủ nước về nhà kho. Nhưng dưới chiếc khăn san bị đóng băng, mẹ đã cứu được khá nhiều sữa. Mẹ nghỉ một chút rồi nói phải ra ngoài mang củi vào. Mary và Laura xin mẹ để các cô làm, nhưng mẹ nói: - Không. Các con chưa đủ lớn và sẽ bị lạc. Các con không biết trận bão này ra sao. Mẹ sẽ ra lấy củi. Các con lo mở cửa cho mẹ. Mẹ chất đống củi lên cao trong hộc củi trong lúc các cô mở và đóng cửa cho mẹ. Rồi mẹ nghỉ và các cô lau những dòng nước do tuyết chảy tan từ đám củi. Mẹ nói: - Các con ngoan lắm. Mẹ nhìn quanh nhà và khen các cô đã làm việc thật tốt trong lúc mẹ đi vắng. Mẹ nói: - Bây giờ, mình có thể lo học bài. Mary và Laura ngồi xuống với những cuốn sách. Laura nhìn chăm chăm vào những trang sách nhưng cô không thể học nổi. Cô nghe bão đang gào hú và nghe mọi thứ đang rền rĩ rên than. Tuyết vẫn đang chan chát đập vào các khuôn cửa sổ. Cô cố không nghĩ tới bố. Đột nhiên, những chữ trên trang giấy bị bôi bẩn và một giọt nước mắt bắn tung tóe. Cô cảm thấy xấu hổ. Ngay cả Carrie cũng phải cảm thấy xấu hổ nếu khóc còn Laura đã sắp tám tuổi rồi. Cô nhìn sang bên để biết chắc Mary đã không nhìn thấy những giọt nước mắt của cô rơi xuống. Mắt Mary nhắm nghiền, mặt nhăn lại, môi đang run run. Mẹ nói: - Mẹ không tin là các con học nổi. Hãy giả dụ hôm nay là ngày không có việc gì để làm và chỉ chơi thôi. Hãy nghĩ coi trò chơi đầu tiên của mình là gì. Trò pussy trong góc! Các con chịu không? - Dạ chịu! Các cô trả lời. Laura đứng vào một góc. Mary đứng vào một góc khác và Carrie đứng vào góc thứ ba. Chỉ có ba góc trong căn nhà vì lò bếp đã chiếm một góc. Jack căng thẳng. Mẹ chạy nhanh tới góc của Mary và Mary lọt ra ngoài trở thành pussy tội nghiệp. Rồi Laura vấp phải Jack và bị lọt ra ngoài. Carrie vừa cười vừa chạy lộn vào các góc khác nhưng không bao lâu bé đã kịp nhận ra. Chương 39: Ngày Thứ Ba uốt đêm căn nhà lay động trong gió. Hôm sau, bão còn tệ hại hơn bao giờ hết. Gió gào hú khủng khiếp hơn và tuyết thành những giọt băng khua trên cửa sổ. Mẹ đã sẵn sàng để tới chuồng ngựa. Mẹ dặn: - Các con ăn điểm tâm đi và nhớ canh chừng củi lửa cẩn thận. Rồi mẹ đi vào trong bão tuyết. Một hồi lâu sau mẹ trở lại và một ngày khác bắt đầu. Đó là một ngày u ám lê thê. Mấy mẹ con ngồi sát nhau bên lò bếp nhưng cái lạnh vẫn áp trên lưng. Carrie cáu kỉnh bẳn gắt và nụ cười của mẹ đầy vẻ mệt mỏi. Mary và Laura chăm chú học nhưng không thuộc bài nổi. Những cây kim đồng hồ nhích đi chậm đến nỗi giống như chúng không còn chuyển động nữa. Cuối cùng lớp ánh sáng mờ nhạt cũng mất dần và đêm lại tới. Ánh sáng đèn quật ngã trên các bức vách và những khuôn cửa sổ đọng trắng sương giá. Nếu bố ở nhà thì chắc chắn bố đã chơi đàn và tất cả sẽ cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Mẹ lên tiếng: - Tới đây, các con! Mình không thể ngồi như thế này. Các con có thích chơi trò chiếc nôi mèo không? Jack bỏ không đụng tới phần ăn tối. Nó buông ra một hơi thở dài buồn nản trong góc nhà. Mary và Laura đưa mắt nhìn nhau, Laura nói: - Thôi, mẹ! Chúng con muốn đi ngủ. Cô áp sát vào lưng Mary trên chiếc giường lạnh như băng. Bão đang lay động căn nhà và khiến nó như đông cóng lại và rùng mình. Tuyết xối xả tuôn trên mái nhà như mưa rơi lộp bộp. Laura vùi sâu vào trong tấm phủ giường nhưng tiếng bão vẫn vang lên tệ hại không khác tiếng sói hú. Những dòng nước mắt lạnh ngắt chảy dài trên má cô. Chương 40: Ngày Thứ Tư Buổi sáng không còn những âm thanh gào hú dữ dội nữa. Gió thổi đều đều như đang than vãn và căn nhà đứng im ắng. Nhưng trong lò, lửa cháy hừng hực mà vẫn giống như không tỏa ra một chút hơi nóng nào. Mẹ nói: - Lạnh khiếp quá! Không nên dọn dẹp rửa ráy sớm làm gì. Các con hãy trùm khăn và đưa Carrie tới gần bên lò bếp. Mẹ từ chuồng ngựa trở về được một lúc thì sương giá đọng trên khuôn cửa sổ phía đông ửng vàng trong lớp sáng nhạt. Laura chạy tới thổi hơi vào đó và cào lớp băng đọng cho tới khi làm thành một lỗ nhìn ra phía ngoài trời đang chiếu sáng. Mẹ nhìn ra rồi Mary và Laura luân phiên ngắm lớp tuyết đang bị gió thổi thành những gợn sóng trên mặt đất. Bầu trời giống như phủ băng. Ngay cả lớp không khí phía trên gợn tuyết đang bị thổi bay cũng có vẻ lạnh và ánh nắng dọi qua lỗ nhìn nơi cửa sổ cũng không ấm hơn một bóng tối. Qua lỗ nhìn, Laura thoánh thấy từ xa một vật gì sậm tối. Giống như một con vật lớn đang đạp bước trong lớp tuyết dầy trong gió. Cô nghĩ chắc là một con gấu. Nó kéo lê tới sau một góc nhà rồi che kín khuôn cửa sổ phía trước. Cô kêu lên: - Mẹ! Cùng lúc, cánh cửa bật mở và con vật xù xì bước vào. Đó là bố nhưng với ánh mắt lồi ra khỏi khuôn mặt. Giọng bố vang lên: - Các con gái có ngoan trong lúc bố vắng nhà không? Mẹ chạy nhào tới. Laura, Mary, Carrie cũng chạy tới vừa cười vừa khóc. Mẹ giúp bố cởi áo khoác ngoài. Chiếc áo khoác đầy tuyết trút xuống nền sàn. Bố buông cho chiếc áo rơi xuống. Mẹ nói: - Charles! Anh tê cóng hết rồi! Bố nói: - Không đến nỗi nào đâu. Anh chỉ đang đói muốn phát điên thôi. Để anh ngồi sưởi và lấy cho anh cái gì đi, Caroline! Mặt bố nhợt nhạt và cặp mắt thô lố. Bố ngồi run bần bật bên lò hấp bánh và nói bố chỉ bị lạnh chứ không bị đau đớn gì. Mẹ vội hâm một ít nước xốt đậu, đưa cho bố. Bố nói: - Ngon lắm. Món này đủ hâm nóng anh rồi. Mẹ tháo đôi ủng của bố và bố đưa những bàn chân lên làn hơi nóng trong lò. Mẹ hỏi: - Charles, anh… anh đã… Mẹ đứng mỉm cười với chiếc miệng đang run lên. Bố nói: - Caroline, đừng lo gì về anh nữa. Anh đã nhảy về nhà để lo cho em và các con rồi. Bố nhấc Carrie đặt lên đầu gối và vòng một tay ôm lấy Laura còn tay kia ôm Mary. - Con đã nghĩ gì, Mary? Mary đáp: - Con nghĩ là thế nào bố cũng về. - Đúng là con gái của bố! Còn con, Laura? Laura nói: - Con không cho rằng bố đang ngồi nói chuyện với ông Fitch. Con… con hết sức mong… Bố hỏi mẹ: - Còn em, Caroline! Một chàng trai có thể tìm về nhà nổi như thế nào? Cho anh thêm một ít nước xốt nữa rồi anh kể mọi chuyện cho mấy mẹ con nghe. Mấy mẹ con chờ trong lúc bố nghỉ ngơi và ăn nước xốt đậu với bánh mì và uống trà nóng. Râu tóc bố ướt đẫm tuyết đang tan chảy. Mẹ lau khô bằng chiếc khăn lông. Bố nắm lấy bàn tay mẹ, kéo ngồi xuống cạnh bố và hỏi: - Caroline, em biết thời tiết này có nghiã là gì không? Nó có nghĩa là mình sẽ có một vụ lúa mì bội thu vào năm tới. Mẹ nói: - Đúng không, Charles? - Mùa hè tới sẽ không có một con châu chấu nào. Khắp thị trấn đều nói chỉ có châu chấu khi mùa hè khô nóng và mùa đông tương đối ấm áp. Lúc này có quá nhiều tuyết nên các vụ mùa của năm tới đều được mùa. Mẹ nói một cách điềm tĩnh: - Thế thì tốt, Charles! - Tốt chứ, trong cửa hàng mọi người đều nói về chuyện này, nhưng anh biết là anh phải quay về nhà. Đúng lúc anh ra đi, Fitch cho anh coi chiếc áo khoác ngoài bằng da. Ông ta mua nó với giá rẻ do một người đàn ông đáp chuyến tàu chót về miền đông cần có tiền mua vé. Fitch bảo là anh có thể lấy chiếc áo với giá mười đôla. Mười đôla là một món tiền lớn, nhưng… Mẹ ngắt ngang: - Em mừng là anh đã mua chiếc áo, Charles. - Quay ra khỏi cửa thì anh thấy mình đã gặp may, nhưng vào lúc mua thì anh chưa biết. Anh nhớ lúc anh đi ra thị trấn, gió thổi thẳng vào mình. Trời lạnh đến nỗi mũi có thể đông cứng lại và rớt ra. Đặc biệt là chiếc áo choàng cũ của anh không chặn nổi các đợt gió. Thế là Fitch nói anh có thể trả tiền vào dịp bán những bộ da thú bẫy được vào mùa xuân tới là anh khoác luôn chiếc áo lên bên ngoài chiếc áo choàng cũ của anh. Ngay khi quay ra tới đồng cỏ, anh đã nhìn thấy đám mây ở phía bắc, nhưng nó rất nhỏ và ở xa khiến anh nghĩ mình dư sức trở về nhà. Chẳng mấy chốc sau đó, anh bắt đầu chạy nhưng chưa đi quá nổi nửa đường thì cơn bão đã ấp tới. Anh không thể nhìn thấy chính bàn tay mình đang giơ trước mặt. Chắc chắn sẽ ổn thỏa nếu trận bão không dồn tới cùng một lúc từ mọi hướng. Anh không hiểu bằng cách nào đó mà nó có thể đến như thế. Khi một trận bão đến từ phía tây bắc thì phải đi thẳng về hướng bắc để giữ cho gió luôn thổi bên má trái. Nhưng anh đã không thể làm một điều tương tự như thế trong trận bão. Hình như anh chỉ còn buộc mình phải đi thẳng tới dù không thể nhìn hoặc đoán ra phương hướng. Anh chỉ còn nghĩ là cứ tiếp tục và đi thẳng về phía trước. Anh đi cho tới khi biết là mình đã đi lạc. Anh đã đi khoảng hai dặm đường mà vẫn không tới con suối và không còn nhận ra đường để quay lui. Điều duy nhất phải làm lúc đó là cứ bước tới. Anh phải đi cho tới lúc bão ngưng bởi ngưng lại thì sẽ bị đông cứng. Thế là anh dấn bước vào trong bão tuyết. Anh bước đi và bước đi. Anh lâm vào cảnh mù lòa không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì. Anh cũng không nghe gì được nữa ngoài tiếng gió. Và anh tiếp tục cố bước trong cái màn trắng mù mịt đó. Anh không rõ ở nhà có nghe thấy dường như luôn có những tiếng gào hú, gầm thét ở trên cao giữa cơn bão không? Laura nói: - Có, bố. Con đã nghe thấy thế. - Con cũng thế. Mary nói tiếp và mẹ gật đầu. Laura lại nói: - Và còn những trái cầu lửa nữa. Bố hỏi: - Những trái cầu lửa? Mẹ nói: - Hãy gác chuyện đó lại, Laura. Kể tiếp đi, Charles. Rồi anh đã làm gì? Bố đáp: - Anh tiếp tục bước đi. Anh đi cho tới khi màn trắng đổi thành xám rồi đen kịt và anh biết trời đã tối. Anh ước lượng là đã đi suốt bốn tiếng đồng hồ và những cơn bão như thế này thường kéo dài ba ngày đêm. Nhưng anh cứ bước đi. Bố ngừng lại và mẹ lên tiếng: - Em đã để đèn sáng trên cửa sổ để soi đường cho anh. Bệnh nhân - Anh không nhìn thấy. Anh cố căng mắt để nhìn nhưng chỉ thấy bóng đêm đen đặc. Rồi hết sức đột ngột, một cái gì đó khiến anh hụt bước và anh lao thẳng xuống có thể tới mười bộ hoặc sâu hơn nữa. Anh không nghĩ nổi điều gì đã xảy ra và mình đang ở đâu. Tuy nhiên, gió như bị ngưng lại. Cơn bão vẫn la hét, gào rú ở trên đầu, nhưng không khí ở chỗ anh đang đứng khá êm. Anh sờ soạng xung quanh. Có một bờ tuyết cao ngang đầu anh và bao kín ba phía quanh anh còn phía kia là một vách đất trần như một đường dốc chạy xuống. Anh không mất nhiều thời gian để nhận ra mình bước lọt xuống một bờ mương nào đó ở một nơi trên đồng cỏ. Anh đã lăn xuống dưới bờ và tại đây anh đã có một vách đất cứng ở sau lưng và trên đầu giống như một con gấu được che chở ở trong hang. Không bị gió thổi và với chiếc áo choàng bằng da giữ ấm thân thể, anh không bị đông cứng. Thế là anh cuộn mình lại và ngủ vào cũng đã khá mệt rồi. Anh rất mừng là đã có chiếc áo choàng với chiếc mũ trùm có hai miếng bịt tai và đôi vớ ấm đặc biệt, Caroline. Khi thức dậy, anh nghe rõ tiếng bão gầm hú nhưng chỉ văng vẳng. Phía trước anh có một lớp tuyết cứng như tráng băng phủ lên chỗ mà hơi nóng của anh làm cho tuyết atn ra. Cơn bão đãlấp đầy cái lỗ mà qua đó anh ngã xuống. Có lẽ tới sáu bộ tuyết dày phủ trên anh nhưng không khí khá tốt. Anh khua động cánh tay, ống chân, ngón tay, ngón chân và sờ nắn tai, mũi để biết chắc mình không bị đông cứng. Anh vẫn còn nghe thấy tiếng bão và thế là anh lại ngủ. - Bão dài bao lâu, Caroline? Mẹ nói: - Ba ngày đêm. Hôm nay là ngày thứ tư. Lúc đó bố hỏi Mary và Laura: - Các con có biết hôm nay là ngày gì không? Mary đoán: - Chắc là chủ nhật? Mẹ nói: - Hôm nay là ngày trước lễ Giáng sinh. Laura và Mary đã quên khuấy lễ Giáng sinh. Laura hỏi: - Bố ngủ suốt thời gian đó, hả bố? Bố đáp: - Không. Bố đang ngủ thì cơn đói khua bố thức giấc rồi bố lại ngủ tíêp cho tới lúc bố tỉnh dậy trong cơn đói cồn cào. Bố đang mang theo một ít bánh qui để ăn trong dịp Giáng sinh. Bánh nằm trong túi áo choàng. Bố moi một nắm ra khỏi bao và ăn. Bố quơ tay ra ngoài vốc một nắm tuyết và ăn để thay cho nước uống. Sau đó việc bố có thể làm là nằm tại đó và chờ bão dứt. - Caroline, khó khăn nhất là nghĩ về em với các con với sự biết chắc rằng em sẽ phải đi ra ngoài giữa cơn bão để lo mọi thứ công việc. Nhưng anh biết rõ là anh không thể về nhà khi bão chưa dứt. Vậy là anh lại chờ một hồi lâu cho tới lúc đói sôi sục trở lại và anh ăn hết luôn số bánh còn lại. Bánh không lớn hơn đầu ngón tay cái của anh, nên mỗi chiếc không vừa nửa miếng và nửa pao bánh đâu có thấm tháp gì. Rồi anh lại chờ và ngủ. Anh đoán đã qua đêm khác. Mỗi khi choàng thức, anh lắng nghe và có thể nhận ra tiếng. Anh nhận ra như thế do tuyết chất dầy hơn ở phía trên anh, nhưng không khí trong hầm vẫn khá tốt. Máu trong người anh còn giữ được độ nóng để anh không bị đông cứng lại. Anh cố dỗ giấc ngủ nhưng cơn đói cồn cào cứ đánh thức anh hoài. Cuối cùng anh không thể chợp mắt nổi do quá đói. Bố nói với Laura và Mary: - Các con gái, bố đã tự hạn chế và quyết định không làm một điều nhưng sau đó bố lại phải làm. Bố đã lôi chiếc bao giấy ra khỏi túi chiếc áo choàng cũ và ăn sạch số kẹo mua về cho ngày Giánh sinh. Bố rất buồn. Laura và Mary đều ôm xiết bố. Các cô xiết bố thật chặt và Laura nói: - Ôi, bố! Con mừng là bố đã làm vậy. Mary cũng nói: - Con cũng thế, bố ạ! Con cũng mừng! Các cô đều mừng thực sự. Bố nói: - Yên chí, mình sẽ được mùa lúa mì lớn vào năm tới và các con se không cần chờ đến dịp Giáng sinh năm tới mới có kẹo. Laura hỏi: - Dễ chịu không, bố? Bố có cảm thấy khá hơn sau khi ăn một chút như thế không? Bố nói: - Tốt lắm, bố cảm thấy khá hơn nhiều. Bố ngủ ngay sau đó và có lẽ bố đã ngủ gần trọn ngày hôm qua và đêm vừa rồi. Đột nhiên, bố choàng thức dậy. Bố không nghe thấy một âm thanh nào. Bố tự hỏi mình đã bị tuyết vùi quá sâu đến nỗi không thể nghe được tiếng bão hay là bão đã dứt rồi? Bố cố lắng nghe. Bố chỉ nhận thấy một sự yên lặng. Các con gái, bố bắt đầu làm như một con chim đào ngược lên lớp tuyết. Bố đào bới cực nhanh và chui ra khỏi lỗ hang đó. Bố trừơn lên mặt bờ tuyết và các con hình dung nổi lúc đó bố đang ở đâu không? Bố ở trên bờ suối Plum, ngay phía trên chỗ mà mình bặt bẫy cá, Laura. Laura nói: - Trời ơi, con có thể nhìn rõ chỗ đó từ cửa sổ. Bố nói: - Đúng. Và bố đã nhìn thấy căn nhà. Suốt khỏang thời gian dài dặc kinh hoàng đó, bố đã ở rất gần nhà. Ánh đèn bên cửa sổ không đủ sức chiếu sáng qua cơn bão hoặc là bố đã không nhận ra ánh đèn. Bố nói: - Mấy ống chân bố tê cóng và giống như bị chuột rút nên bố đứng lên hết sức khó khăn. Nhưng bố đã nhìn thấy nhà và bố lết đi với tất cả sức lực của mình. Bây giờ thì bố đã ở đây. Bố kết thúc câu chuyện và xiết chặt Laura và Mary. Sau đó bố bước tới chiếc áo choàng da lấy từ trong túi ra 1 hộp thiếc sáng loáng, dẹp và vuông vức. Bố hỏi: - Các con có nghĩ ra nổi là bố đã mang về cho các con món gì để ăn trong bữa trưa ngày Giáng sinh không? Các cô không thể đoán nổi. Bố nói: - Sò! Sò tươi, ngon tuyệt! Khi bố mua, chúng đã được ướp đông lạnh cho tới ngày mai, Caroline. Laura chạm tay vào hộp thiếc và thấy lạnh như băng. Bố nói: - Bố đã ăn hết số bánh quy, ăn cả những chiếc kẹo Giáng sinh nhưng rất mừng là bố đã mang được những con sò về nhà. Chương 41: Chiều Trước Ngày Giáng Sinh Bố lo làm sớm các việc thường lệ vào chiều hôm đó và Jack theo bố bén gót. Jack không muốn bố lại rời xa khỏi tầm mắt nó. Cả hai quay về nhà, lạnh và đầy tuyết. Bố đập chân cho tuyết rơi xuống, treo chiếc áo choàng cũ và mũ lên móc treo gần cửa gian chái. Bố nói: - Gió lại đang thổi. Trước sáng mai chắc sẽ có một trận bão khác. Mẹ nói: - Charles, chỉ cần có anh ở đây thì bao nhiêu bão tới em cũng chẳng quan tâm. Jack nằm xuống thoải mái và bố hơ ấm bàn tay trên lò bếp. Bố lên tiếng: - Laura, nếu con mang hộp đàn tới thì bố sẽ đàn cho con một bài. Laura mang hộp đàn lại cho bố. Bố lên dây đàn, chuốt nhựa lên cây vĩ cầm. Rồi, trong lúc mẹ lo nấu bữa tối, tiếng đàn vào giọng hát của bố tràn ngập căn nhà. Ô, chàng trai Charley tuyệt hảo Chàng Charley chải chuốt bảnh bao Chàng Charley thích hôn con gái Và chàng hôn khéo biết ngần nào Chẳng cần chi lúa mì trong hộc Chẳng cần chi lúa mạch của ai Cần thứ bột nửa giờ thành bánh Cho Charley bớt đói bụng thôi! Giọng hát của bố vui nhộn theo một điệu ca vui nhộn khiến bé Carrie vỗ tay cười và mấy bàn chân Laura nhảy múa. Lúc đó đàn bỗng đổi điệu và bố bắt đầu hát bài về thung lũng hoa huệ: Đêm thanh êm ả chơi vơi Anh trăng nhẹ tỏa bên trời vấn vương Đồi cao trũng thấp mơ màng… Bố nhìn xéo mẹ đang bận rộn bên lò bếp trong lúc Mary cùng Laura ngồi nghe và tiếng đàn chuyển thành rộn rã vui tươi hòa theo giọng hát đùa giỡn của bố. Mary bày chén đĩa Chén đĩa dàn hết ra Mary bày chén đĩa Cả nhà cùng uống trà - Con sẽ làm gì, bố? Laura kêu lên trong lúc Mary chạy tới tủ chén lấy chén đĩa ra. Cây đàn và giọng hát của bố vẫn nối theo nhau thấp xuống và lên cao: Laura lo dọn dẹp Dọn dẹp tới sạch trơn Laura dọn sạch hết Cả nhà cùng lên đường. Thế là Laura biết rằng Mary lo bày bàn ăn cho bữa tối còn cô lo dọn dẹp sao đó. Ngoài trời gió đang gào thét lớn hơn và dữ dội hơn. Tuyết quay cuồng tới tấp trên các khung cửa sổ. Nhưng tiếng đàn của bố vẫn vang lên trong căn nhà ấm áp đầy ánh đèn sáng. Chén đĩa khẽ va chạm lanh canh trong lúc Mary bày trên bàn. Bé Carrie tự đung đưa trên chiếc ghế đu và mẹ qua lại nhẹ nhàng giữa bàn ăn và lò bếp. Chính giữa bàn ăn, mẹ đặt một xoong đậu hầm đậm đà và từ lò bành hấp, mẹ lấy ra một ổ bánh mì vàng óng vuông vức. Mùi vị đậm đà của đậu hầm và mùi vị ngọt ngào của bánh nướng quyện vào nhau bay tỏa trong không khí. Tiếng đàn của bố như đang cười vui và hát: Ta là thuyền trưởng Jinks vui nhộn Trên con thuyền Ngựa biển lênh đênh Ngựa của ta ăn mì ăn đậu Vẫn thản nhiên vượt qua thác ghềnh Bởi ta là thuyền trưởng Jinks Ngựa biển Người dẫn đầu đội ngũ chiến binh. Laura vỗ nhẹ chiếc đầu mượt lông của Jack, gãi gãi tai của nó. Rồi cả hai bàn tay cô xiết thật nhanh đầu nó. Mọi chuyện đã ổn. Lũ châu chấu đã ra đi và năm tới bố sẽ trúng mùa lúa mì. Ngày mai là ngày Giáng sinh với món sò ninh cho bữa ăn trưa. Không có quà tặng, không có kẹo, nhưng Laura không ao ước một điều gì và cô rất mừng vì những chiếc kẹo Giáng sinh đã giúp bố bình an trở về nhà. Giọng mẹ vang lại dịu dàng: - Bữa ăn tối sẵn rồi! Bố đặt đàn vào hộp, đứng lên đảo mắt nhìn khắp xung quanh. Cặp mắt của bố sáng lên khi nhìn từng người. Bố nói: - Coi kìa, Caroline! Mắt Laura sáng biết chừng nào! Tập 5: Bên hồ Nước Bạc Chương 1: Người Khách Bất Ngờ Rừng Big Woods, thảo nguyên trong vùng đất của người da đỏ và cả ngôi nhà bên suối Plum đều đã trở thành quá khứ. Lúc này Laura lại đang đứng bên bờ hồ Nước Bạc giữa đồng cỏ miền Tây bát ngát. Khắp xung quanh cô, mọi chuyện diễn ra như trong thần thoại. Chỗ dầm mình của những con trâu rừng hung tợn bỗng biến thành những bồn hoa sực nức hương thơm và những con sói đồng cỏ lặng lẽ ngồi coi hai cô bé trượt băng giữa đêm khuya. Rồi giữa đồng cỉ xanh rì vô tận đột ngột hiện ra một thị trấn chen chúc người lạ với những khẩu súng lục kè kè bên hông và những giây phút căng thẳng. Nhưng Laura không quên một lời nhắc của Mẹ: “Ở đâu có ý chí thì ở đó có lối thoát”. Và, những ngày sống bên hồ Nước Bạc đã lưu lại mãi trong kí ức Laura một hình ảnh. Đó là hình ảnh một dũng sĩ lai da đỏ với chiếc áo rực màu lửa cháy cưỡi trên lưng con ngựa trắng như tuyết đã bay như tên bắn trên đồng cỏ trong một buổi chiều tà phóng thẳng vào giữa vầng mặt trời đang từ từ chìm xuống. 01- NGƯỜI KHÁCH BẤT NGỜ Một buổi sáng, Laura đang rửa chén thì con chó già Jack đang nằm phơi nắng trước bậc cửa bỗng gừ gừ như để báo cho cô biết có người đang tới. Cô nhìn ra và thấy một cỗ xe độc mã đang băng qua khúc sỏi cạn trên suối Plum. Cô lên tiếng: - Mẹ ơi, có một bà khách lạ đang tới. Mẹ thở dài. Mẹ thấy ngượng vì cảnh nhà bừa bộn và Laura cũng thấy thế. Nhưng Mẹ quá yếu còn Laura thì quá mệt lại thêm cả hai đều đang buồn nên đã không lưu tâm dọn dẹp. Mary cùng với bé Carrie, bé Grace và Mẹ đều mắc chứng sốt nóng tinh nhiệt huyết. Gia đình Nelson ở bên kia suối cũng bị bệnh như họ nên không còn ai giúp đỡ Bố và Laura. Hàng ngày, bác sĩ đều tới chữa trị và Bố không biết thanh toán tiền thuốc men bằng cách nào. Đau đớn hơn là bệnh xâm nhập vào mắt của Mary và Mary bị loà. Lúc này, cô chỉ có thể quấn mền ngồi trên chiếc ghế đu cũ kỹ bằng gỗ bồ đào của Mẹ. Suốt nhiều tuần lễ, cô chỉ còn nhìn thấy hơi mờ mờ trong khi thị lực mỗi ngày một yếu thêm. Tuy nhiên, cô không than van, khóc lóc bao giờ. Lúc này cô không còn nhìn thấy gì kể cả ánh sáng chói chang. Nhưng cô vẫn chịu đựng rất dũng cảm. Mái tóc vàng óng ả của cô không còn nữa. Bố phải cạo hết trong lúc cô mắc bệnh và chiếc đầu trọc lóc của cô giống như đầu một cậu bé. Riêng cặp mắt xanh lơ của cô vẫn đẹp nhưng không còn nhìn thấy bất cứ thứ gì ở phía trước và Mary không bao giờ còn có thể đưa mắt cho Laura để ngầm nói lên một điều mà cô không muốn dùng đến lời nói. Mary hướng tai về phía có tiếng dộng cửa cỗ xe độc mã như đang tự hỏi: - Ai có thể đến vào giờ này trong buổi sáng nhỉ? - Một bà khách lạ đi một mình trên cỗ xe ngựa hở. Bà ấy đội mũ màu nâu và đang điều khiển một con ngựa hồng. Laura lên tiếng giải thích. Bố đã nói cô phải là cặp mắt nhìn thấy cho Mary. Mẹ hỏi: - Con thấy còn gì ăn cho bữa trưa không? Mẹ đã nghĩ tới bữa trưa đãi khách nếu bà khách lạ kia ở lại tới giờ đó. Trong nhà còn bánh mì, mật mía và khoai tây. Tất cả chỉ có thế. Lúc này mới vào mùa xuân, rau cỏ trong vườn mới bắt đầu nhú mầm, con bò cái đang kiệt sữa còn lũ gà mái chưa đẻ trứng. Trong suối Plum chỉ có vài con cá nhỏ. Ngay cả những con thỏ nhỏ đuôi xù cũng hết sức khan hiếm. Bố không còn thích cái xứ khô cằn xơ xác đến nỗi hết cả mồi săn. Bố muốn chuyển về miền tây kiếm một nông trại. Mẹ không muốn rời vùng quê đã được định cư và không có tiền ở đây. Bố chỉ có hai vụ lúa mì èo uột từ khi bầy châu chấu tới nên không có khả năng trang trải nợ nần. Vậy mà lúc này lại thêm phí khoản về chữa bệnh. Laura trả lời mẹ một cách chắc nịch: - Thứ gì tốt cho mình thì cũng tốt cho mọi người. Cỗ xe ngựa nhỏ dừng lại. Bà khách lạ ngồi trong xe nhìn Laura và Mẹ trong khung cửa. Đó là một phụ nữ xinh xắn trong bộ mũ áo trang nhã bằng vải in hoa màu nâu. Laura cảm thấy ngượng nghịu với hai bàn chân trần, chiếc áo lôi thôi và những bím tóc bù xù. Lúc đó Mẹ lên tiếng một cách dè dặt: - Sao, Docia mà! Người phụ nữ nói: - Em vẫn tự hỏi không biết chị còn nhận ra em không. Ngày tháng đã qua nhiều rồi từ thuở anh chị rời khỏi Wisconsin. Khách chính là cô Docia đã mặc chiếc áo với hàng nút giống như trái mâm xôi trong buổi vũ hội đã lâu rồi ở nhà ông nội trong vùng Big Woods thuộc Wisconsin. Lúc này cô đã lập gia đình. Cô lấy một người goá vợ có hai đứa con. Chồng cô là nhà thầu đang làm một đường sắt mới ở miền tây. Cô Docia một mình lái xe đi từ Wisconsin tới trại dựng đường sắt trong vùng Dakota. Cô ghé qua đây để coi Bố có thể đi cùng với cô không. Chú Hi, chồng cô, đang cần một người tin cậy lo các việc thủ kho, sổ sách, chấm công và Bố có thể lãnh công việc đó. Cô nói: - Tiền lương là năm mươi đô la một tháng, Charles. Đôi má hóp của Bố giống như căng ra trong lúc cặp mắt xanh lơ sáng lên. Bố nói một cách chậm rãi: - Có vẻ anh ta đã được trả lương khá cao trong lúc tìm kiếm một nông trại ở đó, Caroline. Mẹ vẫn không muốn đi về miền tây. Mẹ nhìn quanh bếp, ngắm Carrie và Laura đang đứng đó với bé Grace trong tay. Mẹ nói: - Em chẳng biết sao nữa, Charles. Món tiền năm mươi đô la một tháng quả là may mắn. Nhưng mình đã định cư ở đây, đã có vườn, trại. Bố biện giải: - Cần cân nhắc kĩ, Caroline. Mình có thể có một trăm sáu mươi mẫu đất ở miền tây để mưu sinh và đất ở đó cũng tốt như đất ở đây hoặc có thể tốt hơn nữa. Nếu nhà nước vẫn giữ chủ trương cấp đất để mở mang nông trại như thuở mình về vùng đất của người da đỏ thì anh thấy mình nên nhận. ở miền tây việc săn bắt luôn có kết quả tốt và người ta có thể có đủ các thứ thức ăn cần thiết. Laura nôn nóng muốn đi khiến cô cảm thấy khó giữ nổi để không lên tiếng. Nhưng Mẹ đã nói: - Làm sao mình có thể đi vào lúc này? Mary còn quá yếu. Bố nói: - Đúng vậy. Đó là một vấn đề. Bố hỏi cô Docia: - Có thể lùi ngày nhận việc được không? Cô Docia đáp: - Không! Không đâu, Charles! Hi cần có ngay một người ngay lúc này. Anh phải nhận việc ngay hoặc sẽ từ chối. Bố nói: - Năm mươi đô la một tháng, Caroline. Và một nông trại nữa. Thời khắc giống như chậm hẳn lại trước khi Mẹ lên tiếng, giọng nhỏ nhẹ: - Được, Charles! Anh có thể làm điều mà anh thấy là tốt. Bố nói: - Anh nhận làm, Docia! Bố đứng dậy nhấn mạnh chiếc mũ lên đầu, tiếp: - Có chí thì nên. Anh phải đi kiếm ông Nelson. Laura hào hứng đến nổi không làm xong nổi việc nhà. Cô Docia phải phụ giúp và trong lúc cùng làm, cô kể cho Laura nghe về sinh hoạt ở Wisconsin. Cô Ruby cũng đã lập gia đình, có hai đứa con trai và một đứa con gái nhỏ tên là Dolly Varden. Bác George đi khai thác rừng ở vùng Mississippi. Gia đình chú Henry đều khoẻ mạnh và Charles đã trở nên khá ngoài mức mong đợi của mọi người trước sự nuông chiều con quá đáng của chú Henry. Ông bà nội vẫn sống ở nơi cũ trong căn nhà gỗ lớn. Ông bà nội có đủ khả năng để xây một ngôi nhà mới nhưng ông nội thường nói những khúc gỗ xồi vững chắc bao giờ cũng tạo ra những bức vách tốt hơn so với loại ván xẻ mỏng. Ngay cả con mèo Black Susan mà Laura bỏ lại khi rời căn nhà gỗ nhỏ bên mé rừng vẫn sống ở đó tới lúc này. Căn nhà được bán lại nhiều lần và hiện đang là một vựa lúa, nhưng chẳng có gì khiến con mèo phải tới sống ở một chỗ nào khác. Nó sống ngay tại vựa, mượt bóng và mập mạp do luôn có dư thịt chuột và lúc này không mấy gia đình ở trong vùng lại không có một con mèo là con của nó. Chúng đều là loại mèo săn chuột giỏi với những chiếc tai lớn và chiếc đuôi dài hệt như Black Susan. Bữa ăn trưa đã sẵn sàng trong căn nhà được quét dọn sạch gọn khi Bố trở về. Bố đã bán xong khu trại. Ông Nelson trả giá hai trăm đô là và Bố rất mừng. Bố nói: - Thế là có thể trả hết mọi món nợ và còn dư lại một ít để chi dùng. Quá tốt rồi, Caroline. Mẹ đáp: - Em hy vọng đây là điều hay nhất, Charles. Nhưng, làm sao… Bố cắt ngang: - Hãy chờ anh nói đã! Anh đã tính toán mọi thứ rồi. Sáng mai, anh sẽ đi cùng với Docia. Em và các con cứ ở lại đây cho tới khi Mary khoẻ hẳn lại, chắc khoảng vài tháng. Ông Nelson đã nhận chuyên chở hết đồ đạc của mình ra nhà ga và em với các con sẽ đi bằng xe lửa. Laura nhìn Bố chòng chọc. Carrie và Mẹ cũng vậy. Mary hỏi: - Đi xe lửa hả? Tất cả đều không bao giờ nghĩ có lúc ngồi trên xe lửa. Dĩ nhiên Laura đã biết người ta vẫn di chuyển bằng xe lửa. Xe lửa cũng thường gặp tai nạn khiến có nhiều người chết. Nhưng cô không thấy sợ mà chỉ nôn nóng. Cặp mắt Carrie mở lớn nhuốm vẻ kinh hãi trên khuôn mặt xanh xao tiều tuỵ. Tất cả đều đã nhìn thấy xe lửa chạy ngang đồng cỏ với những cụm khói đen từ đầu máy kéo dài về phía sau. Các cô cũng đã nghe tiếng xe chạy rầm rập và tiếng còi lanh lảnh dữ dằn. Lũ ngựa đều lồng chạy khi thấy xe lửa lao đến, nếu những người lái xe không kìm chúng lại. Mẹ nói một cách đều đều: - Em chắc là Laura và Carrie sẽ giúp em lo ổn mọi chuyện. Chương 2: Lớn Lên Có rất nhiều việc cần làm vì sáng sớm hôm sau Bố đã ra đi. Bố dựng giàn khung mui cũ lên thùng xe và kéo tấm vải phủ mui lên. Vải mui hầu như đã rách hết nhưng nó chỉ được dùng cho một chuyển đi ngắn. Cô Docia và Carrie giúp Bố chất đồ lên xe trong lúc Laura giặt giũ, ủi đồ, nướng bánh cho chuyến đi. Suốt thời gian đó, Jack đứng nhìn. Mọi người đều quá bận rộn nên không nhận ra con chó săn già cho tới khi Laura bất ngờ nhìn thấy nó đứng giữa căn nhà và cỗ xe. Nó không nhảy nhót, nghểnh đầu tỏ vẻ vui mừng như thường lện. Nó cố đứng vững vì đang bị bệnh. Trán nó nhăn lại một cách thảm hại và chiếc đuôi cộc rũ xuống. - Bạn già Jack ơi! Laura nói với nó nhưng nó không vẫy đuôi. Nó nhìn cô buồn bã. Laura lên tiếng: - Bố, nhìn coi! Nhìn Jack coi! Cô cúi xuống vỗ nhẹ lên chiếc đầu mềm mại của nó. Lúc này lông nó đã đổi thành màu xám. Trước hết, mũi của nó đổi thành xám, rồi tới những hàm răng và bây giờ tai của nó cũng không còn giữ nổi màu nâu nữa. Nó dụi đầu vào cô và thở dài. Lập tức cô nhận ra là con chó đã già và không còn sức để đi bộ dưới gầm xe tới tận Dakota. Nó đang lo lắng vì nó thấy cỗ xe đã sẵn sàng để lại lên đường trong lúc nó quá già và quá mệt rồi. Cô kêu lên: - Bố ơi! Jack không thể đi xa nổi đâu! Mình không thể để Jack đi như vậy, Bố! Bố nói: - Đúng là Jack không thể đi xa được nữa. Bố quên mất điều này. Bố sẽ dời túi đồ ăn sang chỗ khác để dành cho nó một chỗ trên thùng xe. Hà, bạn có thích cưỡi xe không, anh bạn già? Jack khẽ ngoe ngẩy một cách từ tốn rồi quay đầu đi hướng khác. Nó không muốn đi kể cả được ngồi trên xe. Laura quì xuống ôm lấy nó giống như cô vẫn thường làm lúc còn là một cô bé: - Jack! Jack! Mình sắp đi về miền tây! Bồ có thích trở lại miền tây không, Jack? Từ trước nó luôn nôn nóng và vui vẻ mỗi khi thấy Bố đặt mui xe lên. Nó đã chiếm một chỗ ở dưới đó khi cỗ xe khởi hành và suốt khoảng đường dài từ Wisconsin tới vùng đất của người da đỏ rồi từ đó trở về Minnesota, nó đã chạy trong bóng của cỗ xe bám sát vó ngựa. Nó đã lội qua suối, đã bơi qua sông và mỗi đêm khi Laura ngủ trong thùng xe, nó đã canh giữ cỗ xe. Mỗi buổi sáng, ngay cả khi chân nó bị rách do đi bộ, nó vẫn vui thấy mặt trời vươn lên và những con ngựa được đóng vào xe. Lúc nào nó cũng sẵn sàng cho một ngày mới trong sự di chuyển. Bây giờ nó chỉ dựa đầu vào Laura, dúi mũi vào dưới bàn tay cô để mong được vuốt ve khe khẽ. Cô vỗ nhẹ chiếc đầu màu xám của nó, vuốt vuốt những chiếc tai của nó và cô cảm thấy nó đã hết sức mệt mỏi. Kể từ khi Mary và Carrie, rồi tiếp theo là Mẹ bị nhiễm dịch sốt nóng, Laura đã lơ là với Jack. Nó đã giúp cô trong mọi nỗi khó khăn trước đó, nhưng nó không thể làm gì khi bệnh sốt xuất hiện trong nhà. Có lẽ suốt thời gian đó, nó đã cảm thấy bị lãng quên và hết sức cô đơn. Laura nói với nó: - Tôi không có ý như thế đâu, Jack! Nó có vẻ hiểu điều cô nói vì cô và nó luôn hiểu nhau. Nó đã chăm sóc cô khi cô còn nhỏ, đã giúp đỡ cô chăm sóc Carrie khi Carrie là một em bé. Bất kì lúc nào Bố đi vắng, Jack luôn ngồi bên Laura để trông chừng cô và giữ nhà. Nó là con chó đặc biệt thuộc riêng Laura. Cô không biết giải thích cách nào cho nó hiểu rằng lúc này nó phải lên xe theo Bố đi trước và để cô ở lại. Có lẽ nó không hiểu là cô sẽ đáp xe lửa theo sau nó. Lúc này cô cũng không thể ngồi với nó lâu vì còn quá nhiều việc phải làm. Nhưng trọn buổi chiều, mỗi lúc có thể được, cô đều nói với nó: - Anh bạn Jack tử tế! Cô cho nó ăn bữa tối thật ngon và sau khi rửa chén dĩa, bày sẵn bàn cho bữa điểm tâm sớm hôm sau, cô làm cho nó một ổ nằm. ổ nằm của nó là một tấm chăn phủ lưng ngựa đã cũ đặt trong một góc gian chái sát cửa sau. Nó ngủ tại đó kể từ khi gia đình chuyển vào căn nhà này do chỗ ngủ của Laura là gác xếp và nó không thể leo lên cầu thang. Nó đã ngủ tại đó trong năm năm và Laura đã giữ cho ổ của nó luôn thoáng, sạch, ấm áp. Nhưng sau đó thì cô quên bẵng. Nó phải cào ổ lên, tự sắp xếp lấy nhưng tấm chăn đã bị đóng nếp thành những đường gồ ghề cứng ngắc. Nó ngắm cô trong lúc cô giũ tấm chắn ra để làm lại cho dễ chịu hơn. Nó như mỉm cười khẽ ve vẫy, hài lòng vì cô đang làm ổ cho nó. Cô làm một ổ nằm hình tròn và vỗ nhẹ nhẹ để chỉ cho nó thấy là ổ đã làm xong. Nó bước vào và đảo vòng một vòng. Nó ngừng lại cho những chiếc chân đau đớn được nghỉ một lúc rồi chậm chậm đảo vòng tiếp. Jack luôn đảo đủ ba vòng trước khi nằm xuống ngủ vào ban đêm. Nó đã làm như thế từ khi còn nhỏ ở vùng Big Woods và vẫn tiếp tục làm mỗi đêm trên những thảm cỏ dưới gầm thùng xe. Đó là một thói quen riêng của những con chó. Cho nên, nó đảo thêm vòng thứ ba một cách mệt mỏi rồi cuộn người nằm phịch xuống với một hơi thở dài. Nhưng nó vẫn ngẩng đầu lên nhìn Laura. Cô vỗ nhẹ đầu nó, vuốt những sợi lông đã đổi hẳn thành màu xám và nghĩ thầm nó luôn là một con chó không ngoan vô cùng. Nhờ có Jack ở bên mà cô được an toàn trước sự đe doạ của bầy sói hoặc những người da đỏ. Và đã không biết bao nhiêu lần nó giúp cô lùa những con bò cái về chuồng vào buổi tối. Cũng với nó mà cô từng có những trò chơi thích thú dọc suối Plum hoặc nơi trũng nước có con cua già sống. Còn khi cô tới trường thì nó luôn chờ đón cô bên khúc suối cạn vào lúc cô trở về. Cô nói với nó: - Anh bạn Jack tử tế, con chó khôn ngoan! Nó quay đầu đưa lưỡi liếm nhẹ bàn tay cô. Rồi nó chúi mũi vào mấy bàn chân trước, thở ra một hơi dài, nhắm mắt lại. Nó muốn ngủ. Buổi sáng, khi Laura xuống cầu thang trong ánh sáng đèn, Bố sắp ra ngoài lo các việc thường lệ. Bố lên tiếng gọi Jack, nhưng Jack không hề cục cựa. Jack vẫn nằm cuộn mình tại chỗ của nó trên tấm chăn nhưng chỉ còn là một cái xác lạnh cóng. Hai bố con đem chôn nó trên triền dốc thấp phía trên đồng lúa mì bên cạnh lối mòn mà nó vẫn háo hức phóng xuống khi cùng Laura đi đón đàn bò. Bố xúc đất đắp thành một ụ nhỏ gọn gàng. Mai đây, khi mọi người đã về miền tây, cỏ sẽ phủ kín ụ đất này. Jack không bao giờ còn hít thở không khí buổi sáng và chiếc miệng như cười vui. Nó cũng không bao giờ còn rúc mũi vào dưới bàn tay của Laura như để nhắc với cô là nó đang muốn được vuốt ve. Đã bao lần cô có thể vuốt ve nó không cần nó cầu xin vậy mà cô không làm. Bố nói: - Đừng khóc, Laura. Nó đã đi tới xứ sở hạnh phúc. Laura cố kìm nước mắt bằng cách lên tiếng hỏi: - Đúng vậy không, Bố? Bố nói: - Những con chó khôn ngoan đều được thưởng công, Laura. Có thể ở xứ sở hạnh phúc, Jack đang vui vẻ phóng chạy trong gió qua đồng cỏ như nó vẫn thường chạy trên vùng đất thảo nguyên hoang vu tuyệt đẹp ở vùng đất của người da đỏ. Có lẽ cuối cùng nó sẽ bắt được một con thỏ lớn. Nó vẫn thường cố bắt một con thỏ tai dài, cẳng dài nhưng chưa bao giờ thành công. Sáng hôm đó, Bố lái chiếc xe cũ lọc xọc theo sau cỗ xe độc mã của cô Docia ra đi. Jack không đứng bên cạnh Laura để nhìn theo Bố lên đường. Thay cho đôi mắt nhìn lên của Jack như để nhắc nhở vẫn có nó ở cận kề để lo lắng cho cô chỉ là sự trống vắng. Lúc đó, Laura chợt nhận ra mình không còn là cô bé nữa. Bây giờ cô chỉ có một mình và phải tự lo liệu mọi sự. Khi phải như thế cũng là lúc đã thực sự lớn lên. Laura chưa lớn lắm, nhưng cô đã gần mười ba tuổi và không còn có ai ở đây để dựa dẫm. Bố và Jack đều đã ra đi và Mẹ cần được giúp đỡ lo chăm sóc Mary cùng các em bằng cách nào đó để cả nhà sẽ an toàn trên xe lửa tới miền tây. Chương 3: Trên Xe Lửa Đến lúc ra đi mà Laura vẫn khó tin đó là sự thật. Những tuần lễ và những tháng dài tưởng chừng vô tận bây giờ chấm dứt đột ngột. Suối Plum và căn cùng nhà tất cả những triền dốc, những cánh đồng quen thuộc đều đã trôi xa và không bao giờ cô còn thấy lại được nữa. Những ngày cuối cùng bận rộn đóng gói, dọn dẹp, giặt giũ và những phút cuối cùng xôn xao tắm rửa, thay đồ cũng đã trôi qua. Một buổi sáng bình thường, tất cả đều sạch sẽ, cứng ngắc với quần áo chỉnh tề ngồi thành hàng trên một chiếc ghế dài ở phòng đợi trong lúc Mẹ đi mua vé. Một giờ nữa, cả nhà sẽ đang ngồi trên xe lửa. Hai túi đồ dựng đứng trên sân ga ngập nắng phía ngoài phòng đợi. Laura phải luôn trông chừng các túi đồ này và Grace như Mẹ đã dặn. Grace ngồi im lìm trong bộ áo mũ bằng vải mịn trắng hồ cứng với những bàn chân mang giày mới buông thõng. ở quầy vé, Mẹ đang cẩn thận đếm số tiền mới lấy ra khỏi bóp. Di chuyển bằng xe lửa rất tốn tiền khác hẳn khi di chuyển bằng cỗ xe ngựa chẳng phải trả một phí khoản nào. Và, sáng nay là một buổi sáng tuyệt đẹp để ngồi trên xe ngựa chạy dọc những con đường mới. Đây là một ngày tháng chín với những đám mây nhỏ đang trôi nhanh trên nền trời. Lúc này, các cô gái nhỏ đều đang ở trường. Các cô sẽ nhìn xe lửa rầm rập chạy qua và biết đang có Laura trên đó. Xe lửa chạy rất nhanh so với lũ ngựa. Chính vì sức chạy nhanh khủng khiếp này mà xe lửa thường gặp tai nạn. Khó ai biết nổi điều gì sẽ xảy ra khi ngồi trên xe lửa. Mẹ cất vé trong chiếc bóp cẩn xà cừ và cẩn thận cài chiếc móc thép nhỏ đóng kín lại. Mẹ rất duyên dáng trong chiếc áo màu sẫm với viền cổ và các ống tay đính ren trắng. Chiếc nón rơm màu đen của Mẹ có vành hẹp uốn cong lên với cánh hoa huệ trắng cài đứng một mé chóp. Mẹ ngồi xuống bồng Grace lên lòng. Lúc này không còn việc gì khác ngoài chờ đợi. Họ đã tới sớm một giờ để khỏi bị nhỡ tàu. Laura kéo lại chiếc áo bằng vải nâu có điểm những bông hoa nhỏ màu đỏ. Tóc cô kết thành những bím nâu dài buông xoã trên lưng với một dải băng đỏ buộc gọn các đầu bím lại. Cũng có một dải bằng đỏ quấn quanh chiếc nón của cô. Áo của Mary bằng vải chúc bầu xám với những cánh hoa màu xanh lơ. Chiếc nón rơm rộng vành của cô buộc một dải bằng màu xanh và dưới nó, những lọn tóc ngắn tội nghiệp được buộc về phía sau bằng một dải băng xanh quấn quanh đầu. Cặp mắt xanh lơ dễ thương của cô không còn nhìn thấy gì nữa, nhưng cô nói: - Đừng nhấp nhỏm Carrie! Áo của em nhăm nhúm hết bây giờ. Laura nghểnh cổ lên nhìn Carrie đang ngồi bên cạnh Mary. Carrie nhỏ bé trong chiếc áo màu hồng với những dải băng màu hồng trên bím tóc và trên nón. Cô bối rối một cách tội nghiệp vì Mary phát giác ra lỗi của cô và Laura lên tiếng: - Hãy tới ngồi bên cạnh chị, Carrie, rồi tha hồ mà nhấp nhỏm. Ngay lúc đó, nét mặt Mary bỗng sáng lên vui vẻ và cô nói: - Mẹ, Laura cũng đang nôn nóng! Con biết chắc vậy dù không nhìn thấy. - Đúng vậy đó, Mary! Mẹ nói và Mary mỉm cười một cách hài lòng. Trong ý nghĩ của mình, Laura cảm thấy xấu hổ vì đã không giữ được như Mary. Cô không nói gì, đứng lên im lặng đứng ngang trước mặt Mẹ. Mẹ phải lên tiếng nhắc: - Hãy nhận lỗi đi, Laura! - Xin lỗi Mẹ! Xin lỗi chị Mary! Laura nói một cách lễ độ rồi bước tới ngồi xuống bên Carrie. Carrie cảm thấy yên chí hơn khi ngồi giữa Laura và Mary. Carrie thật sự sợ đi xe lửa. Tất nhiên cô không nói ra điều mình sợ, nhưng Laura biết. Carrie rụt rè hỏi: - Mẹ, có chắc Bố sẽ tới đón mình không! Mẹ đáp: - Bố sẽ tới đón chứ. Có điều từ trại của Bố tới phải mất trọn ngày nên mình sẽ phải chờ Bố ở Tracy. Carrie hỏi tiếp: - Liệu Bố… Liệu Bố tới kịp trước khi trời tối không, Mẹ? Mẹ nói là Mẹ hy vọng Bố sẽ tới sớm. Không thể nói chắc điều gì sẽ xảy ra khi di chuyển bằng xe lửa. Chuyện khác hẳn lúc khởi đầu cùng bước lên một cỗ xe ngựa để đi ra ngoài. Vì vậy Laura giữ vẻ tỉnh táo lên tiếng: - Có thể Bố đã kiếm được một nông trại vừa ý. Em thử đoán coi nó ra sao, Carrie, rồi sẽ tới lượt chị đoán. Các cô không thể chuyện trò thoải mái vì suốt thời gian đó, các cô vẫn chờ đợi và lắng nghe tiếng xe lửa. Cuối cùng, sau một hồi lâu, Mary bảo là cô nghe thấy. Rồi Laura nghe văng vẳng từ xa một âm thanh mờ nhạt. Tim cô đập nhanh tới nỗi cố không nghe thấy lời Mẹ nhắc. Mẹ bồng bé Grace trên một cánh tay còn tay kia nắm chặt tay Carrie. Mẹ nhắc: - Laura, con dìu Mary đi sát sau lưng Mẹ. Cẩn thận nghe! Xe lửa đang tới, rầm rộ hơn. Cả nhà đứng bên những túi đồ trên sân ga, ngóng đoàn xe. Laura không biết làm cách nào để đưa mấy túi đồ lên xe. Cả hai tay Mẹ đều đang vướng còn Laura phải lo cho Mary. Khung cửa tròn trước đầu máy xe lửa chói sáng dưới ánh nắng giống như một con mắt khổng lồ. Một ống khói dựng đứng loe lớn ở trên đỉnh và từ đó một cuộn khói đen cuốn lên. Thình lình một tia chớp màu trắng cắt ngang cuộn khói đồng thời một hồi còi tú lên kéo dài man dại. Một đoàn xe rầm rĩ như lao thẳng vào họ, mỗi lúc hiện ra càng lớn hơn, lớn khủng khiếp và đảo lộn hết mọi thứ với âm thanh ồn ào của nó. Rồi điều tệ hại nhất trôi qua. Đoàn xe không va phải ai mà chỉ chạy rầm rầm bên cạnh họ trên những bánh xe dầy, lớn. Tiếng rơi đổ, va chạm kéo dài theo những toa xe nặng nề ngăn cách nhau rồi tất cả ngừng lại. Đoàn xe đã ở đó và họ phải bước lên. Mẹ kêu lớn: - Laura! Trông chừng Mary cẩn thận! - Dạ, Mẹ! Laura đáp. Cô lo lắng dìu Mary bước lên cho kịp đeo sát sau vành váy của Mẹ. Mỗi khi vành váy Mẹ ngưng lại, Laura giữ Mary lại. Họ phải lên toa cuối của đoàn xe. Còn cách toa xe mấy bước thì một người đàn ông là trong bộ quần áo vào chiếc nón màu nâu sẫm tới giúp Mẹ bồng Grace leo lên. Vừa đỡ xốc Carrie cho đu lên cạnh Mẹ, ông ta vừa hô lớn: - Bông cúc trắng tuyệt diệu! Rồi, ông ta hỏi: - Mấy túi đồ kia là của bà, thưa bà? Mẹ đáp: - Dạ, nhờ ông giúp. Mẹ gọi lớn: - Tới đây, Laura, Mary! Trong lúc Laura dìu Mary lên xe, Carrie hỏi: - Ai đó, Mẹ? Tất cả đứng chen chúc trong một khoảng nhỏ. Người đàn ông bước tới vượt qua họ với mấy túi đồ hích vai mở cửa xe. Tất cả bước theo ông ta vào giữa hai hàng ghế phủ nhung đỏ đầy người ngồi. Hai bên toa xe giống như làm bằng những khuôn cửa sổ kiên cố và toa xe sáng trưng như ở ngoài trời với những mảnh nắng chiếu xiên qua mọi người và những khung ghế bọc nhung đỏ. Mẹ ngồi xuống một chiếc ghế nhung với bé Grace ngồi trên đùi. Mẹ bảo Carrie ngồi xuống bên cạnh rồi nhắc Laura: - Laura, con với Mary ngồi ở chiếc ghế phía trước Mẹ. Laura dắt Mary bước tới và cả hai ngồi xuống. Chiếc ghế nhung nhún nhẩy. Laura muốn nhảy trên ghế nhưng cô cần phải xử sự đàng hoàng. Cô thì thào: - Mary. Ghế ngồi bọc nhung đỏ! - Chị biết! Mary nói trong lúc sờ mó mặt ghế bằng mấy ngón tay và hỏi: - Phía trước mình là gì? Laura đáp: - Là chiếc lưng dựa cao của chiếc ghế phía trước cũng bọc nhung đỏ. Còi từ đầu máy hú lên khiến cả hai đều giật mình. Xe lửa đang chuẩn bị khởi hành. Laura quì gối trên ghế quay lại nhìn Mẹ. Mẹ có vẻ bình thản và hết sức duyên dáng trong chiếc áo màu xẫm với cổ áo viền ren trắng và nhưng bông hoa trắng li ti trên nón. Mẹ hỏi: - Gì vậy, Laura? Laura hỏi: - Người đàn ông vừa rồi là ai vậy? Mẹ đáp: - Người lái tàu đó. Bây giờ ngồi xuống đi và… Đoàn xe giật mạnh xô Laura về phía sau. Cằm cô đập mạnh vào lưng ghế và nón văng ra khỏi đầu. Đoàn xe lại giật tiếp nhưng nhẹ hơn lần trước rồi nó bắt đầu lắc lư và nhà ga chuyển động. Carrie kêu lên: - Xe chạy rồi! Xe lắc lư nhanh hơn, ồn hơn trong lúc nhà ga chạy lui về phía sau và phía dưới toa xe những bánh sắt bắt đầu gõ nhịp. - Xịch-xịch! Xịch-xịch! Bánh xe lăn tới trước càng lúc càng nhanh hơn, xưởng gỗ, phía hông nhà thời rồi phía trước trường học trôi qua. Đó là hình ảnh cuối cùng của thị trấn. Lúc này, cả đoàn xe lắc lư theo nhịp khua đều đặn ở phía dưới và cột khói đen kéo thành một chuỗi vòng tan loãng dần. Một đường dây điện thoại nhấp nhô lên xuống phía ngoài khung cửa sổ. Thực ra sợi dây vẫn bất động nhưng nó giống như nhấp nhô lên xuống vì trũng xuống giữa hai cây cột, các mặt kính cửa sổ màu xanh như gắn chặt vào ánh nắng lấp lánh và đổi thành đen xẫm khi những cuộn khói cuốn qua. Xa xa bên kia đường dây điện thoại, những thảm cỏ, những cánh đồng, những nhà trại, nhà kho rải rác vùn vụt trôi qua. Tất cả qua nhanh đến mức Laura không kịp nhận ra là có chúng ở đó trước khi biến đi. Chỉ trong một giờ, đoàn xe đã vượt đoạn đường dài hai mươi dặm, ngang với một ngày đi của những con ngựa. Cánh cửa toa xe bỗng mở ra và một người đàn ông cao lớn bước vào. Ông ta mặc chiếc áo khoác màu xanh lơ với một hàng nút đồng và chiếc mũ có mấy chữ lớn KIỂM SOÁT ngang phía trước. Ông ta ngừng lại ở từng hàng ghế, coi vé của hành khách. Với một chiếc máy nhỏ trong bàn tay, ông ta bấm những chiếc lỗ tròn nhỏ trên các tấm vé. Mẹ đưa cho ông ta ba tấm vé. Carrie và Grace còn nhỏ nên có thể đi xe không phải mua vé. Khi người kiểm soát đi khỏi, Laura nói nhỏ: - Ô, Mary! Hàng nút đồng trên áo ông ta sáng bóng hết sức và mấy chữ KIỂM SOÁT gắn ngang trước mũ ông ta cũng thế. Mary nói: - Ông ta cao lắm. Chị nghe giọng nói ông ta ở thật cao. Laura cố tả cho Mary về mức độ vụt qua thật nhanh của những cột cây điện thoại. Cô nói: - Sợi dây chùng xuống giữa những cây cột rồi lại cao lên. Và cô đếm: - Một-vút! Hai-vút! Ba! Chúng vụt qua mau quá! Mary nói một cách vui vẻ: - Chị có thể hình dung nó vụt qua nhanh thế nào, chị cảm thấy được. Vào cái buổi sáng kinh hoàng khi Mary không còn nhận ra ánh nắng đang xối chan hoà trên mắt. Bố đã nói Laura phải nhìn thay cho chị. Bố nói: - Cặp mắt con đủ nhanh và chiếc lưỡi của con cũng cần thế để con dùng chúng giúp cho Mary. Và Laura đã hứa. Từ đó cô cố nhìn thay cho Mary và rất ít khi Mary cần lên tiếng: - Nhìn coi có cái gì ồn ở phía ngoài vậy, Laura! Bây giờ Laura nói: - Hai bên toa xe đều là cửa sổ kề sát nhau. Mỗi củă sổ đều là một ô kính lớn và ngay cả những nẹp gỗ giữa các khuôn cửa sổ cũng sáng như gương, chúng đều bóng loáng. - Đúng, chị cũng thấy thế. Mary nói và đặt ngón tay lên mặt kính và những nẹp gỗ cửa sổ. Laura kể: - Nắng đang chiếu xiên trên những khung cửa sổ phía nam, trên các nẹp gỗ của các ghế ngồi bọc nhung đỏ và trên hành khách. Các mảng nắng rơi trên sàn xe và vươi tới, chạy lui. Phía trên các khung cửa sổ là những nẹp gỗ uốn cong vào từ cả hai bên thành xe và vươn cao lên ở chính giữa trần toa xe. Có một dãy những ô cửa sổ thấp, dài, nhỏ để có thể nhìn thấy nền trời màu xanh ở phía ngoài. Nhưng, ở ngoài những khung cửa sổ lớn cả hai bên thành xe là cánh đồng quê đang vụt qua. Những cánh đồng lởm chởm gốc rạ vàng tực và những đồng cỏ khô kế bên các khu nhà kho, như cội cây nhỏ họp thành các cụm vàng đỏ bao quanh các căn nhà. Giọng Laura bỗng trở nên đầy xúc động: - Bây giờ em sẽ nhìn tới hành khách. Ngay phía trước mình là một chiếc đầu hói ở trên đỉnh và các vạt tóc mai dài ở hai bên. Ông ta đang đọc báo. Ông ta không hề nhìn ra ngoài cửa sổ. Xa hơn về phía trước là hai thanh niên vẫn đội nón trên đầu. Họ đang mở một tấm bản đồ ra ngắm và bàn bạc. Em cho rằng họ cũng đang kiếm một nông trại. Bàn tay họ chai sần nên họ phải là những tay lao động giỏi. Xa hơn nữa về phía trước có một phụ nữ có mái tóc vàng sáng… Ồ, Mary, chiếc nón nhung đỏ sáng rực với những bông hồng… Đúng lúc đó, một người đi ngang sát bên khiến Laura nhìn lên. Cô kể tiếp: - Một người đàn ông mảnh khảnh với cặp lông mày rậm cứng, bộ râu cằm dài và lộ hầu. Ông ta không đi thẳng người được vì xe đang chạy nhanh. Em không biết… Ô, Mary! Ông ta đang vặn một tay cầm nhỏ trên thành vách ở cuối toa và nước đang chảy ra! Nước chảy thẳng vào một chiếc ly thiếc. Bây giờ thì ông ta đang uống nước. Cái hầu lộ nhấp nhô lên xuống. Ông ta lại lấy đầy thêm một ly khác. Ông ta chỉ cần vặn chiếc tay cầm là nước chảy ra liền. Chị có hình dung ra… Mary! Ông ta đã cất chiếc ly đó vào một giá nhỏ. Bây giờ, ông ta đang quay lại. Sau khi người đàn ông đi khỏi, Laura bỗng nảy ra một ý nghĩ. Cô hỏi Mẹ liệu cô có thể đi kiếm nước uống không và Mẹ bảo được. Thế là cô bước đi. Cô không thể đi thẳng. Toa xe lắc lư khiến cô lảo đảo chộp tay vào những lưng ghế dọc lối đi. Nhưng cô cũng đi tới cuối toa xe và nhìn chiếc tay cầm sáng bóng, chiếc vòi nước cùng chiếc giá nhỏ ở phía dưới có một chiếc ly thiếc chói lọi. Cô chỉ khẽ vặn chiếc tay cầm và nước chảy ra khỏi vòi nước. Cô vặn ngược tay cầm lại và nước ngưng chảy. Phía dưới chiếc ly có một cái lỗ nhỏ để từ đó nước tràn thoát ra ngoài. Nó hết sức đơn giản và cũng hết sức kì diệu đến nỗi cô muốn cứ vặn cho nước chảy tràn ra hoài. Nhưng không thể hoang phí nước. Nên sau khi uống xong, cô chỉ hứng đầy thêm một ly không để tràn ra và mang tới cho Mẹ. Carrie rồi Grace đều uống. Các cô không uống thêm nữa còn Mẹ và Mary đều không khát. Thế là Laura mang chiếc ly trở lại chỗ của nó. Suốt thời gian đó, đoàn xe vẫn lao tới đẩy lui cả vùng quê về phía sau và toa xe luôn đu đưa nhưng Laura không vịn tay vào một chiếc lưng ghế nào trên đường đi. Cô có thể đi thành thạo gần như người kiểm soát vé. Chắc chắn không một ai nghĩ rằng cô mới đi xe lửa lần đầu. Lúc đó, một cậu bé đang đi dọc giữa hai hàng ghế với chiếc giỏ trong tay. Cây ngừng lại và trưng chiếc giỏ trước từng người và một số người lấy những vật gì đó từ trong giỏ ra rồi đưa tiền cho cậu. Khi cậu bé tới gần, Laura thấy chiếc giỏ đầy các thứ kẹo. Cậu bé đưa chiếc giỏ về phía Mẹ và nói: - Bà dùng kẹo trái cây? Hay kẹo cao su? Mẹ lắc đầu nhưng cậu bé mở hộp để trưng ra những chiếc kẹo đủ màu. Hơi thở của Carrie đượm vẻ háo hức. Cậu bé khẽ lắc chiếc hộp làm lộ ra một cây kẹo. Đó là loại kẹo Giáng Sinh với những viên màu đỏ, màu vàng và một số viên có sọc trắng đỏ. Cậu bé nói: - Chỉ mười xu thôi, thưa bà, đúng một “đim”. Laura và cả Carrie đều biết là các cô không thể có thứ kẹo đó. Các cô chỉ được ngắm nó thôi. Đột nhiên Mẹ mở chiếc túi nhỏ lấy ra mười xu đặt vào tay cậu bé. Mẹ lấy kẹo từ trong hộp đưa cho Carrie. Sau khi cậu bé đi khỏi, Mẹ nói như để giảm lỗi cho mình về việc đã tiêu một món tiền như thế: - Cũng nên chào mừng lần đầu tiên đi xe lửa. Grace đang ngủ và Mẹ bảo bé không nên ăn kẹo. Mẹ chỉ lấy một viên nhỏ. Rồi Carrie bước tới ngồi với Laura, Mary và chia đều phần kẹo còn lại. Mỗi cô có hai viên. Tất cả đều nghĩ chỉ ăn một viên còn một viên để dành lại tới ngày hôm sau, nhưng sau khi ăn xong viên thứ nhất, Laura quyết định ăn luôn viên thứ hai. Rồi tới lượt Carrie làm theo và sau cùng là Mary. Các cô liếm hết mấy viên kẹo, từ từ từng chút một. Các cô liếm kĩ từng ngón tay khi chiếc còi ở đầu máy hú lên một hồi dài. Rồi đoàn tàu chạy chậm lại và phía ngoài, mặt sau của những chòi lán lụp xụp cũng từ từ chạy lùi. Hành khách bắt đầu gom đồ đạc, đội mũ và một chiếc giật khủng khiếp rồi đoàn tàu ngừng lại. Họ đã tới Tracy vào buổi trưa. Mẹ nói: - Mẹ hy vọng mấy viên kẹo sẽ không làm hư bữa ăn trưa của các con. Carrie nhắc Mẹ: - Mình đâu có mang theo đồ ăn trưa, Mẹ! Mẹ đáp một cách lơ đãng: - Mình sẽ đi ăn trưa ở nhà hàng. Tới đây, Laura! Con và Mary phải cẩn thận. Chương 4: Cuối Đường Sắt Bố không chờ sắn tại cái nhà ga xa lạ đó. Người lái tàu đặt mấy túi đồ xuống sân ga và nói: - Nếu bà phải chờ một thời gian thì tôi có thể giúp đưa bà về khách sạn, thưa bà. Tôi có việc phải tới đó. Mẹ đáp với vẻ biết ơn: - Cảm ơn ông. Người lái tàu phụ tháo rời đầu máy ra khỏi đoàn xe. Từ đầu máy, người đốt lò mặt mày đỏ như đầy tàn than cúi người ngó ra ngoài. Rồi ông ta giật sợi dây chuồng. Chiếc đầu máy phì phà nhả hơi trong tiếng chuống rung vang dội và đi tới. Nó chạy một đoạn ngắn rồi dừng lại và Laura không tin vào điều cô nhìn thấy. Những dãy đường cắt ngang với đầu máy và những thanh gỗ nối bỗng đảo quanh. Chúng quay ngược một vòng tròn tại chỗ trên mặt đất cho tới khi các đoạn cuối đường sắt lại ghép khít và chiếc đầu máy đổi hướng về phía sau. Laura kinh ngạc đến nỗi cô không kể cho Mary nghe về điều đang xảy ra. Trong tiếng chuông leng keng và tiếng máy phì phà chiếc đầu máy chạy tới trên một đường chạy khác bên cạnh đoàn xe. Nó vượt khỏi đoàn xe và đi thêm một đoạn ngắn ở phía bên kia. Chuông vẫn leng keng cùng với tiếng người hô hoáng kèm theo các động tác tay và chiếc đầu máy chạy lùi lại. Bùm! Nó đã ghép vào phía sau đoàn xe. Tất cả các toa xe dồn mạnh vào nhau. Và, lúc này đoàn tàu đứng đó đã gắn vào đầu máy nhưng quay về hướng đông. Carrie há hốc miệng kinh ngạc. Người lái xe cười thân mật với cô bé, nói: - Đó là bàn xoay. ở đây là cuối đường sắt nên chúng tôi phải quay ngược hướng đầu máy lại để có đoàn xe chạy ngược chiều. Dĩ nhiên người ta phải làm điều này nhưng từ trước Laura không hề nghĩ tới. Bây giờ cô mới hiểu điều mà Bố muốn nhắc tới khi Bố nói rằng mình đang sống trong một thời kì kì diệu. Bố đã nói chưa bao giờ có những điều kì diệu như thế trong lịch sử thế giới. Lúc này, chỉ nội buổi sáng, họ đã thật sự vượt một đoạn đường cần cả tuần lễ mới đi hết và Laura đã có dịp chứng kiến con ngựa sắt trở đầu để đi ngược hết đoạn đường đó nội một buổi chiều. Trong khoảnh khắc đó, cô gần như đã mong ước Bố sẽ trở thành một người của đường sắt. Không có gì kì diệu hơn những con đường sắt và những người của đường sắt là những con người vĩ đại có thể lái những đầu máy lớn bằng sắt lôi theo cả đoàn xe chạy phăng phăng dễ sợ. Nhưng cũng dĩ nhiên là không hẳn những người của đường sắt sẽ vĩ đại hơn và tử tế hơn Bố nên cô không thực sự muốn Bố là gì khác ngoài con người thực của Bố. Có một đoàn xe dài nặng nề nằm trên một đường sắt khác ở bên kia nhà ga. Nhiều người đang chuyển hàng từ các toa xe qua những cỗ xe ngựa. Nhưng tất cả bỗng ngừng lại thình lình nhảy xuống khỏi những cỗ xe ngựa. Một vài người hét lên và một người to lớn còn trẻ cất tiếng hát một điệu hát mà Mẹ vẫn rất thích. Chỉ riêng lời ca mà anh ta hát lên thì khác: Có một nhà hàng ngon tuyệt Cách đây một đoạn đường thôi Giò hầm trứng chiên không thiếu Mỗi ngày ba bữa chẳng sai Khách ăn đều mừng la hét Khi nghe chuông báo giờ ăn Trứng chiên sao mà thơm thế! Mỗi ngày bán đủ… Anh ta đang hát tới những lời này và có một số người toan phụ hoạ thì họ nhìn thấy Mẹ và ngưng lại. Mẹ bồng bé Grace và nắm bàn tay Carrie lặng lẽ bước. Người lái tàu có vẻ bối rối. Ông ta nói thật nhanh: - Mình bước nhanh hơn đi, thưa bà. Có chuông báo giờ ăn rồi. Khách sạn nằm dưới một đường phố ngắn phía bên kia mấy tiệm buôn và nhiều lô đất trống. Một bảng hiệu bên lối đi ghi hai chữ “Khách sạn” và một người đàn ông đứng ngay bên dưới đang lắc chiếc chuông nắm trong tay. Tiếng chuông kêu lanh canh và tất cả những đôi ủng của đám đàn ông đập rầm rập trên con phố làm bụi và hè đường có dựng tấm bảng. Mary run giọng hỏi: - Ôi, Laura, cái gì giống như đất chuyển vậy? Laura đáp: - Không đâu, chuyện thường thôi. Chỉ là một thị trấn và những người đàn ông. Mary nói: - Ồn ào ghê quá. Laura nói: - Bây giờ mình đã tới trước khách sạn. Người lái tàu bước vào và đặt những túi đồ xuống. Nền nhà cần phải được quét dọn. Những bức vách dán bằng giấy màu nâu có một tấm lịch in chân dung rất lớn của một cô gái xinh xắn đứng giữa đồng lúa mì vàng chói. Đàm đàn ông đang xô lấn qua khung cửa mở bước vào một gian phòng lớn ở phía trong có kê một chiếc bàn dài trải khăn màu trắng bày sẵn đồ cho bữa ăn trưa. Người đàn ông đứng rung chuông nói với Mẹ: - Chào bà! Chúng tôi có phòng cho bà. Ông ta đặt những túi đồ ra sau chiếc bàn giấy, nói tiếp: - Có lẽ bà cần rửa ráy trước khi ăn, thưa bà? Trong căn phòng nhỏ có một giá rửa mặt. Một bình nước lớn bằng sứ được đặt trong một chậu sứ lớn và có một chiếc khăn cuốn treo trên vách. Mẹ nhúng ướt chiếc khăn tay sạch lau mặt và tay cho bé Grace và cho Mẹ. Rồi Mẹ đổ nước trong chậu vào chiếc xô ở bên giá, đổ đầy nước mới vào chậu cho Mary rồi cho Laura. Nước lạnh rửa hết bụi đất, tàn tro trên mặt các cô và biến thành đen ngòm trong chậu. Mỗi người chỉ có một ít nước rồi chiếc bình cạn queo. Mẹ đặt bình vào trong chậu khi Laura đổ hết nước dơ. Tất cả kéo chiếc khăn cuốn để lau chùi. Chiếc khăn cuốn rất tiện vì các đầu khăn được khâu dính vào nhau và nó xoay tròn quanh trục quay để mọi người có thể kiếm lấy một chỗ khô sạch theo ý muốn. Bây giờ đã tới lúc bước vào phòng ăn. Laura cảm thấy kinh hãi và cô biết rằng: Mẹ cũng đang kinh hãi. Thật không dễ gì khi đối mặt với nhiều người lạ như thế. Mẹ nói: - Các con đã có vẻ sạch sẽ và xinh xắn. Bây giờ cần nhớ giữ đúng phép cư xử. Mẹ bồng bé Grace bước đi trước. Carrie theo sau Mẹ rồi tới Laura dìu theo Mary. Tiếng ồn do cười nói và chén dĩa va chạm bỗng khựng lại khi họ bước vào phòng ăn nhưng mọi người đàn ông đều nhìn lên. Mẹ đã tìm ra mấy chiếc ghế trống và tất cả ngồi xuống thành hàng bên chiếc bàn dài. Trên mặt bàn, những tấm lưới che mang hình dáng tổ ong bày la liệt khắp tấm khăn màu trắng. Dưới mỗi tấm lưới che là một dĩa thịt hoặc một dĩa rau. Cũng có những dĩa bánh, bơ, trái cây dầm, những bình si-rô, kem và các chén đường. Cách từng khoảng lại có những ổ bánh nhồi thịt lớn đặt trên một chiếc đĩa nhỏ. Ruồi trườn vò và bay vù vù trên những tấm lưới che nhưng không thể đụng tới thức ăn ở phía trong. Mọi người tỏ ra lịch sự chuyển các món ăn tới. Những chiếc dĩa chuyển từ bàn tay này qua bàn tay khác về đầu bàn cho Mẹ. Không ai hỏi han gì ngoại trừ nói khẽ “Mừng bà tới đây, thưa bà” khi Mẹ lên tiếng “Cảm ơn ông”. Một cô gái mang tới cho Mẹ một ly cà phê. Laura cắt phần thịt của Mary thành những miếng nhỏ và trét bơ lên bánh của Mary. Mấy ngón tay của Mary nắm trên dao nĩa và cảm giác đã giúp cô sử dụng hoàn hảo không để rớt một miếng nào. Chỉ tội nghiệp là sự khích động đã khiến các cô không tìm được sự ngon miệng. Bữa ăn trưa có giá hai mươi lăm xu và có rất nhiều thức ăn cho các cô mặc sức lựa chọn. Nhưng các cô ăn rất ít. Chỉ trong ít phút, đám đàn ông đã ăn xong phần bánh nhồi thịt và rời đi. Cô gái đã mang ly cà phê tới cho Mẹ bắt đầu gom đĩa lại mang vào nhà bếp. Cô gái rất tự nhiên với nét mặt thoải mái và bộ tóc nâu vàng. Cô hỏi Mẹ: - Tôi đoán là bà mới rời khỏi nông trại? Mẹ đáp: - Dạ! - Chắc ông nhà đang làm việc ở đường sắt? - Dạ! Mẹ đáp và nói tiếp: - Chồng tôi sẽ tới đón chúng tôi vào chiều nay. Cô gái nói: - Tôi cũng nghĩ thế. Thật lạ là bà tới đây vào dịp này trong khi phần đông dân quê thường tới vào mùa xuân. Con gái lớn của bà bị hư mắt hả? Thật đáng buồn quá. Thôi, phòng khách ở phía bên kia. Nếu cần, bà và các em có thể qua đó ngồi đợi tới khi ông nhà tới. Phòng khách có trải thảm ở dưới nền và dán giấy hoa trên vách. Ghế ngồi đều có nệm bọc bằng vải màu đỏ xẫm. Mẹ ngồi vào chiếc ghế đu với một hơi thở ra nhẹ nhõm: - Grace nặng quá! Ngồi xuống đi, các con, và nhớ giữ im lặng. Carrie leo lên một chiếc ghế ở gần Mẹ còn Mary và Laura ngồi trên ghế sô-pha. Tất cả đều giữ im cho bé Grace ngủ hết giấc buổi chiều. Chiếc bàn ở giữa đặt một cây đèn có đế bịt đồng. Những chân bàn uốn cong cắm trong những trái cầu thuỷ tinh trên tấm thảm. Những tấm màn che viền ren buông thõng trên cửa sổ và qua chỗ hở giữa các tấm màn này, Laura nhìn thấy đồng cỏ cùng một đoạn đường băng ngang phía ngoài xa, có thể Bố đang theo con đường đó đi tới. Đúng thế thì tất cả sẽ theo con đường đó để đi về một nơi nào đó ở đầu đường phía bên kia và Laura thấy là một ngày nào đó tất cả sẽ sống ở đó trong một nông trại mới. Laura thấy tốt hơn là không nên dừng lại ở đâu, cô muốn cứ tiếp tục đi tới, đi mãi tới tận cùng con đường dù nó ở chỗ nào. Trọn buổi chiều dài dặc đó, họ ngồi im trong phòng khách khi Grace ngủ say còn Carrie ngủ một lúc và Mẹ thì thỉnh thoảng chợp mắt. Mặt trời sắp lặn hẳn khi một cặp ngựa nhỏ và một cỗ xe hiện ra trên đoạn đường. Cỗ xe dần dần lớn hơn. Lúc này, Grace thức dậy và tất cả đều ngó ra ngoài cửa sổ. Cỗ xe đã lớn bằng tầm vóc thật và đúng là xe của Bố với Bố ngồi ở bên trên. Vì đang ở khách sạn nên các cô không thể ùa chạy ra đón Bố. Nhưng, chỉ một khoảnh khắc sau, Bố đã bước vào và lên tiếng: - Đúng là các con gái của Bố ở đây rồi! Xin chào! Chương 5: Trại Đường Sắt Sáng sớm hôm sau cả nhà đã ngồi trên cỗ xe đi về phía tây, Grace ngồi giữa Bố mẹ trên chiếc ghế nhún còn Carrie và Laura ngồi hai bên Mary trên tấm ván đặt ngang giữa thùng xe. Di chuyển bằng xe lửa thì đầy đủ tiện nghỉ và mau lẹ nhưng Laura thích đi xe ngựa. Trong chuyến đi trọn ngày này, Bố không căng mui xe lên. Trên đầu là trọn bầu trời và khắp phía là đồng cỏ trải dài với những nông trại nằm rải rác. Cỗ xe lăn từ từ nên có đủ thời giờ ngắm nhìn mọi thứ và cả nhà có thể trò chuyện thoải mái với nhau. Chỉ có tiếng vó ngựa khua lộp cộp hoà với tiếng cót két của cỗ xe. Bố cho biết chú Hi đã thực hiện xong hợp đồng đầu tiên và đang lo rời về trại mới nằm xe hơn trong miền tây. Bố nói: - Mọi người đã dọn đi hết. Hiện chỉ còn mấy người lái xe tải đi cùng cô Docia. Họ phải lo hạ mấy khi lều cuối cùng và kéo gỗ đi trong khoảng vài ngày nữa. Mẹ hỏi: - Vậy là mình cũng đi nữa? Bố đáp: - Ừ, trong vài ngày nữa. Bố vẫn chưa kiếm ra một nông trại. Bố sẽ kiếm tiếp tục xe hơn trong miền tây. Laura không thấy mệt mỏi vì phải chăm sóc cho Mary. Cặp ngựa chạy theo con đường băng ngang đồng cỏ. Sát bên đường là con đường sắt cao hơn mặt đất. Về phía bắc, đồng ruộng và nhà cửa giống như khu ở cũ nhưng mới hơn và nhỏ hơn. Vẻ tươi mát của buổi sáng mất dần. Suốt thời gian đó, tấm ván phía dưới các cô luôn bị giật nẩy và đung đưa theo cỗ xe. Có vẻ như chưa bao giờ mặt trời lên chậm như vật. Carrie thở ra. Gương mặt tiều tuỵ của cô tái nhợt. Nhưng Laura không thể giúp gì được. Laura và Carrie phải ngồi ở hai đầu ván luôn đung đưa nhiều nhất để Mary ngồi ở giữa. Cuối cùng mặt trời cũng lên thẳng đỉnh đầu và Bố dừng ngựa bên một dòng suối nhỏ. Thật dễ chịu khi không còn bị dằn xóc. Dòng suối nhỏ róc rách như đang trò chuyện một mình, cặp ngựa nhóp nhép nhai lúa mạch trong thùng thức ăn treo sau thùng xe và trên thảm cỏ ấm áp, Mẹ trải rộng một tấm vải, mở hộp đồ ăn trưa. Có bánh mì, bơ, trứng luộc với muối tiêu được gói trong một mảnh giấy. Buổi trưa qua đi thật mau. Bố dắt ngựa xuống suối cho uống nước trong lúc Mẹ và Laura thu dọn vỏ trứng, giấy vụn. Bố lại buộc ngựa vào xe và hô lớn: - Lên xe! Laura và Carrie đều muốn được đi bộ một hồi. Nhưng các cô không nói ra điều đó. Các cô biết Mary không thể rời cỗ xe và các cô không thể để Mary mù loà ngồi một mình trên xe. Cả hai giúp Mary leo lên rồi ngồi xuống bên cạnh cô trên tấm ván. Buổi chiều còn dài dặc hơn buổi sáng. Có lúc Laura đã buột miệng: - Con nghĩ mình đang đi về miền tây. Bố lên tiếng có vẻ ngạc nhiên: - Mình đang đi về miền tây mà, Laura. Laura giải thích: - Con đã nghĩ miền tây phải khác hơn. Bố nói: - Con chỉ cần chờ tới lúc mình qua phía trên kia vùng định cư! Có lúc Laura thở ra: - Con mệt rồi! Nhưng cô vẫn ngồi thẳng lên và nói: - Cũng không mệt bao nhiêu. Carrie không có ý định than phiền. Một cái dằn xóc nhỏ nào có đáng gì. Trên đoạn đường dài hai dặm rưỡi từ suối Plum ra thị trấn, các cô ít khi để ý tới những cái dằn xóc nhỏ. Nhưng những cái dằn xóc nhỏ kéo dài từ lúc mặt trời mọc tới buổi trưa rồi lại tiếp tục từ buổi trưa tới khi mặt trời lặn thì thật đáng ngán. Bóng tối đã buông xuống và lũ ngựa vẫn tiếp tục bước đều giữ cho các vành bánh xe lăn tới trong lúc tấm ván cứng kêu lên ken két. Trên trời, sao đêm xuất hiện. Gió thấm lạnh và tất cả đều đã ngủ nếu tấm ván không dằn xóc. Khá lâu, không ai nói gì. Rồi Bố lên tiếng: - Có ánh đèn trong lều. Xa xa về phía trước, một tia sáng nhỏ loé lên trên mặt đất tối mịt. Tia sáng còn nhỏ hơn ánh sao, nhưng ánh sao có vẻ lạnh lẽo còn tia sáng nhỏ nhoi kia lại ấm áp. Laura nói: - Có một tia sáng nhỏ màu vàng, Mary. Nó đang chiếu sáng từ xa trong bóng tối để nhắc là mình sắp tới nơi có nhà và có người thân. Mary nói: - Có cả bữa ăn tối nữa. Cô Docia đang hâm thức ăn buổi tối cho mình. Tia sáng từ từ lớn lên, bắt đầu sáng đều và có hình tròn. Một hồi sau, nó đổi thành hình có những góc vuông rõ rệt. Laura nói với Mary: - Bây giờ có thể thấy rõ đó là khung cửa sổ. Ánh sáng từ trong một căn nhà dài và thấp. Em nhìn thấy có hai căn nhà dài, thấp trong bóng tối. Bố lên tiếng: - Tất cả khu trại đó. Bố nhắc lũ ngựa: - Oa! Cặp ngựa dừng lại ngay, không bước thêm một bước. Những cái dằn xóc và đu đưa cũng ngưng. Mọi thứ đều khựng hẳn và chỉ có bóng tối lạnh lẽo, im lìm. Đúng lúc đó, ánh sáng đèn rọi ra ngoài khung cửa và cô Docia nói: - Vào ngày đi, Caroline và các con gái! Còn Charles lo cho lũ ngựa mau lên! Bữa tối đã sẵn rồi! Đêm lạnh thấm tới xương Laura. Mary và Carrie cũng cứng đơ, bước đi chuệnh choạng và ngáp. Trong căn phòng dài, ngọn đèn chiếu rõ một chiếc bàn dài cùng những chiếc ghế bằng và các bức vách thô nhám. ở đây ấm áp và nồng mùi thức ăn trên lò bếp. Cô Docia nói: - Này, Lena và Jean, tới nói một điều gì với các chị, các em đi. Lena nói: - Mạnh giỏi không? Laura, Mary và Carrie đều nói: - Mạnh giỏi không? Jean là một cậu bé chỉ mới mười một tuổi. Nhưng Lena lớn hơn Laura một tuổi. Cặp mắt cô đen láy và linh hoạt còn mái tóc đen nhánh quăn một cách tự nhiên. Những cụm tóc ngắn uốn lên quanh trán và đỉnh đầu cô tóc như sóng gợn còn đuôi các bím tóc đều cuốn tròn lại. Laura thấy thích cô. Cô hỏi Laura: - Có thích cưỡi trên lưng ngựa không? Tụi mình có hai con ngựa ô nhỏ. Tụi mình vẫn cởi chúng và mình còn điều khiển chúng kéo xe nữa. Jean chưa điều khiển chúng nổi vì nó quá nhỏ. Nhưng mình thì được và ngày mai mình sẽ đem đồ đi giặt. Nếu bồ muốn thì bồ có thể đi, muốn không? Laura đáp: - Muốn chứ! Nếu Mẹ cho phép. Cô quá buồn ngủ nên không hỏi bằng cách nào lại dùng xe để đi giặt đồ. Cô cũng buồn ngủ đến nỗi thấy khó thức nổi để ăn bữa tối. Chú Hi phốp pháp, hiền lành và thoải mái. Cô Docia nói hết sức sôi nổi. Chú Hi cố kìm bớt lại nhưng mỗi lần chú làm vậy thì cô Docia lại nói sôi nổi hơn. Cô giận vì chú Hi đã làm cực nhọc trọn mùa hè mà không có gì đền đáp lại. Cô nói: - Anh ấy giống như bị đóng đinh vào công việc suốt mùa hè. Anh ấy còn phải lo cả việc thanh toán cho công nhân và hai đứa tụi em đã phải dành dụm, dè xẻn, cào cấu mọi cách để giữ cho công việc hoàn tất. Bây giờ, làm xong rồi thì công ty bảo là tụi em còn nợ tiền của họ! Họ nói tụi em mắc nợ họ thay vì nói tới sự làm việc tối mắt trong suốt mùa hè! Và trên điều kiện đó, họ muốn tụi em lãnh hợp đồng khác, vậy mà Hi cũng chịu. Đó là cách làm của anh ấy! Anh ấy nhận điều đó! Chú Hi cố trấn tĩnh vợ và Laura cố giữ cho mình tỉnh táo. Tất cả những gương mặt như bị phủ sóng và giọng nói lộn xộn nhỏ dần rồi cổ cô giật bắn dựng đầu cô thẳng lên. Khi bữa ăn chấm dứt, cô lảo đảo đứng lên phụ gom chén dĩa nhưng cô Docia nhắc cô và Lena đi ngủ. Không có phòng ngủ riêng cho Laura, Lena và cả Jean nữa. Jean xuống khu nhà đặt giường tầng dành cho công nhân và Lena nói: - Đi thôi, Laura! Mình ngủ ở lều kho. Phía ngoài mênh mông, mờ tối và lạnh ngắt. Nhà đặt giường tầng là một vệt đen sẫm lè tè dưới bầu trời rộng và lều kho là một bóng mờ nhỏ dưới ánh sao. Tất cả có vẻ như cách biệt hẳn với nhà lán rạng ánh đèn. Lều hoàn toàn trống rỗng. ở dưới là một nền cỏ với tấm bạt phủ thành một đỉnh nhọn với những sườn thoải xuống làm vách. Laura cảm thấy lạc lõng và cô quạnh. Cô không nghĩ là mình đi ngủ trên thùng xe, nhưng cô cũng không thích ngủ trên nền đất ở một nơi xa lạ và cô mong sẽ cũng có Bố và Mẹ cùng ở đó. Lena lại rất thú vị với việc ngủ dưới một lều bạt. Cô ngồi phịch xuống một tấm nệm phủ trải trên mặt đất. Laura ấp úng một cách buồn ngủ: - Mình không cởi đồ hả? Lena nói: - Để làm chi? Làm thế chỉ mất công phải mặc lại quần áo vào buổi sáng. Vả lại, mình đâu có mền đắp. Thế là Laura nằm xuống tấm mền trải và ngủ ngon lành. Đột nhiên cô giật nảy người choàng tỉnh kinh hoàng. Từ một góc tối trong đêm bật lên một tiếng hú man dại. Không phải tiếng hú của người da đỏ, cũng không phải tiếng sói hú. Laura không nhận ra tiếng hú đó là tiếng gì. Tim cô muốn ngừng đập. Lena nói lớn: - Này, đừng có hòng doạ tụi tao! Cô nói với Laura: - Jena đó, nó đang cố làm cho mình sợ. Jean lại hú lên nhưng Lena quát: - Xéo ngay, thằng nhóc! Tao đâu có vào rừng để sợ một con cú! - Chà! Jean bỏ đi. Laura không còn thấy cứng đơ người nữa và ngủ trở lại. Chương 6: Những Con Ngựa Ô Ánh sáng xuyên qua lều bạt dọi thẳng vào mặt Laura đánh thức cô dậy. Cô mở mắt đúng lúc Lena mở mắt và cả hai nhìn nhau cười: Lena vùng dậy nói: - Mau lên! Mình sẽ mang đồ đi giặt! Các cô không phải thay đồ vì không cần. Chỉ cần gấp tấm mền trải lại là việc dọn dẹp giường đã xong. Các cô nhảy ra ngoài trời sáng thoáng đãng hiu hiu gió. Khi nhà lán thu nhỏ lại dưới bầu trời ngập nắng. Từ đông qua tây là con đường chạy bên đường sắt và dài về phía bắc là thảm cỏ đang rung rinh những bông cỏ màu hung. Mấy người đàn ông đang hạ một căn nhà lán với tiếng ồn dễ chịu của những tấm ván va chạm nhau. Bên những dây cột trên thảm cỏ ngả nghiêng trong gió, hai con ngựa ô đang gặm cỏ trong lúc bờm và đuôi bay tung. Lena nói: - Mình ăn điểm tâm trước đã. Tới đây, Laura! Mau lên! Tất cả mọi người, ngoại trừ cô Docia, đều đã ngồi vào ban. Cô Docia đang chiên bánh xếp: - Rửa mặt, chải tóc đi, mấy đứa nằm ườn này! Bữa sáng đã sẵn rồi và không nhờ gì được ở các cô hết, các tiểu thư biếng nhác ạ! Cô Docia cười vỗ vào mông Lena khi Lena đi ngang. Sáng nay cô cũng hiền hoà như chú Hi vậy. Bữa ăn thật vui. Bố cười rộn ràng như tiếng chuông. Nhưng sau đó là cả một đống chén dĩa để rửa! Lena nói rửa chén dĩa khiến cô không còn làm được gì khác. Ngày ba lần rửa chén dĩa cho bốn mươi sáu người thợ và giữa thời gian đó là nấu nướng. Lena và cô Docia phải đứng chôn chân từ trước khi mặt trời mọc cho tới tối mịt và không còn lo nổi việc gì khác. Đó là lí do khiến cô Docia thuê người giặt quần áo. Đây là lần đầu Laura được nghe nhắc tới thuê giặt quần áo. Vợ một nông dân đã nhận giặt đồ cho cô Docia. Bà sống cách đó ba dặm nên các cô phải đi về sáu dặm đường. Laura giúp Lena mang yên cương tới cỗ xe và dẫn mấy con ngựa đang háo hức rời những sợi dây cột. Cô giúp đóng yên cương ngựa, đặt hàm thiếc, đeo khoen dây vào vòng cổ và đuôi của chúng. Rồi Lena và Laura đẩy mấy con ngựa lùi lại sát cỗ xe để cột dây kéo. Sau đó, các cô leo lên xe và Lena cầm dây cương lên. Bố chưa bao giờ chịu cho Laura điều khiển ngựa. Bố nói cô không đủ sức để kìm chúng nếu chúng phóng chạy. Ngay khi Lena nắm dây cương, hai con ngựa ô bắt đầu chạy một cách vui vẻ. Bánh xe lăn nhanh và gió thổi lồng lộng. Những con chim vụt bay lên, cất tiếng hót rồi chúi xuống trên những ngọn cỏ đang ngả nghiêng theo gió. Lũ ngựa càng lúc càng phóng nhanh hơn kéo theo những vành bánh xe lăn nhanh hơn nữa. Laura và Lena cười nói thích thú. Hai con ngựa cọ mũi vào nhau, hí lên một tiếng nhỏ và tiếp tục chạy. Cỗ xe lướt đi như bay khiến ghế ngồi của Laura gần như xóc giật liên hồi. Chiếc mũ bay ngược về phía sau kéo mạnh sợi dây buộc quanh cổ cô. Cô phải nắm chặt lấy mép ghế. Cặp ngựa xoải dài vó hạ thấp người phóng hết sức. Laura kêu lớn: - Chúng đang tháo chạy! Lena hô lên, đập chúng bằng dây cương: - Cứ cho chúng chạy! Chúng có thể chạy vượt khỏi mọi thứ trừ cỏ. Hi! Tới! Tới! Tới! Maa-au! Cô hô ra lệnh cho ngựa. Những chiếc đuôi và bờm màu đen bay dài theo gió trong tiếng vó ngựa nện thình thịch và cỗ xe lướt đi. Mọi thứ đều trôi qua vùn vụt. Lena bắt đầu cất tiếng hát: Chàng trai đó vô cùng quyến rũ Nhưng bạn ơi, xin hãy coi chừng! Chàng có thể giúp người sốt sắng Nhưng biết đâu cạm bẫy sau lưng! Từ trước Laura không biết bài ca này, nhưng chỉ một thoáng sau, cô đã hát hết sức cao giọng đoạn điệp khúc: Bạn yêu ơi, chàng điên vì bạn! Hãy coi chừng! Ô! Hãy coi chừng! Đừng tin chàng vì chàng giả dối Đừng quên phòng cạm bẫy sau lưng! Cả hai cùng kêu lên: - Hi! Tới, tới, tới, tới ma-aau! Nhưng cặp ngựa không thể chạy nhanh hơn được nữa vì đã chạy hết sức. Lena lại hát: Đừng mơ hão hỡi chàng trai thôn Trọn đời anh không thể giũ sạch mùi bùn Sao sánh nổi công nhân đường sắt Mặc đồ sọc màu biết mấy thân thương Thương biết mấy, ôi! Công nhân đường sắt Người tình muôn thuở của em ơi! Em quyết vì chàng nâng khăn sửa gối Trọn đời ta mãi mãi đẹp đôi! Cô nói: - Mình nghĩ là phải cho chúng thở một chút. Cô ghìm cương cho cặp ngựa trở về nước kiệu và chạy chậm dần lại như tản bộ. Mọi thứ đều có vẻ yên tĩnh và từ từ. Laura nói: - Tôi ước tôi có thể điều khiển được chúng. Tôi vẫn luông mong được làm nhưng Bố không cho. Lena tỏ ra rất độ lượng: - Bồ có thể điều khiển chúng. Đúng lúc đó cặp ngựa cọ mũi vào nhau, hí lên và chạy. Lena hứa hẹn: - Khi trở về bồ có thể điều khiển xe. Vừa ca hát vừa hò la, các cô băng qua đồng cỏ. Từng lúc, Lena cho cặp ngựa chạy chậm lại để chúng hít thở rồi lại tiếp tục phóng chạy. Không bao lâu, các cô đã tới gần nhà lán của người chủ nông trại. Đó là một gian phòng nhỏ đóng ván đứng có một mái, tựa hồ chỉ là nửa căn nhỏ. Gian phòng không lớn hơn mấy đống lúa mì ở bên kia nơi mấy người đàn ông đang đập lúa với cỗ máy đang nhả trấu kêu ầm ĩ. Vợ người chủ nông trại bước tới bên cỗ xe kéo lê giỏ đồ giặt. Mắt và tay chân bà ta đều rám nắng nâu bóng. Mái tóc không chải của bà ta rối bù và chiếc áo nhăn nhúm, dơ dáy bạc phếch. Bà ta nói: - Tôi xin lỗi về sự lôi thôi của mình. Con gái tôi lấy chồng ngày hôm qua, rồi sáng nay những người đập lúa tới và còn phải lo giặt số đồ này. Tôi bị thúc ép ngay từ trước khi mặt trời mọc và công việc hàng ngày rất khó nhọc mà con gái tôi không còn có mặt ở đây để phụ giúp. Lena hỏi: - Bà muốn nói là Lizzie đã lấy chồng? Mẹ của Lizze đáp một cách tự hào: - Phải, Lizzie lấy chồng hôm qua. Bố nó bảo mới mười ba tuổi thì còn quá trẻm nhưng nó đã chọn được người đàn ông tử tế cho mình nên tôi bảo rằng tốt nhất là ổn định sớm. Tôi đã lấy chồng khi còn trẻ như vậy. Laura nhìn Lena và Lena nhìn lại cô. Trên đường quay về trại cả hai im lặng một hòi lâu. Rồi cả hai đồng loạt lên tiếng. - Cô ta chỉ lớn hơn tôi một chút xíu. Laura nói và Lena tiếp: - Mình còn hơn tuổi cô ta nữa. Cả hai lại nhìn nhau bằng ánh mắt biểu lộ vẻ sợ hãi. Rồi Lena hất mái tóc đen uốn cong của cô: - Cô ta là thứ ngớ ngẩn! Bây giờ thì cô ta không còn lúc nào vui vẻ nữa. Laura nói một cách điềm đạm: - Không, phải nói là bây giờ cô ta không còn dịp để chơi đùa nữa. Ngay cả cặp ngựa cũng chạy một cách nghiêm trang. Một hồi lâu sau Lena nói rằng có thể Lizzie sẽ không còn phải làm việc cực nhọc như trước. - Dù sao thì cô ta chỉ còn lo những công việc trong căn nhà riêng của mình và cô ta sẽ có con. Laura nói: - Đúng, tôi thích có căn nhà riêng, thích những đứa bé và không lưu tâm tới công việc, nhưng tôi không muốn chịu trách nhiệm sớm thế. Tôi nghĩ thà cứ để mẹ chịu trách nhiệm thêm một thời gian dài nữa. Lena nói: - Vả lại, mình không muốn lập gia đình. Mình không tính lấy chồng và nếu phải nghĩ đến thì mình sẽ chọn chồng là một công nhân đường sắt để tiếp tục di chuyển về sống thực lâu ở miền tây. Laura bỗng hỏi: - Bây giờ tôi được lái xe chưa? Cô muốn quên câu chuyện về tuổi trưởng thành. Lena trao dây cương cho cô và nói: - Tất cả công việc mà bồ cần làm là nắm chặt dây cương. Lũ ngựa này đã thuộc đường về nhà. Lúc đó cặp ngựa lại chụm mũi vào nhau và hí lên. Lena hét lớn: - Kìm chặt chúng, Laura! Kìm chặt chúng! Laura cố tì chắc bàn chân và vận hết sức bám vào dây cương. Cô cảm thấy cặp ngựa không có ý định làm điều gì tệ hại. Chúng phóng chạy chỉ vì chúng muốn phóng chạy trong không khí lộng gió. Chúng chỉ đang làm điều mà chúng thích làm. Laura nắm chắc dây cương và hô lớn: - Tới, tới, tới, tới ma..aa..au! Cô đã quên luôn giỏ đồ và Lena cũng thế. Suốt đường về trại băng qua đồng cỏ, cả hai tiếp tục la hét và ca hát còn cặp ngựa thì phóng nhanh, chậm lại để thở rồi lại phóng nhanh. Khi dừng lại bên khu nhà lán để tháo ngựa buộc vào dây cột, các cô mới thấy lớp đồ giặt sạch phía trên nằm trên thùng xe ngay dưới ghế ngồi. Các cô gom lại với cảm giác phạm tội, vuốt lại phẳng phiu rồi kéo giỏ đồ nặng nề về nhà lán, nơi cô Docia và Mẹ đang sắp những món ăn vào dĩa. Cô Docia lên tiếng: - Các cô có vẻ như không hề ngửi thấy mùi bơ. Các cô đã bận rộn công việc gì vậy? Lena nói: - Ủa. Tụi con lo lái xe đi gom đồ giặt về mà. Chiều đó còn hấp dẫn hơn buổi sáng nhiều. Ngay sau khi rửa xong chén dĩa, Lena và Laura lại ra ngoài đi kiếm mấy con ngựa. Jean đã cưỡi một con. Cậu đang cho ngựa phóng xa băng ngang đồng cỏ. Lena kêu lên: - Bất công quá! Con ngựa kia đang chạy vòng tròn vì bị buộc vào dây cột. Lena chụp lấy bờm ngựa, không gỡ dây, phóng thẳng từ mặt đất lên lưng con ngựa đang chạy. Laura đứng nhìn Lena và Jean cho ngựa đua chạy thành vòng tròn và la hét như người da đỏ. Cả hai rạp trên mình ngựa, tóc bay ngược về phía sau, bàn tay bám những chiếc bờm đen đang bay trong gió và những ống chân nâu xám quặp dính hai bên sườn ngựa. Cặp ngựa chạy vòng trong và bất ngờ đổi hướng đuổi theo nhau phóng vào đồng cỏ như những con chim trên bầu trời. Laura nhìn theo không biết chán. Cặp ngựa vùn vụt phóng trở lại và dừng bên cạnh cô. Lena và Jean cùng tuột xuống. Lena nói một cách độ lượng: - Tới đây, Laura. Bồ có thể cưỡi con ngựa của Jean. Jean hỏi: - Ai nói vậy nhỉ? Chị nhường con ngựa của chị cho chị ấy cưỡi đi. Lena nói: - Tốt hơn là mày nên coi chừng kéo tao sẽ mách mẹ chuyện hồi đêm mày doạ tụi tao. Laura nắm lấy bờm ngựa. Nhưng con ngựa lớn hơn cô, lưng nó khá cao và nó rất khoẻ. Laura nói: - Tôi không biết có cưỡi được không. Tôi chưa bao giờ ngồi trên lưng ngựa. Lena nói: - Mình sẽ đẩy bồ lên. Cô nắm chùm lông trước trán ngựa và nghiêng ngựa đưa một bàn tay cho Laura bước lên. Mỗi phút con ngựa của jean dường như lại lớn hơn. Nó lớn và đủ mạnh để quật chết Laura nếu nó muốn. Nó cũng cao đến mức cô sẽ gãy xương nếu ngã từ trên lưng nó xuống. Cô sợ đến nỗi phải hết sức cố gắng mới dám cưỡi nó. Cô đặt chân lên bàn tay Lena, trườn lên thân mình ấm áp trơn trượt và chuyển động của con ngựa trong Lena giúp nâng lên. Rồi cô quàng được một ống chân qua lưng con ngựa và mọi chuyện bắt đầu mau lẹ hơn. Mơ hồ cô tiếng Lena nhắc: - Bám vào bờm nó. Cô chộp lấy bờm ngựa. Thọc sâu bàn tay, cô bám cừng bờm ngựa bằng tất cả sức lực trong khi khuỷu tay, đầu gối đều quặp vào mình ngựa nhưng cô vẫn nẩy lên ngoài mức tưởng tượng. Mặt đất ở phía dưới xa đến nỗi cô không dám nhìn. Có lúc cô như đang rơi xuống nhưng trước khi cô rơi hẳn thì lại thấy người mình dạt về hướng khác và sự giật nẩy khiến răng cô va đập vào nhau. Từ xa, cô nghe tiếng Lena hét: - Bám chặt vào, Laura! Rồi mọi chuyện êm dần chuyển thành một nhịp vận động đều đặn dễ chịu nhất. Nhịp chuyển động này khởi từ con ngựa truyền qua Laura giữ cho cả hai lướt qua những gợn sóng trong làn không khí đang bị cuốn xô đi. Những con mắt đảo lộn của Laura mở lớn và cô nhìn thấy cỏ ở phía dưới đang vụt trôi về phía sau. Cô nhìn thấy chiếc bờm ngựa màu đen bay tung và hai bàn tay cô bíu chặt vào đó. Cô và con ngựa đang phóng cực nhanh nhưng cả hai tựa hồ đang bay trong tiếng nhạc và không có điều gì đang kể xảy ra cho tới khi tiếng nhạc ngừng lại. Con ngựa của Lena nện vó chạy kèm bên cạnh cô. Laura muốn hỏi làm cách nào để kìm ngựa dừng lại an toàn nhưng cô không lên tiếng nổi. Cô nhìn thấy khu lán hiện ra phía trước và biết là cặp ngựa đã trở đầu bằng cách nào đó để quay về trại. Lúc này sự giật nẩy lại bắt đầu. Rồi tất cả ngừng lại và cô đã ở đó đang ngồi trên lưng ngựa. Lena hỏi: - Có thấy thú vị không? Laura trả lời: - Điều gì khiến bị dằn xóc quá vậy? - Đó là chạy nước kiệu. Nếu không muốn chạy như vậy thì phải chuyển qua phi nước đại. Chỉ cần hét ra lệnh cho nó, giống như mình đã làm. Tới đây, lần này mình hãy phóng một đoạn đường dài, bồ có muốn không? Laura đáp: - Muốn chớ! - rồi, bám chắc vào! Nào, ho-ra! Thật là một buổi chiều kì diệu. Hai lần Laura bị hất văng ra và một lần mũi cô bị va vào đầu ngựa chảy máu, nhưng cô không rời khỏi bờm ngựa. Tóc cô xoã tung và cổ khản đặc vì cười và la hét. Chân cô bị trầy xước do cô chạy nhanh trên đám cỏ sắc để thử phóng lên mình con ngựa đang chạy. Cô gần như đã làm được nhưng không hoàn hảo khiến con ngựa như nổi điên. Lena và Jean luôn phóng tới lúc ngựa đang chạy rồi đu mình lên. Cả hai thi với nhau coi ai phóng lên nhanh hơn từ mặt đất để ngồi trên mình ngựa. Tất cả không nghe thấy tiếng cô Docia gọi về ăn cơm tối. Bố xuất hiện và hô: - Cơm tối! Khi các cô bước vào, Mẹ nhìn Laura sửng sốt rồi nói nhỏ: - Không sai, Docia! Laura đã giống hệt một người da đỏ hoang dã từ lúc nào rồi. Cô Docia lên tiếng: - Nó với Lena là một cặp. Nhưng thôi, Lena chưa có một buổi chiều nào chơi đùa thoả thích từ khi tới đây và cũng không còn một dịp nào khác cho tới qua mùa hè. Chương 7: Đi Vào Miền Tây Sáng sớm hôm sau, tất cả lại ngồi trên xe. Đồ đạc không chuyển xuống nên đã sẵn sàng khởi hành. Khu trại chẳng còn lại gì ngoại trừ nhà lán của cô Docia. Trên mảnh đất kho cỏ úa đã dựng những căn nhà lán, nhân viên dịch lộ đang đo dạc và đóng cọc để định vị cho một thị trấn mới sắp được xây dựng. Cô Docia nói: - Tụi em sẽ bắt theo ngay khi Hi lo xong công việc! Lena gọi với theo Laura trong lúc Bố chặc lưỡi ra hiệu cho lũ ngựa khởi hành và bánh xe bắt đầu quay: - Sẽ gặp lại bồ ở hồ Nước Bạc. Ánh nắng chan hoà trên cỗ xe không phủ mui nhưng gió mát và chuyến đi thật dễ chịu. Trên đồng rải rác những người đàn ông đang làm việc và thỉnh thoảng lại có một cặp ngựa kéo xe qua. Chẳng bao lâu, con đường uốn vòng chạy xuống một vùng đất thoai thoải và Bố nói: - Sông Big Sioux ở phía trước. Laura bắt đầu quan sát cho Mary: - Đường đi đang chạy xuống một bờ đất thấp dẫn tới sông, nhưng không có một cội cây nào. Chỉ có bầu trời mênh mông trên mặt đất đầy cỏ và có một lạch nước cạn, nhỏ. Đây là một con sông lớn nhưng lúc này nó cạn khô và không lớn hơn suối Plum. Nó chảy nhỏ giọt từ trũng nước này tới trũng nước khác qua lớp sỏi khô kéo dài và những ngăn bùn khô nứt nẻ. Bây giờ ngựa đang dừng lại uống nước. Bố nói với lũ ngựa: - Uống cho đã đi. Suốt ba mươi dặm đường phía trước không còn nước đâu. Bên kia dòng sông cạn, mặt đồng cỏ uốn vòng xuống mãi và con đường giống như một cái móc ngắn. Laura tả: - Con đường thọc sâu vào đồng cỏ gãy thành khúc nắng. Và đó là đoạn cuối đường. Mary phản đối: - Không đúng đâu. Đường sẽ dẫn thẳng tới hồ Nước Bạc. Laura đáp: - Em biết điều đó. Mary dịu dàng nói với cô: - Thôi, chị không thấy là em cần phải kể với chị những điều như thế. Mình sẽ luôn lưu ý để chỉ nói thật đúng những điều mà mình cho là đáng nói. Laura cãi lại: - Em đang nói những gì em cho là đáng nói mà. Nhưng cô không thể giải thích rõ. Có nhiều cách nhìn sự vật và nhiều cách nói về các sự vật. Bên kia sông Big Sioux không còn thấy đồng ruộng, nhà cửa và người ta. Không có một con đường thực sự mà chỉ có dấu xe ngựa mờ nhạt và không thấy đường sắt. Laura nhìn thấy loáng thoáng đây đó những cọc gỗ nhỏ gần như ẩn kín trong cỏ. Bố nói đó là những cây cọc do các nhân viên dịch lộ dựng cho một con đường sắt chưa làm. Laura nói với Mary: - Đồng cỏ này giống như mênh mông vô tận, trải dài về mọi hướng tới sát với chân trời. Những gợn sóng cỏ đang nở hoa trùng điệp dưới bầu trời không một gợn mây đem đến cho cô cảm giác kì lạ. Cô không thể diễn tả cảm giác đó như thế nào. Cô thấy tất cả mọi người trong cỗ xe cùng với cỗ xe, cặp ngựa và cả Bố đều có vẻ nhỏ bé. Trọn buổi sáng, Bố cho xe chạy đều theo dấu xe mờ nhạt và cứ vậy hoài. Càng đi xa hơn về miền tây, mọi người càng như nhỏ bé hơn nữa và khoảng đường đi được gần như chẳng đáng gì. Gió lùa trên cỏ luôn tạo ra một điệu rì rào bất tận và tiếng vó ngựa không hề thay đổi. Ngay cả sự dằn xóc của tấm ván ngồi trên xe cũng lập lại đều đều. Laura ngỡ như họ đã miệt mài đi mãi mà vẫn ở trong cái vùng không có gì thay đổi và cũng không biết là mình đang ở đó. Chỉ riêng mặt trời chuyển động. Hoàn toàn không có gì là thật, nhưng mặt trời đã đều đặn vươn lên trên bầu trời. Khi mặt trời lên thẳng đỉnh đầu, họ cho ngựa dừng lại nghỉ và cả nhà cùng ăn bữa trưa trên thảm cỏ. Ngồi nghỉ trên mặt đất sau trọn buổi sáng bó gối trên xe là điều thật dễ chịu. Laura nhớ lại nhiều lần họ đã phải ăn ngay dưới trời trong lúc di chuyển từ Wisconsin tới vùng đất của người da đỏ và từ đó quay trở lại Minnesota. Lúc này họ đang ở trong vùng Dakota trên đường đi xa hơn về miền tây. Nhưng lần này khác với tất cả những lần kia không chỉ do xe không phủ mui, không có giường ngủ trên thùng xe mà còn vì một lí do nào đó. Laura không thể nói ra được, ngoại trừ đồng cỏ ở đây là khác hẳn. Cô hỏi: - Bố à, khi Bố kiếm được một nông trại thì nó có giống như cái mình đã có hồi ở vùng đất của người da đỏ không? Bố có vẻ suy nghĩ trước khi trả lời. Cuối cùng Bố nói: - Không đâu! Đây là một vùng khác hẳn. Bố không thể diễn tả chính xác bằng cách nào ngoại trừ nói rằng đồng cỏ ở đây khác hẳn. Nó đưa lại những cảm giác lạ lắm. Mẹ nói một cách có ý thức: - Như thế là đủ rồi. Mình đã ở miền tây Minnesota, ở miền bắc vùng đất của người da đỏ, hoa cỏ ở những vùng đó cũng đâu có giống nhau. Nhưng đây không phải là điều mà Bố và Laura muốn nói tới. Trên thực tế, gần như không có sự khác biệt trong hoa cỏ. Nhưng ở đây có một cái gì mà những nơi khác hoàn toàn không có. Đó là sự tĩnh lặng mênh mông khiến người ta cảm thấy yên ắng. Và trong yên ắng, người ta có thể cảm thấy sự tĩnh lặng mênh mông đang tới gần hơn. Tiếng cỏ rì rào trong gió, tiếng những con ngựa đang nhai nhóp nhép và phà hơi vào thùng thức ăn sau cỗ xe và ngay cả tiếng nhai thức ăn của mọi người cùng với tiếng trò chuyện đều không chạm nổi vào sự tĩnh lặng mênh mông của đồng cỏ. Bố kể về công việc mới của mình. Bố là người thủ kho của công ty và là người bấm giờ của trại lao động tại hồ Nước Bạc. Bố tới kho hàng với danh sách tài khoản của từng công nhân và biết chính xác số tiền công phải trả cho từng người sau khi đã trừ các phí khoản về ăn uống và mua sắm và khi người phát ngân mang tiền tới vào ngày phát thì Bố sẽ phát tiền cho từng người. Đó là tất cả công việc Bố phải làm và với công việc đó, Bố được trả năm mươi đô la một tháng. Bố nói: - Nhưng tuyệt hơn hết là mình đã nằm trong số những người tới đây sớm nhất, Caroline. Mình được chọn đất để lập nông trại. Cuối cùng, nhờ George, vận hên của mình đã xoay chuyển! Cơ hội đầu tiên trên vùng đất mới này là có năm mươi đô la mỗi tháng cho suốt một mùa hè nghỉ ngơi. Mẹ nói: - Đúng là kì diệu, Charles. Tất cả những lời trao đổi, chuyện đó đó không hề tác động một chút nào vào cái tĩnh lặng mênh mông của đồng cỏ ở đây. Trọn buổi chiều họ tiếp tục đi, dặm đường này tiếp dặm đường khác không thấy một mái nhà, một bóng người và một vật gì khác ngoài cỏ và trời. Vết xe mà họ lần theo chỉ được nhận ra bởi những cọng cỏ gẫy hoặc bị ép xuống. Laura nhìn thấy những lối mòn cũ của người da đỏ và lối trâu bò đi hằn sâu trong đất nhưng lúc này cỏ đã phủ lên. Cô cũng thấy những khoảng đất trũng này rất rộng và lạ lùng với phần đáy phẳng lì và các bờ thẳng đứng từng là bãi trâu đằm và bây giờ cỏ đang mọc lên. Laura chưa từng thấy một con trâu và Bố nói nó khác hẳn với những con vật mà cô đã thấy. Chỉ một thời gian trước đây vẫn có những bầy lớn hàng ngàn con trâu gặm cỏ trên khắp vùng này. Đó là gia súc của người da đỏ và người da trắng đã tàn sát hết. Lúc này mọi phía đồng cỏ đều vắng hoe vươn ra xa hút tới tận chân trời. Gió không lúc nào ngừng thổi trên những đợt sóng cỏ cao đã đổi thành màu nâu dưới ánh mặt trời. Và, suốt buổi chiều, trong lúc lái xe chạy tới, Bố huýt gió và ca hát một cách vui vẻ. Bài hát Bố thường hát nhất là: Mau đi tới, nơi đây đang đợi Đừng ngại ngùng do dự băn khoăn Vì chú Sam luôn luôn hào phóng Tặng cho ta nông trại mênh mông Ngay cả Grace cũng cất tiếng hát theo dù bé chẳng bận tâm tới việc hoà điệu ra sao: Mau đi tới! Hãy mau đi tới! Tới cho mau, xin chớ chậm chân! Mau đi tới! Hãy mau đi tới! Tới cho mau thẳng tắp một lần! Mau đi tới, nơi đây đang đợi Chẳng có chi đáng phải hãi hùng Chú Sam thực vô cùng hào phóng Tặng cho nông trại mênh mông Mặt trời ngả dần về phía tây khi một người cưỡi ngựa xuất hiện trên đồng cỏ phía sau cỗ xe. Anh ta chạy theo không nhanh lắm nhưng cứ thu ngắn khoảng cách dần dần trong lúc mặt trời từ từ hạ xuống. Mẹ hỏi: - Còn cách hồ Nước Bạc bao xa, Charles? Bố nói: - Khoảng mười dặm. - Có người sống ở gần hơn không? Bố đáp: - Không. Mẹ im lặng. Mọi người khác cũng thế. Tất cả đều thấy lạnh suốt sống lưng vì người cưỡi ngựa xuất hiện ở phía sau và mỗi khi nhìn lại tất cả đều thấy anh ta đã tới gần hơn một chút. Chắc chắn anh ta đang bám theo họ và không có ý định bắt kịp cho tới khi mặt trời lặn. Mặt trời xuống thấp tới mức mỗi hố sâu trên đồng cỏ đều đầy bóng tối. Mỗi lần Bố ném cái nhìn về phía sau, bàn tay Bố đều khẽ cử động đập nhẹ dây cương lên lũ ngựa để hối chúng chạy mau hơn. Nhưng không một cặp ngựa đang kéo xe nào lại có thể nhanh hơn một người cưỡi ngựa đuổi theo. Lúc này, người nọ đã theo gần tới mức Laura có thể nhìn rõ hai khẩu súng lục trong bao súng ở hai bên hông anh ta. Mũ anh ta kéo sụp xuống gần sát mặt và một chiếc khăn màu đỏ buộc lỏng lẻo quanh cổ. Bố đã mang theo cây súng về miền tây, nhưng lúc này cây súng không có trong thùng xe. Laura không biết cây súng ở đâu, nhưng cô không hỏi Bố. Cô lại nhìn về phía sau và thấy một người khác cưỡi trên một con ngựa trắng đang đi tới. Người này mặc một chiếc áo màu đỏ. Anh ta và con ngựa trắng ở rất xa phía sau nhưng phóng tới rất nhanh. Anh ta bắt kịp người xuất hiện trước và cả hai đi cùng nhau. Mẹ hạ thấp giọng: - Lúc này họ có hai người rồi, Charles. Mary kinh hãi hỏi: - Gì vậy, Laura? Có vấn đề gì? Bố nhìn nhanh về phía sau và lập tức tỏ ra thoải mái. Bố nói: - Bây giờ thì ổn rồi. Đó là Big Jerry. Mẹ hỏi: - Big Jerry là ai? Bố trả lời một cách vô tư: - Anh ta là một người Pháp lai da đỏ. Một tay cờ bạc và có người nói là một tay trộm ngựa nhưng lại là một bạn đồng hành khá tốt. Big Jerry sẽ không chịu để cho ai rình mò mình đâu. Mẹ nhìn sững Bố. Mẹ mở miệng rồi ngậm lại, không nói một tiếng nào. Hai người cưỡi ngựa tới sát bên cỗ xe. Bố đưa bàn tay lên nói: - Chào Jerry! Big Jerry trả lời: - Chào Ingalls! Người kia nhìn hai người bằng cái nhìn lúng túng rồi phóng ngựa lên trước để Big Jerry đi dọc bên cỗ xe. Anh ta rất giống người da đỏ. Anh ta cao lớn nhưng không mập mạp và khuôn mặt xương xẩu của anh ta nâu sạm. Chiếc áo của anh ta đỏ hực như lửa. Mái tóc đen thẳng của anh ta thả đu đưa trên đôi gò má nhô cao khi anh ta phóng ngựa vì anh ta không đội mũ. Và con ngựa trắng của anh ta không có yên cương. Con ngựa thoải mái đi tới bất kì nơi nào nó muốn và nó muồn đi với Big Jerry tới bất kì nơi nào mà Big Jerry muốn. Người và ngựa chuyển động cùng nhay tựa hồ chỉ là một sinh vật. Cả hai chỉ dọc bên cỗ xe một lát. Rồi cả hai tách ra xa phóng đi thật nhẹ và đẹp tuyệt, xuống một trũng nhỏ rồi vượt lên băng thẳng tới vùng mặt trời tròn xoe sáng loá ở phía trời tây xa thẳm. Laura trút ra một hơi thở dài: - Ôi, Mary! Con ngựa trắng như tuyết của người đàn ông sậm nâu cao lớn với mái tóc đen nhánh và chiếc áo đỏ hực như lửa cháy! Khắp đồng cỏ đều màu nâu và người với ngựa phóng thẳng vào mặt trời khi mặt trời sắp hạ xuống. Họ sẽ tiến vào mặt trời để xoay quanh trái đất! Mary suy nghĩ một lát. Rồi cô nói: - Laura, em biết chắc là anh ta không thể đi vào trong mặt trời được. Anh ta chỉ đang phóng ngựa trên mặt đất như bất kì người nào thôi. Nhưng Laura không cảm thấy cô nói sai. Điều mà cô đã nói cũng là sự thật. Bằng cách này hay cách khác, thời khắc mà con ngựa tự do, đẹp đẽ cùng người đàn ông hoang dã cưỡi trên mình nó đi vào mặt trời sẽ còn sống lại mãi mãi. Mẹ vẫn sợ người đàn ông kia có thể nằm rình chờ ở một nơi nào để chặn cướp họ, nhưng Bố nói: - Đừng lo! Big Jerry đã vượt lên trước tìm anh ta và ngồi lại với anh ta cho tới khi mình về đến trại, Jerry phải biết chắc là không ai quấy nhiễu chúng ta. Mẹ quay lại nhìn phía sau để biết mấy cô gái đều ổn hết và Mẹ ôm sát Grace vào lòng. Mẹ không nói gì vì mọi điều nói ra đều chẳng đem đến điều gì khác. Nhưng Laura biết là Mẹ không bao giờ muốn rời khỏi suối Plum và Mẹ không thích ở đây vào lúc này. Mẹ không thích đi trong một vùng quạnh hiu khi đêm đang tới với những người đàn ông như thế cưỡi ngựa trên đồng cỏ. Tiếng gọi nhau hoang dại của lũ chim vẳng xuống từ bầu trời đang mờ tối. Mỗi lúc trên nền trời màu xanh nhạt càng thêm nhiều những đường màu xậm tối kẻ sọc. Đó là những hàng vịt trời dàn thành đường thẳng và những hàng ngỗng trời đang bay theo hình mũi tên. Những con đầu đàn cất tiếng gọi bầy ở phía sau và từng con lên tiếng đáp lại. Khắp bầu trời vang lên những tiếng “Hoong! Hoong! Hoong! Quaac! Quaac!”. Bố nói: - Chúng đang hạ thấp để đáp xuống qua đêm trên các mặt hồ. Phía trước có nhiều hồ nước. Một vệt trắng bạc mỏng manh sát đường chân trời là hồ Nước Bạc và những vệt nhỏ le lói ở phía nam hồ Nước Bạc là khu hồ đôi Henry và Thompson. Một vệt tròn tối sậm li ti ở chính giữa khu hồ đôi là cây cô đơn. Bố nói đó là một cây bông gòn lớn, cây duy nhất được nhìn thấy giữa sông Big Sioux và Jim. Cây mọc trên một dải đất nhỏ rộng không hơn một con đường giữa hồ đôi và lớn lên nhờ rễ cắm xuống dưới nước. Bố nói: - Mình có thể lấy một ít hạt đem về trại của mình làm giống. Từ đây mình sẽ không thể nhìn thấy hồ Spirit nằm cách hồ Nước Bạc chín dặm về phía tây bắc. Này, Caroline, đây đúng là vùng săn bắt lí tưởng. Nước nhiều và đất chứa nhiều chất nuôi dưỡng cho chim muông. Mẹ nói: - Dạ, em có thấy, Charles! Mặt trời đã lặn. Một trái cầu sáng bóng trong suốt run rẩy chìm vào trong những cụm mây đỏ tía và ánh bạc. Những vệt màu tím nhạt vươn lên ở phía đông chậm chạp bò qua đồng cỏ rồi dâng cao lên mãi đổi thành đen kịt và từ đó đung đưa những vì sao thấp loé sáng. Gió suốt ngày thổi ào ạt bỗng như hạ thấp cùng với mặt trời và thì thào giữa đám cỏ cao. Đất có vẻ nằm dài để thở và nhè nhẹ dưới dưới màn đêm mùa hè. Bố tiếp tục lái xe đi dưới màn sao thấp. Vó ngựa khua lốp cốp nhẹ nhàng trên mặt đất đầy cỏ. Xa xa về phía trước le lói vài ánh đèn nhỏ xíu xuyên qua màn đêm. Đó là ánh sáng từ khu trại hồ Nước Bạc. Bố nói với Mẹ: - Tám dặm đường kế tiếp này khỏi cần tìm đường mòn nữa. Tất cả việc cần làm lúc này chỉ là hướng về phía có ánh sáng. Giữa mình và khu trại không có gì khác ngoài đồng cỏ mượt và khí trời. Laura thấy mệt và lạnh. Ánh sáng còn rất xa, giống như những vì sao ở xa nhất. Khắp bầu trời đêm là ánh sao le lói. Sát trên đỉnh đầu và khắp các phía đều là những vì sao cực lớn toả sáng như những hình trang trí cho trời đêm. Những cọng cỏ cao va động xào xạo vào vành bánh xe đang quay và tiếp tục xào xạc như để giữ cho bánh xe quay mãi. Thình lình Laura giật nẩy mình mở mắt ra. Một khung cửa mở rộng và ánh sáng từ trong trào ra. Và giữa ánh đèn sáng loá, chú Henry đang chạy tới cười lớn. Vậy đây hẳn là nhà của chú Henry trong rừng Big Woods khi Laura còn nhỏ vì chú Henry đang đứng đó. Mẹ kêu lên: - Henry! Bố nói lớn: - Một bất ngờ nghen, Caroline! Anh nghĩ là anh đã không nói cho em biết có Henry ở đây. Mẹ nói: - Em muốn hết hơi luôn, thật bất ngờ quá! Và lúc đó một người đàn ông to lớn cười với các cô. Đó là Charley, cậu bé đã quấy rầy chú Henry và Bố trên cánh đồng lúa mạch và đã bị chích bởi hàng ngàn con ong đất. - Chào Bình-rượu-nhỏ! Chào Mary! Còn đây là bé Carrie hả. Bây giờ đã thành cô gái lớn rồi. Không còn là bé nữa, ha? Charley giúp các cô xuống xe trong lúc chú Henry đỡ bé Grace và Bố giúp Mẹ leo qua bánh xe rồi tới cô em họ Louisa tíu tít trò chuyện và gom tất cả lại trong căn nhà lều. Lúc này cả Louisa và Charley đều đã lớn. Cả hai trong nom quán ăn nấu nướng cho các công nhân đang làm đường sắt. Đám công nhân ăn xong bữa tối đã lâu và tất cả đều đang ngủ trong khu nhà ngủ. Louisa kể về chuyện đó trong lúc bày bữa ăn tối mà cô đang hâm nóng trên lò. Sau bữa ăn tối, chú Henry thắp cây đèn xách và dẫn đường tới căn nhà lều mà đám công nhân đã dựng cho Bố. - Tất cả đều còn mới, Caroline, nên sạch bóng như một cái còi. Chú Henry nói và giơ cao cây đèn cho tất cả nhìn thấy những bức vách ván mỡi và những chiếc giường tầng dựa vào vách. Chiếc giường dành cho Bố Mẹ ở một bên và bên kia là hai chiếc giường hẹp chồng lên nhau dành cho Mary, Laura, Carrie và Grace. Nệm giường đã được trải sẵn cho Louisa lo liệu. Không còn nhiều thời giờ nên Laura và Mary chui lên chiếc nệm cỏ khô mới xào xạc kéo mền và tấm phủ giường lên ngang mũi trong lúc Bố thổi tắt ngọn đèn. Chương 8: Hồ Nước Bạc Sáng hôm sau, khi Laura đưa chiếc xô xuống chiếc giếng cạn bên hồ Nước Bạc, mặt trời còn chưa mọc. Bên kia bờ hồ phía đông, những dãy mây đỏ tía và vàng rực viền quanh nền trời màu xanh nhạt. Ánh sáng lan qua bờ hồ phía nam và rọi trên bờ đất cao ở phía đông và phía bắc. Bóng đêm vẫn đọng ở phía tây bắc nhưng mặt hồ như một tờ giấy bạc nằm trên những thảm cỏ cao xanh ngắt. Vịt trời quang quác trong đám cỏ dầy hướng về phía tây nam nơi khởi đầu đầm Big Slough. Mồng biển kêu inh ỏi bay loạn trên hồ trong gió sớm. Một con ngỗng trời bay lên khỏi mặt hồ cất tiếng kêu và lần lượt từng con khác trong bầy vừa lên tiếng đáp lại vừa bay theo. Đàn ngỗng giàn thành một hình mũi nêm cực lớn vỗ những đôi cánh mạnh mẽ bay về hướng mặt trời lên rực rỡ. Những tia sáng vàng vươn lên cao mãi trên nền trời phía đông cho tới khi rọi tới mặt hồ và phản chiếu lại. Lúc đó, như một trái cầu vàng, mặt trời vươn lên khỏi chân trời phía đông. Laura thở ra một hơi dài, vội vã nhấc xô nước lên hối hả quay về căn nhà lêu. Căn lều mới đứng đơn độc bên bờ hồ nằm ở mé nam của cụm nhà lều trại dành cho công nhân đường sắt. Nắng xối vàng rực và căn nhà nhỏ gần như bị lấp trong cỏ với một mái nghiêng tựa hồ chỉ là một nửa căn nhà. Mẹ lên tiếng khi Laura bước vào: - Cả nhà đang đợi con mang nước về đó, Laura! Laura kêu lên: - Ôi, Mẹ ơi! Cảnh mặt trời mọc! Mẹ phải coi cảnh mặt trời mọc mới được! Con không thể nào không ngắm. Cô bắt đầu giúp Mẹ lo ngay bữa ăn sáng và trong lúc làm cô kể lại mặt trời đã vươn lên bên kia hồ Nước Bạc như thế nào, xói tràn ngập những màu sắc kì ảo lên bầu trời đây những bầy ngỗng trời và hàng ngàn con vịt trời phủ kín mặt hồ với những con mòng biển kêu inh ỏi chan chát trong gió ở bên trên. Mary nói: - Chị có nghe thấy. Tiếng kêu của lũ chim hoang dã thật là hỗn loạn. Và bây giờ thì chị hình dung được tất cả. Em đã vẽ ra những bức hình khi kể lại, Laura. Mẹ cũng mỉm cười với Laura nhưng Mẹ chỉ nói: - Thôi, các con gái, trước mắt mình bây giờ là một ngày rất bận rộn. Và, Mẹ chỉ dẫn các công việc phải làm cho các cô. Đồ đạc phải được đem ra khỏi gói và căn nhà lều phải được dọn dẹp gọn gàng trước buổi trưa. Những chiếc nệm của Louisa phải được phơi và trả lại cong Mẹ lo đi mua trả góp những tấm nệm bằng cỏ khô mới. Từ kho hàng của công ty, Mẹ mang thêm về những chúc bâu in hình thật tươi để làm màn che. Mẹ khâu một tấm cho các cô treo ngang nhà che kín các giường nằm. Rồi Mẹ khâu một tấm khác che giữa những chiếc giường để phân thành hai phòng ngủ, một cho Bố Mẹ và một cho các cô. Nhà lều nhỏ tới nỗi những tấm màn che chạm sát giường nằm, nhưng khi những chiếc giường đã được đặt nệm, trải khăn phủ lên thì căn nhà giống như mới hẳn, sáng ra và ngăn nắp. Lúc đó, trước tấm màn che đã có một phòng sinh hoạt. Phòng rất nhỏ với một lò bếp đặt ở cuối bên cạnh cửa ra vào, Mẹ và Laura kê dựa vào bức vách phía trước khung cửa mở, chiếc bàn có mặt ráp. Ghế đu của Mary và của Mẹ được đặt ở một bên phòng. Nền nhà bằng đất vẫn còn những khóm rễ cỏ nhưng được họ dọn sạch ngay. Gió thổi nhẹ qua khung cửa mở và căn nhà lều hết sức dễ chịu. Mẹ nói: - Đây là một kiểu nhà nhỏ chỉ có một mái và không có cửa sổ. Nhưng mái nhà rất vững và mình không cần cửa sổ vì rất thông thoáng với cửa ra vào. Khi trở về nhà ăn cơm trưa, Bố rất thích thú được thấy mọi thứ ngăn nắp và đẹp đẽ như thế. Bố véo tay Carrie và đung đưa bé Grace trên hai bàn tay vì Bố không thể tung bé lên trong căn nhà mái thấp này. Bố hỏi: - Còn cô gái chăn cừu bằng sứ đâu, Caroline? Mẹ nói: - Em chưa mang ra, Charles. Mình đâu có ở đây lâu mà chỉ ở tạm chờ anh kiếm được nông trại. Bố nói: - Anh có dư thời giờ để chọn lựa một chỗ hợp ý. Em thử nhìn khắp vùng thảo nguyên thì thấy ở đây chẳng có ai ngoại trừ các công nhân đường sắt mà tất cả lại rời đi trước khi mùa đông tới. Mình tha hồ chọn lựa đất đai cho riêng mình. Laura nói: - Sau bữa trưa, con và Mary sẽ đi một vòng để ngắm khu nhà trại, hồ nước và các thứ. Cô cầm lấy chiếc xô và để đầu trần chạy ra giếng lấy nước về. Gió thổi đều và mạnh. Khắp bầu trời mênh mông không có một gợn mây và mặt đất bát ngát kéo xa mãi cũng không có gì ngoài ánh sáng lung linh trên cỏ. Lan theo tiếng gió là giọng của nhiều người đàn ông đang hát. Những đoàn người ngựa đang kéo về trại. Trên đồng cỏ, một đường dài ngoằn ngoèo đen xậm ngựa đã đóng yên mải mốt sóng đôi đi bên những người đàn ông đầu trần, tay trần, nước da nâu sậm trong những chiếc áo sọc trắng-xanh, áo xám, áo xanh bình thường vừa bước tới vừa cùng hát. Họ giống như một đoàn quân đang băng ngang vùng đất rộng dưới bầu trời quang đãng mênh mông và bài hát là biểu trưng của họ. Laura đứng trong gió lộng, nhìn và lắng nghe cho tới khi toán cuối cùng nhập vào cái đám đông đã gom lại và tản ra xung quanh những căn nhà lều thấp của khu trại và tiếng háy chìm trong những giọng nói thân mật vui vẻ. Lúc đó cô sực nhớ tới chiếc xô đang cầm trong tay. Cô vội múc đầy nước lật đật chạy về khiến nước tràn văng ướt hết chân. Cô hổn hển nói: - Con không thể không nhìn các toán công nhân tới trại. Đông quá ha, Bố! Mà tất cả đều hát nữa! Bố cười với cô: - Này, Nhà-kho-vỗ-cánh, hãy thở đi đã! Năm mươi cặp ngựa và bảy mươi lăm hay tám mươi công nhân chỉ là một trại nhỏ thôi. Con phải thấy trại Stebin ở phía tây trại này, có tới hai trăm công nhân và ngựa. Mẹ bỗng lên tiếng: - Charles! Bình thường ai cũng hiểu Mẹ muốn nói gì khi Mẹ khẽ kêu “Charles”. Nhưng lúc này cả Laura, Carrie lẫn Bố đều nhìn Mẹ không hiểu. Mẹ lắc đầu để ra dấu cho Bố. Rồi Bố nhìn thẳng vào Laura và nói: - Các con không nên tới gần trại. Khi ra ngoài cũng nhớ không được tới gần chỗ làm việc của công nhân và phải hứa chắc là về nhà trước khi công nhân tới vào ban đêm. Họ đều là những người thô lỗ làm việc trên đường sắt và thường có những lời lẽ tục tĩu nên các con ít gặp và ít nghe họ thì tốt hơn. Nhớ kĩ nghe, Laura, cả Carrie nữa. - Dạ, thưa Bố! Laura hứa và Carrie gần như thì thào: - Dạ, thưa Bố! Mắt Carrie mở lớn, hoảng sợ. Cô không muốn nghe thấy những lời tục tĩu dù đó là lời lẽ thế nào. Chỉ riêng Laura đã có lần thích nghe vài tiếng như thế, nhưng dĩ nhiên cô phải theo lời Bố nhắc. Vì vậy, chiều hôm đó các cô tránh xa khu lều trại, khi đi loanh quanh. Các cô đi dọc bờ hồ về phía đầm Big Slough. Hồ nằm ở phía trái lung linh trong ánh nắng. Những gợn sóng bạc nhấp nhô vỗ nhẹ vào bờ khi gió thổi xô mặt nước xanh. Bờ thấp nhưng chắc và khô với những đám cỏ nhỏ mọc sát tới mé nước. Nhìn qua mặt hồ lấp lánh, Laura có thể thấy bờ đông và bờ nam dựng cao ngang đầu cô. Một bãi lầy nhỏ lắng sâu vào bờ hồ ở phía đông bắc và đầm Big Slough kéo tới phía tây nam theo một đường cong dài dầy đặc cỏ cao. Laura cùng Mary và Carrie bước chậm dọc theo bờ cỏ xanh bên mặt nước xanh gợn sóng ánh bạc đi về phía đầm Big Slough. Cỏ ấm và mềm dưới bàn chân các cô, gió thổi váy các cô bay phần phật dính vào ống chân và làm rối tung mái tóc của Laura. Mary và Carrie buộc chặt dây mũ dưới cằm nhưng mũ của Laura đeo lủng lẳng. Hàng triệu cọng cỏ xào xạc tạo thành một tiếng nói thì thầm và hàng ngàn vịt trời, ngỗng trời cùng với vạc, sếu, bồ nông như đang chuyện trò với cái giọng cất lên lanh lảnh trong gió. Tất cả các giống chim trên đều sống giữa đám cỏ đầm lầy. Chúng vỗ cánh bay lên rồi đáp xuống kêu lên như thông báo tin tức cho nhau, rồi trò chuyện giữa đám cỏ cao và tíu tít ngắt rỉa rễ cỏ, lá cây hay chộp bắt những con cá nhỏ. Bờ hồ hạ thấp mãi về phía đầm Big Slough cho tới khi thực sự không còn bờ nữa. Hồ hoà nhập vào đầm làm thành những ao nhỏ bọc quanh lớp cỏ đầm lầy dầy đặc cao tới năm, sáu bộ. Những chiếc ao nhỏ lấp lánh dưới cỏ và trên mặt nước đủ loại chim chen chúc nhau. Khi Laura và Carrie đi sâu vào đám cỏ đầm lầy, đột nhiên, những cặp cánh rộng bốc lên cùng với những con mắt tròn sáng quắc và khắp một vùng như nổ tung ra trong một loạt kêu quang quác inh ỏi. Vịt và ngỗng phóng nhanh trên ngọn cỏ lao xuống những chiếc ao kế cận với các cặp chân có màng kéo dài phía sau đuôi. Laura và Carrie đứng im. Những cọng cỏ đầm lầy lá lớn vươn lên cao khỏi đầu các cô tạo ra một âm thanh hỗn độn trong gió. Bàn chân trần của các cô lún từ từ xuống bùn. - Ôi, đất mềm lắm. Mary lên tiếng và lật đật trở lui. Cô không muốn chân bị dính bùn. Laura kêu lên: - Lui ngay, Carrie! Em bị lún bùn bây giờ! Hồ ăn sâu tới tận bãi cỏ ở đây! Bùn nhão lạnh ngắt bao quanh và hút gót chân Carrie xuống trong lúc cô đứng và trước mặt cô là những mặt ao lấp lánh giữa các lùm cỏ cao. Cô muốn tiếp tục bước tới, đi sâu mãi vào đầm lầy giữa những đàn chim, nhưng cô không thể rời xa Mary và Laura. Cho nên cô quay lại bên các chị trên đồng cỏ với những bụi cỏ cao ngang lưng đang ngả nghiêng quặt quã trong gió và những đám cỏ ngắn quăn queo đang mọc trên những lối mòn. Dọc theo bờ đầm, các cô ngắt những bông huệ rừng đỏ cháy và lượm các hạt đậu tía đang nảy mầm trên các gò đất cao. Châu chấu bay như nước phun trên cỏ ngay trước bàn chân của các cô. Những con chim nhỏ đủ loại vỗ cánh bay lượn hót líu lo trên những cọng cỏ cao uốn cong và lũ gà gô lủi về một phía. Mary thở ra một hơi dài khoan khoái: - Ô! Đồng cỏ hoang tuyệt diệu khó tả! Laura, em có đội mũ trên đầu không? Laura cảm thấy phạm lỗi trong lúc kéo mũ lên. Cô đáp: - Dạ có, Mary! Mary cười: - Em chỉ vừa kéo lên thôi. Chị nghe rõ mà! Các cô quay về khá trễ trong buổi chiều. Căn lều nhỏ với một mái nghiêng đứng trơ vơ bé bỏng bên bờ hồ Nước Bạc. Mẹ đứng trong khung cửa đưa bàn tay che mắt nhìn về phía các cô và các cô đưa tay vẫy. Các cô không thể nhìn trọn khu lều trại nằm dọc bờ hồ phía bắc căn lều. Trước hết là kho hàng mà Bố đang làm việc với nhà kho chứa thực phẩm khá lớn ở phía sau. Rồi đến khu chuồng ngựa dựng trong một khu mở rộng trên đồng cỏ với mái lợp bằng loại cỏ trong đầm, phía bên kia là dãy nhà ngủ của công nhân lè tè kéo dài và nằm xa hơn nữa là quán cơm của Louisa với những làn khói nấu cơm tối đang toả lên từ lò bếp. Rồi Laura nhìn thấy lần đầu một căn nhà, một căn nhà thực sự, đứng trên bờ hồ phía bắc. Cô nói: - Căn nhà kia dùng làm gì và ai sống ở đó? Nó không phải nông trại vì không có khu nhà chuồng và không có đất cây. Cô kể lại tất cả những điều nhìn thấy cho Mary nghe và Mary nói: - Đây đúng là một nơi lí tưởng cho những căn nhà lều cùng với cỏ và nước. Đừng mất công thắc mắc về căn nhà đó mà hãy đi hỏi Bố. Lại có một d dám vịt trời khác đang bay tới. Vịt trời từng đàn nối theo nhau cùng những đám ngỗng trời từ không trung hạ xuống tìm chỗ đậu qua đêm trên bờ hồ. Và đám đàn ông rời chỗ làm đang gây huyên náo om xòm. Trong khung cửa lều, Mẹ chờ cho tới khi các cô đến gần cùng với gió lộng, ánh nắng, khí trời và mang theo những chùm huệ rừng, những chồi đậu tía. Rồi Carrie cắm hoa vào một bình nước trong lúc Laura bày bàn ăn. Mary ngồi trên ghế đu, ôm bé Carrie trong lòng, kể cho bé nghe về những con vịt đang kêu quang quác trong đầm Big Slough cùng những bầy ngỗng trời đang ngủ trên hồ. Chương 9: Những Kẻ Trộm Ngựa Một đêm vào giờ ăn tối, Bố lên tiếng hết sức khó khắn. Bố chỉ trả lời những câu hỏi. Cuối cùng Mẹ hỏi: - Charles, anh không được khoẻ hả? Bố đáp: - Anh vẫn bình thường, Caroline. Mẹ hỏi: - Vậy đang có chuyện gì? Bố nói: - Không. Không có gì khiến em phải lo ngại cả. Như thế này, sự thực là đám công nhân đã nhận được lời cảnh cáo phải coi chừng những tay trộm ngựa vào tối nay. Mẹ lên tiếng: - Đó là việc của chú Hi. Em mong là anh cứ để chú ấy lo liệu. Bố nói: - Đừng lo, Caroline. Laura và Carrie nhìn nhau rồi nhìn Mẹ. Một lát sau, Mẹ nói dịu dàng: - Em mong là anh không dính vào việc này, Charles. Bố nói: - Big Jerry đã ở trong trại. Anh ta tới đây một tuần rồi và lúc này đã đi khỏi. Đám công nhân nói anh ta là đồng bọn của một băng trộm ngựa. Họ bảo cứ mỗi lần Big Jerry tới thăm khu trại là những con ngựa tốt nhất bị ăn trộm sau khi anh ta ra đi. Họ nghĩ anh ta đã ở lại đủ lâu để chọn được những con ngựa tốt nhất và biết rõ chúng nằm ở những ngăn chuồng nào để dẫn đồng bọn tới vào ban đêm lợi dụng bóng tối dắt ngựa đi. Mẹ nói: - Em luôn nghe nói là không thể tin cậy những người lai. Mẹ không thích người da đỏ nên cũng không thích người lai da đỏ. Bố nói: - Tụi mình đã bị lột da đầu hết ở bên sông Verdigris nếu không nhờ một người da đỏ thuần chủng. Mẹ nói: - Anh không nghĩ là Jerry ăn trộm ngựa. Nhưng Laura thấy Bố nói giống như Bố hy vọng rằng lời nói của Bố sẽ là sự thực. Bố nói tiếp: - Điều phiền hà thực sự là anh ta đã tới trại sau ngày phát lương và vét sạch tiền của những tay ham cờ bạc. Đó là lí do chính khiến một số người rất mừng nếu bắn hạ được anh ta. Mẹ nói: - Em không hiểu sao chú Hi lại cho phép đánh bài. Cờ bạc cũng tồi tệ ngang với nghiện rượu vậy. Bố nói: - Họ không bị buộc phải đánh bạc, nếu họ không muốn, Caroline. Cho nên, Jerry vét tiền của họ là do lỗi của họ. Khó có một người tốt bụng như Big Jerry, sẵn sàng đưa lưng ra gánh chịu mọi sự. Hãy coi lại anh ta đã chăm sóc già Johnny ra sao. Mẹ nhìn nhận: - Đúng vậy! Già Johnny là người cung cấp nước. Đó là một ông già Ái-Nhĩ-Lan nhỏ con cằn cỗi lưng còng. Ông ta đã làm việc trọn đời trên đường sắt và lúc này quá già yếu không còn làm nổi nữa. Cho nên công ty dành cho ông ta việc gánh nước tới cho công nhân. Mỗi bữa sáng và sau bữa ăn trưa, già Johnny tới giếng vục nước đầy hai thùng gỗ lớn. Sau đó, ông đặt chiếc đòn gánh bằng gỗ ngang vai, khom người móc hai thùng nước vào chiếc móc đeo trên những sợi xích ngắn ở hai đầu đòn gánh. Rồi với một tiếng kêu giống như tiếng rên, ông đứng thẳng lên. Những sợi xích nhấc hai thùng nước lên khỏi mặt đất và già Johnny đưa bàn tay giữ chặt lấy trong lúc chịu sức nặng trên vai. Già chạy đi bằng những bước ngắn dưới sức nặng của cặp thùng. Trong mỗi chiếc thùng có một chiếc ca thiếc. Khi tới chỗ công nhân đang làm việc, già Johnny chạy dọc theo suốt hàng người để những người đang khát có thể uống nước mà không cần ngưng làm việc. Già Johnny già tới nỗi quắt queo, lọm khọm và co rút lại. Gương mặt già đầy các vết nhăn nhưng cặp mắt xanh lơ sáng lên vui vẻ và già luôn cố sức rảo bước để những người đang khát khỏi phải chờ lâu. Mô buổi sáng trước giờ ăn điểm tâm, Big Jerry tới cửa nói với Mẹ rằng già Johnny bị lên cơn sốt suốt đêm. Big Jerry nói: - Ông ấy già yếu quá rồi, thưa bà. Thức ăn ở quán ăn không vừa miệng với ông ấy. Bà có thể cho ông ấy một ly trà nóng và một phần ăn sáng không? Mẹ lấy đầy dĩa bánh quy nóng thêm một chén bánh bột khoai chiên và một khoanh thịt heo ướp muối chiên giòn. Rồi Mẹ rót đầy trà nóng vào chiếc ca thiếc nhỏ đưa tất cả cho Big Jerry. Sau bữa ăn sáng, Bố tới khu nhà ngủ của công nhân thăm già Johnny và sau đó Bố kể với Mẹ là Jerry đã săn sóc ông già tội nghiệp suốt đêm. Theo lời già Johnny thì Jerry đã lấy tấm đắp riêng của anh ta để đắp cho già và bước ra ngoài trời lạnh không có gì choàng ấm. - Anh ta chỉ có thể chăm sóc cha đẻ của chính anh ta như đã săn sóc già Johnny thôi. Về phần mình thì chính chúng ta cũng đã chịu ơn anh ta, Caroline. Tất cả đều nhớ lại Big Jerry đã xuất hiện trên đồng cỏ ra sao với con ngựa trắng khi có một người lạ đang theo đuổi họ vào lúc mặt trời sắp lặn. Bố uể oải đứng lên nói: - Thôi, anh phải đi lo bán đạn cho đám công nhân. Anh hy vọng Jerry không quay lại trại tối nay. Nếu anh ta chỉ cưỡi ngựa tới thăm già Johnny thì anh ta phải tới buộc ngựa ở chuồng ngựa và họ sẽ bắn hạ anh ta. Mẹ kêu lên: - Ôi, đừng, Charles! Đừng để họ làm như vậy! Bố chụp chiếc mũ lên đầu. Bố nói: - Người chủ động trong chuyện này là một tay từng phạm tội giết người. Anh ta chỉ bị giam trong nhà tù một thời gian nhờ bào chữa là đã hành động tự vệ. Chính anh ta bị Big Jerry lột sạch vào ngày phát lương vừa qua. Anh ta không đủ can đảm đối đầu với Big Jerry những sẽ lén ra tay khi có dịp may. Bố tới kho hàng và Mẹ bắt đầu dọn bàn lặng lẽ. Trong lúc rửa chén dĩa, Laura nghĩ tới Big Jerry và con ngựa trắng. Đã nhiều lần cô nhìn thấy cả hai phóng nhanh ngang đồng cỏ màu nâu. Big Jerry luôn mặc áo màu đỏ tươi, luôn để đầu trần và con ngựa trắng không bao giờ đeo một sợi dây. Đêm đen kịt khi Bố từ nhà kho trở về. Bố nói có khoảng nửa ta người với súng lên đạn sẵn sàng đang nằm mai phục quanh chuồng ngựa. Đã tới giờ ngủ. Trong lúc trại không còn một tia sáng. Thật khó nhận ra những căn lều thấp lè tè tối mịt ngoại trừ biết rõ chúng nằm ở đâu và cố nhìn thì mới nhận ra những vệt đen sậm hơn trong màn tối. Ánh sao yếu ớt rọi trên hồ Nước Bạc và xung quanh hồ đồng cỏ đen ngòm trải rộng dưới bầu trời như một tấm nhung tối sậm lấp lánh ánh sao. Gió khẽ rì rào trong đêm lạnh và cỏ xào xạc tựa hồ đang kinh sợ. Laura nhìn quanh nghe ngóng rồi run rẩy bước vào trong lều. Sau tấm màn che, Grace đã ngủ còn Mẹ giúp Mary và Carrie lên giường. Bố đã treo mũ và ngồi trên chiếc ghế dài nhưng chưa tháo ủng. Bố nhìn lên khi Laura bước vào rồi Bố đứng lên choàng chiếc áo khoác. Bố cài nút áo rồi quàng khăn che gần kín hết chiếc áo màu xám. Laura im lặng trong lúc Bố đội mũ. Bố nói một cách vui vẻ: - Đừng thức ngồi chờ anh, nghe Caroline. Mẹ bước ra từ sau tấm màn che nhưng Bố đã đi rồi. Mẹ bước tới cửa nhìn ra ngoài. Bố đã mất dạng trong màn đêm. Một phút sau Mẹ quay lại, nói: - Tới giờ ngủ rồi, Laura. Laura năn nỉ: - Mẹ, cho con ngồi đây đi. Mẹ nói: - Mẹ chắc cũng không ngủ nổi. Dù có làm cách gì cũng vậy thôi. Thật vô ích khi lên giường mà không ngủ nổi. Laura nói: - Con cũng không ngủ nổi, Mẹ. Mẹ vặn nhỏ ngọn đèn và thổi tắt. Mẹ ngồi trên chiếc ghế đu bằng gỗ bồ đào mà Bố đã làm cho Mẹ khi còn ở vùng đất của người da đỏ. Laura đi chân đất nhẹ nhàng trên nền đất tới ngồi sát Mẹ. Cả hai ngồi trong bóng tối lắng nghe. Laura có thể nhận ra những tiếng vo ve mờ nhạt mỏng manh tựa hồ đó là âm thanh của chính sự lắng nghe. Cô cũng nghe thấy hơi thở của Mẹ, hơi thở chậm của Grace đang say ngủ và hơi thở nhanh hơn của Mary và Carrie đang nằm thức sau tấm màn che. Tấm màn che cũng tạo ra một âm thanh mờ nhạt khi lay động theo làn không khí ùa vào từ ngoài khung cửa để ngỏ. Bên ngoài khung cửa là một mảnh trời hình chữ nhật và những vì sao ở bên trên bờ đất xa mù đen kịt. ở đó, gió thở dài, cỏ xào xạc trong tiếng khua nhẹ liên tục của những làn sóng nhỏ nối tiếp vỗ vào bờ hồ. Laura bỗng giật bắn người khiếp hãi vì một tiếng kêu lanh lảnh bật lên trong màn đêm. Đó là tiếng của một con ngỗng trời lạc bầy gọi bạn. Nhiều con ngỗng từ đầm lầy lên tiếng trả lời và những con vịt trời đang ngủ bỗng choàng tỉnh kêu quang quác. Laura thì thào: - Mẹ, cho con đi kiếm Bố. Mẹ đáp: - Bình tĩnh nào. Con không thể kiếm Bố được và Bố cũng không muốn con đi kiếm. Cứ bình tĩnh. Bố sẽ tự lo cho mình được. Laura nói: - Con muốn làm một việc gì. Tốt hơn là phải làm một việc gì. Mẹ nói: - Mẹ cũng vậy. Trong bóng tối, bàn tay Mẹ bắt đầu vỗ nhẹ trên đầu Laura. Mẹ nói: - Nắng gió làm tóc con khô hết rồi, Laura. Con phải chải tóc kĩ hơn. Mỗi tối trước khi lên giường con phải chải tóc hàng trăm lần. Laura thì thào: - Dạ, Mẹ. Mẹ tiếp: - Mẹ thích để tóc dài khi Mẹ và Bố con lấy nhau. Mẹ có thể ngồi trên các bím tóc. Mẹ không nói gì thêm nữa, tiếp tục vuốt mái tóc thô nhám của Laura trong lúc cả hai lắng nghe coi có tiếng súng không. Một ngôi sao lớn chiếu sáng sát một mé trời đen đặc ngoài khung cửa. Ngôi sao nhích dần theo thời khắc chuyển chầm chậm từ đông qua tây, chậm hơn mãi cho tới khi những ngôi sao nhỏ hơn lăn tròn xung quanh. Đột nhiên Laura và Mẹ nghe thấy tiếng chân bước và trong một khoảnh khắc các ngôi sao bị xoá hết. Bố bước vào cửa, Laura nhảy lên nhưng Mẹ tiếp tục ngồi rũ trên ghế. Bố lên tiếng: - Em vẫn ngồi hả, Caroline? Chậc, em không cần phải như vậy. Mọi chuyện ổn hết rồi. Laura hỏi: - Chuyện thế nào, Bố? Bố có biết Big Jerry… Bố cắt lời cô một cách vui vẻ: - Không nghĩ về chuyện đó nữa, Nhà-Kho-Vỗ-Cánh! Big Jerry êm rồi. Anh ta sẽ không tới trại đêm nay. Bố sẽ không ngạc nhiên nếu nhìn thấy anh ta đang cưỡi con ngựa trắng vào sáng mai. Bây giờ, đi ngủ thôi! Phải ráng chợp mắt trước khi mặt trời mọc. Rồi Bố cười như tiếng chuông rung: - Bữa nay sẽ có cả một lũ ngủ gật trong lúc làm việc. Trong lúc Laura thay đồ sau tấm màn che thì Bố đang tháo ủng ở phía bên kia và cô nghe thấy Bố nói nhỏ với Mẹ: - Caroline, điều tuyệt nhất là sẽ không bao giờ còn có một con ngựa ở trại hồ Nước Bạc bị mất trộm. Sáng sớm hôm đó, Laura nhìn thấy Big Jerry xuất hiện trên con ngựa trắng bên căn nhà lều. Anh ta chào Bố ở cửa kho và Bố đưa tay vẫy anh ta rồi Big Jerry và con ngựa trắng phóng nhanh về phía các công nhân đang làm việc. Không bao giờ trại hồ Nước Bạc còn bị trộm một con ngựa. Chương 10: Buổi Chiều Tuyệt Vời Mỗi sáng sớm trong lúc rửa chén dĩa, Laura có thể nhìn qua khung cửa mở để thấy đám công nhân rời quán ăn tới khu chuồng ngựa lợp mái cỏ. Rồi nổi lên tiếng huyên náo trò chuyện, hò hét và người ngựa hợp thành đoàn đi tới chỗ làm việc bỏ lại phía sau sự yên ắng. Ngày này theo ngày khác cứ thế trôi qua. Vào những ngày thứ hai, Laura giúp Mẹ giặt giũ và gom quần áo sạch được hong khô cấp kì trong nắng gió. Những ngày thứ ba, cô phun nước lên quần áo và giúp Mẹ ủi. Những ngày thứ tư, cô lo mạng vá lại các món đồ dù đây là việc cô không thích làm. Mary đã học được cách khâu mà không cần nhìn thấy. Bằng cảm giác của các ngón tay, cô có thể viền rất khéo và ghép các mảnh chăn nếu được chọn màu giúp. Buổi trưa lại ồn ào tiếng người, ngựa kéo đi ăn trưa. Bố từ kho hàng trở về cùng cả nhà ăn trưa trong căn nhà lều nhỏ gió thổi lồng lộng và đồng cỏ mênh mông ở ngoài khung cửa. Đồng cỏ mở xa tới tận chân trời với đủ độ màu sắc từ nâu qua nâu đỏ, nâu vàng. Về đêm, gió thổi lạnh hơn và mỗi lúc những đàn chim chuyển về phía nam càng đông hơn. Bố nói không còn bao lâu nữa mùa đông sẽ tới. Nhưng Laura không nghĩ về mùa đông. Cô chỉ muốn biết nơi công nhân làm việc và họ làm đường sắt thế nào. Mỗi buổi sáng họ đi ra và trở về vào buổi trưa, buổi tối, nhưng tất cả điều cô nhìn thấy về việc làm của họ chỉ làm đám bụi bốc lên trên đồng cỏ màu hung ở phía tây. Cô rất muốn được xem cách làm đường sắt. Một bữa cô Docia tới trại, mang theo hai con bò cái. Cô nói: - Em đưa sữa có móng về đó, Charles. Đây là cách duy nhất để có một ít sữa vì xung quanh đây không có một nông dân nào. Một con được dành cho Bố. Đó là một con bò màu đỏ sáng khá đẹp tên là Ellen. Bố cởi sợi dây cột nó ra phía sau xe của cô Docia và nắm sợi thòng lọng dắt nó về cho Laura. Bố nói: - Đây, Laura. Con đã đủ lớn để chăm sóc cho nó rồi. Hãy đưa nó tới nơi nào có cỏ tốt và nhớ cột chắc nó vào cọc. Laura và Lena cột hai con bò cái gần nhau ở một nơi cỏ tốt. Mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối, các cô cùng tới lo cho mấy con bò. Các cô đưa bò đi uống nước trong hồ, chuyển các cột cọc buộc về chỗ cỏ mới rồi cùng vắt sữa và trong khi vắt sữa, các cô cùng hát. Lena biết rất nhiều bài hát và Laura học thuộc rất mau. Trong lúc những tia sữa chảy vào xô, các cô cùng hát: Đời lênh đênh sóng vỗ Một mái nhà nhẹ trôi Nòng nọc vẫy đuôi mãi Nước mắt cứ lăn dài Thỉnh thoảng Lena hát khe khẽ và Laura cũng hát theo: Đừng mơ hão hỡi chàng trai thôn dã Trọn đời anh không giũ sạch mùi bùn Sao sánh nổi công nhân đường sắt Mặc áo sọc màu biết mấy thân thương Nhưng Laura thích nhất các bài hát theo điệu van-xơ. Cô thích bài ca “Cây chổi” dù các cô phải hát rất nhiều lần để học điệu Swing. Mua cây chổi, mua một cây chổi Mua cây chổi, mua một cây chổi Mua xong chưa, cây chổi lang thang! Loài sâu bọ tới ngày tận số Hết đường hoạ hoạn tai ương Mức diệu dung đo lường không hết Ngày hay đêm vẫn tốt trăm đường. Những con bò cái lặng lẽ nhai nhóp nhép tựa hồ chúng cũng đang nghe hát cho tới lúc các cô vắt sữa xong. Lúc đó, với những xô sữa ngọt ấm, Laura và Lena trở về các căn lều. Vào buổi sáng, đây là lúc đám công nhân xuất hiện ở khu nhà ngủ, rửa ráy trong những chiếc thau đặt trên ghế dài bên cạnh cửa và chải tóc. Rồi mặt trời vươn lên trên hồ Nước Bạc. Vào những buổi chiều, đây là lúc bầu trời như bùng cháy với những vệt đỏ, tía, vàng và mặt trời đã lặn còn những đoàn người ngựa đang trở về thành một vệt đen dài trên con đường làm bụi bước đi mệt mỏi trên đồng cỏ và hát. Lúc đó, Lena chạy vội về căn lều của cô Docia còn Laura chạy về căn lều của Mẹ vì các cô còn phải lọc sữa trước khi váng bắt đầu nổi lên và còn phải lo bữa cơm tối. Lena phải làm rất nhiều việc để giúp cô Docia và cô chị họ Louisa nên không còn thời giờ để chơi. Phần Laura, dù không quá mệt nhọc nhưng cũng khá bận rộn. Cho nên, cả hai ít có dịp gặp gỡ ngoài lúc đi vắt sữa. Một buổi tối, Lena nói: - Nếu Bố không lùa mấy con ngựa ô đi làm việc thì bồ biết mình sẽ làm gì không? Laura hỏi: - Không, làm gì? Lena đáp: - Thế này nghe, nếu mình có thể đi xa và nếu có mấy con ngựa ô để cưỡi thì mình sẽ tới coi công nhân làm việc. Bồ không muốn thế sao? Laura nói: - Ô, muốn chứ! Cô không phải cân nhắc như thế có phải là cãi lời Bố không vì họ không thể làm ngay việc đó. Thình lình vào một bữa ăn trưa, Bố đặt ly trà xuống, chùi râu và nói: - Con đã có quá nhiều thắc mắc rồi, Nhà-Kho-Vỗ-Cánh. Khoảng hai giờ chiều hãy đội mũ lên và tới kho hàng. Bố sẽ dẫn con đi và chỉ cho con thấy tận mắt. Laura kếu lên: - Ôi, Bố! Mẹ trầm giọng: - Đó, Laura, đừng có nôn nóng quá như thế. Laura hiểu là cô không được hô hoán. Cô thấp giọng xuống: - Bố, Lena có đi được không? Mẹ nói: - Mình sẽ cân nhắc điều đó sau. Sau khi Bố trở lại nhà kho. Mẹ nói với Laura một cách nghiêm trang. Mẹ nói Mẹ muốn các con gái phải biết cách cư xử, phải nói năng từ tốn và có những cử chỉ dịu dàng, luôn luôn là những phụ nữ đàng hoàng. Các cô đã luôn sống ở những nơi hoang dã, ngoài trừ một thời gian ngắn ở suối Plum và bây giờ lại ở trong một trại đường sắt xô bồ vào thời điểm trước khi vùng này có thể có nếp sống văn minh. Mẹ nghĩ rằng điều tốt nhất cho tới lúc đó là các cô phải tự lo cho mình. Mẹ muốn Laura luôn tránh xa trại và không làm quen với bất kì người đàn ông nào ở đó. ổn nhất với cô là cùng đi với Bố tới coi một lần nhưng cô phải xử sự chính chắn, chứng tỏ là một phụ nữ đàng hoàng không bao giờ làm một điều gì có thể gây sự chú ý. Laura nói: - Dạ, thưa Mẹ. Mẹ tiếp: - Còn nữa, Laura. Mẹ không muốn con mang Lena theo. Lena là một cô gái tốt, đảm đang nhưng ồn ào sôi nổi mà cô Docia lại không cố kềm chế. Nếu con cần tới coi chỗ làm việc của đám công nhân thô lỗ thì hãy lặng lẽ đi cùng với Bố rồi nhanh chóng trở về và không nói thêm một điều gì về chuyện này nữa. Laura nói: - Dạ, thưa Mẹ, nhưng… - Nhưng cái gì, Laura? Mẹ hỏi và Laura nói: - Không có gì. Mary thắc mắc: - Chị không hiểu lí do em muốn đi tới đó. Ngồi lại trong nhà hoặc đi dạo bên bờ hồ thú vị hơn nhiều. Laura nói: - Em chỉ muốn thấy thôi. Em muốn biết cách người ta làm một con đường sắt. Cô buộc chặt dải mũ khi bước ra và quyết giữ mũ trên đầu. Bố ngồi một mình trong nhà kho. Bố đội chiếc nón rộng vành, khoá cửa lại và hai bố con cùng đi trên đồng cỏ. Đây là thời điểm không có một bóng tối nào trên đồng cỏ phẳng lì nhưng ở đây lại khác. Chỉ sau vài phút, những mô đất cao đã che khuất dãy nhà lều và trên mặt đất đầy cỏ không thấy có gì ngoài dấu vết đầy bụi của một lối đi và nền đường sắt chạy kèm bên cạnh. Bố giữ chiếc nón và Laura cúi đầu trong chiếc mũ đang bị gió đập cũng mãi miết bước đi một hồi lâu. Rồi Bố ngừng lại và nói: - Tới rồi, bình-rượu-nhỏ. Cả hai đang đứng trên một mô đất. Phía trước, nền đường sắt chấm dứt như bị mài mòn đi. Đối diện với chỗ đó, rất đông người ngựa và những cây cày đang cày đất thẳng tới hướng tây mở một dãy đường rộng trên đồng cỏ. Laura nói: - Người ta làm đường bằng cày sao? Có vẻ lạ lùng với cô khi nghĩ là với những cây cày người ta đã tiến tới để dựng một con đường sắt trong vùng đất chưa bao giờ được cày. Bố nói: - Với những xẻng xúc nữa. Này, ngắm đi, Laura. Giữa đoạn chót của nền đường sắt bị mài mòn và nơi đang cày một đám người ngựa đi chậm chậm theo một đường trong bọc từ đoạn nền trên vòng lại cắt qua dây đường đã cày. Lũ ngựa đang kéo những chiếc xẻng lớn, sâu ngập trong đất. Đó là những xẻng xúc. Thay vì có một cán xẻng dài, mỗi xẻng xúc có hai cán ngắn. Một cánh cung thép cứng uốn từ cạnh này qua cạnh kia của xẻng xúc. Lũ ngựa được cột vào vành cung thép này. Khi một người và lũ ngựa đi tới chỗ đất đã cày, một người khác nắm lấy những chiếc cán và giữ ở độ cao vừa đủ để mũi lưỡi xẻng trong thọc vào đám đất đã cày lên trong khi những con ngựa tiếp tục đi tới để lấy đầy đất vào xẻng xúc. Rồi người kia buông các tay cầm cho xẻng xúc đã đầy đất trượt trên mặt đất bằng những con ngựa kéo theo đường mòn tới phía đoạn nền. Trên đoạn nền cuối, những người điều khiển ngựa nắm lấy những chiếc cán của xẻng xúc, lật nghiêng cho đổ nhào vào phía trong vành thép uốn cong mà lũ ngựa được cột vào đó. Tất cả đất trút ra hết trong lúc lũ ngựa kéo chiếc xẻng xúc trống rỗng xuống khỏi đoạn nền và theo đường tròn bọc trở lại chỗ đất cày. Tới đó, một người khác nắm lấy những cán ngắn, giữ ở đúng tầm cao để thọc mũi xẻng vào đám đất đã cày lên cho tới khi xẻng xúc lại đầy đất. Và vòng theo đường tròn, chiếc xẻng xúc đầy đất sau lũ ngựa tới bờ dốc nghiêng của đoạn nền đường sắt và lại một cú lật nhào. Từng cặp ngựa nối theo nhau theo một đường tròn, từng xẻng xúc nối theo nhau lật nhào. Các cặp ngựa không khi nào được ngừng di chuyển, các xẻng xúc không khi nào ngưng xúc và đổ. Khi số đất tới từ khoảng đất cày đã được xúc hết, đường cong được mở rộng ra để những xẻng xúc hơi nhích lên về chỗ đất mới cày trong khi các toán cày lui lại và lại cày tiếp để luôn có đất. Bố nói: - Công việc giống như một chiếc đồng hồ. Nhìn coi, không ai được dừng lại mà cũng không ai được vội vã. Bố tiếp: - Khi một xẻng xúc đầy đất thì một chiếc khác đã có mặt tại chỗ để thay thế và người xúc đất đã ở đó sẵn sàng nắm lấy cán xẻng để xúc đầy ngay. Xẻng xúc không khi nào phải chờ những cây cày và những cây cày chỉ tiến tới trước vừa đủ xa trước khi lui lại để cày thêm đất cho xẻng xúc. Họ đang làm một công việc vĩ đại. Fred là một đốc công tuyệt hảo. Fred đứng trên một đống đất theo dõi những toán xẻng xúc xoay tròn và những cây cày đảo quanh trong vòng tròn rồi tất cả cùng nhích lên. Ông ta theo dõi việc đổ đất của những xẻng xúc và đám đất lắn xuống với một cái gật đầu hoặc một lời nhắc nhở cho người đổ đất cách nào để nền đường sắt luôn bằng phẳng, thẳng tắp và giữ đứng đứng độ cao. Cứ sáu cặp ngựa thì có một người không làm việc gì ngoài việc đứng ngắm. Nếu một cặp đi chậm, anh ra sẽ nhắc người điều khiển cho đi nhanh hơn. Nếu một cặp ngựa đi nhanh quá, anh ta sẽ nhắc điều khiển và người này sẽ kìm lũ ngựa lại. Lũ ngựa phải cách khoảng đều nhau trong lúc bước đi đều đặn theo vòng tròn qua chỗ đất cày tới đoạn chót của nền đường sắt và từ đó quay lại chỗ đất cày. Ba mươi cặp ngựa kéo ba mươi xẻng xúc và tất cả những toán bốn ngựa kéo những cây cày cùng với những người điều khiển, những người xúc đất, tất cả tiếp tục đi vòng vòng, tất cả đều ở chỗ của mình và suốt buổi sáng trên đồng cỏ thênh thang giống hệt một chiếc đồng hồ như Bố đã nói. Người điều khiển, Fred, từ trong bụi đất mịt mù trên mũi nhọn của nền đường sắt mới đã giữ cho tất cả những công việc đó diễn ra đúng nhịp. Laura muốn ngắm mãi những việc đó, nhưng xa hơn về phía tây vẫn còn những việc cần xem. Bố nói: - Tới thôi, bình-rượu-nhỏ. Con sẽ coi người ta xẻ gỗ và lấp suối như thế nào. Laura đi theo Bố dọc theo con đường xe ngựa đầy những cỏ khô bị dập nát giống như cỏ không trên mặt đất bị bánh xe lăn qua. Xa hơn về phía tây bên kia một gò đất nhỏ có một toán người đang đắp một đoạn nền đường sắt khác. Dưới chân dốc bên kia gò đất có nhiều người đang lắp đầy đất lên và xa hơn một số người đang xẻ một gò đất cao. Bố nói: - Con thấy đó, chỗ nào đất thấp thì phải đắp nền cao lên còn chỗ nào đất cao thì phải bạt thấp bớt cho nền đường có tầm cao vừa đúng. Nền đường sắt phải đặt một độ cao bằng phẳng tối đã để xe lửa chạy trên đó dễ dàng. Laura hỏi: - Sao vậy, Bố? Tại sao xe lửa không chạy qua được những gò đống trên đồng cỏ? ở đây thực sự không có một ngọn đồi nào và có lẽ như lãng phí công sức bạt những gò đất nhỏ hoặc lấp những trũng cạn chỉ để tạo ra một nền đường bằng phẳng. Bố nói: - Không có chuyện lãng phí mà chính là tiết kiệm cho sau này. Con phải tự tìm hiểu điều đó không qua các lời chỉ dẫn, Laura. Laura có thể hiểu rằng một nền đường bằng phẳng sẽ khiến những con ngựa bớt mệt nhưng một đầu máy xe lửa là một con ngựa sắt không bao giờ biết mệt cả. Bố nói: - Đúng nó không mệt, nhưng nó cần đốt than. Than được lấy từ mỏ và là một công việc. Một đầu máy chạy trên mặt đường bằng phẳng sẽ tốn ít than hơn một đầu máy chạy trên đường gồ ghề lên xuống. Vì vậy con thấy lúc này việc san bằng mặt đường là tốn kém tiền bạc, công sức, nhưng mai đây tiền bạc và công sức sẽ được tiết kiệm để người ta có thể gom lại xây dựng những thứ khác. Laura hỏi: - Thứ gì, hả Bố? Thứ gì nữa? Bố nói: - Thêm đường sắt chẳng hạn. Bố sẽ không hề ngạc nhiên nếu trong tương lai sẽ có lúc chính mắt con được thấy hầu như hết thảy mọi người đều di chuyển bằng xe lửa và không còn mấy khi được nhìn thấy những cỗ xe ngựa nữa, Laura à. Laura khó tưởng tượng nổi một xử sở có nhiều đường sắt tới như thế và cũng khó tưởng tượng nổi một xứ sở đủ giàu có để mọi người đều có thể di chuyển bằng xe lửa. Nhưng cô không có tưởng tượng vì lúc này hai cha con đã tới một gò đất cao và có thể nhìn rõ công nhân đang xẻ và lắp đất. Ngay bên kia gò đất nơi xe lửa sẽ chạy qua, những toán công nhân cày và xúc đất đang san lắp một hố mương rộng. Những con ngựa cao lớn tới lui kéo những cây cày trong khi những con ngựa khác đi vòng vòng lôi những chiếc xẻng xúc, tất cả chuyển động đều đều và ăn nhịp với nhau. Nhưng ở đây các xẻng xúc không đi theo một vòng tròn mà đi vào một đường nhánh dài hẹp ăn sâu vào chỗ đất xẻ rồi thoát ra ở một đầu và đầu kia là chỗ tới đổ đất xuống. Chỗ đổ đất là một rãnh mương sâu ở cuối đoạn đất xẻ và hai con đường cắt qua. Những cây gỗ lớn được dựng làm trụ chống sắt các bờ mương và phía trên là một bức phẳng. Có một lỗ hổng ở chính giữa bục và đất được đổ cao ở hai bên mương để nâng mặt đường lên cao sát mặt bục. Phía ngoài chỗ đất xẻ là những cặp ngựa đi đều đặn nối theo nhau kéo theo những xẻng xúc đầy đất. Chúng đi lên nền đường ở trên chỗ đổ đất và đi qua bục. Chúng đi tới chỗ có lỗ hổng, mỗi con ngựa bước theo một bên trong khi người điều khiển đổ đất trên xẻng xuống. Cặp ngựa vẫn bước đều đặn xuống khỏi dốc nền đường và xoay vòng đi ngược trở lại chỗ đất xẻ để lấy đầy đất vào xẻng xúc. Vòng tròn các cỗ xe rời nơi đổ đất đảo lại leo lên đoạn nền cuối đang hướng tới chỗ đất xẻ. Khi đi ngang qua, một cỗ xe đổ hết đất xuống để nối đoạn nền dài thêm. Không cỗ xe nào có thùng xe mà chỉ có một tấm bửng, lần lượt đúng lúc. Rồi cỗ xe tiến tới rời đoạn nền đang được đắp đầy quay lại nối vào cái vòng tròn vô tận chạy qua chỗ đổ đất để lại được chất đầy. Bụi bay lên từ những cây cày, những xẻng xúc, từ chỗ đổ đất và từ dưới chân đồi. Một đám mây bụi không ngừng dân lên trùm trên đám đông người ngựa nhễ nhại mồ hôi. Mặt mũi tay chân đám công nhân đen nhẫy do nắng và bụi trong khi những chiếc áo màu xanh hoặc xám của họ đều ướt đẫm mồ hôi và dính bết bụi. Bụi cũng bám đầy trên bờm, đuôi, lông ngựa hoà với mồ hôi thành các vệt bùn trên hai bên sườn ngựa. Người ngựa vẫn xoay vòng đều đặn giữ nguyên khoảng cách đi tới rồi ra khỏi vùng đất xẻ trong lúc những cây cày tiếp tục tới lui và những cỗ xe dưới chỗ đổ đất không ngừng trút đất vào đoạn nền cuối rồi trở lại hứng đầy. Khoảng đất xẻ sâu thêm mãi và đoạn nền đường dài thêm mãi trong khi những toán người ngựa vẫn đan kết theo những vòng tròn không lúc nào ngưng. Laura kêu lên kinh ngạc: - Họ không sai trật một lần nào. Mỗi khi một xẻng xúc trút đất xuống là đã có sẵn một cỗ xe hứng ở bên dưới. Bố nói: - Đó là việc của người cai. Anh ta luôn giữ cho tất cả đúng nhịp như họ đang chơi nhạc. Con hãy coi người cai kia và con sẽ thấy công việc được tiến hành ra sao. Đúng là một công việc thú vị. Trên gò đất cao, trên đoạn đất xẻ, trên đoạn nền chót đang được đấp cao và dọc theo các vòng tròn đều có những người cai đứng. Họ theo dõi mọi toán người ngựa và giữ cho tất cả chuyển động kịp lúc. Chỗ này họ kìm một cặp ngựa chậm lại, chỗ kia họ thúc một cặp ngựa đi mau hơn. Không ai phải dừng lại chờ đợi. Không ai tới chỗ của mình chậm trễ. Laura nghe thấy người cai đứng ở đỉnh gò chỗ đất xẻ kêu lớn: - Các bạn! Nhanh hơn một chút nữa đi! Bố nói: - Con thấy, sắp tới giờ nghỉ rồi nên tất cả đều hơi chậm lại. Phải nhờ một người cai tốt họ mới nhận ra điều đó được. Trọn buổi chiều đã trôi qua trong lúc Bố và Laura ngắm những vòng tròn chuyển động để đắp nền đường sắt. Đã tới lúc phải trở về. Laura cố kéo dài cái nhìn cuối cùng rồi cô phải bước đi. Trên đường, Bố chỉ cho cô những con số sơn trên những cột nhỏ đóng trên đất theo một đường thẳng sẽ là nền đường sắt. Những nhân viên dịch lộ đã đóng những cây cọc kia. Các con số cho biết nền đường ở những nơi đất thấp phải đắp cao bao nhiêu và ở những nơi đất cao phải bạt xuống bao nhiêu. Nhân viên dịch lộ đã tính toán tất cả và hình dung ra nền đường một cách chính xác trước khi bất kì ai khác đặt chân tới đây. Trước tiên, một người nào đó nghĩ ra con đường sắt. Rồi các nhân viên dịch lộ xuất hiện ở vùng đất hoang vu này ghi dấu và tính toán một con đường sắt chưa thấy ở đây, một con đường sắt chỉ có trong ý tưởng của một người nào đó. Tiếp theo là những người cày đất tới xé toang đồng cỏ, những người kéo xẻng tới đào đất lên và những cỗ xe ngựa tới kéo đất đi. Tất cả đều bảo họ là công nhân đường sắt nhưng đường sắt vẫn chưa xuất hiện. ở đó chưa có gì ngoại trừ những đoạn xẻ qua các gò đất, những đoạn nền đường sắt mới chỉ là những bờ đất ngắn, hẹp đều hướng về miền tây qua đồng cỏ mênh mông. Bố nói: - Khi nền đường hoàn tất, lại có những người xúc đất kéo tới với những chiếc xẻng xúc tay để dập bóng hai bên đường và san phẳng mặt nền đường. Laura xen vào: - Sau họ lại đặt đường sắt. Bố bật cười: - Đừng vội nhảy chồm tới trước như vậy, Nhà-kho-vỗ-cánh. Những thanh nối đường sắt phải được đưa tới và sắp đặt xong trước khi đặt đường sắt. Kinh đô La Mã không thể dựng xong trong một ngày cũng như không có một đường sắt hoặc một công trình giá trị nào có thể làm xong như thế. Lúc này mặt trời đã xuống thấp tới mức mỗi gò đất đều có một chiếc bóng ngả dài về phía đông và trên khoảng không bao la những bầy vịt trời và những đám ngỗng trời hợp thành hình các mũi nêm dài đang hạ xuống hồ Nước Bạc để tìm chỗ nghỉ đêm. Những đợt gió trong lành không một gợn bụi đang thồi và Laura hất chiếc mũ tụt về sau gáy để cảm thấy gió đập thẳng vào mặt và để nhìn rõ hơn toàn bộ đồng cỏ rộng. Lúc này ở đây chưa có đường sắt nhưng một ngày nào đó, một đường sắt dài sẽ nằm bằng phẳng trên những đoạn nền đắp cao và qua những đoạn đất xẻ để những đoàn xe lửa rầm rộ chuyển động phun khói phóng đi. Đường sắt và những đoàn xe đều chưa xuất hiện, nhưng Laura đã có thể hình dung rõ rêht gần như chúng đang có thực. Thình lình cô hỏi: - Bố, cái gì đã làm ra con đường sắt đầu tiên? Bố hỏi lại: - Con đang nói về cái gì vậy? - Có phải đường sắt đã có do người ta nghĩ ra chúng vào lúc chúng chưa hề có. Bố suy nghĩ một lát rồi nói: - Đúng vậy. Đó là điều xảy ra ngẫu nhiên do có người đã nghĩ ra. Nếu có nhiều người nghĩ ra một điều gì và nỗ lực thực hiện tới nơi tới chốn thì theo Bố, điều đó đã gần tiến sát tới ngẫu nhiên xảy ra khi có điều kiện khách quan thuận lợi. Laura hỏi: - Căn nhà đó là gì vậy? Bố hỏi: - Nhà nào? Laura chỉ tay: - Căn nhà kia kìa, căn nhà đúng là nhà. Cho tới lúc này cô vẫn dự tính hỏi Bố về căn nhà đứng trên bờ hồ phía bắc nhưng cô luôn luôn quên. Bố đáp: - Đó là căn nhà của nhân viên dịch lộ. Laura hỏi: - Lúc này họ có ở đó không? Bố nói: - Họ đến và đi hoài. Hai bố con đã về gần tới kho hàng và Bố tiếp tục nói: - Bây giờ chạy thẳng về nhà đi, Nhà-kho-vỗ-cánh. Bố còn phải lo làm sổ sách. Lúc này con đã biết cách làm nền đường sắt ra sao và chắc là kể hết cho Mary nghe. Laura hứa: - Dạ, con sẽ kể, Bố! Con đã nhìn thay cho chị ấy mọi thứ. Cô kể lại thật rành rẽ nhưng Mary chỉ nói: - Thực sự chị không hiểu tại sao em lại thích xem những người thô lỗ ấy dầm mình trong bụi đất hơn là ngồi lại trong căn lều xinh xắn này. Chị đã khâu xong một chiếc mền khác trong lúc em chạy nhông. Nhưng Laura vẫn thấy hiển hiện trước mắt cử động của đám đông người ngựa với nhịp điệu hoàn hảo gần như cô có thể hát theo thành một điệu ca. Chương 11: Ngày Phát Lương Hai tuần đã qua đi và lúc này Bố phải làm việc mỗi buổi tối sau bữa ăn trong phòng giấy nhỏ ở phía sau nhà kho. Bố đang thảo bảng chấm công. Theo sổ chấm công, Bố tính ngày làm việc của mỗi người và tính ra số tiền họ được lãnh. Rồi Bố tính tiền nợ của từng người đối với nhà kho và cộng thêm vào đó số tiền cơm tháng mà mỗi người phải trả cho quán cơm. Bố đem tổng số tiền công của từng người trừ cho các khoản phí và lập ra các chi phiếu. Vào ngày phát lương, Bố trao cho mỗi người chi phiếu của họ cùng với số tiền phải trả cho họ. Từ trước Laura luôn giúp Bố làm việc. Khi còn rất nhỏ ở vùng Big Woods, cô đã giúp Bố nạp đạn, khi ở trong vùng đất của người da đỏ thì cô giúp Bố làm nhà còn lúc ở suối Plum, cô đã giúp Bố làm các việc trong và phơi cỏ. Nhưng lúc này, cô không thể giúp Bố vì Bố nói rằng công ty đường sắt không muốn bất kì ai ngoài Bố làm việc trong giấy. Tuy nhiên, cô luôn biết Bố đang làm gì vì qua cửa lều cô thấy nhà kho rất rõ và cô nhìn rõ từng người đến và đi. Một buổi sáng, cô thấy một cặp ngựa phóng thật nhanh thẳng tới cửa kho và một người đàn ông ăn vận sang trọng bước mau ra khỏi xe, hấp tấp vào nhà kho. Hai người đàn ông khác chờ ở trên xe vừa canh chừng cửa kho vừa nhìn quanh khắp phía tựa hồ sợ sệt. Một lát sau, người đàn ông kia quay ra bước lên xe. Sau khi hai người trên xe nhìn xung quanh, tất cả lái xe phóng đi thật nhanh. Laura chạy thẳng tới nhà kho. Cô tin chắc có một điều gì đã xảy ra ở đó. Tim cô đập loạn nhịp khiến cô buông người ngồi phịch khi thấy Bố an toàn, mạnh mẽ bước ra khỏi nhà kho. - Con đi đâu vậy, Laura? Mẹ gọi con từ phía sau cô và lúc này Laura đáp: - Con đâu có đi đâu, Mẹ? Bố bước vào lều, đẩy cho cánh cửa đóng lại, lấy ra từ trong túi một bao nặng bằng vải bạt. Bố nói: - Anh nhờ em giữ cái này, Caroline. Đây là lương của công nhân. Ai đến phòng giấy cũng muốn lấy trộm nó. Mẹ nói: - Em sẽ giữ kĩ, Charles. Mẹ cuốn chiếc bao vào trong miếng vải sạch rồi nhồi sâu trong một bao tải bột để ngỏ. - Không ai lại nghĩ sẽ tìm thấy nó ở trong đó. Laura hỏi: - Người hồi nãy vừa mang tới, hả Bố? Bố nói: - Ờ! Ông ấy là phát ngân viên. Laura nói: - Mấy người đi cùng với ông ấy có vẻ sợ hãi. Bố nói: - Ô, không thể nói vậy được. Họ chỉ đang lo bảo vệ cho người phát ngân không bị cướp thôi. Ông ta mang theo nhiều ngàn đô la tiền mặt để trả lương cho công nhân ở tất cả các trại nền có thể có người nhòm ngó để đoạt lấy. Nhưng những người kia đều có đủ súng ở trên người và trên xe. Họ chẳng phải sợ gì. Khi Bố quay lại nhà kho, Laura nhìn thấy báng súng của Bố hở ra trong túi. Cô biết Bố không sợ gì và cô nhìn lên cây súng trường nằm ngang trên khung cửa và cây súng săn dựng ở góc nhà. Mẹ có thể sử dụng những cây súng này. Không sợ gì những tay trộm cướp tới giật bao tiền. Đêm đó, Laura thức giấc hoài và nghe thấy Bố cũng nhúc nhích hoài trên chiếc giường ở phía bên kia tấm màn che. Đêm tối giống như đen đặc hơn và đầy những tiếng động lạ vì có gói tiền nằm trong bao bột. Nhưng không một ai lại nghĩ đi tìm nó ở đó và không có ai tìm. Sáng sớm, Bố đem gói tiền tới nhà kho. Hôm đó là ngày phát lương. Sau bữa ăn sáng, tất cả công nhân tề tựu quanh nhà kho và lần lượt từng người bước vào. Rồi lần lượt từng người quay ra và đứng gom lại thành những nhóm nhỏ trò chuyện. Hôm đó tất cả đều nghỉ làm vì là ngày phát lương. Sau bữa cơm tối, Bố lại phải trở lại phòng giấy. Bố nói: - Một số người có vẻ không hiểu tại sao họ chỉ được trả lương có hai tuần. Laura hỏi: - Tại sao họ không được trả lương trọn tháng? - Coi này, Laura, cần phải có thời gian để làm các chi phiếu, gửi chi phiếu đi, rồi phát ngân viên mang tiền đến. Vì thế, Bố làm lương cho họ đến ngày mười lăm, còn hai tuần sau, tính từ ngày mười lăm tới lúc này, Bố sẽ trả tiếp. Nhưng một số người đần độn đòi phải trả luôn cả hai tuần này. Họ muốn được trả lương tới ngày hôm qua. Mẹ nói: - Đừng buồn bực vì chuyện đó, Charles. Anh không thể chờ họ hiểu cách điều hành công việc thế nào. Mary hỏi: - Họ không oán trách Bố chứ, phải không Bố? Bố đáp: - Đó là điều tồi tệ nhất, nhưng Bố không biết rõ, Mary. Dù sao Bố cũng phải đem sổ sách tới làm việc ở phòng giấy. Chén dĩa được rửa sạch mau chóng và Mẹ ngồi trên ghế đu ru bé Grace ngủ với Carrie ngồi sát bên cạnh. Laura ngồi gần Mary trong khung cửa nhìn ánh sáng nhạt dần trên mặt nước hồ. Cô đang nhìn thay cho Mary. - Những đợt sáng cuối cùng đang chiếu mờ mờ ở giữa mặt hồ phẳng lặng. Xung quanh các điểm sáng là mặt nước tối sẫm với lũ vịt đang ngủ và mặt đất đen ngòm ở phía bên kia. Các vì sao bắt đầu lấp lánh trên nền trời xám xịt. Bố đã thắp đèn. Ánh đèn vàng vọt chiếu ra từ phía sau nhà kho. Ô, Mẹ ơi! Cô bỗng kêu lớn: - Có một đám đông ở đó, coi kìa! Đám đông đang bao quanh nhà kho. Họ không lên tiếng và không gây tiếng động cả khi đập chân trên cỏ. Chỉ là một đám đông màu đen đang lớn lên rất nhanh. Mẹ đứng bật dậy đặt bé Grace xuống giường. Rồi Mẹ bước tới nhìn qua đầu Laura và Mary. Mẹ nói khẽ: - Vào nhà đi, các con! Khi các cô bước vào, Mẹ đóng cửa chỉ chừa lại một khe hở. Mẹ đứng nhìn qua khe hở ra ngoài. Mary ngồi xuống ghế cùng Carrie nhưng Laura ngó ra dưới cánh tay của Mẹ. Đám đông đã tới sát quanh nhà kho. Hai người bước lên và đập cửa. Đám đông im lặng. Toàn thể ánh hoàng hôn mờ tối cũng im lặng một hồi. Rồi một người lại đập mạnh vào cánh cửa và gọi: - Mở cửa, Ingalls! Cửa bật mở và Bố đứng giữa ánh đèn. Bố đóng cánh cửa phía sau lại và hai người đàn ông vừa đập cửa bước lui về đám đông. Bố đứng trên bực cửa, thọc hai bàn tay trong túi. Bố hỏi một cách điềm tĩnh: - Có chuyện gì vậy, các bạn? Một giọng nói cất lên từ đám đông: - Chúng tôi muốn được trả lương. Nhiều giọng khác hô theo: - Trả đủ lương cho chúng tôi. - Hãy trả hết thảy tuần lương mà anh đã giữ lại! - Chúng tôi phải được trả đủ tiền! Bố nói: - Các anh sẽ được trả dứt hai tuần lương tính tới lúc này ngay khi tôi lập xong các chi phiếu. Các giọng nói lại nhao nhao: - Chúng tôi muốn trả ngay! - Không được trì hoãn! - Chúng tôi phải có lương ngay bây giờ! Bố nói: - Tôi không thể trả cho các bạn vào lúc này. Tôi không có tiền cho tới khi phát ngân viên quay lại. Một người lên tiếng: - Mở cửa nhà kho ra! Cả đám đông hô theo: - Đúng đó! Vậy là đủ. - Mở cửa kho! - Mở ngay cửa kho! Bố lên tiếng giọng bình thản: - Không, các bạn. Tôi không làm thế. Hãy trở lại đây vào sáng mai và tôi sẽ trao cho mỗi người tất cả những thứ cần có và ghi vào sổ nợ. Một người hô lớn: - Mở ra, nếu không tụi này sẽ mở! Tiếng hầm hè lan nhanh trong đám đông. Cả đám người xấn tới trước Bố tựa hồ tiếng hầm hừ xô họ lên. Laura chúi đầu qua dưới cánh tay mẹ nhưng bàn tay mẹ nắm vai Laura kéo cô lại. Laura kinh hãi thì thào: - Ôi, để con đi! Họ sẽ đánh Bố! Để con đi, họ sẽ đánh Bố! - Im nào! Mẹ nói bằng cái giọng mà Laura chưa từng nghe thấy. Trong lúc đó, Bố lên tiếng: - Đứng lui lại, các bạn. Không được kéo tới gần! Laura nghe thấy giọng Bố lạnh như băng và cô đứng run bần bật. Đúng lúc cô nghe thấy một giọng khác từ phía sau đám đông. Giọng nói trầm, mạnh không lớn nhưng nghe rất rõ: - Chuyện gì vậy, các bạn? Trong bóng tối, Laura không thể nhìn rõ chiếc áo đỏ nhưng chỉ riêng Big Jerry mới có thân hình cao lớn như thế. Anh ta đứng cao vượt trên đám đông mờ tối. Phía bên kia trong ánh hoàng hôn mờ nhạt là con ngựa trắng. Nhiều giọng nói lộn xộn đáp lại câu hỏi của Big Jerry và anh ta cười. Anh ta cười lớn như pháo nổ: - Mấy anh điên rồi! Big Jerry vẫn cười, nói tiếp: - Om sòm lên để làm gì? Để lấy mấy món hàng ra khỏi nhà kho hả? Tốt, thế thì sáng mai mình sẽ lấy bất kì thứ gì mình cần. Nó vẫn nằm nguyên ở đây mà. Không ai có thể ngăn cản chúng ta khi chúng ta ra tay. Laura nghe thấy Big Jerry tuôn ra hàng loạt những tiến thô tục. Anh ta vừa chửi thề vừa nói chen vào những tiếng mà cô chưa nghe thấy bao giờ. Cô không còn nghe rõ những lời đó nữa vì cô cảm thấy sụp đổ, cảm thấy mọi thứ đều tan vỡ như một chiếc đĩa rớt xuống khi Big Jerry đứng về phía chống lại Bố. Lúc này đám đông xúm quanh Big Jerry. Anh ta đang gọi tên một vài người và nói với họ về uống rượu và chơi vài. Một số người đi cùng anh ta về phòng ngủ và số còn lại phân thành những nhóm nhỏ rải rác ra đi trong bóng tối. Mẹ đóng cửa, nói: - Đi ngủ thôi, các con. Laura run rẩy làm theo lời Mẹ nhắc. Bố không về nhà. Thỉnh thoảng cô nghe thấy rộ lên những giọng nói lớn, thô lỗ từ khu nhà trại rồi có tiếng hát. Cô biết cô không thể ngủ cho tới khi Bố trở về. Rồi bất chợt cô mở mắt ra. Trời đã sáng. Bên kia hồ Nước Bạc, nền trời vàng cháy với một vệt mây đỏ rực nằm vắt ngang. Hồ ửng màu hồng và chim chóc bay lượn líu lo. Khu trại cũng ầm ĩ. Quanh quán ăn, công nhân tụ lại thành một đám đang nói năng một cách căng thẳng. Mẹ và Laura bước ra ngoài đứng ở một góc lều ngó. Cả hai nghe thấy một tiếng hô và thấy Big Jerry phóng lên con ngựa trắng. Anh ta hét: - Tiến lên, anh em! Tiến lên vui đùa mau! Con ngựa trắng chôm lên, cuốn đi rồi lại chồm lên, Big Jerry hét lên một tiếng man rợ, con ngựa trắng phóng chạy và cả hai băng trên đồng cỏ hướng về miền tây. Tất cả đám công nhân chạy xô về phía chuồng ngựa và chỉ một phút sau, từng người đã ngồi trên lưng ngựa phóng theo Big Jerry. Toàn thể đám đông thành một hàng dài trên lưng ngựa và biến đi. Một sự im lặng lạnh lẽo mênh mông tràn ngập khu nhà trại và tràn ngập cả Mẹ với Laura. Mẹ nói: - Tốt rồi! Cả hai thấy Bố đang đi từ nhà kho tới quán ăn. Fred, người cai thợ, từ quán ăn bước ra gặp Bố. Họ nói chuyện với nhau một lát. Rồi Fred tới chuồng ngựa dắt ngựa ra và phóng xa về phía tây. Bố cười khúc khích. Mẹ nói là Mẹ không biết có gì đáng để cười. Bố cười lớn hơn: - Anh chàng Big Jerry đó! Hỗn loạn hết nếu anh ta không lôi họ đi làm những trò quỉ quái ở một nơi nào khác. Mẹ hỏi lanh lảnh: - Ở đâu? Bố trấn tĩnh Mẹ: - Có cướp phá ở trại Stebbin. Người ở khắp các trại đang dồn về đó. Em có lí, Caroline, quả là không có gì đáng cười. Trọn ngày khu trại yên tĩnh, Laura và Mary không ra ngoài đi dạo. Không thể nói đang xảy ra chuyện gì ở trại Stebbin và lúc nào thì đám đông ngua hiểm kia sẽ quay về. Suốt ngày, Mẹ nhìn quanh lo lắng, môi mím chặt và chốc chốc lại thở dài. Sau khi trời tối, đám đông quay về. Nhưng họ cưỡi ngựa về trại một cách lặng lẽ khác hẳn lúc đi. Họ ăn bữa tối tại quán cơm rồi về lên giường trong khu nhà ngủ. Bố từ nhà kho trở về muộn nhưng Laura và Mary vẫn thức. Các cô nằm im trên giường nghe Bố Mẹ nói chuyện ở bên kia tấm màn che nhuộm ánh đèn. Bố nói: - Bây giờ không còn gì đáng lo nữa, Caroline. Họ đã mỏi mệt và mọi chuyện êm rồi. Bố ngáp và ngồi xuống tháo ủng. Mẹ hỏi: - Họ treo cổ người phát ngân. Và có một người bị thương nặng. Họ đã đặt anh ta lên một cỗ xe chở gỗ đưa về miền đông kiếm thầy thuốc. Đừng rối loạn như thế, Caroline. Mình phải cảm ơn số phận đã giúp mình thoát nạn dễ dàng. Tất cả đã qua rồi. Mẹ nói: - Em không hết rối trí nổi khi chuyện chưa qua. Giọng Mẹ vẫn còn run. Bố nói: - Tới đây! Laura biết lúc này Mẹ đang ngồi trên đầu gối của Bố. Bố nói với Mẹ: - Đừng nghĩ ngợi gì nữa, Caroline. Việc đắp nền đường gần xong rồi, các trại này sẽ thâu hẹp lại, rời đi và mùa hè tới chúng mình đã ở trong nông trại. Mẹ nói: - Khi nào anh sẽ đi kiếm? Bố nói: - Ngay khi trại đóng cửa. Từ nay tới lúc đó anh không thể rời nhà kho một phút. Em biết rõ điều đó. - Em biết, Charles. Người ta đã làm gì với những người đã giết người phát ngân viên. Bố nói: - Họ không giết ông ta. Em thấy trại Stebbin cũng giống như ở đây, phòng giấy là một gian chái ở phía sau nhà kho và chỉ có một khuôn cửa mở vào nhà khi. Người phát ngân cùng với tiền bạc đều ở trong phòng giấy và ông ta khoá cửa lại. Ông ta trả tiền cho công nhân qua một ô cửa nhỏ ở bên cạnh khuôn cửa. Có hơn ba trăm năm mươi công nhân trại Stebbin được trả lương ở đó và họ muốn được trả đủ lương ngay giống như công nhân ở đây. Khi chỉ được trả nửa tháng lương họ liền phá phách. Đa số những người đó đều mang theo súng và đang ở trong nhà kho hăm sẽ nổ súng nếu không được trả đủ lương. Trong cơn hỗn độn có hai người cãi cọ và một người nện mấy chiếc cán cân vào đầu người kia. Người kia sụm xuống như con bò bị đập và khi mọi người lôi được anh ta ra ngoài trời thì anh ta mê man. Thế là đám đông kiếm một sợi thừng và lùng kiếm người đã đánh anh ta. Họ theo dấu anh ta vào trong đầm lầy nhưng không thể tìm thấy anh ta trong cỏ. Họ đạp nát xung quanh tìm kiếm qua đám cỏ cao lút đầu người ở đó cho tới khi theo anh nghĩ thì chính họ đã xoá hết dấu tích do anh ta để lại. Họ xục xạo qua buổi trưa và thật may mắn cho người kia là họ không thấy anh ta. Khi họ quay lại thì cửa nhà kho đã khoá. Họ không thể vào trong được. Một vài người đặt người bị thương lên một cỗ xe và lái về miền đông để kiếm bác sĩ. Lúc đó, nhiều người dồn lại ở một khoảng trống. Họ ăn mọi thứ kiếm được từ trong quán cơm và đa số đều uống rượu. Họ tới đập cửa nhà kho đòi người phát ngân mở cửa nhà kho trả lương cho họ, nhưng không có ai trả lời. Một đám đông tới gần một ngàn người say rượu thì thật tồi tệ khi phải tiếp xúc. Một người nào đó nhìn thấy sợi dây thừng và hô lớn: - Treo cổ thằng phát ngân lên! Toàn thể đám đông hùa theo la hét “Treo cổ nó lên! Treo cổ nó lên!”. Hai người leo lên mái gian chái phá ván lợp xé ra một lỗ hổng. Họ buông một đầu dây lủng lẳng bên mép mái và đám đông bám lấy. Hai người leo vào bên trong chụp lấy người phát ngân buộc một vòng thòng lọng quanh cổ ông ta. Mẹ nói: - Thôi, Charles. Các con còn đang thức. Bố lên tiếng: - Có khỉ gì đâu. Họ kéo ông ta lên một hoặc hai lần và ông ta nhượng bộ. - Họ không treo ông ta? - Chưa đủ làm xây xát ông ta nữa. Một vài người trong đám đông dùng đòn gánh đập vỡ cánh cửa kho và người thủ kho mở cửa ra. Một người lọt vào phòng giấy cắt sợi dây, thả người phát ngân xuống rồi mở ô cửa sổ nhỏ và người phát ngân trả lương cho từng người theo con số mà ông ta nói là còn thiếu. Nhiều công nhân đứng đắn ở các trại khác tập trung ở đó và cũng được trả lương. Với những chi phiếu được đưa ra thì hết phiền hà. Laura bỗng bật kêu lên: - Ông đó đáng xấu hổ thật! Bố kéo tấm màn che ra. Cô vẫn tiếp tục nói trước khi Bố Mẹ lên tiếng: - Ông ta làm thế để làm gì? Con không chịu! Con không chịu! Cô đang quì trên giường, hai nắm tay xiết chặt. Bố hỏi: - Con không chịu cái gì? - Trả tiền cho họ! Họ không thể buộc con làm vậy! Họ không thể buộc Bố làm vậy! Bố nói: - Đám đông đó dữ hơn cả đàn gấu, còn người phát ngân không Big Jerry giúp đỡ. Laura nói: - Nhưng Bố cũng đâu có ai giúp? - Suỵt! Mẹ chen vào và nhắc: - Bé Grace thức dậy bây giờ. Mẹ mừng là người phát ngân đã khôn ngoan. Thà rằng làm một con chó sống còn hơn làm con sư tử chết. Laura thì thầm: - Ôi, đừng, Mẹ! Mẹ đừng nghĩ như thế! Mẹ nói khẽ: - Dù sao thì thận trọng vẫn là một phần của sự dũng cảm. Nhưng các con ngủ đi. Mary lên tiếng: - Mẹ, ông ta trả tiền cho họ bằng cách nào? Ông ta lấy đâu ra tiền để trả khi phải trả ngoài số mà ông ta có? Mẹ cũng hỏi: - Đó là vấn đề, ông ta lấy tiền ở đâu? Bố nói: - Từ nhà kho. Đó là một nhà kho lớn và đã thu lại gần hết số tiền mà công nhân được phát vì họ tiêu tiền rất nhanh. Thôi bây giờ các con hãy theo lời Mẹ, ngủ đi. Mary và Laura khẽ thì thào trò chuyện dưới tấm chăn cho tới khi Mẹ tắt đèn. Mary bảo cô muốn quay lại suối Plum. Laura không muốn như thế. Cô thích được cảm nhận thấy đồng cỏ hoang vu bát ngát bao quanh căn lều nhỏ. Tim cô đập mạnh và nhanh khi cô nhớ lại tiếng hầm hừ hung bạo của đám đông và giọng nói lạnh như bằng của Bố với mấy tiếng: - Đừng bước tới gần! Và cố nhớ thêm tới những đám người ngựa nhễ nhại mồ hôi chuyển động mạnh mẽ qua những đám mây bụi để đắp nền đường sắt như theo một điệu nhạc. Cô không muốn quay lại suối Plum. Chương 12: Những Đôi Cánh Trên Hồ Nước Bạc Thời tiết lạnh hơn. Bầu trời đầy những đôi cánh và những con chim lớn đang bay. Từ Đông qua Tây, từ Bắc xuống Nam, xa tắp trên nền trời xanh chỉ là những bầy chim nối theo nhau trôi đi trên nhưng đôi cánh không ngừng đập. Lúc chiều tàn, chúng hạ xuống vô tận từ trên không theo một đường dốc dài trong không trung đáp xuống nghỉ ngơi trên mặt hồ Nước Bạc. Có những con ngỗng lớn màu xám, có những con nhỏ hơn trắng như tuyết khiến giống như có một bờ tuyết trên mặt hồ. Có đủ các loại vịt trời gồm những loại lớn với các vệt lông xanh tím óng ánh trên cánh, loại có đầu màu đỏ, loại có mỏ xanh lơn, loại vịt miền Bắc, loại vịt nước và nhiều loại khác mà Bố không biết tên. Có những con diệc, những con bồ nông, những con sếu. Có những con gà nước nhỏ và nhiều loại chim nhỏ khác loi ngoi dày đặc trên mặt hồ. Khi một tiếng súng bật lên, những con chim nhỏ vụt biến mất nhanh hơn chớp mắt. Chúng lặn sâu vào trong nước và ở dưới đó một hồi lâu. Vào lúc hoàng hồn, hồ rộng phủ đầy các loại chim với đủ giọng kêu trước khi chúng đi vào giấc ngủ để hồi sức cho cuộc hành trình dài từ bắc về nam. Mùa đông đang dồn xua chúng, đuổi theo chúng từ hướng bắc. Chúng biết thế và khởi hành sớm để còn được nghỉ ngơi trong lúc đi đường. Trọn đêm chúng nghỉ ngơi êm ả thoải mái trên mặt nước và khi bình minh tới, chúng lại bay lên bầu trời cao với những đôi cánh mạnh mẽ nhờ được hồi sức. Một bữa Bố đi săn trở về mang theo một con chim trắng như tuyết. Bố nói một cách điềm đạm: - Tiếc thật, Caroline. Nếu biết thì anh đã không làm. Anh đã bắn một con thiên nga. Nó đẹp quá nên chết thật uổng. Nhưng anh không hề nghĩ đây là một con thiên nga, chưa bao giờ anh thấy một con chim bay như thế. Mẹ nói: - Bây giờ thì hết làm gì nổi rồi, Charles. Tất cả đứng ân hận nhìn con chim tuyệt đẹp trắng như tuyết sẽ không bao giờ còn bay được nữa. Mẹ nói: - Thôi, em sẽ nhổ lông nó rồi anh lột da. Carrie lên tiếng: - Nó lớn hơn con nữa. Con thiên nga lớn tới nỗi Bố lấy thước đo và đôi cánh trắng của nó dài tới tám bộ từ đầu này qua đầu kia. Một ngày khác Bố mang về lều một con bồ nông để cho Mẹ thấy thứ nó thích là thứ gì. Bố mở chiếc mỏ dài của nó và một con cá đã chết rơi ra từ cái túi da ở phía dưới mỏ. Mẹ kéo chiếc tạp dề lên che mặt còn Carrie và Grace bịt chặt mũi. Mẹ kêu sau chiếc tạp dề: - Đem nó đi mau, Charles. Có những con cá còn tươi và cũng có những con cá chết đã lâu. Thịt bồ nông không ăn nổi. Ngay cả lông của nó cũng nồng nặc mùi cá thối rữa đến nỗi Mẹ không để dành làm gối. Bố bắn tất cả các loại vịt và ngỗng để ăn nhưng không bắn thứ gì khác ngoài chim ó. Thỉnh thoảng Bố bắn chim ó vì chúng giết các loài chim khác. Hàng ngày Laura và Mẹ vặt lông trên lớp da được xối nước sôi của những con vịt, những con ngỗng mà Bố bắn hạ làm thức ăn cho bữa trưa. Mẹ nói: - Chẳng bao lâu mình sẽ có đủ lông chim làm nệm giường. Lúc đó con và Mary có thể ngủ trên nệm lông chim vào mùa đông. Suốt những ngày thu ửng màu vàng, bầu trời đầy cánh chim. Những cánh chim đậu thấp trên mặt hồ Nước Bạc. Những cánh chim vỗ cao giữa khoảng trời xanh trên hồ. Cánh ngỗng, vịt, cánh bồ nông, sếu, diệc, thiên nga, mòng biển đem theo chúng tất cả màu xanh trên đồng cỏ về phương nam. Những đôi cánh, thời tiết ửng vàng và mùi sương mù buổi sáng khiến Laura muốn đi tới một nơi nào đó. Cô không biết nơi nào. Cô chỉ muốn đi. Một đêm sau bữa ăn tối cô nói: - Mình nên về miền tây, Bố. Sao mình không thể về miền tây khi chú Henry tới đó. Chú Henry cùng Louisa, Charley đã gom đủ tiền để đi miền tây. Họ sẽ ghé về Big Woods bán nông trại và vào mùa xuân sẽ cùng với cô Polly đi tới Montana ở miền tây. Laura nói: - Sao mình không thể đi? Bố đã kiếm nhiều tiền, tới ba trăm đô-la. Và mình đã có một cặp ngựa và cỗ xe. Ôi, Bố, mình về miền tây đi. Mẹ nói: - Thôi, cảm ơn, Laura! - Dù thế nào… Cô không thể nói tiếp được. Bố dịu giọng: - Bố biết, Bình-rượu-nhỏ. Con và Bố đều muốn bay như chim. Nhưng từ lâu rồi Bố đã hứa với Mẹ là phải cho các con đi học. Các con không thể vừa đi học vừa đi về miền tây. Khi thị trấn ở đây được xây dựng thì sẽ có trường. Bố sẽ kiếm một nông trại và tất cả các con sẽ tới trường, Laura. Laura nhìn Mẹ rồi nhìn Bố và biết chắc điều gì phải xảy ra. Bố sẽ ở lại trong một nông trại và cô sẽ tới trường. Mẹ nói dịu dàng: - Một ngày nào đó con sẽ cảm ơn Mẹ, Laura, và cả anh nữa, Charles. Bố nói: - Caroline, chỉ cần em bằng lòng là anh vui rồi. Sự thực là thế nhưng Bố vẫn muốn đi về miền tây. Laura quay về chảo thức ăn và lo rửa chén dĩa buổi tối. Bố nói: - Con một điều khác nữa, Laura. Con cần biết Mẹ con là một cô giáo và trước kia bà ngoại con cũng là cô giáo, trong lòng Mẹ đã sắp xếp cho một trong số các con sẽ là cô giáo và Bố mong người đó là con. Cho nên con thấy là con phải tới trường. Laura giật thót trong tim rồi cô cảm thấy hình như mình rơi xuống, rơi mãi xuống. Cô không nói gì. Cô không biết rằng Bố Mẹ và cả Mary đều đã nghĩ Mary sẽ là cô giáo. Bây giờ, Mary không thể dạy được và… - Ô, mình không thể! Mình không thể! Laura nghĩ: - Mình không muốn! Mình không có thể! Rồi cô lại tự nhủ: - Mình phải làm. Cô không thể làm Mẹ buồn. Cô phải làm điều Bố đã nhắc. Như thế là cô phải trở thành cô giáo khi lớn lên. Ngoài ra, cũng không có việc gì khác để cô kiếm ra tiền. Chương 13: Trại Giải Tán Lúc này, mặt đất thấp mênh mông gợn nhẹ những lớp màu dưới bầu trời mờ nhạt. Cỏ là những cọng vàng óng và khắp đồng cỏ phủ dưới một lớp màu da bò chen lẫn với màu vàng, màu nâu và màu nâu xám. Chỉ riêng các bãi lầy còn giữ được màu xanh đen. Chim thưa hẳn và đều hối hả. Thường vào lúc hoàng hôn, một bầy chim bay cao trên hồ Nước Bạc lao xao lo lắng và thay vì lao xuống kiếm ăn, kiếm chỗ nghỉ ngơi trên mặt hồ, con chim đầu đàn mệt mỏi bay lùi lại để một con khác tiến lên thay chỗ và cả bầy tiếp tục bay về phương nam. Mùa đông lạnh lẽo đã tới sát lưng và chúng không thể dừng lại nghỉ ngơi. Vào những buổi sáng mù sương và những buổi tối lạnh buốt đi vắt sữa bò, Laura và Lena phải trùm khăn kín đầu và cài chặt dưới cằm. Chân các cô lạnh giá và gió thốc vào mũi tê buốt, nhưng khi ngồi xổm dưới những con bò toả hơi ấm, các cô kéo cho khăn trùm phủ kín luôn tới tận bàn chân. Và, các cô hát trong lúc vắt sữa: Em ở đâu hỡi cô nàng duyên dáng Gần đây thôi bên thùng sữa thân quen Ước gì được gần em trong giây lát Nếu vui lòng, xin hãy cứ tự nhiên Tài sản của em là gì em nhỉ? Là gương mặt em má lúm đồng tiền Anh chưa thể ngỏ lời xin kết bạn Không ai đòi anh phải cưới em. Một buổi chiều Lena nói: - Này, chắc tụi mình sẽ không được thấy nhau rất lâu. Việc đắp nền đường ở vùng hồ Nước Bạc sắp xong. Sáng sớm hôm sau, Lena và Jean cùng cô Docia ra đi. Họ ra đi từ trước lúc mặt trời mọc vì phải đi xa với ba cỗ xe chở nặng hàng hoá từ trong nhà kho của công ty. Họ không nói với ai về nơi sẽ tới vì sợ công tu sẽ cho người theo bắt. Laura nói: - Tôi mong mình sẽ có thời giờ để lại được cưỡi những con ngựa ô. - Mẹ kiếp! Mừng là mùa hè này đã dứt! Tớ ghét cay đắng những căn nhà. Lena thốt ra mấy tiếng dữ dằn đó một cách bạo dạn. Cô đung đưa xô sữa và nói như hát: - Không còn nấu nướng, không còn chén dĩa, không còn giặt giũ, không còn lau chùi! Hoan hô! Rồi cô tiếp: - Thôi, tạm biệt! Mình nghĩ là bồ còn ở lại đây lâu. Laura nói một cách khổ sở: - Tôi cũng nghĩ vậy. Cô đoán chắc Lena sẽ đi về miền tây. Có thể tới tận Oregon. - Tạm biệt! Sáng hôm sau, Laura vắt sữa một mình với con bò đơn độc. Cô Docia lái cỗ xe chở lúa mạch rời phòng chứa thóc lúa. Lena lái cỗ xe chất đầy thức ăn rồi rời nhà kho và Jean đang chờ lái cỗ xe chứa xẻng và cày. Chú Hi sẽ bắt theo họ ngay sau khi giải quyết xong công việc với công ty. Bố nói: - Anh nghĩ là món nợ của Hi lúc này cũng ngang với những thứ được gán cho chú ấy. Mẹ lo lắng: - Anh không thể giữ bớt lại sao, Charles. Bố nói: - Việc đó không phải của anh. Công việc của anh là cung cấp mọi thứ theo yều cầu của người thầu và ghi giá lại. Nhưng mà, Caroline! Không phải đây là chuyện trộm cắp. Hi không lấy đi quá với công sức mà chú ấy đã đổ ra ở đây và ở Siox. Chính công ty đã lừa đảo chú ấy ở đó và chú ấy lấy lại ở đây. Tất cả chỉ là thế. Mẹ thở ra: - Em sẽ mừng khi những khu trại kia dọn đi hết và mình lại định cư. Hàng ngày, trong trại ồn ào tiếng người kéo đến lãnh phần lương cuối và ra đi. Những cỗ xe ngựa nối nhau chạy về miền đông. Mỗi đêm khi trại lại vắng vẻ hơn. Một bữa, chú Henry, Louisa và Charley lên đường làm một chuyến đi dài về Wisconsin để lo bán nông trại. Quán cơm và khu nhà ngủ vắng ngắt, nhà kho trống trơn và Bố chỉ còn chờ người của công ty đến để xem lại sổ sách kế toán. Bố nói với Mẹ: - Mình sẽ phải tới một nơi nào đó ở miền đông để qua mùa đông. Căn lều này mỏng manh quá so với thời tiết lạnh dưới không độ. Và nếu công ty để mình ở lại thì cũng không xoay đâu ra than sưởi. Mẹ nói: - Ô, Charles! Anh còn chưa kiếm được nông trại, nếu mình lại phải tiêu phạm vào số tiền anh mới kiếm được để sống tới xuân thì… Bố nói: - Anh biết, nhưng mình làm gì được? Anh có thể kiếm ra nông trại trước khi mình ra đi và sắp xếp vào mùa xuân tới. Có thể mùa hè tới anh sẽ kiếm một việc làm để sinh sống và mua gỗ dựng cho mình một căn lều. Anh có thể dựng một căn lều đất nhưng ngay cả trong trường hợp làm được vậy thì mình vẫn phải sống cho tới mùa xuân với giá thực phẩm không phải ở đây và còn cần than nữa. Không khá hơn nên tốt hơn là cứ về miền đông cho qua mùa đông. Thật không dễ giữ vững tinh thần. Laura có khuyến khích mình nhưng thấy vẫn không nổi. Cô không muốn lại quay về miền đông. Cô ghét phải rời hồ Nước Bạc để về lại miền đông. Họ đã đi thật xa tới hồ Nước Bạc và cô muốn bám lại đây, không chịu bị đẩy lùi. Nhưng nếu không tránh được thì đành phải chịu và sẽ bắt đầu đi lại vào mùa xuân tới. Phàn nàn là điều không tốt gì. Mẹ hỏi cô: - Con cảm thấy không khoẻ hả, Laura? Cô đáp: - Ô, không, thưa Mẹ! Nhưng cô cảm thấy nặng nề và tối tăm đến nỗi càng cố trấn tĩnh mình cô càng thấy khổ sở hơn. Người của công ty đã tới kiểm tra sổ sách và những cỗ xe cuối cùng trở về miền tây đã đi ngang qua. Ngay cả mặt hồ cũng gần như không còn chim và bầu trời trống hoe ngoại trừ vài con chim lẻ loi vội vã bay qua. Mẹ và Laura vá lại tấm vải mui xe và lo nướng bánh cho chuyến đi dài. Tối đó, Bố từ nhà kho trở về, huýt gió vui vẻ và ào vào nhà như một cơn gió. Bố nói oang oang: - Em thấy thế nào về việc mình ở lại đây qua mùa đông, Caroline? ở lại trong căn nhà của nhân viên dịch lộ! Laura kêu lên: - Ô, Bố! Được không? Bố nói: - Con đánh cá là được đi? Nếu Mẹ các con đồng ý. Đó là một căn nhà tốt, thoải mái, chắc chắn, Caroline. Người chỉ huy đám nhân viên dịch lộ lúc này đang ở nhà kho và ông ta nói là ông ta đã nghĩ toán nhân viên dịch lộ sẽ phải ở lại nên mới tích trữ than và thực phẩm đủ kéo dài qua mùa đông, nhưng nếu anh chịu nhận trách nhiệm trông coi dụng cụ cho công ty đến mùa xuân thì họ sẽ đi khỏi đây trong mùa đông. Người của công ty đã thoả thuận. ở đó có bột mì, đậu, thịt ướp muối, khoai tây và có cả một số thịt hộp nữa, ông ta nói với anh như thế. Ngoài ra là than. Mình sẽ có tất cả những thứ đó mà không phải trả một thứ gì ngoài việc ở lại đây hết mùa đông. Mình có thể dùng khu nhà chuồng cho bò và ngựa. Anh nói với ông ta rằng anh sẽ cho biết ý kiến vào sáng mai. Em thấy sao, Caroline? Tất cả đều nhìn Mẹ và chờ, Laura khó kìm mình ngồi im nổi. ở lại bên hồ Nước Bạc! Đặc biệt là không phải trở lại miền đông. Mẹ thất vọng vì Mẹ muốn quay lại vùng đất có người định cư. Nhưng Mẹ nói: - Giống như của trời cho, Charles. Anh nói có cả than hả? Bố đáp: - Anh không nghĩ thiếu than mà ở lại nổi. Nhưng than đã có ở đó. Mẹ nói: - Được rồi, bữa tối đã sẵn trên bàn. Rửa ráy rồi ăn kẻo nguội. Đây đúng là một dịp may, Charles. Trong bữa ăn, họ không nói về chuyện nào khác. Thật dễ chịu được sống trong một căn nhà ấm áp so với căn lều lạnh lẽo gió luôn luồn qua các kẽ vách dù cánh cửa vẫn đóng kín và lửa trong lò đang cháy. Laura mở đầu câu chuyện: - Mẹ không thấy mình giàu có sao, khi… Mẹ ngắt ngang: - Đừng có nghĩ thế. Laura nói: - Sao Mẹ lại không nghĩ rằng mình giàu có khi trọn mùa đông đã có sẵn đầy đủ thức ăn. Bố lên tiếng: - Không mất một xu cho tới tận mùa xuân. Mẹ mỉm cười: - Đúng, Laura, đúng thế. Cả anh cũng có lí, Charles. Dĩ nhiên, mình sẽ ở lại. Bố nói: - rồi, Caroline. Nhưng theo một cách hiểu nào đó thì cũng có lẽ chúng ta không ở lại là hơn. Anh được biết là khắp quanh đây mình không có một người nào ở gần. Người gần nhất cũng cách xa mình tới sáu mươi lăm dặm. Lỡ có chuyện gì xảy ra… Một tiếng gõ cửa đột ngột khiến tất cả đều giật mình. Bố lên tiếng: - Mời vào! Một người đàn ông to béo mở cửa. Ông ta như một bó đầy khăn áo. Bộ râu ngắn ngủn của ông màu đen, má ông đỏ au và cặp mắt đen không khác cặp mắt em bé da đỏ mà trước đây Laura đã nhìn thấy ở vùng đất của người da đỏ và không khi nào quên. Bố nói: - Chào Boast! Tới gần lò sưởi đi, tối nay lạnh. Đây là vợ và các con tôi. Anh Boast đã sắp xếp một nông trại ở vùng này. Anh ấy đang làm việc đắp nền đường sắt. Mẹ đẩy một chiếc ghế kế bên lò sưởi cho ông Boast và ông giơ hai bàn tay lên hơ cho ấm. Một bàn tay của ông có buộc băng. Mẹ ân cần hỏi: - Bàn tay anh bị thương sao? Ông Boast nói: - Chỉ bị trặc thôi, nhưng hơi lửa ấm khiến dễ chịu lắm. Quay về phía Bố, ông nói: - Tôi đang cần được giúp đỡ, Ingalls. Anh còn nhớ cặp ngựa của tôi đã bán cho Pete chứ? Anh ta đã trả tôi một phần và hứa trả dứt số còn lại vào ngày lương sau. Nhưng anh ta cứ trì hoãn hoài và lúc này chẳng có cách gì cản nổi anh ta không đem cặp ngựa chuồn đi. Tôi đã đuổi theo đòi ngựa lại nhưng con trai anh ta cùng với anh ta lật mặt gây gỗ. Tôi không muốn đập lộn với hai người cùng một lúc và với một bàn tay khập khễnh thế này. Bố nói: - Hai chúng ta có lẽ đủ khả năng giải quyết sự việc. Ông Boast nói: - Tôi không có ý như thế. Tôi không muốn gây lộn xộn. Bố hỏi: - Vậy tôi dự phần ở đâu? - Tôi đang suy nghĩ. ở đây không có luật pháp, không có cách nào yêu cầu đòi nợ, không có cảnh sát, không có cả toà án địa phương. Nhưng có lẽ Pete không biết điều đó. Bố nói: - A ha! Anh muốn tôi chế ra một số giấy tờ để tống đạt cho anh ta? Ông Boast nói: - Tôi đã kiếm được một người sẽ đóng vai cảnh sát trưởng để đưa các giấy tờ đó. Mắt ông sáng hẳn lên như mắt Bố nhưng không hoàn toàn giống. Mắt ông Boast nhỏ hơn và đen còn mắt Bố lớn và màu xanh lơ. Bố đập mạnh tay lên đầu gối cười lớn: - Trò đùa tuyệt vời! Thật may là tôi còn giữ được một chiếc mũ lưỡi trai thứ thiệt. Tôi sẽ làm giấy tờ ngay, Boast! Còn anh đi kiếm cảnh sát trưởng của anh đi! Ông Boast hối hả quay ra trong lúc Mẹ và Laura vội vã dọn sạch bàn. Bố ngồi vào một góc và viết trên một tờ giấy lớn với đường kẻ đỏ xung quanh. Cuối cùng Bố nói: - Đó! Trông thật long trọng! Và hoàn thành đúng lúc. Ông Boast đang gõ cửa. Một người đàn ông khác cùng đi với ông ta choàng một chiếc khăn choàng rộng, mũ lưỡi trai kéo sụp xuống tới mắt và quấn khăn kín cả cổ lẫn miệng. Bố nói với người đó: - Ngài cảnh sát trưởng đã có mặt rồi! Hãy tống đạt án lệnh này và đem về hoặc tiền hoặc ngựa, chết hay sống cùng với án phí theo luật định! Tiếng cười của mấy người làm rung chuyển căn lều. Bố ngắm chiếc mũ lưỡi trai và chiếc khăn quấn che hết mặt người đàn ông kia và nói: - May cho ngài là đêm nay lạnh, thưa ngài cảnh sát trưởng! Khi hai người đàn ông bước ra khép cửa lại, Bố ngừng cười và nói với Mẹ: - Đó là người chỉ huy đám nhân viên dịch lộ. Trong đêm, giọng nói của ông Boast và Bố đánh thức Laura. Từ khung cửa ông Boast đang nói: - Tôi thấy anh còn để đèn nên ghé lại cho anh hay về công việc. Pete kinh hãi tới mức giao cả tiền lẫn ngựa. Tay phạm nhân này quả là rất sợ pháp luật. Đây là số án phí, Ingalls. Ông dịch lộ không lấy gì cả. Ông ta nói sự thú vị của vụ việc mà ông ta được hưởng lớn hơn bất cứ số tiền nào. Bố nói: - Anh cứ giữ lấy phần của ông ta. Tôi chỉ lấy phần của tôi thôi. Giá trị của phiên toà này cần được duy trì. Khi ông Boast cười thì Laura, Mary, Carrie và cả mẹ đều bùng lên cười theo. Không ai kìm lại nổi. Bố cười sang sảng như chuông ngân, nhưng tiếng cười của ông Boast khiến mọi người cười dữ hơn. Mẹ phải nhắc: - Thôi, mình sẽ phá giấc của Grace mất. Carrie hỏi: - Trò chơi gì vậy? Cô đã ngủ trước đó và chỉ nghe thấy tiếng cười của ông Boast. Mary hỏi cô bé: - Vậy em đang cười cái gì? Carrie đáp: - Tiếng cười của ông Boast làm em phát nhột. Buổi sáng, ông Boast tới cùng ăn điểm tâm. Trại đã dọn đi và ở đây không còn nơi nào khác để ăn uống. Người chỉ huy đám dịch lộ đã lên xe đi về miền đông sáng hôm đó và người lái xe tải cuối cùng đã qua. Ông Boast là người cuối cùng ra đi. Ông phải chờ cho bàn tay lành hẳn để có thể điều khiển nổi cặp ngựa. Sáng hôm đó, bàn tay ông ta còn đau vì đã thấm lạnh trong đêm, nhưng ông ta phải về tới miền đông bằng mọit cách. Ông ta đi tới Iowa để cưới vợ. Ông ta nói: - Tôi không biết chắc gia đình anh có ở lại đây trọn mùa đông không nhưng tôi sẽ đưa Ellie trở lại đây nếu chúng tôi lo xong mọi chuyện trước khi bắt đầu mùa đông. Bố nói: - Rất mừng sẽ có anh, Boast ạ! Mẹ cùng nói: - Dứt khoát là chúng tôi ở lại. Rồi tất cả nhìn theo cỗ xe của ông Boast và lắng nghe tiếng xe tắt dần trên đường xe ngựa dẫn về miền đông. Lúc này khắp đồng cỏ trống hoe và trên bầu trời lạnh không có bóng một bầy chim nào. Ngay khi cỗ xe của ông Boast rời khỏi tầm mắt, Bố dắt ngựa và đưa xe tới cửa. Bố gọi: - Tới thôi, Caroline! Không còn ai ở trong trại ngoài chúng mình và bữa nay là ngày dọn nhà. Chương 14: Ngôi Nhà Của Nhân Viên Dịch Lộ Không cần phải đóng gói đồ đạc vì ngôi nhà của nhân viên dịch lộ trên bờ hồ phía bắc chỉ cách căn lều khoảng nửa dặm. Laura nôn nóng muốn được thấy ngôi nhà ngay. Khi cô giúp xếp gọn các thứ vào thùng xe thì Mary, Carrie cùng Mẹ và Grace đã ngồi trên xe. Laura nói với Bố: - Con chạy bộ tới trước được chứ? Mẹ lưỡng lự: - Có lẽ, Laura. Mà Charles này, anh có nghĩ… Bố nói: - Không có gì ghê gớm đâu. Mình luôn nhìn thấy nó trên suốt đường đi mà. Cứ theo bờ hồ nghe, Nhà-kho-vỗ-cánh. Đừng lo, Caroline! Mình sẽ có mặt ở đó trong một thoáng thôi. Thế là Laura chạy lên trước. Cô chạy thẳng tới ngược chiều gió thổi đều đặn. Chiếc khăn san bay phần phật về phía sau và gió lạnh tràn qua người cô. Cô cảm thấy máu mình vơi đi và giá buốt trong gió rồi cô lại cảm thấy nó ấm lên và chảy thật mạnh trong khi hơi thở rộn rã trong ngực cô. Cô chạy qua những đống đồ hư ở nơi đã dựng trại. Mặt đất cứng ngắt với những bàn chân nện xuống và thô nhám với lớp cỏ khô. Không có một ai khác ở bất kì nơi nào gần đó. Lúc này mọi người đều đã đi hết. Đồng cỏ là một khoảng rộng mênh mông dưới bầu trời bao la với những đợt gió trong lành tự do vùng vẫy. Ngay cả cỗ xe lúc này cũng bị bỏ lại sau lưng cô. Nhưng cỗ xe đang tiến tới. Laura quay nhìn lại và Bố đưa tay vẫy cô. Khi ngừng chạy, cô nghe thấy tiếng gió đùa trong cỏ và tiếng nước vỗ vào bờ hồ. Cô phóng nhảy trên những bụi cỏ khô dọc theo bờ hồ và có thể la lớn nếu thích. Không một ai khác có mặt ở đây. Cô hô: - Đây là của mình! Tất cả là của mình! Tiếng hét có vẻ lớn ở trong họng nhưng lại nhẹ nhàng trong không khí. Có lẽ gió đã đưa nó đi xa. Hoặc là sự tĩnh lặng của trời đất trống hoang không bị xáo động. Ủng của những nhân viên dịch lộ đã mở một lối đi trên cỏ. Lối đi phẳng về mềm mại dưới bàn chân Laura. Cô cúi thấp đầu đã trùm khăn trong gió và hối hả bước dọc lối đi. Được tận mắt nhìn toàn bộ ngôi nhà của nhân viên dịch lộ thật là điều thú vị. Ngôi nhà đột ngột hiện ra ngay phía trước cô. Đó là một ngôi nhà lớn, một ngôi nhà thật sự với hai tầng và những cửa sổ lồng kính. Những tấm ván vách được dựng đứng màu vàng đã trở thành màu xám và mọi kẽ hở đều được đóng bịt, đúng như Bố đã nói. Cửa ra vào có một nắm đấm bằng sứ. Nó mở vào gian chái kéo đến tận cửa sau. Laura mở cửa và ghé mắt nhìn vào. Rồi cô đẩy cánh cửa lại theo dấu vạch cong trên nền ván và bước vào. Nền ván của ngôi nhà không thoải mái cho những bàn chân trần như nền đất của căn lều nhưng sẽ không mất nhiều công giữ sạch. Căn nhà vắng vẻ dừng như đang chờ đợi và nghe ngóng. Nó có vẻ nhận biết sự có mặt của Laura nhưng nó không có một ý nghĩ gì về cô. Nó đang chờ coi. Gió vẫn đang quật trên những bức vách tạo thành một âm thanh đơn điệu ở bên ngoài ngôi nhà. Cô nhón gót qua gian chái và mở một khung cửa ở một phía xa hơn. Laura ngắm gian tiền sảnh rộng rãi. Những tấm vách ván ở đây còn giữ nguyên màu vàng ở phía trong và nắng từ cửa sổ phía tây rọi vàng trên nền. Một lớp sáng nhạt từ cửa sổ rọi qua phía đông gần cửa ra vào phía trước. Nhân viên dịch lộ đã để bếp lò lại! Bếp lò này lớn hơn bếp lò đã được mua cho Mẹ ở suối Plum, có tới sau nắp vung ở phía trên, có hai cửa lò hấp và đứng sẵn sàng tại chỗ cùng với một ống khói lò. Cách khoảng đều trên bức vách phía bên kia lò là ba khung cửa ra vào. Tất cả đều đóng kín. Laura tiếp tục nhón bước qua nền sàn rộng và khẽ mở một khung cửa. Đó là một căn phòng nhỏ với một chiếc giường ở bên trong. Căn phòng này cũng có một cửa sổ. Một cách nhẹ nhàng, Laura mở khung cửa chính giữa. Cô sững sờ. Sừng sững trước mắt cô là một cầu thang có bề rộng bằng với khung cửa. Cô nhìn lên và thấy phía dưới cửa một mái nhà nghiêng nằm cao ở trên đầu. Cô bước lên vài bước và một gian gác lớn mở ra cả hai bên cầu thanh. Gác lớn gấp hai lần căn phòng lớn ở tầng dưới. Mỗi đầu hồi gác đều có một cửa sổ để chiếu sáng toàn thể mặt gác trống dưới mái nhà. Ngôi nhà đã có ba phòng và vẫn còn một khung cửa khác. Laura nghĩ mình phải có rất đông nhân viên dịch lộ nên mới cần một diện tích nhà rộng như thế. Ngôi nhà rộng vượt bực so với ngôi nhà lớn nhất mà cô từng được sống. Cô mở khung cửa thứ ba. Một tiếng kêu kinh ngạc buột ra khỏi khỏi miệng cô làm căn nhà đang nghe ngóng giật mình. Trước mắt cô là một nhà kho nhỏ. Khắp các vách của gian phòng nhỏ này là những kệ giá trên đó có đủ đĩa, chảo, bình, hộp, thùng. Khắp xung quanh phòng phía dưới các kệ giá là những chiếc thùng và hộp. Chiếc thùng đầu tiên gần như đầy tràn bột mì. Thùng thứ hai đựng bột bắp. Thùng thứ ba có một nắp đậy kín và đầy những tảng thịt heo béo ngậy, trắng phau dầm trong lớp nước muối màu sậm. Laura chưa từng nhìn thấy có nhiều thịt heo ướp muối như thế. Có một thùng bằng gỗ đầy loại bánh qui dòn vuông vức và một thùng đầy những miếng cá ướp muối. Còn có một thùng lớn táo khô và hai túi khoai tây cùng một bịch lớn gần như đầy ắp đậu. Cỗ xe đã lăn tới trước cửa. Laura chạy ra la lên: - Ôi, mau lên vào xem, Mẹ ơi! Có đủ mọi thứ… một căn gác rộng mênh mông, Mary! Một lò bếp rồi có đủ thứ bánh qui dòn, bánh qui mặn! Mẹ nhìn mọi thứ và vui vẻ: - Đẹp tuyệt thật! Và sạch sẽ nữa. Mình có thể yên ổn ở đây một thời gian. Đưa chổi cho Mẹ, Carrie. Bố thậm chí không phải đặt lò. Lò bếp của Mẹ được Bố cất trong gian chái phía ngoài cửa sau, nơi chứa than. Rồi trong lúc Bố nhóm, mấy mẹ con sắp đặt bàn ghế trong gian nhà trước rộng rãi. Mẹ đặt chiếc ghế đu của Mary gần cửa lò hấp để ngỏ. Hơi nóng từ trong lò toả ra và trong một góc ấm áp, Mary ắm Grace, đùa với bé để giữ bé không làm vướng Mẹ cùng Laura và Carrie đang bận rộn. Mẹ đặt một chiếc nệm lớn lên khung giưòng trong phòng ngủ. Quần áo của Mẹ và Bố được treo trên những đinh móc trên bức vách ở đó và được phủ gọn gàng dưới một tấm chăn. Tầng trên là căn gác rộng thấp được đặt hai tấm nệm trên những khung giường ở đó, một cho Carrie, còn một cho Laura và Mary. Rồi các cô mang lên gác tất cả các thùng đồ của mình và quần áo. Quần áo được treo ở bức vách đầu hồi bên cạnh cửa sổ còn các thùng đồ thì để dưới quần áo. Mọi thứ đều đã gọn ghẽ nên các cô quay xuống giúp Mẹ lo bữa ăn tối. Bố trở về mang theo một hộp đồ lớn, thấp được gói kín. Mẹ hỏi: - Chi vậy, Charles? Bố đáp: - Chiếc giường lăn của Grace. Mẹ kêu lên: - Đúng là thứ duy nhất mình đang cần. Bố nói: - Các cạnh đều đủ cao để giữ chăn đắp ở trong. Mẹ nói: - Nhưng cũng phải đủ thấp để lùa vào dưới gầm giường của mình lúc ban ngày như mọi chiếc giường lăn khác chứ. Laura và Carrie làm một nệm nằm nhỏ cho Grace trên chiếc giường lăn và lùa nó vào dưới gầm giường lớn để chờ đến đêm mới kéo ra. Việc dọn nhà đã xong. Bữa ăn tối giống như một bữa tiệc. Những chiếc dĩa xinh xắn của các dịch lộ khiến bàn ăn trở thành hào nhoáng. Món dưa leo dầm từ một chiếc hũ do các nhân viên dịch lộ để lại làm cho món vịt quay đang bốc khói và món khoai tây chiên có một hương vị khác hẳn. Sau khi cả nhà ăn xong, Mẹ bước vào kho đồ ăn mang ra một thứ và hỏi: - Đoán thử là gì đây? Mẹ đặt trước mỗi người một dĩa nhỏ đào hộp và hai chiếc bánh qui. Mẹ nói: - Mình phải ăn mừng để kỉ niệm ngày lại được sống trong một ngôi nhà. Không còn gì tuyệt hảo hơn được ngồi ăn ở một nơi rộng rãi như thế với nền sàn dưới chân và những ô kính cửa sổ phản chiếu ngăn chặn màn đêm ở phía ngoài. Hết sức từ từ, họ ăn những trái đào mềm, mát rượi thấm đẫm chất nước ngọt màu vàng óng và cẩn thận liếm sạch những chiếc muỗng. Rồi chén dĩa mau chóng được dọn dẹp và rửa trong phòng làm việc vặt. Tấm ván mặt bàn được hạ xuống với tấm vải kẻ ô vuông trắng-đỏ phủ lên và cây đèn sáng được đặt chính giữa. Mẹ cùng bé Grace ngồi gọn trên chiếc ghế đu và Bố nói: - Khung cảnh này khiến cảm thấy thích âm nhạc. Mang hộp đàn cho Bố, Laura. Bố chỉnh lại dây đàn và chuốt nhựa chiếc vĩ. Những tối mùa đông lại đang về khi Bố chơi đàn. Bố nhìn khắp mọi người một cách hài lòng rồi nhìn những bức vách kiên cố giữ cho họ được thoải mái. Mẹ nói: - Chắc em phải dùng những tấm màn che làm một cái gì đó. Bố đặt chiếc vĩ lơ lửng trên dây đàn, nói: - Caroline, em không thấy là người hàng xóm gần nhất ở phía đông của mình cách xa tới sáu mươi dặm còn gần nhất ở phải tây là bốn mươi dặm sao? Khi mùa đông kéo tới thì họ càng trở nên xa cách hơn nữa. Mình sẽ sống trong thế giới riêng của mình. Hôm nay anh đã nhìn thấy một đám ngỗng trời bay thật cao và hết sức nhanh. Chúng không ngừng lại ở bất kì hồ nước nào mà vội vã bay về phía nam. Hãy nhìn anh giống như đàn chim cuối mùa đó. Ngay cả khi đàn chim đã rời chúng mình. Chiếc vĩ cầm của Bố chạm dây đàn Bố bắt đầu đàn, Laura khẽ cất tiếng hát: Gió lạnh hơn khi màn đêm buông xuống Thổi tê người trên đồng trống hoang vu Cô gái trẻ Mary mang con bước tới Tìm nhà cha trong đêm tối mịt mù Mau mở cửa, xin cha mau mở cửa Tội nghiệp con đơn độc giữa gió mưa Con của con đang rét run hấp hối Gió điên cuồng trên đồng trống hoang vu Người cha điếc không nghe lời kêu cứu Không một âm thanh lọt thấu căn nhà Những con chó tru lên giận dữ Rồi tiếng chuông báo tử ngân nga Và gió lạnh vẫn thổi qua đồng trống … Bố ngừng đàn, nói: - Bài hát không hợp! Bố đang nghĩ điều gì đây! Ở đây lúc này phải hát ca ngợi một cái gì thật tương xứng. Tiếng đàn của Bố vui tươi hơn và Bố hát hoà theo. Laura, Mary và Carrie cũng hát theo và hát thật lớn: Một khoảng khắc phiêu du Vài nỗi buồn trước mắt Đáng gì mà phiền trách Khua chèo đưa thuyền đi Chẳng cần ước với mong Nợ nần không vướng mắc Lánh xa vòng tranh chấp Thuyền ta xuôi theo dòng Yêu người như yêu ta Thế giới thành gang tấc Đừng thèm rơi nước mắt Đưa thuyền tới bến xa Bố nói: - Đó là điều mà mình đang làm trong mùa đông này. Và trước đây mình cũng đã nhiều lần làm thế, phải không Caroline? Mẹ tán thành: - Đúng đó, Charles, và không phải lúc nào mình cũng thoải mái và hoàn toàn no đủ. Bố vừa chỉnh lại dây đàn vừa nói: - mọi thứ đều kín mít như rận trong chăn. Anh đã chất các túi lúa mạch ngang một đầu chuồng để tạo khoảng trống nhỏ cho bò, ngựa. Chúng cũng có những thứ mà chúng ta có thể ăn và hoàn toàn ấm áp, thoải mái. Phải, mình phải cảm ơn về những điều có được. Rồi Bố lại chơi đàn. Bố chơi liên tục đủ các điệu, nhạc Jig, rồi nhạc Tô Cách Lan, điệu hải vũ và hành khúc. Mẹ đã đặt bé Grace vào chiếc giường có bánh lăn và đóng cửa. Rồi Mẹ ngồi đung đưa lắng nghe tiếng đàn. Mẹ cùng Mary, Laura, Carrie lắng nghe cho tới khi tất cả đều chìm ngập trong tiếng nhạc. Không ai nhắc tới giờ đi ngủ vì đây làm đêm đầu tiên được sống trong ngôi nhà mới của riêng mình trên đồng cỏ. Cuối cùng, Bố đặt cây đàn và chiếc vĩ vào trong hộp đàn. Khi Bố vừa chợp mắt thì một hú đơn độc, buồn nản, kéo dài vọng lại từ trời đêm ở bên ngoài cửa sổ. Tiếng hú ở rất gần. Laura phóng xuống. Mẹ lao tới dỗ Grace giật mình khóc hét lên trong phòng ngủ. Carrie ngồi nhợt nhạt với những con mắt tròn mở lớn. Laura nói: - Đó… đó chỉ là một con sói! Bố lên tiếng: - Đó, đó! Anh bạn đó ngỡ rằng từ trước chưa ai ở đây được nghe tiếng sói hú. Này, Caroline, cửa chuồng được cột kĩ lắm. Chương 15: Người Cuối Cùng Ra Đi Sáng hôm sau trời nắng nhưng gió lạnh hơn và cảm giác là sẽ có bão. Bố đã làm xong công việc thường lệ trở về đang hơ ấm bàn tay trên lò bếp trong lúc Mẹ và Laura dọn bàn ăn sáng thì mọi người nghe thấy tiếng xe lăn rầm rập. Tiếng xe ngừng ngay trước cửa. Người lái xe kêu lớn và Bố bước ra. Qua cửa sổ, Laura thấy Bố đang nói chuyện trong gió lạnh. Lát sau, Bố quay vào, vội vã khoác áo, mang găng tay và nói: - Tụi anh đi gặp một người hàng xóm mà tới đêm qua anh vẫn không biết. Một ông già bệnh, sống trơ trọi một mình. Anh đi ngay và sẽ kể lại mọi chuyện vào lúc trở về. Bố lái xe đi với người lạ và trở về vào một hồi lâu sau: - Rrrr! Lạnh dữ quá! Bố vừa liệng áo khoác, găng tay lên ghế vừa nghiêng mình sưởi ấm trên lò bếp không kịp cởi khăn choàng và nói: - Tốt, đã xong một việc làm tốt. Bố kể: - Người lái xe là người cuối cùng đi qua. Anh ta đi một mạch từ sông Jim tới và không thấy một bóng người nào. Mọi người dọc đường đều đã đi hết. Đêm qua, anh ta bỗng nhìn thấy một đốm sáng cách nền đường xe lửa chừng hai dặm về phía bắc nên lái xe tới hy vọng tìm được một chỗ nghỉ qua đêm. Thế đấy, Caroline! Anh ta tìm được một căn lều theo yêu cầu và một ông già ở một mình. Tên ông già là Woodworth. Ông bị bệnh lao phổi và tới đây để điều trị bằng không khí đồng cỏ. Ông ta đã sống theo đúng qui định trọn mùa hè và sẽ ở lại hết mùa đông. Nhưng ông ta suy sụp quá và người lái xe muốn đưa ông ta đi khỏi đây. Anh ta nói đây là dịp may cuối cùng của ông già, nhưng Woodworth không chịu đi. Khi nhìn thấy khói bếp của mình vào sáng mai, anh ta mới ghé lại để coi có thể kiếm được ai giúp anh ta cùng thuyết phục ông già. Caroline, ông già chỉ còn xương với da. Vậy mà ông ấy cứ khăng khắng bám dính vào cái phương thuốc đồng cỏ. Ông ấy nói chỉ dẫn của bác sĩ là điều dứt khoát phải tuân thủ. Mẹ nói: - Nhiều dân quê ở các vùng vẫn làm như thế. - Ừ, anh biết, Caroline. Nếu quả đúng như thế thì anh mong đồng cỏ này sẽ chỉ dành làm một điều duy nhất là trị bệnh lao phổi. Nhưng, nếu em được nhìn thấy ông già, Caroline. Ông ấy không còn ra hình dạng gì để có thể ở lại một mình trong căn lều theo yêu cầu cách xa láng giềng tới mười lăm dặm. Chỗ dành cho ông ấy phải là ở bên cạnh người thân trong gia đình. Thế là anh và người lái xe xốc ông ấy lên, chất ông ấy cùng với tất cả đồ đạc vào thùng xe. Nhấc ông ấy vào thùng xe dễ như nhấc Carrie ở đây vậy. Cuối cùng, ông ấy cũng mừng là được ra đi. Ông ấy phải ở trong tầm mắt chăm sóc của những người thân ở miền đông. Mẹ bỏ thêm than vào lò, nói: - Ông ấy sẽ chết cóng trên thùng xe vào một ngày lạnh như thế này. - Ông ấy được mặc rất ấm, có áo choàng tốt. Bọn anh còn quấn phủ ông ấy trong mấy tấm chăn và hơ nóng một bao lúa mạch để giữ ấm bàn chân ông ấy. Ông ấy sẽ ổn thôi. Người lái xe là một bạn đồng hành tuyệt vời. Nghĩ tới ông già cùng với người lái xe cuối cùng, Laura thấy khắp vùng thực sự trở nên vô cùng hoang vắng. Họ sẽ phải mất hai ngày đường để tới được sông Big Sioux. Suốt đường giữa sông Big Sioux và sông Jim không có một bóng người nào, ngoại trừ mấy người ở trong căn nhà này, căn nhà của các nhân viên dịch lộ. Laura hỏi: - Bố, sáng nay Bố có thấy dấu vết chó sói không? Bố nói: - Có, đầy hết, khắp xung quanh khu chuồng. Dấu lớn lắm. Chắc là sói trâu. Nhưng chúng không thể vào chuồng nổi. Chim chóc đã bay hết về miền nam linh dương cũng sợ những người làm đường sắt, trốn xa từ lâu nên chó sói cũng phải kéo đi. Chúng không thể ở lại một nơi không có gì cho chúng giết làm mồi. Sau bữa ăn sáng, Bố đi thăm chuồng và ngay khi làm xong việc nhà, Laura cũng choàng khăn tới đó. Cô muốn thấy dấu vết chó sói. Cô chưa bao giờ nhìn thấy dấu vết lớn và sâu như vậy. Những con sói này phải rất lớn và rất nặng. Bố nói với cô: - Sói trâu là loại sói lớn nhất trên đồng cỏ và rất dữ dằn. Bố ghét đối mặt với một con sói trâu mà không có súng trong tay. Bố xem xét chuồng rất kĩ, coi lại từng tấm ván có được đóng đinh chắc chắn không. Bố đóng thêm một lớp đinh mới nữa cho vách chắc hơn và làm một then cài phía trên cửa. Bố nói: - Nếu then kia bị gẫy thì vẫn còn then này giữ chắc. Tuyết bắt đầu rơi trong lúc Laura đưa đinh cho Bố đóng. Gió gầm hú thổi dữ dội, nhưng không phải là loại gió xoáy trong bão tuyết. Tuy nhiên, trời lạnh tới mức hai bố con không nói chuyện nổi. Vào bữa ăn tối trong căn nhà ấm áp, Bố nói: - Anh không tin là những ngày đông ở đây lại tồi tệ quá. Có vẻ như những trận bão tuyết đã được sắp đặt để kéo dài qua phía tây Minnesota. ở đây mình nằm xa hơn về miền tây và người ta vẫn nói ba độ ở miền tây mới bằng một độ ở miền Nam. Sau bữa ăn, cả nhà quây quần sưởi ấm quanh lò bếp. Mẹ khẽ đu đưa bé Grace và Laura mang hộp đàn tới cho Bố. Lúc này những tối mùa đông hạnh phúc đã bắt đầu. Bố cất tiếng hát theo đàn: Bạn ta ơi, những anh hùng thân thiết Hãy kề vai xích lại bên nhau Tiếng tự do mời chào ta đoàn kết Nối vòng tay huynh đệ tới bạc đầu Ta đi tới Hoà bình, No ấm Chào Columbia, đất hứa dài lâu. Bố ngắm Mary đang ngồi lặng lẽ với cặp mắt thật đẹp trống rỗng, úp hai bàn tay trên chiếc ghế đu gần lò bếp. - Bố sẽ chơi bài gì cho con, Mary? - Con thích nghe bài “Sơn nữ Mary”, Bố. Bố chơi nhẹ nhẹ một khúc ngắn rồi nhắc: - Nào! Hát lên! Mary! Và cả hai cùng hát: Nụ tươi hương ngọt chồi xanh Đào gai khoe cánh trên cành nở hoa Dưới bao bóng mát la đà Tay ta ôm chặt một toà yêu thương Thiên thần nâng phút giây vàng Vút bay bay mãi đôi đường thẳm xa Người yêu ơi, cuộc đời ta Mary Sơn nữ đoá hoa ngọt ngào! - Hay tuyệt! Mary nói khi nốt nhạc cuối cùng tắt hẳn. Laura lên tiếng: - Hay nhưng buồn quá! Con thích bài “Tiến qua Rye”. Bố nói: - Bố sẽ chơi bài đó. Nhưng Bố sẽ không hát một mình. Không công bằng chút nào khi Bố phải độc diễn hoài. Thế là tất cả cùng hợp ca bài ca đầy sức sống. Và Laura đứng lên giả bộ như đang bước ngang một dòng suối bằng cách nâng váy lên trên mắt cá chân vừa cười vừa hát: Cô gái đã có chàng công tử bột Cùng thì thầm ta có nhau rồi Các chàng trai theo cười hoài không ngớt Khi nàng bước qua lạch suối nước xuôi Rồi Bố đàn những nốt ngắn, vui tươi và Bố hát: Thuyền trưởng Jinks vui vẻ là ta Của con tàu mang tên Ngựa Biển Ngựa ta sống bằng ngô bằng đậu Và ta đi không kể bến bờ Đường ta đi đầy người đẹp ngây thơ Vì ta là thuyền trưởng Jinks Ngựa Biển Là chiến binh trọn đời chinh chiến Bố gật đầu với Laura và cô hát tiếp theo tiếng đàn: Quảng trường Madison có một người nổi tiếng Phu nhân Jinks đích thực là tôi Gã thuyền trưởng thường tới xin trà uống Tống gã ra khỏi lính ngay thôi Mẹ lên tiếng: - Laura! Charles, anh nghĩ đó là một bài hát hay cho một đứa con gái hát sao? Bố nói: - Nó hát hay lắm mà. Thôi, tới lượt Carrie lo phần của mình. Lại đây với Laura để Bố coi con có thể làm được việc gì. Bố chỉ cho cả hai nắm tay nhau và bước theo một điệu dân ca. Rồi Bố đàn cho cả hay nhảy trong lúc Bố hát: Trước là gót, tiếp theo là ngón Đúng cách này từng bước, bước đi Trước là gót, tiếp theo là ngón Đúng cách này từng bước, bước đi Trước là gót, tiếp theo là ngón… Bố đàn càng lúc càng nhanh và các cô nhảy càng nhanh hơn với những bước cao hơn, tới lui và quay ngược lại cho tới khi các cô hụt hơi, người nóng bừng và cười nắc nẻ: Bố nói: - Bây giờ hãy thử nhảy một chút theo điệu van-xơ. Và tiếng đàn dịu xuống trôi êm như những gợn sóng dài. Bố nhắc: - Chỉ trôi theo nhạc. Rồi Bố hát khe khẽ: Trôi lướt theo tiếng nhạc chơi vơi Lướt êm thật nhẹ đảo người xoay quanh Laura và Carrie nhảy qua phòng rồi lui lại và xoay trong, trong lúc Grace ngồi trong Mẹ tròn xoe mắt nhìn, còn Mary ngồi lặng lẽ lắng nghe tiếng nhạc và tiếng bước chân. Bố nói: - Khá rồi, các con. Mùa đông này mình sẽ khá hơn nữa. Lúc này các con đang lớn và các con phải biết khiêu vũ như thế nào. Cả hai con chắc chắn sẽ là những người nhảy rất giỏi. Laura kêu lên: - Ôi, Bố, đừng ngưng vội! Bố nói: - Quá giờ ngủ lâu rồi. Vả lại còn rất nhiều những buổi tối ấm áp cho tới khi mùa xuân trở lại. Một làn hơi lạnh buốt ùa xuống cầu thang khi Laura mở cửa. Cô vội vã bước lên cầu thang với cây đèn sáng và phía sau cô Mary cùng Carrie cũng hối hả. Chỉ có một ít hơi ấm quanh ống khói từ phòng dưới toả lên và các cô gom lại đó thay quần áo với những ngón tay run rẩy kéo những chiếc áo ngủ dài. Tất cả đều rét run lập cập trong lúc chui vào những chiếc giường lạnh ngắt và Laura thổi tắt đèn. Trong bóng tối, cô và Mary vòng ôm nhay và dần dần những tấm chăn không còn lạnh nữa. Màn đêm đen đặc xung quanh căn nhà dâng lên cao mãi và toả rộng khắp nơi xoá nhoà tất cả ngoại trừ tiếng gió đơn độc. Laura thì thào: - Mary, em đoán là lũ sói đã đi rồi. Không còn nghe tiếng hú của chúng nữa, đúng không? Mary đáp trong cơn ngái ngủ: - Chị cũng mong như vậy. Chương 16: Những Ngày Mùa Đông Thời tiết lạnh buốt hơn, hồ Nước Bạc đã đông giá. Tuyêt rơi nhưng gió luôn quét sạch mặt băng, thổi tuyết dồn về những đám cỏ cao trong đầm lầy xếp thành những đợt sóng trên các dải bờ thấp. Trên khắp đồng cỏ không có thứ gì cử động ngoài tuyết bay và chỉ có một âm thanh duy nhất trong cái tĩnh lặng mênh mông là tiếng gió. Trong căn nhà ấm áp, Laura và Carrie giúp Mẹ dọn dẹp còn Grace chạy quanh quẩn trong gian phòng rộng với những bước đi chập chững. Mỗi khi không thích chơi, bé tới leo lên lòng Mary vì đó là nơi ấm nhất và Mary luôn kể chuyện cho bé nghe. Grace lặng nghe kể chuyện trong lúc chìm vào giấc ngủ. Rồi Mẹ đặt bé vào chiếc giường lăn bên cạnh lò bếp và tất cả có một buổi chiều êm ả với các việc may vá, thêu đan. Bố đã làm xong công việc thường lệ và đã thăm những chiếc bẫy đặt dọc bờ đầm Big Slough. Bố ở trong gian chái lột da những con cáo, những con sói cỏ, những con cầy hương căng lên ván để phơi khô. Đồng cỏ hoang vắng, và lạnh lẽo tới mức Mary không đặt chân ra ngoài. Cô thích ngồi khâu vá trong căn nhà ấm áp, dễ chịu thực hiện những mũi khâu li ti với cây kim mà Laura xâu chỉ giúp. Tới lúc chập choạng tối, Mary vẫn không ngừng khâu. Cô nói với Laura: - Chị có thể khâu vào lúc em không còn nhìn thấy gì, bởi vì chị nhìn bằng ngón tay. Laura nói: - Lúc nào chị cũng khâu đẹp hơn em. Chị luôn luôn như vậy. Ngay cả Laura cũng thích những buổi chiều êm ả ngồi đung đưa chiếc ghế đu, khâu đan và trò chuyện một chút, dù không khi nào cô thật sự vui với việc khâu đan như Mary. Thường thì cô luôn bồn chồn khi ở trong nhà. Lúc đó, cô đi từ cửa sổ này qua cửa sổ khác ngắm những đợt tuyết xốp và lắng nghe tiếng gió cho tới khi Mẹ dịu dàng nhắc: - Thú thực là Mẹ không biết cái gì làm con mê mệt như vậy, Laura. Khi có nắng thì lạnh không còn là vấn đề và Laura phải ra ngoài. Chỉ chờ Mẹ gật đầu cho phép là cô và Carrie choàng áo, đội mũ, mang giày, đeo găng, trùm khăn lao ra để lướt trên mặt hồ Nước Bạc. Nắm chắc tay nhau, các cô chạy một đoạn đường ngắn rồi lướt trên mặt băng phẳng lì tối xẩm. Mới đầu chỉ bằng một chân, rồi thêm chân kia, các cô lui tới vừa chạy vừa lướt đi tới mức hụt hơi nhưng người ấm lên và cười không dứt. Những ngày hào hứng nhất là khi các cô ra ngoài trời trong cái lạnh như cắt. Rồi thật là tuyệt vời với việc trở về ngôi nhà ấm áp, thân thiết để ăn bữa tối ngon lành và qua buổi tối trong tiếng nhạc, lời ca cùng với những điệu múa. Laura là người cảm thấy sung sướng nhất so với tất cả. Một ngày có bão, Bố mang một tấm ván rộng, vuông vức đặt bên lò bếp. Với cây bút chì, Bố kẻ thành những ô vuông nhỏ trong các đường viền rõ ràng. - Bố đang làm gì vậy, Bố? Laura hỏi và Bố đáp: - Chờ rồi coi! Bố nung đỏ đầu một que cời than và cẩn thận đốt cháy đen từng ô vuông nhỏ xen kẽ. Laura nói: - Tính tò mò giết chết một con mèo đó, Bố. Bố nói: - Trông con khá khoẻ. Bố như cố tình trêu chọc, ngồi chuốt đẽo cho tới khi làm xong hai mươi bốn mảnh gỗ nhỏ vuông vức. Bố đặt một nửa số lên trên lò bếp nóng cho tới khi chúng biến thành màu đen. Lúc đó, Bố xếp tất cả những mảnh gỗ vuông đó vào các ô vuông trên tấm ván và đặt tấm ván lên đầu gối. Bố nói: - Coi này, Laura! - Coi gì, hả Bố? - Đây là những con cờ và đây là một bàn cờ, kéo ghế lại đây và Bố sẽ chỉ cho con cách chơi cờ. Cô học mau đến nỗi chưa dứt cơn bão đã thắng Bố một ván. Nhưng sau đó, trò chơi không được chơi nhiều. Mẹ không muốn chơi, Carrie cũng vậy nên sau một ván, Bố đã cất luôn bàn cờ. Bố nói: - Cờ là một trò chơi ích kỷ vì chỉ có hai người tham dự. Mang đàn lại cho Bố, Nhà-kho-vỗ-cánh. Chương 17: Những Con Sói Trên Hồ Nước Bạc Một đêm trăng chiếu sáng vằng vặc. Mặt đất là một màn trắng vô tận và êm gió. Phía ngoài mỗi ô cửa sổ là một dải màu trắng trải dài trong sương giá lấp lánh và nền trời là một vòm sáng uốn cong. Laura không thể ngồi lại với một thứ gì. Cô không thích các trò chơi, thậm chí không nghe nổi tiếng đàn của Bố. Cô không muốn khiêu vũ mà chỉ cảm thấy cần lướt đi. Cô phải tới một nơi nào đó. Cô lên tiếng đột ngột: - Carrie! Ra trượt băng đi! Mẹ ngạc nhiên: - Giữa đêm thế này hả, Laura? Laura đáp: - Bên ngoài sáng quá. Sáng như ban ngày vậy. Bố nói: - Ổn cả mà, Caroline. Không có gì nguy hại đâu nếu chúng đừng đi xa và đừng để bị tê cóng. Thế là Mẹ nói: - Các con chỉ được đi một lát thôi. Không ở lâu đến mức bị nhiễm lạnh. Laura và Carrie hối hả choàng áo, đội mũ, mang găng. Giầy của các cô đều mới và lót đế khá dày. Vớ dài được Mẹ đan bằng len sợi và đồ lót bằng nỉ đỏ phủ quá đầu gối với một hàng nút cài kín quanh mỗi miệng vớ. Váy lót cũng bằng nỉ dày, ấm rồi áo mặc, áo khoác đều bằng len giống như mũ trùm và khăn quàng. Ra khỏi căn nhà ấm áp, các cô hào hứng tới mức thấy ngứa ran khắp người trong cái lạnh. Các cô chạy qua một đoạn trên lối đi đầy tuyết qua ngọn đồi thấp xuống khu nhà chuồng. Rồi các cô chạy dọc theo lối mòn theo đó Bố vẫn dắt bò ngựa tới uống nước ở một lỗ hổng do Bố cắt mặt băng trên hồ. - Không được tới gần lỗ hổng. Laura nhắc và dắt Carrie chạy dọc bờ hồ cho tới khi chắc chắn đã tránh xa chỗ có lỗ hổng. Rồi các cô dừng lại ngắm trời đêm. Khung cảnh tuyệt vời khiến các cô gần nín thở. Mặt trăng tròn vành vạnh và cực lớn treo lơ lửng trên bầu trời toả sáng chói lọi khắp mặt đất lóng lánh ánh bạc. Xa, thật xa xa về mọi hướng một mặt phẳng im lìm trải rộng rạng sáng tựa hồ từ đó đang dâng lên một làn ánh sáng mờ nhạt. Giữa màn sương, mặt hồ nằm dài tối sẫm, êm ả với một vệt ánh trăng lấp lánh kéo ngang qua. Cỏ cao dựng đứng thành những đường viền đen chặn tuyết rơi trong các đầm lầy. Khu nhà chuồng nằm thấp và tối sẫm gần bờ hồ còn ngôi nhà đứng trên ngọn đồi thấp thành một vệt sẫm nhỏ với ánh đèn vàng từ bên trong cửa sổ le lói dọi qua màn tối. Carrie thì thào: - Yên tĩnh quá chừng. Để ý coi, yên tĩnh quá chừng. Tim Laura căng lên. Cô cảm thấy chính mình là một phần của mặt đất mênh mông, của bầu trời lồng lộng và của ánh trăng vằng vặc. Cô muốn cất cánh tung bay. Nhưng Carrie và đang sợ nên cô nắm chặt bàn tay Carrie nhắc: - Hãy trượt thôi! Bước lên, chạy! Với bàn tay xiết chặt, cả hai chạy một đoạn ngắn. Rồi với bàn chân phải, cả hai lướt trên mặt băng nhanh hơn rất nhiều so với khi chạy. Laura nói lớn: - Theo vệt trăng sáng, Carrie! Hãy theo vệt trăng sáng. Và cứ thế, cả hai chạy rồi lướt đi, rồi chạy, rồi lại lướt đi, theo dải đường lấp lánh dưới ánh trăng bạc. Các cô rời xa bờ hồ, xa thêm mãi tiến thẳng tới dải bờ cao phía bên kia. Các cô xà người xuống giống như đang bay. Nếu Carrie mất thăng bằng thì Laura kéo cô lên. Nếu Laura không đứng vững thì Carrie níu cô lại. Sát mé hồ xa hơn gần như lần vào trong bóng tối của dải bờ cao, cả hai ngừng lại. Một điều gì đó bỗng khiến Laura nhìn lên trên đỉnh bờ. Ở đó, nổi bật trong ánh trăng, một con sói khổng lồ đang đứng. Nó đang nhìn về phía cô. Gió khuấy động bộ lông của nó và ánh trăng như nhảy múa ở đó. - Quay lại mau! Laura nói nhanh trong lúc xoay người kéo Carrie theo: - Chị có thể chạy nhanh hơn em. Cô ráng hết sức chạy rồi lướt rồi lại chạy cực nhanh nhưng Carrie luôn bắt kịp. Carrie hổn hển: - Em cũng nhìn thấy. Một con sói hả? Laura nhắc: - Không nói nữa! Chạy mau! Laura nghe rõ tiếng bàn chân của hai chị em chạy và lướt trên mặt băng. Cô lắng nghe coi có tiếng chân đuổi theo không nhưng không thấy gì. Cả hai tiếp tục chạy và trượt không nói một lời cho tới lúc về tới lối đi bên cạnh chỗ lỗ hổng. Vừa lao trên lối đi, Laura liền ngoái nhìn về phía sau nhưng cả trên hồ lẫn trên bờ đều vắng ngắt. Nhưng cả hai không ngừng chạy, vượt lên ngọn đồi lao tới nhà, các cô mở vội cửa sau phóng vào gian chái. Cả hai chạy qua gian chái lao qua cửa ào vào phòng trước và sập mạnh cửa lại rồi đứng tựa vào cánh cửa, thở dốc. Bố phóng xuống hỏi: - Có chuyện gì? Chuyện gì làm các con sợ vậy? Carrie hổn hển: - phải sói không, Laura? Laura nói như nghẹn thở: - Một con sói, Bố! Con sói lớn khủng khiếp. Con sợ Carrie không thể chạy nổi nhưng nó chạy thật nhanh. Bố nói: - Bố biết nó làm được. Con sói đó ở đâu? Laura nói: - Con không biết. Nó đi rồi. Mẹ giúp các cô cởi bớt áo quần. Mẹ nói: - Ngồi xuống nghỉ đi đã. Các con sắp bứt hơi hết. Bố vẫn muốn biết: - Con sói đó xuất hiện ở đâu? - Trên bờ cao. Carrie nói và Laura thêm: - Bờ cao ở bên kia hồ. Bố kinh ngạc: - Các con tới tận đó sao? Và chạy trở về kịp sau khi nhìn thấy nó! Bố không nghĩ nổi là các con đi xa như thế. Tới gần nửa dặm. Laura nói: - Tụi con đi theo một vệt sáng trăng. Bố nhìn cô một cách lạ lùng và nói: - Thôi, tại Bố nghĩ lũ sói đã đi hết rồi. Chỉ do Bố sơ sót. Ngày mai Bố sẽ săn lùng chúng. Mary ngồi im nhưng mặt cô trắng bệch. Cô gần như thì thầm: - Ôi, các em! Ngộ nhỡ nó chụp được các em! Rồi tất cả đều im lặng trong lúc Laura và Carrie ngồi nghỉ. Laura mừng đã an toàn ngồi trong gian phòng ấm áp cách biệt với đồng cỏ hoang vu ở phía ngoài. Nếu có điều gì xảy ra cho Carrie thì đúng là do cô đã phạm lỗi đưa em đi quá xa tận bên kia hồ. May là không có chuyện gì xảy ra. Cô gần như vẫn còn thấy rõ con sói khổng lồ với bộ lông bị gió thổi xù lên dưới ánh trăng. Cô khẽ lên tiếng: - Bố! Bố hỏi: - Sao, Laura? - Con mong Bố không lùng con sói đó nữa, Bố! Mẹ ngạc nhiên: - Sao lại không? Laura nói: - Vì nó không đuổi theo chúng con. Nó không đuổi theo chúng con, Bố ạ. Vì nó đủ sức bắt kịp chúng con. Một tiếng hú man rợ kéo dài bốc lên và nhỏ dần trong sự tĩnh lặng. Không có một tiếng nào đáp lại. Rồi sự im ắng lại trở lại. Tim Laura hình như loạn nhịp và cô khuỵu xuống. Cô mừng là bàn tay vững cắc của Mẹ đỡ được cánh tay cô. Mẹ khẽ nói: - Tội nghiệp con gái! Con điên khùng như một phù thuỷ và chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Mẹ hơ nóng chiếc bàn ủi trên lò bếp bao kín trong một miếng vải và đưa cho Carrie. Mẹ nói: - Đến giờ ngủ rồi. Đây là chiếc bàn ủi nóng để con hơ ấm bàn chân. Mẹ bọc một chiếc khác và nói: - Còn đây là của con, Laura. Nhớ để ở giữa giường cho bàn chân Mary cũng được hơ ấm. Khi Laura đóng cửa cầu thang, Bố vẫn đang sôi nổi nói với Mẹ. Nhưng Laura không thể nghe rõ Bố đang nói gì vì hai tai cô giống như bị ù đi. Chương 18: Bố Tìm Được Nông Trại Sau bữa ăn điểm tâm sáng hôm sau, Bố xách súng ra đi. Suốt buổi sáng Laura lắng nghe một tiếng súng nổ và thầm mong sẽ không nghe thấy. Cô không ngừng nhớ lại con sói khổng lồ ngồi lặng lẽ dưới ánh trăng lung linh chiếu trên bộ lông dày của nó. Bố trở về ăn trưa khá trễ. Đã quá buổi trưa khi Bố đạp chân rũ tuyết trong gian chái. Bố bước vào đặt súng lên vách và treo mũ, áo vào móc. Bố tháo găng treo ở phía sau lò bếp để hong khô. Rồi Bố rửa mặt và tay trong chiếc thau đặt trên ghế dài, chải râu tóc trước tấm gương nhỏ treo ở trên đó. Bố nói: - Anh xin lỗi là đã để cả nhà phải chờ cơm, Caroline. Anh đã đi xa hơn anh nghĩ. Đi xa hơn anh dự tính. Mẹ đáp: - Không có vấn đề gì, Charles. Thức ăn vẫn còn nóng. Ngồi vào bàn đi, các con. Đừng bắt Bố phải đợi. Mary hỏi: - Bố đi xa cỡ nào, Bố? Bố nói: - Phải nói là xa hơn mười dặm. Dấu vết của lũ sói đó đã dắt Bố vào một cuộc săn đuổi. - Bố có thấy con sói không, Bố? Carrie muốn biết. Riêng Laura không nói gì. Bố mỉm cười với Carrie: - Lúc này không được hỏi han gì. Bố sẽ kể hết mọi chuyện cho nghe. Bố đi ngang qua hồ, theo dấu mà tối qua các con đã kể. Các con có đoán nổi Bố tìm thấy gì ở chô bờ cao mà các con nhìn thấy con sói không? Carrie lên tiếng một cách quả quyết: - Bố tìm thấy con sói. Laura vẫn không nói gì. Thức ăn như nghẹn trong họng cô và khó nuốt trôi một miếng nhỏ nhất. Bố nói: - Bố thấy hang của đám sói. Và dấu vết của những con sói lớn nhất mà Bố được thấy. Các con biết không, có tới hai con soi trâu ở hang đó vào hôm qua. Mary và Carrie đều thở ra. Mẹ nhắc: - Charles! Bố nói: - Bây giờ thì quá trễ để sợ hãi rồi. Nhưng vấn đề là điều các con đã làm. Các con đã xộc thẳng tới một hang sói và hang đó đang có sói. Dấu vết của chúng còn rất mới và tất cả đều chỉ rõ như ban ngày điều mà chúng đang làm. Đó là một cái hang cũ và kích thước của lũ sói cho biết chùng không còn nhỏ. Có thể nói chúng từng sống ở đó nhiều năm rồi. Nhưng chúng không có ở đó trong mùa đông này. Chúng chỉ mới từ phía tây bắc tới vào một khoảng nào đó trong tối hôm qua và gần như đi thẳng tới chiếc hang đó. Có lẽ chúng quẩn quanh ở đó cho tới sáng nay. Bố đã lần theo dấu vết của chúng từ đó xuống đầm Big Slough và đi ra ngoài đồng cỏ về hướng tây nam. Từ lúc rời cái hang cũ đó, mấy con sói này không hề ngừng lại. Chúng chạy song song bên nhau tựa hồ như đang cùng đi dạo và biết rõ nơi chúng sẽ đến. Bố đi theo chúng thật xa cho tới khi biết chắc không thể nào gặp nổi để bắn hạ chúng. Chúng đã đi kiếm mồi. Laura thở một hơi dài tựa hồ cô đã quên thở cho tới lúc này. Bố nhìn cô, hỏi: - Con mừng vì chúng đã đi chứ, Laura? Laura đáp: - Dạ, Bố! Chúng đâu có đuổi theo tụi con. - Không, Laura. Chúng không đuổi theo các con. Nhưng trọn đời Bố, Bố vẫn không hiểu vì sao chúng lại không đuổi. Mẹ thắc mắc: - Chúng làm gì ở cái hang cũ đó? Bố nói: - Chúng chỉ ngắm cái hang thôi. Anh cho là chúng quay lại thăm nơi chúng đã từng sống trước khi những người làm nền đường sắt tới xua đám linh dương đi. Có thể chúng từng sống ở đây trước khi những người thợ săn bắn hạ con sói trâu cuối cùng. Sói trâu sống trên khắp vùng này nhưng hiện không còn nhiều kể cả ở quanh đây. Công cuộc định cư và làm đường sắt đã lùa chúng rời xa hơn nữa về miền tây. Điều chắc chắn mà anh thấy qua dấu vết của những con thú trên là hai con sói này đi thẳng từ miền tây tới và đã về thẳng miền tây. Tất cả điều chúng làm ở đây chỉ là dừng lại một đêm ở cái hang cũ. Anh sẽ không ngạc nhiên nếu chúng là những con sói trâu cuối cùng được nhìn thấy ở trong vùng đất này. Laura bùi ngùi: - Ôi, Bố, những con sói tội nghiệp! Mẹ nói nhanh: - Cảm ơn Chúa! Đã có đủ thứ chuyện để buồn phiền nên khỏi cần buồn phiền vì những cảm xúc đối với đám thú hoang. Hãy cảm ơn vì những con thú dữ đó đã không làm điều gì tồi tệ hơn là chỉ khiến các con phải khiếp sợ vào đêm qua. Bố lên tiếng: - Chuyện còn chưa hết, Caroline! Anh có thêm tin tức thông báo. Anh đã tìm được chỗ lập nông trại của mình. - Ôi, ở đâu, Bố! Nó ra sao? Có xa không? Mary, Laura và Carrie xôn xao hỏi. Mẹ nói: - Thế thì tốt rồi, Charles! Bố đẩy lui chiếc dĩa, uống hết li trà, rồi chùi râu, nói: - Nó ổn thoả về mọi mặt. Nó nằm ở phía nam chỗ hồ tiếp giáp với đầm Big Slough và đầm uốn quanh tới phía tây của nó. ở phía nam đầm có một khoảng cao trong đồng cỏ rất tiện cho việc dựng nhà. Một ngọn đồi ở phía tây chen vào mặt sau đầm ở phía đó. Trên khu đất nhà ở có đất cao phơi cỏ khô, đất cày nằm dài tới phía nam và đồng cỏ chăn nuôi ở đầy khắp cùng với mọi thứ cần cho một nông dân. Đặc biệt là nó ở gần với vùng đất xây dựng thị trấn nên các con có thể tới trường. Mẹ nói: - Em mừng lắm, Charles. Bố nói: - Thật là một điều thú vị. Nhiều tháng ở đây anh đã nhìn quanh tìm kiếm và không thấy một nơi nào hoàn toàn hợp ý. Vậy mà vẫn có một khu nằm sẵn đó, gần như là anh không đi ngang qua đó nếu không có cuộc săn đuổi con sói khiến anh phải qua hồ để đi dọc mé đầm bên đó. Mẹ lo lắng: - Em ước là anh đã lo xong giấy tờ vào mùa thu vừa rồi. Bố nói chắc chắn: - Mùa đông này không có ai ở đây. Anh sẽ tới Brookins làm thủ tục vào mùa xuân tới trước khi có người tới kiếm đất lập nông trại. 19- BUỔI CHIỀU TRƯỚC GIÁNG SINH Suốt ngày có tuyết rơi và những bông tuyết lớn mềm mại tiếp tục rơi. Gió đêm khiến tuyết chất đầy trên mặt đất và Bố phải mang theo xẻng khi đi làm công việc thường lệ vào buổi tối. Bố nói: - Rồi, một lễ Giáng Sinh trắng toát. Mẹ nói: - Tốt thôi, mình đều có mặt ở đây và đều mạnh khoẻ là vui vẻ rồi. Trong nhà đầy những điều bí mật. Mary đan một đôi với mới đầy ấm áp để làm quà Giáng Sinh cho Bố. Laura khâu cho Bố một chiếc cà-vạt bằng mảnh lụa kiếm được trong túi vải vụn của Mẹ. Cô và Carrie ngồi trên gác cùng lo may cho Mẹ một chiếc tạp dề bằng tấm màn che đã treo trong căn nhà lều. Trong túi vải vụn, các cô còn kiếm được một mảnh vải trắng mỏng rất đẹp. Laura cắt ra một miếng vuông nhỏ và Mary bí mật viền miếng vải vuông nhỏ này với những đường viền thật tinh xảo để làm cho Mẹ một chiếc khăn tay. Các cô nhét chiếc khăn tay vào túi áo tạp dề. Rồi các cô bọc áo trong một tấm giấy lụa và dấu kín dưới những tấm bọc mền trong thùng của Mary. Có một tấm chăn phủ hai đầu là những sọc ngang màu đỏ và xanh lá cây. Tấm chăn đã rách nhưng đầu sọc còn tốt và Mẹ cắt ra làm giày ngủ cho Mary. Laura và Carrie cũng đều làm một đôi được lộn lại khâu ghép một cách trang nhã với những mảnh vải thô và những núm lông tua bằng chỉ. Đôi giày của Mary được giấu trong phòng ngủ của Mẹ để Mary không tìm thấy. Laura và Mary muốn làm cho Carrie một đôi bao tay nhưng không có đủ sợi. Có một ít màu đỏ, một ít màu trắng và một ít màu xanh nhưng không màu nào đủ để làm một đôi găng. Mary bỗng nói: - Chị biết cách rồi. Mình làm các bàn tay trắng, cườm tay đỏ và chen vào các sọc xanh. Mỗi buổi sáng trong lúc Carrie lo dẹp giường trên gác, Laura và Mary đan hết sức nhanh. Khi nghe thấy Carrie bước xuống cầu thang, các cô giấu đôi bao tay vào túi đồ khâu của Mary. Lúc này, đôi bao tay cũng đã xong. Đẹp hơn hết thảy là quà Giáng Sinh dành cho bé Grace. Mọi người cùng xúm lại làm chung trong căn phòng ấm áp vì bé Grace còn quá nhỏ chưa nhận ra được. Mẹ lấy bộ da thiên nga vẫn được gói cẩn thận ra cắt một chiếc mũ trùm nhỏ. Da thiên nga quá mỏng nên Mẹ không dám giao việc khâu mũ cho ai mà tự tay khâu từng mũi chỉ. Nhưng Mẹ cho Laura và Carrie ghép tấm lót bằng những mảnh lụa màu xanh lấy từ túi vải vụn. Sau đó, Mẹ gắn tấm lót vào chiếc mũ da thiên nga để giữ cho mũ không bị rách. Rồi Mẹ tìm trong túi vải vụn chọn lấy một mảnh vải len lớn màu xanh nhạt từng là chiếc áo mùa đông đẹp nhất của Mẹ. Mẹ lọc ra cắt thành một áo khoác nhỏ. Laura và Carrie khâu áo còn Mary khâu những đường viền tinh vi ở phần dưới. Sau đó, Mẹ ghép vào chiếc áo lớp cổ và các tay áo giả bằng những mảnh da thiên nga mềm mại. Chiếc áo khoác màu canh được trang trí thêm bằng những mảnh da thiên nga trắng tinh và chiếc mũ trùm bằng da thiên nga với tấm vải lót xanh như màu mắt của Grace trông thật đẹp. Laura nói: - Giống hệt quần áo làm cho búp bê. Mary nói: - Grace còn dễ thương hơn bất kì con búp bê nào. Carrie nôn nóng nhún nhẩy và kêu lên: - Ô, mình mặc cho bé ngay đi! Nhưng Mẹ bảo phải cất áo và mũ đi để chờ đến ngày Giáng Sinh. Lúc này các cô đang chờ sáng ngày hôm sau đến. Bố đang đi săn. Bố đã nói Bố có ý định hạ con thỏ lớn nhất để làm thức ăn trưa Giáng Sinh. Ít nhất thì Bố đã mang về con thỏ lớn nhất mà các cô được nhìn thấy. Nó đã được lột da, làm sạch và lúc này đang đông cứng trong gian chái để chờ nướng vào ngày mai. Bố từ khu nhà chuồng quay về đang giũ tuyết khỏi bàn chân. Bố đập lớp băng bám trên râu và đưa hai bàn tay ra hơ ấm trên lò bếp. Bố nói: - Huu-uu! Đúng là đợt lạnh khủng khiếp nhất vào đêm trước Giáng Sinh. Lạnh tới mức ông già Noel khó bước ra ngoài nổi. Ánh mắt long lanh của Bố rọi vào Carrie. - Tụi con khỏi cần ông già Noel. Tụi con đã có… Carrie bật nói và đưa bàn tay lên bịt miệng và nhìn quanh Laura và Mary coi các chị có nhận ra là cô suýt làm lộ những điều bí mật không. Bố xoay lưng lại phía lò bếp để sưởi ấm và nhìn tất cả một cách sung sướng. Bố nói: - Dù thế nào thì cả nhà mình cũng được đầy đủ dưới một mái che. Kể cả Ellen, Sam, David cũng ấm áp và có mọi thứ. Anh còn cho chúng phần ăn đặc biệt cho buổi tối trước Giáng Sinh. Này, đúng là một ngày Giáng Sinh tốt lành, phải không Caroline? - Đúng vậy, Charles! Mẹ đặt tô cháo bắp nóng hổi lên bàn và rưới thêm sữa. - Tới ăn thôi. Một bữa ăn tối nóng sốt sẽ làm anh ấm lên mau hơn bất kể thứ gì, Charles. Trong bữa ăn, cả nhà đều nói về những ngày Giáng Sinh khác. Họ đã qua nhiều ngày Giáng Sinh sum họp và ở đây họ vẫn được sum họp trong sự no đủ, ấm áp và hạnh phúc. Trên gác, trong thùng của Laura vẫn còn Charlotte, con búp bê bằng vải đã được bỏ vào chiếc vớ Giáng Sinh của cô khi còn ở Big Woods. Những chiếc li thiếc và những đồng xu có vào dịp Giáng Sinh trong vùng đất của người da đỏ lúc này không còn nữa, nhưng Laura và Mary vẫn nhớ do ông Edwards phải đi bộ suốt bốn mươi dặm tới Independence để mang về giúp ông già Noel. Cả nhà không nhận được tin gì về ông Edwards từ khi ông ấy một mình xuối sông Verdigris và tất cả đều thắc mắc không rõ ông ấy ra sao. Bố nói: - Dù ông ấy ở đâu, mình cũng hy vọng ông ấy sẽ gặp may mắn như mình đã gặp. Dù ông ấy ở đâu, tất cả vẫn nhớ ông ấy và cầu mong ông ấy được hạnh phúc. Laura nói: - Và về phần Bố, khi ở đây Bố không bị lạc trong một cơn bão tuyết. Trong một thoáng, tất cả đều im lặng nhìn Bố và nghĩ tới cái ngày Giáng Sinh kinh hoàng khi Bố gần như không thể trở về nhà và tất cả đều khiếp sợ với ý nghĩ không bao giờ Bố về nữa. Mẹ giấu kín những giọt nước mắt đang lăn xuống bằng cách đưa bàn tay lên chặn lại. Tất cả đều giả bộ như không nhìn thấy. Mẹ vừa hỉ mũi vừa nói: - Đúng là phải ghi ơn, Charles! Rồi Bố bỗng vùng cười lớn, Bố nói: - Đó là một trò vui đối với Bố. Đói lả suốt ba ngày đêm, phải nhai bánh qui lạc và kẹo Giáng Sinh trong khi trọn thời gian đó lại nằm ngay dưới bờ con suối của mình chỉ cách nhà chưa tới một trăm thước. Mary lên tiếng: - Con thấy ngày Giáng Sinh tuyệt nhất là lần có cây Giáng Sinh của lớp học ngày chủ nhật. Carrie, lúc đó em còn quá nhỏ nên chắc không nhớ nổi, nhưng, ôi, tuyệt vời biết chừng nào! Laura nói: - Lần đó chưa thực sự tốt đẹp như lần này đâu. Bởi vì bây giờ Carrie đã đủ lớn để ghi nhớ và bây giờ mình đã có thêm bé Grace. May là Carrie còn ngồi đó – vì con sói đã không đụng tới cô. Và trong lòng Mẹ, cô em nhỏ nhất Grace đang ngồi với mái tóc ửng sáng màu nắng và cặp mắt xanh như màu hoa vi-ô-lét. Mary đồng ý: - Đúng, lần Giáng Sinh này là tuyệt hơn hết, và có lẽ năm tới ở đây sẽ có một lớp học ngày chủ nhật. Món cháo bắp đã hết, Bố quệt những giọt sữa cuối cùng trên chén của mình và uống trà. Bố nói: - Thôi, mình không thể có một cây Giáng Sinh vì ở đây không có nhiều bụi cây quanh hồ Nước Bạc. Dù sao minhg cũng không muốn có một cây Giáng Sinh chỉ cho riêng mình. Nhưng, mình có thể có một buổi kỉ niệm nhỏ để nhớ tới lớp học ngày chủ nhật, Mary. Bố đi lấy hộp đàn và trong lúc Mẹ cùng Laura dọn rửa chén dĩa đem đi cất thì Bố chỉnh lại dây đàn và chuốt nhọn chiếc vĩ. Sương giá phủ đầy các ô kính cửa sổ, bám trên các kẻ hở quanh cửa ra vào. Những cụm tuyết bay lả tả chất thành đống ở những giờ phía trên ô kính. Nhưng ánh đèn sáng trưng trên tấm trải bàn hai màu đỏ-trắng và lửa hừng hực nóng sau những ô gió để ngỏ của lò bếp. Bố nói: - Mình không thể hát ngay sau khi ăn. Vì thế Bố chỉ mở đầu bằng tiếng đàn. Bố đàn một cách vui vẻ bài “Xuôi dòng trên Ohio”, bài “Do đâu chuông rung rộn rã” rồi Bố hát: Leng keng khua rộn rã Chuông ngân vang đường dài Niềm vui nào sánh nổi Trên cỗ xe bỏ mui Bố ngưng lại nhìn tất cả hỏi: - Bây giờ sẵn sàng chưa? Tiếng đàn đổi điệu chuyển theo một bài thánh ca. Bố dạo vài nốt nhạc rồi tất cả cùng hát: Ánh chiều dương đang rạng rỡ Ngày hạnh phúc tới gần bên Nhân gian bừng thức giấc Chào bình minh vừa lên Nơi nơi đồng loạt lên tiếng nguyện Mau tới gặp người trên núi thiêng Người sẽ bảo ban và chỉ lối Theo người đi tới xứ thần tiên Tiếng đàn chợt chạy lạc đi tựa hồ Bố đang đàn theo ý nghĩ riêng của mình. Nhưng một giai điệu dìu dặt lại vang lên và nhè nhẹ đưa tất cả trở về với phần tiếp nối của bài ca: Nắng ấm ươm chồi cho cỏ Hoa tươi mát rượi hơi sương Mắt sáng đón chờ ánh sáng Mùa thu đang tới nhẹ nhàng Lời ai nhắc ta tha thiết Nụ cười, hơi thở dịu dàng ấm hơn nắng hồng mùa hạ Long lanh hơn mọi giọt sương Nét đẹp nhân gian vô số kể Cung hiến cho đời chẳng là bao Vàng ngọc đáng cho mà nhắc tới Con tim luôn đợi phút ngọt ngào. Xích lại bên nhau, hỡi người thân mến Cùng ngồi quanh bệ ngọc, con tim Hãy nói dịu dàng và cười âu yếm Mặt đất này đẹp mãi cõi tiên! Qua tiếng nhạc, Mary bỗng kêu lên: - Cái gì vậy? Bố nói: - Có chuyện gì, Mary? Mary nói: - Con nghĩ là con nghe thấy… Chú ý! Tất cả lắng nghe. Chỉ có tiếng ngọn đèn rất nhỏ và tiếng than nổ nhẹ nhẹ trong lò bếp. Qua khoảng không nhỏ phía trên các khuôn cửa sổ đầy sương giá trắng toát, những cụm bông tuyết đang rơi lấp lánh trong ánh đèn chiếu xuyên qua ô kính. Bố hỏi: - Con nghĩ là con nghe thấy gì, Mary? - Giống như là… Đó, lại có nữa! Lúc này tất cả đều nghe thấy một tiếng gọi. Ngoài trời đêm có một người đang kêu giữa giông bão. Một tiếng gọi nữa lại cất lên, rất gần căn nhà. Mẹ giật mình: - Charles! Bên ngoài có người thì phải? Chương 19: Buổi Chiều Trước Giáng Sinh Suốt ngày có tuyết rơi và những bông tuyết lớn mềm mại tiếp tục rơi. Gió đêm khiến tuyết chất đầy trên mặt đất và Bố phải mang theo xẻng khi đi làm công việc thường lệ vào buổi tối. Bố nói: - Rồi, một lễ Giáng Sinh trắng toát. Mẹ nói: - Tốt thôi, mình đều có mặt ở đây và đều mạnh khoẻ là vui vẻ rồi. Trong nhà đầy những điều bí mật. Mary đan một đôi với mới đầy ấm áp để làm quà Giáng Sinh cho Bố. Laura khâu cho Bố một chiếc cà-vạt bằng mảnh lụa kiếm được trong túi vải vụn của Mẹ. Cô và Carrie ngồi trên gác cùng lo may cho Mẹ một chiếc tạp dề bằng tấm màn che đã treo trong căn nhà lều. Trong túi vải vụn, các cô còn kiếm được một mảnh vải trắng mỏng rất đẹp. Laura cắt ra một miếng vuông nhỏ và Mary bí mật viền miếng vải vuông nhỏ này với những đường viền thật tinh xảo để làm cho Mẹ một chiếc khăn tay. Các cô nhét chiếc khăn tay vào túi áo tạp dề. Rồi các cô bọc áo trong một tấm giấy lụa và dấu kín dưới những tấm bọc mền trong thùng của Mary. Có một tấm chăn phủ hai đầu là những sọc ngang màu đỏ và xanh lá cây. Tấm chăn đã rách nhưng đầu sọc còn tốt và Mẹ cắt ra làm giày ngủ cho Mary. Laura và Carrie cũng đều làm một đôi được lộn lại khâu ghép một cách trang nhã với những mảnh vải thô và những núm lông tua bằng chỉ. Đôi giày của Mary được giấu trong phòng ngủ của Mẹ để Mary không tìm thấy. Laura và Mary muốn làm cho Carrie một đôi bao tay nhưng không có đủ sợi. Có một ít màu đỏ, một ít màu trắng và một ít màu xanh nhưng không màu nào đủ để làm một đôi găng. Mary bỗng nói: - Chị biết cách rồi. Mình làm các bàn tay trắng, cườm tay đỏ và chen vào các sọc xanh. Mỗi buổi sáng trong lúc Carrie lo dẹp giường trên gác, Laura và Mary đan hết sức nhanh. Khi nghe thấy Carrie bước xuống cầu thang, các cô giấu đôi bao tay vào túi đồ khâu của Mary. Lúc này, đôi bao tay cũng đã xong. Đẹp hơn hết thảy là quà Giáng Sinh dành cho bé Grace. Mọi người cùng xúm lại làm chung trong căn phòng ấm áp vì bé Grace còn quá nhỏ chưa nhận ra được. Mẹ lấy bộ da thiên nga vẫn được gói cẩn thận ra cắt một chiếc mũ trùm nhỏ. Da thiên nga quá mỏng nên Mẹ không dám giao việc khâu mũ cho ai mà tự tay khâu từng mũi chỉ. Nhưng Mẹ cho Laura và Carrie ghép tấm lót bằng những mảnh lụa màu xanh lấy từ túi vải vụn. Sau đó, Mẹ gắn tấm lót vào chiếc mũ da thiên nga để giữ cho mũ không bị rách. Rồi Mẹ tìm trong túi vải vụn chọn lấy một mảnh vải len lớn màu xanh nhạt từng là chiếc áo mùa đông đẹp nhất của Mẹ. Mẹ lọc ra cắt thành một áo khoác nhỏ. Laura và Carrie khâu áo còn Mary khâu những đường viền tinh vi ở phần dưới. Sau đó, Mẹ ghép vào chiếc áo lớp cổ và các tay áo giả bằng những mảnh da thiên nga mềm mại. Chiếc áo khoác màu canh được trang trí thêm bằng những mảnh da thiên nga trắng tinh và chiếc mũ trùm bằng da thiên nga với tấm vải lót xanh như màu mắt của Grace trông thật đẹp. Laura nói: - Giống hệt quần áo làm cho búp bê. Mary nói: - Grace còn dễ thương hơn bất kì con búp bê nào. Carrie nôn nóng nhún nhẩy và kêu lên: - Ô, mình mặc cho bé ngay đi! Nhưng Mẹ bảo phải cất áo và mũ đi để chờ đến ngày Giáng Sinh. Lúc này các cô đang chờ sáng ngày hôm sau đến. Bố đang đi săn. Bố đã nói Bố có ý định hạ con thỏ lớn nhất để làm thức ăn trưa Giáng Sinh. Ít nhất thì Bố đã mang về con thỏ lớn nhất mà các cô được nhìn thấy. Nó đã được lột da, làm sạch và lúc này đang đông cứng trong gian chái để chờ nướng vào ngày mai. Bố từ khu nhà chuồng quay về đang giũ tuyết khỏi bàn chân. Bố đập lớp băng bám trên râu và đưa hai bàn tay ra hơ ấm trên lò bếp. Bố nói: - Huu-uu! Đúng là đợt lạnh khủng khiếp nhất vào đêm trước Giáng Sinh. Lạnh tới mức ông già Noel khó bước ra ngoài nổi. Ánh mắt long lanh của Bố rọi vào Carrie. - Tụi con khỏi cần ông già Noel. Tụi con đã có… Carrie bật nói và đưa bàn tay lên bịt miệng và nhìn quanh Laura và Mary coi các chị có nhận ra là cô suýt làm lộ những điều bí mật không. Bố xoay lưng lại phía lò bếp để sưởi ấm và nhìn tất cả một cách sung sướng. Bố nói: - Dù thế nào thì cả nhà mình cũng được đầy đủ dưới một mái che. Kể cả Ellen, Sam, David cũng ấm áp và có mọi thứ. Anh còn cho chúng phần ăn đặc biệt cho buổi tối trước Giáng Sinh. Này, đúng là một ngày Giáng Sinh tốt lành, phải không Caroline? - Đúng vậy, Charles! Mẹ đặt tô cháo bắp nóng hổi lên bàn và rưới thêm sữa. - Tới ăn thôi. Một bữa ăn tối nóng sốt sẽ làm anh ấm lên mau hơn bất kể thứ gì, Charles. Trong bữa ăn, cả nhà đều nói về những ngày Giáng Sinh khác. Họ đã qua nhiều ngày Giáng Sinh sum họp và ở đây họ vẫn được sum họp trong sự no đủ, ấm áp và hạnh phúc. Trên gác, trong thùng của Laura vẫn còn Charlotte, con búp bê bằng vải đã được bỏ vào chiếc vớ Giáng Sinh của cô khi còn ở Big Woods. Những chiếc li thiếc và những đồng xu có vào dịp Giáng Sinh trong vùng đất của người da đỏ lúc này không còn nữa, nhưng Laura và Mary vẫn nhớ do ông Edwards phải đi bộ suốt bốn mươi dặm tới Independence để mang về giúp ông già Noel. Cả nhà không nhận được tin gì về ông Edwards từ khi ông ấy một mình xuối sông Verdigris và tất cả đều thắc mắc không rõ ông ấy ra sao. Bố nói: - Dù ông ấy ở đâu, mình cũng hy vọng ông ấy sẽ gặp may mắn như mình đã gặp. Dù ông ấy ở đâu, tất cả vẫn nhớ ông ấy và cầu mong ông ấy được hạnh phúc. Laura nói: - Và về phần Bố, khi ở đây Bố không bị lạc trong một cơn bão tuyết. Trong một thoáng, tất cả đều im lặng nhìn Bố và nghĩ tới cái ngày Giáng Sinh kinh hoàng khi Bố gần như không thể trở về nhà và tất cả đều khiếp sợ với ý nghĩ không bao giờ Bố về nữa. Mẹ giấu kín những giọt nước mắt đang lăn xuống bằng cách đưa bàn tay lên chặn lại. Tất cả đều giả bộ như không nhìn thấy. Mẹ vừa hỉ mũi vừa nói: - Đúng là phải ghi ơn, Charles! Rồi Bố bỗng vùng cười lớn, Bố nói: - Đó là một trò vui đối với Bố. Đói lả suốt ba ngày đêm, phải nhai bánh qui lạc và kẹo Giáng Sinh trong khi trọn thời gian đó lại nằm ngay dưới bờ con suối của mình chỉ cách nhà chưa tới một trăm thước. Mary lên tiếng: - Con thấy ngày Giáng Sinh tuyệt nhất là lần có cây Giáng Sinh của lớp học ngày chủ nhật. Carrie, lúc đó em còn quá nhỏ nên chắc không nhớ nổi, nhưng, ôi, tuyệt vời biết chừng nào! Laura nói: - Lần đó chưa thực sự tốt đẹp như lần này đâu. Bởi vì bây giờ Carrie đã đủ lớn để ghi nhớ và bây giờ mình đã có thêm bé Grace. May là Carrie còn ngồi đó – vì con sói đã không đụng tới cô. Và trong lòng Mẹ, cô em nhỏ nhất Grace đang ngồi với mái tóc ửng sáng màu nắng và cặp mắt xanh như màu hoa vi-ô-lét. Mary đồng ý: - Đúng, lần Giáng Sinh này là tuyệt hơn hết, và có lẽ năm tới ở đây sẽ có một lớp học ngày chủ nhật. Món cháo bắp đã hết, Bố quệt những giọt sữa cuối cùng trên chén của mình và uống trà. Bố nói: - Thôi, mình không thể có một cây Giáng Sinh vì ở đây không có nhiều bụi cây quanh hồ Nước Bạc. Dù sao minhg cũng không muốn có một cây Giáng Sinh chỉ cho riêng mình. Nhưng, mình có thể có một buổi kỉ niệm nhỏ để nhớ tới lớp học ngày chủ nhật, Mary. Bố đi lấy hộp đàn và trong lúc Mẹ cùng Laura dọn rửa chén dĩa đem đi cất thì Bố chỉnh lại dây đàn và chuốt nhọn chiếc vĩ. Sương giá phủ đầy các ô kính cửa sổ, bám trên các kẻ hở quanh cửa ra vào. Những cụm tuyết bay lả tả chất thành đống ở những giờ phía trên ô kính. Nhưng ánh đèn sáng trưng trên tấm trải bàn hai màu đỏ-trắng và lửa hừng hực nóng sau những ô gió để ngỏ của lò bếp. Bố nói: - Mình không thể hát ngay sau khi ăn. Vì thế Bố chỉ mở đầu bằng tiếng đàn. Bố đàn một cách vui vẻ bài “Xuôi dòng trên Ohio”, bài “Do đâu chuông rung rộn rã” rồi Bố hát: Leng keng khua rộn rã Chuông ngân vang đường dài Niềm vui nào sánh nổi Trên cỗ xe bỏ mui Bố ngưng lại nhìn tất cả hỏi: - Bây giờ sẵn sàng chưa? Tiếng đàn đổi điệu chuyển theo một bài thánh ca. Bố dạo vài nốt nhạc rồi tất cả cùng hát: Ánh chiều dương đang rạng rỡ Ngày hạnh phúc tới gần bên Nhân gian bừng thức giấc Chào bình minh vừa lên Nơi nơi đồng loạt lên tiếng nguyện Mau tới gặp người trên núi thiêng Người sẽ bảo ban và chỉ lối Theo người đi tới xứ thần tiên Tiếng đàn chợt chạy lạc đi tựa hồ Bố đang đàn theo ý nghĩ riêng của mình. Nhưng một giai điệu dìu dặt lại vang lên và nhè nhẹ đưa tất cả trở về với phần tiếp nối của bài ca: Nắng ấm ươm chồi cho cỏ Hoa tươi mát rượi hơi sương Mắt sáng đón chờ ánh sáng Mùa thu đang tới nhẹ nhàng Lời ai nhắc ta tha thiết Nụ cười, hơi thở dịu dàng ấm hơn nắng hồng mùa hạ Long lanh hơn mọi giọt sương Nét đẹp nhân gian vô số kể Cung hiến cho đời chẳng là bao Vàng ngọc đáng cho mà nhắc tới Con tim luôn đợi phút ngọt ngào. Xích lại bên nhau, hỡi người thân mến Cùng ngồi quanh bệ ngọc, con tim Hãy nói dịu dàng và cười âu yếm Mặt đất này đẹp mãi cõi tiên! Qua tiếng nhạc, Mary bỗng kêu lên: - Cái gì vậy? Bố nói: - Có chuyện gì, Mary? Mary nói: - Con nghĩ là con nghe thấy… Chú ý! Tất cả lắng nghe. Chỉ có tiếng ngọn đèn rất nhỏ và tiếng than nổ nhẹ nhẹ trong lò bếp. Qua khoảng không nhỏ phía trên các khuôn cửa sổ đầy sương giá trắng toát, những cụm bông tuyết đang rơi lấp lánh trong ánh đèn chiếu xuyên qua ô kính. Bố hỏi: - Con nghĩ là con nghe thấy gì, Mary? - Giống như là… Đó, lại có nữa! Lúc này tất cả đều nghe thấy một tiếng gọi. Ngoài trời đêm có một người đang kêu giữa giông bão. Một tiếng gọi nữa lại cất lên, rất gần căn nhà. Mẹ giật mình: - Charles! Bên ngoài có người thì phải? Chương 20: Đêm Trước Giáng Sinh Bố đặt đàn vào trong hộp, mở cửa trước thật nhanh. Tuyết và hơi lạnh xoắn vào cùng với một giọng nói khàn đục: - Chà-oo Ingalls! Bố kêu lên: - Boast! Vào đi! Vào đi! Bố chộp lấy áo choàng, mũ và bước ra ngoài trời lạnh. - Chắc ông ta gần tê cóng rồi! Mẹ kêu lên và lật đật bỏ thêm than vào lò sưởi. Từ bên ngoài vọng vào giọng nói và tiếng cười của ông Boast. Rồi cửa bật mở và Bố gọi: - Đây là bà Boast, Caroline. Tụi anh phải đi lo cho lũ ngựa. Bà Boast là một đống quần áo và chăn quấn. Mẹ vội vã giúp bà cởi bớt từng lớp đồ trên người. - Tới lò sưởi đi! Chị gần tê cóng hết rồi. Một giọng nói dễ thương đáp lại: - Ô, không đâu. Cưỡi ngựa ấm lắm và Robert lại quấn kín tôi bằng mấy chiếc chăn này nên gió không thể thổi vào người tôi. Anh ấy còn dẫn đường cho ngựa nên bàn tay tôi vẫn được giữ kín trong chăn. - Tuy thế, chiếc mạng che mặt này cũng như đóng băng rồi. Mẹ nói trong lúc gỡ những dải buộc đẫm sương giá của chiếc mạng che bằng len ra khỏi đầu bà Boast. Gương mặt bà Boast hiện ra như lồng khuôn trong chiếc mũ trùm viền da. Bà Boast có vẻ không lớn hơn Mary bao nhiêu với mái tóc màu nâu nhạt và cặp mắt màu xanh lơ có lông mi dài. Mẹ nói: - Tôi biết. Tuyết phủ kín ngọn cỏ cao ở bãi lầy và không ai biết nổi bãi lầy ăn tới đâu. Còn mặt đất ở dưới cỏ lại không đủ sức chịu bất kì sức nặng nào. Mẹ giúp bà Boast cởi nón chiếc áo khoác. Mary đề nghị: - Ngồi ghế của cháu đi, bà Boast. Nhưng bà Boast nói bà ấy sẽ ngồi ở bên cạnh Mary. Bố và ông Boast đã vào gian chái và đập chân rầm rầm để giữ tuyết. Ông Boast cười lớn và từ trong nhà, mọi người đều cười theo, kể cả Mẹ. Laura nói với bà Boast: - Cháu không biết tại sao và cũng không biết mình cười cái gì nhưng khi ông Boast cười thì… Bà Boast cũng đang cười. Bà nói: - Đó là chứng truyền nhiễm. Laura ngắm ánh mắt xanh lơ nghịch ngợm của bà ấy và nghĩ lễ Giáng Sinh sẽ vui lắm. Mẹ đang khuấy món bánh qui. Mẹ nói: - Khoẻ không anh Boast. Anh với chị ấy chắc đói lắm rồi. Bữa ăn tối sẽ có ngay bây giờ. Laura đặt những miếng thịt heo ướp muối vào chiếc chảo chiên đang nóng và Mẹ cho bánh vào lò hấp. Rồi Mẹ ép khô thịt heo nhấn vào trong bột mì cho vào chảo chiên trong lúc Laura gọt vỏ khoai tây để xắt lát. Mẹ với nhỏ với cô trong phòng chứa thức ăn: - Mẹ sẽ chiên tươi và thêm nước xốt cùng với một bình trà mới. Mình có đủ thức ăn, nhưng còn phần quà tặng thì phải làm gì? Laura không nghĩ tới điều đó. Họ đã không có quà tặng cho ông bà Boast. Mẹ ra khỏi phòng chứa thức ăn nhanh như gió để lo chiên khoai, làm món nước xốt và Laura lo bày thức ăn. Khi ăn xong, bà Boast nói: - Tôi không biết tới lúc nào mới được ăn một bữa ngon hơn. Bố nói: - Chúng tôi không ngờ anh chị trở lại trước mùa xuân. Mùa đông là lúc tệ nhất để thực hiện một chuyến đi như thế. Ông Boast đáp: - Chúng tôi biết thế. Nhưng này, Ingalls, cả xứ sẽ đi về miền tây vào mùa xuân. Hết vùng Iowa đang chuyển tới và chúng tôi hiểu là mình phải dẫn đầu cuộc xấn tới này để tránh có một kẻ nào đó nhảy bổ vào nông trại của chúng tôi. Vì vậy chúng tôi bất kể thời tiết ra sao. Lẽ ra anh nên lo hợp thức hoá nông trại từ mùa thu vừa qua. Anh sẽ phải nhào tới ngay trong mùa xuân này nếu không muốn rơi vào cảnh không kiếm ra đất. Bố và Mẹ nhìn nhau một cách bình tĩnh. Tất cả đều nghĩ đến khu trại mà Bố đã chọn. Nhưng Mẹ chỉ nói: - Hãy gác chuyện này lại sau. Chắc là chị Boast mệt rồi. Bà Boast nói: - Tôi mệt thực. Chuyến đi khá vất vả rồi lại còn phải rời xe để ngồi trên lưng ngựa đi trong bão tuyết. Chúng tôi hết sức mừng khi nhìn thấy ánh đèn của anh chị. Và khi đến gần hơn, chúng tôi lại nghe thấy mọi người đang hát. Anh chị không biết tiếng hát đó tuyệt như thế nào. Bố nói: - Em xếp cho chị Boast nằm cùng với em, Caroline. Boast và anh sẽ nằm tại đây, gần bên đống lửa. Mình sẽ hát thêm một bài nữa rồi tất cả các con tan hàng. Bố nhấc đàn ra khỏi hộp và thử lại để biết là không có gì sai lạc. - Bài gì đây, Boast? Ông Boast nói: - Giáng Sinh Vui Vẻ Khắp Nơi. Giọng cao của ông nối với giọng trầm của Bố. Giọng nữ trầm nhẹ nhàng của bà Boast hoà với giọng nữ cao của Laura và Mary hoà theo rồi tới giọng nữ trầm của Mẹ. Giọng kim nhỏ nhẹ của Carrie lảnh lót cất lên một cách hào hứng: Mừng Giáng Sinh Khắp Nơi Vui Vẻ Tiếng hoan ca đầy ắp không trung Chuông rộn rã, đèn hoa rực rỡ Hương ngát thơm theo gió vô cùng Do bởi đâu niềm vui tràn ngập Cất lời ca ân phúc vui tươi! Hãy nhìn lên Vầng Dương Công Chính Toả ánh vàng chiếu sáng muôn nơi! Hải đăng soi cho người lạc bến Kẻ khổ đau rũ hết ưu phiền Người nâng dắt bầy con ngoan đạo Thẳng đường về cõi sống bình yên Rồi tất cả đều nói: - Chúc ngủ ngon! Chúc ngủ ngon! Mẹ lên gác đem nệm của Carrie xuống cho Bố và ông Boast. Mẹ nói: - Mấy tấm chăn phủ giường đang còn ướt. Ba đứa con ngủ chung giường một đêm. Laura thì thào: - Mẹ! Còn vụ quà tặng thế nào? Mẹ thì thào trở lại: - Đừng lo, Mẹ sẽ tìm cách. Bây giờ đi ngủ thôi, các con. Mẹ nói lớn: - Chúc ngủ ngon, ngủ say. Dưới nhà, bà Boast đang hát nho nhỏ một mình: - Hải đăng soi cho người lạc bến. Chương 21: Giáng Sinh Vui Vẻ Nghe tiếng cửa đóng do Bố và ông Boast ra ngoài làm các công việc thường lệ vào buổi sáng. Laura lập cập mặc quần áo trong căn gác lạnh rồi vội vã xuống cầu thang giúp Mẹ làm bữa ăn sáng. Nhưng bà Boast đang lo phụ Mẹ. Lò bếp hực lửa sưởi ấm gian phòng. Bột đang nướng trên một chiếc vỉ dài. ấm trà đang sôi và bàn ăn đã bày xong. Mẹ và bà Boast cùng nói: - Chúc Giáng Sinh vui vẻ! - Chúc Giáng Sinh vui vẻ! Laura đáp lời nhưng chăm chăm ngó bàn ăn. ở mỗi chỗ ngồi vẫn là chiếc dĩa lật úp với dao nĩa đặt như thường lệ. Nhưng trên các đáy dĩa là những gói gồm đủ lớn nhỏ và gói này bọc bằng giấy màu và gói khác bao bằng giấy thường nhưng có chỉ màu cột ngoài. Mẹ nói: - Nhìn coi, Laura! Tối qua mình không treo vớ nên quà tặng được đặt trên bàn ăn. Laura leo lên cầu thàng trở lại để nói với Mary với Carrie về bữa ăn sáng Giáng Sinh. Cô nói: - Mẹ biết rõ mình giấu quà ở đâu, ngoại trừ quà giành cho Mẹ. Tất cả quà hiện đang ở trên bàn ăn. Mary kinh hoàng than thở: - Mình không thể nhận quà như thế được. Đâu có món gì dành cho ông bà Boast. Laura nói: - Mẹ sẽ lo chuyện đó. Tối qua Mẹ đã nói với em. Mary hỏi: - Mẹ lo bằng cách nào? Mình không hề biết họ sẽ tới! Đâu có món gì dành cho họ! Laura nói: - Mẹ có thể sắp đặt để có một món gì đó. Cô lấy món quà dành cho Mẹ vẫn cất trong thùng của Mary và giấu sau lưng trong lúc các cô cùng xuống cầu thang. Carrie đứng che trước Mẹ trong lúc Laura đặt lẹ gói quà trên dĩa của Mẹ. Trên dĩa của ông Boast có một gói nhỏ và trên dĩa của bà Boast cũng vậy. Carrie bóp các bàn tay nhỏ nhắn của mình, thì thầm: - Ô, em nôn nóng quá! Gương mặt gầy guộc của Carrie trắng bệch và mắt cô mở lớn long lanh. Laura nói: - Này, em có thể chờ được. Mình phải chờ. Điều này dễ dàng hơn với Grace vì bé còn quá bé chưa nhận ra nổi bàn ăn Giáng Sinh. Nhưng Grace cũng nôn nóng tới nỗi Mary không thể cài nổi nút áo cho bé. Grace vừa luồn lách vừa hô: - Giáng khinh gui ghẻ! Mỗi khi được thả lỏng, bé đều chạy quanh và hô cho tới khi Mẹ nhắc con nít phải biết vâng lời và không được ồn ào. Carrie nói: - Lại đây, Grace! Em có nhìn ra ngoài. Cô hà hơi và chùi sạch sương đọng trên một ô kính cửa sổ. Các cô đứng tại đó nhìn ra cho tới khi Carrie lên tiếng: - Bố về rồi! Tiếp theo là tiếng đạp chân giũ tuyết trong gian chái, rồi Bố và ông Boast vào nhà. Cả hai đều nói lớn: - Giáng Sinh vui vẻ! Giáng Sinh vui vẻ! Grace chạy tới núp sau váy của Mẹ lén nhìn người đàn ông lạ. Bố chộp lấy bé và tung bé lên như Bố vẫn thường tung Laura khi Laura còn nhỏ. Và Grace vừa hết sợ vừa cười y hệt Laura đã làm. Laura phải cố nghĩ rằng lúc này cô đã là một cô gái lớn để không cười lớn tiếng. Tất cả đều hạnh phúc trong không khí ấm áp sực nức mùi thơm thức ăn cùng với khách mời vào ngày Giáng Sinh ở căn nhà ngăn nắp. Ánh sáng từ các khuôn cửa sổ đọng sương ánh lên màu bạc và đúng lúc tất cả ngồi vào bàn ăn thì khuôn cửa sổ phía đông ửng màu vàng. Phía ngoài, sự tĩnh lặng của đồng cỏ bao la ngập tuyết đã chan hoà ánh nắng. - Mời chị mở đầu đi, chị Boast. Mẹ lên tiếng vì bà Boast là khách. Thế là bà Boast mở chiếc gói của mình. Trong gói là một chiếc khăn tay bằng vải mịn với mép viền ren đan móc. Laura nhận ra là chiếc khăn tay đẹp nhất cho ngày chủ nhật của Mẹ. Bà Boast rất thích thú và ngạc nhiên vì đã nhận được một món quà như thế. Ông Boast cũng không khác. Quà tặng cho ông là những bao che cườm tay được đan với những sọc nâu đỏ và xám. Chúng rất vừa vặn với cườm tay của ông ấy. Mẹ đan những bao tay này để dành tặng cho Bố nhưng cần phải có quà Giáng Sinh cho khách mà Mẹ lại không thể đan thêm kịp. Bố nói những chiếc vớ mới rất cần cho Bố để chặn hơi lạnh thấm qua ủng. Và Bố ngắm say sưa chiếc cà-vạt mà Laura đã làm. Bố nói: - Bố sẽ đeo chiếc cà-vạt này ngay sau bữa ăn sáng. Rồi Bố tiếp: - Nhờ George mà lúc này mình có thể đều ăn mặc đang hoàng vào dịp Giáng Sinh. Mọi người đều kêu lên khi Mẹ mở chiếc tạp dề xinh xắn. Mẹ mặc ngay tức khắc và đứng thẳng cho tất cả cùng ngắm. Mẹ xem xét đường viền áo và mỉm cười với Carrie: - Con viền khéo lắm, Carrie. Rồi Mẹ lại cười với Laura: - Các đường chun của Laura rất phẳng và khâu kĩ lắm. Đúng là một chiếc tạp dề xinh xắn. Carrie kêu lên: - Còn của Mary nữa! Mẹ hãy nhìn trong túi! Mẹ lấy ra chiếc khăn tay. Mẹ hết sức ngạc nhiên với ý nghĩ là buổi sáng Mẹ vừa tặng chiếc khăn tay tốt nhất dùng cho ngày chủ nhật thì lập tức Mẹ lại được tặng một chiếc khăn tay. Hình như tất cả đều có sự sắp xếp trước dù rằng chẳng có ai sắp xếp gì. Dĩ nhiên không thể nói ra điều này với bà Boast. Mẹ chỉ ngắm chiếc khăn tay với đường viền tinh vi và nói: - Đúng là một chiếc khăn tuyệt đẹp. Cảm ơn Mary! Rồi mọi người trầm trồ đôi giày của Mary và về cách chế biến để có đôi giày từ những mảnh chăn đã rách. Bà Boast nói sẽ phải làm một đôi cho mình ngay khi có một tấm chăn rách. Carrie đặt đôi bao tay của cô lên và vỗ nhẹ hai bàn tay: - Đôi bao tay Mồng Bốn Tháng Bảy! Ôi, hãy coi đôi bao tay Mồng Bốn Tháng Bảy của em. Sau đó tới Laura mở gói quà. Trong đó cũng là một chiếc tạp dề làm bằng cùng thứ vải tạp dề của Mẹ. Áo của Laura nhỏ hơn áo của Mẹ nhưng có hai túi và một lằn gợn nhỏ bao quanh. Mẹ đã cắt áo từ một tấm màn che khác cho Carrie khâu và Mary viền những nếp xếp thành lằn gợn. Suốt thời gian đó, Mẹ không hề biết việc Laura đang làm, còn Laura cũng không hề biết việc Mẹ làm. Mary và Carrie gần như nổ bùng ra vì nắm cả hai mối bí mật này. - Ôi, cảm ơn Mẹ! Cảm ơn tất cả! Laura nói trong lúc vuốt nhẹ lớp vải trắng với những cánh hoa li ti màu đỏ in rải rác. - Những nếp xếp đường lằn hết sức tinh vi, Mary! Em cảm ơn chị! Rồi tới phần đặc biệt hơn hết. Mọi người ngắm trong lúc Mẹ choàng chiếc áo khoác nhỏ màu xanh lên ngoài Grace và vuốt thẳng lại cổ áo bằng lông thiên nga. Mẹ đội tiếp chiếc mũ trùm đầu bằng lông thiên nga trắng tinh rất dễ thương lên mái tóc vàng óng của Grace. Mảng lụa lót màu xanh lơ quanh gương mặt Grace làm nổi bật cặp mắt sáng. Bé sờ lớp lông thiên nga mềm mại trên cườm tay và vẫy vẫy hai bàn tay, cười. Bé xinh đẹp và hạnh phúc với các màu xanh, trắng, vàng, với nét linh hoạt, tươi tắn khiến tất cả ngây ra ngắm. Nhưng Mẹ không muốn làm hư bé bằng sự quá chú ý. Thế là, một lát sau, Mẹ dụ Grace cho cởi áo vã ra đem cất trong phòng ngủ. Cạnh chiếc dĩa của Laura vẫn còn một gói khác và cô thấy Mary, Carrie và Grace cũng đều có một gói tương tự. Tất cả đồng loạt mở ra và đều thấy là một túi vải dầy nhỏ màu hồng đầy kẹo. - Kẹo Giáng Sinh! Carrie kêu lên và Laura, Mary cùng nói một lúc: - Kẹo Giáng Sinh! Mary hỏi: - Làm thế nào mà kẹo Giáng Sinh tới đây được? Bố nói: - Sao, bộ ông già Noel không tới đây vào buổi tối trước Giáng Sinh hả? Thế là gần như cùng một lúc, các cô đều nói: - Ô, ông Boast! Cảm ơn ông! Cảm ơn ông bà Boast! Rồi Laura gom tất cả giấy gói và giúp Mẹ đặt lên bàn một khay bột bắp chiên, một đĩa bánh qui nóng, một đĩa khoai tây chiên, một tô xốt cá thu và một đĩa thuỷ tinh đầy xốt táo khô. Mẹ nói: - Rất tiếc là tôi không có bơ. Con bò của chúng tôi cho ít sữa quá nên không làm bơ nổi. Nhưng xốt cá thu kèm với bột bắp, khoai tây đã ngon tuyệt và không gì sánh bằng hương vị bánh qui nóng ăn với xốt táo. Bữa sáng như thế, y hệt ngày Giáng Sinh, chỉ đến mỗi năm một lần. Và vẫn còn bữa ăn trưa Giáng Sinh sẽ đến trong ngày. Sau bữa ăn sáng, Bố và ông Boast dắt ngựa đi kiếm cỗ xe của ông ấy. Hai người mang theo xẻng để đào tuyết, giúp cho lũ ngựa có thể kéo xe lên. Lúc đó Mary ôm bé Grace ngồi đung đưa trên ghế đu trong khi Carrie dọn giường, quét nhà còn Mẹ cùng Laura và bà Boast đeo tạp dề, xắn cao ống tay áo lên rửa chén dĩa và nấu bữa ăn trưa. Bà Boast hết sức vui. Bà ấy luôn lưu ý tới mọi thứ và háo hức hỏi về cách Mẹ sắp xếp ra sao để được tốt đẹp như thế. Bà ấy hỏi: - Không có đủ sữa chua thì bằng cách nào mà vẫn làm được món bánh qui ngon mức đó, Laura? Laura đáp: - Dễ thôi, bà chỉ việc dùng bột chua. Bà Boast chưa từng làm bánh qui bằng bột chua! Thật thú vị khi chỉ cho bà ấy. Laura lường mấy ly bột chua cho vào nước suối, muối, bột mì nhồi nhào thành bánh qui trên tấm ván. Bà Boast hỏi: - Nhưng làm thế nào để có bột chua? Mẹ nói: - Lúc đầu chỉ cần một ít bột mì vào nước ấm đựng trong vại và để im cho tới khi nó thành chua. Laura tiếp: - Sau khi đã dùng thì cần luôn luôn bớt lại một ít và bỏ vào đó những mẫu bánh qui vụn như thế này rồi cho thêm nước ấm. Laura đổ vào một ít nước ấm và phủ một mảnh vải sạch cùng một chiếc dĩa lên miệng vại, nói tiếp: - Đậy kín lại và để im trong một chỗ có hơi ấm. Cô đặt chiếc vại về chỗ của nó trên giá bên lò, nói: - Vậy là luôn có sẵn bột chua để dùng khi cần đến. Bà Boast nói: - Tôi chưa từng được ăn miếng bánh qui nào ngon hơn. Với người khách dễ thương như thế, buổi sáng giống như chỉ dài chừng một phút. Bữa ăn trưa gần như đã sẵn sàng khi Bố và ông Boast trở về cùng với cỗ xe. Con thỏ kếch xù đang chuyển thành màu nâu trong lò hấp. Khoai tây luộc đang sôi và bình cà-phê đã sủi tăm phía sau lò bếp. Căn nhà sực nức mùi thơm của thịt nướng, bánh nóng và cà phê. Bố khịt khịt mũi khi bước vào nhà. Mẹ nói: - Đừng lo, Charles. Anh chỉ ngửi thấy cà phê những nước cũng đang sôi để pha trà cho anh. Bố nói: - Tốt! Trà chính là món uống của đàn ông khi trời lạnh. Laura trải chiếc khăn bàn trắng sạch và đặt lên giữa bàn chiếc chén thuỷ tinh đựng đường, bình thuỷ tinh đựng đầy kem và cái cắm muỗng bằng thuỷ tinh đầy những chiếc muỗng bạc dựng đứng vừa với tầm tay. Quanh bàn, Carrie đặt dao, nĩa và chế đầy các ly nước trong khi Laura chất một chồng dĩa ngay chỗ của Bố. Khi tất cả đã ngồi quanh bàn ăn, cô hào hứng đặt lên một chiếc thuỷ tinh đựng nửa trái hộp trong lớp xi rô vàng óng. Bố và ông Boast đã rửa ráy và chải đầu xong. Mẹ đặt vào phòng chứa đồ ăn chiếc bình và chiếc chảo trống cuối cùng, quay lại giúp Laura với bà Boast chuyển mau những món ăn chót tới bàn. Rất nhanh, Mẹ và Laura bỏ những chiếc tạp dề làm việc và khoác những tấm tạp dề Giáng Sinh vào. Mẹ lên tiếng: - Tới thôi, bữa ăn đang chờ! Bố nói: - Tới, Boast! Ngồi xuống và ăn cho thật tình! Có cả kho thức ăn để nhồi vào một tách trà! Phía trước là chiếc khay lớn với con thỏ nướng nằm giữa những đống bánh nhồi hành đang bốc hơi. Một bên khay là dĩa khoai tây nghiền chất cao và bên kia là một tô nước xốt màu sậm béo ngậy. Thêm vào đó là những dĩa đầy bánh mì nóng, bánh qui nóng và một dĩa dưa leo ngâm dấm. Mẹ rót trà và cà phê thơm ngát trong lúc Bố chất thịt thỏ đang bốc hơi cùng với khoai tây, nước xốt lên từng chiếc dĩa. Bố nói: - Đây là lần đầu mình ăn bữa trưa Giáng Sinh bằng một con thỏ lớn. Trước đây mình sống ở những nơi có quá nhiều thứ thỏ này nên nó gần như là món ăn thường nhất và món ăn ngày Giáng Sinh phải là gà rừng. Mẹ nói: - Đúng đó, Charles và món thịt thỏ là món mình có nhiều nhất. Nhưng ở vùng đất của người da đỏ thì không có phòng chứa thức ăn của nhân viên dịch lộ để có đào và trái cây giầm. Ông Boast nói: - Đối với tôi thì hình như đây là món thịt thỏ ngon nhất mà tôi được ăn. Ngay cả nước xốt cũng rất tuyệt. Mẹ lên tiếng nhún nhường: - Cái đó là món nước xốt tuyệt nhất. Nhưng bà Boast nói: - Tôi đã biết do đâu mà món thịt thỏ này ngon như thế. Chị Ingalls đã ướp lên thịt thỏ những lát thịt heo ướp muối xắt mỏng khi đem nướng. Mẹ nhìn nhận: - Đúng là tôi đã làm thế. Tôi nghĩ rằng nhờ vậy có thể cải thiện mùi vị món ăn. Tất cả đã qua lần tiếp thứ hai. Rồi Bố và ông Boast lấy lần thứ ba còn Mary, Laura, Carrie không từ chối nhưng Mẹ chỉ lấy thêm một miếng bánh nhồi và bà Boast chỉ ăn thêm đúng một chiếc bánh qui. Bà ấy nói: - Tôi no quá rồi, không thể ăn thêm nổi một miếng nào nữa. Khi Bố lại thọc nĩa vào khay thì Mẹ nhắc nhở: - Hãy chừa bụng lại, Charles. Cả anh lẫn anh Boast. Rồi Mẹ bước vào phòng chứa thức ăn mang ra món bánh thịt nhồi táo khô. Bố nói: - Bánh thịt nhồi! Và ông Boast nói: - Bánh thịt nhồi táo! Nhào tới thôi, tôi ước gì biết trước là có món này. Tất cả ăn món bánh nhồi thịt một cách từ từ và Bố với ông Boast chia đôi phần bánh còn lại. - Tôi không dám hy vọng còn có một bữa trưa Giáng Sinh nào ngon hơn. Ông Boast nói và thở ra một hơi dài thoả mãn: Bố nói: - Rồi! Đây là bữa trưa Giáng Sinh đầu tiên có người ăn trên vùng đất này. Tôi rất mừng là đã có một bữa ăn ngon. Mai đây chắc chắn là sẽ có rất nhiều người mừng Giáng Sinh ở quanh đây. Tôi chờ họ sẽ mang tới nhiều thứ hơn nhưng tôi không dám chắc họ có đầy đủ hơn so với chúng ta lúc này. Một lát sau, Bố và ông Boast miễn cưỡng đứng lên và Mẹ bắt đầu dọn bàn. Mẹ nói với Laura: - Mẹ rửa chén dĩa. Còn con lo giúp bà Boast sắp xếp mọi thứ. Thế là Laura cùng Boast khoác áo, đội mũ, choàng khăn, mang bao tay bước ra ngoài trời chói sáng và lạnh như cắt. Cả hai cười đùa mở lối đi xuyên qua tuyết tới căn nhà nhỏ bên cạnh được dùng làm văn phòng của các nhân viên dịch lộ. Bố và ông Boast đang ở trước cửa nhà mang đồ trên cỗ xe xuống. Căn nhà không có nền và nhỏ đến mức chỉ có thể kê vừa vặn một chiếc giường đôi. Bố và ông Boast kê chiếc lò bếp ở một góc nhà gần cửa ra vào. Laura giúp bà Boast mang nệm nhồi lông và những tấm chăn phủ vào làm giường. Rồi cả hai kê bàn ăn sát khung cửa sổ đối diện với lò bếp và đẩy hai chiếc ghế vào gầm bàn. Chiếc rương của bà Boast đặt chen giữa bàn ăn và giường làm một chỗ ngồi khác. Phía trên lò bếp là một chiếc giá và bên cạnh lò là một cái thùng để đựng bát dĩa. Căn phòng chỉ còn lại một khoảng đủ để mở cánh cửa ra vào tới sát chiếc bàn ăn. Bố nói, khi mọi việc đã xong: - Rồi! Bây giờ thì anh chị định cư. Bốn người chúng ta không thể ở đây nhưng còn dư phòng ở một căn nhà khác là sở chỉ huy. Anh nghĩ thế nào về một ván cờ, Boast? Bà Boast nói: - Các anh đi quanh một lúc đi. Laura ở lại đây với tôi. Khi hai người đi rồi, bà Boast lấy từ dưới đống dĩa ra một túi giấy đầy căng. Bà ấy nói với Laura: - Bắp rang! Rob không hề biết là tôi mang bắp theo. Cả hai lén mang chiếc túi lên căn nhà và giấu trong phòng cất thức ăn rồi thì thầm với Mẹ. Một hồi sau, khi Bố và ông Boast đang chúi đầu vào ván cờ thì mọi người đun nóng mỡ trong chiếc ấm sắt một cách lặng lẽ rồi trút vào đó một nắm bắp rang. Ngay tiếng nổ đầu tiên, Bố lập tức ngó quanh. Bố kêu lên: - Bắp rang! Tôi không được nhai bắp rang từ lâu… Nếu tôi biết là anh mang theo bắp rang thì tôi đã lôi ra từ lâu rồi, Boast. Ông Boast nói: - Tôi đâu có mang bắp theo. Rồi ông kêu lên: - Nell, em lưu manh nghe! - Hai anh cứ việc đánh cờ đi. Bà Boast lên tiếng, cặp mắt xanh lơ của bà ấy như cười với chồng và tiếp: - Hai anh quá bận nên khỏi cần lưu ý tới chúng tôi. Mẹ nói: - Đúng đó, Charles! Chúng tôi không muốn quấy rồi ván cờ của các anh. Bố nói: - Bằng mọi cách, tôi sẽ thắng anh. Ông Boast cãi lại: - Anh chưa thắng đâu. Mẹ trút những hạt bắp trắng như tuyết vào một chảo sữa và Laura cẩn thận nêm muối. Mấy người rang thêm một ấm đầy nữa và chiếc chảo không thể chứa thêm được. Lúc đó, Mary cùng Laura và Carrie có một đĩa đầy những hạt bắp giòn tan thơm phức còn Bố Mẹ và ông Boast ngồi quanh chiếc chảo vừa nhai bắp và trò chuyện, cười đùa cho tới giờ đi lo các việc thường lện, tới cả giờ ăn tối và cả lúc Bố chơi đàn. Laura nghĩ: - Mỗi ngày Giáng Sinh đều tuyệt hơn Giáng Sinh năm trước. Mình đoán phải như thế vì mình vẫn đang lớn lên. Chương 22: Những Ngày Đông Hạnh Phúc Cảm giác ngày Giáng Sinh còn kéo dài nhiều ngày. Mỗi buổi sáng, bà Boast lo bữa ăn sáng thật nhanh và tới tiêu thời giờ với “mấy cô gái khác” như bà ấy nói. Bà ấy luôn vui vẻ, thích thú và luôn duyên dáng với mái tóc đen mềm mại, cặp mắt xanh lơ hom hỉnh, đôi má ửng sáng rạng rỡ. Tuần lễ đầu tiên có nắng thì gió ngưng và nội sáu ngày, tuyết đã tan hết. Đồng cỏ phô ra một màu nâu trơ trụi và bầu không khí ấm áp giống như có mùi sữa. Bà Boast nấu bữa ăn trưa mừng Năm Mới. Bà ấy nói: - Tất cả phải quây quần trong cái chỗ tí hon của tôi một lần. Bà ấy nhờ Laura phụ giúp mọi việc. Cả hai đặt bàn ăn lên trên giường để mở hết cánh cửa ra vào áp sát vách. Rồi bàn ăn được kê lại ở chính giữa nhà. Một góc bàn ăn gần đụng vào lò bếp còn đầu kia thì gần như áp sát giường. Nhưng vẫn còn khoảng trống cho mọi người bước vào theo hàng một và ngồi quanh bàn. Bà Boast ngồi bên lò bếp để lo tiếp thức ăn được đặt trên lò. Trước tiên là món súp sò. Suốt đời mình, Laura không bao giờ còn được nếm một món nào ngon bằng cái món sữa nóng đượm hải vị thơm ngát đó kèm với lớp kem đầy những đốm vàng cùng những chấm hạt tiêu màu đen rắc bên trên và những con sò đóng hộp nhỏ ở bên dưới. Cô húp thật chậm từng muỗng cố giữ cho cái hương vị đó đọng thật lâu trên lưỡi. Ăn kèm với theo món xúp này còn có những chiếc bánh qui lạt nhỏ hình tròn. Bánh qui lạt tương tự như loại bánh-qui-búp-bê nhưng ngon hơn. Khi những giọt súp cuối cùng đã hết và những chiếc bánh qui lạt cuối cùng đã được phân chia thì tới phiên món bánh qui nóng ăn với mật và xốt dâu rừng khô. Sau đó là một chảo đầy bắp rang muối giòn tan vẫn còn nóng hổi. Đó là bữa ăn trưa đón mừng Năm Mới. Bữa ăn nhẹ nhàng nhưng thật no nê. Bữa ăn còn có vẻ kiểu cách vì có những thứ mới lạ và cách tiếp món ăn rất thanh nhã trên những chiếc đĩa xinh xắn và chiếc khăn trải bàn mới toanh của bà Boast Sau bữa ăn, tất cả cùng ngồi nói chuyện trong căn nhà nhỏ đầy khí trời nhẹ nhàng và phía ngoài khung cửa mở, đồng cỏ màu nâu kéo xa tít tắp tới tận chỗ nền trời xanh nhạt uốn cong xuống. Bố nói: - Tôi chưa từng được nếm một món mật ngon hơn, Boast ạ. Tôi mừng là anh đã mang được nó từ Iowa tới đây. Mẹ nói: - Cả món sò nữa. Tôi không biết bao giờ tôi mới thiết nổi một bữa ăn trưa như thế này. Bố nói: - Đây là sự mở đầu tốt đẹp cho năm 1880. Những năm bảy mươi đã không tệ lắm, nhưng những năm tám mươi có vẻ sẽ khá hơn. Nếu đây là một mẫu mực cho mùa đông ở Dakota thì tất cả chúng ta đã may mắn tới được miền tây. Ông Boast tán đồng: - Đây là một xứ rất tuyệt. Tôi mừng vì đã lo xong thủ tục trên một trăm sáu mươi mẫu đất và tôi mong an cũng sẽ có như thế, Ingalls. Bố nói: - Tôi đã có đất trước khi tôi già thêm được một tuần lễ. Tôi đang chờ sở điền địa ở Brookins mở cửa để tiết kiệm một tuần lễ đi về tới Yankton. Người ta bảo sở điền địa Brookins sẽ mở cửa vào ngày đầu năm và với thời tiết này, tôi sẽ lên đường vào sáng mai, nếu Caroline nói được. Mẹ nói một cách thản nhiên: - Em chấp thuận, Charles. Mắt Mẹ và cả gương mặt Mẹ rạng rỡ nét vui vì bây giờ thì Bố đã chắc chắn có một trang trại trong thời gian không xa. Bố nói: - Vậy là xong. Không phải tôi nghĩ nếu chậm quá sẽ có điều gì nguy hiểm nhưng cần dứt điểm sớm cho rồi. Ông Boast nói: - Càng sớm càng tốt, Ingalls. Tôi nói với anh rằng anh chưa có ý niệm rõ rệt về điều mà cuộc xô tới đây sẽ đem đến vào mùa xuân này. Bố đáp: - Tốt, không ai ở đó sẽ nhanh hơn tôi. Khởi hành trước lúc mặt trời mọc thì tôi sẽ có mặt tại sở điền địa sớm sau buổi sáng mai. Như vậy, nếu anh chị muốn gửi thư về Iowa thì tôi sẽ mang theo và gửi ở bưu điện Brookins. Bữa ăn đón mừng Năm mới chấm dứt như thế. Bà Boast và Mẹ viết thư vào buổi chiều hôm đó, Mẹ còn lo gói cho Bố một phần ăn trưa để mang theo. Nhưng buổi tối, gió nổi lên cuốn theo đầy tuyết và sương giá lại bắt đầu bò trên các ô kính cửa sổ. Bố nói: - Loại thời tiết này thì không thể đi đâu được. Nhưng đừng lo về nông trại, Caroline. Anh sẽ lo xong. Mẹ đáp: - Dạ, em biết là anh lo được mà, Charles. Trong thời gian có bão, Bố lo những chiếc bẫy rập và căng các bộ da để hong khô. Ông Boast thì tới chỗ hồ Henry kéo những cụm cây về chẻ củi để đốt vì ông không có than. Mỗi ngày, bà Boast vẫn tới chơi. Thường khi nắng lên, bà ấy cùng Laura và Carrie bọc kĩ trong quần áo ấm cùng nhau đùa giữa đám tuyết dầy. Hộ vật lộn, rượt đuổi, ném những trái banh tuyết và có ngày còn nặn một người tuyết. Tay trong tay, cả ba chạy và lướt trên mặt hồ Nước Bạc giữa cái lạnh như cắt, Laura chưa khi nào được cười đùa nhiều như thế. Một buổi chiều sau khi trượt băng, họ trở về trễ gần hụt hơi nhưng ấm áp. Bà Boast nói: - Laura, ghé qua nhà tôi một lát đã. Laura đi theo và bà Boast cho cô thấy một chồng báo cao ngất. Những tờ báo New York Ledgers này được bà ấy mang từ Iowa tới. Bà ấy nói: - Cháu có thể lấy tuỳ sức mà ôm. Khi nào đọc xong thì đem trả lại rồi lấy tiếp những tờ khác. Laura chạy về nhà với một ôm báo. Cô chạy ào vào nhà và thả hết vào lòng Mary. Cô kêu lớn: - Coi này, Mary! Coi em mang gì về này! Những câu chuyện! Tất cả đều là chuyện! Mary nói một cách háo hức: - Ô, mau lên, đi lo cho xong buổi tối rồi cùng đọc. Nhưng Mẹ nói: - Khỏi cần nghĩ tới công việc, Laura! Đọc đi thôi! Thế là trong lúc Mẹ và Carrie lo bữa tối, Laura bắt đầu đọc cho tất cả cùng nghe một câu chuyện kì lạ về những người lùn cùng hang động của những bọn cướp và một cô gái đẹp bị lạc trong các hang động đó. Cô đọc đến đoạn căng thẳng nhất thì thấy đột ngột xuất hiện mấy chữ “còn tiếp” và, không còn một lời nào khác về câu chuyện nữa. Mary rên rỉ: - Ôi, tiếc thật! Mình không thể nào biết cô gái đó sẽ gặp chuyện gì. Laura, do đâu mà em cho rằng họ chỉ in có phần đó của câu chuyện. Laura hỏi: - Mẹ, tại sao người ta làm thế? Mẹ nói: - Họ không làm vậy đâu. Hãy tìm trong tờ báo kế tiếp. Laura tìm trong tờ báo sau, tờ sau rồi tờ sau nữa. Cô kêu lên: - Ô, đây rồi! Đây nữa, đây nữa. Có cả đống cả đây rồi, Mary! Đến đây mới có chữ “Hết”. Mẹ nói: - Đó là một truyện dài liên tục. Laura và Mary chưa từng nghe nói tới một truyện dài liên tục nhưng Mẹ biết. Mary lên tiếng một cách hài lòng: - Tốt rồi. Vậy thì mình để dành phần tiếp cho ngày mai. Mỗi ngày mình chỉ đọc một đoạn để câu chuyện sẽ kéo dài hơn. Mẹ nói: - Các con của Mẹ thật khôn ngoan. Vậy là Laura không thể nói ý của cô muốn đọc càng nhanh càng tốt. Cô cẩn thận cất những tờ báo đi. Mỗi ngày cô đọc thêm một đoạn và sau đó tất cả đều tự hỏi vào ngày tới sẽ có chuyện gì xảy ra với cô gái đẹp kia. Vào những ngày bão, bà Boast mang những món đồ khâu hoặc đan qua và đó là những ngày đọc báo và chuyện trò ấm cúng. Một bữa, bà Boast nói về những cái được gọi là kệ tháp. Bà ấy nói ở Iowa, mọi người đều làm những cái kệ tháp và chỉ cho các cô cách làm. Thế là Laura nói Bố đóng cho một cái giá ba góc ghép vừa khít vào một góc nhà. Bố làm cái giá có năm tầng khác cỡ, tầng rộng nhất ở dưới cùng, tầng nhỏ nhất ở trên đầu được gắn chặt với nhau bằng những tấm ván hẹp. Khi Bố làm xong, cái kệ tháp vừa khít một góc phòng và đứng vững chãi trên ba chân. Đầu giá chỉ cao vừa với tầm với của Mẹ. Rồi bà Boast cắt một tấm màn che bằng giấy bồi treo từ cạnh này qua cạnh khác của một ngăn giá. Bà ấy cắy phía dưới giấy bồi một đường viền vỏ sò với những nếp uốn lớn ở giữa và nhỏ dần ở hai bên. Những miếng giấy bồi với các đường viền vỏ sò vừa với kích thước của những ngăn giá từ rộng ở dưới đáy tới nhỏ ở trên đầu. Kế tiếp, bà Boast còn chỉ cách gắt và gấp những góc vuông nhỏ bằng giấy bao nền. Các cô gấp từng góc vuông rồi bắt chéo lại và ép cho thẳng. Khi gấp xong mười hai góc vuông, bà Boast chỉ cho Laura cách khâu lại thành hàng trên tấm giấy bồi cho gần sát nhau và những mũi nhọn hướng xuống. Mỗi hàng đều gối lên hàng ở bên dưới và mỗi mũi nhọn phải nằm giữa hai mũi nhọn ở hàng dưới, tất cả các hàng phải uốn theo đường cong của những đường viền vỏ sò. Trong lúc làm việc trong căn nhà gọn ghẽ, ấm áp, họ kể chuyện, ca hát và chuyện trò. Mẹ và bà Boast nói rất nhiều về những nông trại. Bà Boast đã có đủ hạt giống cho hai thửa vường nên bà ấy nói sẽ chia bớt cho Mẹ và Mẹ không còn lo về hạt giống nữa. Khi thị trấn được xây dựng có thể hạt giống sẽ bán trong thị trấn nhưng cũng không cần. Vì bà Boast đã mang theo rất nhiều từ vườn của mấy người anh ở Iowa. Mẹ nói: - Tôi hết sức biết ơn khi được định cư xong. Đây là lân di cư cuối cùng của chúng tôi. Ingalls đã đồng ý như thế từ trước khi chúng tôi rời Minnesota. Các con tôi sẽ được đi học và sống theo cung cách văn minh. Laura không rõ là cô có muốn định cư hay không. Khi cô đi học thì cô sẽ phải đi dạy học và thà rằng nghĩ tới một điều gì khác. Thà rằng cô phải cất tiếng hát còn hơn là nghĩ tới mọi thứ. Cô có thể lảm nhảm hát khe khẽ để không cắt ngang câu chuyện và thường thì sau đó, Mẹ cùng bà Boast, Mary và Carrie đều hát theo cô. Bà Boast dạy cho các cô hai bài hát mới. Laura rất thích bài “lời Khuyên Của Kẻ Lang Thang”. Đừng tin gã, hỡi cô nàng duyên dáng Dù gã thì thầm dịu ngọt nỉ non Đừng bận tâm vì gã đang quì gối Và buông lời tha thiết nài xin Nàng tươi mát như gió lành sáng sớm Không một gợn mây, hạnh phúc tràn dâng Quên gã đi, hỡi cô nàng duyên dáng Ráng lắng nghe lời của kẻ lang thang Bài hát kia là “Khi Anh Hai Mươi Mốt và Em, Nell, Vừa mười Bảy”. Đây là bài hát mà ông Boast thích nhất. Ông đúng hai mươi mốt tuổi khi gặp bà Boast, và bà ấy vừa tròn mười bảy. Tên thật của bà ấy là Ella, nhưng ông Boast gọi bà ấy là Nell. Cuối cùng, năm tấm giấy bồi đã được phủ vừa vặn bằng những hàng giấy có mũi nhọn gối lên nhau và không lộ ra một mũi khâu nào, ngoại trừ những mũi khâu dọc theo phía trên của hàng trên đầu. Lúc đó, bà Boast khâu một dải giấy màu nâu ở phía trên và gấp lại để che kín đường chỉ. Công việc chốt là đóng mỗi tấm giấy bồi vào ngăn giá phù hợp. Những đường viền vỏ sò cứng được phủ kín bằng những mũi nhọn nhỏ bằng giấy cứng treo một cách cứng đơ. Bố cẩn thận sơn toàn thể chiếc kệ tháp cùng tất cả những mũi giấy với màu nâu xám. Khi sơn khô, chiếc kệ tháp được đặt trong góc sau ghế của Mary. Bố nói: - Chiếc kệ tháp là như thế. Mẹ nói: - Này, nó không đẹp hả? Bố nói: - Đây là một thứ đơn giản. Mẹ nhắc Bố: - Bà Boast bảo đây là một thứ mốt ở Iowa. Bố nhìn nhận: - Đúng, chị ấy phải biết rõ điều đó. Và, ở Iowa chẳng có thứ gì là quá tốt đối với em, Caroline. Thời điểm tuyệt nhất với mọi người vẫn là sau giờ ăn tối. Mỗi tối Bố đều chơi đàn và lúc này sang sảng giọng ca của ông bà Boast. Một cách tươi vui, Bố đàn và hát: Khi trẻ trung ngang dọc Ta vung tiền mua vui Đời sao mà đẹp thế Đời bay bổng tuyệt vời Rồi có nàng bên cạnh Ta với nàng chung đôi Nàng là nguồn hạnh phúc Cõi tiên giữa cuộc đời. Đoạn tiếp của bài ca lại nói nang không phải là người vợ hiền nên không bao giờ Bố hát tiếp đoạn này. Mắt Bố long lanh nhìn Mẹ trong lúc tiếng nhạc như cười vui, bốc cao tới chóng mặt rồi Bố hát: Nàng là một chiếc bánh Billy! Billy ơi! Nàng là một chiếc bánh Billy thương nhất đời Nàng là một chiếc bánh Chỉ trong chợp mắt thôi Nhưng nàng bé bỏng mãi Để bên ta không rời Tiếng nhạc chuyển sang vui nhộn ầm ĩ trong khi chỉ có Bố và ông Boast cùng hát: Cá cược vào con ngựa cái đuôi cộc Cá cược vào con ngựa xám, bạn ơi! Ngay cả trong những bài hát, Mẹ cũng không muốn nhắc tới bài bạc nhưng ngón chân Mẹ không thể ngưng đập khi Bố chơi khúc nhạc này. Rồi mỗi buổi chiều, tất cả lại hát xoay vòng. Giọng cao nam của ông Boast mở đầu “Ba con chuột mù!” Và kéo dài trong lúc giọng nữ trầm của bà Boast cất lên “Ba con chuột mù!”. Rồi khi giọng bà ấy ngân dài thì giọng trầm nam của Bố nối theo “Ba con chuột mù!” Tiếp tới là giọng nữ cao của Laura giọng nữ trầm của Mẹ rồi tới Mary và Carrie. Khi ông Boast hát tới câu cuối, ông ấy lại bắt đầu ngay trở lại không ngưng nghỉ và mọi người đều lần lượt hát theo: Ba con chuột mù! Ba con chuột mù! Chạy theo sau một bà chủ trại Dao bà chặt đứt đuôi tuốt luốt Chuyện ra sao, ai biết gì không Về ba con chuột mù đuôi cụt! Tất cả cứ hát cho tới khi một người bật cười và bài hát chấm dứt rời rạc trong sự hụt hơi và những tiếng cười. Rồi Bố chơi tiếp một vài điệu ca cổ “để ru ngủ” như Bố nói: Cô gái nellie qua đời hồi tối Chuông từng hồi báo tử ngân vang Người đẹp Nell dễ thương không còn nữa Cố nhân thành xa cách vô vàn Và: Bạn nhớ chăng một giai nhân hiền dịu Được gọi tên Alice mắt nâu Rơi nước mắt khi bạn cười mơn trớn Và sợ run khi bạn thoáng u sầu Rồi: Trong đêm đen lặng lẽ Giấc ngủ thành câm lặng Kỉ niệm xưa ngọt dịu Bừng sáng khắp trời đông Laura chưa bao giờ sung sướng như thế, nhưng không rõ vì sao cô luôn thấy sung sướng nhất vào lúc tất cả mọi người cùng hát: Này dốc đất bờ cao thân thiết Làm sao hoa bừng nở thắm tươi? Này chim non làm sao ríu rít Khiến cho ta chẳng dám xa rời? Chương 23: Trên Đường Pilgrim Một tối chủ nhật, cây đàn của Bố đang chơi một điệu ca dành cho ngày chủ nhật và tất cả mọi người đang cùng hát say sưa: Khi đón niềm vui trong ngôi nhà êm ấm Cất tiếng ca vang khúc nhạc tuyệt vời Quên lãng được chăng những dòng nước mắt Đang đau buồn tuôn chảy giữa đơn côi? Hãy mở bàn tay… Tiếng đàn đột ngột dừng lại. Từ phía ngoài một giọng ca sang sảng cất lên: …nâng dắt người đang mệt lả. Hãy mở bàn tay nâng dắt người vất vả đường dài. Cây đàn như kêu lên kinh ngạc khi Bố buông nó xuống mặt bàn, vội vã bước ra cửa. Hơi lạnh ùa vào và cánh cửa đóng sập lại. Phía ngoài nổi lên những giọng nói oang oang rồi cánh cửa mở tung và hai người đàn ông phủ đầy tuyết chuệnh choạng bước vào có Bố đi theo sau nói: - Tôi ra lo cho mấy người đánh xe rồi trở vào ngay. Một trong hai người đàn ông cao và gầy. Giữa mũ và khăn choàng của ông ta, Laura nhìn thấy một cặp mắt xanh hiền từ. Trước khi cô kịp biết mình cần làm gì thì cô đã nghe chính mình hét lên: - Cha Alden! Cha Alden! Mẹ cũng kêu lên: - Không tin nổi là Cha Alden! Cha Alden thật sao! Ông ta nhấc chiếc mũ ra khỏi đầu và lúc này tất cả có thể thấy rõ cặp mắt dễ thương cùng mái tóc màu nâu sậm. Mẹ nói: - Thật mừng khi gặp lại Cha, Cha Alden! Cha lại gần lò sưởi đi! Thật bất ngờ hết sức! Cha Alden nói: - Tôi còn bất ngờ hơn mọi người nữa, chị Ingalls. Tôi đã rời khỏi những người thân thuộc định cư ở vùng suối Plum. Tôi không hề nghĩ anh chị lại rời về miền tây và để các cô gái quê nhỏ bé của tôi lớn lên thành các quí bà ở đây. Laura không nói được một lời nào. Niềm vui được thấy lại Cha Alden đã chặn nghẹn họng cô. Nhưng Mary lên tiếng một cách lễ phép: - Rất mừng được gặp lại Cha, thưa Cha. Mắt Mary sáng lên nét vui mừng nhưng cặp mắt của cô vẫn đờ đẫn. Cặp mắt đó khiến Cha Alden kinh ngạc. Cha nhìn Mẹ thật nhanh rồi lại nhìn Mary. Mẹ nói: - Đây là ông bà Boast, láng giềng của chúng tôi. Đây là Cha Alden. Cha Alden: - Tất cả quí vị đều đang hát rất hay khi chúng tôi tới đây. Ông Boast lên tiếng: - Chính Cha cũng có giọng hát rất hay, thưa Cha. Cha Alden nói: - Ô, không phải tôi hát nối theo đâu. Đây mới là người đó, Scotty. Tôi quá lạnh phải nhờ bộ râu đỏ của ông ấy sưởi ấm. Đây là Cha Stuart, đây là những người bạn cũ hiền lành của tôi và các bạn của họ nên tất cả chúng mình đều là bạn của nhau. Cha Stuart trẻ tới mức không lớn hơn một thiếu niên bao nhiêu. Mái tóc ông ấy đỏ như lửa, mặt cũng ửng đỏ vì lạnh và cặp mắt màu xám nhạt long lanh. - Laura, bày bàn đi. Mẹ khẽ nói và buộc tấm tạp dề. Bà Boast cũng mang tạp dề và tất cả đều bận rộn cơi lửa, nấu nước sôi pha trà, làm bánh, chiên khoai trong lúc ông Boast nói chuyện với khách vẫn đang đứng hơ ấm bên lò bếp. Bố từ nhà chuồng trở về cùng với hai người đàn ông là chủ xe ngựa. Họ là các chủ trại đang trên đường tới định cư ở vùng sông Jim. Laura nghe thấy Cha Alden nói: - Hai chúng tôi chỉ là khách đi đường. Chúng tôi nghe nói có một thị trấn tên là Huron là một khu định cư trong vùng sông Jim. Hiệp hội Truyền Giáo Địa Phương gửi chúng tôi tới xem xét đất đai và chuẩn bị để khởi công xây cất một nhà thờ tại đó. Bố nói: - Tôi đoán sẽ có một thành phố xuất hiện trên nền đường sắt. Nhưng tôi chưa hề nghe nhắc tới có một công trình xây dựng nào ngoại trừ một quán rượu. Cha Alden trả lời một cách vui vẻ: - Có nhiều lí do thúc đẩy nên xây dựng một nhà thờ. Sau khi bữa ăn tối đãi khách chấm dứt. Cha tới trước cửa phòng chứa thức ăn, nơi Mẹ và Laura đang rửa chén dĩa. Cha cảm ơn Mẹ về những món ăn tối ngon miệng rồi nói: - Chị Ingalls, thật tình tôi rất buồn về tai hoạ đã đến với Mary. Mẹ đáp một cách buồn bã: - Dạ, thưa Cha. Nhiều khi thật khó thuận tòng ý của Chúa. Khi ở suối Plum, tất cả chúng tôi đều mắc chứng sốt tinh nhiệt huyết và xoay sở khó khăn trong một thời gian. Tôi phải cảm ơn vì tất cả lũ nhỏ đã cùng chia xẻ với chúng tôi. Mary chính là niềm an ủi lớn lao với tôi đó, Cha Alden. Cháu chưa từng than thở một lần nào. Cha Alden nói: - Mary là một con người hiếm có và là một bài học cho tất cả chúng ta. Chúng ta cần nhớ rằng người mà Chúa thương yêu nhất sẽ được Chúa thử thách nhiều nhất và một tinh thần dũng cảm sẽ biến tất cả những nỗi đau đớn của chúng ta thành những điều tốt lành. Tôi không rõ chị và anh Ingalls có biết là hiện có rất nhiều trường dành cho người bị khiếm thị. Ngay tại Iowa cũng có một trường. Mẹ nắm chặt một mép chảo và gương mặt Mẹ khiến Laura kinh ngạc. Giọng nói nhỏ nhẹ của Mẹ như bị nghẹn lại và háo hức: - Có tốn kém nhiều không ạ? Cha Alden đáp: - Tôi không rõ, chị Ingalls. Tôi sẽ hỏi rõ giúp chị nếu chị cần. Mẹ nuốt nước miếng và tiếp tục rửa chén. Mẹ nói: - Chúng tôi không có đủ khả năng để lo việc đó. Nhưng có lẽ sau này… nếu không tốn kém lắm, chúng tôi có thể sẽ xoay sở vào một lúc nào đó. Tôi vẫn luôn mong Mary được học hành. Tim Laura đập dồn dập. Cô có thể cảm thấy nhịp tim dội lên ngang họng và những ý nghĩ chạy tán loạn vụt bay hết khỏi đầu khiến cô không nhận rõ đó là những gì. Cha Alden nói: - Cần trọn tin nơi Chúa lòng lành đối với chúng ta. Sau khi chị rửa dĩa xong, tất cả chúng ta nên có một buổi cầu nguyện ngắn không? Mẹ nói: - Dạ, thưa Cha. Tôi rất thích thế. Tôi bảo đảm là tất cả chúng tôi cũng vậy. Sau khi rửa xong chén dĩa, Mẹ và Laura rửa tay rồi cởi bỏ tạp dề, vuốt tóc lại. Cha Alden và Mary đang trò chuyện sôi nổi trong khi bà Boast ẵm bé Grace còn ông Boast cùng hai người chủ trại đang nói với Cha Stuart và Bố về các thứ lúa mì, lúa mạch mà Bố dự tính trồng ngay khi vỡ đất xong. Khi Mẹ bước vào, Cha Alden đứng lên nói tất cả hãy cùng ngồi lại cầu nguyện trước khi đi ngủ. Mọi người đều quì xuống bên cạnh ghế và Cha Alden cầu xin Chúa trời, người hiểu rõ mọi tâm tư và ý nghĩ thầm kín của họ, hãy soi sáng cho họ, tha thứ cho họ mọi lỗi lầm và dìu dắt họ cư xử hợp lẽ. Gian phòng im ắng khi Cha lên tiếng. Laura cảm thấy mình giống như cỏ khô bụi bặm trong một cơn hạn hán và sự im ắng kia là một trận mưa mát rượi nhẹ nhàng rơi xuống. Đó thực sự là một sự nghỉ ngơi. Mọi thứ lúc này đều thành đơn giản và cô cảm thấy bình thản, mạnh mẽ. Cô vui mừng vì mình sẽ được chăm chỉ làm việc và không cầu mong một điều gì ngoài việc Mary có thể tới trường. Sau đó ông bà Boast cảm ơn Cha Alden và về nhà còn Laura cùng Carrie bồng bé Grace lên gác. Mẹ sửa soạn chỗ nằm bên cạnh lò bếp. Mẹ xin lỗi: - Chúng tôi chỉ có một chiếc nệm và sợ rằng không có đủ chăn phủ ấm. Cha Alden nói: - Đừng bận tâm, chị Ingalls. Chúng tôi sẽ dùng áo khoác của mình. Cha Stuart nói: - Tôi chắc chắn là chúng tôi đã được đầy đủ lắm rồi. Thật mừng vì chúng tôi đã gặp được anh chị ở đây. Chúng tôi đã nghĩ là phải đi không ngừng tới Huron trước khi nhìn thấy ánh đèn và nghe thấy tiếng hát của mọi người. Trên gác, Laura giúp Carrie cởi nút áo trong bóng tối. Cô đặt chiếc bàn ủi hơ nóng gần bàn chân của Mary. Khi đã nằm sát nhau ấm áp dưới những lớp chăn phủ lạnh như băng, các cô nghe thấy Bố và khách vẫn cười nói quanh lò bếp. Mary thì thầm: - Laura, Cha Alden nói với chị là có những trường học dành cho người mù. Carrie thì thào: - Cái gì dành cho người mù? Laura thì thào: - Trường học, chỗ người ta dạy học đó. Carrie hỏi: - Người ta làm thế nào nhỉ? Em nghĩ là chị phải đọc, phải học. Mary nói: - Chị không biết. Nhưng chị chắc khó tới nổi đó. Việc đó tốn kém lắm. Chị không cho rằng mình còn có một dịp may nào nữa. Laura thì thào: - Mẹ biết. Cha Alden cũng đã nói với Mẹ. Có thể chị sẽ tới đó, Mary. Em mong như thế. Cô hít một hơi thật sâu rồi hứa: - Em sẽ đi học chăm chỉ để có thể đi dạy và giúp phần nào. Buổi sáng, giọng nói của khách và tiếng dĩa va chạm đánh thức Laura. Cô lao khỏi giường, thay đồ rồi vội vã xuống nhà giúp Mẹ. Ngoài trời khô và lạnh. Nắng xối trên những khung cửa sổ đọng sương nhưng trong nhà mọi người đều ấm áp, vui vẻ. Khách dùng bữa điểm tâm hết sức ngon lành! Mọi món ăn đều được khen ngợi. Những chiếc bánh qui tan ra nhẹ nhàng, những miếng khoai tây chiên nâu bóng bên món thịt bằm hoàn hảo, những lát thịt heo ướp muối xắt mỏng giòn rụm thêm món nước xốt đặc như kem sậm màu quyến rũ. Lại có cả món xi-rô nóng và tràn trề nước trà đang bốc hơi thơm ngát. Cha Stuart nói: - Món thịt ngon tuyệt. Tôi biết đây chỉ là món thịt heo ướp muối nhưng tôi chưa bao giờ thấy nó ngon như thế. Chị có thể cho biết cách chị nấu ra sao không, chị Ingalls? Mẹ có vẻ ngạc nhiên và Cha Alden giải thích: - Scotty sẽ tới phục vụ trong phái bộ truyền giáo ở đây. Tôi chỉ có mặt vào lúc ông ấy bắt đầu thôi. Ông ấy sẽ sống một mình và phải tự lo nấu nướng. - Cha biết cách nấu nướng chứ, Cha Stuart? Mẹ hỏi và ông ấy đáp là sẽ học bằng cách thực nghiệm. Ông ta có mang theo nhiều thứ như đậu, bột, muối, trà và thịt heo ướp muối. Mẹ nói: - Món thịt đó nấu rất dễ. Chỉ cần xắt lát mỏng cho vào nước và đun sôi vừa phải. Khi nước sôi vừa độ thì lấy thịt ra, lăn với bột rồi chiên cho vàng sậm. Lấy thịt đã chiên giòn đặt lên khay và rưới mỡ lên. Tiết kiệm mỡ thì dùng bơ. Sau đó, xào một ít bột với mỡ trong chảo chiên, xối lên một ít sữa và khuấy đều cho tới lúc sôi thì sẽ có nước xốt. Cha Stuart nói: - Chị có ý nghĩ ghi lại những điều này không? Cần bao nhiêu bột và bao nhiêu sữa? - Chúa ơi! Mẹ nói: - Tôi không bao giờ đong đo nhưng tôi nghĩ là có thể nhắm chừng. Mẹ lấy một mảnh giấy và cây viết nhỏ có quản viết cẩn xà cừ của Mẹ cùng lọ mực rồi viết lại cách nấu các món thịt heo ướp muối chiên và nước xốt, cách làm bánh qui bằng bột chua, cách nấu xúp đậu và cách làm món đậu hấp trong lúc Laura dọn sạch bàn thật nhanh còn Carrie chạy đi mời ông bà Boast tới dự buổi lễ thuyết giảng. Có một buổi lễ vào sáng thứ hai thì hình như không ổn lắm, nhưng khách cần đi dứt đoạn chót của cuộc hành trình tới Huron và không ai muốn bỏ lỡ dịp may được nghe một bài thuyết giảng. Bố đàn cho mọi người cùng hát một bản thánh ca. Cha Stuart với tờ giấy ghi cách nấu các món ăn của Mẹ trong túi, đọc một đoạn cầu nguyện ngắn cầu xin sự dẫn dắt cho mọi nỗ lực của họ. Rồi Cha Alden đi vào bài thuyết giảng. Sau đó, tiếng đàn tươi vui ngọt ngào của Bố trỗi lên và tất cả cùng hát: Xa xa kia là đất lành hạnh phúc Các thánh rạng ngời trong ánh sáng chói chang Cùng lắng nghe tiếng thiên thần ca hát Ngợi ca người, Chúa Tể của nhân gian. Khi ngựa, xe đã sẵn sàng lên đường. Cha Alden nói: - Các bạn đã dự buổi lễ đầu tiên ở thị trấn mới mẻ này. Vào mùa xuân tôi sẽ trở lại để tổ chức một buổi lễ ở nhà thờ. Rồi Cha nói với Mary, Laura và Carrie: - Các con lại sẽ có buổi học ngày chủ nhật! Tất cả các con có thể dự phần lo cho một Cây Giáng Sinh vào dịp Giáng Sinh năm tới. Cha bước lên xe và ra đi bỏ họ lại sau nhìn theo với những ý nghĩ ngổn ngang. Quấn kín trong khăn choàng, áo khoác, mũ trùm đầu, tất cả đứng ngắm cỗ xe lăn bánh về miền tây trên lớp tuyết nguyên vẹn và để lại vết bánh hằn phía sau. Ánh nắng nhất rọi xuống và được phản chiếu thành hàng triệu tia sáng nhỏ lấp lánh trên một vùng trắng toát. Bà Boast nói qua lớp khăn san gấp phủ ngang miệng: - Thật dễ chịu được dự buổi lễ nhà thờ đầu tiên ở đây. Carri hỏi: - Tên thị trấn sắp mở ở đây là gì? Laura nói: - Nó chưa có tên, phải không Bố? Bố đáp: - Có rồi. Tên là De Smet. Đây là tên của một tu sĩ người Pháp đã thám hiểm vùng này trước đây. Tất cả quay vào trong nhà ấm áp. Mẹ nói: - Chàng trai tội nghiệp đó khó tránh khỏi huỷ hoại sức khoẻ của mình. Sống trơ trọi một mình và phải tự lo nấu nướng lấy. Mẹ đang ám chỉ giáo sĩ Stuart. - Ông ta là người Tô Cách Lan. Bố nói tựa hồ ông ấy sẽ lo liệu ổn thoả mọi thứ. Ông Boast lên tiếng: - Ingalls, anh nghĩ thế nào về đám người đổ xô tới vào mùa xuân? ở đây có hai chủ trại và tháng ba đã bắt đầu khó khăn. Bố nói: - Đó cũng là điều tôi đang lo. Sáng mai dù mưa hay nắng tôi cũng đi Brookins. Chương 24: Đợt Sóng Mùa Xuân - Tối nay không chơi đàn. Bố nói vào bữa ăn tối hôm đó: - Cần ngủ sớm để dậy sớm cho kịp xác nhận quyền làm chủ nông trại vào ngày mốt. Mẹ nói: - Em mừng lắm, Charles. Sau tất cả những công việc bận rộn tíu tít vào tối trước và buổi sáng, căn nhà trở lại yên tĩnh bình thường. Bữa tối đã xong, bé Grace nằm ngủ trên chiếc giường có bánh lăn và mẹ đang gói bữa ăn trưa cho bố ăn trên đường đi tới Brookins. Mary bỗng nói: - Nghe coi! Dường như có người đang nói chuyện. Laura vội úp mặt vào ô kính cửa sổ và đưa bàn tay che bớt ánh đèn. Cô nhìn thấy một cặp ngựa và một cỗ xe đầy người trên tuyết. Một người trong đám hô lên rồi một người khác nhảy xuống. Bố bước ra và mấy người xúm lại nói chuyện. Rồi bố quay vào, khép cửa lại. Bố nói: - Có năm người, caroline. Họ là người lạ, đang trên đường đi huron. Mẹ nói: - Ởđây đâu có đủ chỗ cho họ. - Caroline, mình nên thu xếp cho họ nghỉ tạm qua đêm. ở đây không có một chỗ nào cho họ nghỉ và kiếm thức ăn. Ngựa của họ cũng mệt rồi và họ đều không thông thạo đường đi. Nếu họ cố chạy tới huron tối nay thì họ sẽ lạc giữa đồng cỏ và có thể chết cóng. Mẹ thở dài: - Thôi, anh hiểu rõ hơn mà, Charles. Thế là mẹ lo nấu bữa tối cho năm người lạ. Gian phòng đầy ủng và những giọng nói ồm ồm với cả đống mền, gối để những người lạ ngủ trên nền sàn gần lò bếp. Ngay trước khi chén dĩa được rửa xong, mẹ còn đang ngâm bàn tay trong nước đã nhắc: - Đi ngủ thôi, các con. Chưa đến giờ ngủ những các cô biết mẹ không muốn để các cô ngồi lại giữa những người đàn ông lạ đó. Carrie theo Mary qua cửa cầu thang, nhưng mẹ giữ Laura lại, dúi vào tay cô một mảnh gỗ. Mẹ nói: - Cài miếng gỗ này vào khe hở trên then cửa. Cài thật chắc và để nguyên tại đó. Như thế không ai có thể nhấc then để mở cửa. Mẹ muốn cửa được khoá chắc chắn. Sáng mai, chờ mẹ gọi mới được xuống. Buổi sáng, Laura cùng Mary và Carrie nằm trên giường cho tới sau khi mặt trời mọc. Các cô nghe thấy tiếng những người lạ nói chuyện ở dưới nhà và tiếng dĩa chén va chạm. Laura nhắc lại: - Mẹ nói phải chờ mẹ gọi mới được xuống. Carrie nói: - Em mong họ đi phứt cho rồi. Em không thích người lạ. Laura nói: - Chị cũng không thích và mẹ cũng thế. Nhưng họ phải mất nhiều thời giờ để lo lên đường vì là những tay mơ. Cuối cùng họ cũng ra đi và trong bữa ăn trưa bố nói bố sẽ đi Brookins vào sáng hôm sau. Bố nói: - không khởi hành sớm thì đi vô ích. Chuyến đi mất trọn ngày và thật vô nghĩ khởi hành vào lúc này để phải ngủ đêm ở giữa đường trong cái lạnh này. Đêm đó lại có thêm những người lạ tới. Đêm sau cũng có nữa. Mẹ nói: - Tội nghiệp, mình không thể nào có nổi một đêm yên tĩnh sao? Bố nói: - Anh không thể làm gì nổi, Caroline. Mình không thể từ chối không cho họ trú chân trong khi khắp vùng này không có một nơi nào cho họ dừng tạm. Mẹ nói giọng quả quyết: - Mình sẽ tính tiền ăn ở với họ, Charles. Bố không muốn tính tiền một bữa ăn và một chỗ nằm tạm, những bố biết là mẹ có lý, thế là bố đặt giá hai mươi lăm xu một bữa ăn và hai mươi lăm xu một chỗ nằm qua đêm cho người và ngựa. Không còn ca hát, không còn những buổi ăn tối thoải mái và những buổi tối ấm cúng. Mỗi ngày đều có thêm người lạ tới chất đống quanh bàn ăn và mỗi đêm ngay sau khi rửa xong chén dĩa, Laura cùng Mary, Carrie phải lập tức lên gác, cài chặt cửa. Những người lạ đến từ Iowa, từ Ohio, từ Illinois và Michi-gan, từ Wisconsin và Minnesota, từ những miền xa xăm NewYork và Vermont. Họ đổ dồn về Huron hay Fort Pierre hay xa hơn nữa về miền tây để kiếm đất lập nông trại. Một buổi sáng, Laura ngồi trên giường nghe ngóng. Cô nói: - Bố đi đâu nhỉ? Em không nghe thấy tiếng bố mà chỉ có tiếng của ông Boast. Mary đoán: - Có lẽ bố đi lo thủ tục về nông trại. Cuối cùng, khi những cỗ xe cồng kềnh lăn bánh về hướng miền tây, mẹ gọi các cô xuống và cho biết bố đã đi từ trước lúc mặt trời mọc. Mẹ nói: - Bố không muốn đi trong khi để mình lại giữa những đợt sóng người thế này, nhưng bố bắt buộc phải đi. Nếu bố không đi mau thì một người nào đó có thể sẽ được nhìn nhận là chủ phần đất nông trại của mình. Mình không ngờ nổi là có một đợt sóng người ào tới đây như vậy và tháng ba bắt đầu quả là khó khăn. Lúc đó mới là tuần lễ đầu tiên của tháng ba, cửa ra vào để ngỏ và không khí giống như vào mùa xuân. Mẹ nói: - Tháng ba đến như một con cừu non thì sẽ ra đi như một con sư tử. Tốt, các con, có rất nhiều việc phải làm. Hãy dọn nhà cho gọn gàng trước khi có người tới. Laura nói trong lúc cùng Carrie rửa mấy chồng chén dĩa: - Chị mong cho tới lúc bố trở về sẽ không có ai tới. Carrie hy vọng: - Có lẽ sẽ không có ai. Mẹ nói: - Ông Boast sẽ trông coi mọi thứ trong lúc bố đi vắng. Bố đã nhờ ông bà boast tới ở đây. Ông bà ấy sẽ ở trong phòng ngủ, còn mẹ với grace lên ngủ ở trên gác với các con. Bà Boast đã tới để phụ giúp. Hôm đó, tất cả họ lau nhà và chuyển giường nằm. Tất cả đều rất mệt khi nhìn thấy một cỗ xe từ phía đông tiến tới vào lúc mặt trời lặn. Trên xe có năm người. Ông Boast giúp họ đưa ngựa vào chuồng. Bà Boast giúp mẹ nấu bữa ăn tối. Họ chưa ăn xong bữa thì một cỗ xe khác tới chở theo bốn người. Laura dẹp bàn, rửa chén dĩa, rồi giúp lo bày bữa tối cho những người này. Trong lúc mấy người này đang ăn thì một cỗ xe khác tới với sáu người. Mary đã lên gác để tránh đám đông. Carrie hát ru cho bé Grace trong phòng ngủ với khung cửa đóng kín. Laura lại lo dọn bàn và lại rửa chén dĩa. Mẹ nói với bà Boast trong phòng chứa thức ăn: - Điều tệ hơn nữa là trong phòng không còn đủ chỗ cho mười lăm người nằm trên nền sàn. Mình sẽ phải sắp xếp chỗ nằm cho họ ở gian chái. Và họ sẽ phải dùng áo choàng, áo khoác, tấm phủ của họ để làm mền gối. Bà Boast nói: - Rob sẽ lo chuyện đó. Tôi đã nói với anh ấy rồi. Tội nghiệp, không phải là một cỗ xe khác đó chứ? Laura lại phải rửa chén dĩa và bày bàn ăn trở lại. Căn nhà đầy ắp người lạ, những cặp mắt lạ, những giọng nói lạ, những chiếc áo khoác dềnh dàng, những đôi ủng đầy bùn đến nổi cô khó chen bước qua. Cuối cùng thì tất cả cũng ăn xong và đó là lần rửa chén dĩa sau chót. Mẹ ắm Grace theo sau Laura và Carrie lên cầu thang, cẩn thận chèn cánh cửa lại. Mary đang ngủ trên giường còn Laura díp mắt lại trong lúc thay quần áo. Nhưng vừa đặt lưng nằm xuống, cô đã choàng thức dậy do tiếng ồn ở dưới nhà, Có tiếng bước chân nặng nề và tiếng nói lớn. Mẹ ngồi dậy nghe ngóng. Phòng ngủ dưới nhà im phăng phắc vì ông Boast thấy tiếng ồn kia không có gì đáng kể. Mẹ nằm xuống trở lại. Tiếng ồn dữ dội hơn. Đôi lúc gần như ngừng hẳn rồi lại đột ngột bùng lên. Một tiếng đổ loảng xoảng dưới nhà khiến Laura bật dậy, kêu lên: - Mẹ, chuyện gì đó? Giọng mẹ trầm hẳn tựa hồ sợ tiếng ồn ở nhà dưới vang lên ồn hơn. Mẹ nói: - Im, Laura. Nằm xuống đi. Laura nghĩ là cô không thể ngủ nổi. Cô mệt mỏi tới mức tiếng ồn khiến cô đảo lộn hết. Nhưng một tiếng đổ vỡ khác đưa cô ra khỏi cơn thiếp ngủ. Mẹ nhắc: - Ổn rồi, Laura. Ông Boast đang ở đó. Laura thiếp ngủ trở lại. Buổi sáng mẹ khẽ lay gọi cô và thì thào: - Dậy, Laura! Tới giờ lo bữa điểm tâm rồi. Đừng làm ai thức giấc. Cả hai cùng xuống cầu thang. Ông Boast đã gom mền gối lại. Đám đàn ông lạ đầu tóc rối bù, mắt đỏ hoe ngái ngủ đang mang ủng và mặc áo khoác. Mẹ và bà Boast vội vã nấu bữa sáng. Bàn ăn nhỏ lại không có đủ chén dĩa nên Laura phải bày bàn và rửa chén dĩa ba lần. Cuối cùng, tất cả đều đi khỏi và mẹ gọi Mary dậy trong lúc mẹ cùng bà Boast lo nấu thêm một bữa ăn sáng còn Laura lại rửa chén dĩa và bày bàn thêm một lần nữa. Bà Boast than thở: - Ôi, cái đêm hôm qua! Mary hỏi: - Có chuyện gì vậy? Mẹ nhỏ nhẹ: - Dường như mấy người đó uống rượu. Ông Boast nói: - Đúng là như thế! Họ lôi ra cả đống chai và một bình rượu mạnh. Tôi đã tính can thiệp, nhưng liệu tôi có thể làm được gì để chống lại một đám đông mười lăm người say tỉ bỉ? Thế là tôi đành bỏ mặc họ vật lộn với số rượu miễn là họ không đốt nhà. Mẹ nói: - Tôi phải cảm ơn là họ đã không làm vậy. Hôm đó, một thanh niên lái xe tới chở theo một đống gỗ xẻ. Anh ta lôi những tấm ván từ Brookins tới để dựng một cửa hàng trong khu thị trấn. Một cách vui vẻ, anh ta đề nghị mẹ nấu cơm tháng cho anh ta trong thời gian anh ta lo cất nhà. Mẹ không thể từ chối vì ở đây không còn chỗ nào cho anh ta ăn uống. Tiếp theo là một người đàn ông cùng với con trai từ vùng Sioux Falls tới. Hai cha con cũng mang theo ván xẻ để một cửa hàng tạp hoá. Họ cũng yêu cầu nấu cơm tháng và sau khi đồng ý, mẹ nói với Laura: - Cừu nào thì cũng là cừu cả. Ông Boast nói: - Nếu Ingalls không mau về thì ở đây sẽ có cả một thị trấn trước khi anh ấy về tới. Mẹ trả lời một cách lo ngại: - Tôi chỉ mong là anh ấy không bị châm trong việc làm thủ tục về nông trại. Chương 25: Cuộc Đánh Cá Của Bố Hôm đó giống như một ngày không có thật. Mí mắt Laura như có cát và cô ngáp không ngừng dù không cảm thấy buồn ngủ. Buổi trưa người thanh niên tên Hinz và hai người tên Harthon đến ăn cơm trưa. Buổi chiều, tiếng búa của họ vang lên từ các toà nhà đang dựng. Có vẻ như Bố đã vắng nhà lâu lắm rồi. Đêm đó Bố không trở về. Suốt ngày hôm sau cũng không thấy Bố. Rồi đêm cũng không thấy Bố về. Lúc này Laura tin chắc Bố đang gặp khó khăn trong việc hợp thức hoá nông trại. Có lẽ Bố không thể đạt được quyền sở hữu chủ. Nếu như thế thì cả nhà có thể phải đi về miền tây, tới Oregon. Mẹ không chịu cho bất kì người nào khác ngủ lại trong nhà. Chỉ có Hinz và hai người tên Harthon đặt nệm nằm trên sàn gần lò bếp. Thời tiết không còn lạnh cóng nên nhiều người có thể ngủ ngay trên xe. Mẹ tính giá hai mươi lăm xu mỗi bữa ăn tối và Mẹ cùng bà Boast thức thật khuya để nấu nướng còn Laura lo rửa chén dĩa. Số người tới ăn đông đến mức Mẹ không đếm nổi nữa. Rất trễ trong buổi chiều ngày thứ tư Bố mới về tới nhà. Bố vẫy tay khi đưa đám ngựa mệt mỏi về chuồng và Bố mỉm cười khi bước vào nhà: - Tốt lắm, Caroline! Chào các con! Chúng ta đã đạt yêu cầu! Mẹ kêu lên mừng rỡ: - Thế là xong rồi! Bố cười: - Anh đã đuổi theo nó mà, đúng không? Rrrr! Phóng ngựa lạnh quá! Để anh tới gần lo hơ nóng đã! Mẹ cời lửa ra và nấu nước pha trà. Mẹ hỏi: - Anh có gặp khó khăn gì không, Charles? Bố nói: - Em không tin nổi đâu. Anh chưa bao giờ được thấy một cảnh chen chúc như thế. Giống như cả nước đang kéo tới làm hồ sơ về đất đai. Anh tới Brookins đúng vào đêm hôm đầu tiên và sáng hôm sau, lúc tới Sở Điền Địa anh không kiếm nổi một chỗ nào gần cửa. Mọi người đã xếp hàng đứng chờ tới phiên. Đứng trước anh có quá nhiều người đến nỗi hết ngày hôm đó vẫn chưa tới lượt anh. Laura la lớn: - Bố không đứng đó suốt ngày chứ, Bố? - A, suốt ngày, Nhà- Kho- Vỗ- Cánh ạ! Carrie lên tiếng: - Vậy là không có gì ăn sao? Ô, không được đâu, Bố! - Xì, Bố đâu có lo về chuyện đó. Chuyện làm Bố lo là đám đông. Bố cứ nghĩ một người nào đó xếp hàng ở phía trước sẽ dành mất phần đất của mình. Caroline, anh chưa từng thấy một đám đông như thế. Nhưng mối lo của anh lúc đó chẳng thấm tháp gì so với điều diễn ra sau đó. Laura hỏi: - Điều gì, Bố? - Để chàng trai này lấy hơi lại đã, Nhà- Kho- Vỗ- Cánh! Chuyện thế này, khi Sở Điền Địa đóng cửa, Bố chen trong đám đông tới nhà hàng để ăn bữa tối thì nghe thấy hai người đang nói chuyện. Một người tới khai nhận đất ở Huron. Người kia lại nói De Smet sẽ là một thị trấn tốt hơn Huron và ông ta đề cập tới ngay miếng đất mà Bố đã chọn vào mùa đông vừa rồi. Ông ta nếu ra các số ghi và nói việc đầu tiên ông ta làm vào sáng hôm sau là tới làm thủ tục khai nhận miếng đất đó. Ông ta nói đây là miếng đất duy nhất gần với địa điểm dựng thị trấn còn trống. Vì vậy ông ta phải khai nhận nó mặc dù ông ta chưa từng thấy. Tốt, vậy là đủ cho Bố rồi. Bố phải đánh bại anh ta để đạt yêu cầu. Lúc đầu Bố nghĩ sẽ dậy sớm vào sáng hôm sau, rồi Bố lại thấy vẫn chưa chắc chắn nắm được cơ may. Thế là ngay sau khi ăn xong bữa tối, Bố đi luôn tới Sở Điền Địa. Carrie nói: - Con nghĩ là Sở đóng cửa mà. - Đúng thế. Nhưng Bố tới chỉ để ngồi trên bậc cửa chờ qua đêm. Mẹ lên tiếng trong lúc đưa ly trà cho Bố: - Chắc anh không thấy cần làm vậy chứ, Charles? Bố nhắc lại: - Cần làm điều ấy không hả? Anh không phải là người duy nhất nghĩ tới điều đó. May thay, anh là người đầu tiên tới đó. Đêm đó có hơn bốn mươi người chờ tại đó và kế liền sau anh chính là hai người mà anh đã nghe thấy họ nói chuyện. Bố thổi nước trà cho nguội bớt và Laura nói: - Hai người đó đâu có biết Bố muốn khai nhận miếng đất đó phải không? Bố vừa uống trà vừa nói: - Họ không biết Bố từ đâu tới, cho tới khi một người bạn tới nói lớn “Chào Ingalls! Vậy là anh đã qua mùa đông ở Hồ Nước Bạc. Đang định cư ở De Smet, hả?” Mary than: - Ôi, Bố! Bố nói: - Vậy đó, thế là mỡ đã nằm trên lửa rồi. Bố biết là Bố sẽ không còn cơ hội nào nếu nhúc nhích khỏi chiếc cửa. Cho nên Bố không rời chỗ. Lúc mặt trời mọc, đám đông tăng lên gấp nhiều lần và có tới hai trăm người xô lấn tiến lên chen đẩy Bố để dành đứng trước Sở Điền Địa lúc cửa mở. Bữa đó, không còn ai chịu xếp hàng nữa. Cần có một người bạn và một sự quỉ quái để lôi sự muộn màng đi. - Đó, các con gái, rồi sau hết, cửa mở. Cho anh thêm trà được không, Caroline? Laura la lên: - Ôi, Bố, kể tiếp đi! Con năn nỉ đó! Bố nói: - Ngay khi cửa mở, người đàn ông đi Huran chen Bố bật ra sau và nói với người kia “Vào đi! Tôi cản anh ta cho”. Như thế là phải đập lộn và trong lúc Bố lo đập lộn thì người kia đã khai nhận nông trại của mình rồi. Ngay lúc đó, nhanh như gió cuốn, một người lao thẳng vào người đàn ông đi Huron giống như cả một tấn gạch. Anh ta hét lên “Vào đí, Ingalls! Tôi lo hắn cho! Ngo-oa-aa-ao-ao!” Tiếng hét như mèo rừng của Bố dội vào các bức vách và Mẹ hổn hển: - Chúa ơi, Charles! Bố nói: - Các con không bao giờ đoán nổi người đó là ai. Laura hét lớn: - Ông Edwards! Bố sững sờ: - Do đâu mà con đoán vậy, Laura? Laura nhắc lại: - Ông ấy vẫn kêu như thế khi ở vùng đất của người da đỏ. Ông ấy nhận mình là con mèo hoang của xứ Tennessee. Ôi, Bố, ông ấy đâu rồi? Bố có rủ ông ấy về đây không? Bố nói: - Bố không thể đưa ông ấy đi cùng với Bố được. Bố đã nghĩ ra mọi lời thuyết phục, nhưng ông ấy đang làm thủ tục khai nhận đất ở phía nam vùng này nên phải ở lại để tránh bị tranh chấp. Ông ấy nhờ Bố nhắc cả ba mẹ con, Caroline, Mary và Laura hãy nhớ tới ông ấy. Khiếp thật, đúng là ông ta đã làm bùng nổ một trận đánh. Mary lo lắng hỏi: - Ông ấy có bị đau không? - Không có một vết trầy. Ông ấy chỉ khai màn trận đấu rồi lỉnh ngay khi Bố lòn được vào bên trong và bắt đầu làm thủ tục. Nhưng việc này xong trước lúc đám đông dịu xuống. Họ… Mẹ cắt ngang: - Những điều tốt đẹp đã kết thúc tốt đẹp, Charles. Bố nói: - Anh mong như vậy, Caroline. Phải, anh mong sẽ đúng như vậy. Này, các con, Bố đã đánh cá với chú Sam đổi hết một trăm sáu mươi mẫu đất chỉ lấy mười bốn đô-la là mình sẽ sống vững sau năm năm ở đây. Các con có chịu giúp Bố thắng cuộc không? - Ôi, có chứ, Bố! Carrie sôi nổi nói: - Dạ, Bố! Mary lên tiếng một cách vui vẻ còn Laura bình tĩnh hứa: - Dạ, Bố! Mẹ nói nhẹ nhàng theo đúng cách riêng của Mẹ: - Em không muốn nghĩ vể việc này như một trò đen đỏ. Bố nói: - Mọi chuyện đều là đỏ đen, không hơn không kém, Caroline. Chẳng có gì chắc chắn ngoài cái chết và thuế má. Chương 26: Cơn Sốt Xây Cất Không có đủ thời giờ để kéo dài trò chuỵên với Bố. Nắng đã chiếu xiên qua ô cửa sổ phía tây vào nền sàn và Mẹ nhắc: - Phải đi lo cơm tối. Một người tới ăn bây giờ. Bố hỏi: - Người nào vậy? Laura năn nỉ: - Ô, chờ một chút đã, Mẹ. Con muốn khoe với Bố. Một điều bất ngờ, Bố! Cô vội vã bước vào phòng chứa thức ăn và lôi ra từ một túi đựng đậu trống rỗng một bao nhỏ đầy tiền. - Coi này, Bố, coi này! Bố cầm lấy chiếc bao nhỏ trong sự ngạc nhiên ngắm gương mặt của mọi người đang rạng rỡ với những nụ cười. - Caroline! Em và các con đang làm gì vậy? Laura nói lớn: - Hãy nhìn bên trong, Bố! Cô nôn nóng trong lúc Bố mở chiếc bao nhỏ: - Có mười lăm đô-la hai mươi lăm xu! Bố nói: - Anh sẽ phải nhảy lên! Sau đó, Laura và Mẹ bắt đầu lo bữa tối trong lúc kể cho Bố nghe mọi chuyện xảy ra khi Bố vắng nhà. Trước khi dứt câu chuyện, một cỗ xe khác lăn tới cửa. Có bảy người lạ tới ăn bữa tối tức là có thêm một đô-la bảy mươi lăm xu nữa. Lúc này đã có Bố ở nhà và những người lạ có thể ngủ lại trên nền nhà quanh lò bếp. Laura không bận tâm phải rửa bao nhiêu chén dĩa hoặc mệt mỏi, thèm ngủ ra sao. Bố và Mẹ đang kiếm ra tiền và cô đã góp phần vào đó. Buổi sáng cô rất ngạc nhiên. Không có thời giờ để hỏi chuyện do có đông người ăn sáng và cô phải túi bụi rửa chén dĩa cho kịp. Cuối cùng khi đã vét sạch chảo thức ăn và treo lên, cô lại bận rộn quét lau nền sàn nhớp nhúa trước khi bắt đầu gọt vỏ khoai cho bữa ăn trưa. Cô chỉ có thể nhìn thoáng quang cảnh của một ngày tháng ba có nắng nhưng se lạnh với những màu xanh-trắng-nâu ở phía ngoài trong lúc trút sạch chảo thức ăn. Và, cô nhìn thấy Bố đang lái cỗ xe chở đầy gỗ xẻ về thị trấn. Cô hỏi Mẹ: - Bố đang làm gì ở ngoài đồng? Mẹ nói: - Bố đang lo dựng nhà ở thị trấn. - Ai cho vậy? Laura hỏi và bắt đầu quét nhà. Các ngón tay cô móp lại vì ngâm lâu trong nước. - Phải nói là “Cho ai”, Laura! Mẹ sửa lại câu nói của cô và tiếp: - Cho Bố! Mẹ lôi qua cửa một ôm mền gối để đưa ra hong khô ngoài trời. Laura nói khi Mẹ bước vào: - Con ngỡ là mình sắp dọn qua khu đất đã khai nhận. Mẹ nói: - Mình còn tới sáu tháng để lo dựng nông trại. Người kéo đến thị trấn đang tăng nhanh nên Bố các con nghĩ là sẽ kiếm được tiền bằng cách dựng một căn nhà. Bố lấy số ván xẻ trong các nhà lán đường sắt dựng một cửa hàng để bán. - Ô, Mẹ, tất cả số tiền mà mình kiếm được không phải kì lạ sao! Laura nói và quét mạnh trong lúc Mẹ gom thêm một đống mền gối khác. Mẹ nhắc: - Hạ cây chổi xuống, Laura. Đừng có hất nó lên để khua bụi như thế! Và Mẹ tiếp: - Đúng, nhưng không nên đếm gà con trước khi trứng nở. Trong tuần lễ đó, căn nhà luôn đầy người đến ăn cơm tháng đều đặn. Họ là những người đang dựng nhà ở thị trấn hoặc trên các nông trại đã khai nhận xong. Từ sáng sớm tới tối mịt, Laura và Mẹ không còn đủ thời gian để thở. Suốt ngày tiếng xe cộ qua lại ồn ào không dứt. Những người lái xe đang cố kéo gỗ từ Brookins tới thật nhanh và những khung nhà màu vàng mọc lên mỗi ngày. Đường phố chính Main Street đã hiện ra trên mặt đất làm bùn dọc theo nên đường sắt. Mỗi đêm, những tấm nệm phủ kín nền sàn trong gian phòng lớn và gian chái. Bố ngủ trên nền sàn cùng những người ăn cơm tháng để Mary, Laura, Carrie rời xuống phòng ngủ cùng Mẹ và bé Grace dành căn gác cho những người ăn cơm tháng trải nệm khắp sàn. Thức ăn đã cạn và lúc này Mẹ phải mua thêm bột, muối, đậu, thịt, bột bắp nên không kiếm được nhiều tiền. Thức ăn đắt hơn gấp ba bốn lần so với giá ở Minnesota vì công chuyên chở tăng lên rất cao. Đường đi lầy bùn nên các xe ngựa chở hàng không thể nào chất được nhiều. Dù vậy, Mẹ vẫn lời mỗi bữa ăn vài xu và kiếm được một miếng nhỏ cũng còn hơn là chẳng có gì. Laura ao ước là có thời giờ tới coi Bố dựng nhà. Cô mong sẽ được nói với Bố về toà nhà những Bố luôn ăn chung với những người ăn tháng rồi hối hả đi. Lúc này không còn thời giờ để trò chuyện. Trên đồng cỏ màu nâu không có gì trước đó đột ngột hiện ra một thị trấn. Chỉ trong hai tuần lễ, dọc theo đường phố chính Main Street là những căn nhà mới chưa sơn chen lần những mặt tiền mỏng manh và những tầng lầu cao vượt lên ở trên. Phía sau những mặt tiền giả này, các toà nhà nằm kín dưới những tấm mái dốc bằng ván bào ghép lên nhau. Những người lạ đã sống ở đó và khói bếp đã bay lên xám xịt từ những ống khói trong lúc các ô kính cửa sổ lấp lánh dưới ánh nắng. Một bữa, Laura nghe thấy một người đàn ông nói qua tiếng đĩa chén khua trong bữa ăn trưa là ông ta mở một nhà hàng. Trong đêm trước, ông ta đã chở từ Brookins về cả đống ván xẻ. Vợ ông sẽ tới cùng với chuyến ván chở tiếp sau. Ông ta nói: - Nội trong một tuần chúng tôi sẽ lo kinh doanh. Bố nói: - Rất mừng được nghe thấy như vậy, thưa ông. Điều thị trấn này đang cần là một nhà hàng. Ông cần lo nhanh thủ tục về đất đai. Sự hối hả cũng chấm dứt đột ngột như lúc bắt đầu. Một buổi tối, Bố Mẹ cùng Mary, Laura, Carrie và bé Grace ngồi vào bữa ăn tối. Không có mặt thêm một ai khác. Quanh họ chỉ là căn nhà của họ không có một người lạ nào. Một sự yên tĩnh dễ chịu ngự trị, êm ả và nhẹ nhàng như sự yên tĩnh sau một cơn bão tuyết hay sự yên tĩnh của một cơn mưa sau kỳ đại hạn. Mẹ thở ra một cách thoải mái: - Em không ngờ nổi là mình mệt tới thế. Bố nói: - Anh mừng là em và các con đã lo xong cho mọi người. Họ không trò chuỵên nhiều. Thật dễ chịu lại trở về với bữa ăn tối chỉ có riêng mình. Mẹ nói: - Laura và em đã tính hết rồi. Kiếm được hơn bốn mươi đô-la. Laura thêm: - Bốn mươi đô-la năm mươi xu. Bố nói: - Mình sẽ cất riêng món tiền đó lại và cố giữ nguyên. Laura nghĩ là nếu có thể để dành thì cũng chỉ chờ tới khi có đủ để gửi Mary tới trường. Bố nói tiếp: - Lúc này anh đang chờ đám nhân viên lộ dịch tới vào bất kỳ bữa nào. Tốt nhất là mình nên sẵn sàng để anh giao trả lại căn nhà này cho họ. Mình có thể sống ở trong thị trấn cho tới khi bán xong căn nhà ở đó. Mẹ nói: - Tốt lắm, Charles. Ngày mai em với các con sẽ lo giặt giũ và đóng gói mọi thứ. Hôm sau, Laura phụ giúp việc giặt chăn mền. Cô vui vẻ kéo rổ đồ tới dây phơi trong thời tiết se lạnh dễ chịu của tháng ba. Những cỗ xe chở khách đang chậm chạp lăn bánh trên con đường lầy lội chạy về phía tây. Chỉ còn một dải băng quang bờ hồ Nước Bạc giữa đám cỏ héo úa trong đầm lầy. Mặt nước hồ xanh như màu trời và xa tắp trên nền trời mờ sáng, một mũi tên làm bằng những chấm đen nhỏ li ti xuất hiện từ phía nam. Vẳng lại mờ nhạt từ đó, âm thanh đơn điệu của một con ngỗng cất tiếng gọi bầy. Bố vội vã bước vào trong nhà, Bố nói: - Đàn ngỗng đầu tiên bay tới. Bữa trưa mà có món ngỗng quay thì như thế nào? Bố hối hả xách súng chạy đi. Mary nói: - Chà, ngon tuyệt! Thịt ngỗng quay ướp rau thơm! Em thích món đó không, Laura? Laura đáp: - Không, chị biết là em không thích mà. Chị vẫn biết em không thích rau thơm. Mình sẽ ướp với hành. Mary phản đối: - Nhưng chị không thích hành. Chị thích rau thơm. Laura bước lui trên gót chân trong lúc đang lau sàn nhà. - Em khỏi cần biết chị thích gì. Em sẽ không làm món đó. Em nghĩ là em có thể làm món gì em thích. Mẹ ngạc nhiên: - Các con sao thế! Cãi cọ hả? Mary nhắc lại: - Con thích ướp rau thơm. Laura hét lớn: - Con thích ướp hành. Mẹ lên tiếng với vẻ mệt mỏi: - Các con, Mẹ không nghĩ đây là chuyện để nổi nóng. Và Mẹ cũng chưa hề nghe thấy một điều nào ngu ngốc như thế. Cả hai đứa các con đều biết rõ mình không có rau thơm và cũng không có hành. Cánh cửa mở ra và Bố bước vào. Bố bình thản treo súng vào chỗ. Bố nói: - Cũng không có một con ngỗng nào trong tầm bắn. Cả bầy đều bốc cao khi tới hồ Nước Bạc và tiếp tục bay về hướng bắc. Chắc chúng nhìn thấy những ngôi nhà mới và nghe thấy tiếng ồn ào. Có vẻ từ giờ này việc săn bắn quanh đây sẽ giảm sút. Chương 27: Cuộc Sống Thị Trấn Bao quanh khu thị trấn đang xây dựng là đồng cỏ mênh mông xanh rì dưới nắng với những thảm cỏ mới đang mọc khắp nơi. Hồ Nước Bạc trong xanh in bóng những cụm mây trắng trên trời. Chậm chậm, Laura và Carrie bước kèm hai bên Mary hướng về thị trấn. Theo sau các cô là cỗ xe chất đầy với Bố và Mẹ cùng Grace ngồi trên và con bò Ellen cột vào sau xe. Cả nhà đang chuyển về ngôi nhà Bố dựng trong thị trấn. Các nhân viên lộ dịch đã trở lại. Ông bà Boast đã rời về khu đất của họ. Không còn chỗ nào để ở ngoại trừ căn nhà Bố đang cất dở và ở giữa cảnh chen lấn, lăng xăng, bận rộn của một thị trấn mà Laura chưa hề biết gì ở đó. Cô không cảm thấy được sống riêng biệt, hạnh phúc như ở trên đồng cỏ mà chỉ thấy lạc lõng và hoang mang. Người của thị trấn hoàn toàn khác lạ. Những người đàn ông đang làm việc túi bụi trong những căn nhà mới suốt hai bên phố Main Street. Vỏ bào, mạt cưa cùng các mẩu ván vất rải rác trên đường phố lầy bùn và những đám cỏ non bị dẫm nát với những vết bánh xe cắt hằn qua. Qua những khung nhà còn dở dang, dưới những lối đi giữa các căn nhà và ở phía bên kia cả hai đầu phố là đồng cỏ xanh rợn sóng xa tắp yên ắng dưới bầu trời trong, nhưng thị trấn sôi động ồn ào với tiếng cưa xoẹt xoẹt, tiếng búa chí chát, tiếng các thùng đồ, các tấm ván xẻ trút từ trên xuống thình thịch hoà lẫn với tiếng trò chuyện lớn tiếng. Laura và Carrie rụt rè chờ xe của Bố lên tới mới dẫn Mary đi kèm theo một bên xe cho tới lúc đến được góc phố mà Bố đã cất nhà. Mặt tiền giả của căn nhà đứng cao sừng sững cắt ngang một khoảng trời. Bố mở một khuôn cửa trước và mỗi bên là một ô cửa sổ lồng kính. Cửa ra vào mở vào một căn phòng dài với khuôn cửa sau ở dưới phòng và cạnh cửa sau là một ô cửa sổ. Nền sàn là những tấm ván rỗng, các bức vách cũng bằng ván mà ánh sáng bên ngoài đang chiếu xuyên qua các khe hở cùng các lỗ hổng. Tất cả căn nhà chỉ có thế. Bố nói: - Căn nhà này không được ấm và ván ghép không được khít, Caroline. Anh không có thời giờ để bít vách, đóng trần và cũng không có gờ mái dưới hiên để che các kẽ hở lớn. Nhưng mình sẽ đủ ấm vì mùa xuân đã tới và anh sẽ làm xong căn nhà không bao lâu nữa. Mẹ nói: - Anh nên đóng một cầu thanh để mình có thể lên gác xếp. Bây giờ em chỉ căng một tấm màn che ngang chia thành hai phòng để mình có chỗ ngủ tạm cho tới khi anh có thể đóng vách ngăn. Mình khỏi cần bít vách và đóng trần trong thời tiết ấm như thế này. Bố nhốt Ellen và ngựa vào một chuồng nhỏ ở cuối khoảnh đất. Rồi Bố đặt lò bếp và căng dây cho Mẹ treo màn che. Mẹ treo những tấm chăn lên đó trong lúc Laura giúp Bố kê giường. Sau đó, Carrie phụ Laura đặt nệm trong lúc Mary chơi với bé Grace để Mẹ nấu bữa ăn tối. Ánh đèn chiếu trên tấm màn che màu trắng khi cả nhà ăn xong, nhưng cuối gian phòng dài đầy bóng tối và hơi lạnh đang xuyên qua các kẽ vách khiến ánh đèn lung linh và tấm màn che rung động. Nhà rất rộng nhưng Laura luôn cảm thấy những người lạ ở bên ngoài đang ngồi sát bên. Ánh đèn chiếu ra từ những ô cửa sổ của các người lạ, tiếng chân bước theo một chiếc đèn xách tay và giọng nói đang chuyện trò luôn bám lấy cô dù cô không nghe rõ một lời nào. Ngay cả khi đêm hoàn toàn yên tĩnh cô vẫn cảm thấy bị ép cứng bởi rất nhiều người ở sát bên. Cô nằm trên giường, cạnh Mary trong gian phòng rộng mờ tối, nhìn tấm màn che màu trắng ẩn hiện và lắng nghe sự yên tĩnh với cảm giác bị sấp vào cái bẫy thị trấn. Một lúc nào đó trong đêm, cô mơ thấy những con sói đang hú nhưng cô nằm trên giường và tiếng hú chỉ là tiếng gió. Cô thấy rất lạnh và lạnh dữ dội khiến cô thức giấc. Chăn đắp giống như rất mỏng. Cô chúi sát hơn vào Mary và kéo những tấm chăn mỏng lên chùm kín chiếc đầu lạnh ngắt. Trong giấc ngủ, cô co rút lại, run rẩy cho tới khi cuối cùng cô thấy ấm một cách dễ chịu. Điều cô nhận biết sau đó là cô nghe thấy Bố đang hát: Thảnh thơi như đoá hướng dương Trong hơi gió nhẹ ngả nghiêng nô đùa Con tim như cành gió đưa Nâng niu chiếc lá xa lìa nhánh cây. Laura mở một mắt hé nhìn từ dưới lớp chăn. Tuyết rơi nhẹ ngay trên mặt cô và chất thành đống. Cô kêu lên: - Ô! Bố lên tiếng: - Nằm im, Laura! Tất cả các con hãy nằm im. Bố sẽ xúc tuyết khỏi các con trong một phút thôi. Ngay sau khi Bố nhóm lửa và xúc tuyết xong cho Mẹ. Laura nghe tiếng bếp lò va chạm. Cô nghe thấy tiếng diêm cọ quẹt và tiếng lửa bùng cháy. Cô không dám cựa. Những tấm chăn nặng chịch trên người cô và cô ấm như được hơ nóng. Một lát sau Bố tới tấm màn che. Bố kêu lớn: - Có tới cả bộ tuyết trên giường. Nhưng Bố sẽ gọt hết trong nhấp nháy. Bây giờ, nằm im nghe, các con. Laura và Mary nằm hoàn toàn bất động trong lúc Bố xúc tuyết khỏi chăn mền và hơi lạnh ùa tới. Các cô run rấy nằm nhìn trong lúc chiếc xẻng của Bố xúc tuyết cho Carrie và Grace. Rồi Bố ra chuồng xúc tuyết cho Ellen và lũ ngựa. Mẹ gọi: - Dậy thôi, các con! Đem quần áo xuống thay bên lò bếp. Laura nhảy ra khỏi chiếc giường ấm áp, chụp vội quần áo mà đêm trước cô treo trên ghế. Cô rũ tuyết khỏi quần áo, dập bàn chân trần trên những cụm tuyết rải rác trên nền nhà lạnh buốt tới bên bếp lò ở phía sau tấm màn che. Vừa chạy cô vừa nói: - Chờ em, Mary. Em sẽ quay lại ngay và rũ tuyết khỏi quần áo của chị. Cô lắc nhanh váy, áo để tuyết không kịp chảy ra làm ướt. Và rất nhanh, cô lắc những chiếc vớ dài, trút tuyết ra khỏi giầy rồi mang vào. Cô làm nhanh đến mức khi mặc xong quần áo, người cô vẫn ấm. Rồi cô rũ tuyết khỏi quần áo của Mary và giúp Mary thay đồ thật nhanh bên hơi nóng của lò bếp. Carrie vừa chạy tới vừa kêu ré rồi phóng nhảy: - Ô, tuyết thiêu cháy mấy bàn chân em rồi. Cô hét lên và cười qua hàm răng đang va chạm lách cách vì lạnh. Thức dậy dưới những cụm tuyết khiến cô bị kích động đến mức không thể nằm im trên giường để chờ cho Laura rũ sạch tuyết trên quần áo của cô. Laura giúp cô cài nút áo rồi tất cả mặc áo choàng và với chiếc xẻng lò, cây chổi, các cô xúc, quét gom tuyết thành đống vào các góc xa trong gian phòng dài. Tuyết chất thành đống và vật vờ dọc đường phố. Mỗi đống gỗ là một đống tuyết và từ những cụm tuyết, những rui kèo của các căn nhà dở dang đang dựng lên mỏng manh và vàng vọt. Mặt trời đã lên khiến các dãy bờ tuyết đều ửng hồng và hết thảy những hố trũng đều có màu xanh lơ. Qua các kẽ ván, không khí lòn vào nhà lạnh như băng. Mẹ hơ ấm chiếc khăn choàng bên hơi lửa, quấn quanh người bé Grace và ẵm bé tới cho Mary đang ngồi trên chiếc ghế đu gần lò bếp. Hơi nóng từ trong lò khiến không khí xung quanh ghế ấm hơn. Mẹ bày bàn ăn gần sát bên lò và bữa ăn đã sẵn sàng khi Bố quay vào. Bố nói: - Nhà này gần giống như một cái sàn. Tuyết lọt qua mọi kẽ hở và lòn dưới mái hiên. Nếu nó kéo dài thì đây là một trận bão tuyết thực sự. Mẹ ngạc nhiên: - Mình vẫn cho rằng không có bão tuyết vào tháng tư và bây giờ thì gặp một trận bão tuyết trong tháng tư. Bố nói: - May là bão nổi vào ban đêm khi tất cả nằm im dưới mền. Nếu nó nổi vào ban ngày thì thế nào cũng có người bị lạc và chết cứng. Không ai tin là có bão tuyết vào thời gian này trong năm. Mẹ nói như để trấn an chính mình: - Tốt, cái lạnh không thể nào kéo dài. Mưa tháng tư sẽ đem lại những bông hoa tháng năm. Còn một trận bão tuyết tháng tư sẽ mang lại gì? - Mang lại một vật là tấm vách ngăn nhà. Bố lên tiếng và tiếp: - Anh sẽ đóng một tấm vách ngăn để giữ hơi ấm lại quanh lò bếp này trước khi anh già thêm một ngày tuổi. Và Bố bắt tay vào việc. Trọn ngày Bố ngồi bên lò sưởi, cưa, đóng. Laura và Carrie phụ khuân những tấm ván và bé Grace ngồi trong lòng Mary nghịch những mảnh vỏ bào. Tấm vách mới ngăn thành một căn phòng nhỏ, trong đó gồm lò bếp, bàn ăn, mấy chiếc giường và một ô cửa sổ nhìn ra đồng cỏ xanh đầy tuyết phủ. Rồi Bố mang đám gỗ dính tuyết vào và bắt đầu bịt trần. Bố nói: - Dù sao cũng chặn bớt một số kẽ hở. Khắp thị trấn vang lên tiếng cưa, tiếng búa trong những căn nhà. Mẹ nói: - Tội nghiệp cho bà Beardsley phải ở trong một căn nhà mới cất tới ngang đầu. Bố nói: - Đó là cách dựng nên cả một đất nước. Cất cao ngang đầu hay thấp dưới bàn chân nhưng cũng là đang xây cất. Mình sẽ không bao giờ đạt nổi một điều gì hợp ý nếu cứ ngồi chờ mọi việc theo ý mình. Trong vài ngày, tuyết đã tan hết và mùa xuân lại về. Gió từ đồng cỏ lùa tới hơi đất ẩm ướt và mùi cỏ non. Mỗi ngày mặt trời đều mọc sớm hơn và suốt ngày từ trên bầu trời xanh vẳng xuống những tiếng chim gọi bầy. Laura nhìn thấy cao tít trên không trung từng bầy chim như những vệt đen nhỏ nối theo nhau bay giữa làn sáng lung linh. Chúng không còn đậu lại dày đặc bên hồ Nước Bạc. Chỉ một vài bầy quá mệt mỏi đáp xuống đầm lầy sau khi mặt trời đã lặn và lại bay lên trước khi mặt trời mọc. Những con chim hoang dã này rõ ràng không thích thị trấn đông nghẹt người cũng như Laura vậy. Cô nghĩ: - Tốt hơn là được sống giữa đồng với cây cỏ, chim chóc và tiếng đàn của Bố. Đúng thế, dù phải gặp cả chó sói! Thà như thế còn hơn là sống ở một thị trấn lầy lội huyên náo ồn ào với hàng đống người lạ chen chúc. Và cô lên tiếng: - Bố, chừng nào mình sẽ dọn về nông trại? Bố nói: - Ngay khi Bố bán xong căn nhà này. Mỗi ngày đều có thêm nhiều cỗ xe chạy tới. Ngựa và xe chạy dọc đường phố đầy bùn ngang qua cửa sổ. Suốt ngày không dứt tiếng búa gõ, tiếng ủng khua và các giọng nói. Các toán xúc đất đang nâng cao nền đường sắt và những cỗ xe tải trút xuống các thanh nối, các đường ray bằng thép. Vào buổi tối, đám người đó kéo tới các quán rượu ăn uống ồn ào. Carri thì rất thích thị trấn. Cô muốn được ra ngoài ngắm mọi thứ và rất nhiều giờ cô thường đứng bên cửa sổ nhìn ra. Thỉnh thoảng Mẹ cho phép cô băng ngang phố tới thăm nhà hai cô bé sống ở đó, nhưng các cô bé kia thường tới nhà nhiều hơn vì Mẹ không muốn Carrie rời khỏi tầm mắt của Mẹ. Một bữa Mẹ nói: - Laura, con cứ bồn chồn như thế khiến Mẹ nóng ruột. Sao lúc này con không thử bắt đầu dạy học đi? Con không thấy việc dạy cho Carrie, Louizy và Annie học mỗi ngày là thích thú hay sao? Điều đó sẽ giữ cho Carrie luôn ở trong nhà và có ích cho tất cả các con. Laura không thấy thích thú với việc đó nên không muốn làm chút nào. Nhưng cô phải vâng lời Mẹ. - Dạ, thưa mẹ! Cô nghĩ là có lẽ cô sẽ phải rất cố gắng. Thế là sáng hôm sau, khi Louizy và Annie tới chơi với Carrie, Laura nói là cô sẽ dạy cho các em học. Cô cho tất cả ngồi thành một hàng và dạy một bài trong tập sách vỡ lòng của Mẹ. Cô nói với các cô bé: - Các em học bài này trong mười lăm phút rồi đọc lại cho chị nghe. Tất cả tròn xoe mắt nhìn cô không nói gì. Rồi tất cả chụm đầu lại cùng học trong lúc Laura ngồi ngay phía trước. Chưa bao giờ có mười lăm phút đồng hồ dài tới thế. Cuối cùng Laura nghe các cô bé đánh vần lại những chữ đã học rồi cô dạy cho các cô bé cách làm toán. Bất cứ lúc nào các cô bé nhấp nhỏm là cô nhắc phải ngồi im và cô dạy cho tất cả phải giơ bàn tay để xin phép khi muốn nói. Cuối cùng vào giờ ăn trưa, mẹ mỉm cười tán thưởng nói với các cô bé: - Đảm bảo là các cháu sẽ thấy rất thích thú. Mỗi buổi sáng, các cháu hãy tới và Laura sẽ dạy các cháu. Nhớ nhắc với mẹ của các cháu là chiều nay tôi sẽ qua gặp để nói về lớp học nhỏ của chúng mình. Louizy và Annie đều đáp lí nhí: - Dạ thưa bà. Chào tạm biệt bà! Mẹ khen Laura: - Laura, với sự chuyên cần và kiên nhẫn, con sẽ là một cô giáo rất giỏi. Laura đáp: - Cảm ơn mẹ. Nhưng cô nghĩ: - Mình sẽ không trở thành một cô giáo nên sẽ khó trở thành một cô giáo giỏi được. Mỗi buổi sáng, cô bé Annie tóc-nâu và Louizy đầu-đỏ càng tới một cách miễn cưỡng hơn và mỗi ngày càng khó dạy các cô học hơn. Cả hai đều nhấp nhổm đến nỗi Laura hết hy vọng buộc nổi chúng ngồi im và cô không thể bắt chúng học được nữa. Một bữa cả hai đều không tới. Mẹ nói: - Có lẽ chúng còn quá bé để hiểu giá trị của việc học, nhưng mẹ sẽ hỏi lại mẹ của chúng. Mary nói: - Đừng nản, Laura. Bề gì thì em cũng đã mở trường học đầu tiên ở De Smet. Laura nói một cách vui vẻ: - Em không nản đâu. Cô mừng vì không còn vướng vào chuyện dạy học và bắt đầu hát trong lúc quét nền sàn. Từ bên cửa sổ, Carrie bỗng kêu lớn: - Coi, Laura! Có chuyện gì rồi! Chắc đây là lí do khiến mấy đứa không tới. Trước khách sạn là một đám đông tụ lại. Càng lúc càng có thêm người từ mọi ngả kéo tới và giọng nói của tất cả đều gắt gỏng giận dỗi. Laura nhớ lại ngày trả lương và đám đông đã đe dọa Bố. Chỉ một phút sau cô thấy Bố lách qua đám đông trở về nhà. Bố bước vào có vẻ bình thản. Bố hỏi: - Caroline, em thấy sao nếu hôm nay mình dọn về ở tại nông trại? Mẹ hỏi: - Hôm nay hả? Bố nói: - Ngày mốt. Anh cần đủ thời giờ để dựng một căn lều. Mẹ hỏi nhẹ: - Ngồi xuống đi, Charles và cho em biết có chuyện gì. Bố ngồi xuống: - Đã có một vụ giết người. Mắt mẹ mở lớn và mẹ nín thở, hỏi: - Ở đây? Bố đứng dậy: - Ở phía nam thị trấn. Một gã chiếm đất đã giết Hunter. Anh ta vẫn làm việc đắp nền đường sắt. Hôm qua, anh ta lái xe đưa cha anh ta tới nông trại của mình. Khi họ về tới lều thì thấy một người đàn ông mở cửa kiếm họ. Hunter vừa hỏi người kia làm gì ở đây thì gã bắn anh ta chết ngay. Gã còn bắn cha anh ta nhưng ông già đánh xe chạy thoát. Cả hai cha con anh ta đều không có súng. Ông già chạy tới Michell báo cảnh sát và sáng nay đã bắt được gã đó. Bắt hung thủ! Bố nói một cách giận dữ: - Treo cổ lên là điều xứng nhất với nó. Nếu mình biết sự việc kịp thời. Mẹ nói: - Charles! Bố nói: - Thôi, anh nghĩ là mình phải tới trại ngay trước khi có một kẻ chiếm đất nào nhảy tới. Mẹ tán thành: - Em cũng thấy vậy. Mình sẽ dọn ngay khi anh dựng xong một chỗ ở tạm bợ thôi. - Sắp xếp cho anh ăn liền thôi. Anh sẽ đi ngay. Anh sẽ kéo một ít ván và một người phụ giúp để dựng lều vào chiều nay. Mai mình sẽ chuyển về đó. Chương 28: Ngày Dọn Nhà - Dậy mau, ả-ngủ-vùi! Laura gọi lớn và đưa cả hai bàn tay vần Carrie qua lại dưới mền. - Hôm nay là ngày dọn nhà! Dậy mau, mình sẽ về trại! Bữa sáng qua chớp nhoáng không trò chuyện kề cà và Laura hối hả rửa chén dĩa cho Carrie lau khô trong lúc Mẹ đóng thùng đồ cuối cùng còn Bố đóng ngựa vào xe. Đó là ngày dọn nhà vui vẻ nhất mà Laura được biết. Mẹ và Mary vui mừng vì đã đi tới chặng di chuyển cuối cùng. Cả nhà sắp ổn định trong một nông trại và không bao giờ còn rời đi nữa. Carrie mừng vì nôn nóng được nhìn thấy nông trại. Laura mừng vì được rời khỏi thị trấn còn Bố mừng vì Bố luôn thích di chuyển và bé Grace líu lo hát hò thích thú vì thấy tất cả mọi người đều vui. Ngay sau khi chén dĩa được lau xong, mẹ xếp hết vào khạp để chuyển đi an toàn. Bố chất chiếc giường lăn, các thùng đồ và khạp chén dĩa lên thùng xe. Rồi Mẹ giúp Bố hạ ống khói và đưa lò bếp lên thùng xe. Bố xếp thêm bàn ăn và mấy chiếc ghế lên trên hết và đứng vuốt râu ngắm đống đồ. Bố nói: - Anh phải đi hai chuyến thì mình mới chở hết đồ được. Em lo gói các thứ còn lại chờ anh quay về. Mẹ phản đối: - Nhưng anh không thể một mình đưa lò bếp xuống được. Bố nói: - Anh sẽ xoay sở. Cái gì đưa lên được thì cũng hạ xuống được. Ở đó có sẵn ván và anh sẽ làm tạm một cầu trượt. Bố leo lên xe và lái đi. Mẹ và Laura cuốn chăn mên thành những cuộn buộc chặt. Rồi họ tháo chiếc giường lớn của Mẹ cùng hai chiếc giường nhỏ hơn do Bố mua ở thị trấn và gói cẩn thận mấy cây đèn vào một chiếc thùng, giữ đèn thẳng cho dầu không đổ ra. Những chiếc bóng đèn được nhồi giấy và bao trong mấy chiếc khăn, đặt vào bên mấy cây đèn. Mọi thứ đều sẵn sàng trước lúc Bố về tới. Bố chuyển giường và các thùng đồ lên thùng xe trước rồi đặt các cuộn mền gối lên trên. Sau đó, Laura trao cho Bố hộp đàn và Bố chèn kĩ giữa những tấm chăn. Phía trên cùng, Bố đặt ngửa chiếc kệ tháp để nó không bị cào xước. Tiếp theo, Bố dắt con bò sữa Ellen tới cột vào sau xe. - Rồi, Caroline, lên xe đi! Bố đỡ Mẹ bước trên bánh xe lên chiếc ghế nhún. - Chộp lấy! Bố tung bé Grace lên lòng Mẹ và tiếp dịu dàng: - Bây giờ, tới Mary~ Bố đỡ Mary lên tấm ván ngay sau ghế nhún trong lúc Laura và Carrie trầy trật leo lên chỗ ngồi ở hai bên Mary. Bố nói: - Mình sẽ tới nhà ngay thôi. Mẹ kêu lên: - Trời ơi, Laura, kéo mũ lên! Thứ gió xuân này sẽ làm da con hư hết. Và Mẹ kéo chiếc mũ nhỏ của Grace xa hơn về phía trước để che cho lớp da mềm mại của bé. Mặt Mary cũng như mặt Mẹ đều ở xa về phía sau của những chiếc mũ. Laura kéo chiếc mũ đang lủng lẳng ở sau gáy lên một cách chậm chạp và khi những sợi dây kéo ngang qua hai bên má cô thì thị trấn bị ngăn che hẳn. Từ dưới vành che của những chiếc mũ, cô chỉ còn thấy đồng cỏ xanh biếc với bầu trời xanh lơ. Cô tiếp tục nhìn trong lúc bíu chặt vào lưng chiếc ghế nhún và nảy theo những cái xóc của cỗ xe trên những rãnh bùn đã được gió thổi khô. Trong lúc cô đang nhìn thì đột ngột xuất hiện giữa thảm cỏ xanh biếc và màn trời xanh lơ một cặp ngựa nâu với những chiếc bờm và đuôi đen nhanh bay dài xoải vó cạnh nhau kéo một cỗ xe. Những mảng sườn và ức màu nâu của chúng ánh lên dưới nắng, những ống chân thon mạnh bước một cách dễ thương, những cần cổ vươn cao với những chiếc tai dựng đứng và những chiếc đầu hất lên đầy tự hào khi chúng vượt qua. - Ôi, những con ngựa tuyệt vời! Nhìn coi, Bố, nhìn coi! Cô quay hẳn đầu lại nhìn theo những con ngựa cho tới khi chúng đi xa hút. Chúng kéo theo một cỗ xe nhẹ. Một thanh niên đứng trên xe điều khiển ngựa và kế bên là một người cao lớn hơn đứng đặt bàn tay lên vai chàng trai. Trong một khoảng khắc những chiếc lưng của họ và cỗ xe dâng lên che không cho Laura thấy những con ngựa nữa. Bố cũng xoay người trên ghế để nhìn. Bố nói: - Đó là mấy cậu bé nhà Wilder. Almanzo đang lái xe còn người đứng bên là Royal, anh của cậu ta. Họ đã khai nhận đất ở phía bắc thị trấn và đưa đến những con ngựa tuyệt nhất trên khắp xứ này. Con hiếm khi được thấy những con ngựa như thế. Laura thầm mong là sẽ có những con ngựa giống thế, nhưng cô lại thấy là không bao giờ có thể có nổi. Lúc này Bố lái xe chạy về phía nam băng qua đồng cỏ xanh xuống một bờ dốc thoai thoải hướng về khu đầm Big Slough. Cỏ ở trong đầm rậm rạp hơn mọc lộn xộn đầy khắp và từ một trũng nước vùng bay lên một con diệc kéo theo đôi chân dài lủng lẳng. - Chúng đáng giá bao nhiêu tiền, Bố? Laura hỏi và Bố nói: - Cái gì, Nhà-Kho-Vỗ-Cánh? - Những con ngựa ban nãy. Bố nói: - Một con ngựa giống như thế hả? Phải là hai trăm năm mươi đô-la không kém một xu. Có thể là ba trăm. Mà tại sao? Laura đáp: - Không có gì. Con chỉ hỏi thôi. Ba trăm đô-la là số tiền lớn ngoài tưởng tượng của cô. Chỉ những ngừoi giàu có mới bỏ ra món tiền như thế để mua ngựa. Laura nghĩ là khi nào cô trở thành giàu có thì điều cô làm là mua hai con ngựa nâu bóng mượt với những chiếc bờm và đuôi màu đen. Cô để cho gió thổi bay chiếc mũ về phía sau và tưởng tượng đang ngồi trên cỗ xe do những con ngựa nhanh nhẹn như thế kéo. Đầm Big Slough mở rộng và trải dài xa mãi về phía tây và phía nam. Phía bên kia cỗ xe, đầm bóp hẹp lại và lầy lội ăn vào một khoảng hẹp của hồ Nước Bạc. Bố lái xe chạy ngang khoảng hẹp này thật nhanh và ngược lên khu đất cao hơn ở phía bên kia. - Nó đó! Bố nói. Một căn lều nhỏ hiện ra trong ánh nắng với nguyên nét mới mẻ. Nó giống như một món đồ chơi màu vàng trên đồng cỏ xanh ngắt với những lớp cỏ non đang gợn sóng. Mẹ bật cười khi Bố đỡ Mẹ bước xuống xe: - Giống hệt như một lán chứa gỗ bửa ra làm hai. Bố nói: - Trật hết rồi, Caroline! Đó là một căn nhà nhỏ mới có một nửa và chưa làm xong. Bây giờ mình sẽ làm xong nửa này rồi làm nốt nửa kia vào ít ngày tới. Căn nhà nhỏ và nửa chiếc mái nghiêng đều làm bằng những tấm ván xù xì đầy kẻ hở. Không có cửa sổ, không có cánh cửa ra vào nhưng đã có nền. Nền sàn có một ổ cửa sập dẫn xuống hầm chứa. Bố nói: - Ngày hôm qua anh đã không thể làm hơn được việc đào một hầm chứa và dựng lên mấy bức vách xù xì. Nhưng bây giờ mình đã ở đây rồi! Không kẻ nào có thể nhào tới chiếm đất của mình. Và không bao lâu anh sẽ bố trí xong mọi thứ cho em, Caroline. Mẹ nói: - Em mừng đã có nhà, Charles. Trước khi mặt trời lặn, họ đã sắp xếp mọi thứ trong căn nhà nhỏ thú vị. Lò bếp đã đặt, giường đã kê, màn che đã treo để chia một gian phòng nhỏ thành hai gian phòng tí hon. Bữa cơm tối đã được nấu và ăn xong, chén dĩa được rửa sạch khi bóng tối nhẹ buông trên đồng cỏ. Không một ai món thắp đèn vì đêm mùa xuân quá đẹp. Mẹ khẽ đung đưa chiếc ghế đu bên khung cửa không có cánh với bé Grace ở trong lòng và Carrie ngồi sát bên cạnh. Bố ở ngoài cửa trên chiếc ghế đặt trên cỏ. Tất cả im lặng ngắn những vì sao lần lượt xuất hiện và lắng nghe tiếng ếch nhái đang kêu trong đầm Big Slough. Gió thổi nhẹ rì rào và màn đêm mịn như nhung, lặng lẽ, bình yên. Khắp bầu trời mênh mông, các vì sao lấp lánh như đang vui mừng. Bố khẽ lên tiếng: - Bố thích nghe tiếng nhạc rồi, Laura! Laura mang hộp đàn cất ở dưới giường của Mẹ tới. Bố lấy đàn ra, so dây một cách trìu mến. Rồi tất cả cùng hát cho màn đêm và những vì sao. Xua tan màu u ám Sầu chi mà lệ rơi Hôm nay thành lỡ bước Ngày mai vẫn rạng ngời Xua tan màu u ám Dựng lên trong nụ cười Kề vai chung gánh nặng Lời xưa còn chưa phai Mẹ bỗng lên tiếng: - Em sẽ bày ngay tượng cô bé chăn cừu khi anh vừa làm xong mái nhà. Cây đàn của Bố trả lời bằng những nốt nhạc chảy dài như giọt nước rơi trong ánh nắng và tỏa rộng trên mặt hồ. Trăng đang lên. Một làn sáng trắng đục lan khắp bầu trời xóa nhòa các vì sao. Ánh trăng lung linh ánh bạc rọi xuống mặt đất tối mờ mịt và Bố khẽ hát theo tiếng đàn. Khi ánh sao lập lòe chiếu sáng Và gió ngưng cất tiếng thì thào Khi bóng đêm phủ mờ đồng cỏ Ngọn đèn con rực sáng biết bao Đưa ta về bên kia đồi vắng Mái lều tranh chan chứa ngọt ngào Chương 29: Túp Lều Mong Đợi Sáng hôm sau, Bố nói: - Việc đầu tiên cần làm là đào một cái giếng. Bố chất mai, xẻng lên vai, huýt gió đi về phía đầm lầy trong lúc Laura dọn dẹp đồ đạc trong bữa ăn sáng và Mẹ xắn cao tay áo. Mẹ lên tiếng vui vẻ: - Nào, các con gái! Mình đồng lòng hăng hái thì mọi thứ sẽ đâu vào đó ngay. Nhưng chính Mẹ cũng luôn lúng túng vào sáng hôm đó. Căn lều quá nhỏ mà lại quá nhiều thứ để cất chứa. Mỗi món đồ đều phải đặt cẩn thận sao cho vừa in vào chỗ. Laura, Carri cùng Mẹ nhấc lên, đặt xuống từng món đồ rồi đứng tính toán, suy nghĩ và lại đặt thử. Chiếc ghế đu của Mary và chiếc bàn ăn vẫn nằm phía ngoài cho tới khi Bố trở về. - Xong rồi, Caroline, giếng của em đã đào xong rồi! Bố nói oang oang và tiếp: - Sâu sáu bộ và nước trong cát lún rất tốt. Bây giờ anh chỉ còn đóng một nắp đậy để Grace không thể ngã xuống đó là xong. Bố nhìn cảnh bề bộn, hất chiếc mũ về sau gáy, đưa tay gãi đầu: - Em không xếp hết nổi đồ vào nhà hả? Mẹ nói: - Dạ, Charles. Nhưng ở đâu có quyết tâm thì ở đó có lối thoát. Chính Laura đã nghĩ ra cách nên kê giường thế nào. Khó khăn là lúc này có tới ba chiếc giường. Khi đặt mấy chiếc giường song song với nhau thì không còn chỗ trống để đặt chiếc ghế đu của Mary. Laura liền nghĩ ra cách ghép liền hai chiếc giường nhỏ vào trong góc và xoay chiếc giường lớn lại cho chân sát vào mấy chiếc giường nhỏ còn đầu thì tựa vào bức vách bên kia. Cô nói với Mẹ: - Mình sẽ treo một tấm màn quanh giường của tụi con và một tấm màn khác che quanh giường của Bố Mẹ. Như thế sẽ có chỗ trống sát tấm màn che giường để đặt chiếc ghế đu. Mẹ nói: - Con thông minh lắm! Chiếc bàn ăn kê sát chân giường của Laura và Mary, và ngay dưới khung cửa sổ mà Bố đang cưa trên vách. Ghế đu của Mẹ đặt cạnh bàn ăn và chiếc kệ tháp ghép vừa khít góc nhà phía sau cửa ra vào. Trong góc nhà thứ tư là lò bếp cùng với tủ chén dĩa còn chiếc giường lăn nằm vừa khít giữa lò bếp và ghế đu của Mary. Mẹ nói: - Vậy đó! Tất cả các thùng đồ sẽ lùa vào dưới gầm giường. Không còn cách nào tốt hơn nữa. Lúc ăn trưa Bố nói: - Bố sẽ làm xong nửa căn nhà này trước khi trời tối. Và Bố làm ngay. Bố cắt một ô cửa sổ cạnh lò bếp nhìn về phía nam. Ở cửa ra vào, Bố ghép một cánh cửa mua từ xưởng gỗ trong thị trấn. Rồi phía ngoài căn lều, Bố gắn thêm một lớp giấy dầu chống thấm màu đen, ép chặt xuống bằng nẹp. Laura giúp Bố mở lớp giấy nồng mùi nhựa phủ lên mái và các bức vách thơm mùi gỗ thông mới. Cô tiếp tục giúp Bố cắt giấy và ép xuống cho gió không thổi bung lên trong lúc Bố đóng đinh vào nẹp. Giấy chống thấm không đẹp nhưng chen kín hết kẽ hở và chặn đứng gió ở ngoài. Khi cả nhà ngồi vào ăn bữa tối, Bố nói: - Rồi, một ngày làm việc tốt đẹp đã qua. Mẹ nói: - Ngày mai sẽ hoàn tất nốt việc mở các gói đồ và sắp đặt đâu vào đấy. Em cũng phải lo nướng bánh. Thật sung sướng là đã có thêm men. Em cảm thấy giống như em không còn bao giờ muốn thấy một chiếc bánh làm bằng bột chua nữa. Bố nói: - Bánh lạt và bánh bột chua của em đều ngon chứ. Nhưng mình chẳng có thứ nào, nếu anh không lo được một thứ để nướng bánh. Ngày mai anh sẽ ra hồ Henry kéo về một đống củi. Laura hỏi: - Con đi được không, Bố? Carrie năn nỉ: - Cả con nữa, nghe? Bố nói: - Không đâu, các con! Bố phải đi lâu còn Mẹ rất cần các con. Carrie phân trần: - Con muốn thấy cây cối. Mẹ nói: - Em không trách con đâu. Chính em cũng thích được nhìn lại cây cối. Cây cối sẽ khiến cho con mắt đỡ mệt trên cánh đồng cỏ trơ trọi này. Khắp mọi nơi đều không thấy một bụi cây. Bố nói: - Cả vùng này sắp có cây phủ kín rồi. Đừng quên đó là chủ trương của Chú Sam. Mỗi khu vực đều đưa yêu sách trồng cây và những người định cư đều phải trồng mười mẫu cây theo yêu sách. Chỉ bốn hoặc năm năm nữa, em sẽ thấy cây ở bất kì hướng nào. Mẹ mỉm cười: - Em sẽ nhìn một lúc về tất cả mọi hướng. Không có gì yên tĩnh hơn là những lùm cây rợp bóng mát vào mùa hè và chúng còn ngăn gió nữa. Bố nói: - Này, anh không biết khi cây cối tràn lan thì có trở lại giống như hồi ở Big Woods với cái điều mà em đã biết là đào bới các gốc cây và còng lưng cuốc xới để bảo vệ mảnh đất sạch cỏn con cho mùa màng. Thực sự yên tĩnh là cách đồng trống như thế này nếu em muốn mở nông trại. Nhưng chú Sam có vẻ không nhìn vấn đề theo cách đó, cho nên em đừng lo, Caroline. Em sẽ được thấy cây cối xum xuê khắp vùng này. Cũng có khả năng là chúng sẽ ngăn gió và làm thay đổi khí hậu như em đã nói. Tối đó tất cả đều quá mệt mỏi nên không có đàn hát. Ngay sau bữa ăn tối, tất cả đã lăn ra ngủ và sáng sớm hôm sau, Bố lái xe tới hồ Henry. Khắp nơi đều rực rỡ dưới ánh nắng sớm khi Laura dắt Ellen ra giếng uống nước. Đầy đồng những bông hoa hành dại nhỏ màu trắng rung rinh trong gió. Dọc sườn đồi thấp phía dưới căn lều, những mảng nghệ rừng tràn ngập màu vàng và xanh lơ trên thảm cỏ non và khắp nơi, cỏ lá me dựng thẳng những bông hoa nhỏ màu hồng thoang thoảng hương thơm trên các cọng lá hình chĩa ba. Laura cúi ngắt trong lúc đi qua và khẽ nhấm nháp những cánh hoa và những cọng cỏ nhỏ rất chua một cách dễ chịu. Từ trên gò đất đóng cọc cây cột Ellen, cô có thể nhìn thấy thị trấn nằm ở phía bên kia về hướng Bắc. Đầm Big Slough uốn vòng ở chính giữa và trải rộng về phía Tây Nam bao phủ một vùng nhiều mẫu đất chen chúc loại cỏ đầm lầy cao thô. Trọn vẹn phần còn lại của đồng cỏ là một thảm xanh chen chúc hoa xuân. Dù đã là một cô gái, Laura vẫn dang rộng cánh tay chạy ngược hướng gió và quăng người lên lớp cỏ đầy hoa, lăn tròn như một con ngựa nhỏ. Cô nằm trên lớp cỏ mềm, dịu ngọt ngắm bầu trời xanh lồng lộng trên cao với những cụm mây như ngọc trai đang lững lờ trôi. Cô sung sướng tới độ nước mắt trào ra. Đột nhiên cô nghĩ: - Mình có làm dơ áo không? Cô vùng đứng dậy và lo ngại nhìn và thấy có một vết dơ trên áo. Nhưng cô lại thản nhiên nghĩ cô phải phụ giúp Mẹ và cô vội vã trở về căn lều nhỏ bọc giấy chống thấm đen kịt. Cô nói với Mẹ: - Đó là những vằn cọp. - Cái gì, Laura? Mẹ hỏi và giật mình nhìn lên. Mẹ đang xếp mấy cuốn sách cũ vào ngăn giá dưới đáy của chiếc kệ tháp. Laura nói: - Cái lều này. Kẻ sọc bằng những thanh nẹp vàng trên giấy chống thấm. Mary cãi lại: - Cọp màu vàng với những sọc đen. Mẹ nói: - Bây giờ mở thùng đồ của các con đi. Mình sẽ bày những món đồ xinh xắn của mình ở những ngăn giá bên trên. Ngăn giá kế ngăn giá để sách của Mẹ là chỗ bày các hộp kính nhỏ của Mary, Laura và Carrie. Mỗi hộp đều khắc hoa trên các cạnh và sơn hoa trên nắp. Ba chiếc hộp khiến ngăn giá sáng lên rạng rỡ. Mẹ đặt chiếc đồng hồ lên ngăn giá thứ tư. Chiếc hộp gỗ màu nâu với đường viền trang trí quanh một khoảng tròn lồng kính và phía sau mặt kính là chiếc quả lắc có hình những bông hoa mạ vàng đung đưa qua lại, tích tắc, tích tắc. Trên ngăn giá nhỏ nhất, ngăn giá trên cùng, Laura đặt chiếc hộp đựng nữ trang bằng sứ trắng của cô với chiếc ly và chiếc đĩa nhỏ mạ vàng ở trên nắp và Carrie đặt sát bên cạnh, con chó bằng sứ màu nâu-trắng. Mẹ nhìn nhận: - Đẹp lắm rồi. Lúc đóng cánh cửa ra vào, chiếc kệ sẽ trang hoàng cho cả gian phòng. Bây giờ thì tới lượt cô bé chăn cừu bằng sứ. Rồi Mẹ nhìn quanh thật nhanh rồi kêu lên: - Cảm ơn! Món bánh xốp của tôi đã nở rồi. Bánh xốp đang đẩy nắp chảo lên. Mẹ vội vã rắc bột lên và trộn lẫn với bột nhào. Rồi Mẹ nấu bữa trưa. Mẹ đang hấp chảo bánh lạt trên lò lúc Bố lái xe lên đồi. Sau lưng Bố, thùng xe chất một đống cành liễu mà Bố đã mang theo làm củi đốt vào mùa hè, vì thực sự không có cây ở hồ Henry. Bố lên tiếng: - Chào Nhà-Kho-Vỗ-Cánh! Chưa ăn vội, Caroline! Anh có một chuyện muốn cho em thấy ngay sau khi anh cột xong ngựa. Bố tháo nhanh yên ngựa liệng qua dàn trước xe, lật đật dắt ngựa tới cọc cây và vội vã trở lại. Sau đó Bố nhấc tấm chăn phủ lưng ngựa khỏi phía trước thùng xe. Bố tươi cười: - Em thấy đó, Caroline! Anh phải che lại để chúng khỏi bị gió thổi khô. - Chi vậy, Charles? Mẹ và Laura nhìn vào thùng xe còn Carrie leo lên bánh xe. Mẹ kêu lên: - Cây! - Cây con! Laura hô theo và gọi lớn: - Mary! Bố mang cây về đó! Bố nói: - Đây là cây bông gòn. Tất cả đều mọc từ hạt của cây Cô đơn mà mình đã thấy phía bên kia đồng cỏ khi mình ra khỏi Brookins. Khi đến gần sẽ thấy nó là một cây khổng lồ. Nó gieo giống dọc bờ hồ Henry. Anh đào đủ số cây giống để làm một hàng rào chắn gió quanh lều của mình. Caroline, em sẽ có những cây đang lớn ngay khi anh đặt chúng xuống đất. Bố lôi một cây thuổng ra khỏi thùng xe và nói: - Cây đầu tiên là cây của em, Caroline. Chọn đi rồi cho anh biết em muốn trồng nó ở đâu. Mẹ đáp: - Chờ em một phút. Mẹ chạy vội về lò bếp đóng kín ô gió và kéo lui xoong khoai lại. Rồi Mẹ chọn lấy một cây: - Em muốn trồng ngay chỗ này, gần bên cửa ra vào. Với cây thuổng, Bố cắt một khoảng vuông trên mặt đất và nhổ hết cỏ. Bố đào một chiếc hố và đánh tơi đất mềm cho tới khi thành vụn nhuyễn. Rồi Bố cẩn thận nhấc cây giống ra không cho đất đang bám vào rễ của nó rơi rớt. Bố nói: - Giữ ngọn nó thật thẳng, Caroline. Mẹ làm theo lời Bố trong lúc với chiếc thuổng, Bố rảy đất lên trên rễ cây cho tới khi lấp đầy hố. Rồi Bố đạp cho đất nén xuống và đứng lui lại. - Bây giờ em đã nhìn thấy một cái cây rồi đó, Caroline. Một cây của riêng em. Sau bữa ăn trưa, mình sẽ tưới mỗi gốc cây một xô nước đầy. Nhưng trước hết vẫn là phải đặt xong rễ của chúng xuống đất. Nào, Mary, tới phiên con. Bố đào một hố khác thẳng hàng với cây đã trồng. Bố mang một cây giống từ thùng xe xuống và Mary cẩn thận giữ thẳng trong lúc Bố trồng. Đó là cây của Mary. Bố nói: - Tiếp theo là Laura. Mình sẽ làm thành một rào chắn gió hình vuông xung quanh nhà. Cây của Mẹ và của Bố gần cửa ra vào và mỗi đứa con sẽ có cây ở cả hai bên cây của Bố Mẹ. Laura giữ cây của mình trong lúc Bố trồng. Rồi Carrie làm theo. Bốn cây con đứng thẳng trên những mảnh đất tối sậm cỏ. Bố nói: - Bây giờ Grace phải có cây của bé chứ. Grace đâu rồi? Bố gọi Mẹ: - Caroline, em ẵm Grace ra trồng cây của nó đi! Mẹ nhìn ra ngoài căn lều nói: - Con ở ngoài đó với anh mà, Charles! - Chắc bé đang ở sau nhà. Để con đi kiếm. Carrie nói và chạy đi vừa lên tiếng gọi: - Grace! Chỉ một phút sau cô đã từ sau căn lều trở lại, mắt mở lớn kinh hãi và những đốm tàn nhang như đang bật ra khỏi gương mặt tái nhợt: - Bố, con không thấy bé! - Chắc nó quanh quẩn đâu đây. Mẹ nói và gọi lớn: - Grace! Grace! Bố cũng gọi: - Grace! Mẹ nhắc: - Không đứng đó nữa! Đi kiếm em mau, Carrie! Laura nữa, đi đi! Mẹ bỗng kêu lên: - Cái giếng! Và chạy xuống lối đi. Nắp đậy miệng giếng vẫn nguyên vẹn nên không có chuyện Grace ngã xuống đó. Bố nói: - Nó không thể mất tích được. Mẹ nói: - Em để con ở bên ngoài. Em nghĩ là con ở chỗ anh. Bố nhấn mạnh lại: - Nó không thể mất tích được. Nó không rời tầm mắt của anh một phút. Bố gọi lớn: - Grace! Grace! Laura chạy lên đồi. Cô không nhìn thấy Grace ở đâu. Cô nhìn dọc mé đầm Big Slough tới Hồ Nước Bạc, lên đồng cỏ đầy hoa. Cô nhìn thật nhanh rồi lại nhìn thật nhanh những không thấy gì ngoài cỏ và những bông hoa dại. - Grace! Grace! Cô gọi rồi hét lớn: - Grace! Bố gặp cô ở sườn dốc khi cô chạy xuống và Mẹ chạy tới thở hổn hển. Bố nói: - Nó vẫn ở trong tầm nhìn thôi, Laura. Chắc con đã không nhìn thấy nó. Nó không thể… Bố bỗng kêu lên một cách khủng khiếp: - Đầm Big Slough! Bố quay lại và vùng chạy. Mẹ vừa chạy theo Bố, vừa gọi với lại: - Carrie ở lại với Mary! Laura đi kiếm em! Đi kiếm đi! Mary đứng trong cửa lều đang gọi: - Grace! Grace! Vẳng lại nhỏ hơn từ phía đầm Big Slough, tiếng gọi của Bố và Mẹ: - Grace! Con ở đâu? Grace! Nếu Grace lạc trong đầm Big Slough thì làm cách nào kiếm ra nổi. Cỏ nhổ cao khỏi đầu Laura phủ kín từng mẫu đất và kéo dài nhiều dặm. Bùn lầy bám hút lấy những bàn chân trần và còn có không biết bao nhiêu hố nước. Laura có thể nghe rõ từ nơi cô đang đứng âm thanh của đám cỏ đầm lầy trong gió, một âm thanh trùng lắp gần như bóp nghẹt cả tiếng gọi nhức óc của Mẹ. - Grace! Laura thấy lạnh người và muốn nhuốm bệnh. Carrie òa khóc: - Sao chị không đi kiếm đi? Đừng có đứng đó nữa! Phải làm điều gì ngay! Em sẽ đi kiếm! Laura nói: - Mẹ dặn em ở lại với Mary. Tốt hơn là em phải ở lại. Carrie hét lớn: - Mẹ đã nhắc chị đi kiếm. Đi kiếm đi! Đi đi! Grace! Grace! Laura quát lên: - Câm miệng đi! Để chị nghĩ coi! Và cô bắt đầu chạy băng qua cánh đồng cỏ đầy nắng. Chương 30: Vùng Hoa Tím Nở Laura chạy thẳng về phía Nam. Cỏ đập nhẹ vào những bàn chân trần của cô. Bướm chập chờn trên những cánh hoa. Không có một khóm cây cũng như một bụi cỏ đủ che khuất Grace. Không có gì, không có bất cứ thứ gì ngoài thảm cỏ và những cánh hoa đung đưa trong nắng. Laura nghĩ nếu cô còn nhỏ và đang chơi một mình, cô sẽ không đi về phía đầm Big Slough âm u, cô sẽ không đi vào trong bùn và những đám cỏ cao. Rồi cô lại tự trách: - Ôi, Grace, tại sao chị lại không canh chừng em? Đứa em xinh xắn bé bỏng… Cô gào lớn: - Grace! Grace! Hơi thở cô nghẹn lại và cô cảm thấy đau ở trong người. Cô vẫn tiếp tục chạy và tiếp tục nghĩ. Chắc là Grace đi về hướng này. Có lẽ bé đã đuổi theo một con bướm. Bé không đi vào đầm Big Slough làm gì! Bé cũng không leo lên đồi vì không có bé ở đó. - Ôi, em bé của chị. Chị đã không thấy em khắp nơi từ hướng Đông tới hướng Nam của cánh đồng cỏ đáng ghét này, Grace! Đồng cỏ ngập nắng thành rộng mênh mông và khủng khiếp. Không thấy dấu vết của một đứa bé đi lạc nào. Tiếng gọi của Mẹ và tiếng gào của Bố vẫn vọng lại từ phía đầm Big Slough. Đó là những tiếng khóc yếu ớt chìm vào trong gió, chìm vào sự rộng lớn bao la của đồng cỏ. Hơi thở của Laura khiến cô đau nhức hai bên mạng sườn. Ngực cô như bị đè nghẹt và hai mắt hoa lên. Cô chạy lên một triền dốc thấp. Không có gì, không có gì kể cả một điểm bóng tối trên mặt đồng cỏ bằng phẳng xung quanh cô. Cô cứ chạy và đột nhiền mặt đất đổ xuống ngay phía trước cô. Cô gần như lăn xuống một bờ dốc đứng. Grace đang ở đó. Ở đó, Grace đang ngồi trong một vùng ao lớn màu xanh lơ. Nắng xối trên mái tóc vàng của bé đang bay trong gió. Bé ngẩng lên nhìn Laura với cặp mắt to xanh như màu hoa đổng thảo. Cả hai bàn tay bé đều đầy hoa. Bé gom hết đưa cho Laura và nói: - Ngọt! Ngọt! Laura nhào xuống và ôm Grace vào vòng tay. Cô ôm Grace thật chặt và thở hổn hển. Grace cố nghiêng người ra khỏi vòng tay cô để hái thêm hoa. Bạt ngàn đổng thảo đang nở hoa vây quanh với những bông hoa vươn lên bên trên những nhành lá xòe thấp. Mặt đáy bằng của một trũng đất rộng hình tròn chỉ có đổng thảo biến chỗ này thành một hồ đổng thảo với những bờ cỏ dầy gần như đứng thẳng cao ngang mặt đồng cỏ. Đây là một trũng đất thấp hình tròn mà gió khó xô dập nổi hưởng thơm của đổng thảo. Ở đây, nắng ấm áp với một khoảng trời ở trên cao và những bờ vách cỏ xanh rì bao quanh những cụm hoa luôn thu hút những cánh bướm chập chờn. Laura đứng lên đỡ cho Grace đứng dậy. Cô cầm những bông hoa mà Grace đưa cho và nắm tay bé, nói: - Đi thôi, Grace. Mình phải về nhà! Cô đảo mắt nhìn quanh trũng đất trong lúc giúp Grace leo lên bờ. Grace đi chậm tới nỗi chỉ một lát sau Laura phải ẵm bé. Rồi cô lại đắt bé xuống cho đi vì Grace đã gần ba tuổi và khá nặng. Sau đó, cô lại dìu bé đi. Cứ thế, vừa ẵm Grace, vừa dìu đỡ bé, Laura đưa bé về tới lều và trao cho Mary. Rồi cô chạy về phía đầm Big Lough, gọi lớn: - Bố, Mẹ! Bé đây rồi! Cô gọi cho tới khi Bố nghe thấy và gọi Mẹ ra khỏi vùng cỏ cao. Chậm chạp, cả hai kiếm lối ra khỏi đầm Big Slough và vẫn chậm chạp, cả hai trở về lều lem luốc bùn đất, mệt lử nhưng mừng rỡ. - Con thấy em ở đâu, Laura? Mẹ hỏi trong lúc bồng bé Grace lên đặt vào chiếc ghế của Mẹ. - Ở trong… Laura do dự rồi hỏi: - Bố, có đúng thực đó là một xứ thần tiên không? Nó hết sức tròn, dưới đáy hoàn toàn bằng phẳng. Bờ xung quanh có cùng độ cao với mọi phía. Bố không thể nhận ra một dấu hiệu nào về chỗ đó nếu không đứng sát bờ. Nó rất rộng và khắp mặt đáy dày đặc đổng thảo. Một nơi như thế không thể nào tình cờ mà có nổi đâu, Bố. Một thứ gì đã tạo ra nó. Mẹ dịu giọng: - Laura, con đâu còn nhỏ để mà tin những chuyện thần tiên. Charles, anh không nên khuyến khích những trò tưởng tượng như thế. Laura cãi lại: - Nhưng nó không… nó không thể là thật với cái hương thơm ngọt ngào như thế của những bông đổng thảo. Con thấy đổng thảo thông thường không giống như thế. Mẹ thừa nhận: - Đúng là khắp nhà đang thơm nức, nhưng cũng đúng là những bông đổng thảo thực và không có chuyện thần tiên nào cả. Bố nói: - Con có lý, Laura, không có bàn tay của con người trong việc tạo ra chỗ đó đâu. Nhưng các bà tiên của con rất lớn, hung tợn một cách xấu xa với những chiếc sừng trên đầu, những cục u trên lưng. Chỗ đó chính là một chỗ trâu đằm lâu rồi. Con đã biết trâu rừng là một loại hoang thú mà. Chúng cào đất lên và đầm mình trong rác bụi. Cứ thế nhiều năm, những đàn trâu đã tạo ra những vùng trâu đằm. Chúng cào đất lên và gió thổi bụi đất bay đi. Rồi những đàn khác tới tiếp tục cào thêm đất ở chỗ đó. Chúng luôn đằm mình ở cùng một chỗ và… Laura hỏi: - Tại sao chúng làm thế, Bố? - Bố không biết. Có lẽ vì đất ở chỗ đó mềm. Lúc này trâu đã đi hết và cỏ mọc lên đầy khắp. Cỏ và đổng thảo. Mẹ chen vào: - Thôi, mọi chuyện tốt đẹp đã kết thúc tốt đẹp và quá giờ ăn trưa lâu rồi. Mẹ hy vọng là con và Carrie không làm cháy món bánh qui, phải không Mary? - Không, thưa Mẹ. Mary đáp và Carrie chỉ cho thấy bánh qui đang được phủ dưới một tấm vải sạch để giữ cho nóng còn khoai tây đã được ép khô và nghiền nhuyễn trong bình. Laura đáp: - Ngồi nghỉ chút nữa, Mẹ. Đợi con chiên thịt heo ướp muối và làm nước sốt. Không có ai ngoại trừ Grace cảm thấy đói. Cả nhà ăn thật chậm, rồi Bố đi trồng dứt hàng cây che gió. Mẹ giúp cho Grace giữ thẳng ngọn những cây con trong lúc Bố trồng cây. Khi cây được trồng xong, Carrie và Laura tưới mỗi gốc cây một thùng nước đầy múc từ dưới giếng. Tất cả dứt việc thì đã quá giờ ăn tối. Lúc ngồi vào bàn ăn, Bố nói: - Thế là cuối cùng thì mình đã ổn định trên nông trại của mình. Mẹ nói: - Đúng rồi, tất cả đã xong, ngoại trừ một việc. Mừng là đã có một ngày như thế này. Nhưng em không còn thì giờ để đóng đinh dựng chiếc xích-đông. Bố nói: - Anh sẽ lo chuyên đó cho em, Caroline, ngay sau khi uống trà xong. Bố lấy búa từ trong thùng dụng cụ dưới gầm giường và đóng một cây đinh trên vách ở giữa bàn ăn và chiếc kệ tháp. Bố nói: - Bây giờ hãy treo xích-đông và đặt cô gái chăn cừu bằng sứ của em lên. Mẹ mang tới cho Bố. Bố treo chiếc xích-đông vào cây đinh vào đặt cô gái chăn cừu bằng sứ vào ngăn giá. Đôi giày nhỏ bằng sứ, vạt áo trên bó sát bằng sứ và mái tóc vàng óng vẫn sáng bóng như khi còn ở Big Woods. Chiếc váy bằng sứ màu trắng xòe rộng không thay đổi và cặp má hồng, đôi mắt xanh vẫn dịu dàng như thuở nào. Và chiếc xích-đông do Bố khắc làm quà Giáng Sinh cho Mẹ từ lâu vẫn không có một vết trầy mà còn trơn bóng hơn cả khi còn mới. Ngang trên cửa ra vào Bố treo cây súng trường và cây súng săn, rồi Bố treo ở bên trên hai cây súng một chiếc móng ngựa mới sáng lóa. Bố nhìn quanh khắp căn lều đầy đồ đạc ngăn nắp, nói: - Tốt! Tình trạng thiếu hụt sẽ qua mau thôi, Caroline, đây là lúc chắt bóp nhất của mình nhưng tất cả chỉ mới bắt đầu. Mắt Mẹ như đang cười với mắt Bố và Bố nói với Laura: - Bố sẽ hát cho con nghe một bài về chiếc móng ngựa. Cô mang hộp đàn tới và Bố ngồi xuống trong khung cửa, lên dây đàn. Mẹ ngồi trong chiếc ghế đu ru Grace ngủ. Laura rửa chén đĩa thật nhẹ cho Carrie lau khô trong lúc Bố đàn và hát: Đường xa thẳm tênh tênh nhẹ bước. Sống chan hòa không phân biệt lạ quen. Giữ vững tự do ngoài vòng đố kị Vui nào bằng khi bạn bè kề bên. Nhà của ta sáng bừng hạnh phúc, Cần gì hơn mà đòi hỏi nhiều thêm. Một chiếc móng ngựa không rời xa khung cửa. Lá bùa linh cho cuộc sống bình yên. Chiếc móng ngựa luôn bên trên khung cửa Sẽ mang về sự may mắn vô biên. Muốn giữ tự do trong ngập tràn hạnh phúc Nhớ treo cao chiếc móng ngựa trước thềm! Mẹ nói: - Có vẻ như em thà là người ngoại đạo, Charles. Bố đáp: - Dù sao anh vẫn không thắc mắc nếu mình khá lên ở đây, Caroline. Mình sẽ cất thêm phòng cho ngôi nhà này vào đúng lúc và có thể sẽ có một cặp ngựa kéo và một cỗ xe. Anh sẽ không cày lật cỏ nhiều. Mình sẽ có một khoảnh vườn và một cánh đồng nhỏ nhưng dành hầu hết cho cỏ để nuôi gia súc. Chỗ nào có nhiều trâu rừng cũng sẽ tốt cho việc chăn nuôi gia súc. Chén đĩa đã rửa xong. Laura mang chiếc chảo xa khỏi cửa sau tưới nước lên khoảng cỏ mà mặt trời sẽ dọi khô vào hôm sau. Những ngôi sao đầu tiên đã hiện ra trên nền trời mờ nhạt. Vài tia sáng vàng lấp lánh trong khu thị trấn nhỏ nhưng bóng tối phủ khắp đồng cỏ mênh mông. Trời ít gió nhưng không khí vẫn chuyển dịch và như đang xì xào trong cỏ. Laura gần như biết rõ tiếng xì xào đó nói gì. Cô quạnh, hoang vu và bất biến là đất, nước, trời và không khí luân lưu. Laura nghĩ: - Trâu rừng đi hết rồi. Và bây giờ mình là chủ trại. Chương 31: Những Con Muỗi Bố nói: - Phải làm chuồng cho lũ ngựa thôi. Không phải lúc nào trời cũng đủ ấm để chúng nằm ngoài trời và một cơn bão tồi tệ vẫn có thế đến trong mùa hè. Chúng phải có chỗ trú ẩn. Laura hỏi: - Còn Ellen, Bố? Bố nói: - Vào mùa hè, trâu bò ở ngoài trời tốt hơn. Riêng lũ ngựa thì Bố thích cho chúng vào chuồng ban đêm. Laura giữ những tấm ván cho Bố. Cô đưa dụng cụ rồi mang đinh tới trong lúc Bố cất chuồng ngựa ở phía Tây căn nhà dựa vào ngọn đồi nhỏ. Tại đó chuồng ngựa được che kín ở hai phía Tây Bắc khi những đợt gió lạnh mùa đông thổi. Ngày bắt đầu nóng ấm. Khi mặt trời lặn, muỗi bay ra khỏi đầm Big Slough vo ve suốt đêm bám quanh Ellen hút máu khiến nó phải lồng chạy lòng vòng quanh cọc. Muỗi ùa vào chuồng chích lũ ngựa đến nỗi chúng kéo dây cột và đạp móng rầm rầm. Muỗi cũng bay vào căn lều đốt mọi người nổi mụn đầy mặt và các bàn tay. Tiếng vo ve và ngòi chích của lũ muỗi khiến ban đêm thành một nỗi dày vò. Bố nói: - Không thể để thế này được. Phải có lưới muỗi chặn trên các khuôn cửa. Mẹ phàn nàn: - Do từ đầm Big Slogh. Muỗi từ đó kéo đến. Em ước là mình ở xa đầm hơn. Nhưng Bố thích đầm Big Slough. Bố nói với Mẹ: - Có không biết bao nhiêu mẫu cỏ ở đó khiến ai cũng có thể muốn tới cắt. Nhưng không ai có thể lập trại trong đầm Big Slough. Chỉ trên đất của chúng ta mới có cỏ đó, nhưng phải ở rất gần đầm Big Slough mới có thể luôn cắt cỏ mỗi khi chúng ta cần. Ngoài ra, khắp đồng cỏ cũng đầy muỗi. Bữa nay anh sẽ ra thị trấn mua lưới muỗi. Bố mua về mấy cuộn lưới muỗi màu hồng và những nẹp gỗ để đóng một khung sườn cho tấm lưới che cửa ra vào. Trong lúc Bố làm lưới che cửa ra vào, Mẹ đóng lưới muỗi bịt các ô cửa sổ. Rồi Mẹ đóng lưỡi muỗi vào khung sườn cửa và Bố ghép vào cửa ra vào. Đêm đó Bố gom một đống cỏ khô ẩm hun khói âm ỉ trước cửa chuồng ngựa. Muỗi không thể bay qua khói để vào chuồng. Bố dọn sạch hết cỏ khô gần các đống lửa để các đống lửa có thể cháy âm ỉ suốt cả đêm. Bố nói: - Rồi! Những thứ này sẽ chặn đứng lũ muỗi. Chương 32: Bóng Chiều Buông Xuống Sam và David đứng im nghỉ ngơi trong chuồng với màn khói che trước cửa. Ellen với sợi dây cột nằm thoải mái giữa đám khói từ đống hun. Không một con muỗi nào còn xâm phạm nổi tới chúng. Bên trong căn lều cũng không còn một con vật hại người vo ve nào. Chúng không thể vượt qua lớp lưới muỗi căng trên các khung cửa. Bố nói: - Bây giờ thì tất cả chúng ta đều kín đáo ổn định trong trang trại của mình rồi. Laura, mang đàn ra cho Bố và chúng ta sẽ có một chút âm nhạc. Grace đã nằm yên trong giường cùng với Carrie ở bên cạnh. Mẹ và Mary đang ngồi đung đưa nhè nhẹ trong bóng tối. Nhưng ánh trăng chiếu qua ô cửa sổ phía Nam xối trên mặt, trên tay Bố và trên cây đàn khi chiếc vĩ chạm nhẹ trên những sợi dây. Laura ngồi bên Mary ngắm ánh trăng với ý nghĩ là ánh trăng đang chiếu chan hòa trên khu đất thần tiên đầy hoa đổng thảo. Hẳn là trong đêm các nàng tiên đang nhảy múa ở đó. Bố hát theo tiếng đàn: Trong thành phố mang tên Màu Hoa Đỏ Một mái nhà chan chứa yêu thương Cô gái nhỏ thu mình bên cửa sổ Bao chàng trai mang nặng vấn vương Suốt tháng năm tưng bừng hoa nở Cây trong vườn mơn mởn chồi non Một chàng trai bỗng lìa đời mãi mãi Ôm hận tình trong cái chết cô đơn. Laura kéo tấm màn che xuống khi cô và Mary lên giường cùng Carrie và Grace. Và, cô chìm vào giấc ngủ giữa những ý nghĩ về hoa đổng thảo, về các vùng đất thần tiên và về ánh trăng chiếu trên mặt đất mênh mông với trang trại của cả nhà trong lúc Bố vẫn hát khe khẽ theo tiếng đàn: Đơn sơ hai tiếng Nhà Ta Ngọt như mật ngọt luống hoa bên thềm Nhỏ nhoi chẳng luận sang hèn Thảnh thơi cuộc sống êm đềm sớm hôm. Tập 6: Mùa Đông Thăm Thẳm Chương 1: Phơi Cỏ Khi Nắng Chiếu Tiếng vo vo rộn rã của cỗ máy cắt cỏ vang lên từ vũng trâu đằm cũ ở phía nam căn lều, nơi bố đang cắt đám cỏ cao dầy đặc để phơi khô. Trời cao và như chao động theo làn hơi nóng phủ trên đồng cỏ lung linh. Mặt trời đã ngả về tây nhưng nắng vẫn hừng hực như giữa buổi trưa. Gió thổi tựa hồ đang quật lửa tới. Nhưng bố còn phải tiếp tục cắt cỏ nhiều giờ nữa trước khi ngưng lại vì trời tối. Laura lôi chiếc bình đầy nước lên khỏi chiếc giếng ở bên bờ đầm Big Slough. Cô súc rửa chiếc bình cho tới khi nó mát lạnh. Rồi cô vục đầy nước, đóng nắp thật chặt, xách ra đồng. Từng bầy bướm trắng nhỏ chập chờn trên đường đi. Một con chuồn chuồn với những chiếc cánh mỏng vun vút phóng theo một con muỗi độc. Trên những đám gốc cỏ lởm chởm, lũ sóc đất sọc vằn đang nhảy nhót toán loạn. Thình lình chúng bỗng lao chạy và chui hết vào hang. Đúng lúc, Laura nhận thấy có một chiếc bóng lướt nhanh. Cô nhìn lên và bắt gặp cặp mắt và những chiếc móng của một con ó ở phía trên. Nhưng hết thảy đám sóc nhỏ đã nằm an toàn trong hang. Bố mừng rỡ thấy Laura xuất hiện với một bình nước. Bố nhảy xuống khỏi cỗ máy cắt cỏ, uống một hớp. - Chà! Trúng mánh rồi! Bố nói và lại dốc ngược chiếc bình. Sau đó bố đóng nắp bình đặt xuống đất và phủ cỏ lên. Bố nói giỡn: - Cái nắng này gần khiến chàng trai mong có một bụi mầm non để che bóng mát. Thực ra, bố rất vui vì đang ở trên một vùng đất không có cây lớn. Khi ở Big Woods, mỗi mùa hè bố đã phải đào bứng rất nhiều bụi mầm non để dọn sạch đất. Ở đây, trên đồng cỏ xứ Dakota, không hề có một thân cây, một mầm non và không có một mảnh bóng mát ỏ bất kì nơi nào. - Dù sao, một người sẽ làm việc tốt hơn khi toàn thân ấm lên. Bố nói một cách vui vẻ và chặc lưỡi ra lệnh cho lũ ngựa Sam và David miệt mài kéo cỗ máy. Chiếc lưỡi với hàng răng thép dài vo vo xiên qua những đám cỏ cao cắt đổ rạp xuống. Bố ngồi trên ghế ngồi bằng sắt ở trên cao, nắm chiếc cần lái trong tay và ngắm đám cỏ ngả xuống. Laura ngồi trên cỏ nhìn bố bọc một đường vòng. Hơi nóng ở đây tương tự như trong lò nướng bánh. Những con sóc đất nhỏ sọc vằn vàng nâu lại hối hả xuất hiện đầy xung quanh cô. Lũ chim bé xíu bay quanh và đeo vào những cọng cỏ uốn cong làm đu đưa nhè nhẹ. Một con rắn hiệp sĩ đang trườn tới và cuốn mình qua một đám cỏ. Laura ngồi khom người tì cằm trên đầu gối và đột nhiên chợt thấy mình lớn như một trái núi khi con rắn cuộn mình lại ngóc đầu ngắm bức tường sừng sững là chiếc váy vải của cô. Cặp mắt tròn của nó sáng lên như những hạt cườm và chiếc lưỡi le ra cực nhanh tựa hồ một tia nước nhỏ phóng tới. Toàn thể hình dạng con rắn sọc sáng trông rất mềm mại. Laura biết rõ loại rắn hiệp sĩ không hề làm hại ai và còn giúp ích cho nhà nông do chúng chuyên ăn những thứ sâu phá hoại mùa màng. Con rắn vươn chiếc cổ đã hạ thấp đảo thành một góc vuông hoàn hảo trườn quanh Laura và luồn vào trong cỏ. Lúc đ, tiếng vo vo của cỗ máy vang lên dữ dội hơn và lũ ngựa đầu lắc lư chậm chậm bước tới. David nhảy dựng lên khi Laura bật kêu gần như ngay sát dưới mũi nó. - Oa! Bố hét lũ ngựa và ngạc nhiên: - Laura! Bố ngỡ con đã đi rồi chứ. Tại sao con lại chui trong cỏ như một con gà gô nhỏ vậy? Laura nói: - Bố, tại sao con không thể phụ bố phơi cỏ? Bố hãy để cho con làm đi, bố! Bố nhấc chiếc mũ lên, thọc mấy ngón tay vào mái tóc đẫm mồ hôi, dựng tất cả tóc đứng lên cho gió thổi qua. - Con không lớn lắm và không có sức nữa, bình rượu nhỏ à. Laura nói: - Con sắp tròn mười bốn tuổi rồi. Con có thể phụ giúp bố. Con biết là con làm được. Cỗ máy quá đắt đến nỗi bố không còn tiền để thuê người phụ việc. Bố cũng không thương lượng làm vần công được vì ở vùng đất mới mẻ này chỉ có vài gia đình nông dân và ai cũng bận rộn trong mảnh đất được chia cấp. Dù thế, bố vẫn cần được giúp đỡ để chất đống cỏ khô. Bố nói: - Ừ, có thể con làm được. Mình hãy thử coi. Nếu con làm nổi thì công việc phơi cỏ khô này sẽ do hai bố con mình tự làm. Laura nghĩ là không nên để bố buồn phiền về điều này và cô vội vã trở về lều nói với mẹ. Mẹ nói một cách lưỡng lự: - Sao, mẹ nghĩ là con có đủ sức. Mẹ vẫn không muốn thấy phụ nữ làm việc ở ngoài đồng. Chỉ có những người ngoại quốc mới làm thế. Mẹ và các con gái đều là người Mỹ nên không thể dính vào công việc của đàn ông. Nhưng việc Laura giúp phơi cỏ sẽ giải quyết xong vấn đề. Mẹ quyết định: - Được, Laura. Con có thể làm. Carrie cũng nôn nóng được phụ giúp: - Em sẽ mang nước uống ra cho chị. Em đủ lớn để mang bình nước rồi! Carrie đã gần mười tuổi nhưng thân hình quá nhỏ so với tuổi tác. Mary cũng sung sướng đề nghị: - Chị sẽ lãnh phần việc nhà của em, ngoài phần việc của chị. Mary vẫn tự hào có thể rửa chén đĩa, dọn dẹp giường ngủ không thua Laura, dù cô không thấy gì. Nắng và gió hong khô đám cỏ được cắt xong một cách mau chóng đến mức bố có thể cào lại vào ngày hôm sau. Bố cào thành những luống dài rồi cào gom lại thành từng đống lớn. Sáng sớm hôm sau, khi không khí bình minh còn mát dịu và khi bầy chiền chiện còn đang hót, Laura đã ngồi trên xe cùng bố ra đồng. Tới nơi, bố đi bên thùng xe điều khiển lũ ngựa bước giữa các đống cỏ. Bố dừng ngựa bên từng đống cỏ dùng chĩa hất cỏ khô lên máng. Cỏ chồng chất lộn xộn là Laura đập nén xuống. Lui tới lên xuống, cô cố sức đập nén đám cỏ khô lùng bùng trong lúc những chĩa cỏ cứ ào tới và cỗ xe lắc lư chuyển qua đống cỏ kế cận. Rồi bố hất cỏ lên từ phía bên kia. Dưới bàn chân cô, cỏ khô cao lên mãi và được đập nén xuống thật chặt. Cô tiếp tục trèo lên đạp xuống thật kĩ từ đầu tới cuối máng rồi băng qua ở giữa. Nắng trở nên nóng hơn và nồng mùi cỏ khô. Cỏ bung ra dưới chân cô chờm khỏi các cạnh máng. Càng lúc cô càng cao thêm trên đống cỏ khô được đập nén lại. Đầu cô vươn khỏi các thành máng và cô có thể nhìn khắp đồng cỏ mỗi khi ngừng đạp chân. Rồi máng cỏ đầy hết và những chĩa cỏ từ tay bố vẫn được hất lên. Lúc này Laura đứng cao ngất và đám cỏ khô trơn trượt nghiêng xuống xung quanh cô. Cô tiếp tục đập xuống một cách thận trọng. Mồ hôi ướt đẫm trên mặt, trên cỏ và chảy dài xuống lưng cô. Chiếc mũ rớt xuống phía sau lủng lẳng và những bím tóc cô xõa tung. Mái tóc dài màu nâu của cô rối bời trong gió. Rồi bố bước lên những giống cây. Một bàn chân bố đặt trên chiếc hông lớn của David và bố leo lên đống cỏ khô một cách khó khăn. Bố nói: - Con làm việc tốt lắm, Laura. Con đã đạp nén khá chặt đến mức mình có một đống cỏ rất lớn trên thùng xe. Laura đứng nghỉ trong đám cỏ khô tua tủa bốc nóng trong lúc bố đưa xe về gần chuồng ngựa. Lúc đó, cô tụt xuống và ngồi ngay dưới bóng của cỗ thùng xe. Bố hất một ít cỏ xuống rồi leo xuống trải rộng thành một lớp đáy tròn lớn cho một đống cỏ. Bố lại trèo lên hất thêm cỏ xuống rồi leo xuống trải cỏ thật đều và đạp nén chặt. Laura nói: - Con có thể tãi cỏ, bố. Như vậy bố khỏi phải leo lên leo xuống nữa. Bố hất chiếc mũ về phía sau nghiêng người vào chiếc chĩa, nói: - Thực ra thì đánh đống cỏ là việc làm của hai người. Làm theo cách bố đang làm thì rất tốn thời giờ. Bố muốn có sự giúp đỡ lắm nhưng con chưa đủ lớn, bình rượu nhỏ à! Cô chỉ có thể khiến bố nói: - Thôi được, mình thử coi đã! Nhưng khi hai bố con quay lại với máng cỏ thứ hai thì bố đưa chiếc chĩa cho cô thử làm. Chĩa cao vượt khỏi đầu cô và cô không biết cách sử dụng nên cầm nó một cách lóng ngóng. Nhưng khi bố hất cỏ khô từ thùng xe xuống, cô vẫn cố tãi ra thật đều, vừa tãi vừa đi vòng quanh để đạp nén chặt xuống. Dù cô đã ráng hết sức, bố vẫn phải san bằng lại đống cỏ cho chuyến xe kế tiếp. Lúc này, nắng và gió càng nóng dữ hơn và chân Laura run rẩy khi cô đạp nén cỏ xuống. Cô mừng được ngồi nghỉ một lát. Cô thấy khát, khát hơn nữa, rồi khát tới mức cô không còn nghĩ nổi tới thứ gì khác. Giống như lâu lắm mới tới mười giờ, khi Carrie xuất hiện kéo theo bình nước chỉ vừa đầy một nửa. Bố nhắc Laura uống trước và không uống nhiều quá. Không khi nào có được một điều gì ngon hơn thứ nước mát dịu trôi qua họng cô lúc đó. Vừa nhấp thử cô đã ngưng lại ngạc nhiên và Carrie vỗ hai bàn tay kêu lớn rồi cười nói: - Không được nói, Laura! Không được nói cho tới khi bố nếm. Mẹ đã gửi nước gừng tới. Mẹ hòa đường với nước lạnh cho nước có vị nho rồi bỏ gừng vào đó để giữ ấm cho bao tử và hai bố con có thể uống thỏa thích. Nước gừng không gây sốt như nước lạnh khi uống vào lúc đang quá nóng nực. Sự đãi ngộ này đã biến một ngày bình thường thành đặc biệt, ngày đầu tiên Laura phụ việc đánh đống cỏ khô. Khoảng trưa, hai bố con đã kéo hết cỏ khô và đánh đống xong. Bố lo làm chóp mái. Chóp mái được làm thật khéo và lớp cỏ khô phủ quanh để che mưa cho đống cỏ. Bữa ăn trưa đã sẵn sàng khi hai bố con về tới lều. Mẹ nhìn Laura thật nhanh và hỏi bố: - Công việc có khó với con bé lắm không, Charles? Bố nói: - Ô, không! Nó vững chắc như một con ngựa nhỏ và giúp được nhiều lắm. Nếu anh làm một mình thì phải mất cả ngày mới đánh đống hết chỗ cỏ đó. Nhưng bây giờ thì anh đã có trọn buổi chiều để cắt cỏ. Laura cảm thấy tự hào. Hai bàn tay cô đau nhức, lưng cô đau nhức, hai chân đau nhức và tối đó, khi lên giường, toàn thân cô đau nhức tới ứa nước mắt nhưng cô không nói với ai. Ngay khi bố cắt và cào gom cỏ đủ để đánh một đống khác, bố cùng Laura lại cùng làm. Tay chân Laura đã quen với công việc và không còn đau nhức nhiều nữa. Cô thích ngắm những đống cỏ mà cô đã phụ giúp để hoàn thành. Cô đã giúp bố đánh đống cỏ ở hai bên cửa chuồng ngựa và một đống dài phủ kín phía trên chuồng hang. Ngoài những đống cỏ này, hai bố con còn đánh đống thêm ba đống cỏ lớn nữa. Bố nói: - Bây giờ thì tất cả cỏ trên đất cao đã cắt hết rồi, bố muốn tính tới một số cỏ trong đầm. Việc này chẳng tổn hao gì và có thể mình sẽ bán được cỏ khi có thêm người định cư tới vào mùa xuân sau. Thế là bố cắt đám cỏ cao thô ở đầm Big Slough và Laura giúp bố đánh đống lại. So với những cọng cỏ nhỏ ở đất cao, loại cỏ này nặng hơn nhiều đến nỗi Laura không thể xốc cỏ bằng chĩa, nhưng cô vẫn có thể đạp nén chúng xuống. Một bữa, khi bố trầy trật leo lên đỉnh một đống cỏ, cô nói: - Bố còn bỏ sót một đống cỏ, bố! Bố ngạc nhiên: - Đâu? - Đó, trong đám cỏ cao. Bố nhìn theo hướng tay chỉ của Laura. Rồi bố nói: - Không phải đống cỏ đâu, bình rượu nhỏ! Đó là một ổ cầy hương. Bố ngắm kĩ một hồi lâu và nói: - Bố sẽ tới gần đã coi. Con có muốn tới không? Lũ ngựa sẽ dừng tại chỗ. Bố mở một lối đi băng qua đám cỏ cao xù xì và Laura theo sát phía sau. Đất dưới bàn chân mềm nhão bùn lầy và nước đọng giữa các rễ cỏ. Laura chỉ nhìn thấy lưng của bố còn khắp xung quanh là cỏ cao vượt khỏi đầu cô. Cô bước một cách thận trọng trên mảnh đất mỗi lúc một nhớp nhúa hơn. Đột nhiên, ngay phía trước cô mở ra một vũng nước chói chang. Ổ cầy hương nằm sát mé bờ của vũng nước. Ổ cao khỏi đầu cô và lớn hơn một vòng ôm của cô. Vách ổ uốn tròn và trên đỉnh xù xì, xám xịt. Lũ cầy hương cắn cỏ khô thành từng mảnh, nhào kĩ trong bùn để làm thành một loại hồ cho căn nhà của chúng và chúng đã dựng ổ một cách chắc chắn, phẳng phiu với phần chóp cuốn tròn kĩ lưỡng để cho mưa. Căn nhà của chúng không có cửa ra vào. Khắp xung quanh cũng không có một lối đi nào để dẫn tới. Trong các gốc cỏ xung quanh ổ và dọc bờ ao đầy bùn không có một dấu chân. Không có gì cho thấy lũ cầy hương ra vào ổ của chúng như thế nào. Bố nói rằng, vào lúc này, ở phía sau những bức vách dầy im ắng kia, lũ cầy hương đang ngủ, mỗi gia đình chiếm một khoang nhỏ riêng biệt có lót cỏ. Mỗi khoang có một ô tròn nhỏ dẫn vào một khoang dốc thoai thoải. Lối đi thông ở bên trong này uốn vòng từ trên cao xuống dưới đáy và tận cùng trong mặt nước sâu. Đây chính là cổng chính để ra vào của lũ cầy hương. Khi nắng tắt, lũ cầy hương thức dậy chạy nhanh trên mặt nền bùn của lối đi, phóng xuống dưới mặt nước đen ngòm, lặn xuyên qua vũng nước rồi biến vào trời đêm mênh mông. Suốt đêm, dưới ánh trăng hoặc ánh sao, chúng đầm mình trong nước nô giỡn dọc các mép bờ vừa ăn rễ, cọng hoặc lá của các loại cây cỏ mọc trong nước. Khi bình minh thoáng hiện, chúng liền quay về ổ. Chúng lăn tới khung cửa ở dưới nước. Rũ nước xong, chúng leo ngược lối đi dốc ở bên trong và trở về khoang riêng của mình có lót cỏ. Tại đó chúng cuộn mình ngủ thoải mái. Laura đặt bàn tay lên vách ổ. Lớp hồ xù xì nóng hầm hập dưới gió và nắng nhưng ở phía trong những lớp tường dầy, trong bóng tối, không khí chắc vẫn mát mẻ. Cô thích thú với ý nghĩ lũ cầy hương đang ngủ ỏ đó. Bố khẽ lắc đầu, nói như không có triển vọng gì: - Mình sắp phải trải qua một mùa đông khắc nghiệt. Laura ngạc nhiên hỏi: - Sao, bố biết bằng cách nào? Bố giải thích với cô: - Mùa đông càng lạnh thì lũ cầy hương càng đắp vách ổ dầy hơn. Bố chưa hề thấy vách ổ cầy hương nào dầy như thế này. Laura lại ngắm chiếc ổ. Nó rất chắc và lớn. Nhưng ánh nắng đang xối xuống đốt cháy vai cô xuyên qua lớp vải mỏng bạc màu và gió hừng hực thổi trong mùi bùn ẩm ướt hòa với mùi cỏ khô nồng nặc. Laura khó nghĩ nổi tới một khoảng thời gian lạnh lẽo dữ dội với băng tuyết. Cô hỏi: - Bố, làm sao lũ cầy hương lại biết nổi? Bố nói: - Bố không biết chúng biết bằng cách nào, nhưng chúng biết. Bố cho rằng chỉ có một cách là Chúa mách bảo với chúng. Laura lại hỏi: - Thế thì sao Chúa lại không mách bảo cho mình? Bố đáp: - Vì mình không phải là thú vật. Mình là người và như bản Tuyên ngôn độc lập đã nêu rõ, Chúa tạo ra con người hoàn toàn tự do. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tự lo cho mình. Laura nói khẽ: - Con nghĩ là Chúa đã lo cho mình. Bố nói: - Chúa lo tới mức để chúng ta làm những điều hợp lẽ phải. Chúa ban cho chúng ta lương tâm và trí tuệ để hiểu biết lẽ phải. Nhưng Chúa dành cho chúng ta quyền làm theo ý muốn. Đó là điều khác biệt giữa con người với mọi loài vật khác. Laura ngạc nhiên hỏi: - Vậy là cầy hương không được làm theo ý thích của chúng? Bố đáp: - Đúng. Bố không biết tại sao lại như thế nhưng co có thể thấy rất rõ. Hãy nhìn những chiếc ổ kia. Cầy hương phải dựng cùng một loại nhà như thế. Chúng luôn làm như thế và sẽ luôn làm như thế. Rõ ràng là chúng không thể dựng một kiểu nhà khác. Nhưng con người dựng lên mọi kiểu nhà. Mỗi người đều có thể tạo ra một kiểu nhà nào đó theo ý riêng của mình. Như vậy, nếu kiểu nhà đó không tránh được thời tiết thì hoàn toàn do con người. Con người hoàn toàn tự do và độc lập. Bố dừng lại một phút suy nghĩ rồi bất chợt hất đầu: - Đi thôi, bình rượu nhỏ. Tốt hơn là mình lo cắt cỏ trong khi còn nắng. Bố nháy mắt và Laura cười vì nắng đang chiếu rồi gắt. Nhưng trọn phần còn lại của buổi chiều, hai bố con làm việc khá đúng mức. Lũ cầy hương đã có một cái ổ ấm áp với những bức vách dầy nhưng căn lều của họ chỉ được làm với những tấm ván mỏng đã bị cái nóng mùa hè làm co rút lại đến nỗi những tấm nệm nhỏ không còn che kín hết những kẽ hở lớn trên vách. Ván và giấy chống thấm không đủ để ngăn chống với một mùa đông khắc nghiệt. Chương 2: Chuyến Đi Vào Thị Trấn Một buổi sáng tháng chín, sương giá phủ trắng trên cỏ. Đó là một lớp sương mỏng và tan ngay khi nắng chiếu tới. Khi Laura nhìn ra, trời sáng chói chang thì sương không còn nữa. Nhưng lúc ăn điểm tâm, bố nói sương giá có sớm như thế là điều bất ngờ. - Sương như thế có làm hư cỏ khô không? Laura hỏi và bố đáp: - Ô, không đâu. Một lớp sương mỏng như thế chỉ khiến cỏ mau khô hơn khi được cắt ra. Nhưng lúc này tốt nhất là hãy làm thật nhanh để công việc khỏi kéo dài tới mức trở thành quá trễ. Bố hối hả tới mức hiếm khi ngưng lại uống nước vào chiều hôm đó, khi Laura mang bình nước tới. Bố đang cắt cỏ trong đầm Big Slough. Bố trao lại bình nước và nói: - Cất nó đi, bình rượu nhỏ. Bố đã quyết định dứt khoát cắt xong dải cỏ này trước khi mặt trời lặn. Bố lên tiếng thúc Sam và David tiếp tục bước lên kéo theo chiếc máy cắt cỏ kêu vo vo. Đột nhiên cỗ máy kêu bật lên một tiếng loảng xoảng và bố hô: - Oa! Laura chạy vội tới để coi xảy ra điều gì. Có một lỗ hỏng ở giữa những mũi thép sáng loáng. Lưỡi hái đã bị mất một chiếc răng. Bố nhắc bộ phận này lên nhưng không thể sửa chữa nổi. Bố nói: - Hết cách rồi. Đành phải mua một cái khác. Không còn gì để nói thêm về chuyện đó nữa. Bố suy nghĩ một lát rồi nói: - Laura, bố muốn nhờ con chạy ra thị trấn để mua. Bố không muốn mất thời giờ. Bố có thể tiếp tục cắt đỡ trong lúc con đi. Nhớ đi thật mau. Nói mẹ đưa cho con năm xu để mua. Mua ở tiệm đồ sắt Fuller’s. Laura nói: - Dạ, bố! Cô rất ngán thị trấn vì ở đó có quá nhiều người. Thực sự cô không sợ hãi nhưng những cặp mắt người lạ ngó lom lom khiến cô không thấy thoải mái. Cô đã có một chiếc áo vải sách và có giầy. Trong lúc vội vã chạy về, cô nghĩ là mẹ có thể cho cô đeo chiếc băng tóc dành cho ngày chủ nhật và có lẽ được đội chiếc mũ mới ủi của Mary. Cô nói hụt hơi: - Con phải ra thị trấn, mẹ. Carrie và Mary lắng nghe trong lúc cô giải thích lí do và ngay cả Grace cũng ngước cặp mắt lớn màu xanh lơ lên nhìn cô. Carrie lên tiếng: - Em sẽ đi theo chị cho có bạn. Laura hỏi: - Ô, được không, mẹ? Mẹ đồng ý: - Nếu nó chuẩn bị xong vào lúc con đi. Hai cô thay quần áo, mang vớ, đi giầy cực nhanh. Nhưng mẹ thấy không có lí do gì để dùng đến những băng buộc tóc vào một ngày bình thường và mẹ nhắc Laura phải đội mũ của cô. Mẹ nói: - Chiếc mũ đó sẽ mới hơn nếu con giữ gìn nó cẩn thận. Chiếc mũ móp méo do lủng lẳng hoài ở sau lưng cô và dây mũ cũng xộc xệch. Nhưng đó là do lỗi của Laura. Mẹ lấy trong bóp của bố cho cô năm xu rồi cô cùng Carrie hối hả ra thị trấn. Các cô theo lối đi làm thành do bánh xe của bố, qua giếng nước xuống triền dốc đầy cỏ trong đầm Big Slough, băng ngang những đám cỏ đầm lầy cao vút tới triền dốc đưa lên phía bên kia. Lúc đó toàn vùng cỏ lấp lánh có vẻ hoàn toàn lạ lùng. Ngay cả gió thổi trên đồng cũng tạo ra một thứ tiếng động man rợ hơn. Laura thích những thứ đó và cô mong là hai chị em không phải tới thị trấn, nơi mà những mặt tiền giả của các tòa nhà với đỉnh cao vuông vức để làm bộ như các cửa hàng ở phía sau lớn hơn mức độ thực có. Cả Laura và Carrie đều im lặng sau khi bước vào phố chính Main Street. Một vài nói đàn ông đang đứng trước cửa hàng và hai cặp ngựa đóng vào thùng xe đang được cột vào những cọc buộc ở bên kia phố Main Street, căn nhà của bố đứng trơ trọi. Căn nhà đã được cho mướn và ở bên trong có hai người đàn ông ngồi nói chuyện. Laura và Carrie bước vào cửa hàng bàn đồ sắt. Hai người đàn ông đang ngồi trên những thùng đinh nhỏ và một người ngồi trên chiếc cày. Họ ngừng nói chuyện, quay nhìn Laura và Carrie. Bức vách phía sau quầy lấp lánh những chiếc chảo thiếc, những chiếc xô và những cây đèn. Laura nói: - Bố cháu có một đoạn ghép vào lưỡi hái của máy cắt cỏ. Người đang ngồi trên chiếc cày nói: - Ông ta bị gãy một khúc, hả? Laura đáp: - Dạ, thưa ông? Cô nhìn ông ta gói vào trong giấy một chiếc răng ba góc nhọn và sáng loáng. Chắc ông ta là Fuller. Cô trao cho ông ta năm xu và cầm lấy gói giấy trong tay ông, nói: - Cảm ơn ông! Đoạn cô bước ra ngoài cùng với Carrie. Chuyện thế là xong. Nhưng cả hai vẫn im lặng khi phải đi bộ trong thị trấn. Rồi Carrie lên tiếng: - Chị làm hay quá, Laura. Laura đáp: - Ồ, chỉ là việc mua bán thôi. Carrie nói: - Em biết thế, nhưng em cảm thấy thật kì khi có người nhìn mình. Em cảm thấy … không phải sợ, mà thực sự là… Laura nói: - Không có gì phải sợ hết. Mình không nên sợ bao giờ. - Chị cũng cảm thấy vậy. Carrie nói: - Thực thế sao? Em không biết rõ điều đó. Nhưng chị không nên như thế. Em luôn cảm thấy yên tâm khi có chị ở bên cạnh. Laura đáp: - Em cứ yên tâm khi có chị. Chị sẽ lo cho em. Dù sao, chị cũng phải cố hết sức. Carrie nói: - Em biết vậy mà. Thật dễ chịu khi cùng nhau đi bộ. Để giữ gìn đôi giày, các cô không đi trên những vết xe đầy bụi. Các cô bước theo dải đất cứng hơn ở giữa đường, nơi mà móng chân ngựa khiến cỏ lún xuống. Các cô không nắm tay nhau nhưng cảm thấy giống như thế. Từ lâu Laura vẫn luôn nhớ Carrie là đứa em nhỏ của cô. Trước tiên đó là một bê-bi tí hon, rồi là bé Carrie, rồi một cái bóng lẽo đẽo luôn hỏi lung tung “tại sao?”. Lúc này thì cô bé ấy đã mười tuổi, đủ lớn thực sự để là một chị gái. Và cả hai cùng nhau ra khỏi nhà, cách xa cả bố lẫn mẹ. Công việc của các cô đã xng ngoài hẳn mọi ý nghĩ và nắng đang chiếu, gió đang thổi, đồng cỏ trải dài xa tắp xung quanh. Các cô cảm thấy tự do, độc lập và thoải mái bên nhau. Carrie bỗng nói: - Đường đi vòng về chỗ bố xa quá. Tại sao mình không đi theo lối này. Cô chỉ tay về mé đầm mà từ đó các cô có thể nhìn thấy bố và lũ ngựa. Laura trả lời: - Lối đó phải đi qua đầm. Carrie hỏi: - Lúc này khô mà, phải không? Laura đáp: - Đúng đó, đi thôi. Bố không dặn phải đi theo đường cái mà dặn là đi thật mau. Thế là các cô rời đường cái quay về lối đi tắt ngang đầm. Các cô đi thẳng vào trong đám cỏ đầm lầy cao vút. Thoạt đầu thật là thú vị, vì khá giống như đi vào bức tranh rừng rậm trong cuốn sách lớn màu xanh của bố. Laura lấn tới trước giữa những bụi cỏ dầy mở ra một lối đi lại bị khép kín trong tiếng lá xào xạc ở phía sau Carrie. Hàng triệu cọng cỏ xù xì với những chiếc lá thon dài màu vàng xanh và xanh vàng ở trong bóng mát. Mặt đất dưới chân khô khốc, nhưng một mùi ẩm ướt đọng lại dưới mùi cỏ hấp nóng. Ngay trên đầu Laura, ngọn cỏ quật ngã trong gió nhưng gốc cỏ vẫn bất động và chỉ đạp gãy do Laura và Carrie đạp ngã khi đi qua. Đột nhiên Carrie hỏi: - Bố ở đâu rồi? Laura nhìn quanh. Khuôn mặt gầy guộc của Carrie xanh nhợt trong bóng cỏ. Mắt cây bé gần như thất thần. Laura nói: - Từ đây mình không thể nhìn thấy bố đâu. Các cô chỉ nhìn thấy lá cỏ dầy đặc chập chờn và một khoảng trời hừng hực ở trên đỉnh đầu. - Bố ở thẳng phía trước mình. Chỉ chút xíu nữa mình sẽ tới chỗ bố. Cô nói bằng giọng quả quyết nhưng cô cũng đâu có cách nào để nhìn thấy bố đang ở đâu? Cô còn không thể biết chắc đang ở đâu và đang đưa Carrie tới nơi nào. Cái nóng ngột ngạt khiến mồ hôi chảy ròng ròng trên cổ. Đầm lầy còn tồi tệ hơn đồng cỏ nhiều. Mẹ vẫn thường sợ Grace bị lạc trong vùng đầm lầy. Cô lắng nghe tiếng vo vo của cỗ máy cắt cỏ nhưng tiếng cỏ khua đạp lấp đầy tai cô. Không có gì trong những chiếc bóng chao động của đám lá cỏ mỏng lắc lư, quăng quật ở phía trên tầm mắt cô có thể chỉ cho cô biết mặt trời đang ở đâu. Đám cỏ bị thổi rạp ngả nghiêng cũng không hề cho biết rõ hướng gió. Những bụi cỏ này cũng không đủ chịu đựng một sức nặng nào. Khắp nơi không có một thứ gì để cô có thể leo lên nhìn vượt trên ngọn cỏ để biết rõ cô đang ở đâu. Cô giữ giọng vui vẻ giục: - Đi tới, Carrie. Cô cố không làm cho Carrie hoảng sợ. Carrie ngoan ngoãn bước theo, nhưng Laura vẫn không biết mình đang đi đâu. Cô cũng không dám chắc là mình có giữ được đúng hướng đi thẳng không. Trên lối đi của cô luôn xuất hiện những bụi cỏ khiến cô phải quẹo qua phải hoặc qua trái. Ngay cả khi cô quẹo qua bên phải một bụi cỏ rồi quẹo qua bên trái một bụi cỏ kế tiếp thì cũng chưa hẳn là cô không đang đi theo một vòng tròn. Những người đi lạc thường đi theo chiều vòng tròn và phần đông họ không bao giờ tìm nổi lối ra để về tới nhà. Đầm lầy chạy dài khoảng một dặm hoặc hơn nữa với những lớp cỏ uốn cong nghiêng ngả, quá cao để nhìn vượt lên trên và quá mềm để trèo lên. Đầm lại quá rộng. Nếu Laura không đi thẳng tới thì các cô không bao giờ ra khỏi đầm. Carrie hổn hển: - Mình đi quá xa, Laura. Sao vẫn chưa tới chỗ bố? Laura đáp: - Bố phải ở quanh đây thôi. Cô không thể lần theo lối cũ để quay lại con đường an toàn. Giầy của các cô hầu như không thể để lại một dấu vết nào trên mặt bùn bị nung nóng và trên cỏ, những lớp cỏ vô tận đang ngả nghiêng với những chiếc lá khô gãy vụn hoàn toàn giống nhau. Miệng Carrie mở lớn. Mắt cô nhìn Laura như đang nói: - Em biết mình bị lạc rồi. Cô ngậm miệng lại, cố không thốt ra một tiếng nào. Nếu các cô bị lạc thì đã lạc rồi. Chẳng có gì để nói về điều này. Laura nói: - Tốt hơn là mình cứ tiếp tục đi. Carrie đồng ý. - Em cũng nghĩ thế. Mình cứ cố ráng sức đi thật xa. Các cô tiếp tục đi. Cả hai đều chắc là đã vượt qua chỗ bố đang cắt cỏ. Nhưng Laura không thể chắc chắn điều gì. Có lẽ nếu các cô nghĩ tới việc quay lại, các cô sẽ thực sự phải đi xa hơn. Các cô chỉ tiếp tục bước tới. Thỉnh thoảng cả hai dừng lại lau mồ hôi trên mặt. Các cô khát khủng khiếp nhưng ở đó không có nước. Cả hai cũng đều rất mệt do phải vạch lá để băng qua cỏ. Không chỉ riêng việc lấn đẩy tới có vẻ mệt nhọc mà mỗi bước đi tới cũng khó khăn hơn khi đạp cỏ khô. Mặt Carrie trắng bệch do đã quá mệt. Lúc đó, Laura bỗng nghĩ là cỏ ở phía trước đang mỏng dần. Đống cỏ loãng hơn và ngọn cỏ che phía trên thưa thớt hơn. Và thình lình, cô nhìn thấy ánh nắng ở phía bên kia những cọng cỏ tối xẫm. Có lẽ ở đó là một cái ao. Ôi! Có lẽ đó là vùng đất bố đã cắt sạch cỏ và có lẽ là cỗ máy cắt cỏ và bố. Cô nhìn thấy gốc cỏ khô lởm chởm trong nắng và cô nhìn thấy những đống cỏ khô rải rác. Nhưng cô nghe thấy một giọng nói lạ. Đó là giọng nói đàn ông, oang oang và thân mật. Giọng nói nhắc: - Di chuyển thôi, Manzo. Đưa cái đống này đi. Lát nữa là tối rồi. Một giọng khác uể oải lười biếng: - Ối chà! Roy! Laura và Carrie đứng sát vào nhau nhìn ra từ một bờ cỏ dựng đứng. Đồng cỏ không phải là đồng cỏ của bố. Một cỗ xe lạ đậu tại đó với một máng cỏ đầy vĩ đại ở phía trên. Trên đỉnh đống cỏ cao ngất ngưởng ấy, một chàng trai đang nằm dài. Anh ta nằm sấp, tì cằm trên hai bàn tay và hua bàn chân lên trên không. Người đàn ông lạ sấn một chĩa cỏ lớn hất phủ lên chàng trai. Cỏ vùi kín anh ta và anh ta trườn ra khỏi vừa cười vừa phủi cỏ khỏi đầu, vai. Anh ta có mái tóc đen, cặp mắt xanh lơ, mặt cùng hai cánh tay sạm nắng. Anh ta đứng trên đống cỏ cao in vào nền trời và nhìn thấy Laura. Anh ta nói: - Xin chào! Cả hai người đàn ông đều đứng nhìn Laura và Carrie bước ra khỏi bờ cỏ cao – giống như những con thỏ. Laura nghĩ thế và muốn quay lại trốn mất luôn. Nhưng cô cố lên tiếng trong lúc Carrie đứng nép vào phía sau cô nhỏ bé và bất động: - Tôi nghĩ là bố tôi đang ở đây. Người đàn ông nói: - Chúng tôi không nhìn thấy ai ở quanh đây cả. Bố cô là ai? Chàng thanh niên nói: - Chắc là ông Ingalls. Rồi anh ta hỏi Laura: - Có đúng không? Anh ta vẫn tiếp tục nhìn cô. Cô đáp: - Dạ. Và cô ngắm những con ngựa đã được cột vào xe. Trước đây, cô đã từng thấy những con ngựa màu nâu tuyệt đẹp này với những bắp chân căng bóng trong nắng và những chiếc bờm lấp lánh trên những cần cỏ lấp lánh. Đó là những con ngựa của nàh Wilder. Vậy thì người đàn ông này và chàng trai trẻ kia hẳn là anh em nhà Wilder. Chàng trai nói: - Từ đây tôi có thể nhìn thấy ông ấy. Ông ấy ở chỗ kia kìa. Laura nhìn theo hướng tay chỉ của anh ta. Cặp mắt xanh lơ của anh ta nhìn cô long lanh tựa hồ anh ta đã biết cô lâu rồi. - Cảm ơn anh! Laura lên tiếng một cách nghiêm trang rồi cùng Carrie bước đi, dọc theo con đường mà cặp ngựa Morgan và cỗ xe đã mở ra qua đám cỏ đầm lầy. Bố hô lũ ngựa khi nhìn thấy các cô: - Oa! Bố lột mũ xuống lau mồ hôi trên trán: - Ui chà! Laura đưa cho bố bộ phận máy cắt cỏ rồi cô và Carrie đứng ngắm trong lúc bố mở hộp dụng cụ, lấy chiếc lưỡi hái ra khỏi cỗ máy, tháo bỏ chiếc răng đã bị gãy. Bố gắn vào đó chiếc răng mới, đóng chốt bằng những chiếc đinh tán rồi nói: - Xong rồi! Nhớ nói với mẹ là bố về ăn tối trễ. Bố phải cắt xong dải cỏ này. Cỗ máy lại kêu vo vo đều đặn khi Laura và Carrie bước trở về lều. Carrie hỏi: - Chị sợ nhiều không, Laura? Laura nói: - Có, một chút thôi, nhưng chuyện tốt đẹp để kết thúc tốt đẹp. Carrie nói: - Đó là lỗi của em. Tại em muốn đi theo ngã đó. Laura nói: - Lỗi của chị vì chị lớn hơn. Nhưng mình đã học được một bài học. Chị đã nghĩ mình sẽ tiếp tục theo đường cái sau sự việc này. Carrie rụt rè hỏi: - Chị có kể chuyện này với bố mẹ không? Laura đáp: - Mình phải kể nếu bố mẹ hỏi. 3. MÙA THU Bố cùng Laura đánh đống xong đống cỏ đầm lầy cuối cùng vào một buổi chiều tháng chín nóng nực. Bố muốn cắt thêm một luống cỏ khác vào ngày hôm sau nhưng sáng đó trời đổ mưa. Liên tục ba ngày đêm mưa xối xả đều đặn khua lộp độp trên mái nhà và chảy tràn trên các ô kính cửa sổ. Mẹ nói: - Mình đành phải chờ thôi. Đang có bão rồi. Bố đồng ý một cách miễn cưỡng: - Đúng! Đúng là có chuyển đổi thời tiết. Một chàng trai có thể cảm nhận việc này ngay trong xương của mình. Sáng hôm sau, căn lều lạnh cóng với các ô kính cửa sổ gần như bị sương giá phủ kín và khắp phía bên ngoài là một màu trắng. - Chúa ơi! Mẹ run rẩy kêu lên trong lúc nhóm lò bếp: - Lúc này mới chỉ là ngày đầu tiên của tháng mười. Laura mang giầy và khăn choàng ra giếng lấy nước. Hơi lạnh đập trên má và xộc thẳng vào trong mũi cô. Nền trời màu xanh nhạt và khắp mặt đất trắng toát. Sương gía đọng trên từng lá cỏ, đóng cứng trên lối đi, trườn dài trên các lối đi dọc theo những nẹp nhỏ giữ lớp giấy chống thấm màu đen. Rồi mặt trời ló lên từ một mé đồng cỏ và khắp nơi sáng lóe. Mỗi vật nhỏ đều lóng lánh ánh hồng như mặt trời hoặc xanh nhạt như nền trời và tất cả cỏ lá kéo dài chói chang màu sắc cầu vồng. Laura thích thú với quang cảnh tuyệt vời. Cô vẫn biết sương giá sẽ làm úa héo rau cỏ. Những khóm cà chua xoắn xuýt với vẫn trái xanh, đỏ và những dây bí với những tàn lá lớn che trên các trái bí non đều lấp lánh sáng trong sương giá trên mặt đất mấp mô lạnh cóng. Những cây bắp ướt sũng với các cọng lá dài đều trắng toát. Sương giá đã giết chết tất cả. Trên mặt đất không một thứ màu xanh nào còn được sống sót. Nhưng sương giá vẫn đẹp tuyệt vời. Trong lúc ăn điểm tâm, bố nói: - Không còn cắt cỏ thêm được nữa nên mình sẽ lo thu hoạch. Mình không thu được nhiều trong năm đầu trên đất trồng nhưng cỏ sẽ thối rữa trong mùa đông này. Năm tới mình sẽ thu khá hơn. Những mảnh đất được cày bật lên vẫn bị rễ cỏ giữ bám cứng với nhau. Dưới những mảnh đất này, bố đào bới những củ khoai nhỏ cho Laura và Carrie lượm bỏ vào những chiếc thùng thiếc. Laura ghét cảm giác nhớp nhúa khô khốc khi ngón tay chạm vào đất. Nó khiến cô lạnh buốt sống lưng nhưng không thể nào tránh được, vì phải có người đi lượm khoai. Cô và Carrie miệt mài tới lui với những chiếc thùng cho tới khi lượm đầy năm bao. Đó là tất cả số khoai tây có được. Bố nói: - Đào bới quá nhiều mà chỉ thu được vài củ. Nhưng có năm khạp khoai còn hơn là không có gì và đã có thể tính tới đám đậu. Bố kéo những dây đậu héo chất thành đống cho khô. Lúc này mặt trời đã lên cao. Sương giá đã tan hết và gió đang thổi lạnh ngắt khắp đồng cỏ ngả màu vàng nhạt và nâu tím. Mẹ và Laura đi hái cà chua. Những cây cà rũ gx mềm oặt và đen sậm nên họ hái cả những trái xanh nhỏ nhất. Số cà chua chín chọn riêng ra chỉ có khoảng gần một ga-lông. - Mẹ sẽ dùng số cà chua xanh này làm gì? Laura hỏi và mẹ đáp: - Chờ coi. Mẹ rửa cà thật kĩ và giữ không cho một trái nào trầy tróc. Rồi mẹ xắt thành lát mỏng và nấu cùng với muối, ớt, giấm và gia vị. Mẹ hể hả: - Thế là có gần hai lít cà chua xanh ngâm dầu giấm. Nếu đợt hoa màu đầu tiên trong vườn không có gì khác nữa thì số cà ngâm giấm này cũng là một món đặc biệt để ăn kèm với đậu hấp trong mùa đông này. Mary thêm: - Và còn gần một ga-lông cà chín được dành riêng. - Thêm năm khạp khoai tây nữa. Laura nói trong lúc chùi hai bàn tay lên tấm tạp dề vì chúng vẫn gợi lại cảm giác nhớp nhúa dễ sợ. Carrie kêu lớn: - Còn củ cải nữa, rất nhiều củ cải! Carrie rất thích ăn củ cải sống. Bố cười: - Khi bố tách đậu xong, sàng sảy và đóng vào bao thì còn có thêm gần một khạp đậu. Rồi khi bố cắt xong mấy đồi lúa mì, xay cho xong vào một tách trà cất dưới hầm chứa thì mình đã có một vụ mùa kha khá. Laura biết rõ đây là một vụ mùa hết sức nghèo nàn. Nhưng cỏ khô và bắp đủ dùng cho bò ngựa tới mùa xuân còn năm khạp khoai tây, gần một khạp đậu thêm vào những thứ bố săn được sẽ đủ cho cả nhà sống tạm. Bố nói: - Ngày mai bố phải lo cắt lúa. Mẹ nhận xét: - Không có gì bất ngờ đặc biệt đâu, Charles. Mưa đã dứt rồi và em chưa từng thấy thời tiết mùa thu dễ chịu hơn thế này. Bố nhìn nhận: - Đúng là như vậy. Lúc này lạnh về đêm, sáng sớm trời khô còn ban ngày thì nắng ấm. Mẹ đề nghị: - Mình có thể kiếm một món thịt tươi để đổi thức ăn. Bố nói: - Ngay khi cắt lúa xong, anh sẽ đi săn. Ngày hôm sau, bố đi cắt và tụ lúa. Mười tụ lúa đứng như một hàng lều của người da đỏ bên cạnh những đống cỏ khô. Khi xong việc, bố mang từ ngoài đồng về sáu trái bí còn ửng màu vàng. Bố giải thích lí do: - Dây bí không còn mọc nổi trên mặt đất cứng ngắt và sương giá làm hư hết những trái non, nhưng mình cũng còn nhiều hạt giống cho năm tới. Mẹ hỏi: - Sao phải vội vã ngắt những trái bí như thế? Bố giải thích: - Anh cảm thấy sốt ruột, tựa hồ như cần phải vội vã. Mẹ nói: - Anh cần có một giấc ngủ ngon lành. Sáng hôm sau, một trận mưa trút xuống. Sau khi làm các công việc thường lệ và ăn sáng xong, bố khoác áo, chụp chiếc mũ rộng vành che kín hết gáy. Bố nói: - Anh sẽ kiếm về một cặp ngỗng. Hồi đêm anh đã nghe thấy chúng đang bay qua. Thế nào cũng có một số đáp xuống đầm. Bố lấy súng xuống, đeo vào dưới áo khoác và bước ra ngoài. Đợi bố đi khỏi, mẹ nói: - Các con gái, mẹ đã nghĩ tới chuyện dành cho bố một sự bất ngờ. Laura và Carrie rời khỏi chiếc xống chén và Mary ngồi thẳng dậy trên chiếc giường mà cô đang dọn dẹp. Tất cả đồng loạt hỏi: - Chuyện gì vậy? Mẹ nói: - Phải làm xong thật mau. Laura, con chạy ra chỗ tụ lúa lấy về cho mẹ một trái bí xanh. Mẹ sẽ làm bánh hấp! - Một chiếc bánh hấp! Nhưng bằng cách nào… Mary nói và Laura nói tiếp: - Một chiếc bánh hấp bằng bí xanh hả? Con chưa nghe thấy ai nói thế bao giờ, mẹ. Mẹ nói: - Cả mẹ cũng chưa nghe. Nhưng mình sẽ chẳng làm được gì nếu không dám làm những điều mà chưa có ai được nghe thấy trước đó. Laura và Carrie hối hả rửa sạch chén đĩa. Rồi Laura chạy dưới làn mưa sương lạnh buốt tới chỗ tụ lúa lôi về một trái bí xanh lớn nhất. Mẹ nói: - Tới đứng bên cửa lò hong khô người đi, Laura. Con chưa lớn lắm nhưng cũng đủ lớn để tự biết choàng khăn mà không cần phải nhắc. Laura nói: - Con chạy rất nhanh nên không trúng mưa nhiều. Mẹ coi, rõ ràng con chỉ bị ướt một chút thôi. Bây giờ, con làm gì đây? Mẹ nói: - Con hãy xắt bí thành miếng và gọt vỏ trong lúc mẹ làm vỏ bánh. Sau đó, mình sẽ thấy điều mình phải thấy. Mẹ bỏ lớp vỏ bánh mì vào chảo hấp, phủ đường nâu và gia vị lên. Rồi mẹ chất dầy lên lớp vỏ bánh những miếng bí xanh mỏng. Mẹ tưới lên một nửa ly dầu giấm, đặt một miếng bơ nhỏ lên trên rồi đặt lên một lớp vỏ bánh. - Đó! Mẹ nói khi xuống xong các cạnh bánh. Carrie thở ra, mở lớn mắt nhìn chiếc bánh hấp: - Con không biết mẹ có làm được không. Mẹ nói: - Ừ, mẹ cũng chưa biết. Mẹ chuyển nhanh chiếc bánh vào lò hấp và đóng cửa lò lại, tiếp: - Nhưng cách duy nhất để khám phá là thử coi. Gần giờ ăn trưa, mình sẽ biết. Tất cả ngồi đợi trong căn lều gọn gàng. Mary đang bận rộn đan cho xong đôi vớ ấm cho Carrie trước khi thời tiết trở lạnh. Laura đang khâu hai ghép hai mảnh vải bông dài lại để làm một tấm phủ giường. Cô ghép các mép vải lại một cách cẩn thận và dùng ghim để ghim vào áo của mình ngang chỗ đầu gối. Cô kỹ lưỡng kéo mép vải thật bằng phẳng rồi khâu vắt vào nhau với những mũi khâu nhỏ, đều đặn. Mũi khâu phải sát, nhỏ, chắc và sâu nhưng không sâu quá vì tấm phủ cần phẳng phiu không có một nếp nhăn nào ở chính giữa. Và, tất cả các mũi khâu phải hoàn toàn giống hệt nhau đến mức không phân biệt nổi vì đó chính là cách thức khâu vá. Mary rất thích làm việc đó nhưng lúc này cô đã bị mù và không thể làm được. Với Laura, việc khâu vá này khiến cô có cảm giác giống như bị xé ra thành nhiều mảnh và cô muốn hét lên. Gáy cô đau nhức và sợi chỉ xoắn lại rồi thắt nút. Cô phải tháo những mũi khâu hư ngang với những mũi khâu do cô khâu được. Cô nói một cách cáu kỉnh: - Chiếc mền len rộng đủ phủ kín giường. Tại sao những tấm phủ giường lại không đủ rộng như thế? Mary nói: - Vì các tấm phủ giường làm bằng vải bông và vải bông không có đủ khổ rộng bằng một tấm phủ giường. Chiếc kim của Laura trượt qua một lỗ nhỏ trên chiếc đê chạy vào ngón tay cô. Cô ngậm chặt miệng không nói một tiếng nào. Nhưng chiếc bánh hấp được hấp rất hay. Khi mẹ đặt chiếc áo đang may cho bố xuống và mở cửa lò hấp thì mùi bánh hấp thơm nồng tỏa ra. Carrie và Grace ngó chăm chăm khi mẹ đảo bánh lại cho vàng đều. Mẹ nói: - Bánh hấp dẫn lắm. Carrie kêu lên: - Ô, bố khó khỏi kinh ngạc! Ngay trước giờ ăn trưa, mẹ lấy bánh ra khỏi lò hấp. Đó là một chiếc bánh hấp thật tuyệt. Mấy mẹ con ngồi chờ ăn trưa cho tới gần một giờ nhưng bố không về. Khi đi săn, bố thường không chú ý đến giờ ăn. Cuối cùng, mấy mẹ con đành phải ăn và chiếc bánh hấp phải chờ tới giờ ăn tối khi bố trở về với những con ngỗng mập mạp để quay cho ngày hôm sau. Trọn buổi chiều mưa vẫn chậm rãi rơi đều đặn. Lúc Laura ra giếng kéo nước, bầu trời xám xịt hạ xuống thật thấp. Xa xa trên đồng, lớp cỏ màu nâu ướt sũng và những đám cỏ cao trong đầm uốn cong ủ rũ dưới mưa rơi. Laura vội vã rời khỏi giếng nước. Cô không thích nhòn quang cảnh bên ngoài khi tất cả cỏ đều rũ xuống. Mãi giờ ăn tối, bố mới trở về. Bố trở về không đem theo gì ngoài cây súng. Bố không cười nói và mắt bố mở lớn, lặng lẽ. Mẹ hỏi nhanh: - Có gì bất thường, Charles? Bố cởi chiếc áo ướt sũng, chiếc mũ đang nhỏ nước, treo lên trước khi trả lời: - Đó cũng là điều anh muốn biết. Có một cái gì đó rất lạ. Trên hồ không có một bóng con ngỗng hay một con vịt nào. Trong đầm cũng vậy. Không nhìn thấy một con nào hết. Chúng bay thật cao trên những đám mây và bay rất nhanh. Anh có thể nghe thấy tiếng chúng gọi nhau. Caroline, mọi loài chim đều bay cực nhanh về phía nam. Và mọi thứ mồi săn khác đều biến hết. Tất cả những sinh vật ở đây đều chạy trốn hoặc bơi đi ẩn mình ở một nơi nào đó. Anh chưa từng thấy một nơi nào hoang vắng và yên tĩnh như vậy. Mẹ nói một cách vui vẻ: - Đừng suy nghĩ nữa. Bữa tối đã sẵn rồi. Anh ngồi gần bếp lò đi, Charles, cho khô người. Em sẽ dọn bàn ăn. Em thấy giống như đang lạnh hơn. Thời tiết quả là đang lạnh hơn. Cái lạnh len vào dưới bàn, trườn từ những bàn chân trần của Laura lên đầu gối cô dưới lớp váy áo. Nhưng bữa ăn tối ấm áp, ngon lành và dưới ánh đèn sáng, tất cả các khuôn mặt đều rạng rỡ với điều bí mật sẽ gây ngạc nhiên cho bố. Bố không nhận ra điều đó. Bố đói và ăn nghiến ngấu mà không biết mình đang ăn món gì. Bố lại nói: - Thật là lạ, không có một con vịt hay một con ngỗng nào dừng lại nghỉ. Mẹ lên tiếng: - Giống như những con vật tội nghiệp đó đang muốn có nắng. Em mừng là mình được yên ổn khi trời đổ mưa dưới mái nhà chắc chắn như thế này. Bố đẩy chiếc đĩa trống lui lại và mẹ liếc Laura như ngầm nói: - Tới lúc rồi! Tất cả đều mỉm cười, ngoại trừ bố. Carrie ngọ ngoạy trên chiếc ghế và Grace nhấp nhổm trong lòng mẹ trong lúc Laura đặt chiếc bánh hấp xuống. Bố vẫn chưa nhìn thấy chiếc bánh ngay. Rồi, bố bật kêu lên: - Bánh hấp! Sự ngạc nhiên của bố vượt khỏi mức tất cả mong đợi. Grace, Carrie và ngay cả Laura đều cười lớn. Bố kêu lên: - Caroline, thế là em đã làm một chiếc bánh hấp hả? Bánh hấp gì vậy? Mẹ nói: - Nếm đi rồi sẽ biết! Mẹ cắt một miếng bánh đặt vào đĩa của bố. Bố cắm chiếc nĩa xuống lấy ra một miếng cho vào miệng. - Bánh táo hấp! Em kiếm táo ở đâu ra vậy? Carrie không thể giữ được lâu hơn nữa. Cô gần như kêu lên: - Đó là bí! Mẹ làm bánh bằng bí xanh! Bố xắn thêm một miếng nữa và nhai chậm rãi. Bố nói: - Bố không bao giờ nghĩ tới điều này. Mẹ luôn đánh bại cả nước về chuyện nấu nướng. Mẹ không nói gì nhưng một ánh hồng ửng trên má mẹ và mắt mẹ sáng lên khi tất cả đều ăn bánh hấp một cách ngon lành. Tất cả đều ăn thật chậm nhấm nháp từng miếng nhỏ như cố kéo dài hương vị thơm ngon tuyệt vời. Đó là một bữa cơm tối hạnh phúc mà Laura muốn kéo dài không bao giờ dứt. Khi đã lên giường nằm với Mary và Carrie, cô vẫn thức với cảm giác sung sướng. Cô được ngủ thoải mái và ấm áp hết sức. Tiếng mưa rơi trên mái cũng là những âm thanh thật dễ chịu. Một giọt nước lăn trên khuôn mắt lờ mờ trong bóng tối khiến Laura ngạc nhiên. Cô chắc chắn đó không phải là nước mưa vì mái nhà che kín phía trên. Cô chúi sát hơn vào Mary và mọi thứ tối dần vào giấc ngủ ấm áp. Chương 3: Cơn Bão Tuyết Tháng Mười Laura thình lình thức giấc. Cô nghe thấy tiếng hát và tiếng vỗ tay kì cục. Đời như đóa hướng dương này (bộp! bộp!) Ngả nghiêng vùng vẫy giữa heo may(bộp! bộp!) Tim ta (bộp!) như gió (bộp!) bay phơi phới (bộp! bộp!) Thổi là bay lìa khỏi nhánh cây (bộp! bộp!) Bố đang hát sôi nổi và đập cánh tay vào ngực. Mũi Laura lạnh buốt vì hở ra ngoài do cô cuốn mền xuống. Cô thò hẳn đầu ra và lúc này cô biết tại sao bố lại đập tay như thế. Bố đang cố làm nóng các bàn tay. Bố đã nhóm lửa. Trong lò, lửa đang réo, nhưng không khí vẫn lạnh buốt. Trên mền, ngay nơi nước rớt xuống từ một kẽ hở, tiếng băng rạn vỡ. Gió gào hú xung quanh căn lều, từ trên mái nhà và khắp các bức vách vang lên những tiếng động chà xát. Carrie hỏi trong cơn ngái ngủ: - Gì vậy? Laura nói: - Có bão tuyết. Em với Mary cứ nằm yên ở đây đi. Cẩn thận không cho hơi lạnh lòn vào dưới mền, cô trườn ra khỏi chiếc giường ấm áp. Răng cô va đập lách cách trong lúc cô mặc quần áo. Mẹ cũng đang thay đồ ở phía bên kia tấm màn che, nhưng cả hai đều không lên tiếng vì quá lạnh. Hai mẹ con cùng tới bên lò bếp. Lửa ở đây đang cháy dữ dội nhưng không làm nóng ngay nổi không khí trong nhà. Một màn tuyết trắng quay cuồng mù mịt trên cửa sổ. Gió lùa tuyết qua khe hở dưới cửa ra vào lòn khắp nền nhà và mỗi núm đinh trên các bức vách đều trắng sương giá. Bố đã ra chuồng ngựa. Laura mừng là có cả một hàng dài đống cỏ giữa chuồng ngựa và căn lều. Cứ đi lần theo từng đống cỏ, bố sẽ không thể bị lạc. Mẹ lập cập: - M…một cơn b- b- bão tuyết! Trong tháng mười! Mẹ không bao giờ nghe thấy… Mẹ cho thêm củi vào lò và đập băng trong xô nước bỏ đầy ấm trà. Xô nước chỉ đầy chừng một nửa. Cả nhà sẽ phải tiết kiệm nước vì không ai có thể ra giếng kéo nước giữa cơn bão thế này. Nhưng tuyết ở trên nền nhà rất sạch. Laura xúc tất cả vào chậu nước rửa rồi đặt lên lò cho tan ra để dùng làm nước rửa ráy. Lúc này không khí gần lò bếp không lạnh lắm nên cô quấn bé Grace trong mền, bồng tới bên lò bếp thay quần áo cho bé. Mary và Carrie cũng run rẩy thay quần áo sát cửa lò để ngỏ. Tất cả đều mang vớ dài và đi giầy. Bữa ăn sáng đã đợi sẵn khi bố trở về. Bố như bị cuốn vào nhà với tiếng gió hú và tiếng tuyết quay cuồng. Ngay sau khi hơ nóng người lại, bố nói ngay: - Đó, những con cầy hương kia biết rõ điều gì sẽ đến, phải không Laura? Và cả lũ ngỗng trời cũng vậy. Mẹ nói: - Thế là không còn ngạc nhiên nữa về việc chúng không đáp xuống hồ. Bố nói: - Lúc này chắc hồ đóng băng rồi. Nhiệt độ xuống dưới gần không độ và có thể còn thấp hơn. Bố liếc nhìn hộc củi khi nói chuyện. Laura chất đầy hộc vào tối qua nhưng số củi còn lại đã vơi. Thế là ngay sau khi ăn sáng xong, bố quấn người thật kín ra vác từng ôm củi lớn từ ngoài đóng vào. Căn lều trở nên lạnh hơn. Lò bếp không đủ hâm nóng không khí lạnh ở bên trong những vách ván mỏng. Không thể làm gì được ngoài việc cuộn mình trong áo khoác, khăn choàng và ngồi sát bên lò bếp. Mẹ nói: - Thật mừng là đã ngâm đậu vào tối hôm qua. Mẹ mở vung chiếc ấm đang sôi và sổ nhanh một muỗng nước sô-đa. Đậu sôi sùng sục và nổi bọt nhưng không trào ra. Mẹ nói: - Cũng vẫn còn một miếng thịt heo ướp muối. Chốc chốc mẹ lại dùng muỗng múc ra vài hạt đậu và thổi cho nguội. Khi vỏ đậu tách ra và quăn lên, mẹ chắt hết nước sô-đa khỏi ấm và đổ đầy nước nóng vào. Mẹ bỏ vào một miếng mỡ heo. Bố nói: - Không gì ngon hơn món xúp đậu nóng trong một ngày giá lạnh. Bố cúi xuống nhìn Grace đang kéo bàn tay bố. - Sao, mắt xanh, con muốn gì? Grace nói: - Một chuyện! Carrie nài nỉ: - Bố kể cho chúng con câu chuyện về ông nội và con heo trên cỗ xe trượt tuyết đi. Thế là bố nhấc Grace và Carrie ngồi lên đầu gối và bắt đầu kể lại những câu chuyện mà bố thường kể cho Mary và Laura ở vùng Big Woods khi các cô còn bé. Mẹ và Mary bận bịu đan áo trong những chiếc ghế đu chất đầy mền được kéo tới sát lò bếp còn Laura quấn khăn choàng kín người đứng giữa lò bếp và vách lều. Hơi lạnh trườn vào từ các góc lều tiến sát mãi tới lò bếp. Những đợt gió lạnh buốt bám dính và khua động những tấm màn che xung quanh mấy chiếc giường. Căn lều nhỏ run rẩy trong cơn bão. Nhưng mùi vị đậu đang sôi rất dễ chịu và có vẻ khiến cho không khí ấm hơn lên. Buổi trưa, mẹ xắt mỏng bánh mì và đổ đầy nước xúp đậu nóng vào chén cho mỗi người có thể ngồi ăn tại chỗ ngay bên lò bếp. Rồi tất cả đều uống trà nóng pha đậm. Thậm chí mẹ còn cho bé Grace uống một ly trà sữa. Trà sữa thật ra chỉ gồm nước nóng với sữa và một ít trà nhưng các cô bé đều cảm thấy đã lớn hơn khi được mẹ cho uống trà sữa. Món xúp nóng và nước trà nóng khiến mọi người ấm lên. Họ ăn hết nước đậu rồi mẹ vét đậu cho vào một chảo sữa, đặt một miếng mỡ heo vào giữa và chế thêm lên trên một ít mật mía. Mẹ đặt chảo vào lò hấp đóng cửa lò lại. Cả nhà sẽ có món đậu hầm cho bữa ăn tối. Sau đó, bố đi lấy thêm củi. Tất cả đều mừng vì đống củi ở sát gần cửa sau. Mới ôm được ôm củi đầu tiên bố đã loạng choạng hụt hơi. Khi có thể lên tiếng nổi, bố nói: - Gió thổi bạt hơi bố đi hết. Nếu bố biết trước có một cơn bão thế này, bố đã chất củi đầy nhà từ hôm qua. Bây giờ thì bố mang tuyết vào nhà nhiều hơn củi. Sự thực gần đúng như thế. Mỗi lần Laura mở cửa cho bố là tuyết lại cuốn vào. Tuyết rơi trên người bố và phủ đầy củi. Thứ tuyết này cứng như băng và mịn như cát, và do cửa cứ mở ra khiến hơi lạnh ùa vào làm cho tuyết không tan nổi. Bố nói: - Vậy là tạm đủ cho lúc này rồi. Nếu bố đưa thêm hơi lạnh vào nữa thì số củi bố mang vào không đủ tạo sức nóng để lùa hơi lạnh đi. Bố nói: - Lúc nào quét tuyết xong thì mang đàn cho bố, Laura. Ngay khi mấy ngón tay bố cựa quậy được, mình sẽ có một âm thanh để át tiếng gào của gió. Một lát sau bố đã có thể so lại dây và chuốt chiếc vĩ. Rồi bố đặt cây đàn lên vai và hát theo tiếng đàn: Nếu được sống lại thời trai trẻ Cuộc đời ta sẽ khác vô cùng Ta sẽ có tiền bạc, ruộng đồng Và mãi mãi cùng Dinah xum họp Nhưng nay đã da mồi tóc bạc Làm được điều chi nữa mà mong Xin cho ta được quay trở lại Về với bờ đất cũ xa xăm Đời vẫn cứ đưa ta đi mãi Đưa ta đi tới phút sau cùng… Mẹ cắt ngang: - Thôi, để yên đi. Em đang chờ nghe tiếng gió. Mẹ cố giữ cho bé Grace được ấm còn Grace đang rấm rứt vùng ra. Mẹ đặt bé xuống nói: - Đó, chạy đi nếu con thấy phải làm như thế! Con sẽ mừng được quay lại với lò bếp. Bố kêu lên: - Phải nói gì với các con bây giờ! Laura, Carrie hãy ra đó với Grace và bước đều, bước! Như thế máu sẽ vận chuyển và ấm lên. Thật không dễ rời khỏi chỗ ẩn mình với những chiếc khăn choàng quấn kín nhưng các cô phải làm như bố nói. Rồi giọng bố vang lên mạnh mẽ theo tiếng đàn: Tiến lên! Tiến lên! Hỡi người dũng cảm! Các chàng trai, còn chờ đợi điều chi? Tiến lên! Tiến lên! Hỡi người dũng cảm! Màu mũ xanh đang phủ kín biên thùy Cờ biển tung bay đưa ta bước tới Tiếng thơm này sử sách mãi ghi. Laura cùng Carrie và Grace bước đều vòng quanh cùng cố sức hát lớn và đạp chân thình thịch trên nền nhà. Núi cao không chùn bước Những đứa con đất nước Quyết đấu tranh Cho gia đình và tổ quốc vẻ vang! Tất cả đều cảm thấy đang có những biểu ngữ tung bay phía trước và tất cả đang bước lên dành thắng lợi vinh quang. Thậm chí các cô còn không nghe cả tiếng bão gầm rú và ấm tới tận đầu ngón chân. Rồi tiếng nhạc dứt hẳn và bố cất đàn vào hộp. - Thôi, các con gái! Thế là đủ để tiến lên chống lại cơn bão này và tìm được thoải mái suốt đêm. Sẽ đáng khiển trách nếu điệu nhạc cổ này không xốc được tinh thần bố lên để chiến đấu ngay với một trận bão tuyết! Trong lúc bố cất hộp đàn, mẹ hơ ấm áo khoác và khăn quàng của bố bên lò bếp. Phía ngoài gió vẫn gào hú giận dữ. Mẹ hẹn với bố: - Mình vẫn còn đậu hầm và trà nóng chờ sẵn khi anh trở về, Charles. Và lúc đó tất cả sẽ lên giường ấm áp tựa như bão sẽ phải qua đi vào buổi sáng. Nhưng buổi sáng bố lại hát bài hát về hoa hướng dương. Cửa sổ vẫn phủ một lớp trắng nhạt nhòa và gió vẫn lùa tuyết vào căn lều nhỏ run rẩy. Trận bão tuyết kéo dài thêm hai ngày hai đêm nữa. 5. SAU CƠN BÃO Vào buổi sáng thứ tư, Laura có một cảm giác khác lạ ở trong tai. Cô hé mền nhìn ra và thấy tuyết dồn đống trên giường. Có tiếng nắp lò bếp va chạm khe khẽ rồi tiếng lửa bắt cháy lách tách. Lúc đó cô hiểu vì sao tai cô lại cảm thấy trống vắng. Tiếng ồn ào của trận bão đã dứt hẳn! Cô hích cùi chỏ vào người Mary kêu lớn: - Dậy thôi, Mary! Hết bão tuyết rồi! Cô nhảy ra khỏi chiếc giường ấm áp bước vào không khí lạnh như băng. Hình như lò bếp đang cháy vẫn không đủ sức nóng. Xô nước tuyết gần như đông cứng lại. Nhưng các ô cửa sổ đọng sương đang rạng sáng ánh nắng. Bố nói khi bước vào nhà: - Phía ngoài lạnh hơn bao giờ hết. Bố khom người trên lò bếp để rũ đám băng đọng trên hàm râu. Băng rớt xèo xèo trên nắp lò và bốc hơi. Bố chùi râu và tiếp tục nói: - Gió xé toạc một mảnh giấy chống thấm ở trên mái, dù đã được gắn rất chặt. Không có gì lạ khi mưa và tuyết từ trên mái rớt xuống. Laura nói: - Dù sao, bão cũng đã qua rồi. Thật dễ chịu khi ngồi ăn sáng và ngắm những ô kính cửa sổ ửng vàng. Mẹ quả quyết: - Mình sẽ có một mùa thu kéo dài. Cơn bão này đến sớm thế thì không thể là mở đầu cho mùa đông. Bố thừa nhận: - Anh chưa bao giờ thấy mùa đông đến sớm như vậy. Nhưng anh không thích cái cảm giác của những con vật. Mẹ thắc mắc: - Những con vật nào, Charles? Bố không thể nói một cách chính xác: - Có một số dấu vết súc vật ở gần những đống cỏ khô. Mẹ hỏi nhanh: - Chúng có giật đổ cỏ không? Bố đáp: - Không. Mẹ nói: - Vậy thì có sao đâu khi chúng không làm hại gì? Bố nói: - Anh đoán là chúng quá mệt do trận bão và đi kiếm chỗ trú ẩn ở bên các đống cỏ. Anh nghĩ là sẽ để cho chúng nghỉ ngơi và ăn một chút trước khi lùa chúng đi. Anh không thể để chúng kéo sập các đống cỏ nhưng chúng có thể ăn một chút và không làm điều gì tệ hại. Nhưng chúng lại không ăn. Mẹ hỏi: - Rồi có gì ổn không? Bố nói: - Chẳng có gì cả. Chúng chỉ đứng tại đó. Mẹ nói: - Thế thì có gì phải lo lắng. Bố nói: - Không! Bố uống trà rồi nói: - Thôi, anh cứ ra đuổi chúng đi cũng hay. Bố khoác áo, đội mũ, mang găng tay và bước ra. Một thoáng sau, mẹ nói: - Laura, tốt hơn là con nên đi với bố. Bố có thể cần phụ giúp để đuổi đám súc vật khỏi các đống cỏ. Laura hối hả để mẹ giúp choàng khăn san lên đầu và cài chắc dưới cằm bằng cây kẹp khăn. Những nếp gấp bằng len phủ kín từ đầu tới chân cô. Ngay cả các bàn tay cô cũng ủ dưới chiếc khăn san. Duy nhất chỉ có mặt cô là hở ra. Ánh nắng phía ngoài khiến cô chóa mắt. Cô hít một hơi dài làn hơi lạnh và đảo mắt ngó quanh. Bầu trời xanh thẳm và khắp mặt đất là màu trắng lay động trong gió. Gió thổi mạnh nhưng không cuốn tung tuyết lên mà chỉ lùa qua đồng cỏ. Hơi lạnh đập vào má Laura, xộc thẳng vào mũi, lòn trên ngực và bốc thành hơi trong không khí. Cô che một chéo khăn ngang miệng và hơi thở của cô thành sương giá trên đó. Khi bước qua góc chuồng ngựa, cô nhìn thấy bố đang đi phía trước và nhìn thấy lũ súc vật. Cô dừng lại ngó. Lũ súc vật đang đứng dưới nắng trong mảng bóng che của những đống cỏ, con màu đỏ, con màu nâu, con lốm đốm và một con màu đen nhạt. Tất cả đều đứng bất động, đầu chúi xuống đất. Tất cả những chiếc cổ màu đỏ, màu nâu lông xù xì đều vươn dài từ những khuôn vai xương xẩu tới những chiếc đầu màu trắng phồng to lên một cách quái đản. Laura hét lớn: - Bố! Bố ra dấu cho cô đứng im tại chỗ. Bố lết qua lớp tuyết đang bay là đà nhích về phía những con vật đó. Chúng hoàn toàn không giống trâu bò. Chúng đứng im lìm một cách dễ sợ. Cả bầy không hề có một cử động nhỏ. Chỉ hơi thở của chúng khiến khoảng sườn giữa các khung xương hóp lại rồi phình ra. Xương hông và xương vai của chúng nhô lên. Chúng xoải chân ra vững vàng và bất động. Và ở phần đầu của chúng là những khối u màu trắng phồng lên giống như cắm xuống đất dưới lớp tuyết lay động. Tóc trên đầu Laura dựng đứng lên và một cảm giác kinh hoàng chạy dọc sống lưng cô. Nước mắt trào ra từ những con mắt đang nhìn sững và chảy lạnh buốt trên má cô. Bố tiếp tục đi thật chậm ngược chiều gió. Bố đã tới sát lũ súc vật. Không một con nào cử động. Bố đứng nhìn một hồi. Rồi bố cúi khom xuống và làm thật nhanh một điều gì đó. Laura nghe thấy một tiếng rống và một thớt lưng bò đực nhô cao nhảy bật lên. Com bò đực màu đỏ lọang choạng chạy và rống lớn. Nó chỉ có một chiếc đầu bình thường với mắt, mũi và chiếc miệng đang mở lớn nhả hơi nước vào trong gió. Một con khác rống lên và chạy đi giận dữ, lảo đảo. Rồi một con khác nữa. Bố lần lượt làm cùng một điều với tất cả những con khác. Tiếng rống của chúng bốc lên trên nền trời lạnh. Cuối cùng, tất cả bầy tụ lại kéo đi. Lúc này chúng đi lặng lẽ trong đám tuyết dầy văng tung tóe. Bố vẫy tay cho Laura trở về trong lúc bố đi coi lại các đống cỏ. Mẹ hỏi: - Có gì mà ở ngoài đó lâu vậy, Laura? Lũ trâu bò có làm hư các đống cỏ không? Cô đáp: - Không, mẹ! Đầu của chúng.. Con đoán là đầu của chúng bị dính cứng vào mặt đất. Mẹ kêu lên: - Đâu có thể như vậy được! Mary đang ngồi đan trên chiếc ghế gần lò bếp cũng nói: - Đó đúng là một ý nghĩ kì quái của Laura. Làm sao mà đầu của cả đàn bò có thể đông dính cứng vào mặt đất được, Laura? Đôi lúc thực đáng lo về cách nói của em. Laura đáp gọn: - Được, chị hãy hỏi bố! Cô không thể kể với mẹ và Mary về điều cô đã cảm thấy. Cô cảm thấy bằng một cách nào đó giữa trời đêm hoang vu và bão táp, sự tĩnh lặng ở phía dưới tất cả những âm thanh trên đồng cỏ đã cột giữ lũ bò lại. Khi bố trở về, mẹ hỏi: - Có điều gì xảy ra với đám gia súc, Charles? Bố nói: - Đầu của chúng bị đông cứng lại cùng với băng và tuyết. Hơi thở của chúng đóng băng trên mắt và trên mũi chúng cho tới khi chúng không nhìn và thở nổi nữa. Laura ngừng quét nhà, lên tiếng trong sự kinh hãi: - Bố! Chúng con còn hơi chứ! Chúng con sẽ chết ngạt mất! Bố hiểu ngay cô đang cảm nghĩ gì. Bố nói: - Lúc này thì tất cả chúng đều ổn rồi, Laura. Bố đã đập băng khỏi đầu chúng. Lúc này chúng đ thở và bố đoán là chúng đã trú ẩn ở một nơi nào đó. Carrie và Mary đều trợn tròn mắt và ngay cả mẹ cũng tỏ vẻ kinh hãi. Mẹ nói nhanh: - Quét cho xong đi, Laura. Còn Charles, trời ơi, sao anh không lo cởi đồ và sưởi ấm đi? Bố nói: - Anh có một tứ để khoe với mọi người. Bố rút bàn tay ra khỏi túi một cách cẩn thận: - Coi đây, các con, coi xem bố tìm thấy thứ gì trốn trong một đống cỏ. Bố từ từ mở bàn tay ra. Giữa khoảng trống của chiếc bao tay là một con chim nhỏ. Bố khẽ đặt con chim lên hai bàn tay Mary. Mary kêu lên trong lúc mấy đầu ngón tay vuốt nhẹ nó: - Sao, nó đứng thẳng được! Tất cả chưa từng thấy một con chim như thế. Nó nhỏ giống như hệt bức hình con chim cánh cụt lớn trong cuốn sách bìa xanh của bố “ Những điều kì diệu trong thế giới loài vật”. Nó cũng có phần ngực trắng, lưng và cánh đen, có những chiếc chân ngắn lui hẳn về phía sau và có cùng bàn chân rộng với màng che. Nó đứng thẳng trên hai chiếc chân ngắn giống như một người tí hon với quần dài và áo khoác màu đen, chiếc sơ-mi trắng ở phía trước và đôi cánh đen nhỏ là hai cánh tay. - Chim gì vậy, bố? Ô, chim gì vậy? Carrie kêu lên thích thú và giữ mấy bàn tay nôn nóng của Grace lại: - Không được đụng nó, Grace. Bố nói: - Bố chưa từng gặp một thứ gì như thế. Chắc là nó bị kiệt sức do bão và tình cở rớt xuống đúng đống cỏ. Thế là nó trườn vào trong cỏ để trú ẩn. Laura nói: - Đúng là giống chim cánh cụt. Nhưng nó chỉ là một con con. Mẹ nói: - Nó lớn hơn hẳn rồi chứ không còn là một con chim non đâu. Coi lông nó kìa. Bố đồng ý: - Ừ, nó lớn hẳn rồi. Con chom nhỏ đứng thẳng trên lòng bàn tay mềm mại của Mary nhìn tất cả bằng cặp mắt đen long lanh. Bố nói: - Chắc trước đây nó chưa hề nhìn thấy người ta. Mary hỏi: - Làm sao bố biết được, bố? Bố nói: - Vì nó không sợ chúng ta. Carrie năn nỉ: - Ô, chúng con giữ nó, được không bố? Được không, mẹ? Bố đáp: - Được, nhưng còn tùy. Mấy ngón tay Mary vuốt ve khắp thân hình con chim nhỏ trong lúc Laura kể cho cô nghe cái ức của nó trắng mượt ra sao và lưng nó, đuôi nó và những chiếc cánh nhỏ của nó đen tới mức nào. Rồi các cô cho Grace sờ nhẹ nhàng vào nó. Con chim cánh cụt nhỏ nhoi đứng im lìm nhìn tất cả. Khi được thả trên nền nhà, nó bước đi một đoạn ngắn. Rồi nó bấu những vuốt chân trên mặt ván và vỗ vỗ những cánh nhỏ. Bố nói: - Nó không thể bay được đâu. Đây là một loại chim dưới nước. Nó phải bắt đầu bay từ trong nước vì ở đó nó mới có thể dùng những bàn chân có màng kia để tăng tốc độ. Cuối cùng con chim được đặt vào trong một chiếc hộp ở góc nhà. Nó đứng nhìn mọi người bằng những con mắt tròn đen láy sáng long lanh và tất cả đều thắc mắc không rõ thức ăn của nó là gì. Bố nói: - Đây là một cơn bão quẩn quanh kì lạ. Anh không thích chút nào cả. Mẹ nói: - Sao, Charles, đó chỉ là một trận bão tuyết. Lúc này có vẻ mình đã có được thứ thời tiết ấm áp. Trời để bắt đầu ấm lên rồi. Mary lại nhấc món đồ đan lên và Laura tiếp tục quét. Bố đứng bên cửa sổ và một lát sau, Carrie dắt bé Grace rời khỏi con chim cánh cụt nhỏ để nhìn ra ngoài. Carrie chợt kêu lên: - Ô, coi kìa! Những con thỏ lớn! Xung quanh chuồng ngựa có tới một tá thỏ đang nhảy nhót. Bố nói: - Cái quái quỉ này đã sống trên dám cỏ khô của mình suốt thời gian có bão. Phải đem súng ra kiếm một bữa thịt thỏ hầm mới được. Nhưng bố vẫn đứng bên cửa sổ ngắm lũ thỏ chứ không tiến về phía cây súng. Laura nài xin: - Tha cho chúng lần này đi, bố. Sở dĩ chúng tới chỉ vì chúng phải tới thôi, chúng cần tìm chổ trú ẩn. Bố nhìn mẹ và mẹ mỉm cười: - Mình không đói lắm, Charles, và em rất mừng về những thứ mình đã có để qua cơn bão. Bố nói: - Thôi, anh nghĩ là anh có thể chia một chút cỏ khô với lũ thỏ đó. Bố cầm lấy xô nước và đi ra giếng. Khi bố mở cửa, không khí ùa vào lạnh hơn nhưng nắng đã bắt đầu làm tan tuyết trên bờ phía nam của căn lều. 6. MÙA THU MUỘN Sáng hôm sau chỉ còn những mảnh băng vụn trong xô nước và ban ngày đã có nắng ấm. Bố mang bẫy đi đặt để bắt lũ cầy hương trong đầm Big Slough còn Carrie và Grace chơi ở ngoài sân. Con chim cánh cụt nhỏ không ăn gì. Nó không bật ta tiếng kêu nào nhưng Carrie và Laura nghĩ nó nhìn mọi người bằng ánh mắt thất vọng. Nó sẽ chết nếu không có thức ăn nhưng nó tỏ ra không biết làm cách nào để ăn những thứ mà mọi người đưa tới. Trong bữa ăn trưa, bố cho biết băng đang tan trên hồ nước Bạc. Bố nghĩ rằng con chim nhỏ lạ lùng kia có thể tự lo cho nó trên mặt nước thênh thang. Thế là sau bữa ăn, Laura và Mary mặc áo khoác, choàng mũ trùm đi theo bố tới chỗ thả con chim cánh cụt nhỏ. Hồ nước Bạc đang gợn những lớp song bạc và xanh nhạt dưới bầu trời màu xanh nhạt ấm áp. Băng chỉ còn dọc theo những mé bờ và là những tảng màu xám phẳng nổi lềnh bềnh trên sóng. Bố lấy con chim cánh cụt nhỏ ra khỏi túi. Nó đứng trên lòng bàn tay của bố trong lớp áo khoác màu đen mịn và chiếc áo sơ-mi trắng gọn gàng ở phía trước bằng những sợi lông nhỏ li ti. Nó nhìn mặt đất, bầu trời và mặt nước rồi nôn nóng nhón chân lên và vươn dài đôi cánh nhỏ. Nhưng nó không thể đi, cũng không thể bay. Đôi cánh quá nhỏ để nhấc bổng nó lên. Bố nói: - Nó không thuộc về mặt đất. Đây là loài chim dưới nước. Bố ngồi xổm gần một tảng băng trắng mỏng bên bờ hồ và cố vươn ra xa, bố hất con chim nhỏ từ bàn tay xuống làn nước trong xanh. Trong chớp mắt, nó vừa ở đó đã biến mất ngay. Ngoài xa những tảng băng là một vệt sọc dài rồi một hố đen. Bố nói: - Nó đang tăng tốc độ kìa, với những bàn chân có màng để nhấc bổng nó lên… Nó bay rồi! Laura không kịp nhìn theo nó bay lên nhỏ xíu giữa bầu trời xanh bao la chói nắng. Rồi, trong ánh nắng lấp lóe, nó biến mất. Hai mắt cô lóa nắng không còn nhìn thấy gì nữa. Nhưng bố vẫn đứng nhìn theo nó đang bay về phía nam. Tất cả không bao giờ hiểu chuyện gì đã xảy ra cho con chim nhỏ khi nó từ phía bắc xa xôi bay tới trong bão táp và cả khi nó về phía nam ngập nắng. Tất cả không bao giờ thấy hoặc nghe nói về một con chim khác giống như nó. Tất cả cũng không bao giờ tìm xem con chim đó thuộc giống chim nào. Bố vẫn đứng nhìn thật xa qua mặt đất mênh mông. Tất cả các đường cong trên đồng cỏ đều điểm màu từ nâu nhạt sang màu da thuộc, rồi màu vàng xám, màu tím phớ nhẹ xanh lá non và ở xa hơn là màu xanh xám. Nắng ấm và không khí như nhuốm sương mù. Laura chỉ cảm thấy hơi lạnh ở bàn chân do đứng gần những tảng băng bên bờ hồ. Mọi vật đều im lìm. Không có gió khuấy động lớp cỏ màu xám bạc và không có một bóng chim trên mặt nước hoặc trên bầu trời. Nước hồ chỉ vỗ nhẹ vào mé bờ của sự tĩnh lặng đó. Laura nhìn bố và cô biết bố cũng đang lắng nghe. Sự im ả còn khủng khiếp hơn cái lạnh. Nó mạnh hơn bất kì âm thanh nào. Nó có thể chặn đứng tiếng nước róc rách và những âm vang nhòa nhạt trong tai Laura. Sự im ả bao gồm cả không có âm thanh, không có chuyển động, không có một thứ gì ngoài sự đáng sợ của riêng nó. Tim Laura rộn lên vùng nhảy như muốn cố trốn ra khỏi nó. Bố chậm rãi lắc đầu nói: - Bố không thích thế. Bố không thích cái cảm giác về thời tiết. Có một cái gì… Bố không thể nói rõ cái gì đó ra sao và bố nhắc lại: - Bố không thích thế. Bố không thích thế chút nào. Không ai có thể nói đích xác có một cái gì đó bất thường trong thời tiết. Trời đang ở tiết thu muộn khá đẹp. Mỗi đêm đều có sương giá và thỉnh thoảng có đống băng còn ngày đều có nắng. Mỗi buổi chiều Laura và Mary dạo bộ trong nắng ấm trong lúc Carrie chơi với bé Grace ở cạnh nhà. Mẹ nhắc: - Hãy ráng sưởi nắng cho thật nhiều. Mùa đông sắp tới rồi và lúc đó các con sẽ phải bó gối ở trong nhà. Tất cả đều ra ngoài trong thời tiết sáng sủa nhẹ nhàng như để tích trữ ánh nắng và không khí dịu mát cho mùa đông khi họ không thể còn có gì. Nhưng thường thì trong lúc dạo bộ, Laura vẫn nhìn thật nhanh về hướng bắc. Cô không biết rõ tại sao. Ở đó chẳng có gì cả. Đôi lúc cô đứng im trong nắng ấm lắng nghe và thấy khó chịu. Không có lí lẽ nào để giải thích. Bố nói: - Sắp tới một mùa đông ác liệt. Mùa đông ác liệt nhất mà mình gặp. Mẹ phản đối: - Sao thế, Charles. Lúc này thời tiết đang rất dễ chịu. Chỉ có một cơn bão sớm thì chưa hẳn là lí do để bão trọn mùa đông sẽ tồi tệ. Bố nói: - Anh đã đánh bẫy cầy hương khá nhiều năm rồi và chưa bao giờ anh thấy chúng làm vách ổ dầy như thế. Mẹ nói: - Những con cầy hương! Bố nói: - Bằng một cách nào đó, những con thú hoang lại biết rõ. Mọi loài thú hoang đều đã sẵn sàng cho một mùa đông ghê gớm. Mẹ nêu ý kiến: - Có lẽ chúng chỉ sẵn sàng vì đã có trận bão dữ dội kia. Nhưng bố không tin như thế. Bố nói: - Phần anh, anh không thích cái cảm giác của các con vật. Thời tiết hiện nay giống như che giấu một điều gì mà không cho phép bỏ phí một chút. Nếu anh là một con thú, anh sẽ lùng sục trong hang của mình và đào cho nó sâu hơn. Còn nếu anh là một con ngỗng trời, anh sẽ xoải cánh bay khỏi đây. Mẹ cười với bố: - Anh đúng là một con ngỗng trời đó, Charles! Em chưa biết có lúc nào em thấy được một mùa thu muộn đẹp hơn. Chương 4: Cơn Bão Tuyết Tháng Mười Laura thình lình thức giấc. Cô nghe thấy tiếng hát và tiếng vỗ tay kỳ cục. Đời như đóa hướng dương này (bộp! bộp!) Ngả nghiêng vùng vẫy giữa heo may(bộp! bộp!) Tim ta (bộp!) như gió (bộp!) bay phơi phới (bộp! bộp!) Thổi là bay lìa khỏi nhánh cây (bộp! bộp!) Bố đang hát sôi nổi và đập cánh tay vào ngực. Mũi Laura lạnh buốt vì hở ra ngoài do cô cuốn mền xuống. Cô thò hẳn đầu ra và lúc này cô biết tại sao bố lại đập tay như thế. Bố đang cố làm nóng các bàn tay. Bố đã nhóm lửa. Trong lò, lửa đang réo, nhưng không khí vẫn lạnh buốt. Trên mền, ngay nơi nước rớt xuống từ một kẽ hở, tiếng băng rạn vỡ. Gió gào hú xung quanh căn lều, từ trên mái nhà và khắp các bức vách vang lên những tiếng động chà xát. Carrie hỏi trong cơn ngái ngủ: - Gì vậy? Laura nói: - Có bão tuyết. Em với Mary cứ nằm yên ở đây đi. Cẩn thận không cho hơi lạnh lòn vào dưới mền, cô trườn ra khỏi chiếc giường ấm áp. Răng cô va đập lách cách trong lúc cô mặc quần áo. Mẹ cũng đang thay đồ ở phía bên kia tấm màn che, nhưng cả hai đều không lên tiếng vì quá lạnh. Hai mẹ con cùng tới bên lò bếp. Lửa ở đây đang cháy dữ dội nhưng không làm nóng ngay nổi không khí trong nhà. Một màn tuyết trắng quay cuồng mù mịt trên cửa sổ. Gió lùa tuyết qua khe hở dưới cửa ra vào lòn khắp nền nhà và mỗi núm đinh trên các bức vách đều trắng sương giá. Bố đã ra chuồng ngựa. Laura mừng là có cả một hàng dài đống cỏ giữa chuồng ngựa và căn lều. Cứ đi lần theo từng đống cỏ, bố sẽ không thể bị lạc. Mẹ lập cập: - M…một cơn b- b- bão tuyết! Trong tháng mười! Mẹ không bao giờ nghe thấy… Mẹ cho thêm củi vào lò và đập băng trong xô nước bỏ đầy ấm trà. Xô nước chỉ đầy chừng một nửa. Cả nhà sẽ phải tiết kiệm nước vì không ai có thể ra giếng kéo nước giữa cơn bão thế này. Nhưng tuyết ở trên nền nhà rất sạch. Laura xúc tất cả vào chậu nước rửa rồi đặt lên lò cho tan ra để dùng làm nước rửa ráy. Lúc này không khí gần lò bếp không lạnh lắm nên cô quấn bé Grace trong mền, bồng tới bên lò bếp thay quần áo cho bé. Mary và Carrie cũng run rẩy thay quần áo sát cửa lò để ngỏ. Tất cả đều mang vớ dài và đi giầy. Bữa ăn sáng đã đợi sẵn khi bố trở về. Bố như bị cuốn vào nhà với tiếng gió hú và tiếng tuyết quay cuồng. Ngay sau khi hơ nóng người lại, bố nói ngay: - Đó, những con cầy hương kia biết rõ điều gì sẽ đến, phải không Laura? Và cả lũ ngỗng trời cũng vậy. Mẹ nói: - Thế là không còn ngạc nhiên nữa về việc chúng không đáp xuống hồ. Bố nói: - Lúc này chắc hồ đóng băng rồi. Nhiệt độ xuống dưới gần không độ và có thể còn thấp hơn. Bố liếc nhìn hộc củi khi nói chuyện. Laura chất đầy hộc vào tối qua nhưng số củi còn lại đã vơi. Thế là ngay sau khi ăn sáng xong, bố quấn người thật kín ra vác từng ôm củi lớn từ ngoài đóng vào. Căn lều trở nên lạnh hơn. Lò bếp không đủ hâm nóng không khí lạnh ở bên trong những vách ván mỏng. Không thể làm gì được ngoài việc cuộn mình trong áo khoác, khăn choàng và ngồi sát bên lò bếp. Mẹ nói: - Thật mừng là đã ngâm đậu vào tối hôm qua. Mẹ mở vung chiếc ấm đang sôi và sổ nhanh một muỗng nước sô-đa. Đậu sôi sùng sục và nổi bọt nhưng không trào ra. Mẹ nói: - Cũng vẫn còn một miếng thịt heo ướp muối. Chốc chốc mẹ lại dùng muỗng múc ra vài hạt đậu và thổi cho nguội. Khi vỏ đậu tách ra và quăn lên, mẹ chắt hết nước sô-đa khỏi ấm và đổ đầy nước nóng vào. Mẹ bỏ vào một miếng mỡ heo. Bố nói: - Không gì ngon hơn món xúp đậu nóng trong một ngày giá lạnh. Bố cúi xuống nhìn Grace đang kéo bàn tay bố. - Sao, mắt xanh, con muốn gì? Grace nói: - Một chuyện! Carrie nài nỉ: - Bố kể cho chúng con câu chuyện về ông nội và con heo trên cỗ xe trượt tuyết đi. Thế là bố nhấc Grace và Carrie ngồi lên đầu gối và bắt đầu kể lại những câu chuyện mà bố thường kể cho Mary và Laura ở vùng Big Woods khi các cô còn bé. Mẹ và Mary bận bịu đan áo trong những chiếc ghế đu chất đầy mền được kéo tới sát lò bếp còn Laura quấn khăn choàng kín người đứng giữa lò bếp và vách lều. Hơi lạnh trườn vào từ các góc lều tiến sát mãi tới lò bếp. Những đợt gió lạnh buốt bám dính và khua động những tấm màn che xung quanh mấy chiếc giường. Căn lều nhỏ run rẩy trong cơn bão. Nhưng mùi vị đậu đang sôi rất dễ chịu và có vẻ khiến cho không khí ấm hơn lên. Buổi trưa, mẹ xắt mỏng bánh mì và đổ đầy nước xúp đậu nóng vào chén cho mỗi người có thể ngồi ăn tại chỗ ngay bên lò bếp. Rồi tất cả đều uống trà nóng pha đậm. Thậm chí mẹ còn cho bé Grace uống một ly trà sữa. Trà sữa thật ra chỉ gồm nước nóng với sữa và một ít trà nhưng các cô bé đều cảm thấy đã lớn hơn khi được mẹ cho uống trà sữa. Món xúp nóng và nước trà nóng khiến mọi người ấm lên. Họ ăn hết nước đậu rồi mẹ vét đậu cho vào một chảo sữa, đặt một miếng mỡ heo vào giữa và chế thêm lên trên một ít mật mía. Mẹ đặt chảo vào lò hấp đóng cửa lò lại. Cả nhà sẽ có món đậu hầm cho bữa ăn tối. Sau đó, bố đi lấy thêm củi. Tất cả đều mừng vì đống củi ở sát gần cửa sau. Mới ôm được ôm củi đầu tiên bố đã loạng choạng hụt hơi. Khi có thể lên tiếng nổi, bố nói: - Gió thổi bạt hơi bố đi hết. Nếu bố biết trước có một cơn bão thế này, bố đã chất củi đầy nhà từ hôm qua. Bây giờ thì bố mang tuyết vào nhà nhiều hơn củi. Sự thực gần đúng như thế. Mỗi lần Laura mở cửa cho bố là tuyết lại cuốn vào. Tuyết rơi trên người bố và phủ đầy củi. Thứ tuyết này cứng như băng và mịn như cát, và do cửa cứ mở ra khiến hơi lạnh ùa vào làm cho tuyết không tan nổi. Bố nói: - Vậy là tạm đủ cho lúc này rồi. Nếu bố đưa thêm hơi lạnh vào nữa thì số củi bố mang vào không đủ tạo sức nóng để lùa hơi lạnh đi. Bố nói: - Lúc nào quét tuyết xong thì mang đàn cho bố, Laura. Ngay khi mấy ngón tay bố cựa quậy được, mình sẽ có một âm thanh để át tiếng gào của gió. Một lát sau bố đã có thể so lại dây và chuốt chiếc vĩ. Rồi bố đặt cây đàn lên vai và hát theo tiếng đàn: Nếu được sống lại thời trai trẻ Cuộc đời ta sẽ khác vô cùng Ta sẽ có tiền bạc, ruộng đồng Và mãi mãi cùng Dinah xum họp Nhưng nay đã da mồi tóc bạc Làm được điều chi nữa mà mong Xin cho ta được quay trở lại Về với bờ đất cũ xa xăm Đời vẫn cứ đưa ta đi mãi Đưa ta đi tới phút sau cùng… Mẹ cắt ngang: - Thôi, để yên đi. Em đang chờ nghe tiếng gió. Mẹ cố giữ cho bé Grace được ấm còn Grace đang rấm rứt vùng ra. Mẹ đặt bé xuống nói: - Đó, chạy đi nếu con thấy phải làm như thế! Con sẽ mừng được quay lại với lò bếp. Bố kêu lên: - Phải nói gì với các con bây giờ! Laura, Carrie hãy ra đó với Grace và bước đều, bước! Như thế máu sẽ vận chuyển và ấm lên. Thật không dễ rời khỏi chỗ ẩn mình với những chiếc khăn choàng quấn kín nhưng các cô phải làm như bố nói. Rồi giọng bố vang lên mạnh mẽ theo tiếng đàn: Tiến lên! Tiến lên! Hỡi người dũng cảm! Các chàng trai, còn chờ đợi điều chi? Tiến lên! Tiến lên! Hỡi người dũng cảm! Màu mũ xanh đang phủ kín biên thùy Cờ biển tung bay đưa ta bước tới Tiếng thơm này sử sách mãi ghi. Laura cùng Carrie và Grace bước đều vòng quanh cùng cố sức hát lớn và đạp chân thình thịch trên nền nhà. Núi cao không chùn bước Những đứa con đất nước Quyết đấu tranh Cho gia đình và tổ quốc vẻ vang! Tất cả đều cảm thấy đang có những biểu ngữ tung bay phía trước và tất cả đang bước lên dành thắng lợi vinh quang. Thậm chí các cô còn không nghe cả tiếng bão gầm rú và ấm tới tận đầu ngón chân. Rồi tiếng nhạc dứt hẳn và bố cất đàn vào hộp. - Thôi, các con gái! Thế là đủ để tiến lên chống lại cơn bão này và tìm được thoải mái suốt đêm. Sẽ đáng khiển trách nếu điệu nhạc cổ này không xốc được tinh thần bố lên để chiến đấu ngay với một trận bão tuyết! Trong lúc bố cất hộp đàn, mẹ hơ ấm áo khoác và khăn quàng của bố bên lò bếp. Phía ngoài gió vẫn gào hú giận dữ. Mẹ hẹn với bố: - Mình vẫn còn đậu hầm và trà nóng chờ sẵn khi anh trở về, Charles. Và lúc đó tất cả sẽ lên giường ấm áp tựa như bão sẽ phải qua đi vào buổi sáng. Nhưng buổi sáng bố lại hát bài hát về hoa hướng dương. Cửa sổ vẫn phủ một lớp trắng nhạt nhòa và gió vẫn lùa tuyết vào căn lều nhỏ run rẩy. Trận bão tuyết kéo dài thêm hai ngày hai đêm nữa. Chương 5: Sau Cơn Bão Vào buổi sáng thứ tư, Laura có một cảm giác khác lạ ở trong tai. Cô hé mền nhìn ra và thấy tuyết dồn đống trên giường. Có tiếng nắp lò bếp va chạm khe khẽ rồi tiếng lửa bắt cháy lách tách. Lúc đó cô hiểu vì sao tai cô lại cảm thấy trống vắng. Tiếng ồn ào của trận bão đã dứt hẳn! Cô hích cùi chỏ vào người Mary kêu lớn: - Dậy thôi, Mary! Hết bão tuyết rồi! Cô nhảy ra khỏi chiếc giường ấm áp bước vào không khí lạnh như băng. Hình như lò bếp đang cháy vẫn không đủ sức nóng. Xô nước tuyết gần như đông cứng lại. Nhưng các ô cửa sổ đọng sương đang rạng sáng ánh nắng. Bố nói khi bước vào nhà: - Phía ngoài lạnh hơn bao giờ hết. Bố khom người trên lò bếp để rũ đám băng đọng trên hàm râu. Băng rớt xèo xèo trên nắp lò và bốc hơi. Bố chùi râu và tiếp tục nói: - Gió xé toạc một mảnh giấy chống thấm ở trên mái, dù đã được gắn rất chặt. Không có gì lạ khi mưa và tuyết từ trên mái rớt xuống. Laura nói: - Dù sao, bão cũng đã qua rồi. Thật dễ chịu khi ngồi ăn sáng và ngắm những ô kính cửa sổ ửng vàng. Mẹ quả quyết: - Mình sẽ có một mùa thu kéo dài. Cơn bão này đến sớm thế thì không thể là mở đầu cho mùa đông. Bố thừa nhận: - Anh chưa bao giờ thấy mùa đông đến sớm như vậy. Nhưng anh không thích cái cảm giác của những con vật. Mẹ thắc mắc: - Những con vật nào, Charles? Bố không thể nói một cách chính xác: - Có một số dấu vết súc vật ở gần những đống cỏ khô. Mẹ hỏi nhanh: - Chúng có giật đổ cỏ không? Bố đáp: - Không. Mẹ nói: - Vậy thì có sao đâu khi chúng không làm hại gì? Bố nói: - Anh đoán là chúng quá mệt do trận bão và đi kiếm chỗ trú ẩn ở bên các đống cỏ. Anh nghĩ là sẽ để cho chúng nghỉ ngơi và ăn một chút trước khi lùa chúng đi. Anh không thể để chúng kéo sập các đống cỏ nhưng chúng có thể ăn một chút và không làm điều gì tệ hại. Nhưng chúng lại không ăn. Mẹ hỏi: - Rồi có gì ổn không? Bố nói: - Chẳng có gì cả. Chúng chỉ đứng tại đó. Mẹ nói: - Thế thì có gì phải lo lắng. Bố nói: - Không! Bố uống trà rồi nói: - Thôi, anh cứ ra đuổi chúng đi cũng hay. Bố khoác áo, đội mũ, mang găng tay và bước ra. Một thoáng sau, mẹ nói: - Laura, tốt hơn là con nên đi với bố. Bố có thể cần phụ giúp để đuổi đám súc vật khỏi các đống cỏ. Laura hối hả để mẹ giúp choàng khăn san lên đầu và cài chắc dưới cằm bằng cây kẹp khăn. Những nếp gấp bằng len phủ kín từ đầu tới chân cô. Ngay cả các bàn tay cô cũng ủ dưới chiếc khăn san. Duy nhất chỉ có mặt cô là hở ra. Ánh nắng phía ngoài khiến cô chóa mắt. Cô hít một hơi dài làn hơi lạnh và đảo mắt ngó quanh. Bầu trời xanh thẳm và khắp mặt đất là màu trắng lay động trong gió. Gió thổi mạnh nhưng không cuốn tung tuyết lên mà chỉ lùa qua đồng cỏ. Hơi lạnh đập vào má Laura, xộc thẳng vào mũi, lòn trên ngực và bốc thành hơi trong không khí. Cô che một chéo khăn ngang miệng và hơi thở của cô thành sương giá trên đó. Khi bước qua góc chuồng ngựa, cô nhìn thấy bố đang đi phía trước và nhìn thấy lũ súc vật. Cô dừng lại ngó. Lũ súc vật đang đứng dưới nắng trong mảng bóng che của những đống cỏ, con màu đỏ, con màu nâu, con lốm đốm và một con màu đen nhạt. Tất cả đều đứng bất động, đầu chúi xuống đất. Tất cả những chiếc cổ màu đỏ, màu nâu lông xù xì đều vươn dài từ những khuôn vai xương xẩu tới những chiếc đầu màu trắng phồng to lên một cách quái đản. Laura hét lớn: - Bố! Bố ra dấu cho cô đứng im tại chỗ. Bố lết qua lớp tuyết đang bay là đà nhích về phía những con vật đó. Chúng hoàn toàn không giống trâu bò. Chúng đứng im lìm một cách dễ sợ. Cả bầy không hề có một cử động nhỏ. Chỉ hơi thở của chúng khiến khoảng sườn giữa các khung xương hóp lại rồi phình ra. Xương hông và xương vai của chúng nhô lên. Chúng xoải chân ra vững vàng và bất động. Và ở phần đầu của chúng là những khối u màu trắng phồng lên giống như cắm xuống đất dưới lớp tuyết lay động. Tóc trên đầu Laura dựng đứng lên và một cảm giác kinh hoàng chạy dọc sống lưng cô. Nước mắt trào ra từ những con mắt đang nhìn sững và chảy lạnh buốt trên má cô. Bố tiếp tục đi thật chậm ngược chiều gió. Bố đã tới sát lũ súc vật. Không một con nào cử động. Bố đứng nhìn một hồi. Rồi bố cúi khom xuống và làm thật nhanh một điều gì đó. Laura nghe thấy một tiếng rống và một thớt lưng bò đực nhô cao nhảy bật lên. Com bò đực màu đỏ lọang choạng chạy và rống lớn. Nó chỉ có một chiếc đầu bình thường với mắt, mũi và chiếc miệng đang mở lớn nhả hơi nước vào trong gió. Một con khác rống lên và chạy đi giận dữ, lảo đảo. Rồi một con khác nữa. Bố lần lượt làm cùng một điều với tất cả những con khác. Tiếng rống của chúng bốc lên trên nền trời lạnh. Cuối cùng, tất cả bầy tụ lại kéo đi. Lúc này chúng đi lặng lẽ trong đám tuyết dầy văng tung tóe. Bố vẫy tay cho Laura trở về trong lúc bố đi coi lại các đống cỏ. Mẹ hỏi: - Có gì mà ở ngoài đó lâu vậy, Laura? Lũ trâu bò có làm hư các đống cỏ không? Cô đáp: - Không, mẹ! Đầu của chúng.. Con đoán là đầu của chúng bị dính cứng vào mặt đất. Mẹ kêu lên: - Đâu có thể như vậy được! Mary đang ngồi đan trên chiếc ghế gần lò bếp cũng nói: - Đó đúng là một ý nghĩ kì quái của Laura. Làm sao mà đầu của cả đàn bò có thể đông dính cứng vào mặt đất được, Laura? Đôi lúc thực đáng lo về cách nói của em. Laura đáp gọn: - Được, chị hãy hỏi bố! Cô không thể kể với mẹ và Mary về điều cô đã cảm thấy. Cô cảm thấy bằng một cách nào đó giữa trời đêm hoang vu và bão táp, sự tĩnh lặng ở phía dưới tất cả những âm thanh trên đồng cỏ đã cột giữ lũ bò lại. Khi bố trở về, mẹ hỏi: - Có điều gì xảy ra với đám gia súc, Charles? Bố nói: - Đầu của chúng bị đông cứng lại cùng với băng và tuyết. Hơi thở của chúng đóng băng trên mắt và trên mũi chúng cho tới khi chúng không nhìn và thở nổi nữa. Laura ngừng quét nhà, lên tiếng trong sự kinh hãi: - Bố! Chúng con còn hơi chứ! Chúng con sẽ chết ngạt mất! Bố hiểu ngay cô đang cảm nghĩ gì. Bố nói: - Lúc này thì tất cả chúng đều ổn rồi, Laura. Bố đã đập băng khỏi đầu chúng. Lúc này chúng đ thở và bố đoán là chúng đã trú ẩn ở một nơi nào đó. Carrie và Mary đều trợn tròn mắt và ngay cả mẹ cũng tỏ vẻ kinh hãi. Mẹ nói nhanh: - Quét cho xong đi, Laura. Còn Charles, trời ơi, sao anh không lo cởi đồ và sưởi ấm đi? Bố nói: - Anh có một tứ để khoe với mọi người. Bố rút bàn tay ra khỏi túi một cách cẩn thận: - Coi đây, các con, coi xem bố tìm thấy thứ gì trốn trong một đống cỏ. Bố từ từ mở bàn tay ra. Giữa khoảng trống của chiếc bao tay là một con chim nhỏ. Bố khẽ đặt con chim lên hai bàn tay Mary. Mary kêu lên trong lúc mấy đầu ngón tay vuốt nhẹ nó: - Sao, nó đứng thẳng được! Tất cả chưa từng thấy một con chim như thế. Nó nhỏ giống như hệt bức hình con chim cánh cụt lớn trong cuốn sách bìa xanh của bố “ Những điều kì diệu trong thế giới loài vật”. Nó cũng có phần ngực trắng, lưng và cánh đen, có những chiếc chân ngắn lui hẳn về phía sau và có cùng bàn chân rộng với màng che. Nó đứng thẳng trên hai chiếc chân ngắn giống như một người tí hon với quần dài và áo khoác màu đen, chiếc sơ-mi trắng ở phía trước và đôi cánh đen nhỏ là hai cánh tay. - Chim gì vậy, bố? Ô, chim gì vậy? Carrie kêu lên thích thú và giữ mấy bàn tay nôn nóng của Grace lại: - Không được đụng nó, Grace. Bố nói: - Bố chưa từng gặp một thứ gì như thế. Chắc là nó bị kiệt sức do bão và tình cở rớt xuống đúng đống cỏ. Thế là nó trườn vào trong cỏ để trú ẩn. Laura nói: - Đúng là giống chim cánh cụt. Nhưng nó chỉ là một con con. Mẹ nói: - Nó lớn hơn hẳn rồi chứ không còn là một con chim non đâu. Coi lông nó kìa. Bố đồng ý: - Ừ, nó lớn hẳn rồi. Con chom nhỏ đứng thẳng trên lòng bàn tay mềm mại của Mary nhìn tất cả bằng cặp mắt đen long lanh. Bố nói: - Chắc trước đây nó chưa hề nhìn thấy người ta. Mary hỏi: - Làm sao bố biết được, bố? Bố nói: - Vì nó không sợ chúng ta. Carrie năn nỉ: - Ô, chúng con giữ nó, được không bố? Được không, mẹ? Bố đáp: - Được, nhưng còn tùy. Mấy ngón tay Mary vuốt ve khắp thân hình con chim nhỏ trong lúc Laura kể cho cô nghe cái ức của nó trắng mượt ra sao và lưng nó, đuôi nó và những chiếc cánh nhỏ của nó đen tới mức nào. Rồi các cô cho Grace sờ nhẹ nhàng vào nó. Con chim cánh cụt nhỏ nhoi đứng im lìm nhìn tất cả. Khi được thả trên nền nhà, nó bước đi một đoạn ngắn. Rồi nó bấu những vuốt chân trên mặt ván và vỗ vỗ những cánh nhỏ. Bố nói: - Nó không thể bay được đâu. Đây là một loại chim dưới nước. Nó phải bắt đầu bay từ trong nước vì ở đó nó mới có thể dùng những bàn chân có màng kia để tăng tốc độ. Cuối cùng con chim được đặt vào trong một chiếc hộp ở góc nhà. Nó đứng nhìn mọi người bằng những con mắt tròn đen láy sáng long lanh và tất cả đều thắc mắc không rõ thức ăn của nó là gì. Bố nói: - Đây là một cơn bão quẩn quanh kì lạ. Anh không thích chút nào cả. Mẹ nói: - Sao, Charles, đó chỉ là một trận bão tuyết. Lúc này có vẻ mình đã có được thứ thời tiết ấm áp. Trời để bắt đầu ấm lên rồi. Mary lại nhấc món đồ đan lên và Laura tiếp tục quét. Bố đứng bên cửa sổ và một lát sau, Carrie dắt bé Grace rời khỏi con chim cánh cụt nhỏ để nhìn ra ngoài. Carrie chợt kêu lên: - Ô, coi kìa! Những con thỏ lớn! Xung quanh chuồng ngựa có tới một tá thỏ đang nhảy nhót. Bố nói: - Cái quái quỉ này đã sống trên dám cỏ khô của mình suốt thời gian có bão. Phải đem súng ra kiếm một bữa thịt thỏ hầm mới được. Nhưng bố vẫn đứng bên cửa sổ ngắm lũ thỏ chứ không tiến về phía cây súng. Laura nài xin: - Tha cho chúng lần này đi, bố. Sở dĩ chúng tới chỉ vì chúng phải tới thôi, chúng cần tìm chổ trú ẩn. Bố nhìn mẹ và mẹ mỉm cười: - Mình không đói lắm, Charles, và em rất mừng về những thứ mình đã có để qua cơn bão. Bố nói: - Thôi, anh nghĩ là anh có thể chia một chút cỏ khô với lũ thỏ đó. Bố cầm lấy xô nước và đi ra giếng. Khi bố mở cửa, không khí ùa vào lạnh hơn nhưng nắng đã bắt đầu làm tan tuyết trên bờ phía nam của căn lều. Chương 6: Mùa Thu Muộn Sáng hôm sau chỉ còn những mảnh băng vụn trong xô nước và ban ngày đã có nắng ấm. Bố mang bẫy đi đặt để bắt lũ cầy hương trong đầm Big Slough còn Carrie và Grace chơi ở ngoài sân. Con chim cánh cụt nhỏ không ăn gì. Nó không bật ta tiếng kêu nào nhưng Carrie và Laura nghĩ nó nhìn mọi người bằng ánh mắt thất vọng. Nó sẽ chết nếu không có thức ăn nhưng nó tỏ ra không biết làm cách nào để ăn những thứ mà mọi người đưa tới. Trong bữa ăn trưa, bố cho biết băng đang tan trên hồ nước Bạc. Bố nghĩ rằng con chim nhỏ lạ lùng kia có thể tự lo cho nó trên mặt nước thênh thang. Thế là sau bữa ăn, Laura và Mary mặc áo khoác, choàng mũ trùm đi theo bố tới chỗ thả con chim cánh cụt nhỏ. Hồ nước Bạc đang gợn những lớp song bạc và xanh nhạt dưới bầu trời màu xanh nhạt ấm áp. Băng chỉ còn dọc theo những mé bờ và là những tảng màu xám phẳng nổi lềnh bềnh trên sóng. Bố lấy con chim cánh cụt nhỏ ra khỏi túi. Nó đứng trên lòng bàn tay của bố trong lớp áo khoác màu đen mịn và chiếc áo sơ-mi trắng gọn gàng ở phía trước bằng những sợi lông nhỏ li ti. Nó nhìn mặt đất, bầu trời và mặt nước rồi nôn nóng nhón chân lên và vươn dài đôi cánh nhỏ. Nhưng nó không thể đi, cũng không thể bay. Đôi cánh quá nhỏ để nhấc bổng nó lên. Bố nói: - Nó không thuộc về mặt đất. Đây là loài chim dưới nước. Bố ngồi xổm gần một tảng băng trắng mỏng bên bờ hồ và cố vươn ra xa, bố hất con chim nhỏ từ bàn tay xuống làn nước trong xanh. Trong chớp mắt, nó vừa ở đó đã biến mất ngay. Ngoài xa những tảng băng là một vệt sọc dài rồi một hố đen. Bố nói: - Nó đang tăng tốc độ kìa, với những bàn chân có màng để nhấc bổng nó lên… Nó bay rồi! Laura không kịp nhìn theo nó bay lên nhỏ xíu giữa bầu trời xanh bao la chói nắng. Rồi, trong ánh nắng lấp lóe, nó biến mất. Hai mắt cô lóa nắng không còn nhìn thấy gì nữa. Nhưng bố vẫn đứng nhìn theo nó đang bay về phía nam. Tất cả không bao giờ hiểu chuyện gì đã xảy ra cho con chim nhỏ khi nó từ phía bắc xa xôi bay tới trong bão táp và cả khi nó về phía nam ngập nắng. Tất cả không bao giờ thấy hoặc nghe nói về một con chim khác giống như nó. Tất cả cũng không bao giờ tìm xem con chim đó thuộc giống chim nào. Bố vẫn đứng nhìn thật xa qua mặt đất mênh mông. Tất cả các đường cong trên đồng cỏ đều điểm màu từ nâu nhạt sang màu da thuộc, rồi màu vàng xám, màu tím phớ nhẹ xanh lá non và ở xa hơn là màu xanh xám. Nắng ấm và không khí như nhuốm sương mù. Laura chỉ cảm thấy hơi lạnh ở bàn chân do đứng gần những tảng băng bên bờ hồ. Mọi vật đều im lìm. Không có gió khuấy động lớp cỏ màu xám bạc và không có một bóng chim trên mặt nước hoặc trên bầu trời. Nước hồ chỉ vỗ nhẹ vào mé bờ của sự tĩnh lặng đó. Laura nhìn bố và cô biết bố cũng đang lắng nghe. Sự im ả còn khủng khiếp hơn cái lạnh. Nó mạnh hơn bất kì âm thanh nào. Nó có thể chặn đứng tiếng nước róc rách và những âm vang nhòa nhạt trong tai Laura. Sự im ả bao gồm cả không có âm thanh, không có chuyển động, không có một thứ gì ngoài sự đáng sợ của riêng nó. Tim Laura rộn lên vùng nhảy như muốn cố trốn ra khỏi nó. Bố chậm rãi lắc đầu nói: - Bố không thích thế. Bố không thích cái cảm giác về thời tiết. Có một cái gì… Bố không thể nói rõ cái gì đó ra sao và bố nhắc lại: - Bố không thích thế. Bố không thích thế chút nào. Không ai có thể nói đích xác có một cái gì đó bất thường trong thời tiết. Trời đang ở tiết thu muộn khá đẹp. Mỗi đêm đều có sương giá và thỉnh thoảng có đống băng còn ngày đều có nắng. Mỗi buổi chiều Laura và Mary dạo bộ trong nắng ấm trong lúc Carrie chơi với bé Grace ở cạnh nhà. Mẹ nhắc: - Hãy ráng sưởi nắng cho thật nhiều. Mùa đông sắp tới rồi và lúc đó các con sẽ phải bó gối ở trong nhà. Tất cả đều ra ngoài trong thời tiết sáng sủa nhẹ nhàng như để tích trữ ánh nắng và không khí dịu mát cho mùa đông khi họ không thể còn có gì. Nhưng thường thì trong lúc dạo bộ, Laura vẫn nhìn thật nhanh về hướng bắc. Cô không biết rõ tại sao. Ở đó chẳng có gì cả. Đôi lúc cô đứng im trong nắng ấm lắng nghe và thấy khó chịu. Không có lí lẽ nào để giải thích. Bố nói: - Sắp tới một mùa đông ác liệt. Mùa đông ác liệt nhất mà mình gặp. Mẹ phản đối: - Sao thế, Charles. Lúc này thời tiết đang rất dễ chịu. Chỉ có một cơn bão sớm thì chưa hẳn là lí do để bão trọn mùa đông sẽ tồi tệ. Bố nói: - Anh đã đánh bẫy cầy hương khá nhiều năm rồi và chưa bao giờ anh thấy chúng làm vách ổ dầy như thế. Mẹ nói: - Những con cầy hương! Bố nói: - Bằng một cách nào đó, những con thú hoang lại biết rõ. Mọi loài thú hoang đều đã sẵn sàng cho một mùa đông ghê gớm. Mẹ nêu ý kiến: - Có lẽ chúng chỉ sẵn sàng vì đã có trận bão dữ dội kia. Nhưng bố không tin như thế. Bố nói: - Phần anh, anh không thích cái cảm giác của các con vật. Thời tiết hiện nay giống như che giấu một điều gì mà không cho phép bỏ phí một chút. Nếu anh là một con thú, anh sẽ lùng sục trong hang của mình và đào cho nó sâu hơn. Còn nếu anh là một con ngỗng trời, anh sẽ xoải cánh bay khỏi đây. Mẹ cười với bố: - Anh đúng là một con ngỗng trời đó, Charles! Em chưa biết có lúc nào em thấy được một mùa thu muộn đẹp hơn. Chương 7: Lời Cảnh Báo Của Người Da Đỏ Một buổi chiều, một nhóm đàn ông tụ lại trong cửa hàng Harthorn ở thị trấn. Xe lửa bị ngừng do bão tuyết đã chạy trở lại và đám đàn ông từ các vùng đất được cấp phát đổ về thị trấn mua sắm các tạp phẩm đồng thời lùng nghe tin tức. Royal và Almanzo đến từ trang trại của mình. Almanzo điều khiển cặp ngựa Morgans nổi tiếng là cặp ngựa số một trong toàn vùng. Ông Boast cũng có mặt ở đó đứng chính giữa đám đông và khiến mọi người cười khi ông cười. Bố đi rảo quanh với cây súng trên tay nhưng không nhìn thấy nhiều hơn một con thỏ vào lúc này, bố đang chờ trong lúc ông Harthorn cân miếng thịt heo ướp muối mà bố phải mua thay cho một con mồi săn. Không ai nghe thấy tiếng bước chân, nhưng bố cảm thấy có ai đó ở sau lưng và bố quay lại để coi đó là ai. Lúc đó, ông Boast đột nhiên ngưng nói. Tất cả đều nhìn theo hướng nhìn của ông Boast và đứng dậy thật nhanh khỏi chiếc cày và những thùng đồ. Almanzo tụt xuống khỏi quầy hàng. Không ai nói điều gì. Đó chỉ là một người da đỏ nhưng bằng cách nào đó cái nhìn của ông ta khiến mọi người đều im lặng. Ông ta đứng đó và nhìn tất cả, nhìn bố, nhìn ông Boast, nhìn Royal Wilder, nhìn từng người khác và cuối cùng nhìn Almanzo. Ông ta là một người da đỏ rất già. Khuôn mặt nâu sậm của ông ta khắc hằn những nếp gấp sâu và nhăn nhúm trên các mấu xương, nhưng ông ta đứng thẳng sừng sững. Cánh tay của ông ta gấp dưới một tấm mền xám choàng quanh người. Đầu ông ta cạo nhẵn thín chỉ còn một chởm tóc với một cọng lông chim ưng cắm trên đó. Mắt ông sáng và sắc, phía sau ông, nắng đang chiếu trên đường phố lầm lụi và một con ngựa nhỏ của người da đỏ đang đứng chờ ở đó. Người da đỏ này lên tiếng: - Đống tuyết lớn đã tới. Tấm mền trượt khỏi vai ông và một cánh tay trần nâu sậm lộ ra. Cánh tay vung một vòng tròn rộng về phía bắc, phía tây, phía đông và gom tất cả lại cuộn xoáy. Ông ta nói: - Đống tuyết lớn, gió lớn. Bố hỏi: - Bao lâu? Người da đỏ đáp: - Nhiều con trăng. Ông ta đưa ra bốn ngón tay rồi thêm ba ngón tay nữa. Bảy ngón tay tức bảy tháng, một cơn bão tuyết dài bảy tháng. Mọi người nhìn ông ta không ai lên tiếng. Ông ta nói: - Các anh người da trắng. Ta nói cho các anh. Ông ta lại đưa bảy ngón tay. - Tuyết lớn. Rồi lại bảy ngón tay: - Tuyết lớn. Rồi lại bảy ngón tay: - Đống tuyết lớn, nhiều con trăng. Rồi gõ ngón tay trỏ lên ngực, ông ta nói một cách kiêu hãnh: - Già! Già! Ta đã thấy! Ông ta bước ra khỏi cửa hàng tới chỗ con ngựa đang đứng chờ và lên ngựa đi mất về phía tây. Ông Boast nói: - Chà, mình thật khỉ quá! Almanzo hỏi: - Bảy đám tuyết lớn là cái gì? Bố chỉ rõ là người da đỏ muốn nói mỗi mùa đông thứ bảy đều khắc nghiệt hơn hết. Ông ta đã đến để nói cho người da trắng biết mùa đông sắp tới chính là mùa đông thứ hai mốt và sẽ có bảy tháng bão tuyết. Royal thắc mắc: - Ông có nghĩ là ông già kia biết rõ điều ông ta đã nói hay không? Không ai có thể trả lời cho câu hỏi này. Royal tiếp: - Chỉ là một dịp may. Tụi tôi sẽ chuyển vào thị trấn trong mùa đông. Kho thực phẩm của tụi tui dư sức cho một nông trại trú đông. Tụi tui có thể nằm tại đó cho tới mùa xuân. Như thế có hợp ý em không, Manzo? Almanzo nói: - Hợp với em lắm. Bố hỏi: - Anh cảm thấy sao về việc chuyển vào thị trấn, Boast? Ông Boast chậm rãi lắc đầu: - Chưa biết chúng tôi sẽ thế nào. Chúng tôi có rất nhiều gia súc, bò, ngựa và gà. Không có đủ chỗ trong thị trấn để giữ chúng kể cả trường hợp tôi có đủ tiền để mướn nhà. Chúng tôi đã chuẩn bị khá kĩ cho mùa đông ở trại. Tôi nghĩ là Ellie và tôi sẽ ở lại đó. Mọi người đều điềm tĩnh. Bố trả tiền mua hàng, bước ra vội vã trở về nhà. Chốc chốc bố lại nhìn về góc trời phía tây bắc. Trời quang và nắng đang chiếu. Mẹ lấy bánh từ lò ra khi bố về tới. Carrie và Grace chạy ra đón bố rồi cùng bố vào nhà. Mary vẫn lặng lẽ khâu, nhưng Laura nhảy lên. Mẹ hỏi trong lúc trút những chiếc bánh thơm nức từ chảo vào một tấm vải trắng sạch: - Có chuyện gì không ổn thế, Charles? Anh về sớm. Bố đáp: - Không có gì không ổn hết. Đây là đường với trà của em và một miếng thịt heo ướp muối. Anh không kiếm được con thỏ nào. Bố nhắc lại: - Chẳng có gì không ổn hết, nhưng mình sẽ chuyển vào thị trấn càng sớm càng tốt. Trước tiên anh sẽ lo kéo cỏ khô cho gia súc. Nếu lo kịp anh sẽ kéo một chuyến trước khi trời tối. Mẹ hổn hển: - Trời ơi, Charles! Nhưng bố đã bước ra chuồng ngựa. Carrie và Grace nhìn mẹ rồi nhìn Laura, rồi lại nhìn mẹ. Laura nhìn mẹ và mẹ nhìn lại cô một cách bất lực. Mẹ nói: - Từ trước tới nay bố các con không bao giờ làm một điều như vậy. Laura đáp: - Chẳng có gì không ổn đâu, mẹ. Bố đã nói vậy mà. Con phải tới giúp bố lo đám cỏ khô. Mẹ cũng ra chuồng ngựa và bố kể với mẹ trong lúc vỗ vỗ chiếc yên ngựa. Bố nói: - Sẽ có một mùa đông rất khắc nghiệt. Anh rất sợ sự thực đúng như thế. Căn nhà này chỉ là một túp lều chứ chẳng là gì. Nó không đủ sức để ngăn hơi lạnh, cứ nhìn điều xảy ra với lớp giấy chông thấm trong trận bão tuyết đầu tiên thì rõ. Căn nhà của mình ở thị trấn đã được đóng ván và dán giấy, vách ngoài đã khép kín và có trần rồi. Đó là căn nhà vững chắc, kín đáo, ấm áp và nhà chuồng cũng rất ấm. Mẹ hỏi: - Nhưng cần gì phải vội thế? Bố nói: - Anh cảm thấy phải làm gấp. Anh giống như một con cầy hương có một điều gì đó nhắc anh phải gấp đưa em và các con vào phía trong những bức vách dầy. Anh có cảm giác này từ lúc nào đó và bữa nay thì ông già da đỏ kia.. Bố ngừng lại. Mẹ hỏi: - Ông già da đỏ nào? Mẹ nhìn tựa hồ mẹ ngửi thấy mùi của một người da đỏ khi mẹ nói. Mẹ coi thường người da đỏ và cũng sợ họ nữa. Bố thường nhấn mạnh: - Vẫn có nhiều người da đỏ rất tốt. Lúc này, bố nói thêm: - Và họ biết nhiều điều mà mình không biết. Anh sẽ kể cho em nghe vào lúc ăn tối, Caroline. Họ không thể nói chuyện đó trong lúc bố hất cỏ khô từ trên đống xuống và Laura đạp nén trong giá. Cỏ cao lên dưới ống chân chuyển động mau của cô cho tới lúc đống cỏ cao vượt trên lưng ngựa. Bố nói: - Bố sẽ tự lo liệu ở thị trấn. Trong thị trấn không có chỗ cho một cô gái làm công việc của con trai. Thế là Laura tụt xuống khỏi đỉnh của đống cỏ cao và bố lái xe đi. Buổi chiều thu muộn ấm áp, dịu dàng và yên tĩnh. Những gợn màu nhạt trên mặt đất trải dài xa tắp và bầu trên hiền hòa che phủ bên trên. Nhưng phía dưới vẻ hiền hòa và dịu dàng kia vẫn có một cái gì chờ đợi. Laura hiểu bố muốn nói tới cái gì. Laura chợt nghĩ tới mấy tiếng trong Kinh thánh: - Ô, mong sao tôi có những cánh chim. Nếu cô có những cánh chim thì cô cũng vươn cánh thật rộng, và bay đi thật nhanh, hết sức nhanh tới một nơi xa. Cô lặng lẽ trở về lo giúp mẹ. Không ai trong số họ có cánh nên họ chỉ có thể chuyển về thị trấn trong mùa đông. Mẹ và Mary không nghĩ gì nhưng Laura biết rõ là cô không thích sống giữa quá nhiều người như thế. Chương 8: Sống Trong Thị Trấn Ngôi nhà của bố là một trong những ngôi nhà thuộc hạng nhất ở thị trấn. Ngôi nhà nằm ở phía đông phố Main Street. Mặt tiền nhà cao và vương vức với một cửa sổ lầu. Tầng dưới có hai cửa sổ với một cửa ra vào ở chính giữa. Bố không dừng xe ở đó mà lái xe vòng qua góc phố Second Street vốn chỉ là một con đường để bọc phía sau tới cửa gian chái. Ở đây có một chuồng ngựa bằng gỗ chắc chắn với một đống cỏ khô kế bên và phía bên kia là phố Second Street mà Laura nhận thấy có một ngôi nhà mới dựng bằng ván tươi. Nhà và chuồng ngựa của bố đã thành xám nhạt giống như các ngôi nhà khác trên phố Main Street. Bố nói: - Rồi, mình đã tới! Sẽ không phải dọn nhà quá lâu. Bố cởi dây cột ở sau xe cho con bò cái Ellden và con bò con của nó. Laura đưa chúng vào ngăn chuồng riêng trong chuồng ngựa trong lúc bố dỡ đồ khỏi thùng xe. Rồi bố đưa xe vào chuồng ngựa và tháo ngựa ra. Cửa trong gian chái mở dưới cầu thang đặt ở phòng sau. Phòng sau hẹp được dùng làm nhà bếp và mỗi phía đều có một ô cửa sổ nhìn ra con đường sẽ là phố Second Street và ra những khu đất trống kề bên một cửa hàng nhỏ bỏ trống. Xa hơn về phía đông bắc trên đồng cỏ, Laura có thể nhìn thấy nhà ga xe lửa hai tầng. Mẹ đứng trong gian phòng trước trống trơn ngắm nghía và tính toán chỗ kê đồ. Trong gian phòng rộng thênh thang có một lò sưởi than, một bàn giấy và một chiếc ghế bằng gỗ sáng bóng. Laura kêu lên: - Kỳ chưa, bàn ghế ở đâu thế này? Mẹ nói: - Của bố đó. Người cộng sự mới của ông thẩm phán Carroll có một chiếc bàn giấy nên ông Carroll giao cho bố bộ bàn ghế cũ của ông ta và cùng chiếc lò sưởi than để thay cho một phần tiền thuê nhà. Bàn có nhiều ngăn kéo và chiếc ở trên cùng có nhiều ô nhỏ dưới một tấm che co dãn kì lạ làm bằng những thanh gỗ dài có thể kéo cho uốn cong xuống hoặc đẩy dựng lên. Mẹ tiếp tục nói: - Mình sẽ đặt mấy chiếc ghế đu ở gần cửa sổ kia. Như thế thì Mary sẽ có nắng suốt buổi chiều và mẹ có thể đọc sách cho tới khi mặt trời lặn. Mình sẽ làm việc này trước hết. Mary, con hãy bước xuống và giữ Grace không cho cản đường. Mẹ và Laura đặt mấy chiếc ghế đu bên cửa sổ. Rồi hai mẹ con chuyển chiếc bàn ăn qua những khoảng trống đã đặt vào lò sưởi than và khuôn cửa xuống nhà bếp. Mẹ nói: - Ngồi ăn ở đây sẽ được ấm. Laura hỏi: - Bây giờ mình có thể treo màn chứ? Hai ô cửa sổ giống như những con mắt lạ đang nhìn vào nhà. Nhiều người lạ qua lại trong phố và bên kia phố sừng sững nhiều cửa hàng. Cửa hàng đồ sắt Fuller’s ở đó bên những cửa hàng tạp phẩm và tiệm may Power’s, cửa hàng lương thực Loftus, cửa hàng vải vóc và bách hóa tổng hợp. Mẹ nói: - Ừ, càng sớm càng tốt! Mẹ mở gói giấy lấy những tấm màn che bằng vải bông và cùng Laura treo lên. Một cỗ xe chạy ngang qua khi hai mẹ con treo màn và đột nhiên năm sáu cậu bé đổ xuống phố Second Street rồi một lát sau xuất hiện nhiều cô bé. Mẹ nói một cách mừng rỡ: - Đã có trường học rồi. Ngày mai con và Carrie sẽ đi học. Laura im lặng. Không ai biết cô ngán gặp gỡ những người lạ tới mức nào. Không ai biết nỗi hồi hộp và cơn nhốn nháo của cô khi gặp phải người lạ. Cô không thích thị trấn, không muốn tới trường. Đúng là bất công khi cô phải đi học! Mary mong trở thành cô giáo nhưng không được vì bị mù. Laura không muốn dạy học nhưng cô phải làm để mẹ vui long. Có thể trọn đời cô phải đi giữa những người lạ, chỉ dạy những đứa trẻ lạ. Cô luôn khiếp hãi và luôn che giấu nỗi khiếp hãi đó. Không! Bố đã nhắc phải không bao giờ sợ sệt và cô sẽ không sợ. Cô phải can đảm để không bị nỗi khiếp sợ bóp nghẹt. Nhưng ngay cả khi không còn khiếp sợ nữa thì cô vẫn không thích người lạ. Cô đã biết rõ các con vật xử sự ra sao, hiểu thấu chúng nghĩ gì nhưng không bao giờ dám đoán chắc về người ta. Dù sao thì những tấm màn cửa sổ đã ngăn không cho những người lạ nhìn vào nhà. Carrie đặt quanh bàn ăn những chiếc ghế trơn. Nền nhà bằng ván thông sạch bóng loáng và căn phòng rộng có vẻ rất thoải mái khi Laura cùng mẹ đặt trước mỗi khung cửa ra vào một tấm chùi chân kết bằng những mảnh vải. Bố đang đặt lò trong nhà bếp. Sau khi dựng xong ống khói lò, bố chuyển tủ chứa thực phẩm vào đặt dựa sát vách phía bên kia cửa ra vào. Bố nói: - Đó! Cả hai thứ lò bếp và tủ chứa thực phẩm đều thuận lợi đối với chiếc bàn ăn ở phòng bên. Mẹ tán dương bố: - Phải đó, Charles, ý kiến thật hay. Lúc này chỉ còn đưa mấy chiếc giường ngủ lên gác thì không còn nhiều việc nữa. Bố chuyển các bộ phận khung giường cho mẹ và Laura kéo qua khuôn cửa sập ở đầu cầu thang. Bố nhồi những chiếc đệm bằng lông chim lên trên. Rồi mỗi người đứng một bên mép giường, các cô kéo căng tấm vải, tấm phủ, chăn mền và cẩn thận gấp các mép thật vuông vức. Kế tiếp, mỗi cô vuốt phẳng một chiếc gối đặt vào đúng chỗ và giường được làm xong. Khi cả ba chiếc giường đã gọn gàng thì không còn việc gì để làm them nữa. Laura và Carrie đứng trong ánh nắng chiều dìu dịu se lạnh, nhìn ra ngoài cửa sổ. Bố và mẹ đang nói chuyện trong nhà bếp ở tầng dưới và hai người đàn ông lạ đang nói chuyện ở ngoài phố. Xa hơn, nhưng không xa lắm, một người đang huýt gió một điệu nhạc giữa nhiều âm thanh nhỏ và tất cả hợp lại thành tiếng động của thị trấn. Khói đang bốc lên từ sau những mặt tiền của các cửa tiệm vượt khỏi tiệm đồ sắt Fuller’s, phố Second Street chạy ra đồng cỏ phía tây tới ngôi nhà đứng đơn độc trên đám cỏ héo. Nhà có bốn ô cửa và nắng chiếu xuyên qua cho thấy bên kia cũng còn nhiều cửa sổ nữa. Lối vào nhà lát ván, giống như một cái mũi gắn vào cuối đầu hồi phía trước và ống khói lò không nhả khói. Laura nói: - Chị đoán đó là trường học. Carrie gần như thì thầm: - Em muốn mình không phải tới trường. Laura nói: - Đâu có được, mình phải tới chứ. Carrie nhìn cô băn khoăn: - Chị… có sợ không? Laura đáp một cách mạnh mẽ: - Không có gì phải sợ cả! Mà nếu có gì, mình cũng không sợ. Lửa trong lò bếp sưởi ấm khắp nhà dưới và mẹ nói nhà này được dựng thật tốt đến nỗi không để lọt mất một chút hơi nóng nào. Mẹ đang nấu bữa tối và Mary đang bày bàn ăn. Mary nói một cách sung sướng: - Con không cần ai phải giúp cả. Tủ kê ở chỗ khác nhưng mẹ đã bày chén đĩa ở nguyên chỗ của chúng trên tủ nên con tìm thấy một cách dễ dàng. Phòng trước thoáng đãng trong ánh đèn, khi mẹ đặt cây đèn trên bàn ăn. Những tấm màn che màu kem, bàn và ghế đánh vẹt-ni màu vàng, những tấm mện trên ghế đôi, những tấm thảm chùi chân bằng vải ghép, những miếng khăn trải bàn màu đỏ và nền nhà màu gỗ nhạt, các bức vách ghép chắc tới mức không có chút hơi lạnh thấm qua. Laura nói: - Con ước mình có một căn nhà như thế này ở trong trại. Mẹ nói: - Mẹ mừng là đã có nhà ở thị trấn để các con có thể tới trường trong mùa đông này. Các con không thể đi mỗi ngày từ trại tới trường khi thời tiết xấu. Bố lên tiếng: - Đáng vui với anh là mình yên tâm về việc kiếm than và thực phẩm. Than ăn đứt củi về mặt cung cấp sức nóng đều đặn. Mình sẽ giữ đủ than trong gian chái để kéo dài qua mọi trận bão tuyết và anh có thể luôn kiếm them từ xưởng gỗ. Sống ở thị trấn cũng không có mối nguy thiếu hụt bất cứ thứ thực phẩm nào. Mẹ hỏi: - Hiện có bao nhiêu người sống ở thị trấn? Bố kể ra: - Có mười bốn cửa hàng và ga xe lửa rồi nhà Sherwood, nhà Garland, nàh Owen là mười tám gia đình cả thảy, chưa kể tới ba hoặc bốn căn lều ở đường phố phía sau. Rồi còn có anh em Wilder sống độc than trong cửa hàng thức ăn gia súc và một người tên là Foster mới đưa đàn bò đến trú tại nhà Sherwood. Tính chung hết thì phải có tới bảy mươi lăm hay tám mươi người đang sống trong thị trấn. Mẹ nói: - Thử nghĩ lại cùng thời gian này mùa thu vừa rồi ở đây không có một bóng ma nào. Em mừng là cuối cùng anh đã thấy sống ở một chỗ ổn định cũng có điều dễ chịu, Charles. Bố thừa nhận điều đó nhưng lại nói: - Nhìn về mặt khác thì quá tốn kém mà tiền ở đây lại hiếm như răng gà mái. Làm đường sắt là việc duy nhất để mọi người đàn ông kiếm một đô-la cho một ngày làm việc, nhưng đâu phải ai cũng được mướn. Còn mồi săn duy nhất quanh vùng thì chỉ có những con thỏ. Oregon mới là nơi thích hợp cho thời buổi này. Ngoài nơi đó thì khắp xứ đều sẽ trở thành vùng định cư trong thời gian không lâu nữa. Mẹ nói một cách chắc nịch: - Phải, nhưng bây giờ là lúc mấy đứa nhỏ phải được đến trường. Chương 9: Cap Garland Laura ngủ không ngon giấc. Dường như suốt đêm cô biết rõ thị trấn đang bao quát quanh mình và biết rõ sáng hôm sau cô phải tới trường. Người cô nặng chịch trong sự ngán ngẩm khi cô thức dậy và nghe thấy tiếng bước chân dưới đường phố cùng tiếng những người lạ. Thị trấn cũng đang thức giấc và những người chủ tiệm đang mở cửa hàng. Những bức vách nhà ngăn cách mọi người lạ ở phía ngoài. Nhưng Laura và Carrie vẫn bứt rứt vì sẽ phải ra khỏi nhà và chạm mặt với những người lạ. Phần Mary lại rất buồn vì không thể tới trường. Mẹ nói: - Nào, Laura, Carrie, chẳng có lí do gì để lo ngại hết. Mẹ đảm bảo là các con sẽ theo kịp lớp học. Các cô nhìn mẹ ngạc nhiên. Mẹ đã dạy các cô ở nhà rất nhiều và các cô biết chắc sẽ theo kịp lớp học. Các cô không hề lo ngại về điều này. Nhưng các cô chỉ nói: - Dạ, thưa mẹ! Các cô vội vã rửa chén đĩa, làm giường và Laura hối hả quét phòng. Rồi các cô chọn thật kĩ những chiếc áo len mùa đông, chải và kết bím tóc một cách lo lắng. Các cô buộc bím tóc bằng những dải băng dành cho ngày chủ nhật rồi dùng các móc thép để kéo cài khuy giầy. Mẹ kêu: - Nhanh lên, các con! Hơn tám giờ rồi! Đúng lúc đó, Carrie giật đứt rời một chiếc khuy giầy. Chiếc khuy rớt xuống, lăn tròn và lọt vào kẽ ván. Carrie hổn hển: - Ôi, mất rồi! Cô khổ sở thất vọng. Cô không thể đi ra cho những người lạ nhìn thấy một lỗ hổng giữa hàng khuy giầy màu đen. Laura nói: - Mình phải gỡ một khuy giầy của Mary để gắn vào đó. Nhưng mẹ đã nghe thấy tiếng khuy giầy rớt xuống tầng dưới. Mẹ tìm thấy và khâu dính lại như cũ trên giầy của Carrie. Cuối cùng các cô đã sẵn sàng. Mẹ mỉm cười, nói: - Các con xinh lắm. Các cô khoác áo, trùm khăn và cầm sách lên. Cả hai cùng chào tạm biệt mẹ và Mary rời bước ra ngoài phố Main Street. Các cửa tiệm đều đã mở cửa. Ông Fuller và ông Bradley đã quét xong đang chống cây chổi đứng ngắm cảnh buổi sáng. Carrie níu chặt bàn tay Laura và Laura biết Carrie còn đang khiếp hãi hơn cô nhiều. Cố giữ can đảm, cả hai băng qua phố Main Street rồi bước đều dọc theo phố Second Street. Nắng đang chiếu sáng. Một đám cỏ dại úa khô in bóng bên những dấu bánh xe. Bóng của các cô dài lêu đêu ngả về phía trước phủ trên các dấu chân dọc lối đi. Có vẻ như con đường dài thật dài mới đưa tới nơi chỗ ngôi trường đứng trơ vơ giữa một khu đồng trống. Trước ngôi trường, đám con trai đang chơi banh và có hai cô gái lạ đứng trên bực trước cửa vào lớp. Laura và Carrie đi tới mỗi lúc một gần hơn. Laura thấy khó thở vì họng như nghẹn lại. Một cô gái lạ khá cao và ngăm ngăm. Mái tóc đen mướt bện xoắn lại thành một nút thắt thật chặt ở sau gáy. Chiếc áo màu xanh chàm của cô dài hơn chiếc áo màu nâu của Laura. Rồi đột nhiên, Laura thấy một người trong đám con trai nhảy lao lên cao đón bắt trái banh. Cậu ta cao lớn, lanh lẹ và cử động thoăn thoắt như một con mèo. Mái tóc vàng của cậu ta gần như bạc trắng trong ánh nắng và cặp mắt cậu ta màu xanh lơ. Cặp mắt đó mở lớn nhìn Laura. Rồi một nụ cười đột ngột khiến khắp khuôn mặt cậu ta rạng rỡ hẳn lên và cậu ta ném thẳng trái banh về phía cô. Cô thấy trái banh uốn vòng trên không lao tới cực nhanh. Trước khi kịp suy nghĩ cô đã nhảy bật lên và chộp lấy trái banh. Tiếng hét lớn vang lên từ phía đám con trai. Cả đám đều la: - Ê, Cap! Con gái không chơi banh! Cap đáp: - Tớ không ngờ cô ấy chộp được. Laura nói: - Tôi không thích chơi banh. Cap la lớn: - Cô ta không thua đứa nào trong đám mình. Cậu nói với Laura: - Tới chơi đi. Rồi nói thêm với mấy cô khác: - Tới chơi đi, Mary Power, Minnie! Tới chơi cùng bọn này đi! Nhưng Laura đã cúi lượm mấy cuốn sách bị cô bỏ rơi và lại nắm lấy bàn tay Carrie. Cả hai đi về phía mấy cô gái ở trước cửa trường. Dĩ nhiên mấy cô gái này không chơi chung với đám con trai. Cô không biết tại sao cô lại làm như thế và cảm thấy mắc cỡ, sợ mấy cô gái kia sẽ nghĩ không hay về mình. Cô gái da ngăm nói: - Tớ là Mary Power, còn đây là Minnie Johnson. Minnie Johnson mảnh mai, da trắng hơi tái và đầy tàn nhang. Laura nói: - Tớ là Laura Ingalls, còn đây là em gái tớ, Carrie. Ánh mắt Mary Power tươi hẳn lên. Mắt cô màu xanh sậm viền quanh bằng một lớp lông mi đen dài. Laura mỉm cười đáp lại và cô bỗng nghĩ ngay là ngày mai cô sẽ bện tóc lại và xin mẹ nới cho áo của cô dài ngang chiếc áo của Mary. Mary Power nói: - Người vừa ném trái banh về phía bạn là Cap Garland. Không có nhiều thì giờ để nói thêm về điều gì vì cô giáo đã xuất hiện trước cửa với chiếc chuông trong tay và tất cả vào lớp. Các cô treo áo khoác, mũ trùm lên một hàng đinh trong lối vào lớp có một cây chổi dựng sát góc gần thau nước đặt trên ghế dài. Rồi các cô bước vào lớp học. Laura lại cảm thấy rụt rè vì phòng quá mới và sáng chưng. Carrie đứng nép sát vào cạnh cô. Tất cả bàn đều đóng theo kiểu riêng bằng gỗ đánh vẹc ni bóng như gương. Chân bàn bằng sắt đen và chỗ ngồi hơi uốn lên một chút với phần tựa lưng hơi cong lên là phần ngăn với những chiếc bàn ở phía sau. Trên mặt bàn có những rãnh hẹp để giữ viết chì và phía dưới là những ngăn để cất bảng và sách. Có mười hai chiếc bàn trong mỗi hàng kê dọc theo hai bên phòng. Một lò sưởi lớn đặt ở giữa phòng giữa bốn chiếc bàn kê thêm ở phía trước và bốn chiếc bàn kê thêm ở phía sau. Gần như mọi ghế ngồi đều trống. Phía phòng dành cho con gái thì Mary Power và Minnie Johnson ngồi chung trên một chiếc ghế ở phía sau. Cap Garland và ba cậu học trò lớn khác ngồi ở những hàng ghế sau cùng bên phía phòng dành cho con trai. Những ghế phía trước chỉ lơ thơ mấy cô cậu bé. Lúc này, tất cả đã tới trường được một tuần lễ và đều thuộc chỗ ngồi của mình, ngoại trừ Laura và Carrie. Cô giáo nói với các cô: - Mấy em là trò mới, phải không? Cô giáo là một phụ nữ thanh lịch tươi tắn với những lọn tóc uốn cong. Chiếc áo đen của cô cài dọc phía trước một hàng nút lấp lánh. Laura nói tên họ của hai chị em xong thì cô giáo nói: - Cô là FlorenceGarland. Gia đình cô sống trong ngôi nhà nằm sau nhà của ba mấy em, trên đường phố kế đó. Vậy ra Cap Garland là em trai của cô giáo và họ sống trong ngôi nhà mới dựng trên đồng cỏ phía bên kia chuồng ngựa. Cô giáo hỏi: - Các em đã biết bài tập đọc thứ tư chưa? Laura đáp: - Dạ biết, thưa cô. Thực ra cô đã thuộc long từng lời nói của bài đó. Cô giáo quyết định: - Vậy thì thử coi các em sẽ làm được những gì với bài thứ năm. Và cô bảo Laura ngồi vào chính giữa hàng ghế sau phía bên kia Mary Power. Carrie được xếp cho ngồi ở phía trước gần các cô bé. Rồi cô giáo đi lên bàn giấy và gõ cây thước lên mặt bàn. Cô mở cuốn Kinh thánh và nói: - Cả lớp chú ý. Sáng nay mình sẽ đọc đoạn Thánh thi thứ hai mươi ba. Dĩ nhiên Laura đã thuộc làu các đoạn Thánh thi nhưng cô thích được nghe lại từng lời của đoạn thứ hai mươi ba từ câu “Chúa là người chăn dắt của tôi” cho tới câu “Tôi xin ở lại mãi mãi trong ngôi nhà của Chúa”. Rồi cô giáo gập cuốn Kinh thánh lại và tất cả học trò mở rộng sách trên bàn. Lớp học bắt đầu. Mỗi ngày Laura lại thích trường học hơn. Cô không ngồi chung ghế với ai nhưng vào giờ chơi hoặc nghỉ trưa, cô ngồi chung với Mary Power và Minnie Johnson. Sau buổi học, tất cả cùng đi bộ tới phố Main Street và tới cuối tuần đó thì các cô đều gặp nhau vào buổi sáng để cùng đi tới trường. Cap Garland đã nhiều lần đề nghị các cô cùng tham gia đánh banh với đám con trai vào giờ chơi nhưng các cô chỉ ngồi trong trường ngắm các cậu chơi banh qua cửa sổ. Cậu bé tóc đen, mắt nâu là Ben Woodworth sống ở ga xe lửa. Cha của cậu là người đàn ông bị bệnh mà bố đã xốc lên chuyến xe lửa cuối cùng vào năm trước “phương thuốc đồng cỏ” gần như thực sự điều trị được chứng đau phổi của ông ta nên ông ta lại tới miền tây để chữa chạy thêm. Hiện ông ta là nhân viên ở ga xe lửa. Cậu bé khác là Arthur Johnson. Cậu cũng mảnh dẻ như chị gái Minnie. Cap Garland mạnh nhất và lanh nhất. Từ phía trong cửa sổ, Laura cùng Mary, Minnie ngắm cậu ta liệng trái banh rồi phóng lên chộp lấy. Cậu ta không đẹp trai bằng Ben-tóc-đen, nhưng có một vẻ gì đó lôi cuốn. Cậu luôn tự nhiên với nụ cười giống như một tia sáng. Nó y hệt ánh mặt trời vụt lên lúc bình minh và đổi thay tất cả mọi thứ. Mary Power và Minnie đã đi học ở miền đông nhưng Laura bắt kịp cả hai một cách dễ dàng. Cap Garland cũng đã đi học từ miền đông nhưng ngay trong môn toán cũng không thắng nổi Laura. Mỗi đêm, sau bữa ăn tối, cô lấy sách và bảng ra đặt trên tấm trải bàn kẻ ô vuông màu đỏ dưới ánh đèn và cô học bài ngày hôm sau cùng với Mary. Cô đọc lớn các đề toán cho Mary tính trong đầu trong lúc cô làm trên tấm bảng viết. Cô đọc các bài sử và địa cho Mary cho tới khi cả hai trả lời được mọi câu hỏi. Nếu bố kiếm được đủ tiền để gửi Mary tới trường dành cho người khiếm thị, Mary hẳn sẵn sàng để đi. Mary nói: - Ngay cả khi chị không thể nào tới được trường thì chị cũng cố rang hết sức để học được thật nhiều. Mary, Laura và Carrie đều thích thú học tới nỗi tiếc là đã bị các ngày thứ bảy và chủ nhật cắt ngang. Các cô trông cho tới ngày thứ hai. Nhưng khi ngày thứ hai tới Laura lại cáu kỉnh với bộ đồ lót bằng fla-nen màu đỏ quá nóng và ngứa ngáy. Nó khiến cô ngứa ở lưng, ở cổ, ở cườm tay, ở bất kì nơi nào nó cuốn quanh như mắt cá chân, dưới vớ, ngang ống giầy. Bộ đồ lót đỏ gần như làm cô phát điên. Buổi trưa cô xin mẹ cho thay đồ nào mát hơn. Cô nói: - Con quá nóng nực với bộ đồ fla-nen đỏ rồi, mẹ! Mẹ đáp dịu giọng: - Mẹ biết là thời tiết đang ấm trở lại nhưng đây là thời điểm trong năm cần phải mặc đồ fla-nen và con sẽ bị nhiễm lạnh ngay nếu cởi nó ra. Laura quay lại trường một cách miễn cưỡng và ngồi vặn vẹo vì không được gãi. Cô mở rộng bài học địa lý trước mắt nhưng không học nổi. Cô cố chịu đựng cơn ngứa do lớp fla-nen gợi lên và chỉ muốn chạy về nhà để có thể cào gãi. Ánh nắng từ các ô cửa sổ phía tây chưa bao giờ bò đi chậm chạp như thế. Đột nhiên, ánh nắng bỗng biến mất. Nó vụt tắt giống như có ai đó thổi tắt mặt trời tựa hồ thổi tắt một chiếc đèn. Ngoài trời xám xịt, các ô kính cửa sổ xám xịt và cùng một lúc, một trận gió ùa vào trường học khua động các cánh cửa và làm rung chuyển các bức vách. Cô Garland đứng lên khỏi ghế. Một cô gái bé nhà Beardsley hét lên và Carrie trắng bệch. Laura nghĩ: - Đúng là cái cách đã xảy ra ở suối Plum vào dịp Giáng sinh mà bố bị mất tích. Cô giáo và tất cả đều nhìn qua các ô cửa sổ nhưng không còn thấy gì ngoài một màu xám xịt. Tất cả đều kinh hoàng. Rồi cô Garland nói: - Chỉ là một trận bão thôi, các em. Hãy tiếp tục bài học đi. Trận bữa cào quật trên các bức vách và gió gào thét, rên rỉ trong ống khói lò sưởi. Tất cả những cái đầu cúi xuống trong sách khi cô giáo nhắc tiếp tục học. Nhưng Laura cố nghĩ làm cách nào để trở về nhà. Trường học ở cách phố Main Street quá xa và không có thứ gì làm mốc chỉ đường. Hết thảy đám học sinh đều từ miền đông mới tới vào mùa hè. Tất cả chưa bao giờ thấy một trận bão tuyết trên đồng cỏ. Nhưng Laura và Carrie biết rõ nó thế nào. Đầu Carrie gục xuống ủ rũ trên cuốn sách để lộ ra phần gáy trắng bệch dưới các bím tóc mềm có vẻ nhỏ nhoi, tuyệt vọng và kinh hoàng. Tại trường chỉ có một lượng chất đốt nhỏ. Ban giám hiệu đang đặt mua than nhưng mới chỉ được giao một chuyến. Laura nghĩ là có thể chịu đựng qua cơn bão ở trong trường nhưng như thế thì sẽ phải đốt hết bàn ghế. Laura bỗng ngẩng đầu lên ngó chăm chăm vào cô giáo. Cô Garland đang cắn môi suy nghĩ. Cô không thể quyết định ngưng buổi học vì một cơn bão nhưng cơn bão đang làm cô hoảng sợ. Laura nghĩ: - Mình phải nói với cô về điều cần làm. Nhưng cô không nghĩ ra được cần làm gì. Rời trường học lúc này thì cũng không an toàn y hệt ngồi lại trường. Ngay cả đốt cháy hết mười hai chiếc bàn cũng chưa chắc đủ hơi ấm để chịu cho tới khi dứt bão. Cô nghĩ tới mớ khăn áo choàng của cô và Carrie trong hành lang lớp học. Dù xảy ra điều gì thì cô cũng phải tìm cách nào đó giữ cho Carrie được ấm. Hơi lạnh rõ ràng đã kéo tới. Trong hành lang vang lên tiếng đạp chân thình thịch. Mọi học trò đều chộn rộn nhìn ra cửa. Cửa mở ra và một người đàn ông loạng choạng bước vào. Ông ta quấn kín trong áo khoác, mũ, khắn quấn và tất cả đều bám cứng tuyết trắng xóa. Không thể nhận ra ông ta là ai cho tới khi ông ta lôi chiếc khăn quấn đã đông cứng ra. Ông ta nói với cô giáo: - Tôi tới để lo giúp cô. Đó là ông Foster, người chủ của một đàn bò và đã bỏ trại để tới trú đông trong thị trấn tại nhà của gia đình Sherwoods, bên kia dãy phố có ngôi nhà của cô giáo. Cô Garland cảm ơn ông ta. Cô gõ chiếc thước lên mắt bàn và nói: - - Chú ý! Buổi học chấm dứt! Các em ra mang hết đồ ấm ngoài hành lang vào đặt gần lò sưởi. Laura nói với Carrie: - Em cứ ngồi đây. Chị sẽ mang đồ của em vào. Hành lang lạnh cóng. Tuyết bay vào giữa các khe ván xù xì trên vách. Laura tê buốt trước khi kéo được áo khoác và mũ trùm của cô khỏi đinh móc. Cô tìm đồ của Carrie và ôm vào trong lớp. Tất cả xúm quanh lò sưởi choàng áo buộc chặt lại. Cap Garland không còn cười nữa. Cặp mắt xanh lơ của cậu ta nheo lại, miệng dẩu ra trong lúc ông Foster nói. Laura quấn khăn thật chặt trên khuôn mặt trắng bệch của Carrie và buộc kỹ bao tay cho em. Cô nói với Carrie: - Đừng lo. Mình sẽ ổn hết. Ông Foster cầm cánh tay cô giáo nói: - Bây giờ tất cả đi theo tôi. Nhớ đi sát vào nhau. Ông ta mở cửa dẫm đường cùng với cô Garland. Mary Power và Minnie dắt theo hai cô bé nhà Beardsley. Ben và Arthur theo sát các cô rồi tới Laura cùng Carrie bước ra giữa vùng tuyết mù mịt. Cap đóng cửa lại ở phía sau. Tất cả bước đi một cách khó khăn giữa sức gió va đập, quật ngã. Ngôi trường đã biến mất. Không ai nhìn thấy gì ngoài màn trắng quay cuồng và tuyết cùng những chiếc bóng thấp thoáng. Laura cảm thấy nghẹt thở. Những mảnh tuyết nhỏ đóng thành băng quay cuồng đập vào mắt cô và cắt ngang hơi thở của cô. Váy của cô phần phật quanh người và quấn chặt lại đến nỗi cô không bước nổi rồi lại quay cuồng như nhấc bổng đầu gối cô lên. Đột nhiên, cô bị trượt chân, vội níu chặt Carrie. Carrie có gượng cưỡng lại rồi lảo đảo bị gió giật đi và lập tức ném lại sát người cô. Laura nghĩ: - Mình không thể tiếp tục đi theo lối này. Nhưng tất cả đã bước đi. Một mình cô bối rối giữa gió đảo lộn và tuyết và không thể còn bước đi nổi nếu không có bàn tay của Carrie. Gió đập vào cô từ mọi hướng. Cô không thể nhìn, không thể thở, lại trượt chân ngã xuống. Rồi đột nhiên hình như cô được nhấc lên và Carrie đâm sầm vào cô. Cô cố suy nghĩ. Những người hẳn đang đi trước ở một chỗ nào đó. Cô cần đi nhanh hơn để bắt kịp họ nếu không chắc chắn cô và Carrie sẽ bị lạc. Nếu bị lạc trên đồng cỏ, hai chị em sẽ chết cóng. Nhưng cũng có thể tất cả đã bị lạc. Phố Main Street chỉ là hai dãy nhà chạy dài. Tất cả chỉ đi một đoạn đường ngắn về phía bắc hay phía nam là sẽ đi trệch khỏi dãy nhà gồm các tiệm buôn và phía bên kia là đồng cỏ hoang vắng kéo dài nhiều dặm. Laura thấy họ đã đi đủ xa để tới phố Main Street, nhưng cô không thể nhìn thấy gì. Rồi bão mỏng hơn một chút. Cô nhìn thấy lờ mờ những chiếc bóng ở phía trước. Đó là những vệt xám sậm hơn trong màn trắng xám đang quay cuồng. Cô cố nhấn bước nhanh hơn cùng với Carrie cho tới lúc đụng vào chiếc áo của cô Garland. Tất cả đang dừng lại. Do quấn kín dưới mũ áo nên tất cả y hệt những bó đồ dựng ssa1tnhau giữa màn sương mù đang xoay tít. Cô giáo và ông Foster cố nói chuyện nhưng tiếng gió át hẳn tiếng hét của họ khiến không ai nghe được người kia nói gì. Lúc đó Laura bắt đầu biết cô lạnh như thế nào. Bàn tay bao kín của cô tê cóng tới mức không còn nhận ra bàn tay của Carrie. Toàn thân cô run bần bật, một cơn run rẩy mà cô không thể nào kìm lại nổi. Chỉ ở chính giữa người cô là còn một khoảng cứng ngắt nhức nhối và cơn run rẩy cứ co rút khoảng cứng này lại chặt hơn khiến mức đau buốt tăng thêm. Cô bỗng hoảng sợ nghĩ tới Carrie. Hơi lạnh quá gắt sợ Carrie khó đứng vững nổi. Carrie nhỏ quá, lại mỏng manh, yếu ớt nên không thể chịu đựng lâu trong mức lạnh như thế. Tất cả cần tới một chỗ trú ẩn gấp. Ông Foster và cô Garland lại bắt đầu đi, hơi quẹo về bên trái. Cả đám cựa quậy và vội vã băng theo. Laura nắm Carrie bằng bàn tay kia để thọc bàn tay bị tê cóng vào túi cho giảm bớt phần nào và lúc đó, cô chợt nhìn thấy một chiếc bóng đi sát bên cạnh. Cô nhận ra đó là Cap Garland. Cậu ta không bước theo những người khác về phía bên trái. Hai bàn tay thọc sâu trong túi, đầu cúi thấp, cậu ta mải miết bước thẳng vào cơn bão. Một đợt gió dữ dằn cuốn tuyết bay lên mù mịt và cậu ta biến mất. Laura không dám bước theo cậu ta. Cô phải chăm lo cho Carrie và cô giáo đã dặn không được tách ra. Cô tin chắc là Cap Garland đang đi đúng hướng về phố Main Street, nhưng cô có thể đã lầm và cô không thể đưa Carrie rời xa những người khác. Cô nắm chặt Carrie vội vã bước theo ông Foster và cô giáo. Ngực cô đau nhức và mắt căng ra trong những vụn tuyết như cắt quật tới. Carrie phấn đấu một cách can đảm dù trượt té, kiệt sức vẫn chống vững chân tiếp tục bước tới. Chỉ thỉnh thoảng khi những cuộn tuyết xoáy mỏng hơn, các cô mới thoáng nhìn thấy những chiếc bóng lờ mờ cử động ở phía trước. Laura cảm thấy tất cả đang đi lạc hướng. Cô không biết tại sao lại cảm thấy vậy. Không ai nhìn thấy gì. Cũng không có gì làm dấu- không có mặt trời, không có nền trời, không có hướng gió trong các đợt gió thổi dữ dằn từ mọi phía. Không có gì ngoài sự quay cuồng chóng mặt và hơi lạnh. Giống như hơi lạnh, tiếng gió gào và tuyết va đập, phủ kín tới nghẹn thở cùng với những cố gắng và sự nhức buốt kéo dài triền mien. Bố từng sống qua ba ngày đêm trong một trận bão tuyết ở bên bờ suối Plum. Nhưng ở đây không có bờ suối. Ở đây không có gì ngoài đồng cỏ trơ trụi. Bố đã kể về những con cừu trong một trận bão tuyết cùng chụm lại dưới tuyết. Một số con nhờ thế đã sống sót. Carrie đã quá mệt không còn đi xa hơn được nhưng cũng quá nặng nếu Laura muốn cõng em. Các cô chỉ cố lết xa thâm được chừng nào hay chừng đó. Và rồi… Rồi ngay giữa màn trắng mù mịt có một caí gì đó va vào cô. Cú va đập mạnh vào vai rồi cả vào người cô. Cô đu đưa bàn chân và đụng vào một vật gì thật cứng. Vật đó cao, chắc Laura một góc nhô ra của hai bức vách. Bàn tay cô cảm thấy thế rồi mắt cô nhận ra. Cô đã va phải một tòa nhà cao nào đó. Cô cố vận hết sức kêu lớn: - Ở đây! Tới đây! Ở đây có nhà! Gió gào hú xung quanh ngôi nhà khiến thoạt đầu không ai nghe thấy tiếng cô. Cô lôi những tảng băng đóng cứng trên chỗ khăn quấn ở trước miệng và hét lớn hơn trong bão táp mù mịt. Cuối cùng, cô nhìn thấy một chiếc bóng, rồi hai chiếc bóng mỏng hơn bức vách mờ tối mà cô đang bám vào – đó là ông Foster và cô giáo. Sau đó là những chiếc bóng khác vội vã kéo tới vây quanh cô. Không một ai nói gì. Tất cả gom lại và đứng tại đó. Mary Power và Minnie với các cô bé nhà Beardsley, rồi Arthur Johnson và Ben Woodworth với mấy cậu bé Wilmarth. Chỉ có một mình Cap Garland là lạc mất. Tất cả lần theo một bên nhà cho tới khi đi tới cửa trước và nhận ra là nhà trọ Mead’s ở cuối đường phía bắc phố Main Street. Phía bên kia ngôi nhà không có gì, ngoài đường xe lửa bị vùi trong tuyết, nhà ga trơ trọi và đồng cỏ bát ngát. Nếu Laura chỉ đi vài bước nhích gần về phía những người khác thì tất cả đã lạc vào vùng đồng cỏ vô tận ở phía bắc thị trấn. Tất cả dừng lại một lúc bên những ô cửa rạng ánh đèn của nhà trọ. Phía trong nhà trọ yên tĩnh và ấm áp, nhưng bão tuyết tiếp tục tồi tệ hơn và tất cả còn phải lo về nhà. Phố Main Street sẽ dẫn tất cả về tới nơi ngoại trừ Ben Woodworth. Không có một ngôi nhà nào được xây cất ở giữa nhà trọ và ga xe lửa là nơi mà cậu sống. Thế là Ben vào nhà trọ nghỉ lại để chờ bão dứt. Cậu có đủ khả năng làm như thế vì cha cậu có việc làm thường xuyên. Minnie và Arthur Johnson dẫn mấy cậu bé nhà Wilmarth chỉ cần băng qua phố Main Street tới cửa hàng thực phẩm Wilmarth’s là nhà của cả hai ở ngay bên cạnh. Những người khác cặp át các tòa nhà đi xuôi phố Main Street. Họ đi qua quán rượu, qua cửa hàng thực phẩm gia súc Royal Wilder’s rồi qua tiệm tạp phẩm Barker’s. Kế đó là nhà trọ Beardsley, nơi mà các cô bé nhà Beardsley tới. Cuộc hành trình gần như đã chấm dứt. Họ qua tiệm đồ sắt Couse’s và quẹo sang phố Second Street tới tiệm đồ sắt Fuller’s. Lúc này Mary Power chỉ cần đi qua cửa hàng bán dược phẩm. Tiệm may của cha cô đứng kề bên đó. Laura, Carrie cùng cô giáo và ông Foster phải đi ngang phố Main Street. Con phố rộng dễ sợ. Nhưng nếu họ không nhận ra ngôi nhà của bố thì còn có những đống cỏ và chuồng ngựa chặn giữa họ và đồng cỏ hoang vắng. Họ không đi lạc. Một ô cửa sổ có ánh đèn hắt ra mờ mờ và ông Foster nhìn thấy trước khi chạy tới nơi. Ông đi quanh góc nhà và cùng với cô giáo lần theo dây phơi đồ, tới các đống cỏ, tới chuồng ngựa và tới nhà Garland. Laura và Carrie đã bình yên ở khung cửa trước nhà. Bàn tay Laura sờ soạng tìm nắm đấm cửa đã cứng ngắt. Bố mở cửa và giúp các cô vào nhà. Bố đã mặc áo khoác, choàng mũ và quấn khăn. Bố đặt cây đèn bão đã được thắp sáng xuống và thả rơi cuộn dây thừng. Bố nói: - Bố đang chuẩn bị đi kiếm các con. Bước vào căn nhà yên tĩnh, Laura và Carrie cùng đứng thở thật sâu. Gió không còn lôi kéo, xô đẩy các cô nữa. Mắt các cô vẫn bị lóa, nhưng những vụn tuyết đóng thành băng xoay tít không còn va đập vào mắt. Laura cảm thấy bàn tay của mẹ đang gỡ chiếc khăn quàng đóng băng cho cô và cô lên tiếng: - Carrie có ổn không? Bố nói: - Không sao, Carrie ổn rồi. Mẹ nhấc chiếc mũ trùm của Laura, cởi nút áo khoác cho cô và giúp cô kéo các ống tay áo. Mẹ nói: - Các thứ đều đóng băng đầy hết. Băng vỡ lách cách khi mẹ giũ và những hạt trắng nhỏ rắc đầy nền nhà. Mẹ nói: - Thôi, mọi thứ đã kết thúc tốt đẹp. Các con đã thoát khỏi bị chết cóng. Tới gần lò sưởi cho ấm đi. Laura cử động khó khăn nhưng cô khom xuống dùng mấy ngón tay cạy mảnh tuyết do gió lùa vào giữa lớp vớ len và giầy đã đóng thành băng. Rồi cô loạng choạng bước về phía lò bếp. Mary nói trong lúc đứng lên khỏi chiếc ghế đu: - Ngồi với chỗ của chị đi. Chỗ này ấm nhất. Laura ngồi xuống một cách cực nhọc. Cô cảm thấy tê dại và đờ đẫn. Đưa tay dụi mắt, cô nhìn thấy một vết màu hồng trên bàn tay. Mí mắt cô chảy máu do những vụn tuyết cào xát. Các cạnh của chiếc lò sưởi than đều nóng đỏ và cô cảm thấy hơi nóng ở trên da nhưng trong người cô vẫn thấy lạnh. Hơi lửa nóng không thể đụng tới cái lạnh đó. Bố ngồi sát lò bếp giữ Carrie trên đầu gối. Bố tháo giầy cho cô để biết chắc bàn chân cô không bị cóng và giúp cô gỡ chiếc khăn san. Chiếc khăn run rẩy theo nhịp run rẩy của Carrie. Cô nói: - Con không thấy ấm, bố. Mẹ nói: - Các con sẽ hết lạnh ngay. Mẹ có một món uống nóng cho các con liền bây giờ. Mẹ chạy vội vào bếp và mang ra cho mỗi cô một ly trà gừng đang bốc hơi. Mary nói: - Trời, mùi thơm quá! Grace nghiêng người trên đầu gối Laura nhìn thật lâu vào chiếc ly cho tới khi Laura cho bé một hớp. Bố nói: - Anh không hiểu tại sao lại không có đủ nước để uống một lượt. - Có lẽ có đó. Mẹ nói và lại đi vào trong bếp. Thật kì diệu được ngồi tại đó, bình an trong nhà mình, cách biệt với gió bão và hơi lạnh. Laura nghĩ điều này có phần nào giống như ở Thiên đàng, nơi mà kẻ rã rời mệt mỏi được nghỉ ngơi. Cô không thể hình dung Thiên đàng kì diệu hơn nơi cô đang có mặt với hơi ấm từ từ tăng lên và sự thoải mái được nhấm nháp vị nước trà gừng nóng hổi, ngọt ngào, được nhìn mẹ bên cạnh bé Grace cùng với bố, với Carrie và Mary đều đang thưởng thức những ly trà gừng của mình trong lúc bão táp gào hú phía ngoài mà không thể đụng nổi họ. Laura lẩm bẩm như đang ngái ngủ: - Con mừng là bố không phải đi kiếm chúng con, bố. Con mong bố an toàn. Carrie chúi sát hơn vào bố, nói: - Con cũng thế. Con vẫn nhớ dịp Giáng sinh ở suối Plum, khi bố không về nhà được. Bố nói một cách chắc chắn: - Bố cũng vẫn làm. Khi Cap Garland tới cửa hàng Fuller’s và nói rằng tất cả các con đang đi về phía đồng cỏ thì các con có thể đánh cá là bố đã tìm đến ngay với một sợi dây và một chiếc đèn bão. Laura choàng thức nói: - Con mừng là tụi con đã về tới đúng lúc. Bố nói: - Ừ, mọi người đã lập một nhóm lo đi kiếm các con mặc dù việc tìm kiếm giống như săn lùng cây kim trong đống cỏ. Mẹ lên tiếng: - Tốt hơn là quên chuyện đó đi. Bố tiếp tục: - Đúng, vẫn phải làm cái điều tốt nhất có thể làm. Cap Garland là một thằng bé tinh khôn. Mẹ nói: - Thôi, bây giờ thì Laura và Carrie lên giường nằm nghỉ ngơi đi. Một giấc ngủ ngon là điều các con đang cần. Chương 10: Cơn Bão Tuyết Ba Ngày Buổi sáng, khi mở mắt ra, Laura thấy tất cả những chiếc đinh gấp đóng vào mái nhà ở phía trên đều phủ trắng sương giá. Sương giá phủ đầy trên từng ô kính cửa sổ. Ánh sáng ban ngày mờ nhạt im lìm trong những bức vách kiên cố ngăn cách cơn bão đang gầm rú ở bên ngoài. Carrie cũng thức giấc. Cô lén nhìn Laura một cách lo lắng từ dưới tấm mền phủ dưới chiếc giường kê gần ống khói lò sưởi là giường của cô và bé Grace. Cô thổi hơi ra để coi mức lạnh ra sao. Dù nằm sát bên ống khói lò sưởi, hơi thở của cô cũng đóng thành một lớp màu trắng trong không khí. Nhưng ngôi nhà dựng hoàn hảo tới mức không một mảnh tuyết nào có thể lọt qua vách hay qua mái. Laura nằm im ê ẩm và Carrie cũng vậy. Nhưng sáng rồi và các cô phải trở dậy. Trượt ra khỏi giường bước vào cái lạnh khiến hụt hơi, Laura chộp vớ, giầy, áo và chạy vội vã ra đầu cầu thang. Cô lên tiếng trong lúc thầm cảm ơn bộ đồ fla-nen dài màu đỏ ấm áp dưới cái áo dài ngủ fla-nen. - Mẹ, tụi con thay đồ ở dưới đó có được không? Mẹ đáp: - Được, bố đang ở chuồng ngựa. Lò bếp sưởi ấm khắp nhà bếp và ánh sáng đèn giống như làm độ ấm tăng hơn. Laura mặc đồ lót, áo ngoài, mang giầy. Rồi cô mang quần áo của mấy chị em xuống hơ ấm và quấn Grace trong mền bồng xuống tầng dưới. Tất cả đều quần áo chỉnh tề và rửa ráy xong, khi bố quay vào với một xô sữa đông gần một nửa. Sau khi lấy lại hơi thở và rũ hết sương giá và tuyết trên bộ râu. Bố nói: - Rồi, mùa đông khắc nghiệt đã bắt đầu. Mẹ nói: - Sao vậy, Charles! Giống như anh không lo ngại gì về thời tiết mùa đông. Bố đáp: - Anh không lo ngại. Nhưng sắp tới một mùa đông khắc nghiệt. Mẹ nói: - Cũng đúng thôi, nếu nó tới thì mình đã ở đây, trong thị trấn là nơi mà mình có thể kiếm mọi thứ mình cần ở trong các cửa hàng ngay cả khi có bão. Cho tới khi dứt bão sẽ không có chuyện tới trường. Thế là sau khi làm xong mọi việc, Laura cùng Carrie, Mary ngồi học bài và sau đó chăm chú khâu vá trong lúc mẹ đọc sách cho các cô nghe. Khi ngẩng lên nhìn và nghe ngóng, mẹ nói: - Nghe âm thanh giống như một trận bão tuyết ba ngày bình thường. Laura nói: - Tuần này không có chuyện đến trường nữa. Cô tự hỏi không biết Mary và Minnie đang làm gì. Phòng trước ấm đến nỗi một phần sương gía trên cửa sổ tan ra biến thành băng. Khi cô phà hơi lên đó để dọn sạch thành một lỗ ngó ra, cô nhìn thấy qua kính cửa một lớp tuyết trắng xoay tít. Cô không thể tìm nổi cửa hàng đồ sắt Fuller’s nằm ở ngay bên kia phố, nơi bố đã ngồi tới bên lò sưởi để trò chuyện với những người đàn ông khác. Nhích về phía trên đầu phố, qua khỏi cửa hàng đồ sắt Couse’s và nhà trọ Beardsley, tiệm tạp phẩm Barker’s, cửa hàng thức ăn gia súc Royal Wilder’s tối tăm và lạnh lẽo. Không có ai tới mua thực phẩm gia súc trong cơn bão đó nên Royal không nhóm lò sưởi. Nhưng ở phòng sau, ở chỗ của anh ta và Almanzo lại rất ấm áp và đầy đủ. Almanzo đang nướng bánh kép. Royal đồng ý là ngay cả má cũng không qua nổi Almanzo trong việc làm bánh kép. Nhớ lại khi ở bang York lúc cả hai còn là những cậu bé và sau này, lúc ở trong khu nông trại lớn của ba ở Minnesota, cả hai không bao giờ nghĩ đến nấu nướng vì đó là việc của đàn bà. Nhưng từ khi cả hai tới miền tây nhận phần đất được cấp phát thì họ bắt buộc phải nấu nướng để khỏi bị chết đói. Almanzo phải lo bếp núc vì cậu khéo tay trong mọi thứ và cũng vì cậu nhỏ hơn còn Royal vẫn có ý nghĩ mình là chủ nhân. Khi tới miền tây, Almanzo tròn mười chín tuổi. Nhưng đó là một điều bí mật vì cậu đã được cấp đất lập trại và theo luật định thì chỉ những người từ hai mốt tuổi mới có quyền lợi đó. Almanzo không cho là mình đã vi phạm pháp luật vì cậu biết cậu không lừa gạt chính quyền. Thêm nữa, bất kì ai biết cậu mới mười chín tuổi cũng có quyền tước phần đất đã cấp cho cậu. Almanzo nhìn sự việc theo cách nhìn sau: Chính phủ muốn có sự định cư ở vùng đất này nên sẽ cấp đất lập trại cho bất kì ai đủ sức mạnh cơ bắp và trí não để tới đây khai phá và chịu gắn bó tới cùng với công việc. Nhưng các nhà chính khách ở xa mãi tận Washington lại không hiểu biết về những người định cư nên phải đặt ra các luật lệ và một trong các luật lệ đó qui định rằng người chủ trại phải ít nhất hai mươi mốt tuổi. Không có qui định nào được tuân theo khi người ta có ý làm trái. Almanzo biết có những người kiếm rất nhiều tiền nhờ lập các hồ sơ xin cấp đất phù hợp hoàn toàn với luật định rồi sang đất lại cho những người giàu có. Khắp nơi đều có những người ăn cắp đất đai như thế nhờ dựa vào tất cả các điều qui định của pháp luật. Almanzo nghĩ rằng trong tất cả các qui định về cấp phát đất đai thì điều điên rồ nhất là qui định về mức tuổi. Ai cũng biết rằng không có hai người hoàn toàn giống nhau. Nhưng người ta vẫn có những số chuẩn để đo vải, đo khoảng cách, nhưng không thể gộp chung mọi người lại và đo họ bằng các qui định. Trí não và tính cách không phụ thuộc vào bất kì thứ gì ngoại trừ bản thân mỗi con người. Có những người già tới sáu chục tuổi mà vẫn không có khả năng xét đoán trong khi người khác lại xét đoán tốt lúc mới mười sáu tuổi. Và Almanzo cho rằng cậu cũng có đủ những điều phải có của một người hai mươi mốt tuổi. Cha của Almanzo cũng nghĩ như thế. Một người cha có quyền giữ con trai ở lại làm việc cho mình tới khi đứa con trai tròn hai mươi mốt tuổi. Nhưng Almanzo lại cho các con của ông ra đời sớm hơn để được rèn luyện tốt. Almanzo đã học được cách dành dụm tiền bạc từ trước khi mười tuổi và đã làm mọi công việc nông trại của một người đàn ông từ khi cậu mới chin tuổi. Khi cậu mười bảy tuổi, cha cậu đã đánh giá cậu là một người trưởng thành và dành cho cậu trọn quyền sử dụng thời giờ của mình. Almanzo đã làm việc lấy số tiền công mỗi ngày năm mươi xu rồi để dành tiền mua hạt giống và dụng cụ. Cậu đã trồng lúa trên các phần đất được chia ở miền tây Minnesota và đã thu một mùa vụ tốt. Cậu cho rằng cậu đã là một người định cư thích hợp mà chính phủ cần và vấn đề tuổi tác của cậu chẳng là gì cả. Vì thế cậu đã nói với viên chức lo về ruộng đất: - Ông có thể ghi cho tôi hai mươi mốt tuổi. Và viên chức nọ nháy mắt với cậu và ghi như thế. Lúc này, Almanzo đã được cấp đất lập trại và mang từ Minnesota về đủ số hạt giống cho năm tới. Nếu cây có thể gieo những hạt giống đó trên các đồng cỏ nay và thu các vụ mùa tốt thì chỉ bốn năm nữa cậu đã có nông trại riêng. Cậu đang làm bánh kép không phải do Royal ra lệnh cho cậu mà là do Royal không thể làm nổi những chiếc bánh kép ngon lành và Almanzo rất thích những chiếc bánh làm bằng bột mì xốp nhẹ với thật nhiều mật mía. Royal nói: - Chà! Nghe kìa! Cả hai chưa từng nghe thấy gì giống như trận bão tuyết này. Almanzo nói: - Ông già da đỏ kia biết rõ ông ta nói về điều gì. Nếu mình sống suốt bảy tháng trong… Ba chiếc bánh kép trên vỉ nướng đang nổi phồng lên những lỗ nhỏ gần các mép giòn. Cậu lật nhanh mấy chiếc bánh và ngắm những cạnh màu nâu ở chính giữa. Mùi thơm của bánh hòa trộn với mùi thịt heo ướp muối nướng và mùi cà phê đang sôi. Căn phòng ấm áp và cây đèn với miếng phản quang bằng thiếc treo trên một đinh móc sáng trưng. Những chiếc yên và hàm thiếc ngựa lủng lẳng trên các vách ván thô nhám. Chiếc giường ngủ kê trong một góc và bàn ăn được kéo tới trước lò bếp để Almanzo có thể đặt bánh kép lên những chiếc đĩa sứ màu trắng mà không cần phải bước thêm một bước nào. Royal nói: - Trận bão này không thể kéo dài bảy tháng được. Đúng là nực cười. Mình lại chắc chắn là có những lời thần chú nào đó về thời tiết. Almanzo đáp một cách ung dung: - Mọi điều có thể xảy đến và phần đông thường là thế. Cậu lướt lưỡi dao dưới mép của mấy chiếc bánh. Bánh đã chín và cậu hất chúng vào trong đĩa của Royal rồi tra mỡ trên vỉ nướng bằng lớp da heo ướp muối. Royal tưới mật mía lên bánh, nói: - Có một điều không thể xảy ra. Đó chính là mình không thể tiếp tục ở đây cho tới mùa xuân mà không có xe lửa chạy. Almanzo trút thêm lên vỉ nướng đang xèo xèo ba viên bột nhồi từ bình đựng bột nhồi. Cậu uể oải tựa vào vách ngăn cạnh ống khói lò bếp chờ cho những chiếc bánh kép phồng lên. Cậu nói: - Mình nên tính tới việc kéo thêm cỏ khô. Mình phải có nhiều cỏ khô làm thức ăn cho bò ngựa. Royal nói trong khi ăn: - Ồ, họ sẽ thông đường xe lửa. Nếu họ không chịu làm thì mình sẽ phải đả phá việc đó. Than dầu lửa, bột và đường như thế nào? Về vấn đề này, kho thực phẩm dự trữ của mình kéo dài được bao lâu nếu cả thị trấn dồn đống lại đây để mua? Almanzo đứng thẳng lên. Cậu kêu lớn: - Này! Chẳng có ai tới lấy hạt giống của em hết! Không có vấn đề gì xảy ra. Royal nói: - Sẽ không có điều gì xảy ra. Ai mà nghe nổi là có những trận bão kéo dài bảy tháng? Đường xe lửa sẽ lại thông thôi. Almanzo đảo mấy chiếc bánh, nói: - Những thứ này tốt hơn. Cậu nghĩ tới ông già da đỏ và nhìn vào những túi hạt giống. Tất cả chất đống ở cuối phòng và có vài túi lăn lóc dưới gầm giường. Hạt giống không thuộc về Royal mà thuộc về cậu. Cậu đã trồng ở Minnesota. Cậu đã cày xới đất, bừa và gieo hạt. Cậu đã cắt lúa, bó, đập, đóng bao và lôi nó theo hàng trăm dặm, trên thùng xe. Nếu những trận bão như trận bão này cản trở xe lửa đến nỗi không có thêm hạt giống từ miền đông tới cho tới sau thời gian gieo hạt thì mùa vụ năm tới của cậu, đất đai của cậu tùy thuộc vào số hạt giống đã có này để gieo. Cậu sẽ không bán với bất kể giá tiền nào. Hạt giống phải được giữ lại cho mùa vụ. Không thể gieo những đồng đô-la bằng bạc. Cậu nói: - Em sẽ không bán quá một đấu hạt giống. Royal đáp: - Tốt thôi, tốt thôi, không có ai làm phiền những hạt giống của em đâu. Bao nhiêu chiếc bánh rồi? Almanzo vừa đặt chiếc bánh vào đĩa của Royal vừa nói: - Đây là chiếc bánh thứ hai mươi mốt. Royal hỏi: - Em đã ăn bao nhiêu chiếc trong lúc anh lo công việc? Almanzo cười: - Em không đếm. Nhưng, trời đất ơi, em đang thấy ngon miệng, anh ăn no đi. Royal nói: - Cố kéo dài bữa ăn ra thì khỏi phải rửa chén đĩa. Chương 11: Bố Tới Volga Buổi trưa ngày thứ ba, cơn bão chấm dứt. Rồi gió ngưng và trên bầu trời quang, mặt trời tỏa sáng. Bố nói một cách vui vẻ: - Tốt, qua hết rồi. Bây giờ có lẽ mình sẽ có một câu thần chú về thời tiết tốt. Mẹ thở ra khoan khoái: - Thật dễ chịu lại được thấy mặt trời. Mary thêm: - Và nghe thấy sự yên tĩnh. Tất cả lại nghe thấy những âm thanh nhỏ của thị trấn. Thỉnh thoảng cánh cửa ra vào của một cửa hàng đóng sập lại. Ben và Arthur đi ngang qua nói chuyện và Cap Garland huýt gió đi xuống phố Second Street. m thanh quen thuộc duy nhất mà tất cả không nghe thấy là tiếng còi xe lửa. Lúc ăn tối, bố nói xe kẹt do tuyết dồn đống cắt đường gần Tracy. Bố nói: - Nhưng họ sẽ phải xúc hết trong vài ngày. Với thời tiết như thế này, ai quan tâm tới xe lửa? Sáng sớm hôm sau, bố băng qua phố tới cửa tiệm Fuller’s rồi vội vã trở về. Bố nói với mẹ là một số người sẽ dùng xe guồng từ nhà ga tới đón xe lửa ở Volga. Ông Foster đã nhận lời làm giúp công việc trong nhà nếu bố đi. Bố nói: - Anh ngồi một chỗ quá lâu rồi nên thích đi xa một chút. Mẹ đồng ý: - Anh đi đi, Charles. Nhưng mở đường xa như thế trong một ngày sao được? Bố nói: - Anh cũng thấy thế. Những chỗ kẹt từ đây tới Volga rất nhỏ và chỉ xa khoảng năm mươi dặm. Tình trạng căng nhất nằm ở phía đông Volga và các đoàn sửa chữa xe lửa đang làm việc tại đó. Nếu bọn anh dọn sạch phần đường còn lại cho họ thì phải trở về cùng chuyến xe lửa thường lệ vào ngày mốt. Bố mang thêm một đôi vớ len ngắn trong lúc nói chuyện. Chiếc khăn quàng rộng quấn quanh cổ bố bắt chéo trước ngực nhét khít vào dưới chiếc áo khoác cài nút kín. Bố cột chặt tai mũ trùm, mang đôi bao tay ấm nhất, rồi đặt chiếc xẻng lên vai, bố đi tới nhà ga. Gần tới giờ học, nhưng thay vì bước gấp tới trường thì Laura và Carrie dừng lại trong phố Second Street nhìn bố bước đi. Chiếc xe guồng nằm trên đường sắt cạnh nhà ga và mọi người đang leo lên, lúc bố đi tới. Tất cả đều gọi: - Sẵn sáng rồi, Ingalls! Tất cả lên xe! Gió từ hướng bắc đang thổi trên lớp tuyết rực rỡ đưa rõ từng tiếng nói tới chỗ Laura và Carrie. Bố đã leo lên xe. Vừa bám được vào tay guồng, bố đã hô: - Lên đường, các chàng trai! Các ông Fuller, Mead và Hinz đứng thành một hàng đối mặt với bố, ông Wilmarth và Royal Wilder. Tất cả những bàn tay mang bao tay đều đặt trên hai going gỗ dài bắt ngang giữa xe kẹp hai bên chiếc guồng bơm. Ông Fuller hô lớn: - Sẵn sàng, các chàng trai! Guồng tới! Ông Mead và ông Hinz cùng cúi thấp xuống theo ông Fuller đẩy tay guồng xuống. Rồi lúc đầu họ theo tay guồng vươn lên thì bố và hai người cùng phía cúi xuống đẩy tay guồng xuống rồi lên, lại xuống rồi lên, hai nhóm người cúi thấp rồi đứng thẳng tựa hồ luân phiên cúi đầu chào nhau và bánh của chiếc xe guồng bắt đầu nhích từ từ, rồi lăn nhanh theo đường sắt về phía Volga. Và khi xe đã chạy đều, bố bắt đầu hát và tất cả hòa theo: Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Không lôi gì lếch thếch phía sau Lên và xuống, lên và xuống, tất cả những chiếc lưng chuyển động đồng loạt theo nhịp hát và những chiếc bánh xe lăn nhẹ nhàng, nhanh hơn mãi. Chặn đường ta là một tay lầm lỗi Ta sẽ ngừng xe đón rước hẳn hoi Và vẫn không lôi theo thứ gì lếch thếch Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Ta guồng cỗ xe già… Bùm! Cỗ xe lao nhanh vào một bờ tuyết. Ông Fuller hô lớn: - Xả hết! Không chỉ lần này, mình không lăn qua nó! Tất cả đều cầm xẻng lên và bước xuống xe. Những chiếc xẻng tíu tít hất văng những mảnh tuyết ra xa làm bụi tuyết bay mù mịt trong gió. Laura nói với Carrie: - Mình phải tới trường thôi. - Ô, chờ coi thêm một phút nữa. Carrie nài nỉ không rời cặp mắt ngó nghiêng qua lớp tuyết lấp lánh để ngắm bố đang làm việc trước cỗ xe guồng. Chỉ một thoáng, mọi người đã lại bước tới cỗ xe, buông xẻng xuống và cúi mình trên các tay guồng. Chặn đường ta là xa tăng quỉ dữ Ta sẽ cho xe cán chết tươi Và vẫn không lôi theo thứ gì lếch thếch! Cỗ xe nhỏ dần, nhỏ dần và hai nhóm người tiếp tục luân phiên cúi chào nhau trong tiếng hát văng vẳng vọng lại qua cánh đồng tuyết lấp lánh. Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Không lôi gì lếch thếch phía sau… Hát và guồng, cỗ xe lăn tới mãi với những chiếc xẻng xúc thông đường xả sạch mọi bờ tuyết, mọi chướng ngại, bố đi xa lần về phía Volga. Trọn phần còn lại trong ngày và suốt ngày hôm sau, ngôi nhà trống vắng. Buổi sáng và buổi tối, ông Foster tới lo các việc lặt vặt. Sau khi ông ta rời khỏi chuồng ngựa, mẹ sai Laura tới coi xem ông ta làm có hoàn hảo không. Với đêm ngày thứ năm, mẹ nói: - Chắc chắn mai bố sẽ về. Trưa ngày hôm sau, một đoàn xe dài hụ còi vang động trên cánh đồng tuyết phủ và từ cửa sổ nhà bếp, Laura cùng Carrie nhìn thấy một cuộn khói đen cuồn cuộn bốc lên bầu trời trong lúc đoàn xe chạy rầm rập phía dưới. Đó là xe lửa chở công nhân, chen chúc đàn ông đang hô hoán và ca hát. Mẹ nói: - Giúp mẹ lo xong bữa trưa đi, Laura. Bố đói lắm rồi. Laura lấy bánh qui khi cửa ýt mở ra và bố gọi: - Ra coi, Caroline! Coi xem ai đi cùng anh về nhà mình. Grace đang dẫn đầu xông tới đón bố bỗng ngừng lại, bước lui, đưa mấy ngón tay lên miệng, đứng nhìn. Mẹ khẽ nhấc bé sang bên khi mẹ bước tới cửa với đĩa khoai tây nghiền trên tay. Mẹ kêu lên: - Trời ơi, anh Edwards! Bố nói: - Anh đã nói với em là mình sẽ gặp anh ấy, sau khi anh ấy giúp giành lại khu trại của mình. Mẹ đặt đĩa khoai tây lên bàn, nói với ông Edwards: - Tôi rất muốn cảm ơn anh về việc đã giúp anh Ingalls khai nhận được khu đất lập trại. Laura nhận ra ông ấy dễ dàng. Ông ấy vẫn là con mèo hoang cao, gầy, lang thang của xứ Tennessee. Những nếp nhăn ngộ nghĩnh trên khuôn mặt nâu bóng của ông ấy sâu hơn, trên má ông ấy có một vết thẹo do dao cắt trước đây không thấy, nhưng cặp mắt ông ấy vẫn cười cợt, lơ đãng và sắc sảo như cô còn nhớ. Cô kêu lớn: - Ô, bác Edwards! Mary nhắc: - Bác đã mang quà của ông già Noel về cho tụi cháu. Laura nói: - Bác đã bơi qua suối. Rồi bác xuôi theo sông Verdigris… Ông Edwards chà bàn chân trên nền nhà, cúi thấp đầu: - Chị Ingalls và các cháu gái, tôi rất mừng được gặp lại tất cả. Ông ấy nhìn vào cặp mắt của Mary đã không còn nhìn thấy ông ấy và giọng ông ấy dịu hẳn khi ông ấy nói: - Hai tiểu thư xinh đẹp này có phải là hai cô bé mà tôi đã tung lên đầu gối và tung xuống sông Verdigris không, Ingalls? Mary và Laura đáp phải và chỉ cho thấy Carrie lúc đó mới là một em bé. Mẹ nói: - Em bé của chúng tôi lúc này là Grace. Nhưng Grace không tới gặp ông Edwards. Bé chỉ ngó ông ấy và bám cứng vào váy mẹ. Mẹ nói một cách thân mật: - Anh đến thật đúng lúc, anh Edwards. Chỉ một phút nữa là bữa ăn đã bày xong. Và bố thúc giục: - Ngồi xuống liền, Edwards và không được mắc cỡ! Bữa ăn rất thịnh soạn đúng như nó phải thịnh soạn! Ông Edwards thích thú ngắm căn nhà thoải mái, dựng chắc chắn và bữa ăn tối ngon lành một cách thật tình. Nhưng ông ấy bảo ông ấy sẽ đáp chuyến xe lửa sắp tới đi miền tây. Bố không thể thuyết phục ông ấy ở lại lâu hơn. Ông ấy nói: - Tôi dự định đi thật xa về miền tây trong mùa xuân. Tôi cũng đã dứt khoát xong với vùng này. Đám chính khách đã kéo đến lúc nhúc và xin lỗi chị, nếu có một thứ dịch nào tệ hơn châu chấu thì chắc chắn là các chính khách. Sao, họ sẽ đánh thuế tới mảnh vải lót túi áo để duy trì những trung tâm hành chính ở đây! Tôi không thấy mình có cách gì phù hợp với một đời sống tỉnh lẻ. Tất cả chúng ta đều chạy theo hạnh phúc và bằng lòng với sự vắng mặt của những tay chính khách. Mùa hè vừa rồi, Feller bám theo đánh thuế tôi. Anh ta bảo tôi kê khai tới những thứ tối thiểu cuối cùng mà tôi có được. Thế là tôi kê khai những con ngựa của tôi, Tom và Jerry theo ước giá mỗi con năm mươi đô-la, cặp bò của tôi, Buck và Bright trị giá năm mươi đô-la và con bò cái ba mươi lăm đô-la. Ông ta hỏi “Anh chỉ có thế thôi sao?”. Được, tôi nói với ông ta là tôi khai thêm năm đứa con và tôi liệt giá mỗi đứa một đô-la. Ông ta nói “Đó là tất cả?” Ông ta tiếp “Còn vợ anh thì sao?” Tôi nói với ông ta “Chúa chứng giám cho tôi. Cô ấy nói rằng cô ấy không phải vật sở hữu của tôi nên tôi không tính là đóng một xu thuế nào cho cô ấy”. Tôi nói và tôi không kê khai. Mẹ nói: - Sao, anh Edwards, đây là những tin tức thông báo cho chúng tôi biết anh đã có gia đình. Anh Ingalls không nói gì về chuyện này cả. Bố giải thích: - Chính anh cũng không hề hay biết. Nhưng này Edwards, dù sao anh cũng không phải trả thuế vợ và thuế con. Ông Edwards nói: - Ông ta muốn có một bản liệt kê thuế thật dài. Các chính khách rất thích dí mũi vào công việc của người ta và tôi tính làm cho họ hài lòng. Điều đó chẳng thành vấn đề gì vì tôi đâu có định đóng thuế. Tôi đã từ bỏ quyền khai thác phần đất được cấp phát và vào mùa xuân khi đám nhân viên thuế lảng vảng tới thì tôi đã đi khỏi đó rồi. Đi không có con, không có vợ, vì đâu còn cách nào. Trước khi bố hoặc mẹ kịp lên tiếng, còi xe lửa hụ lớn và kéo dài. Ông Edwards nói: - Nó gọi rồi! Và ông đứng lên khỏi bàn ăn. Bố nài nỉ: - Edwards, hãy đổi ý, ở lại thêm một lúc nữa. Anh luôn đem may mắn đến cho chúng tôi. Nhưng ông Edwards lần lượt bắt tay mọi người và cuối cùng bắt tay Mary đang ngồi bên cạnh ông ấy. Ông ấy nói: - Tạm biệt tất cả! Và vội vã bước ra khỏi cửa chạy về phía nhà ga. Suốt khoảng thời gian đó, Grace chỉ trố mắt nhìn và lắng nghe chứ không nói một tiếng nào. Lúc này thì ông Edwards đột ngột biến mất và bé hít một hơi thật dài, hỏi: - Mary, đó là người đã nhìn thấy ông già Noel hả? Mary đáp: - Ừ. Đó là người đã đi bộ suốt bốn mươi dăm dưới trời mưa tới Independence để gặp ông già Noel ở đó và mang quà Noel về cho Laura và chị lúc các chị còn là những cô bé. Mẹ nói: - Ông ấy có một tấm long vàng. Laura nhắc: - Ông ấy đem về cho mỗi đứa con một chiếc ly thiếc và một thỏi kẹo. Cô chậm chạp đứng lên và bắt đầu giúp mẹ với Carrie dọn dẹp bàn ăn. Bố đi tới chiếc ghế lớn gần lò bếp. Mary nhấc chiếc khăn tay trong long bàn tay lên khi cô rời bàn ăn và một cái gì đó rơi nhẹ Cap Garland nền nhà. Mẹ cúi xuống lượm lên. Mẹ đứng sững cầm vật đó trong tay không nói được tiếng nào và Laura kêu lớn: - Mary! Hai mươi đô-la! Chị vừa đánh rơi một tờ hai mươi đô-la! Mary kinh ngạc: - Làm sao có chuyện đó! Bố nói: - Đó là của Edwards. Mẹ nói: - Mình không thể giữ lại. Nhưng tiếng còi từ giã cuối cùng của chuyến xe lửa đã bốc lên một hồi dài lanh lảnh. Bố hỏi: - Em tính sao về chuyện này? Edwards đã đi rồi và mình khó gặp lại nổi anh ấy trong nhiều năm, có thể là không bao giờ gặp lại nữa. Anh ấy đang đi tới Oregon vào màu xuân. Mẹ khẽ kêu lên trong sự bối rối: - Nhưng, Charles… Ôi, tại sao anh ấy làm vậy? Bố nói: - Anh ấy cho Mary. Hãy để Mary giữ số tiền. Có thể số tiền sẽ giúp con tới trường được. Mẹ suy nghĩ một lát rồi nói: - Thôi được! Và mẹ đưa tờ giấy bạc cho Mary. Mary cầm một cách cẩn thận, vuốt nhẹ bằng mấy đầu ngón tay và gương mặt rạng sáng: - Ôi, cháu cảm ơn bác Edwards. Mẹ nói: - Em mong là anh ấy không bao giờ cần đến số tiền này, dù anh ấy ở đâu cũng vậy. Bố an ủi mẹ: - Em nên tin rằng Edwards là người biết phòng xa. Mặt Mary mơ màng như khi cô nghĩ tới trường học dành cho người khiếm thị. Cô nói: - Mẹ, cộng với số tiền mẹ kiếm được do nấu cơm tháng hồi năm ngoái thì đã có ba mươi lăm đô-la hai mươi lăm xu. Chương 12: Đơn Độc Ngày thứ bảy nắng tỏa sáng và gió thổi nhẹ từ hướng nam, bố đang đi kéo cỏ khô ở trại về vì bò và ngựa cần ăn nhiều cỏ để đủ sức chống với cái lạnh. Trong ánh nắng xuyên qua các ô cửa sổ phía tây, Mary khẽ đung đưa chiếc ghế và những chiếc kim đan của Laura lóe sáng. Laura đang đan một dải ren bằng sợi trắng làm đường viền cho chiếc váy lót. Cô ngồi sát cửa sổ để ngó ra ngoài phố vì cô đang chờ Mary Power và Minnie Johnson. Mấy cô bạn sẽ tới vào buổi chiều mang tới cho cô những mẫu đan móc của họ. Mary đang nói về trường học mà một ngay nào đó cô có thể tới được. Cô nói: - Chị sẽ bắt kịp các bài học của em, Laura. Nếu được đến trường, chị mong em cũng tới đó. Laura nói: - Em nghĩ là em sẽ là giáo viên nên sẽ không có thể đi đâu. Em cho là chị quan tâm tới việc học nhiều hơn em. Mary khẽ kêu lên: - Ô, chị rất quan tâm tới việc học! Chị muốn học mọi thứ thật nhiều. Có biết bao nhiêu thứ để học và chị luôn muốn học hoài. Và chị cứ mong mình có thể để dành đủ tiền để chị được đi học, dù chị đã mù. Điều đó không kì diệu sao? Laura đồng ý một cách bình thản: - Kì diệu thật chứ. Cô hy vọng bằng một cách nào đó Mary có thể đi học. Cô bỗng kêu lên: - Chà phiền quá! Em tính lầm mũi đan rồi! Cô gỡ một hàng ra và bắt đầu đan lại từng mũi đan li ti. Cô nói: - Đúng, Chúa sẽ cứu giúp những ai đang cố tự cứu giúp mình. Chị chắc chắn sẽ được đi học, Mary, nếu… Cô quên luôn điều đang định nói. Những vòng sợi mờ hẳn đi trước mắt cô tựa hồ cô sắp bị mù. Cô không thể nhìn thấy rõ. Cô bật người lên và cuộn chỉ rơi khỏi lòng cô lăn xa trên nền nhà. Mary kêu lên: - Chuyện gì vậy? Laura đáp: - Không còn ánh sáng nữa! Ánh nắng đã biến mất. Không khí sầm tối và tiếng gió đang nổi lên. Mẹ vội vã từ bếp chạy tới. - Bão tới rồi, các con! Mẹ không còn thời giờ để nói vì liền đó, ngôi nhà đã lay động như bị bão đập phải. Mặt tiền những cửa hàng phía bên kia phố biến mất trong một đợt tuyết xoáy. Mẹ nói: - Ôi, ước gì Charles đã về nhà rồi! Laura rời khỏi cửa sổ. Cô kéo chiếc ghế của Mary tới bên lò sưởi và xúc thêm than từ trong xô cho vào lửa. Thình lình, bão hú lên ngay trong nhà bếp. Cửa sau đóng sầm lại một cách khó khăn và bố bước vào dính đầy tuyết nhưng tươi cười: - Anh đã thắng con bão về tới chuồng ngựa trước một nháy mắt. Bố cười, nói tiếp: - Sam và David rạp người phóng như tên bắn! Bọn anh về tới ngay giữa phút cuối cùng! Cơn bão này đúng là một trò lừa gạt. Mẹ cởi áo choàng cho bố, gấp lại giũ ra tuyết ở gian chái. Mẹ thì thầm: - Vậy là anh ở đây rồi, Charles! Bố ngồi xuống, nghiêng người tới lò sưởi, hơ ấm mấy bàn tay. Nhưng bố nghe tiếng gió một cách khó khăn. Một hồi lâu, bố rời khỏi ghế. Bố nói: - - Anh phải lo công việc trước khi bão trở nên tệ hại hơn. Có thể mất nhiều thời giờ, nhưng đừng lo, Caroline. Sợi dây phơi của em đủ dẫn đường cho anh trở về. Bố ra ngoài cho tới khi sập tối và lâu hơn nữa. Bữa tối đang nằm chờ khi bố trở vào vừa dậm các bàn chân vừa chà xát hai tai. Bố kêu lên: - Thật là độc địa quỉ quái! Lạnh gì mà tăng nhanh như thế! Tuyết đập vào người như đạn bắn. Lắng nghe tiếng gió hú đó coi! Mẹ nói: - Em chắc cơn bão sẽ lấp đường xe lửa? - Có sao, mình đã từng sống không có đường sắt mà. Bố trả lời một cách vui vẻ nhưng nhìn mẹ như muốn nhắc đừng nói thêm về chuyện này khi các cô gái đang lắng nghe. Bố nói tiếp: - Trước đây khi không có mọi người và các cửa hàng, mình vẫn đầy đủ và ấm áp. Bây giờ ăn đi cho nóng! Laura nói: - Bố, ăn xong bố chơi đàn, được không? Sau bữa ăn, bố gọi Laura mang đàn tới. Nhưng, khi so dây và chuốt vĩ xong, bố lại chơi một điệu nhạc lạ hẳn. Tiếng đàn rền rỉ một điệu trầm dồn dập thấp thoáng chen những nốt đàn cao man dại bốc lên cho tới khi nhòa nhạt hết để quay lại với những âm thanh than khóc gần như khác hẳn tựa hồ tất cả đã bị dội đi. Những cơn rung mình lòn trên xương sống Laura, chích sâu khắp da đầu và điệu nhạc man dại thay đổi từ cây đàn tiếp tục dâng lên cho tới khi cô không chịu nổi, kêu lớn: - Điều gì vậy, bố? Ôi, điệu gì thế? Bố ngưng đàn nhưng vẫn đặt chiếc vĩ cầm trên dây: - Nghe đi. Điệu nhạc ở phía ngoài. Bố chỉ chơi theo thôi. Tất cả đều lắng nghe tiếng gió theo một âm điệu cho tới khi mẹ nói: - Tất cả đã nghe đủ âm điệu rồi đó, không cần anh chơi lại nữa, Charles. Bố đồng ý: - Vậy thì mình sẽ có một điệu gì khác. Sẽ là điệu gì? - Điệu gì làm cho ấm người lên. Laura nói và tiếng đàn tươi vui, phấn khởi bắt đầu làm ấm mọi người. Bố đàn và hát bài “Annie Rooney, người tình của tôi” và bài “Con ngựa xám già” cho tới lúc ngay cả mấy ngón chân của mẹ cũng gõ nhịp theo. Bố đàn sang điệu nhạc vũ Tô Cách Lan, điệu nhạc Jic Ái Nhĩ Lan và rầm rập trên nền sàn, Laura với Carrie nhảy cho tới khi hụt hơi. Khi bố đặt cây đàn vào hộp là bố báo cho biết đã tới giờ đi ngủ. Thật khó rời căn phòng ấm áp để lên tầng gác. Laura biết là trong cái lạnh ở trên đó, mọi chiếc đinh móc qua mái đều có sương giá phủ. Cánh cửa sổ phòng dưới cũng đầy sương giá, nhưng bằng một cách nào đó, những chiếc đinh móc đọng sương vẫn khiến cô cảm thấy lạnh hơn. Cô quấn hai chiếc bàn ủi hơ nóng trong những lớp fla-nen và dẫn đường. Mary và Carrie bước nối theo. Hơi lạnh dữ dội trên tầng gác xộc thẳng vào trong mũi khi các cô tháo giầy và run rẩy cởi áo. - Chúa sẽ nghe thấy hết kể cả khi mình cầu nguyện ở trong mền. Mary lập cập nói và chui vào giữa những tấm mền lạnh ngắt. Những chiếc bàn ủi hơ nóng chưa kịp làm ấm giường. Trong cái lạnh cứng dưới những chiếc đinh đọng sương giá, Laura có thể nhận thấy khung giường lay động do Mary và Carrie đang run. Tiếng rền rĩ trầm trầm và những tiếng kêu rít man dại của gió bao quanh khắp khoảng không gian tĩnh lặng nhỏ nhoi. Mary gọi: - Em đang làm cái giống gì vậy, Laura? Mau tới nằm cho ấm giường. Laura không thể trả lời mà hàm răng không va đập lách cách. Cô đứng ở cửa sổ trong chiếc áo dài ngủ và những chiếc vớ bọc bàn chân. Cô cạo sương giá ở một điểm trên ô kính, cố nhìn qua. Cô khum bàn tay trên mắt để ngăn ánh sáng từ cây đèn tại cầu thang chiếu tới. Nhưng cô vẫn không thấy gì. Trong trời đêm đang rên rỉ ở phía ngoài không có một đốm sáng. Cuối cùng cô luồn vào bên cạnh Mary và co người thật chặt, áp bàn chân sát chiếc bàn ủi hơ nóng. Cô giải thích: - Em cố kiếm một ánh sáng. Hẳn phải có ánh sáng từ một căn nhà nào đó. Mary hỏi: - Có thấy không? Laura đáp: - Không. Cô không thể nhìn thấy ngay cả ánh sáng từ cửa sổ dưới nhà là nơi mà cô biết chắc là đèn đang thắp sáng. Carrie nằm im trên giường của mình sát ống khói dựng thẳng từ lò bếp hừng hực ở phía dưới. Ống khói giúp cô có hơi ấm và cô cũng có một chiếc bàn ủi hơ nóng. Cô ngủ rất nhanh khi mẹ tới đặt bé Grace bên cạnh cô. - Các con đủ ấm không? Mẹ thì thầm, cúi xuống giường cài mền quanh các cô chặt hơn. Laura trả lời: - Chúng con ấm lắm, mẹ. - Chúc các con ngủ ngon và có những giấc mơ đẹp. Nhưng ngay cả sau khi ấm áp, Laura cũng nằm thức lắng nghe điệu nhạc gió man dại và nghĩ tới từng căn nhà nhỏ trong thị trấn đang đơn độc đứng giữa màn tuyết xoáy không nhìn thấy cả một ánh đèn chiếu sáng từ căn nhà kế cận chiếu qua. Và cái thị trấn nhỏ bé cũng đứng đơn độc trên đồng cỏ mênh mông. Thị trấn và đồng cỏ đều chìm khuất trong bão táp cuồng loạn. Không phải đất, không phải trời, không phải bất cứ gì ngoại trừ những đợt gió dữ dằn và một màn trắng. Vì, bão có màu trắng. Trong đêm, rất lâu sau khi nắng tắt và ánh sáng cuối cùng của ban ngày không còn, bão tuyết đang quay cuồng trắng xóa. Một ánh đèn có thể chiếu xuyên qua màn tối đen đặc nhất và một tiếng thét có thể nghe rõ được từ xa, nhưng không một tia sáng, không một tiếng kêu nào lọt qua nổi một cơn bão gồm các âm thanh man dại và thứ ánh sáng riêng không tự nhiên của nó. Những tấm mền đã ấm lên và Laura không lạnh nữa nhưng cô vẫn run rẩy. Chương 13: Chúng Ta Sẽ Qua Cơn Hoạn Nạn Xen trong những âm thanh man dại, Laura nghe thấy tiếng nắp lò lách cách và tiếng bố hát: - Đời tươi như đóa hướng dương này Ngả nghiêng vùng vẫy giữa heo may Bố gọi từ trên cầu thang: - Caroline! Lửa sẽ cháy tốt vào lúc em xuống. Anh sắp ra chuồng ngựa. Laura nghe thấy tiếng mẹ gọi dậy. Mẹ nói: - Cứ nằm im, các con. Đợi trong nhà ấm hơn, các con hãy dậy. Lạnh khủng khiếp phía ngoài những tấm mền. Nhưng tiếng rên rỉ và rú rít của giông bão khiến Laura không ngủ lại được. Những chiếc đinh đọng sương giá ở ngay phía trên cô giống như những chiếc răng trắng nõn. Cô chỉ nằm ở phía dưới chúng vài phút trước khi theo mẹ xuống tầng dưới. Lửa đang cháy sáng rực trong lò bếp và cạnh chiếc lò than trong phòng trước nóng đỏ, nhưng các gian phòng vẫn lạnh và tối đen giống như chưa phải ban ngày. Laura đập lớp băng nổi trên xô nước. Cô đổ đầy vào thau và đặt lên lò bếp. Rồi cô và mẹ run rẩy chờ nước ấm lên để rửa mặt. Laura bắt đầu thích sống ở thị trấn nhưng phải giống như mùa đông trước. Khi bố quay vào, râu bố đầy tuyết còn mũi và tai bố đỏ như trái nhót. Bố than: - Đúng là xuất sắc! May mắn là chuồng ngựa rất chắc chắn! Anh phải đào đường đi tới đó. Tuyết chất đống cao ngang với khung cửa ra vào. May là anh đã kéo dây phơi của em đúng chỗ, Caroline. Anh phải quay vào nhà chái lấy xẻng nhưng có sợi dây phơi để bám. Bánh kép nóng và thịt nướng có vẻ ngon quá! Anh đang đói cồn cào đây! Nước ấm trong thau đã cho bố và trong lúc bố rửa ráy, chải tóc trước ghế dài gần cửa, Laura bày ghế quanh bàn ăn và mẹ pha trà thơm nức. Những chiếc bánh nóng thật ngon cùng với những lát thịt heo béo ngây giòn tan điểm thêm lớp mỡ nâu vàng từ trong chảo và còn có cả xốt táo khô bên cạnh nước xi-rô đường. Không có bơ vì Ellen gần như kiệt sữa nên mẹ chia phần sữa cuối cùng của đêm trước vào ly của Grace và Carrie. Mẹ nói: - Hãy cảm ơn về số sữa ít ỏi mà mình có vì vẫn còn có một chút trước khi không còn gì. Tất cả đều tê lạnh ở bàn ăn nên sau bữa ăn đã ngồi gom lại quanh lò sưởi. Trong im lặng, tất cả lắng nghe tiếng gió và tiếng tuyết va đập trên cửa sổ và trên vách. Mẹ tự kích động bằng một cái lắc khẽ. - Tới dậy, Laura. Hãy làm cho xong mọi việc. Sau đó mới nhẹ nhõm ngồi bên ngọn lửa được. Thật là lạ trong căn nhà dựng hoàn hảo như vậy mà lửa không sưởi ấm nổi nhà bếp. Trong lúc mẹ luộc đậu và Laura rửa chén đĩa, cả hai đều thắc mắc không biết mức lạnh lúc này ở căn lều trại như thế nào. Mẹ cho thêm vào lửa rồi lấy cây chổi còn Laura run rẩy dưới chân cầu thang. Cô phải lên dẹp giường nhưng hơi lạnh từ trên xối xuống cầu thang thấm qua áo choàng len, qua váy lót, qua bộ đồ fla-nen tựa hồ cô đang đứng trần trụi ở đó. Mẹ nói: - Cứ để nguyên giường ở trên đó, Laura. Trên gác ngoài tầm mắt và con có thể dọn dẹp khi nhà ấm lên. Mẹ đã quyết xong và việc nhà bếp đã dứt. Cả hai trở lại phòng trước, ngồi xuống đặt những bàn chân lạnh ngắt lên bục kê lò sưởi để hơ ấm. Bố vào bếp và quay lại trong chiếc áo khoác lớn, khăn quấn và chiếc mũ cầm trong tay. Bố nói: - Anh sẽ qua phố sang tiệm Fuller’s để nghe tin tức. Mẹ hỏi: - Có cần thế không, Charles? Bố đáp: - Có thể có ai đó bị lạc. Chụp chiếc mũ lên đầu, bố bước tới cửa, ngừng lại nói: - Đừng lo cho anh! Anh biết rõ đi qua phố phải bước bao nhiêu bước và nếu anh không va vào một căn nhà ở đó thì anh cũng không đi xa hơn được cho tới khi tìm thấy một căn. Bố đóng cánh cửa lại ở phía sau. Laura đứng ở cửa sổ. Cô cạo sạch lấy một lỗ nhìn qua sương gía nhưng chỉ thấy một màn trắng. Cô không thể nhìn thấy bố ở trước cửa và không rõ bố bước đi lúc nào. Cô từ từ quay lại lò sưởi. Mary ngồi lặng lẽ đu đưa bé Grace. Laura và Carrie chỉ ngồi. Mẹ nói: - Này, các con! Một cơn bão chỉ ở phía ngoài không phải lý do khiến trong nhà ảm đạm. Laura nói: - Sống ở thị trấn có gì khá đâu? Mình cũng chỉ có ngần này người tựa hồ như chẳng có thị trấn nào cả. Mẹ như bị choáng: - Mẹ hi vọng là con không chờ đợi phụ thuộc vào bất kì ai khác, Laura. Một người không thể nghĩ như thế. - Nhưng nếu mình không ở trong thị trấn thì bố sẽ không phải đi ra ngoài giữa bão tuyết thế này để tìm xem có ai bị lạc không. Mẹ nói chắc nịch: - Dù thế nào chăng nữa thì đây cũng là thời gian dành cho những bài học ngày chủ nhật. Mỗi người mình sẽ đọc những đoạn thơ đã học trong tuần này và sau đó soát lại coi mình nhớ được bao nhiêu bài học cũ. Trước tiên là Grace, rồi đến Carrie, đến Laura, đến Mary và mẹ nhắc lại những đoạn thơ. Mẹ nói: - Bây giờ, Mary, con hãy đọc một đoạn thơ rồi đến Laura, đến Carrie. Mình sẽ coi ai đọc được lâu nhất. Carrie tỏ vẻ chán nản trước khi bắt đầu: - Ôi, Mary sẽ thắng. Laura khuyến khích: - Tới đi! Chị sẽ giúp em! Mary phản đối: - Hai đánh một là bất công. Laura cãi lại: - Cũng công bằng chứ! Phải không, mẹ? Vì Mary đã học thuộc lòng nhiều đoạn thơ trong Kinh thánh dài hơn so với Carrie. Mary quyết định: - Được. Mẹ nghĩ là công bằng nhưng Laura chỉ được nhắc Carrie thôi. Thế là các cô bắt đầu và tiếp tục, tiếp tục cho tới khi Carrie không thể nhớ nổi nữa thậm chí đã được Laura nhắc. Thế là chỉ còn lại Laura và Mary ganh đua với nhau cho tới cuối cùng Laura phải đầu hàng. Cô ghét nhìn nhận việc thua cuộc nhưng bắt buộc phải nhìn nhận: - Chị thắng em rồi, Mary. Em không thể nhớ thêm một đoạn nào khác nữa. - Mary thắng rồi! Mary thắng rồi! Grace vỗ tay, la hét và mẹ mỉm cười nói với Mary: - Cô gái thông minh của mẹ. Tất cả đều ngắm Mary đang nhìn bằng đôi mắt lớn, xanh lơ tuyệt đẹp nhưng không còn nhìn thấy gì nữa. Cô mỉm cười sung sướng khi mẹ ca ngợi cô rồi mặt cô vụt thay đổi như làn ánh sáng vụt biến khi bão tuyết ào tới. Trong một phút, cô nhìn giống hệt như cô thường nhìn khi mắt cô còn sáng và cô đang cùng Laura cãi cọ. Cô không bao giờ chịu thua Laura vì cô lớn hơn và là kẻ ra lệnh. Lúc đó, khắp mặt cô ửng đỏ và cô hạ thấp giọng, nói: - Chị không thắng đâu, Laura. Mình ngang nhau thôi. Chị cũng không nhớ thêm nổi một đoạn thơ nào khác nữa. Laura thấy xấu hổ.Cô đã ráng sức cố đánh bại Mary trong trò chơi, nhưng dù ráng sức tới đâu thì cô vẫn không tốt bằng Mary. Mary tốt thực sự. Lúc đó là lần đầu tiên Laura muốn trở thành cô giáo để có thể kiếm tiềm cho Mary tới trường. Cô nghĩ: - Mary sẽ tới trường, việc mình phải khó nhọc không thành vấn đề gì. Đúng lúc đó chuông đồng hồ gõ mười một tiếng. Mẹ than: - Trời ơi, bữa ăn trưa! Mẹ chạy vội vào bếp, cời lửa lớn lên và nêm món xúp đậu. Mẹ gọi: - Tốt hơn là cho thêm than vào lò đi, Laura. Hình như nhà vẫn chưa ấm lên nổi. Bố trở về nhà vào buổi trưa. Bố bước vào lặng lẽ, đi thẳng tới lò sưởi, cởi áo choàng và bỏ mũ ra. - Treo lên giúp bố được không, Laura? Bố đang khá lạnh. Mẹ nói từ nhà bếp: - Em xin lỗi, Charles. Hình như em không làm cho nhà mình ấm lên nổi. Bố trả lời: - Đừng băn khoăn. Lạnh ở bốn mươi độ âm và gió đang lùa vào cái lạnh. Đây là trận bão tệ hại nhất nhưng may mắn mọi người đã lường đoán được. Không có ai bị lạc khỏi thị trấn. Sau bữa ăn trưa, bố lấy đàn ra đàn bài thánh ca và tất cả cùng hát: Có một vùng chói chang ánh sáng Bằng đức tin, ta vẫn thấy từ xa… Chúa Ki-tô chính là hòn đá tảng Giữa một vùng đảo lộn phong ba Chúa Ki-tô chính là hòn đá tảng Chỗ nương thân trong bão giật gió lùa. Tất cả đã hát bài hát mà mẹ ưa thích nhất, bài “Vùng đất an lành ở xa, thật xa”. Và ngay trước khi bố đặt cây đàn vào hộp bởi đã tới giờ chăm sóc lũ gia súc ở chuồng ngựa, bố đã chơi một điệu kích động hào hứng làm tất cả đều tung chân lên hát say sưa: Mặc cho phong ba gào thét! Chẳng bao lâu sẽ trôi qua Chúng ta không còn hoạn nạn Bến bờ hạnh phúc cận kề! Bão vẫn đang rền rĩ với những lọn tuyết đóng băng cứng như đạn bắn và nhuyễn như cát quay cuồng rú rít trút xối xả lên ngôi nhà. Chương 14: Một Ngày Sáng Đẹp Cơn bão đó chỉ kéo dài hai ngày. Buổi sáng thứ ba, Laura bất chợt thức dậy. Cô nằm mắt mở lớn lắng nghe để nhận biết thứ gì đã đánh thức cô. Không có một tiếng động nào. Lúc đó thì cô hiểu. Chính cái tĩnh lặng kỳ lạ khiến cô choàng tỉnh. Không có tiếng gió, không một tiếng rít đập của tuyết đóng băng rơi trên vách, trên mái, trên cửa sổ. Ánh nắng phản chiếu sáng lóa trên lớp sương giá đọng ở cửa sổ phía trên cầu thang và ở dưới nhà, nụ cười của mẹ rạng rỡ như ánh nắng. Mẹ nói: - Bão qua rồi. Chỉ là một cơn bão hai ngày. Bố tán thành: - Em không thể nói chắc một trận bão ra sao. Mẹ nói một cách sung sướng: - Có thể là cái mùa đông khắc nghiệt của anh sẽ không ghê gớm lắm sau mọi thứ đã diễn ra. Lúc này, nắng đang chiếu và các chuyến xe lửa sẽ lại chạy đúng giờ. Laura, mẹ chắc là hôm nay sẽ có lớp học. Tốt hơn hết là con hãy sẵn sàng trong lúc mẹ lo bữa ăn sáng. Laura leo lên cầu thang để nhắc Carrie và mặc chiếc áo học trò của mình. Quay trở lại nhà bếp ấm áp, cô rửa mặt và cổ thật kĩ bằng xà phòng rồi ghim các bím tóc. Bố thở ra khoan khoái sau khi dứt các công việc vặt. Bố nói với mọi người: - Sáng nay, ông bạn già lại rạng rỡ tỏa nắng rồi! Gương mặt ông ta giống như vừa được tuyết rửa sạch. Món khoai tây trộn đã ở trên bàn và món mứt đào dại sáng vàng trong chiếc tô thủy tinh. Mẹ chất đầy một đĩa bánh mì nâu vàng trong lò hấp và lấy ra từ lò hấp một đĩa bơ nhỏ. Mẹ nói: - Mẹ phải hấp bơ lại. Nó cứng như một hòn đá, không thể nào cắt nổi. Mẹ hi vọng là ông Boast sẽ đem đến cho mình ngay một số kha khá. Đây đúng là thứ mà tay thợ sửa giày quẳng cho vợ của y. Grace và Carrie ngơ ngác trong lúc tất cả những người khác đều bật cười. Mẹ phải sung sướng tới mức nào nên mới nói giỡn như thế. Mary nói: - Đó là cái dùi của ông ta. Laura kêu lên: - Ô, không phải đâu! Đó là cái cốt giầy. Ông ta chỉ có thế thôi. - Các con, các con! Mẹ kẽ nhắc vì các cô cười quá nhiều ở bàn ăn. Rồi Laura nói: - Nhưng con thấy là tụi con sẽ vét sạch số bơ này khi mà cả ngày hôm qua không có một miếng nào. Mẹ nói: - Bánh kép với thịt ướp muối ngon lắm rồi. Mẹ dành bơ lại cho bánh mì. Chỉ có đủ bơ để trét một mảng nhỏ lên mỗi miếng bánh mì. Bữa điểm tâm vui vẻ trong hơi ấm, sự tĩnh lặng và ánh sáng đến nỗi đồng hồ điểm tám giờ rưỡi mà vẫn chưa ăn xong. Mẹ nói: - Nhanh lên, các con. Mẹ chỉ còn một giờ để lo công việc trong nhà. Khắp nơi ở bên ngoài đều sáng lóa trong ánh nắng chói chang. Nằm dài theo phố Main Street là một đống tuyết cao ngang với Laura. Cô và Carrie phải trèo lên và cẩn thận đi xuống ở cạnh bên kia. Tuyết đóng cứng đến nỗi giày của các cô không in dấu xuống và gót giầy không nhấn hõm xuống nổi để giữ cho các cô khỏi bị trượt xuống. Một đống tuyết khác cao gần ngang mái trường sáng lóa trong sân trường. Cap Garland cùng với Ben, Arthur và mấy cậu bé nhà Wilmarth đang trượt xuống trên những đôi giầy giống như Laura thường trượt trên hồ nước Bạc còn Mary Power với Minnie đang đứng dưới ánh nắng nhạt bên cửa sổ ra vào ngắm đám con trai chơi đùa. - Chào Laura! Mary Power mừng rỡ lên tiếng và lòn bàn tay bao kín vào dưới cánh tay Laura bóp mạnh. Các cô hết sức vui được gặp lại nhau. Hình như đã lâu lắm kể từ ngày thứ sáu, thậm chí là từ buổi chiều thứ bảy mà các cô đã dự tính ngồi chung với nhau. Nhưng không có nhiều thời giờ để trò chuyện vì cô giáo đã tới cửa và tất cả học trò trai gái đều phải vào lớp. Trong giờ chơi, Mary Power cùng Laura và Minnie đứng ở cửa sổ ngắm đám con trai trượt trên đống tuyết. Laura ước cũng được ra ngoài chơi. Cô nói: - Lúc này tớ mong là mình đừng lớn quá. Tớ không thấy có gì thú vị khi trở thành một cô gái trẻ. Mary Power nói: - Này, mình đâu có thể ngưng lớn lên được. Minnie Johnson vẫn đang thắc mắc: - Mary, bồ sẽ làm gì nếu bị kẹt vào trong một trận bão tuyết? Mary đáp: - Tớ nghĩ chỉ có một cách tiếp tục bước đi thôi. Bồ sẽ không bị chết cóng nếu bồ tiếp tục bước đi. Minnie nói: - Nhưng bồ sẽ bị mệt nhoài người. Mệt như thế bồ sẽ chết. Mary Power hỏi lại: - Thế thì bồ sẽ làm gì? - Tớ đào sâu vào một bờ tuyết và dùng tuyết làm mái che ở phía trên. Tớ không cho rằng bồ sẽ bị chết cóng ở trong một bờ tuyết. Phải không, Laura? Laura nói: - Tớ không biết. Minnie cố hỏi: - Vậy, bồ sẽ làm gì, Laura, nếu bồ kẹt trong một trận bão tuyết? Laura đáp: - Tớ không để bị kẹt như thế. Cô không thích nghĩ về chuyện này. Cô thích nói về chuyện khác với Mary Power. Nhưng cô Garland đã rung chuông và đám con trai lũ lượt kéo tới, đỏ gay vì lạnh nhưng tươi cười. Trọn ngày hôm đó ai cũng hào hứng như ánh nắng. Buổi trưa, Laura, Mary Power, Carrie và các cô gái nhà Breardsley hợp thành một đám đông chạy đua la hét vượt qua đống tuyết trên phố Main Street, một số đi về hướng bắc, một số đi về hướng nam còn Laura và Carrie trượt xuống cạnh phía đông tới cửa trước của căn nhà. Bố đã ngồi sẵn trên bàn ăn, Mary đang nhấc bé Grace khỏi đống sách vở trên ghế và mẹ đang đặt đĩa khoai tây hầm bốc khói trước mặt bố. Mẹ lên tiếng: - Em mong có một chút bơ cho các con. Bố nói: - Muối cũng sinh ra hương vị. Một tiếng gõ mạnh trên cửa nhà bếp khi bố đang nói. Carrie chạy tới mở cửa và ông Boast ào vào to lớn xù xì như một con gấu trong chiếc áo choàng bằng da bò. Bố lên tiếng: - Vào đây, Boast! Vào đây, vào đây! Vào đây và đặt mấy bàn chân ở dưới gầm bàn. Anh tới vừa đúng lúc! Cả nhà đều mừng khi thấy ông ta. Mary hỏi thầm: - Bà Boast đâu rồi? Mẹ nói một cách nôn nóng: - Phải rồi! Chị ấy không đi với anh hả? Ông Boast cởi lớp đồ choàng ngoài: - Không! Mọi người thấy đó, Ellie nghĩ là cô ấy cần giặt giũ trong lúc có nắng. Tôi bảo là mình còn nhiều ngày đẹp trời nữa nhưng cô ấy nói lúc đó cô ấy sẽ dành một ngày để vào thị trấn. Cô ấy gửi cho anh chị một ít bơ. Chỗ bơ này lấy từ thùng bơ cuối cùng của chúng tôi. Lũ bò của tôi sắp khô sữa. Trong thứ thời tiết như thế này, tôi không thể chăm sóc chúng được. Ông Boast ngồi với bàn ăn và tất cả bắt đầu với món khoai tây hầm ngon lành rồi sau hết, chấm dứt với món bơ. Bố nói: - Tụi tôi mừng thấy anh chị yên ổn qua cơn bão. Ông Boast nói: - Ừ, tụi tôi rất may mắn. Tôi đang cho bò uống nước ở bên giếng khi mây kéo đến. Tôi vội đưa chúng về, lùa hết vào trong chuồng và chạy về cách nhà nửa đoạn đường thì bão ập xuống. Món khoai tây hầm và bánh qui nóng với bơ thật tuyệt và để chấm dứt bữa ăn trưa là món bánh qui với một ít mứt cà chua ngọt ngây của mẹ. Bố nói: - Trong thị trấn không còn thịt heo ướp muối nữa. Tất cả nhu yếu phẩm của mình đều đưa từ miền đông tới thì mình sẽ bị thiếu khi xe lửa bị tắc. Ông Boast hỏi: - Anh nghe nói gì về xe lửa? Bố đáp: - Woodworth nói là người ta đã đưa nhiều toán công nhân đặc biệt tới khai thông ở Tracy và đem cả máy xúc tuyết tới. Trước cuối tuần có thể có xe lửa tới. Ông Boast nói: - Ellie đang tin chắc tôi sẽ mua về được các thứ đường, sữa và bột. Các chủ tiệm có tăng giá món nào không? Bố trấn an: - Theo tôi biết thì không có điều đó. Hiện chưa thiếu hụt thứ gì ngoại trừ thịt. Bữa ăn trưa đã dứt và ông Boast phải đi một vòng để trở về nhà kịp trước khi trời tối. Ông ta hứa sẽ đưa bà Boast tới thăm tất cả vào một ngày không xa. Rồi ông ta và bố ngược phố Main Street tới cửa tiệm Harthorn còn Laura và Carrie nắm tay nhau hớn hở trèo lên trên những đống tuyết trở lại trường học. Trọn buổi chiều thoải mái đó tất cả đều hít căng không khí trong lành và rạng rỡ như ánh nắng. Tất cả đều thuộc bài hoàn hảo và đọc lại trơn tru. Mỗi khuôn mặt trong lớp đều tươi tắn và cái cười lóe lên đột ngột của Cap Garland bao gồm hết thảy những nét thoải mái đó. Thật dễ chịu được nhìn thấy thị trấn lại sống lại và biết rằng tất cả những ngày trong tuần lại là những ngày đến trường. Nhưng trong đêm Laura mơ thấy bố đang đàn một điệu nhạc bão man dại và khi cô hét lên kêu bố ngừng thì điệu nhạc chỉ là một trận bão tuyết mù mịt xoay tít xung quanh cô ướp cô thành băng cứng ngắt. Lúc đó cô nhìn trừng trừng vào bóng tối, nhưng cơn ác mộng vẫn giữ cô bất động và lạnh cóng một hồi lâu. Cô nghe rõ không phải tiếng đàn của bố mà chỉ là tiếng bão gầm và tiếng rú rít của những cụm tuyết đóng băng va đập trên mái nhà và các bức vách. Cuối cùng cô đã cử động được. Lạnh tới nỗi cơn mơ vẫn hình như là thực khiến cô nhích sát vào Mary và kéo mền lên trùm kín đầu cho cả hai. Mary thì thầm trong giấc ngủ: - Gì vậy? Laura đáp: - Bão tuyết. Chương 15: Không Có Xe Lửa Thức dậy vào buổi sáng không còn thú vị gì. Ánh sáng ban ngày mờ mịt, các ô cửa sổ đều trắng toát cùng với những đinh móc trên mái. Một cơn bão tuyết khác đang rên rỉ, gào thét, rú rít quanh nhà. Sẽ không có lớp học. Laura nằm dật dờ nửa thức nửa ngủ. Cô thấy thà rằng ngủ luôn còn hơn thức dậy trong một ngày như thế này. Nhưng mẹ gọi: - Chào buổi sáng, các con! Tới giờ thức dậy rồi! Do trời lạnh, Laura gom quần áo, giầy chạy ào xuống nhà dưới. Mẹ nhìn ra từ bên lò bếp, hỏi: - Sao vậy, có chuyện gì rắc rối, Laura? Laura gần như khóc: - Ôi, mẹ! Làm sao con có thể đi dạy học để lo giúp gửi Mary tới trường? Rút cuộc thì con thu thập được cái gì khi mà chỉ được đến trường có một ngày? Mẹ nói giọng thân mật: - Nào, Laura. Con không nên nản chí dễ dàng như thế. Thêm hay bớt một trận bão thì có khác gì đâu. Mình hãy làm mau cho xong mọi việc để các con có thể học. Những dự tính về môn toán đã đủ khiến con phải bận rộn nhiều ngày và con có thể thêm bao nhiêu tùy ý. Không thứ gì có thể ngăn cản việc học của con. Laura hỏi: - Tại sao bàn ăn lại ở trong bếp vậy? Mẹ trả lời: - Sáng nay bố không đốt lửa trong lò sưởi than. Họ nghe thấy bố đang đạp chân trong gian chái và Laura mở của cho bố. Bố có vẻ điềm tĩnh. Trên xô có một ít sữa đã đông lại. Bố nói trong lúc hơ tay trên lò bếp: - Anh tin rằng đây chưa phải là thứ tệ nhất. Caroline, anh không đốt lửa trong lò sưởi than. Than của mình vơi rồi và trận bão này giống như sẽ khiến xe lửa kẹt một thời gian. Mẹ đáp: - Em đã nghĩ nhiều đến chuyện đó khi thấy anh không đốt lò sưởi. Vì vậy em mới dời bàn ăn vào đây. Mình sẽ đóng cửa giữa lại để lò bếp sưởi ấm phòng này. Bố nói: - Anh sẽ qua nhà Fuller’s ngay sau khi ăn điểm tâm xong. Bố ăn thật nhanh và trong lúc bố choàng đồ thì mẹ lên gác. Mẹ mang xuống chiếc vì màu đỏ bằng da thuộc có hai cạnh cẩn xà cừ sáng loáng với các móc thép mà trong đó mẹ cất số tiền dành cho Mary tới trường. Bố chậm chạp đưa tay ra và cầm lấy. Rồi bố hắng giọng nói: - Mary, có thể thị trấn sẽ cạn các món nhu yếu phẩm. Nếu xưởng mộc và các cửa hàng tăng giá các thứ lên quá cao… Bố không nói tiếp và Mary nói: - Mẹ đang giữ tiền để dành cho con đi học. Bố có thể tiêu món tiền đó. Bố hứa: - Nếu bố phải tiêu thì con có thể tin là bố sẽ hoàn lại, Mary. Sau khi bố đi khỏi, Laura mang chiếc ghế đu của Mary ở phỏng trước vào đặt trước cửa bếp lò bỏ ngỏ. Ngay khi Mary vừa ngồi xuống ghế, Grace đã leo lên lòng cô, nói: - Em cũng được ấm. Mẹ phản đối: - Bây giờ con đã là một cô gái và nặng quá rồi. Nhưng Mary nói ngay: - Ô không đâu, Grace! Chị thích ôm em, ngay cả khi em là một cô gái lớn ba tuổi. Căn phòng chen chúc đến nỗi Laura khó thể rửa chén đĩa mà không va chạm phải một vài cạnh sắc. Trong lúc mẹ làm giường trên tầng gác lạnh cóng, Laura lo lau lò bếp và chùi bóng đèn. Rồi cô xoay chiếc cổ đèn bằng đồng và cẩn thận rót dầu vào đèn. Giọt dầu cuối cùng chảy ra khỏi vòi cạn dầu. Laura kêu lên trước khi kịp nghĩ: - Ô! Mình quên không nhắc bố mua dầu rồi! Carrie hổn hển quay nhanh lại từ tủ chén, nơi cô đang lo cất chén đĩa. Mắt cô kinh hãi: Laura đáp: - Trời ơi, ừ, chị đã đổ tràn khỏi đèn rồi. Bây giờ chị quét nhà cho em lau bụi. Tất cả công việc đều xong khi mẹ từ trên gác xuống. Mẹ run rẩy bên lò bếp, nói với các cô: - Gió gần như đưa căn nhà lật ngược lên. Mẹ mỉm cười: - Laura với Carrie làm mọi việc tốt quá. Bố không trở về nhưng chắc chắn bố không thể lạc trong thị trấn. Laura đem sách và bảng viết tới bàn ăn, sát bên Mary đang ngồi trong chiếc ghế đu. Ánh sáng mờ nhạt nhưng mẹ không thắp đèn. Laura đọc lần lượt các đề toán cho Mary giải trên tấm bảng trong lúc Mary giải nhẩm trong đầu. Các cô từng làm đề toán theo cách lật ngược lại để biết chắc là đã giải đáp đúng. Các cô học từ bài này sang bài khác và đúng như mẹ nói, đã có thật nhiều tiến bộ. Cuối cùng, các cô nghe thấy bố đang bước vào qua phòng trước. Áo choàng và mũ của bố đông trắng tuyết và bố mang một gói phủ đầy tuyết. Bố hơ cho tuyết tan bên lò bếp và khi có thể lên tiếng được, bố nói: - Bố không dùng đến món tiền dành để đi học của con, Mary. Bố nói tiếp: - Không còn than ở xưởng mộc. Mọi người đốt nhiều quá trong cái lạnh này và Ely không có nhiều trong tay. Bây giờ ông ta bán ván để đốt, nhưng mình không đủ khả năng đốt ván với giá tiền năm mươi đô-la một ngàn miếng. - Người điên mới trả số tiền đó. Xe lửa bắt buộc phải thông đường lâu rồi. Bố nói: - Không còn dầu lửa trong thị trấn. Và không còn thịt. Các cửa hàng đã bán ra gần hết mọi thứ. Anh mua được hai pao trà cuối cùng, Caroline. Vậy là mình có trà uống cho đến khi xe lửa thông đường. Mẹ nói: - Không có gì thích hơn một ly trà ngon trong thời tiết lạnh. Và cây đèn đầy dầu. Sẽ có đủ dầu để kéo dài một thời gian nếu mình đi ngủ sớm để tiết kiệm than. Em mừng là anh đã nghĩ đến mua trà. Mình đang thiếu thứ đó. Bố đã từ từ ấm lại. Không nói thêm điều gì, bố ngồi xuống bên cửa sổ đọc tờ báo Chicago Inter- Ocean đến trong chuyến thư vừa qua. Bố bỗng nhìn lên nói: - À này, trường học đóng cửa cho tới khi có than tới. Laura nói một cách chắc chắn: - Mình có thể tự học. Cô và Mary thì thầm với nhau về các đề toán, Carrie học đánh vần trong lúc mẹ khâu vá và bố lặng lẽ đọc báo. Trận bão tuyết trở nên tồi tệ hơn. Nó còn hơn cả trận bão tuyết dữ dội nhất mà họ từng nghe nói. Căn phòng dần dần lạnh hơn. Không có hơi nóng ở phòng trước để hỗ trợ thêm cho lò bếp. Hơi lạnh trườn vào phòng trước đang lòn qua dưới khung cửa. Hơi lạnh cũng bò qua dưới khung cửa gian chái. Mẹ phải mang những tấm đệm chùi chân từ phòng trước tới đó cuốn lại nhét chặt dưới các khung cửa. Buổi trưa bố ra chuồng ngựa. Không cần cho bò ngựa ăn vào giữa trưa nhưng bố ra coi chúng có được an toàn không. Bố lại đi vào giữa buổi chiều. Bố giải thích với mẹ: - Mấy con vật phải được ăn nhiều để giữ cho đủ ấm trong cái lạnh như thế này. Bão thật tệ hại và anh đã phải vật lộn một cách khó khăn vào sáng nay mới mang nổi cỏ vào chuồng trong những đợt gió đó. Anh không thể làm được nếu cỏ không ở ngay trước cửa. Cũng có một điều may khác là các đống tuyết đã bay hết. Chúng bị chà sạch chỉ còn trơ lại mặt đất. Bão gào hú dữ dội hơn khi bố bước ra ngoài và một luồng hơi lạnh tràn qua gian chái dù mẹ đã đẩy tấm nệm chùi chân vào sát cửa trong ngay khi bố đóng cửa lại. Mary đang kết một tấm nệm mới. Cô cắt những tấm len rách thành nhiều dải dài và mẹ đặt mỗi màu vào một chiếc hộp riêng. Mary sắp hộp theo thứ tự để nhớ màu nào nằm tại đâu. Cô kết các dải lại với nhau thành dây dài bỏ thành đống bên cạnh ghế. Khi tới cuối một dải màu cô chọn một màu cần để khâu nối vào. Chốc chốc cô lại sờ nắn đống dải đang lớn lên. Cô nói: - Chị chắc là chị làm gần đủ rồi. Chị sẽ lo xong để em khâu vào ngày mai, Laura. Laura phản đối: - Em muốn làm xong dải viền ren này trước đã. Cơn bão này làm tối sầm hết khiến em khó thể tính các mũi đan. Mary trả lời vui vẻ: - Bóng tối không làm phiền chị được. Chị nhìn bằng những ngón tay của mình. Laura chợt xấu hổ vì đã thiếu kiên trì. Cô nói với vẻ sẵn sàng: - Em sẽ khâu chiếc nệm của chị ngay khi chị làm xong. Bố đi khá lâu. Mẹ phải hâm nóng lại bữa ăn tối. Mẹ không thắp đèn và tất cả ngồi nghĩ tới sợi dây phơi sẽ dẫn đường cho bố qua cơn bão mù mịt. Mẹ lên tiếng tự kích động: - Nào, các con! Mary, con khởi xướng một bài hát đi. Mình sẽ hát cho tới khi bố trở vào. Thế là tất cả cùng hát cho tới khi bố bước vào. Đèn được thắp lên trong lúc ăn tối, nhưng mẹ bảo Laura để chén đĩa lại không rửa. Tất cả phải lên giường ngay để tiết kiệm dầu và than. Sáng hôm sau chỉ có bố và mẹ dậy lo công việc. - Các con cứ nằm ấm trên giường tùy thích. Mẹ nói và Laura chỉ trở dậy vào lúc chín giờ. Hơi lạnh bám lấy căn nhà, thấm vào, tăng dần lên mãi với tiếng ồn không dứt và ánh sáng chạng vạng tựa hồ níu thời gian đứng lại. Laura cùng Mary và Carrie đã học bài xong. Laura khâu dải dây kết thành một chiếc nệm tròn và đặt trên lòng Mary để cô có thể nhìn thấy bằng những ngón tay. Chiếc nệm làm cho hôm đó khác hẳn hôm trước, nhưng Laura cảm thấy ngày hôm trước lại quay Laura khi tất cả lại cùng hát trong bóng tối cho tới khi bố trở về và ăn cùng những món ăn trong bữa tối gồm khoai tây, bánh mì với xốt táo khô, uống trà và bỏ bát đĩa không rửa và lên giường ngay để tiết kiệm dầu và than. Một ngày khác cũng giống hệt. Gió bão không ngừng rên rỉ, gào thét, tuyết xoáy không ngừng rú rít. Tiếng ồn, bóng tối và hơi lạnh không bao giờ dứt. Đột nhiên tất cả ngưng lại. Gió bão dứt hẳn. Đó là vào cuối buổi chiều thứ ba. Laura thổi hơi và cào sương giá trên kính cửa sổ cho tới lúc có một lỗ hở để cô có thể nhìn thấy tuyết lướt thật thấp xuống mặt phố Main Street trước một đợt gió bình thường. Nắng chiều phản chiếu trên lớp tuyết đang bay lấp lánh màu hung. Bầu trời quang đãng và se lạnh. Rồi lớp ánh sáng hồng nhạt dần, tuyết đổi thành màu trắng xám và những cơn gió đều đều trở nên mạnh hơn. Bố đã làm xong công việc và trở vào. Bố nói: - Ngày mai anh phải đi kéo một ít cỏ khô. Nhưng bây giờ anh đi qua tiệm Fuller’s để xem ngoài mình còn có ai sống sót trong cái thị trấn đáng chửi rủa này. Suốt ba ngày rồi mình không thể thấy một ánh sáng, cũng không có một cụm khói hoặc một dấu hiệu nào cho hay có một người sống ở đây. Lợi ích của thị trấn là gì khi mà một người không thể nhận được một điều tốt lành nào? Mẹ nói: - Cơm tối sắp có rồi, Charles. Bố nói với mẹ: - Anh sẽ về trong một nháy mắt. Vài phút sau bố trở về và hỏi: - Có cơm chưa? Mẹ đang xúc thức ăn lên đĩa và Laura đang xếp ghế quanh bàn. Bố nói: - Mọi thứ trong thị trấn đều ổn và nghe nhà ga nói là sáng mai sẽ đưa người tới khai thông chỗ nghẽn lớn ở phía bên này Tracy. Mẹ hỏi: - Cần bao nhiêu thời gian mới thông xong đường cho xe lửa? Bố đáp: - Không thể nói được. Giá mà mình có được một ngày quang đãng để họ dọc sạch đường cho xe lửa thông vào hôm sau. Nhưng họ phải xúc tuyết ở cả hai bên chỗ nghẽn và lúc này các bờ tuyết đông cứng trong suốt lên tới đỉnh. Bây giờ họ phải đào vào một tứ đông cứng với độ tuyết dầy ba mươi bộ. Mẹ nói: - Việc sẽ không kéo dài lắm trong thời tiết tốt. Chắc chắn phải có một thời tiết tốt. Mình đã gặp quá nhiều bão và là những trận bão tệ hại hơn tất cả những trận bão trong mùa đông vừa qua. Chương 16: Thời Tiết Tốt Buổi sáng trong trẻo quang đãng nhưng không có lớp học. Trường đóng cửa cho tới khi xe lửa chở than tới. Phía ngoài trời nắng nhưng sương giá vẫn còn bên cửa sổ và trong bếp có vẻ buồn chán và mờ tối. Carrie nhìn ra bên ngoài qua một lỗ hổng trong sương giá khi cô đang rửa chén đĩa của bữa ăn sáng còn Laura ủ rũ té văng lớp nước lạnh trong bồn rửa chén. Carrie nói một cách khổ sở: - Em muốn đi tới một chỗ nào đó. Ở mãi trong cái nhà bếp cũ xì này mệt quá rồi. Mary khẽ nhắc: - Hôm qua mình đã hết sức cảm ơn cái nhà bếp ấm áp này. Bữa nay mình phải cảm ơn bão đã qua rồi. Laura cắt ngang: - Dù sao chị cũng không đi học. Cô cảm thấy xấu hổ ngay khi nghe thấy những lời nói thốt ra nhưng khi nghe mẹ nhắc với giọng khiển trách “Laura”, cô lại cảm thấy cáu kỉnh hơn. Mẹ tiếp tục nói trong lúc đậy kín ổ bánh đã nhào trộn kỹ và đặt trước lò hấp cho nở ra: - Khi làm xong hết mọi việc, các con hãy mặc đồ ấm và cả Mary cũng thế, rồi tất cả ra ngoài sân hít thở không khí trong lành. Lời nói của mẹ khiến tất cả đều phấn khởi. Laura và Carrie làm việc thật nhanh và chỉ một thoáng sau các cô đã hối hả trong áo choàng, khăn san, khăn quấn và bao tay. Laura đưa Mary qua gian chái và tất cả lao vào khoảng trống lạnh lẽo lấp lánh. Nắng chiếu lóa mắt và hơi lạnh khiến các cô hụt hơi. Laura kêu lớn: - Đưa các cánh tay về phía sau và hít vào thật sâu, thật sâu! Cô biết rằng cái lạnh sẽ giảm bớt khi người ta không sợ nó. Các cô đều đưa cánh tay về phía sau, hít khí lạnh và xuyên qua những chiếc mũi đang co rúm lại, hơi lạnh thấm sau vào trong lồng ngực khiến các cô đều ấm lên. Ngay cả Mary cũng cười lớn tiếng. Cô nói: - Chị hửi thấy mùi tuyết! Tươi mát và sạch hết sức! Laura nói với cô: - Bầu trời xanh và khắp nơi trắng lung linh. Chỉ mấy căn nhà dựng thẳng đâm thọc qua tuyết và làm hư màn trắng đi. Em mong khắp nơi không có một căn nhà nào. Mary nói: - Một ý nghĩ khủng khiếp. Mình sẽ chết cóng hết. Laura tuyên bố: - Em sẽ đắp cho mình một lều tuyết và mình sẽ sống như người Eskimo. Mary rùng mình: - Eo ôi, vậy là trần như nhộng. Chị chịu thôi. Tuyết lạo sạo dưới bàn chân các cô, nhưng Laura không vốc nổi lên một nắm để làm trái cầu tuyết vì nó đóng quá cứng. Cô kể cho Carrie về tuyết mềm như thế nào ở vùng Big Woods thuộc Wisconsin thì Mary lên tiếng: - Có ai đang tới? Giống như tiếng ngựa của nhà mình. Bố đang đưa ngựa về chuồng. Bố đứng trên một thứ xe trượt tuyết thật kì lạ. Đó là một bục ghép bằng ván dài ngang thùng xe và lớn gấp hai thùng xe. Nó không có cần trước nhưng có một vòng xích buộc vào các bàn trượt rộng và những gióng cây buộc vào sợi xích. Laura hỏi: - Bố kiếm ở đâu ra cỗ xe trượt kì lạ đó, bố? Bố nói: - Bố đóng nó ở xưởng mộc. Bố nhấc cây chĩa trong chuồng ngựa, nhìn nhận: - Nó kì cục thật. Nhưng nó chứa nổi cả một đống cỏ nếu lũ ngựa kéo nổi. Bố không muốn bỏ phí thời giờ đi kéo cỏ về cho bò ngựa. Laura muốn hỏi bố về tin tức xe lửa nhưng câu hỏi sẽ khiến Carrie nhớ ra không còn than, không còn dầu, không còn thịt cho tới khi xe lửa tới. Cô không muốn làm cho Carrie lo lắng. Tất cả đều đang rất hào hứng, khỏe khắn trong thời tiết sáng đẹp này và nếu nắng kéo dài một ít lâu nữa thì xe lửa sẽ đến và không còn gì phải lo ngại nữa. Trong lúc cô suy nghĩ về điều đó, bố bước lên cỗ se trượt lớn thấp lè tè. Bố nói: - Nhắc với mẹ là họ đã mang xe xúc tuyết cùng một chuyến xe lửa đầy công nhân từ miền đông để mở đoạn đường nghẽn tại Tracy, Laura! Chỉ cần thời tiết đẹp vài ngày là họ sẽ lo ổn cho xe lửa chạy lại. - Dạ, bố. Con sẽ nói với mẹ! Laura nói với bố với giọng biết ơn và bố lái cỗ xe đi, quanh góc phố quẹo sang phố Main Street hướng về phía nhà trại. Carrie thở ra một hơi dài và kêu lên: - Đi nói liền với mẹ thôi! Qua cách nói của cô, Laura biết Carrie đang rất muốn hỏi bố về xe lửa. - Chúa ơi, gò má đỏ lên hết rồi! Mẹ nói khi các cô chạy vào trong nhà bếp mờ tối, ấm áp. Hơi lạnh tỏa ra từ lớp đồ khoác ngoài khi các cô cởi ra. Hơi nóng trên lò bếp khiến các ngón tay lạnh cóng ngứa ngáy một cách dễ chịu và mẹ rất mừng được nghe nói về xe sửa chữa và xe xúc tuyết. Mẹ nói: - Thời tiết này có vẻ sẽ kéo dài một thời gian và Laura này mình đã bị bão quá nhiều rồi. Sương giá đang tan trên cửa sổ và đóng thành những dải băng mỏng trên mặt kính. Laura phải khó khăn mới cạy ra hết được và lau khô các ô kính. Cô ngồi trong ánh sáng ban ngày đan tiếp dải đăng-ten và thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn ra những tia nắng chiếu trên tuyết. Không có một đám mây trên nền trời nên không có lí do gì lo ngại cho bố dù bố không quay về sớm như dự định. Đúng mười giờ, bố không về. Mười một giờ cũng không thấy dấu hiệu nào về bố. Chỉ có hai dặm đường đi về từ đây tới nhà trại và khoảng nửa giờ chất đống cỏ lên cỗ xe. Cuối cùng Mary lên tiếng: - Con chắc có chuyện gì giữ bố lại? Mẹ nói: - Giống như bố đã tìm thấy một việc cần làm ở nhà trại. Mẹ bước tới cửa sổ ngắm bầu trời phía tây bắc. Ở đó không có một gợn mây. Mẹ tiếp tục nói: - Không có gì để lo ngại. Có thể bão làm hư hại căn lều và cần sửa ngay. Buổi trưa, việc nướng bánh ngày thứ bảy đã xong với ba ổ bánh vàng cháy giòn tan và món khoai tây nấu đã bốc cạn hơi, còn trà đã pha nhưng bố chưa về. Tất cả đều chắc chắn đã có một điều gì xảy ra với bố, dù không ai nói ra và không ai có thể đoán đó là điều gì. Những con ngựa già chín chắn không thể chạy loạng quạng. Laura nghĩ tới những kẻ cướp đất. Bố không mang súng nên sẽ có chuyện nếu những kẻ cướp đất có mặt trong căn lều bỏ trống. Nhưng những kẻ cướp đất không thể băng qua bão tuyết để tới. Ngay cả gấu, báo hay người da đỏ cũng vậy. Không có một con sông nào cho tất cả vượt cạn lội qua. Vậy trong thời tiết tốt đẹp, thứ gì có thể cản trở hoặc làm hại cho một người đàn ông đang điều khiển những con ngựa ngoan ngoãn chỉ vượt một dặm đường bằng cỗ xe trượt tuyết đến nhà trại và quay trở lại trên cùng đoạn đường đó với một đống cỏ khô? Rồi bố hiện ra đang quẹo vào góc phố Second Street và qua cửa sổ, Laura nhìn thấy bố chạy ngang đầy tuyết trên một đống cỏ khô đầy tuyết che kín hết cỗ xe giống như đang được kéo lê trên tuyết. Bố ngưng lại bên cạnh chuồng, tháo ngựa đưa vào ngăn của chúng rồi bước vào nhà chái đạp chân. Laura và mẹ bày bữa ăn trưa lên bàn. Bố nói: - Chúa ơi! Bữa cơm có vẻ ngon quá! Anh có thể ăn tươi một con gấu mà không cần muối! Laura đổ nước nóng từ trong ấm nước vào thau cho bố rửa mặt. Mẹ nói nhỏ nhẹ: - Chuyện gì giữ anh lại lâu vậy, Charles? Bố đáp: - Cỏ. Bố vùi mặt vào hai bàn tay đầy nước xà phòng và Laura với mẹ nhìn nhau ngơ ngác. Bố nói vậy là có ý gì? Một phút sau, bố tới bên chiếc khăn cuốn và nói tiếp: - Cỏ rối ở phía dưới tuyết. Bố vẫn nói trong lúc lau tay: - Không thể đi theo đường cái. Không có cái gì hướng dẫn, không có hàng dậu, không có cây. Ngay khi ra khỏi thị trấn, không còn thấy gì ngoài những đống tuyết ở mọi hướng. Ngay cả hồ cũng bị phủ lấp. Gió dồn tuyết cứng ngắt và đông lại nên xe trượt thẳng ở trên tuyết và em sẽ nghĩ là em có thể đi thẳng tới bất kì nơi nào em muốn. Vậy đó, lần đầu tiên anh biết được chuyện này khi lũ ngựa chúi cằm vào đống tuyết cứng ngắt kia. Anh đã đâm xuống đầm vì ở đó tuyết cũng có vẻ đông lại như ở các nơi nhưng phía dưới là cỏ. Loại cỏ đầm lầy giữ một lớp tuyết cứng ở phía trên trong khi ở dưới chỉ có những cọng cỏ và không khí. Ngay khi lũ ngựa sấn tới, chúng lao thẳng xuống. Anh phải dành trọn buổi sáng phát sốt với con ngựa bỏ đi đó, Sam… Mẹ nói: - Charles! Bố đáp: - Caroline! Đủ để phải chửi thề. David rất tốt, nó có cảm giác của giống ngựa nhưng Sam thì hoàn toàn điên. Hai con ngựa đã ở đó, lưng chìm trong tuyết và mọi cố gắng thoát ra của chúng chỉ khiến lỗ hổng thành lớn hơn. Nếu chúng kéo cỗ xe xuống đó nữa thì không bao giờ anh lôi lên nổi. Thế là anh tháo xe ra. Rồi anh cố lôi cặp ngựa lên chỗ cứng để lại đi tiếp. Chính là Sam phát rồ, phóng lên, khịt mũi, nhảy nhót và đầm mình sâu hơn vào đám cỏ tuyết rối nùi đó. Mẹ đồng ý: - Đúng là một việc không hay. Bố nói: - Nó bứt tung xung quanh nên anh sợ David bị va chạm. Thế là anh phải nhảy xuống tháo dây cho hai con tách rời. Anh bám chặt Sam và cố sức đập tuyết xuống để làm một lối đi đủ cứng cho nó bước leo lên đỉnh đống tuyết. Nhưng nó chồm đứng trên hai chân sau, phóng tới và phá hư cho tới khi anh phải nói rằng vượt khỏi mức chịu đựng của bất kì người đàn ông nào. Mẹ hỏi: - Anh đã làm cái gì, Charles? Bố nói: - Ồ, sau hết thì lôi được nó ra. David bước theo anh ngoan ngoãn như một con cừu, bước thật cẩn thận và đi thẳng lên. Vậy là anh cột nó vào cỗ xe và nó kéo đi vòng lỗ hổng. Nhưng anh phải kìm cứng Sam suốt thời gian đó. Không có gì khác để hạn chế nó. Sau đó, anh lại cột cả hai vào với nhau để tiếp tục đi. Nhưng chỉ đi được khoảng một trăm bộ thì lại rơi xuống. Mẹ kêu lên: - Trời ơi! Bố nói: - Cái cách xảy ra là như thế. Suốt buổi sáng. Chiếm hết của anh trọn nửa ngày để đi hai dặm đường, chở về một chuyến cỏ và mệt hơn làm việc mệt nhọc trọn một ngày. Chiều nay anh sẽ đưa một mình Sam đi. Nó không thể kéo một đống lớn nhưng dễ hơn cho cả nó lẫn anh. Bố ăn vội vã rồi lật đật ra thắng một mình David vào cỗ xe trượt. Lúc này tất cả đều đã biết điều bố đang làm và không còn lo ngại nhưng tất cả đều tội nghiệp cho David đang phải rơi xuống những đống tuyết giả mạo và cho bố phải tháo xe, giúp con ngựa leo lên rồi cột nó vào xe trở lại. Suốt buổi chiều hôm đó, trời vẫn nắng, trên nền trời không một gợn mây và trước khi trời tối, bố đã kéo về được hai đống cỏ nhỏ. Bố nói với các cô lúc ngồi ăn tối: - David theo bố hệt như một con chó. Khi nó sụp xuống tuyết, nó đứng bất động cho tới lúc bố đập xong một lối đi cứng để nó bước lên. Rồi nó đi theo bố ra khỏi hố một cách cẩn thận tựa như nó hiểu rõ chuyện đó và bố tin chắc nó làm được. Ngày mai bố sẽ cột nó vào cỗ xe bằng sợi dây dài để khi nó sa hố bố không cần phải tháo xe ra. Bố chỉ phải giúp đưa nó lên và khi đó với sợi dây dài, nó có thể kéo cỗ xe đi vòng chiếc hố. Sau bữa ăn tối, bố qua tiệm đồ sắt Fuller’s để mua dây. Bố trở về ngay cùng với các tin tức. Tàu sửa chữa và máy xúc tuyết đã khai thông một nửa đoạn đường nghẽn ở Tracy vào ngày hôm đó. Bố nói: - Lần này phải khai thông lâu hơn vì mỗi lần dọn đường họ đều quăng tuyết sang hai bên khiến chỗ bị nghẽn trở thành sâu hơn nhiều. Nhưng Woodworth ở nhà ga bảo là dường như xe lửa sẽ thông vào ngày mốt. Mẹ nói: - Tin tốt lành rồi. Em phải cảm ơn sẽ lại có thịt ăn. Bố tiếp tục: - Chưa hết đâu. Dù có xe lửa hay không có xe lửa, mình vẫn sắp có thư. Thư đã được người ta cho chuyển bằng xe ngựa và người mang thư là Gilbert sẽ rời đây đi Preston vào sáng mai. Anh ta đang đóng một xe trượt tuyết. Vậy nếu em muốn gửi thư thì có thể được rồi. - Em đang viết một lá thư cho mọi người ở Wisconsin. Em không có ý viết xong sớm hơn, nhưng có lẽ em đã có thể dứt. Thế là mẹ mang lá thư tới bên tấm trải bàn dưới cây đèn và sau khi mẹ làm chảy tan mực trong lò thì tất cả ngồi quanh bàn nghĩ tới những điều cần nói cuối cùng không khi mẹ viết bằng cây viết nhỏ màu đỏ có chiếc quản cẩn xà cừ với hình thù giống như một cọng lông chim. Khi những chữ viết đều đặn kín trang giấy mẹ xoay ngang lại viết tiếp cho kín hết. Trên mặt giấy kia mẹ cũng làm như thế để mỗi phân giấy đều có những lời cần thiết. Carrie chỉ là một em bé khi ở Wisconsin. Cô không nhớ ra các cô, các dì, các chú, các bác và đám anh chị em họ Alice, Ella, Peter còn Grace thì chưa khi nào được thấy họ. Nhưng Laura và Mary vẫn nhớ rõ mọi người. Laura nói: - Mẹ nhắc là con vẫn còn giữ con búp bê vải Charlotte và con mong là con sẽ có một con mèo con là chút chít của con mèo đen Susan. Mẹ nói: - Lũ con cháu không chiếm nhiều chỗ lắm. Mẹ sợ lá thư này nặng quá rồi. Bố nhắc: - Nói với họ là khắp xứ này không có một con mèo. Mẹ tiếp: - Em cũng mong có được. Mình cần một con chó bắt chuột. Mary nói: - Mẹ hãy nói rằng mình mong cho mọi người tới họp mặt Giáng sinh năm nay với mình kiểu như trước đây ở Big Woods. Mẹ sửa lại một tiếng của Mary: - Giống như trước đây. Laura than: - Chúa ơi! Khi nào thì Giáng sinh? Con đã quên bẵng chuyện này. Chắc là sắp đến rồi. Grace nhún nhảy trong vòng tay Mary và kêu: - Bao giờ Giáng sinh tới? Bao giờ ông già Noel tới? Mary và Carrie đã kể tất cả về ông già Noel cho bé. Lúc này Mary không còn biết nói gì thêm với bé và cả Laura cũng thế. Nhưng Carrie lên tiếng: - Có lẽ ông già Noel không thể tới đây vào mùa đông này đâu, Grace, vì quá nhiều bão và tuyết. Em thấy đó, ngay cả xe lửa cũng không tới được. - Grace mở lớn cặp mắt to màu xanh lơ nhìn mọi người và nói một cách lo lắng: - Ông ấy đến bằng xe trượt tuyết mà. Ông ấy có thể đến, phải không bố? Phải không mẹ? Mẹ nói: - Dĩ nhiên là ông ấy có thể đến, Grace. Lúc đó, Laura nói một cách quả quyết: - Ông già Noel có thể đến bất kì nơi nào. Bố nói: - Có lẽ ông ấy sẽ mang xe lửa đến cho mình. Buổi sáng, bố mang lá thư ra bưu điện và tại đó bố thấy ông Gilbert phủ kín người trong những chiếc áo da, đặt túi thư lên cỗ xe trượt tuyết lái đi. Ông phải qua mười hai dặm tới Preston. Bố giải thích với mẹ: - Tại đó, ông ta sẽ gặp một toán đưa thư khác từ miền đông tới và nhận thư về. Ông ta phải về tới vào tối nay nếu không bị ngăn trở quá nhiều bởi các đầm lầy. Mẹ nói: - Thời tiết đang đẹp cho chuyện đi lại mà. Bố nói: - Tốt hơn hết là anh nên tận dụng thời tiết này. Bố bước ra buộc David vào cỗ xe trượt tuyết bằng một sợi dây dài. Sáng hôm đó bố kéo về thêm một đống cỏ khô. Buổi trưa, trong lúc mọi người ngồi ở bàn ăn, trời đột nhiên sầm tối và gió bắt đầu gào hú. Bố nói: - Bão tới nữa! Anh mong là Gilbert tới được Preston bình an. Chương 17: Lúa Giống Hơi lạnh và bóng tối lại kéo đến. Những móc đinh trên mái nhà trắng sương giá và các ô kính cửa sổ xám xịt. Một lỗ nhỏ được cào ra chỉ cho thấy một màn trắng quay cuồng sát phía bên kia ô kính. Căn nhà vững chắc run rẩy lay động trong tiếng gió rên rỉ, gầm hú. Mẹ nhấn thật chặt những tấm nệm vải vào sát dưới các khung cửa nhưng hơi lạnh vẫn trườn vào. Khó có thể hứng khởi nổi. Buổi sáng và buổi chiều, bố lần theo sợi dây phơi ra chuồng ngựa cho lũ ngựa, con bò sữa và con bò con ăn. Bố phải lo dự trữ cỏ khô. Bố quay vào lạnh tới mức khó làm ấm lại ngay. Ngồi trước lò bếp, bố đặt Grace lên đầu gối và ôm Carrie sát vào người rồi bố kể chuyện những con gấu, những con báo mà bố đã từng kể cho Mary và Laura nghe. Sau đó, vào buổi tối bố mang đàn ra chơi những điệu nhạc vui tươi. Khi tới giờ ngủ và phải đối mặt với cái lạnh trên gác, bố chơi điệu nhạc đưa các cô đi ngủ. Bố nói: - Bây giờ, tất cả sẵn sàng! Phải, trái – phải, trái, bước! Laura đi đầu mang theo một chiếc bàn ủi hơ nóng quấn trong mền, Mary nối theo với một bàn tay đặt trên vai Laura. Carrie đi sau chót với một chiếc bàn ủi khác và tiếng nhạc đưa các cô lên cầu thang. Tiến lên! Tiến lên! Hỡi người can đảm! Màu mũ xanh đang phủ kín biên thùy Cờ biển tung bay đưa ta bước tới Tiếng thơm này sử sách mãi ghi. Núi cao không chùn bước Những con người đất nước Quyết đấu tranh Cho gia đình và tổ quốc vẻ vang. Tiếng nhạc giúp được phần nào. Laura hi vọng cô làm ra bộ hào hứng đủ để khuyến khích những người khác. Nhưng suốt thời gian đó, cô biết rằng bão đã chặn lại đường xe lửa. Cô biết rằng gần như trọn đống than trong gian chái đã hết và trong thị trấn không còn than nữa. Dầu lửa trong đèn đã vơi nhiều dù mẹ chỉ thắp đèn trong lúc cả nhà ăn bữa tối. Thịt không còn cho tới khi xe lửa tới. Bơ đã hết và chỉ còn một ít mỡ giọt để rắc trên bánh mì. Khoai tây vẫn còn nhưng bột mì thì chỉ gom vừa đủ để nướng thêm một đợt bánh nữa. Khi nghĩ về những thứ đó, Laura đinh ninh là xe lửa phải tới trước khi hết đợt bánh mì cuối cùng. Rồi cô lại bắt đầu nghĩ trở lại về than, về dầu lửa, về số mỡ giọt ít ỏi và về túi bột mì đã cận sát đáy. Nhưng chắc chắn, chắc chắn xe lửa phải tới. Suốt ngày và suốt đêm, căn nhà run rẩy trong tiếng gió rên rỉ, gào thét, tiếng tuyết trút trên vách, lên mái những chỗ mà những đinh móc đọng sương giá xuyên qua. Trong những căn nhà khác có người, có thể còn có ánh đèn, nhưng đó là chuyện quá xa để hình dung ra là có thực. Trong gian phòng sau cửa kho thực phẩm, Almanzo rất bận rộn. Cậu gỡ tất cả yên, cương, quần áo mắc trên bức vách cuối phòng xuống chất đống trên giường. Cậu đẩy bàn ăn sát vào tủ chén và trong khoảng trống đó cậu đặt một chiếc ghế thay cho giá cưa. Từ bức vách cuối phòng, cậu dựng lên một cái khung rồi cưa ván thành từng miếng đóng lên. Tiếng cưa và tiếng búa át hẳn tiếng ồn của gió bão. Khi dựng lên ở phía trong một bức vách lửng, cậu móc con dao nhíp ra rạch thủng một bao đựng lúa giống. Cậu nhấc chiếc bao nặng một trăm hai mươi pao lên cẩn thận trút hạt lúa vào khoảng trống giữa bức vách cũ và bức vách mới. Cậu nói với Royal đang ngồi đẽo gọt bên lò bếp: - Em tính là chỗ này có thể chứa hết tất cả. Khi em dựng bít lên hết sẽ có một thùng chứa không ai nhìn thấy. Royal nói: - Đó là việc của em. Lúa giống là của em. Almanzo đáp lại: - Anh cầm chắc mãi mãi nó là của em chứ! Và chắc chắn nó sẽ được gieo xuống đất, vào mùa xuân tới! Royal hỏi: - Cái gì khiến em nghĩ là anh sẽ bán lúa của em? Almanzo trả lời: - Anh gần như đã bán hết ngũ cốc rồi. Trận bão này sẽ giảm dần vào một lúc nào đó hoặc nó chỉ là một trận bão đầu tiên và ngay khi nó tạm dứt, cả thị trấn sẽ chất đống tại đây để mua lúa mì. Harthorn và Loftus đã chỉ giữ lại cho họ được đúng ba bao bột mì và trận bão này sẽ chận xe lửa tới sau Giáng sinh. Royal nhấn mạnh: - Tất cả những thứ đó đâu có nghĩa là anh bán lúa mì của em. Cậu nói: - Có lẽ không, nhưng em hiểu anh, Roy. Anh không phải một nông dân mà là một chủ cửa hàng. Một người đến đây nhìn quanh và nói “ Giá lúa mì của anh bao nhiêu?” Anh nói “Tôi bán hết lúa mì rồi”. Ông ta nói “ Những túi này là cái gì?”. Anh nói với ông ta “ Đây không phải lúa mì của tôi mà là của Manzo”. Thế là ông ta nói “Thôi, anh muốn giá bao nhiêu?” Và xin anh đừng nói với em rằng anh sẽ nói “Chúng tôi không bán đâu”. Không, thưa ngài Roy, anh là một chủ cửa hàng. Anh sẽ nói với ông ta “Ông trả bao nhiêu?”. Roy nhìn nhận: - Ừ, có lẽ anh sẽ nói. Điều đó có thiệt hại gì nào. - Thiệt hại ở chỗ giá cả sẽ được nâng cao tới mây xanh trước khi xe lửa được thông đường. Lúc đó em đang đi kéo cỏ ở một nơi nào đó và anh cho rằng em sẽ không từ chối một cái giá như thế hoặc anh nghĩ là anh hiểu biết nhiều hơn để làm lợi cho em. Anh không bao giờ tin rằng em dự tính gì khi em nói ra, Royal Wilder à. Royal nói: - Thôi, thôi, bình tĩnh đi, Manzo. Anh vẫn thấy anh lớn hơn em và có lẽ anh biết rõ hơn. - Có lẽ anh biết và có lẽ anh không biết. Dù sao chăng nữa, em sẽ đặt công việc của em theo hướng của riêng em. Em sẽ bít kín đám lúa giống của em không cho ai nhìn thấy để khỏi ai đưa ra bất kì vấn đề gì về nó và nó sẽ nằm sẵn tại đây khi mùa gieo hạt tới. Royal nói: - Được rồi, được rồi. Anh tiếp tục gọt cẩn thận một đoạn mắt xích liên kết từ một thanh gỗ thông, còn Almanzo trụ vững chân, nhấc từng bao lúa lên vai và trút vào trong chỗ cất giấu. Thỉnh thoảng một đợt gió thổi mạnh lay động các bức vách và thỉnh thoảng chiếc lò sưởi nóng đỏ lại phụt khói. Một tiếng gió gầm lên dữ dội hơn khiến cả hai lắng nghe và Almanzo nói: - Quỉ quái! Có một mắt gỗ ở đây! Cậu nói sau một lát suy tính: - Royal, đẽo cho em một miếng nêm vừa với cái mắt gỗ này, được không? Em muốn làm dứt việc này trước lúc lo công việc thường lệ. Royal bước tới ngắm nghía chiếc mắt gỗ. Anh khoanh vòng nó bằng một con dao và chọn một mẩu gỗ để làm chiếc nêm vừa khít. Anh nêu nhận xét: - Nếu giá cả lên cao như em nói thì em đúng là một thằng điên mới không chịu bán chỗ lúa mì của em. Trước mùa xuân, xe lửa sẽ thông đường. Lúc đó em sẽ mua hạt giống trở lại và còn có một món lời giống như anh đang tính làm. Almanzo nhắc anh: - Anh đã nói điều đó trước đây rồi. Em thà rằng chắc chắn hơn là hối tiếc. Anh không biết rõ khi nào xe lửa sẽ lại chạy và cũng không biết có lúa giống được chở đến trước tháng tư không. Royal nói: - Chẳng có gì chắc chắn ngoại trừ cái chết và thuế khóa. Almanzo nói: - Gần như chắc hẳn là cuối cùng mùa gieo hạt sẽ quay lại. Và những hạt lúa giống tốt sẽ tạo ra những vụ mùa tốt. Royal bình luận: - Em nói giống hệt ba. Anh thử chiếc nêm cho mắt gỗ và ngồi xuống chuốt lại. - Nếu trong vài tuần lễ nữa mà xe lửa không thông đường, anh không hiểu thị trấn này sống nổi bằng cách nào. Trong các cửa hàng thực phẩm không còn nhiều đồ dự trữ nữa. Almanzo nói: - Nông dân biết sắp xếp để xoay sở khi lâm vào cảnh đó. Gần như hết thảy đều làm ra sản phẩm vào mùa hè vừa qua giống như chúng ta. Và chúng ta có thể kéo dài cho tới khi thời tiết ấm áp nếu chúng ta phải như thế. Chương 18: Giáng Sinh Vui Vẻ Cuối cùng bão tuyết đã dứt. Sau ba ngày ồn ào liên tục, sự tĩnh lặng vang lên trong tai Laura. Bố vội vã đi kéo thêm cỏ khô và khi quay về, bố đưa David vào chuồng. Nắng vẫn đang lấp lánh trên tuyết và phía tây bắc không hề có mây khiến Laura thắc mắc không hiểu tại sao bố ngưng kéo cỏ. Mẹ hỏi nhanh khi bố bước vào: - Có chuyện gì không ổn, Charles? Bố đáp: - Gilbert đã tới Preston và trở về. Ông ấy có mang thư về. Giống như ngày Giáng sinh đã tới một cách bất chợt. Mẹ hi vọng có giấy tờ ở nhà thờ. Laura, Mary và Carrie hi vọng cha Eden sẽ gửi tới một thứ gì để đọc như thỉnh thoảng ông đã làm. Grace hào hứng vì tất cả tất cả đều hào hứng. Chờ bố trở về từ bưu điện thật khó khăn. Bố đi khá lâu. Đúng như mẹ nói, nôn nóng không phải là điều tốt. Hết thảy đàn ông trong thị trấn đều tới bưu điện và bố phải đợi tới phiên. Cuối cùng, bố đã trở về, hai tay đầy ắp. Mẹ hăm hở với đám giấy tờ từ nhà thờ còn Laura và Carrie cố chộp lấy bó báo Youth ‘s Companions. Cũng có cả báo tin tức nữa. Bố cười vui: - Đây! Đây! Đừng làm ồn quá! Không chỉ có thế là hết đâu. Hãy đoán coi bố còn có cái gì! Laura kêu lên: - Một lá thư? Ô, bố, bố có một lá thư? Mẹ hỏi: - Ai gửi vậy? Bố đáp: - Caroline, em có tờ Advances. Laura và Carrie có tờ Youth ‘s Companions. Anh có tờ Inter-Ocean và tờ Pioneer Press. Mary có thư. Mặt Mary sáng lên. Cô sờ đo độ dày và kích thước lá thư. - Một lá thư lớn và dầy cộm. Đọc đi, mẹ. Mẹ mở thư và đọc lớn. Thư của cha Eden. Cha tỏ ý tiếc vì ông không thể trở lại để tổ chức một buổi lễ vào mùa xuân vừa qua do phải đi lên xa hơn ở phía bắc. Ông hi vọng sẽ gặp lại tất cả khi mùa xuân trở lại. Các em trong lớp học chủ nhật ở Minnesota gửi tới cho các cô gái một bó tạp chí Youth ‘s Companions và sẽ gửi một bó khác vào năm sau. Nhà thờ của ông đã gửi tới họ một thùng quà Giáng sinh và ông hi vọng số quần áo sẽ vừa vặn. Đáp lại lòng hiếu khách mà họ đã dành cho ông và giáo sĩ Stuart vào mùa đông trước ở hồ nước Bạc, ông gửi tới một món quà Giáng sinh. Ông chúc tất cả có một Giáng sinh vui vẻ và một năm mới hạnh phúc. Một sự im lặng ngay sau khi mẹ đọc dứt bức thư. Rồi mẹ nói: - Dù sao mình đã có lá thư tốt lành này. Bố nói với tất cả: - Gilbert chuyển lới lại cho biết người ta đã tăng gấp đôi số công nhân và đưa hai xe xúc tuyết tới đoạn đường nghẽn ở Tracy. Mình có thể kịp nhận thùng quà vào ngày Giáng sinh. Mẹ nói: - Chỉ còn vài ngày nữa. Bố nói: - Trong vài ngày có thể làm xong rất nhiều việc. Nếu tình trạng hấp dẫn này của thời tiết kéo dài thì không có lí gì đường xe lửa không khai thông kịp. Carrie nói: - Ôi, con mong thùng quà Giáng sinh sẽ tới. Bố thông báo tin tức cho mẹ: - Các nhà trọ đã đóng cửa. Họ không còn củi đốt và lúc này, tay quản lí ngân hàng Ryth đã mua cho tới miếng vàn cuối cùng ở xưởng mộc. Mẹ nói: - Dù sao mình không có khả năng đốt ván gỗ. Nhưng, Charles, mình đã gần hết than rồi. Bố đáp một cách vui vẻ: - Mình sẽ đốt cỏ khô. - Cỏ khô? Mẹ lên tiếng và Laura hỏi: - Làm sao mình có thể đốt cỏ khô được, bố? Cô nhớ tới lửa đã lan nhanh qua các đám cỏ khô trên đồng cỏ như thế nào. Ngọn lửa liếm qua những cọng cỏ nhẹ, mỏng manh và biến mất trước khi tàn than vụn vỡ rơi xuống. Làm sao mà gian phòng giữ được hơi ấm của thứ lửa tắt nhanh như thế trong khi ngay cả sức cháy nóng hực của than cứng vẫn không thể ngăn nổi hơi lạnh? Bố nói với cô: - Mình sẽ phải tìm tòi xoay sở. Mình sẽ sắp xếp xong! Túng thì phải tính. Mẹ nói: - Có thể xe lửa sẽ tới đúng lúc. Bố lại đội mũ lên và nhắc mẹ là hãy làm bữa trưa hơi trễ một chút. Bố phải cố kéo kịp về thêm một chuyến cỏ khô nữa nên cần đi gấp. Bố bước ra và mẹ nói: - Tới đây, các con. Hãy cất bó báo Youth ‘s Companions đi. Mình cần giặt giũ trong lúc thời tiết sáng đẹp như vầy. Suốt ngày hôm đó, Laura, Carrie và Mary luôn hướng về bó báo Youth ‘s Companions và thường nhắc tới bó báo. Nhưng ngày sáng đẹp rất ngắn. Các cô quậy và đập quần áo đang sôi trên lò, dùng cán chổi nhấc bỏ qua khạp để mẹ chà xát xà phòng. Laura xối nước lên, còn Carrie quậy chiếc túi màu xanh trong làn nước xả thứ hai cho tới khi nó đủ xanh. Laura nấu cho hồ sôi lên. Và lúc mẹ lấy ra lần chót khỏi nước lạnh để hong những món đồ đã giặt trên dây phơi thì bố về tới để ăn trưa. Sau đó, các cô rửa chén đĩa, cọ sàn nhà, chùi lò bếp và rửa phía trong các ô kính cửa sổ. Mẹ mang quần áo đã khô cứng vào, phân loại, phun nước và cuốn lại để chờ ủi. Ánh sáng chiều chạng vạng đã hết. Thế là hôm đó quá trễ để đọc báo và sau bữa ăn tối lại phải tắt đèn để giữ lại số dầu lửa cuối cùng. Mẹ thường nói: - Công việc trước, trò chơi sau. Lúc này mẹ mỉm cười dịu dàng với Laura, Carrie và nói: - Các con đã giúp mẹ có một ngày làm việc thật tốt. Thế là các cô đã được tưởng thưởng. Carrie nói một cách sung sướng: - Ngày mai mình sẽ đọc một chuyện. Laura nhắc: - Ngày mai mình còn lo ủi đồ. Mẹ nói: - Ừ, mình còn phải phơi nệm và dọn sạch các xó xỉnh trên gác trong thời tiết tốt đẹp này. Bố bước vào và nghe thấy mấy mẹ con đang nói. Bố lên tiếng: - Ngày mai anh sẽ đi làm việc ở đường sắt. Ông Woodworth đã nhắc tất cả những người đàn ông đủ sức hãy đi làm việc trên nền đường sắt. Người giám thị việc thông đường ở Tracy đã đưa tàu sửa tới đó và các toán xúc tuyết đang xúc dọn đoạn đường từ Huron về miền đông. Bố tuyên bố: - Nếu gân sức và ý chí giải quyết nổi công việc thì sẽ có một chuyến xe lửa kịp tới vào dịp Giáng sinh. Đêm đó, bố từ chỗ làm việc trở về với nụ cười nở rộng trên gương mặt đỏ như mặt trời. Bố nói lớn: - Tin tốt lành! Xe sửa chữa sẽ thông đường vào một khoảng nào đó trong ngày mai! Chuyến xe lửa thường lệ sẽ đến sau đó, có thể là ngày mốt. - Ôi, tốt quá! Khoái quá! Laura và Carrie cùng kêu lên và mẹ nói: - Đúng thực là tin tốt lành rồi. Mắt anh làm sao thế, Charles? Mắt bố sưng đỏ. Bố trả lời vui vẻ: - Xúc tuyết trong nắng hại mắt lắm. Một số người đã bị chói tuyết không nhìn thấy gì nữa. Pha cho anh một ít nước muối, được chứ Caroline? Anh sẽ rửa mắt sau khi làm xong các việc thường lệ. Khi bố đã ra chuồng ngựa, mẹ buông người xuống chiếc ghế bên cạnh Mary, nói: - Các con, mẹ sợ dịp Giáng sinh này sẽ rất nghèo nàn. Nhưng trận bão tuyết khủng khiếp và mối lo sưởi ấm khiến mình không còn thời giờ để sắp đặt gì hết. Carrie mở đầu: - Có lẽ thùng quà Giáng sinh… Mary nói: - Mình không nên tin tưởng vào nó. Laura đề nghị: - Mình có thể chờ cho tới ngày Giáng sinh, tất cả trừ… Và cô nhấc bổng Grace đang mở to mắt lắng nghe. Grace hỏi với chiếc môi run run: - Ông già Noel không tới hả? Laura ôm chặt bé và nhìn qua mái tóc vàng của bé. Mẹ nói một cách quả quyết: - Ông già Noel luôn luôn đến với những cô bé ngoan, Grace ạ. Mẹ tiếp: - Nhưng các con, mẹ có một ý nghĩ. Các con thấy thế nào về việc mình giữ tất cả giất tờ của nhà thờ và bó tạp chí Youth ‘s Companions của các con chỉ mở đúng ngày Giáng sinh? Sau một lúc, Mary nói: - Con thấy đó là một ý kiến hay. Nó giúp mình học được sự từ chối. Laura nói: - Em không muốn thế. Mary nói: - Không ai muốn. Nhưng đây là điều tốt cho chúng ta. Nhiều Laura Laura không muốn làm ngay cả điều tốt. Nhưng sau một hồi im lặng nữa, cô nói: - Được, nếu mẹ và Mary muốn vậy, con sẽ làm theo. Như thế cũng có một điều khiến mình trông đợi ngày Giáng sinh. - Con thấy điều đó thế nào, Carrie? Mẹ hỏi và bằng một giọng nhỏ nhẹ Carrie đáp: - Con cũng làm theo, mẹ. Mẹ nói tiếp: - Mình có thể tìm một thứ nho nhỏ gì đó trong các cửa hàng cho… Mẹ nhìn về phía Grace. - Nhưng các con đều lớn rồi và đã biết, năm nay bố không thể làm việc gì để kiếm ra tiền. Mình lại không có tiền dành dụm để mua quà nhưng mình vẫn có thể có một ngày Giáng sinh hạnh phúc đúng nghĩa. Mình sẽ cố nghĩ để chế thêm một món ăn cho bữa trưa sau đó mình mở hết những tờ báo ra để đọc và khi trời tối quá không đọc nổi thì bố chơi đàn. Laura nói: - Mình đâu còn nhiều bột. Mẹ đáp: - Mấy chủ cửa hàng đòi hia mươi lăm xu một pao bột nên bố mới chờ xe lửa tới. Dù sao, không có gì để làm nổi một chiếc bánh nhồi thịt và không có bơ, không có trứng để làm bánh ngọt và thị trấn hết đường rồi. Nhưng mình sẽ nghĩ ra một món gì thêm cho bữa trưa Giáng sinh. Laura ngồi suy nghĩ. Cô đang làm một khung hình nhỏ với những mũi len đan chéo trên các-tông màu bạc mỏng. Trên các cạnh và ngang phía đầu cô tạo những mẫu hoa nhỏ màu xanh lơ và những chiếc lá màu xanh. Lúc này cô đang phác họa khoảng trống đặt hình bằng màu xanh dương. Trong lúc đưa mũi kim nhỏ xíu qua những lỗ châm trên tấm các-tông và kéo những sợi lem màu một cách cẩn thận cô bỗng nghĩ Carrie thèm được ngắm những vật xinh đẹp ra sao. Cô quyết định sẽ tặng khung hình này cho Carrie làm quà Giáng sinh. Có lẽ một ngày nào khác, cô có thể làm một chiếc khác cho mình. Thật may mắn là cô đã đan xong dải viền đăng-ten cho chiếc váy lót. Cô sẽ tặng Mary cái đó. Còn mẹ thì cô sẽ tặng tấm giữ tóc bằng các-tông mà cô đã thuê xong để cho có cặp với chiếc khung hình. Mẹ có thể treo nó trên một góc gương soi và khi mẹ chải tóc mẹ sẽ bỏ những sợi tóc đứt vào đó để sau này mẹ lấy ra dùng làm tóc độn. Cô hỏi: - Nhưng mình có thể tặng bố cái gì? Mẹ lo lắng: - Mẹ phải nói là mẹ không biết. Mẹ không nghĩ ra nổi thứ gì. Carrie nói: - Con có mấy penny. - Có chỗ tiền dành cho con đi học đó. Mary gợi ý nhưng mẹ nói: - Không, Mary. Mình không đụng tới chỗ tiền đó. Laura tư lự nói: - Chị có mười xu. Em có mấy penny, Carrie? Carrie nói với cô: - Năm. Laura nói: - Mình cần hai mươi lăm xu để mua cho bố một đôi dây đeo quần. Bố cần có một đôi dây đeo quần mới. Mẹ nói: - Mẹ có mười xu. Vậy là giải quyết xong vấn đề rồi. Laura, con và Carrie tốt nhất là mua ngay vào lúc bố vừa đi làm việc sáng mai. Hôm sau, khi vừa làm xong công việc buổi sáng, Laura và Carrie băng qua con phố đầy tuyết tới cửa hàng Harthorn’s. Ông Harthorn ở đó một mình với những giá đồ trống trơn. Dọc hai bức vách chỉ có vài đôi ủng của đàn ông, vài đôi giầy phụ nữ và mấy súc vải hoa. Thùng đậu trống trơn. Thùng bánh qui xốp trống trơn. Thùng thịt heo chỉ có một ít nước muối ở dưới đáy chứ không có thịt. Hộp cá thu dài, phẳng cũng chỉ có một ít muối ở dưới đáy. Thùng táo khô và thùng quả mâm xôi khô cũng sạch trơn. Ông Harthorn nói: - Tôi không còn đồ bán cho tới khi xe lửa tới. Tôi đang chờ một hóa đơn giao hàng khi xe lửa ngưng lại. Trên tủ còn mấy chiếc khăn tay, lược, kẹp tóc và hai đôi dây đeo quần, Laura và Carrie ngắm mấy đôi dây đeo. Chúng được đan trơn, buồn nản và xám xịt. Ông Harthorn hỏi: - Các cháu có cần tôi lấy ra cho coi không? Laura không thích nói không nhưng cô nhìn Carrie và thấy là Carrie hi vọng cô sẽ làm thế. Laura nói: - Dạ không, cảm ơn ông Harthorn. Chúng cháu không mua vào lúc này. Trở ra lại ngoài trời lạnh, cô nói với Carrie: - Mình hãy tới cửa hàng Loftus’ coi xem có kiếm được thứ khá hơn không. Các cô cúi đầu đi ngược trong gió lạnh ngắt, mải miết bước dọc con đường đóng băng với cổng vòm của các cửa hàng và tới tận cửa hàng tạp phẩm và đồ khô Dry Goods and Groceries. Cửa hàng đó cũng trống trơn và chỉ là những âm vang lập lại. Mỗi khạp, thùng đều không có gì và đồ hộp chỉ vỏn vẹn còn hai hộp sò dẹt. Ông Loftus nói với các cô: - Tôi đang đợi một số hàng khi xe lửa tới vào ngày mai. Trong tủ hàng có một đôi dây đeo màu xanh lơ có những hoa nhỏ màu đỏ thêu bằng máy rất đẹp với những khóa đồng sáng loáng. Laura chưa hề thấy những dây đeo đẹp như thế. Chúng rất hợp với bố. - Thứ này giá bao nhiêu? Cô hỏi gần như tin chắc giá rất đắt. Nhưng giá chỉ là hai mươi lăm xu. Laura đưa cho ông Loftus hai đồng năm xu của riêng cô, đồng năm penny của Carrie và đồng mười xu bằng bạc của mẹ. Cô cầm gói hàng thon mảnh và gió thổi bật cô với Carrie về nhà. Giờ đi ngủ đêm đó không ai nhắc đến việc treo những vớ dài. Grace còn quá nhỏ chưa thể biết về việc treo vớ vào buổi chiều trước lễ Giáng sinh và không còn ai khác chờ đợi có quà tặng. Nhưng tất cả đều chưa khi nào nôn nóng chờ ngày Giáng sinh như thế vì đường sắt lúc này đã được khai thông và ngày mai xe lửa sẽ tới. Ý nghĩ đầu tiên của Laura vào buổi sáng hôm đó là: “Hôm nay xe lửa sẽ đến!” Cửa sổ không còn đọng sương giá, trời quang đãng và đồng cỏ phủ tuyết đổi thành màu hồng trong nắng sớm. Xe lửa chắc chắn sẽ đến và Laura vui mừng nghĩ đến những bất ngờ trong ngày Giáng sinh của mình. Cô trượt xuống khỏi giường không đánh thức Mary và mặc áo thật nhanh trong hơi lạnh. Cô mở chiếc hộp cất các món đồ riêng của cô. Cô lấy ra cuộn dải viền ren đan đã được bao cẩn thận bằng giấy xốp. Rồi cô kiếm tấm thiếp đẹp nhất mà cô đã được tặng trong lớp học ngày chủ nhật, lấy chiếc khung hình nhỏ và tấm các-tông giữ tóc. Với những thứ đó trong tay, cô nhón gót bước xuống cầu thang. Mẹ nhìn lên ngạc nhiên. Bàn ăn đã bày xong và mẹ đặt bên cạnh mỗi đĩa ăn một gói nhỏ bao trong giấy sọc trắng-đỏ. Laura thì thầm: - Chúc mẹ Giáng sinh vui vẻ! Ô, cái gì đây? Mẹ cũng thì thầm: - Quà Giáng sinh! Con có cái gì ở đó? Laura chỉ mỉm cười. Cô đặt những gói của cô vào đĩa của mẹ và Mary. Rồi cô đẩy tấm thiếp của lớp học chủ nhật vào khung hình. Cô thì thầm: - Cho Carrie. Mẹ và cô cùng nhìn món quà. Nó rất đẹp. Sau đó, mẹ kiếm một miếng giấy xốp bao kín lại. Carrie, Grace và Mary đang trèo xuống cầu thang và nói: - Chúc Giáng sinh vui vẻ! Giáng sinh vui vẻ! Carrie bỗng ré lên: - Ôôô-ô! Em cứ nghĩ mình đang đợi Giáng sinh cho tới khi xe lửa mang thùng quà Giáng sinh tới! Ôôô-ô, coi kìa! Coi kìa! Mary hỏi: - Gì vậy? Carrie nói với cô: - Có quà đặt trên mỗi đĩa ăn ở trên bàn! Mẹ nói: - Không, không, Grace, không được đụng vào. Tất cả phải chờ bố đã. Thế là Grace chạy xung quanh bàn để ngắm nhưng không sờ. Bố đem sữa vào và mẹ lọc. Rồi bố bước vào gian chái và trở ra với một nụ cười mở rộng sáng rạng rỡ. Bố đưa cho mẹ hai hộp sò từ cửa hàng Loftus. Mẹ nói: - Charles! Bố nói với mẹ: - Hãy nấu món súp sò cho bữa ăn trưa mừng Giáng sinh, Caroline. Anh cố vắt được một ít sữa của Elen, nhưng không nhiều và là đợt sữa cuối cùng vì nó sắp cạn sữa rồi. Nhưng có lẽ em sẽ dùng tới. Mẹ nói: - Em sẽ pha thêm nước cho loãng một chút. Mình sẽ có món súp sò cho bữa ăn trưa mừng Giáng sinh. Lúc đó bố nhìn vào bàn. Laura và Carrie cười lớn tiếng, hô: - Giáng sinh vui vẻ! Chúc bố Giáng sinh vui vẻ! Và Laura nói với Mary: - Bố sẽ ngạc nhiên. Bố hô lớn: - Hoan hô ông già Noel! Ông bạn già vẫn tới dù không có xe lửa! Tất cả ngồi vào chỗ của mình và mẹ khẽ giữ bàn tay Grace lại. Mẹ nhắc: - Bố là người mở quà đầu tiên, Grace. Bố nhấc gói quà của mình lên. - Nào, đây là món quà gì và ai tặng tôi? Bố cởi dây, mở giấy bọc và giơ lên những dải dây đeo mới điểm hoa đỏ. - Ui chà! Bố kêu lên: - Thế này thì làm sao tôi còn khoác áo choàng được? Thứ này quá đẹp không thể phủ lấp đi được. Bố nhìn quanh ngắm từng khuôn mặt. Bố nói: - Tất cả mấy mẹ con đã làm chuyện này. Tốt, bố hãnh diện được đeo những dây này. Mẹ lại nhắc: - Chưa tới con, Grace. Mary mở tiếp theo. Mary mở ra mấy thước viền đăng-ten. Cô mân mê trên mấy ngón tay và gương mặt cô sáng lên thích thú. Cô nói: - Con sẽ để dành để mang khi nào được tới trường. Đây là một món khác để giúp con được đi. Nó rất hợp với chiếc váy lót trắng. Carrie đang ngắm món quà của cô. Đó là bức hình đấng Chăn chiên trong những lớp áo dài màu xanh lơ và trắng đang ôm trong tay những con cừu con trắng như tuyết. Tấm các-tông màu bạc được thêu những bông hoa xanh lơ tạo thành một khung hình hoàn hảo. Carrie thì thầm: - Ôi, dễ thương quá chừng! Dễ thương quá chừng! Mẹ người chiếc giữ tóc đúng là thứ mẹ đang cần. Lúc đó, Grace xé toạc tấm giấy bọc gói quà của mình và kêu lên mừng rỡ. Hai hình nhân nhỏ bằng gỗ mỏng đứng trên một chiếc bục giữa các cột sơn màu đỏ. Tay các hình nhân nắm vào những sợi dây xoắn chặt với nhau ngay trên đầu. Cả hai đội mũ chóp cao màu đỏ, khoác áo màu xanh lơ với hàng nút vàng. Quần của cả hai kẻ sọc xanh-đỏ và những đôi ủng màu đen với những ngón chân cong lên. Mẹ khẽ bóp phía dưới những chân cột. Một hình nhân nhảy lộn nhào lên và hình nhân kia đung đưa. Rồi hình nhân ở trên hạ xuống trong khi hình nhân ở dưới nhào lên và cả hai đều gật đầu giật cánh tay, chân đu đưa nhảy và múa. Grace lêu lên: - Ô, coi này! Ô, coi này! Không bao giờ bé chán những hình nhân nhỏ nhảy múa này. Những gói quà nhỏ in sọc ở mỗi bên của đĩa ăn là những thỏi kẹo Giáng sinh. Laura thắc mắc: - Bố kiếm kẹo ở đâu vậy? Bố nói: - Bố kiếm lâu rồi. Đó là những miếng đường cuối cùng trong thị trấn. Một số nông dân vẫn thường nói họ thường dùng kẹo thay cho đường nhưng bố giữ chắc những thỏi kẹo Giáng sinh của mình. Carrie thở ra: - Ôi, một ngày Giáng sinh dễ thương vô cùng. Laura cũng nghĩ thế. Dù chuyện gì xảy ra thì họ vẫn luôn có một ngày Giáng sinh vui vẻ. Và, nắng đang chiếu, trời đang xanh, đường sắt đã khai thông, xe lửa đang tới. Sáng nay hẳn xe lửa đã qua đoạn đường nghẽn ở Tracy. Một lúc nào đó trong ngày, họ sẽ nghe thấy tiếng còi xe lửa và nhìn thấy nó dừng lại bên nhà ga. Buổi trưa, mẹ lo nấu súp sò. Laura đang bày bàn ăn, còn Carrie và Grace chơi với món đồ hình nhân nhào lộn. Mẹ nếm súp và đặt chiếc xoong trở lại lên lò: - Xúp sò đã chín. Bánh mì nướng vàng rồi. Bố đang làm gì nhỉ? Laura nói: - Bố đang khuân cỏ khô. Bố mở cửa. Phía sau bố, gian chái dường như đầy cứng loại cỏ đầm lầy khô. Bố hỏi: - Xúp sò chín chưa? Mẹ đáp: - Em đang mang lên. Em mong là xe lửa sắp tới, mình chì còn số than cuối cùng. Rồi mẹ nhìn bố hỏi: - Có gì bất ổn, Charles? Bố nói thật chậm: - Có đám mây ở hướng tây bắc. Mẹ kêu: - Trời, mong đó không phải là một trận bão khác! Bố đáp: - Anh e đúng là bão. Nhưng không cần làm hư bữa ăn của mình. Bố đẩy chiếc ghế của mình sát vào bàn ăn, tiếp: - Anh đã dồn đống rất nhiều cỏ khô trong chuồng và chứa đầy gian chái. Bây giờ mình tính tới món xúp sò. Mặt trời vẫn tỏa sáng trong lúc họ ăn. Món súp nóng thật ngon dù sữa chỉ lõng bõng như nước. Bố bóp vụn bánh mì thả vào trong xúp, nói với mẹ: - Món bánh mì nướng này gần như bánh qui giòn. Anh không biết còn có gì ngon hơn. Laura thưởng thức món xúp ngon lành nhưng không thể không nghĩ về đám mây đen đang kéo tới. Cô cũng không thể không lắng nghe tiếng gió mà cô biết chắc sắp nổi lên. Nó đến đột ngột như một tiếng thét. Cửa sổ khua rầm rĩ và căn nhà chuyển động. Bố nói: - Chắc có một lỗ hở! Bố tới cửa sổ nhưng không thể nhìn nổi ra ngoài. Tuyết theo gió bay tới mù trời. Những đống tuyết cứng tung lên cuốn đi khi gió cắt ngang. Tất cả quay cuồng trong không khí đang xoáy tít và đảo lộn điên loạn. Bầu trời, ánh nắng, thị trấn đều biến mất hút trong điệu vũ chóa mắt của tuyết. Căn nhà lại đứng đơn độc. Laura nghĩ: - Thế là xe lửa không đến được. Mẹ nói: - Tới đây, các con. Hãy lo thanh toán chén đĩa, rồi mở các bó báo và hưởng một buổi chiều ấm áp. Laura hỏi: - Có đủ than không, mẹ? Bố ngắm ngọn lửa, nói: - Nó sẽ kéo dài cho tới giờ ăn tối. Và lúc đó, mình sẽ đốt cỏ khô. Sương giá đang đóng trên các ô kính cửa sổ và gian phòng thấm lạnh ở gần các bức vách. Bên lò bếp, ánh lửa cũng mờ nhạt khó đọc báo nổi. Khi chén đĩa được rửa sạch và cất xong. Mẹ đặt cây đèn trên chiếc khăn bàn ca-rô đỏ và thắp lên. Chỉ còn một ít dầu ở khúc bấc cuốn lại nhưng nó vẫn cho một làn sáng ấm áp, hứng khởi. Laura mở bó tạp chí Youth’s Companions và cô cùng Carrie háo hức ngắm số lượng truyện được in trên mặt bìa láng bóng. Mẹ nói: - Các con hãy chọn lấy một truyện. Và mẹ sẽ đọc lớn để tất cả cùng nghe. Vậy là, tất cả chụm sát lại giữa lò bếp và bàn ăn sáng sủa lắng nghe mẹ đọc truyện bằng giọng êm dịu, rõ ràng. Câu chuyện đưa tất cả rời xa khỏi vùng tối tăm bão lạnh. Khi đọc dứt một truyện, mẹ đọc tiếp truyện thứ hai, rồi truyện thứ ba. Thế là đủ cho một ngày và họ còn phải dành lại một số truyện cho lúc khác. Mary thở ra một cách sung sướng: - Các em có thấy mừng là mình đã dành lại những câu chuyện này cho ngày Giáng sinh không? Tất cả đều thấy như thế. Trọn buổi chiều đã qua đi thật nhanh và tới giờ lo công việc thường lệ. Khi từ chuồng ngựa quay vào, bố dừng lại một lát trong gian chái và cuối cùng bước vào với một ôm đầy cọng cây. Bố đặt xuống bên cạnh lò bếp, nói: - Đây là chất đốt của em dành cho bữa ăn sáng, Caroline. Những nùi cỏ cứng này rất tốt. Anh nghĩ là chúng sẽ cháy đượm. Laura kêu lên: - Những nùi cỏ khô? Bố hơ hai bàn tay trên lò bếp nóng: - Đúng, Laura. Bố mừng là cỏ đã nằm sẵn trong gian chái. Bố không thể mang nó qua gió đang thổi như lúc này mà không bị đâm thọc vào răng một lúc nào đó. Cỏ khô là những cọng dài. Bố đã xoắn lại bằng một cách nào đó và kết lại thật chặt đến nỗi mỗi nùi gần cứng như gỗ. Mẹ bật cười: - Củi cỏ! Liệu anh còn nghĩ nổi thứ gì kế tiếp không? Hi vọng anh sẽ tìm ra lối thoát, Charles. Bố mỉm cười với mẹ: - Em sẽ được thoải mái. Bữa ăn tối có món khoai tây hầm nóng hổi và một khoanh bánh mì cho mỗi người, với muối. Đó là đợt bánh mì nướng sau cùng, nhưng còn có đậu trong bao và củ cải. Vẫn còn trà nóng với đường và Grace có một ly trà sữa pha nước sôi và không còn sữa nữa. Trong lúc mọi người đang ăn thì ngọn đèn bắt đầu lóe lên. Ngọn lửa như đang gom tận lực cố lôi mình lên để kéo những giọt dầu cuối cùng thấm vào bấc. Rồi nó hạ xuống rồi lại cố bùng lên một cách tuyệt vọng. Mẹ nghiêng người thổi tắt. Bóng tối ùa tới với tiếng rên rỉ và tiếng gào thét của bão. Mẹ khẽ nói: - Dù sao lửa cũng đang lụi dần, mình nên đi nằm thôi. Ngày Giáng sinh đã trôi qua. Laura nằm trên giường lắng nghe tiếng gió mỗi lúc một dữ dội hơn. m thanh giống như bầy sói đang hú quanh ngôi nhà nhỏ trên đồng cỏ thuở nào, khi cô còn nhỏ và bố đang bồng cô trên tay. Và có cả tiếng hú trầm hơn của con sói trâu cô và Carrie đã gặp bên hồ nước Bạc. Cô khởi sự run rẩy khi nghe tiếng gầm của con báo bên bờ lạch suối trong vùng đất của người da đỏ. Nhưng cô biết đó chỉ là tiếng gió. Lúc này cô lại nghe thấy tiếng hú xung trận của những người da đỏ đang nhảy các điệu vũ chiến đấu suốt nhiều đêm kinh hoàng bên bờ sông Verdigis. Những tiếng hú xung trận tan đi và cô nghe thấy những đám đông thì thầm rồi hét lên và kêu gào tháo chạy cố trốn khỏi những tiếng thét dữ dằn đang săn đuổi. Nhưng cô cũng biết cô chỉ đang nghe các âm thanh của gió bão. Cô kéo mền lên kín đầu, nhét chặt tai để ngăn chặn các tiếng động, nhưng cô vẫn nghe thấy. Chương 19: Nơi Nào Có Ý Chí Cỏ khô bắt lửa mau, nóng hực cháy hết còn nhanh hơn sức bắt lửa. Mẹ đóng kín các ô thông gió của lò bếp và suốt ngày giữ cho lửa cháy. Suốt ngày, từ khi lo công việc thường lệ, bố kết thêm các nùi cỏ khô trong gian chái. Bão dữ dằn hơn và cơn lạnh càng thêm cay nghiệt. Bố thường tới lò bếp hơ ấm các bàn tay. Bố nói: - Mấy ngón tay tê liệt hết. Khó có thể bện tốt được. Laura năn nỉ: - Cho con làm phụ đi, bố! Bố không muốn cho cô làm. Bố nói với cô: - Bàn tay con quá nhỏ so với cộng việc này. Sau đó, bố chấp thuận: - Nhưng có ai phụ thì vẫn hơn một người làm cả hai việc giữ lửa cho lò bếp và kéo cỏ khô về. Cuối cùng, bố quyết định: - Tới đây. Bố sẽ chỉ cách cho con. Laura khoác chiếc áo choáng cũ của bố, trùm mũ, quấn khăn theo bố qua gian chái. Chái không đóng bít ở phía trong. Gió lùa tuyết qua tất cả các kẽ vách ván. Từng cụm tuyết nhỏ lăn lóc khắp nền và rải rác trên cỏ khô. Bố nhấc hai nắm cỏ lên vẩy cho tuyết văng ra hết. Bố nói với Laura: - Vẩy tuyết cho thật sạch. Nếu còn sót lại một ít thôi thì nó sẽ tan ra khi bện lại thành nùi và thấm ướt hết không thể bén lửa. Laura nhấc cỏ với tất cả sức của hai bàn tay và vẩy cho văng tuyết ra. Sau đó, cô quan sát bố và theo cách bố làm để bện kết cỏ lại. Trước hết, bố xoắn thành tao dài tối đa theo độ vươn của hai cánh tay. Rồi bốt chặt ở đoạn cuối của tao tay bên phải vào dưới cùi chỏ trái ép chặt vào sườn không cho nó bung ra. Lúc đó bàn tay phải nắm lấy đoạn cuối của tao bên tay trái. Bàn tay bố lướt xuống tối đa để nắm lấy cuối tao nằm dưới cùi chỏ trái. Bố lại xoắn tao cỏ. Lần này bố đặt đoạn cuối khác dưới cùi chỏ trái. Bố lặp lại những động tác này, thêm nữa, thêm nữa cho tới khi toàn thể tao của xoắn chắc lại và gồ lên ở chính giữa. Mỗi lần bố xoắn và đặt đoạn cuối dưới cánh tay trái, nùi cỏ quấn lại và cong lại xung quanh nó. Khi toàn thể chiền dài tối đa của nùi cỏ đã xoắn lại thật chặt, bố bẻ cong các đoạn cuối lại với nhau đút vào đường gồ lên cuối cùng. Bố liệng nùi cỏ khô bện cứng lên nền nhà và nhìn Laura. Cô đang thử đẩy những đoạn cuối tao như bố đã làm. Cỏ khô xoắn chặt đến nỗi cô không thể đẩy nổi. Bố nhắc: - Uốn cong tao cỏ một chút cho nó hơi lỏng ra. Rồi trượt các đoạn cuối vào giữa chỗ gồ lên và bỏ cho nó xoắn chặt trở lại. Cách làm là vậy. Nùi cỏ khô của Laura không đều và gồ ghề, không nhuyễn và chắc giống như bố làm. Nhưng bố nói lần đầu tiên mà làm được như thế là tốt rồi và cô có thể làm khá hơn vào lần sau. Cô làm sáu nùi cỏ và mỗi nùi đều khá hơn nùi trước cho tới nùi thứ sáu thì đã đúng cách. Nhưng lúc này cô lạnh tới mức các bàn tay không còn nhận ra cỏ khô. Bố nói với cô: - Đủ rồi! Gom lại vào đi sưởi ấm thôi! Hai bố con vác các nùi cỏ đã bện xong vào nhà bếp. Bàn chân Laura lạnh cóng giống như những bàn chân bằng gỗ. Hai bàn tay cô đỏ au và khi hơ trên hơi lò bếp nóng, cô thấy ngứa ngáy và buốt ở những chỗ bị lá cỏ khô cứa đứt. Nhưng cô đã phụ giúp bố. Những nùi cỏ khô mà cô bện đã đem lại cho bố thời giờ để hơ ấm trước khi phải quay về với cái lạnh để xoắn kết thêm nữa. Suốt ngày hôm đó và suốt ngày hôm sau, Laura giúp bố xoắn cỏ khô trong lúc mẹ giữ cho lửa cháy đều và Carrie phụ chăm sóc bé Grace cùng các công việc nhà. Để ăn bữa trưa, họ có món khoai tây nướng cùng với món củ cải nghiền với tiêu, muối và vào bữa tối, mẹ bằm nhỏ khoai tây hấp nóng trong lò, vì không còn dầu mỡ để chiên. Nhưng thức ăn nóng và ngon, lại còn khá nhiều nước trà với một ít đường. Đêm thứ hai, trong bữa ăn tối, mẹ nói: - Đây là ổ bánh mì cuối cùng. Mình thật sự cần một chút bột mì rồi, Charles. Bố nói: - Anh sẽ mua ngay khi bão ngớt. Không cần nghĩ đến giá cả nữa. Mary nói: - Bố hãy dùng số tiền dành cho con đi học, bố à! Ba mươi lăm đô-la hai mươi lăm xu sẽ mua được số bột mình cần. Mẹ nói: - Con đúng là đứa con ngoan của bố mẹ, Mary! Nhưng mẹ hy vọng là không phải tiêu vào món tiền dành cho con. Mẹ quay qua nói với bố: - Em cho rằng giá cả tùy thuộc vào việc thông đường xe lửa? Bố nói: - Đúng. Giá cả tùy thuộc vào chuyện đó. Mẹ đứng lên đặt một nùi cỏ bện khác vào lửa. Khi mẹ nhắc nắp lò, một tia lửa vàng hung đầy khói lóe lên đẩy lùi bóng tối một lát. Rồi bóng tối trở lại. Tiếng gào man dại của gió bão có vẻ dữ hơn và gần hơn trong bóng tối. Mẹ nêu ý kiến: - Chỉ cần một chút dầu đặc là em có thể tạo ra một loại đèn. Mình không thiếu ánh sáng vào lúc em còn là con gái trước khi được nghe nhắc tới thứ dầu lửa mới lạ này. Bố nói: - Vậy đó. Thời buổi này tiến bộ rất nhiều. Mọi thứ đều thay đổi hết sức nhanh. Đường sắt, điện báo, dầu lửa, lò than đều là những thứ rất hữu ích nhưng cũng là nguồn gốc của những xáo trộn. Người nông dân thì chỉ lệ thuộc vào chính mình. Buổi sáng gió vẫn gầm hú và phía ngoài ô cửa sổ đóng đầy sương giá, tuyết vẫn quay cuồng. Nhưng khoảng giữa trưa, một trận gió thổi mạnh thẳng tới từ hướng nam và mặt trời tỏa sáng. Trời rất lạnh, lạnh tới mức tuyết kêu lép nhép dưới bàn chân Laura trong gian chái. Bố băng qua phố đi mua bột mì. Bố đi một hồi rồi quay về với một túi hạt trên vai. Bố quăng thịch chiếc túi xuống nền nhà. Bố nói: - Đây là bột của em, Caroline, hoặc là một thứ để thay cho bột mì. Đó là bắp, chỗ bắp cuối cùng còn lại ở kho dự trữ của anh em nhà Wilder. Các cửa hàng đều không còn bột mì. Tay chủ ngân hàng Ruth đã mua bao cuối cùng vào sáng nay. Ông ta trả năm mươi đô-la tức một đô-la một bao bột. Mẹ hổn hển: - Chúa ơi, Charles! - Mình không thể mua được nhiều bột với cái giá đó nên anh nghĩ cứ để cho Ruth lấy cũng tốt. Lúc này mình có thể học cách nấu bắp. Liệu có cách nấu chín không? Mẹ nói: - Em không biết, Charles. Nhưng hình như mình không còn gì để ăn ngoài bắp. Bố nói: - Tội nghiệp là trong thị trấn không có một cái cối xay bắp. Mẹ đáp: - Em có một cái cối xay. Mẹ tới bên tủ chén và lấy ra cái xay cà phê. Bố nói: - Vậy là mình có rồi. Hãy coi nó xay ra sao. Mẹ đặt một chiếc hộp nhỏ lên trên bàn ăn, quay chiếc tay quay một hồi để trút hết những hạt cà phê cuối cùng ra khỏi ống nghiền. Rồi mẹ lôi chiếc ngăn nhỏ ra, trút sạch và chùi cẩn thận. Bố mở túi bắp. Chiếc máng sắt màu đen phía trên máy xay chứa được khoảng nửa cốc bắp. Mẹ đóng nắp lại. Rồi mẹ ngồi xuống, đặt hộp gỗ vuông giữa đầu gối để giữ chắc và bắt đầu guồng tay quay. Tiếng những ống nghiền vang. Mẹ nói: - Bắp cũng được nghiền giống như cà phê. Mẹ nhìn vào trong ngăn kéo. Những mảnh bắp vỡ vụn. Mẹ nói: - Có thể không giống như cà phê. Bắp đã không được rang trước và ẩm nước. Bố hỏi: - Em có thể làm bánh với thứ bắp này không? Mẹ đáp: - Dĩ nhiên là được. Nhưng mình phải nghiền liên tục nếu muốn có đủ để làm bánh cho một bữa ăn. Bố nói: - Anh phải đi kéo thêm cỏ khô về để nướng bánh. Bố lôi từ trong túi ra một chiếc hộp gỗ tròn, dẹt, đưa cho mẹ: - Đây là thứ em cần để làm ánh sáng. Mẹ hỏi: - Có nghe nói gì về xe lửa không, Charles? Bố nói: - Họ lại đang làm việc ở chỗ nghẽn tại Tracy. Tiếng lại chất đống lên tới đỉnh của những bờ tuyết mà người ta đã quăng ra hai bên vào dịp dọn đường vừa qua. Bố ra chuồng ngựa cột David vào cỗ xe trượt tuyết. Mẹ nhìn chiếc hộp gỗ tròn. Trong hộp đầu dầu bôi trơn trục xe màu vàng. Nhưng lúc đó không có thời giờ để nghĩ tới việc làm một ngọn đèn. Lửa đang lụn xuống và mẹ đặt nùi cỏ kết cuối cùng vào trong lò. Laura vội vã qua nhà chái để bện thêm cỏ khô. Vài phút sau, mẹ tới giúp cô. Mẹ nói: - Mary đang nghiền bắp. Mình cần bện thêm nhiều cỏ khô để giữ lửa cháy đều. Cần phải có lửa thật ấm khi bố về. Bố sẽ gần như đông cứng. Cuối buổi chiều bố mới về. Bố tháo xe gần cửa sau và đưa David vào chuồng. Rồi bố bốc cỏ khô vào gian chaí cho tới khi không còn một khoảng trống để lòn từ cửa này tới cửa kia. Xong việc, bố bước vào bên lò bếp. Bố lạnh tới nỗi ngồi một hồi lâu sau mới lên tiếng nổi. Bố xin lỗi: - Anh tiếc là về quá trễ, Caroline. Tuyết quá dầy. Anh phải đào khá lâu mới moi nổi cỏ khô ra khỏi đống tuyết. Mẹ trả lời: - Em nghĩ là mỗi ngày mình ăn trưa vào giờ này cũng hay. Để giữ cho luôn có lửa và ánh sáng thì ngày đã ngắn đến độ không còn đủ giờ để lo cho ba bữa ăn. Một bữa ăn trễ sẽ thay cho bữa ăn tối cũng tốt. Chiếc bánh màu nâu mà mẹ làm bằng bắp nghiền rất ngon. Nó có vị bùi và ngây có vẻ gần giống như mùi bơ. Bố nhận xét: - Anh thấy em lại làm bột chua trở lại. Mẹ đáp: - Đúng. Mình đâu cần phải có men rượu hoặc sữa mới làm được bánh mì ngon. Bố nói: - Ở chỗ nào có ý chí thì chỗ đó có lối thoát. Bố lấy thếm phần khoai tây, rắc muối lên, nói: - Không thể coi thường khoai tây và muối được. Muối làm nổi bật tất cả mùi vị của khoai tây vẫn thường bị bơ và nước xốt phủ lấp. Laura nói một cách châm chọc: - Vậy đừng ch đường vào trà, nghe bố. Như vậy bố sẽ có tất cả mùi vị của trà. Bố nheo mắt nhìn cô: - Một ly trà nóng ngon lành sẽ làm nổi bật mùi vị của đường, bình rượu nhỏ ạ. Rồi bố hỏi mẹ: - Em làm cách nào để đốt đèn với mỡ bôi trục xe? Mẹ nói: - Em chưa có thời giờ. Nhưng ngay sau khi mình ăn xong, em sẽ làm một cây đèn nút áo. Bố hỏi: - Đèn nút áo là cái gì? Mẹ nói: - Chờ coi. Khi bố làm các công việc thường lệ của buổi tối, mẹ bảo Carrie mang túi đựng vải vụn ra. Mẹ lấy một ít mỡ bôi trục xe tử trong hộp trét vào một chiếc ly cũ. Rồi mẹ cắt một mảnh vải nhỏ vuông vức. - Bây giờ kiếm cho mẹ một chiếc nút áo ở trong túi đựng nút áo, Carrie. Carrie mang túi nút áo từ phòng trước lạnh ngắt vào, hỏi: - Chọn thứ nút nào, mẹ? Mẹ nói: - Ồ, một chiếc nút nào đó trong chiếc áo choàng cũ của bố. Mẹ đặt chiếc nút vào chính giữa mảnh vải vuông. Mẹ kéo vải tụm lại che kín chiếc nút, dùng một sợi chỉ quấn chặt xung quanh và xoắn các góc vải lên thành một túm búp măng. Rồi mẹ chà một ít mỡ lên vải và đặt chiếc nút vào trong ly đựng mỡ. Mẹ nói: - Bây giờ thì mình chờ khi bố quay vào. Laura và Carrie hối hả rửa chén. Lúc bố quay vào thì trời đã tối. Mẹ nói: - Cho em xin một que diêm, Charles. Mẹ đốt trên đầu túm vải hình búp măng của chiếc đèn nút áo. Một tia lửa li ti rn rẩy và lớn dần. Nó cháy thật đều làm tan mỡ và hút lên qua miếng vải để giữ cho ngọn lửa tiếp tục sáng. Ngọn lửa như một ngọn nến trong bóng tối. Bố nói: - Thật kì diệu, Caroline. Chỉ là đốm sáng nhỏ nhưng đã đổi khác tất cả. Hơ bàn tay trên lò bếp, bố nhìn xuống đống cỏ khô nhỏ. Bố nói: - Nhưng anh không cần ánh sáng vẫn có thể bện cỏ khô thành nùi. Lúc này, mình cần phải có nhiều hơn. Chỗ có ở đây không đủ cho sáng mai. Bố bước ra đi bện cỏ và Laura cầm lấy hộp xay cà phê thay cho Mary. Quay chiếc tay quay nhỏ vòng vòng hoài khiến vai và tay tê nhức nên tất cả phải luân phiên nghiền bắp. Số bắp nghiền được lại quá ít nên tất cả phải giữ cho việc nghiền liên tục để có đủ bột làm bánh cho bữa ăn. Mẹ cởi giầy cho Grace, hơ ấm bàn chân cho bé bên cửa lò bếp trong lúc thay áo ngủ cho bé và choàng người bé bằng chiếc khăn san đang hơ ấm trên chiếc ghế cạnh lò bếp. Mẹ nói: - Tới thôi, Carrie, nếu con đã khỏe và đủ ấm rồi. Mẹ sẽ đặt Grace ngủ trong giường với con. Khi Grace và Carrie đã chui vào giường với chiếc khăn choàng ấm và chiếc bàn ủi nóng, mẹ xuống tầng dưới. Mẹ nói: - Bây giờ mẹ sẽ nghiền bắp, Laura. Con và Mary sẽ đi ngủ. Ngay khi bố quay vào, bố mẹ sẽ cũng đi ngủ để tiết kiệm cỏ khô vừa khó kiếm lại vừa khó bện. Chương 20: Sơn Dương Rồi tới một ngày nắng khi tuyết xốp lấn khắp đồng cỏ đông cứng màu trắng giống như những cụm khói. Bố lật đật trở về nhà. - Có một bầy sơn dương ở phía tây thị trấn. Bố nói trong lúc lấy cây súng xuống khỏi móc và nhét đạn đầy các túi. Laura quàng chiếc khăn quàng của mẹ quanh người chạy vào phòng trước lạnh ngắt. Cô cào một lỗ ngó qua lớp sương đọng trên cửa sổ và thấy một đám đông đàn ông đang tụ tập ngoài phố. Nhiều người đang ngồi trên lưng ngựa. Ông Foster và Almanzo Wilder cưỡi những con ngựa Morgan tuyệt đẹp. Cap Garland đang chạy tới nhập vào toán đàn ông đi bộ đang nghe bố nói. Tất cả đều mang súng. Ai nấy đều kích động nói năng sôi nổi và lớn tiếng. Mẹ gọi: - Trở lại chỗ ấm đi, Laura. Laura treo chiếc khăn choàng lên, nói: - Hãy nghĩ tới món thịt nai! Con hi vọng bố sẽ hạ được hai con sơn dương! Mẹ nói: - Mẹ rất mừng nếu có một ít thịt để ăn kèm với món bánh mì bắp nướng. Nhưng mình không nên đếm gà con trước khi trứng nở. Laura nói: - Được chứ, mẹ! Bố sẽ hạ một con sơn dương nếu có sơn dương ở đó. Carrie mang một đĩa bắp tới đổ đầy vào mánh cối xay cà phê mà Mary đang nghiền. Carrie nói: - Thịt nai nướng! Với nước xốt, nước xốt chấm khoai tây và bánh mì nướng. Laura nói: - Chờ một phút, Carrie! Nghe kìa! Mọi người đang đi đó! Gió đều đặn ập tới căn nhà và rít lên dọc các mái hiên, nhưng tất cả vẫn có thể nghe lờ mờ giọng nói cùng với tiếng chân người ngựa đang bước dọc phố Main Street. Tới cuối phố, mọi người dừng lại. Họ đã nhìn thấy ở xa chừng một dặm một bầy sơn dương màu xám đang lững thững đi về phía nam qua những gò tuyết và trong đám tuyết đang bay theo gió. Bố nói: - Hãy làm từ từ và nhẹ nhàng. Nhớ cho chúng tôi có đủ thời giờ bọc vòng chúng quay về phía bắc trước khi các bạn áp sát ở phía nam. Tiến vào chậm thôi và dồn chúng về phía tụi tui nhưng không làm chúng hoảng sợ trước khi chúng lọt vào tầm bắn. Không cần vội vã vì mình đang ở giữa ban ngày. Nếu làm hợp lí thì mỗi người sẽ phải có một con. Ông Foster nói: - Có lẽ tụi tui sẽ cưỡi ngựa lùa chúng từ phía bắc và các ông đi bộ chặn chúng từ phía nam. Ông Harthorn nói: - Không được, hãy làm như Ingalls. Tiến lên, anh em! Bố gọi: - Tản ra. Đi chậm và nhẹ nhàng. Đừng làm chúng sợ! Trên lưng những con ngựa Morgan, Almanzo và ông Foster vượt lên dẫn đầu. Gió lạnh khiến lũ ngựa háo hức bước tới. Tai chúng vểnh tới phía trước rồi bạt lại phía sau, đầu lắc lư, hàm thiếc sủng xiểng và chúng như cố tránh không đạp lên bóng của mình. Chúng vươn mũi dài về phía trước, lôi những chiếc hàm thiếc, vênh váo chạy nhanh hơn. Almanzo nói với ông Foster: - Giữ cho nó đi đều đặn. Đừng kéo cưa trên mấy chiếc hàm thiếc sẽ làm rách miệng đó. Ông Foster không biết cách cưỡi ngựa. Ông ta căng thẳng không khác gì Lady và khiến nó căng thẳng hơn. Ông ta nhún nhảy trên yên và không kềm chặt hai bên sườn ngựa. Almanzo thấy ân hận vì đã để cho ông ta cưỡi con Lady. Almanzo nhắc: - Coi chừng, Foster. Con ngựa cái đó sẽ phóng đi bây giờ. - Nó có vấn đề gì? Nó có vấn đề gì? Ông Foster nói lập cập trong gió lạnh và kêu lên: - Ô, chúng đang ở kia! Trong khoảng không thoáng đãng, lũ sơn dương hình như ở gần hơn. Phía bên kia, bầy thú đang lững thững, toán người đi bộ đang đi về hướng tây. Almanzo nhìn thấy ông Ingalls đi đầu. Chỉ trong vài phút nữa họ sẽ bao vây xong bầy thú. Cậu quay lại để nói với ông Foster và chỉ thấy chiếc yên trên lưng con Lady trống lốc. Cùng lúc một tiếng súng khiến cậu giật nẩy mình và cả hai con ngựa chồm lên phóng chạy. Almanzo ghì chặt dây cương kìm con Prince lại trong lúc Lady chạy vùn vụt. Ông Foster nhảy chồm chồm, huơ cây súng và hét. Phát điên vì căng thẳng do rớt xuống từ lưng Lady, ông ta đã thả dây cương và bắn về phía bầy sơn dương đang ở ngoài tầm đạn. Đuôi dựng đứng, đầu vươn dài, bầy sơn dương phóng chạy như bay tựa hồ gió đang lùa chúng đi trên những gò tuyết. Con ngựa nâu Lady chen vào chính giữa bầy thú vật màu xám và bị cuốn chạy theo chúng. Almanzo hét lớn dù cậu biết rằng tiếng hét của cậu bị gió đánh bạt: - Đừng bắn! Đừng bắn! Bầy sơn dương đang băng qua chỗ toán người đi bộ nhưng không ai nổ súng vì sợ bắn trúng con ngựa cái. Con ngựa Morgan nâu bóng loáng vươn đầu cao, bờm và đuôi tung bay chạy băng qua một gò đất trên đồng cỏ giữa đám mây xám sơn dương và biến mất. Chỉ một thoáng, con ngựa và bầy thú đã qua một khúc quanh màu trắng khác, trở nên nhỏ hơn. Chúng biến hiện rồi biến hiện trên đồng cỏ nuốt chửng chúng. Ông Harthorn nói: - Có vẻ cậu mất con ngựa đó rồi, Wilder! Tồi tệ quá! Những người cưỡi ngựa khác đã xuất hiện. Tất cả ngồi im trên lưng ngựa nhìn đồng cỏ xa tắp. Bầy sơn dương và con Lady chỉ là vệt tối nhỏ hiện ra thêm một lần nữa như một vết nhòe xám đang bay cực nhanh và biến hẳn. Bố cùng những người đi bộ đi tới. Cap Garland nói: - Đen đủi quá, Wilder! Hãy nghĩ coi chúng tôi cũng có thể có một phát đạn rủi ro. Gherald Fuller nói: - Anh là một thợ săn thông minh trước Chúa đó, Foster. Cap Garland nói: - Ông ấy chỉ là người duy nhất bắn một phát súng. Ôi, cái phát súng tai hại! Ông Foster nói: - Tôi rất tiếc. Chắc tôi đã làm con ngựa chạy mất. Tôi quá căng thẳng, không kịp suy nghĩ gì. Tôi chỉ tính giữ con ngựa dừng lại. Từ trước, tôi chưa hề thấy một con sơn dương. Gherald Fuller nói: - Lần sau chờ cho tới khi chúng đã đứng trong hàng rồi thì anh cố bắn lấy một con. Không ai nói thêm một điều gì. Almanzo ngồi trên yên trong khi Prince giật chiếc hàm thiếc, cố bứt ra để phóng theo bạn mình. Kinh hoàng và chạy theo bầy sơn dương như Lady thì mối nguy đã rõ là nó có thể chạy đứt hơi mà chết. Nhưng cố rượt theo nó thì không phải là điều tốt vì chỉ xua bầy sơn dương và khiến nó phải chạy xa hơn. Ước lượng theo mốc nhìn từ xa thì bầy sơn dương đã chạy năm hoặc sáu dặm về phía tây khi chúng quẹo lên phía bắc. Bố nói: - Chúng đang chuyển về phía hồ Spirit. Chúng sẽ ăn trong các bụi cây ở đó rồi xếp hàng đi vào những vách bờ sông. Mình sẽ khó thấy chúng thêm một lần nữa. Cap Garland hỏi: - Con ngựa của Wilder sẽ ra sao, ông Ingalls? Bố nhìn Almanzo rồi lại nhìn về phía tây bắc. Ở đó không có những cụm mây nhưng gió thổi mạnh và rét buốt. Bố nói: - Nó là con ngựa duy nhất ở vùng này chạy đua nổi với sơn dương, không kể con bạn nó ở đây, và cậu sẽ giết nó nếu cố đuổi theo bắt nó lại. Từ đây tới hồ Sprit cũng phải mất một ngày đường và không ai biết lúc nào bão tuyết sẽ ập xuống. Tôi không dám mạo hiểm như thế trong mùa đông này. Almanzo nói: - Tôi cũng không muốn thế. Nhưng tôi sẽ chỉ chạy vòng quanh một vòng và bọc phía bắc quay về thị trấn. Có lẽ tôi sẽ nhìn thấy nó. Nếu không, có lẽ nó sẽ tự tìm được đường về. Xa quá! Hẹn gặp ông trong thị trấn. Cậu cho Prince phóng nước kiệu đại về phía bắc trong lúc những người khác vác súng lên vai đi thẳng về thị trấn. Cậu cúi thấp đầu tránh gió nhưng trên mỗi gò đất hay mỗi đống tuyết cao, cậu đều cố nhìn khắp phía trước. Không có gì ngoài những dốc tuyết thoai thoải và đám bụi tuyết do gió lùa bốc lên. Mất con Lady khiến cậu đau đớn nhưng cậu không muốn liều mạng vì một con ngựa. Cặp ngựa nổi tiếng sẽ không còn nữa khi thiếu nó. Cậu sẽ không tìm nổi một con ngựa nào khác hoàn hảo như nó để ghép đôi với Prince. Cậu nghĩ cậu thật điên rồ khi cho một người lạ mượn con ngựa. Prince phóng nhẹ nhàng, vươn cao đầu trong gió leo lên những bờ dốc rồi phóng xuống. Almanzo không muốn đi xa thị trấn nhưng nền trời phía tây bắc vẫn quang đãng và luôn có một bờ dốc khác ở phía trước mà từ đó cậu có thể nhìn xa hơn về phía Bắc. Cậu nghĩ Lady có thể mệt và tụt lại phía sau bầy sơn dương. Nó có thể lang thang và đi lạc trở thành ngựa hoang. Nó cũng có thể được nhìn thấy từ trên mỏm đất cao kế cận. Khi cậu tới mỏm đất đó thì phía bên kia chỉ là một vùng trắng toát. Prince nhẹ nhàng chạy xuống sườn dốc và một mỏm đất khác hiện ra trước mắt. Cậu nhìn lại phía sau và không còn thấy thị trấn. Những đám mặt tiền nhà chen chúc với những làm khói mỏng từ các ống khói đều biến mất. Khắp nơi dưới bầu trời không có gì khác ngoài một vùng màu trắng với tuyết bay trong gió và hơi lạnh. Cậu không thấy sợ. Cậu biết rõ thị trấn ở đâu và khi nào còn mặt trời hoặc mặt trăng hoặc các ngôi sao trên nền trời lạnh thì cậu không thể đi lạc. Nhưng cậu cảm thấy gió thổi lạnh hơn. Cậu thấy mình là sinh vật duy nhất ở trên mặt đất rét buốt dưới bầu trời rét buốt. Cậu và con ngựa của cậu bơ vơ trong cái lạnh mênh mông. - Tới thôi, Prince! Cậu hô nhưng âm thanh tan trong tiếng gió không ngừng ào ạt thổi tới. Lúc đó cậu sợ là mình sẽ sợ hãi. Cậu tự nhủ: - Có gì đáng sợ đâu. Cậu nghĩ: - Mình sẽ không quay lại lúc này. Mình sẽ quay lại từ mỏm đất kế cận kia. Và cậu hơi gò cương giữ cho Prince theo nhịp phóng nước đại. Từ trên mỏm đất cao đó cậu thấy một dải mây trên đường chân trời phía tây bắc. Rồi toàn vùng đồng cỏ mênh mông thình lình như biến thành một cái bẫy biết cách chụp bắt cậu để giữ lại. Nhưng cậu cũng nhìn thấy Lady. Ở thật xa và nhỏ trên cánh đồng tuyết đang cuốn lăn, con ngựa màu nâu đang đứng ngó về phía đông. Almanzo xé toạc găng tay, đưa hai ngón tay lên miệng huýt gió lanh lảnh như cậu vẫn thường gọi Lady qua những bãi cỏ trong vùng Minnesota của ba khi nó còn là một con ngựa con. Nhưng gió trên đồng cỏ ở đây thổi bạt âm thanh bật khỏi môi cậu và đưa đi mất hút. Gió cũng thổi bật tiếng hí dài thoát ra từ cần cổ vươn cao của Prince. Lady vẫn đứng im lìm nhìn về phía khác. Rồi nó quay về phía nam và nhìn thấy cả hai. Gió đưa tiếng hí của nó đi xa, nhòa nhạt. Cổ nó uốn cong, đuôi dựng lên, nó phóng nước đại lao tới. Almanzo đợi cho tới lúc nó vượt qua một gò đất gần hơn, lại lên tiếng gọi nó. Rồi cậu quay ngựa đi về phía thị trấn. Dải mây thấp rơi xuống thấp hơn đường chân trời như Lady tiếp tục hiện ra phía sau cậu. Trong chuồng ngựa ở phía sau kho thực phẩm, cậu đẩy Prince vào trong ngăn chuồng của nó và lau khô mình cho nó. Cậu đổ thức ăn đầy máng và mang lại một xô nước cho Prince uống một ít. Ngoài cửa chuồng có tiếng khua lạch cạch và cậu mở ra cho Lady bước vào. Nó trắng toát như được phủ bằng một lớp bọt xà phòng. Rồi với chiếc bàn chải, cậu chà lớp bọt hai bên sườn đang hổn hển của nó và phủ cho nó bằng một tấm mền. Cậu vắt nước từ một miếng vải ướt cho vào miệng cho nó thấm lưỡi. Cậu chà và lau khô chân cho nó ở những chỗ còn tươm mồ hôi. Almanzo nói với nó trong lúc cậu làm những việc đó: - Tốt, Lady, vậy là mi có thể chạy vượt một con sơn dương. Mi đã làm một chuyện điên rồ, phải không? Bằng mọi cách đây là lần cuối ta để cho một gã điên cưỡi mi. Bây giờ hãy nghỉ cho ấm. Lát nữa mi sẽ có nước và thức ăn. Bố lặng lẽ bước vào nhà bếp và không nói một lời, bố treo cây súng lên móc. Không ai nói gì vì không cần phải nói. Carrie thở dài. Thế là không có thịt nai, không có nước sốt ăn với bánh mì nướng. Bố ngồi xuống bên lò bếp, đưa hai tay lên hơ ấm. Một lát sau, bố nói: - Foster điên đầu vì quá căng thẳng. Ông ấy ngã ngựa và nổ súng trước khi tới gần tầm để bắn. Chẳng còn ai có cơ may nữa. Tất cả bầy sơn dương cong đuôi chạy về phía bắc. Mẹ đặt một nùi cỏ bện vào trong lò bếp. Mẹ nói: - Vào mùa này trong năm, thịt sơn dương cũng gầy nhom. Laura biết rằng đám sơn dương phải đi trong tuyết dày để tới kiếm thức ăn nơi các đồng cỏ khô. Trong bão tuyết, chúng không thể làm như thế và lúc này với tuyết đóng dày, chúng có thể đang chết đói. Đúng thực là thịt sơn dương lúc này gầy nhom. Nhưng nó vẫn là thịt. Tất cả đều quá mệt vì không có gì khác để ăn ngoài khoai tây và bánh mì nướng. - Con ngựa của cậu bé nhà Wilder cũng chạy mất. Bố nói và kể cho tất cả nghe chuyện con ngựa chạy theo bầy sơn dương ra sao. Câu chuyện hấp dẫn Carrie và Grace bằng hình ảnh một con ngựa tuyệt đẹp thả sức chạy theo thật xa với bầy sơn dương hoang dã. Grace mở tròn mắt hỏi: - Có khi nào con ngựa không quay về không, bố? Bố nói: - Bố không biết. Almanzo Wilder cưỡi ngựa đi theo hướng đó và bố cũng biết là liệu cậu ta có về hay không. Caroline, trong lúc em lo nấu ăn, anh ghé lại kho thực phẩm để hỏi coi. Kho thực phẩm trơ trọi và trống lốc, nhưng từ phòng sau, Royal đã nhìn thấy và nói một cách thân mật: - Vào đi, ông Ingalls! Ông tới đúng lúc để nếm thử món bánh kép và thịt thăn muối. Bố nói: - Tôi không biết bây giờ là giờ ăn trưa của anh. Bố ngắm đĩa thịt đang được hơ nóng trên lò bếp. Trên chiếc đĩa khác có ba chồng cao bánh kép và Royal còn đang nướng thêm. Trên bàn còn có mật mía và một bình cà phê đang sôi. Royal nói: - Tụi tôi ăn vào bất kì lúc nào thấy đói. Đó là cái lợi của cuộc sống độc thân. Ở đâu không có các bà nông dân thì ở đó không có giờ ăn quy định. Bố nói: - Các anh may mắn là đã mang theo nhiều thực phẩm. Royal đáp: - Vâng, bằng mọi cách, tụi tôi đã chế ra cả xe thức ăn và tôi nghĩ mang theo nguyên liệu cũng hay. Tôi tính sẽ bán một xe trước khi xe lửa thông đường. Bố đồng ý: - Tôi mong là anh làm được. Bố nhìn quanh căn phòng gọn gàng, đảo mặt dọc những bức vách treo quần áo, yên ngựa và nhận ra nhiều khoảng trống ở bức vách cuối phòng. - Em anh chưa về sao? Royal đáp: - Nó vừa về tới chuồng ngựa. Rồi anh ta than: - Coi kìa! Họ nhìn thấy Lady không mang yên bước nhanh qua cửa sổ về phía chuồng ngựa với lớp bọt trắng trên người chảy ròng ròng. Trong lúc họ đang nói về cuộc đi săn và phát sứng điên cuồng của ông Foster thì Almanzo bước vào. Cậu ném phịch chiếc yên vào một góc để rũ sạch trước khi treo lên và sưởi ấm bên lò bếp. Rồi cậu và Royal nài nỉ bố ngồi vào bàn ăn và cùng ăn với họ. Almanzo nói: - Royal nướng bánh kép không ngon bằng tôi. Nhưng không ai có thể đánh bại nổi món thịt thăn ướp muôi này. Nó đã được xông bằng khói hồ đào và lám bằng thịt heo thiến được vỗ béo từ trại ở Minnesota. Royal nói: - Ngồi lại đi, ông Ingalls và ăn tự nhiên. Còn cả kho thức ăn thừa mứa. Thế là bố làm theo. Chương 21: Mùa Đông Khắc Nghiệt Sáng hôm sau trời vẫn nắng và gió êm. Trời tiết có vẻ ấm hơn và nắng gắt. - Lại một ngày trời đẹp. Mẹ nói trong lúc ăn sáng, nhưng bố lắc đầu. Bố nói: - Nắng gắt quá. Anh sẽ đi kéo cỏ khô về ngay để nắm chắc là mình có đủ số cỏ cần nếu một cơn bão khác kéo tới. Và bố lật đật bước ra. Mẹ và Laura cùng Carrie có vẻ lo ngại, thỉnh thoảng lại nhìn qua lỗ hổng trên lớp sương đọng ở cửa ra ngoài ngó về vùng trời phía tây bắc. Mặt trời vẫn chiếu sáng khi bố trở về yên ổn. Sau bữa ăn thứ hai với khoai tây, bánh mì nướng, bố ra phố ra tin tức. Chỉ một lát sau bố đã quay về huýt gió vui vẻ bước qua phòng trước, ào vào bếp nói lớn: - Coi bố mang thứ gì về này! Grace và Carrie chạy tới hửi cái gói bố cầm về. - Nó giống như… Nó giống như… Carrie nói nhưng không dám nói hết vì sợ bị lầm. Bố nói: - Thịt bò đó! Bốn pao thịt bò! Để ăn với khoai tây và bánh mì của mình. Bố đưa cái gói cho mẹ. Mẹ hỏi giống như không tin là thực: - Charles! Bằng cách nào mà anh có thịt bò? Bố trả lời: - Foster hạ thịt mấy con bò đực của ông ấy. Anh đến đó vừa đúng lúc. Miếng cuối cùng xương xẩu không ngon lắm bán với giá hai mươi lăm xu một pao. Anh mua bốn pao và nó đây. Bây giờ mình sẽ sống như những ông hoàng. Mẹ mở nhanh lớp giấy bọc ngoài miếng thịt. Mẹ nói: - Em sẽ thui kĩ lại rồi om. Nhìn miếng thịt, Laura ứa nước miếng. Cô nuốt xuống và hỏi: - Mẹ, mẹ có thể làm nước xốt với nước và bột nướng không? Mẹ mỉm cười: - Có thể. Mình sẽ kéo dài một tuần, ít nhất để có một chút mùi vị và thời gian đó, chắc chắn xe lửa phải đến rồi, đúng không? Mẹ nhìn bố mỉm cười. Rồi mẹ ngưng cười và hỏi nhanh: - Có gì vậy, Charles? Bố đáp một cách miễn cưỡng: - Ừ, anh ghét nói ra với em. Bố hắng giọng: - Xe lửa không tới. Tất cả đều nhìn bố chăm chăm. Bố nói tiếp: - Xe lửa ngưng chạy cho tới mùa xuân. Mẹ đưa tay lên trời và buông người xuống ghế. - Sao lại có thể như thế, Charles? Không thể được. Không thể như thế được. Cho tới mùa xuân? Bây giờ mới chỉ là ngày đầu tháng giêng. Bố nói: - Họ không thể khai thông được. Họ không thể dọn xong đường sớm hơn một cơn bão ập đến và tuyết lại đổ xuống. Giữa ở đây và Tracy đã có hai đoàn xe lửa bị ngập tuyết giữa các con đường nghẽn. Mỗi lần giải tỏa chỗ bị nghẽn, người ta quăng tuyết sang hai bên và tất cả các chỗ bị nghẽn vào lúc này đều chất đầy tuyết cao tới đỉnh các bờ tuyết. Và tại Tracy, viên giám thị đã hết kiên nhẫn rồi. - Kiên nhẫn hả? Mẹ kêu lên. - Kiên nhẫn! Kiên nhẫn của ông ta chính là làm cái điều mà mình đang muốn biết! Ông ta phải hiểu rằng những người đang sống ở đây đã hết thức ăn rồi. Ông ta nghĩ mình sẽ sống như thế nào cho tới mùa xuân? Việc của ông ta không phải là kiên nhẫn. Việc của ông ta là làm cho xe lửa chạy. Bố nói: - Này, Caroline. Bố đặt một bàn tay lên vai mẹ. Mẹ ngưng đung đưa chiếc ghế và cuộn mấy bàn tay vào trong tấm tạp dề. Bố nói với mẹ: - Xe lửa đã ngưng chạy hơn một tháng và mình đang kéo dài một cách ổn thỏa mà. Mẹ nói: - Dạ. Bố khuyến khích mẹ: - Chỉ còn tháng này, rồi tháng hai là một tháng ngắn và tháng ba sẽ là mùa xuân. Laura nhìn bốn pao thịt bò. Cô nghĩ đến số khoai tây còn lại và cô ngắm túi bắp đã vơi đứng ở trong góc. Cô hạ thấp giọng hỏi: - Bắp còn nhiều không, bố? Bố nói một cách kì lạ: - Bố không biết, Laura. Nhưng đừng lo. Bố đã mang về một khạp đầy và thế là hết xẩy rồi. Laura không thể không hỏi: - Bố, bố không thể bắn một con thỏ sao? Bố ngồi xuống trước cửa lò bếp, đặt Grace ngồi trên đầu gối. Bố nói: - Tới đây, bình rượu nhỏ và con nữa, Carrie. Bố sẽ kể cho các con một câu chuyện. Bố đã không trả lời câu hỏi của Laura. Cô biết câu trả lời là gì. Không còn một con thỏ nào ở vùng này. Chắc chúng đã rời về miền nam khi lũ chim bay đi. Bố không bao giờ mang súng theo khi kéo cỏ và nếu chỉ cần nhìn thấy không hơn một con thỏ bố đã mang súng theo rồi. Bố vòng tay quanh người cô khi cô đứng vào Carrie đang ngồi trên đầu gối bố. Grace nép sát vào cánh tay kia của bố, cười khúc khích khi bộ râu màu hung của bố cọ trên mặt bé giống như nó vẫn cọ trên mặt Laura lúc cô còn bé. Tất cả đều ấm áp trong vòng tay của bố với hơi ấm từ trong lò bếp tỏa ra một cách dễ chịu. Bố nói: - Bây giờ, chú ý đây, Grace, Carrie và Laura. Cả con nữa, Mary và mẹ. Đây là một câu chuyện thú vị. Và bố kể cho tất cả nghe câu chuyện về viên tổng giám thị. Viên tổng giám thị là một người miền đông. Ông ta ngồi trong phòng làm việc ở miền đông và ra lệnh gửi xe lửa tới để tiếp tục chạy. Nhưng các chuyên viên báo cáo rằng bão và tuyết đã chặn các đoàn xe lại. Viên giám thị nói: - Bão tuyết không chặn được chúng tôi cho xe chạy khắp miền đông. Hãy giữ cho xe lửa chạy tới đoạn đường cuối cùng ở miền tây. Đó là lệnh! Nhưng tại miền tây, xe lửa vẫn bị chặn đứng. Ông ta được báo cáo là các nơi bị nghẽn đang chất đầy tuyết. Ông ta hạ lệnh: - Dọn sạch ngay các chỗ nghẽn. Tăng thêm người. Giữ cho xe lửa tiếp tục chạy. Bất kể mọi tốn kém! Người ta thêm nhân công. Chi phí cực lớn. Nhưng xe lửa vẫn không chạy nổi. Lúc đó viên giám thị nói: - Tôi sẽ tới đó và tự mình thông đường. Điều mà những người ở đó cần là phải có một ai đó chỉ cho thấy cách chúng ta đã làm ở miền đông. Thế là ông ta xuất hiện ở Tracy trong một chuyến đặc biệt và tới tại chỗ trong y phục của người đô thị với găng tay, áo khoác lông thú. Và đây là điều ông ta nói: - Tôi tới đây để lo nhiệm vụ của mình. Tôi sẽ chỉ cho các anh cách giữ cho xe lửa tiếp tục chạy. Dù thế, ông ta không phải là người thuôc hạng dở. Ông ta nhảy lên xe sửa chữa tới đoạn nghẽn lớn ở phía tây Tracy và lao vào trong tuyết cùng với đoàn sửa chữa, chỉ huy giống như bất kì một đốc công lành nghề nào. Ông ta dời hết tuyết khỏi đọan đường nghẽn nhanh gấp đôi thời gian và chỉ trong hai ngày đã dọn sạch đoạn đường. Ông ta nói: - Điều đó cho các anh thấy cách làm như thế nào. Bây giờ thì đường đã thông cho xe lửa chạy vào ngày mai và tiếp tục chạy luôn. Nhưng đêm đó, một trận bão tuyết trút xuống Tracy. Chuyến xe đặc biệt của ông ta không thể chạy trong cơn bão tuyết đó và khi bão ngưng, đoạn đường nghẽn lại đóng dầy tuyết lên tới đỉnh một bờ tuyết mà ông ta cho quăng sang hai bên. Ông ta lại có mặt ngay tại đó cùng mọi người và họ lại cùng thông đường. Công việc đó kéo dài hơn vì họ phải chuyển một lượng tuyết lớn hơn. Nhưng ông ta đưa chuyến xe sửa chữa thông đường qua đúng lúc tuyết trút xuống do một cơn bão nối sau. Phải nhìn nhận viên giám thị là người quyết liệt kiên trì. Ông ta lại giải quyết đoạn đường nghẽn, có khai thông và thế là ông ta phải ở lại Tracy qua một cơn bão khác. Lần này ông ta huy động hai toán công nhân mới cùng hai đầu máy và một xe xúc tuyết. Ông ta đáp đầu máy thứ nhất tới đoạn đường nghẽn ở Tracy. Chỗ nghẽn chất cao như một quả đồi. Giữa các bờ tuyết mà ông ta đã cho quăng lên, bão tuyết đã đổ xuống và tuyết đông cứng lại dầy tới một trăm bộ và kéo dài khoảng một phần tư dặm. Ông ta nói lớn: - Ổn thôi, các anh! Chúng ta sẽ dùng cuốc và xẻng cho tới khi có thể cho xe xúc tuyết chạy qua. Ông ta giữ mọi người làm việc, nhanh gấp đôi, trả lương gấp đôi trong hai ngày. Trên đường sắt vẫn còn im lìm khoảng mười hai bộ tuyết nhưng ông ta nhận ra một điều. Ông ta biết rằng ông ta may mắn có được ba ngày quang đãng giữa các trận bão tuyết. Thế là sáng thứ ba, ông ta cho máy xúc tuyết chạy qua. Ông ta ra lệnh cho hai chuyên viên điều khiển đầu máy. Họ ghép hai đầu máy lại với xe xúc tuyết ở phía trước và cho xe sửa chữa chạy qua đoạn đường nghẽn. Hai kíp thợ nhào vào và chỉ vỏn vẹn hai giờ làm việc cực nhanh, họ dồn thêm được hai bộ tuyết. Lúc đó, viên giám thị cho ngưng làm. Ông ta lệnh cho các chuyên viên: - Bây giờ các anh cho đầu máy xe lui xa về phía sau hai dặm và từ đó các anh phóng hết sức máy tới phía trước. Với hai dặm lấy đà tốc độ, các anh phải lao vào đoạn đường nghẽn với tốc độ mười hai cây số giờ và sẽ dọn nó sách bong. Các chuyên viên leo vào trong đầu máy. Rồi người ở đầu máy phía trước lại bước xuống. Đám công nhân đang đứng xung quanh trong tuyết vừa dậm chân vừa vỗ tay để làm nóng. Họ tụ lại để nghe những điều mà người chuyên viên đi thẳng tới gặp viên giám thị và nói thẳng thừng: - Tôi nghỉ việc. Tôi đã lái xe lửa mười lăm năm và không một ai chê tôi là một kẻ hèn nhát. Nhưng tôi không chấp hành những mệnh lệnh đưa mình vào chỗ tự sát. Ông muốn dùng một đầu máy để húc bật một khối tuyết đông cứng dài mười bộ với tốc độ bốn mươi dặm một giờ, ông giám thị. Xin ông kiếm người khác lái. Ông nghỉ ngay lúc này và tại đây. Bố ngưng lại và Carrie nói: - Con không trách ông ấy. Laura nói: - Chị thì khác. Ông ta không nên nghỉ việc. Ông ta cần tính toán lấy một cách nào khác để vượt qua nếu ôn ta thấy cách kia ông thể làm được. Chị nghĩ ông ta sợ. Mary nói: - Ngay cả khi ông ta sợ, ông ta phải làm như ông ta được nhắc. Viên giám thị phải biết rõ điều gì hoặc ông ta cần là người giám thị thế nào? Laura phản đối: - Ông ta không hiểu biết tốt hơn. Grace nài nỉ: - Kể tiếp đi, bố, kể tiếp đi! Mẹ nhắc: - Im đi, Grace! Grace nói: - Con nài nỉ mà! Kể tiếp đi bố! Chuyện gì đã xảy ra sau đó? Mary hỏi: - Bố, lúc đó ông giám thị làm gì? Laura nói: - Bắn ông ta, phải không bố? Bố kể tiếp: - Ông giám thị ngắm người chuyên viên kia rồi ngắm những người đang xúm quanh nghe ngóng và ông ta nói “Tôi sẽ lái đầu máy xe. Tôi không ra lệnh cho bất cứ ai làm điều gì mà bản thân tôi không làm được. Tôi sẽ điều khiển nó.” Ông ấy leo lên đầu máy xe, cho nó lùi lại và hai chiếc đầu máy xe chạy lui trên đường sắt. Ông giám thị giữ cho các đầu máy xe lui khoảng hai dặm cho tới khi chúng ở thật xa trên đường sắt và giống như chỉ còn hơn một ngón tay cái. Rồi ông ấy kéo còi ra hiệu cho người chuyên viên ở phía sau và cả hai đều mở máy. Những đầu máy đó lao tới từ hai dặm đường thẳng mở hết ga để tăng tốc tối đa từng giây một. Một luồng khói than đen kịt cuốn dài về phía sau, những vệt đen dài pha lóe sáng lớn hơn trong ánh nắng, những vành bánh quay mù mịt rầm rập phóng tới với tốc độ năm mươi cây số giờ đâm thẳng vào đống tuyết đóng cứng. Carrie nín thở hỏi: - Điều gì… điều gì xảy ra… lúc đó, bố? - Lúc đó cả một suối tuyết bay lên vỡ tung thành nhiều mảnh văng ra tới bốn mươi thước khắp xung quanh. Khoảng một phút hoặc hai phút, không ai thấy khai thông được cái gì và không ai biết điều gì đã xảy ra. Nhưng khi mọi người chạy tới thì chiếc đầu máy thứ hai bị vùi kín một nửa trong tuyết và người chuyên viên đang trườn ra từ phía hông. Ông kinh hoàng tột độ nhưng không bị chấn thương nặng lắm. Tất cả hỏi người chuyên viên “Ông giám thị đâu? Ông ấy ra sao rồi?” Tất cả điều người chuyên viên nói được chỉ là “Tôi biết thế quái nào được? Tất cả điều tôi biết là tôi không chết”. Ông ta nói thêm “Tôi không bao giờ làm lại việc này nữa. Dù để lấy một triệu đồng đô-la bằng vàng”. Người đốc công hô mọi người xúm lại với cuốc, xẻng. Họ đào lớp tuyết xốp bao quanh chiếc đầu máy xe thứ hai và xúc đi. Người chuyên viên cho nó chạy lui lại trên đường sắt trong lúc tất cả điên cuồng bới tuyết tiến về phía trước để tới chiếc đầu máy thứ nhất và ông giám thị. Qua một hồi cực nhọc họ đối mặt với khối băng cứng ngắt. Chiếc đầu máy thứ nhất chạy hết tốc độ lao thẳng vào đám tuyết đó lấn sâu vào phía trong. Hơi nước và sức nóng của nó làm tan lớp tuyết xung quanh và lớp tuyết này chảy xuống đông cứng lại. Thế là ông giám thị nổi điên hơn một con ong bắp cày bị nhốt trong một chiếc đầu máy xe bị đông cứng giữa một khối băng! Grace, Carrie và Laura đều bật cười lớn. Ngay cả mẹ cũng mỉm cười. Mary nói: - Tội nghiệp ông ấy. Chị không nghĩ đây là một câu chuyện buồn cười. Laura nói: - Em lại thấy buồn cười. Lúc này em đoán là lúc này ông ấy không còn nghĩ rằng mình biết nhiều nữa. Mẹ nói: - Trèo cao thì ngã đau. Carrie nài nỉ: - Kể tiếp đi, bố! Người ta có đào lôi được ông ấy ra không? - Có, họ đào xuống, phá băng đục một lỗ xuyên tới đầu máy xe và kéo ông ấy ra. Ông ấy không bị thương và đầu máy xe cũng không bị hư hao gì. Chỉ có xe xúc tuyết là lãnh đủ. Ông giám thị leo ra khỏi đoạn đường nghẽn đi bộ tới chỗ người chuyên viên thứ hai và nói: - Anh có thể lấy đầu máy ra chứ? Người chuyên viên nói ông ta nghĩ là có thể được. Ông giám thị nói: - Được, làm đi. Ông ấy đứng ngắm cho tới khi chiếc đầu máy được đưa ra. Lúc đó, ông ấy nói với tất cả mọi người: - Tập hợp lại, mình sẽ trở về Tracy. Phân xưởng đóng cửa cho tới mùa xuân. Bố nói: - Các con thấy đó. Ông ấy không còn đủ kiên nhẫn do sự rắc rối như thế. Mẹ nói: - Thiếu tính bền bỉ. Bố đồng ý: - Thiếu bền bỉ. Chỉ vì ông ấy không thể thông đường bằng xẻng và xe xúc tuyết nên ông ấy cho rằng không thể thông đường nổi và ngưng cố gắng. Đành thôi, ông ấy là một người miền đông. Cần có nhẫn nại và kiên trì để vượt qua những chuyện xảy ra ở miền tây này. Laura hỏi: - Ông ấy ngưng việc khi nào, bố? Bố đáp: - Sáng nay. Tin tức truyền tới bằng điện báo và nhân viên điện đài ở Tracy đã kể cho Woodworth chuyện xảy ra thế nào. Thôi, bố phải đi lo công việc thường lệ trước khi tối quá. Cánh tay bố xiết lại, ôm ghì Laura một chút trước khi bố đặt Carrie và Grace xuống khỏi đầu gối. Laura biết bố muốn nói gì. Lúc này cô đã đủ lớn để đứng bên cạnh bố mẹ trong gian đoạn khó khăn. Cô cần không lo lắng và phải vui vẻ giữ vững tinh thần cho tất cả. Thế là mẹ khẽ hát ra bé Grace trong lúc thay quần áo cho bố đi ngủ, Laura liền hát nối theo: - Ôi, đất hứa Canaan, Canaan ngời sáng Con đã sẵn sàng….. Cô nói thật nhanh: - Hát, Carrie! Thế là Carrie bắt đầu hát rồi giọng nữ cao ngọt ngào của Mary nhập cuộc: Đứng chênh vênh giữa bão bùng đất lạ Mắt mỏi mòn nhìn về hướng xa xăm Bờ đất Canaan đang chan hòa ánh sáng Nhắc nhở bao gắn bó ân cần Ôi, đất hứa Canaan, Canaan ngời sáng Con đã sẵn sàng đi tới Canaan. Nắng chiều đỏ rực nhuốm trên những ô kính cửa sổ đóng sương giá. Một làn sáng màu hồng nhạt hắt vào nhà bếp, nơi mọi người đang ngồi hơ ấm bên lò bếp. Nhưng Laura nghĩ đã có một chuyển đổi trong tiếng gió với một âm thanh man dại ki nh hoàng. Sau khi mẹ xem xét coi tất cả đã nằm gọn trên giường chưa và bước xuống tầng dưới, tất cả đều lắng nghe và cảm thấy bão tuyết đang ào tới căn nhà. Dồn sát lại bên nhau và run rẩy dưới những lớp mền, các cô tiếp tục lắng nghe. Laura nghĩ tới những căn nàh lạc lõng, trơ vơ đứng đơn độc, tối tăm và chúi xuống trong cơn cuồng nộ của bão táp. Thị trấn có rất nhiều nhà nhưng ngay cả mọi tia sáng từ nhà này cũng không thể soi thấu tới nhà khác. Và thị trấn cũng hoàn toàn đơn độc trên đồng cỏ vô tận đông cứng dưới những lớp tuyết chồng chất và tiếng gió gào hú cùng với các cuộn bão quay cuồng dập tắt các vì sao và mặt trời. Laura cố nghĩ tới hương vị đậm đà của món thịt bò trong bữa ăn trưa mai, nhưng cô không thể nào quên rằng vào lúc này, mọi căn nhà và thị trấn đều hoàn toàn đơn độc cho tới mùa xuân. Còn nửa khạp bắp để các cô nghiền thành bột và còn một ít khoai tây, nhưng không có gì ăn cho tới khi xe lửa đến. Bắp và khoai tây không có đủ. Chương 22: Lạnh Lẽo Và Tối Tăm Trận bão tuyết đó giống như không bao giờ ngừng. Đôi lúc bão tạm chấm dứt nhưng chỉ để lập tức rên rỉ trở lại và dữ dằn hơn. Tiếng gió rên rỉ vào gào thét cuồng nộ suốt ba ngày đêm đè bẹp căn nhà tối tăm, lạnh lẽo và không ngừng cào xát với những bụi băng. Rồi mặt trời ló ra từ sáng tới trưa, và cơn giận dữ đen đặc của gió và băng tuyết lại trở lại. Đôi lúc trong đêm khuya, dật dờ và lạnh buốt, Laura chừng như mơ thấy mái nhà bị cào mỏng đi. Bão tuyết bao trùm một cách dễ sợ, kín khắp bầu trời, áp sát trên mái nhà và chà xát bằng một miếng vải vô hình cực lớn, xoay tròn và xoay tròn mãi trên lớp mái giấy mỏng cho tới khi xé rách một lỗ để lùa qua, rú rít, quăng quật và cười ha hả. Laura chỉ vừa kịp choàng dậy để tự cứu mình. Sau đó, cô không dám ngủ trở lại. Cô nằm nhỏ nhoi, bất động trong bóng tối và màn đêm đen kịt xung quanh vẫn thường thân mật và xoa dịu cô, lúc này lại là một nỗi khủng khiếp. Cô chưa có khi nào sợ bóng tối. - Mình không sợ bóng tối. Cô tự nhủ và lặp lại nhiều lần, nhưng vẫn cảm thấy bóng tối sẽ chụp bắt cô ngay bằng nanh vuốt của nó nếu nó nhận ra cử động và hơi thở của cô. Trong các bức vách, dưới mái nhà với những đinh móc đóng đầy sương giá, thậm chí cả dưới những lớp mền áp sát người cô, bóng tối đã thu mình lại và đang rình nghe. Ban ngày không tồi tệ như ban đêm. Lúc đó bóng tối nhòa nhạt hơn và mọi thứ đều bình thường. Một làn ánh nắng chập choạng đầy nhà bếp và gian chái. Mary và Carrie luân phiên ngồi bên chiếc cối xay cà phê để giữ cho nó không khi nào ngừng nghiền. Mẹ lo làm bánh mì, quét nhà, dọn dẹp và giữ lửa. Trong gian chái, Laura và bố xoắn kết cỏ khô cho tới khi các bàn tay không thể cầm và xoắn cỏ nổi mới đi hơ ấm bên lò bếp. Lửa cỏ không đủ sức xua cái lạnh khỏi nhà bếp nhưng sát lò bếp không khí tương đối ấm. Mary ngồi phía trước lò bếp với Grace ở trong lòng. Carrie đứng sau ống khói còn chiếc ghế của mẹ đặt ở mé cạnh lò bên kia. Bố và Laura nghiêng người trên lò bếp ở nơi hơi nóng bốc lên. Bàn tay hai cha con sưng đỏ, da tay lạnh ngắt và đầy vết cỏ cứa. Cỏ cắt đứt cả lớp vải áo choàng ở sườn trái và dọc phía dưới những ống tay áo phía trái của cả hai. Mẹ và những chỗ bị rách lại, nhưng cỏ lại cứa bung các miếng vá. Bữa ăn sáng chỉ còn có bánh mì nướng. Mẹ nướng bánh giòn và nóng trong lò hấp rồi nhúng vào trong nước trà. Mẹ nói: - Charles, anh thật chu đáo vì đã dự trữ một số trà như thế. Có khá nhiều trà và còn cả một ít đường nữa. Vào bữa ăn thứ hai trong ngày, mẹ luộc mười hai củ khoai tây để nguyên vỏ. Bé Grace chỉ cần một củ, nhưng người khác được hai củ và mẹ nói rõ bố được thêm một củ. Mẹ biện luận: - Mấy củ khoai không được lớn, Charles, anh còn cần giữ sức khỏe. Dù sao, vẫn là ăn dè sẻn. Em và các con không thích ăn thêm, đúng không, các con? Tất cả đều đáp: - Dạ không, mẹ. - Dạ không, cảm ơn bố. Thực sự con không muốn ăn. Sự thực đúng là thế. Các cô không thực sự đói. Chỉ có bố đói. Mắt bố háo hức nhìn ổ bánh mì nướng và những củ khoai tây đang bốc hơi khi bố trở về từ cuộc vật lộn với sợi dây phơi trong cơn bão. Những người khác chỉ thấy mệt, mệt vì gió, mệt vì lạnh và tối tăm, mệt vì món bánh mì nướng với khoai tây, mệt vì những thứ không liệt kê hết và vì nhàm chán. Mỗi ngày, Laura dành một ít thời giờ để học. Khi cỏ khô đã kết đủ để kéo dài một giờ, cô ngồi xuống bên Mary, giữa lò bếp và bàn ăn, mở sách vở ra. Cô không ghi nhận nổi bài học lịch sử và nghiêng đầu trên bàn ngắm đề toán viết trên tấm bảng không tìm cách giải quyết và cũng không muốn tìm. Mẹ nói: - Nào, nào, các con! Mình không thể rầu rĩ được. Thẳng người lên, Laura, Carrie! Hãy đọc bài cho nhanh rồi mình sẽ có một trò giải trí. Carrie hỏi: - Cách nào, mẹ? Mẹ nói: - Hãy lo học bài trước đã. Giờ học dứt, mẹ mở tập Người diễn giải độc lập thứ năm. Mẹ nói: - Thế này, mình sẽ coi ai là người nhớ được nhiều nhất. Mary, con đọc trước đi. Đoạn nào đây? - Diễn văn của Regulus. Mẹ mở tới các trang cần tìm và Mary bắt đầu đọc. - “Do xét đoán đức tính La mã theo ý riêng của các ngài, hẳn các ngài nghĩ rằng tôi thà nuốt lời hứa còn hơn là quay lại để chấp nhận sự trả thù của các ngài”. Mary đọc thuộc lòng hết đoạn diễn tả sự thách thức hào hùng đó. - “Ở đây, ngay tại kinh đô của quý ngài, tôi lên tiếng thách thức quí ngài! Có phải tôi không hề đánh tan những đạo quân của cq ngài, không hề phá tan những thành trì của các ngài và kéo sau vành bánh chiếc xe của tôi những tướng lãnh của các ngài, kể từ lúc cánh tay trai trẻ của tôi lần đầu sử dụng mũi giáo?” Nhà bếp có vẻ trở ấm hơn và rộng hơn. Gió bão không mạnh mẽ bằng những lời đó. - Con đọc thật hoàn hảo, Mary. Mẹ khen rồi nhắc: - Bây giờ, đoạn nào, Laura? - Già Tubal Cain. Laura bắt đầu đọc và những câu thơ nâng cô đứng lên. Phải đứng cho giọng đọc rung vang theo tiếng búa của ông già Tubal Cain. Già Tubal Cain nổi danh vô địch Khi trái đất này đang trong thuở hồng hoang Bên lò lửa nung rực hồng giận dữ Búa của già ròn rã khua vang… Bố bước vào trước khi Laura đọc tới đoạn cuối. Bố nói: - Tiếp tục, tiếp tục. Điều này còn làm bố ấm hơn lửa nhiều. Thế là Laura đọc tiếp trong lúc bố lột chiếc áo choàng bám tuyết trắng toát và nghiêng người trên lửa cho tuyết đóng trên lông mày tan chảy. Hãy hát ngợi ca con người vô địch Người bạn thủy chung độ lượng hiền hòa Và ngợi ca chiếc lưỡi cày bén gót Trong bàn tay trân trọng của ông già. Khi nỗi bất công ngang nhiên tác tệ Kẻ bạo hành thành chúa tể bốn phương Dù nhớ mãi ơn lưỡi cày nhân hậu Xin đừng quên đã có một đường gươm. Mẹ gấp sách lại nói: - Con thuộc đúng từng lời, Laura. Ngày mai sẽ tới lượt Carrie và bé Grace. Rồi tới lúc đi kết thêm cỏ khô nhưng trong khi run rẩy xoắn những cọng cỏ sắc cạnh trong giá rét, Laura nghĩ nhiều tới những câu thơ. Trưa ngày mai thành một thứ để nhắm tới. Người diễn giải thứ năm đầy những bài diễn văn hùng hồn và những bài thơ mà cô muốn nhớ chính xác và nhiều ngang mức như của Mary. Bão vẫn có đôi lúc ngưng lại. Gió hú bình thường và đều đặn. Bầu trời thoáng đãng trên những lớp tuyết bay và bố ra ngoài kéo cỏ. Lúc đó, Laura và mẹ làm thật nhanh việc giặt giũ và treo đồ lên trong hơi lạnh để hong khô. Không ai biết lúc nào bão sẽ trở lại. Bất kì lúc nào mây đều có thể dâng lên và kéo tới nhanh hơn ngựa chạy. Bố không thể bình an ở ngoài đồng cỏ cách xa thị trấn. Có lúc bão ngưng tới nửa ngày. Có lúc nắng chiếu từ sáng tới hoàng hôn và bão chỉ trở lại cùng với bóng tối. Vào những ngày như thế, bố kéo về ba chuyến cỏ khô. Cho tới lúc bố trở về, dắt David vào chuồng, Laura và mẹ lặng lẽ làm việc nhưng vẫn thường nhìn lên trời, lắng nghe tiếng gió còn Carrie im lìm ngó về phía tây bắc qua lỗ hổng mà cô cào ra trên cửa sổ. Bố luôn luôn nói bố không thể lo liệu nổi nếu không có David. Bố nói: - Nó đúng là một con ngựa hết tốt. Không biết còn có một con ngựa nào tốt và kiên nhẫn như thế. Khi David sa vào trong tuyết, nó luôn đứng im lìm cho tới khi bố mở lối cho nó ra. Rồi bình thản và nhẫn nại, nó kéo cỗ xe quanh chiếc hố và tiếp tục đi cho tới lúc lại sa vào một hố tuyết khác. Bố nói: - Anh ước là có thể kiếm cho nó được một ít lúa mạch hoặc bắp. Khi tiếng rên rỉ và rú rít của gió ào đến và tuyết lại xoáy tít cào xát. Bố nói: - Tốt, mình đã có đủ cỏ khô để kéo dài một thời gian, cảm ơn David. Sợi dây phơi vẫn còn ở đó để dẫn đường cho bố tới chuồng ngựa và quay vào trong nhà. Đã có cỏ khô, lại vẫn còn một ít bắp và khoai tây và trong lúc bão nổi lên thì bố đã bình yên ở nhà. Trong các buổi chiều, Mary cùng Laura và Carrie đọc lại các đoạn thơ văn. Thậm chí Grace cũng biết các bài “Con cừu nhỏ của Mary” và “Bo-peep mắt cừu”. Laura thích nhìn cặp mắt xanh lơ của Grace và Carrie sáng lên một cách căng thẳng khi cô đọc cho nghe: Lắng nghe đây, lắng nghe để thấy Chuyến lên đường giữa lúc đêm khuya Năm bảy mươi lăm, tháng tư, mười tám Một người còn sống đến bây giờ Ghi khắc mãi tiếng tăm một thuở… Cô và Carrie cùng phối hợp đọc lại bài « Ổ thiên nga »: Nhỏ nhoi cô bé đơn côi Giữa đồng hoang dưới hàng xồi xanh xanh Bên bờ suối chảy uốn quanh Cây cao in bóng xuống ghềnh cỏ non Lao xao bóng lá chập chờn Tóc bay trong nắng nét buồn bâng khuâng Ở đó không khí ấm áp, yên tĩnh, cỏ phơi mình trong nắng, nước róc rách tuôn và những cánh lá khẽ thì thầm. Côn trùng trên đồng cỏ ngân nga rỉ rả. Lúc cùng với Ellie là những cô bé ở đó. Laura và Carrie hầu như quên hết hơi lạnh. Các cô ít nghe thấy tiếng gió và tiếng tuyết xoay tít cào xát vào các bờ vách. Một buổi sáng êm ả, Laura xuống tầng dưới thấy mẹ đang có vẻ ngạc nhiên và bố đang cười. Bố nói với Laura: - Ra coi ở cửa sau! Cô chạy thẳng tới gian chái mở cửa sau ra. Một đường hầm thấp, lởm chởm chạy vào một mảng bóng tối trong lớp tuyết màu trắng xám. Vách và nền hầm đều bằng tuyết còn mái hầm là một lớp tuyết cứng ngắt đóng đầy phía trên khung cửa. Bố giải thích: - Sáng nay bố đào lấy một lối đi tới chuồng ngựa. Laura hỏi: - Nhưng bố làm gì với số tuyết? Bố thích thú: - Ồ, bố làm một đường hầm thấp đủ để bố có thể đi qua. Bố đào dồn tuyết về phía sau lưng và tống qua một cái lỗ mà cuối cùng bố đã lấp lại. Không có gì ngăn gió tốt bằng tuyết cả. Khi nào các bờ tuyết đó còn đứng vững, bố có thể làm các việc thường lệ trong sự thoải mái. Mẹ muốn biết: - Tuyết dầy chừng nào? Bố đáp: - Anh không thể nói chắc được. Kể như nó chất đống dầy hơn mái nhà chái. Mẹ kêu lên: - Anh không định nói là căn nhà này đã vùi trong tuyết chứ! Bố đáp: - Nếu thế thì là một điều tốt. Em sẽ thấy nhà bếp ấm hơn vào mùa đông này. Laura chạy lên gác. Cô cào một lỗ hổng trên cửa sổ, ghé mắt vào và khó thể tin nổi. Mặt đường phố Main Street nâng cao ngang mắt cô. Phía bên kia lớp tuyết lấp lánh, cô nhìn thấy chóp vuông khung mặt tiền giả của cửa hàng Harthorn dựng lên giống như một mảnh ván hàng rào ngắn. Cô nghe thấy tiếng hô hồ hởi rồi nhìn thấy những móng chân ngựa xoải nhanh ngay trước mắt. Tám chiếc móng ngựa màu xám với những cổ chân thon thả màu nâu uốn cong nhẹ nhàng và thướt thẳng qua cực nhanh kéo theo một cỗ xe trượt tuyết có hai đôi ủng đứng bên trên. Cô cúi người xuống nhìn qua lỗ hổng nhưng cỗ xe đã đi khỏi. Cô chỉ nhìn thấy bầu trời lạnh buốt với ánh nắng thọc thẳng vào mắt cô. Cô chạy xuống nhà bếp ấm áp để nói về điều vừa nhìn thấy. Bố nói: - Anh em nhà Wilder đó. Họ đang đi lấy cỏ khô. Laura hỏi: - Làm sao bố biết điều đó, bố? Con chỉ nhìn thấy những ống chân ngựa và mấy chiếc ủng. Bố nói: - Ở thị trấn này không có ai, ngoại trừ hai người đó và bố dám ra khỏi thị trấn. Tất cả đều sợ bão tuyết ập tới. Anh em Wilder đang kéo về những xe cỏ khô từ đầm Big Slough và bán mỗi xe với giá ba đô-la cho người ta đốt lửa. Mẹ kêu: - Ba đô-la! - Ừ, và tạm công bằng với sự mạo hiểm của họ. Họ đang đơn độc làm một điều tốt. Anh mong là anh cũng làm được. Nhưng họ có than để đốt. Anh thì chỉ mừng là có đủ cỏ để đốt qua ngày. Anh đã không tính đến việc dùng cỏ làm chất đốt cho mùa đông. Laura nói: - Họ đi qua cao ngang với các ngôi nhà! Cô vẫn bị kích động. Thật kì lạ khi nhìn thấy những móng chân ngựa, một cỗ xe trượt tuyết và những chiếc ủng ngay trước mắt giống như một con vật nhỏ, một con sóc đất chẳng hạn, vẫn luôn nhìn như thế. Mẹ nói: - Lạ là họ không bị sa lầy trong tuyết. Bố nhai ngấu nghiến miếng bánh, uống thật nhanh ly trà và nói: - Ô, không. Họ không bị lún được. Những đợt gió này khiến tuyết cứng như đá. Ngay cả những móng chân của David cũng không in dấu nổi trên tuyết. Rắc rối duy nhất là chỉ những nơi có cỏ mọc bùng nhùng phía dưới. Bố quấn quần áo một cách vội vã. - Mấy chàng trai đó đã tới điểm xuất phát của anh sáng nay do anh bận đào đường hầm. Bây giờ anh sẽ đào David ra khỏi chuồng và đi kéo cỏ khi trời đang nắng! Bố nói đùa khi đóng cánh cửa lại. Mẹ nói: - Bố cảm thấy vui vẻ vì đào được đường hầm đó. Thật may mắn khi bố có thể làm việc trong sự yên ổn tránh khỏi gió bão. Ngày hôm đó tất cả không thể nhìn thấy bầu trời từ cửa sổ nhà bếp. Hơi lạnh thấm qua tuyết ít đến nỗi Laura đưa Mary qua gian chái để chỉ cho cô cách xoắn bện cỏ. Mary vẫn muốn học cách làm nhưng gian chái quá lạnh, phải mất một thời gian vì cô không nhìn thấy cách Laura xoắn, giữ các tao cỏ và cài các đoạn cuối, nhưng cuối cùng cô đã làm được khá tốt. Suốt một ngày xoắn bện cỏ, các cô chỉ ngừng lại sưởi ấm vài ba lần. Rồi nhà bếp ấm đến mức họ không cần ngồi chụm lại quanh lò bếp. Căn nhà hết sức yên tĩnh. Tiếng động duy nhất chỉ là tiếng những ghế đu của mẹ và Mary khe khẽ đung đưa, tiếng cây viết chì chạy trên mặt bảng, tiếng ấm nước réo vo vo và tiếng mọi người nói chuyện nhỏ nhẹ. Mẹ nói: - Lớp tuyết đóng dầy này thật là vô cùng may mắn. Nhưng tất cả không thể ngắm bầu trời. Ngắm để biết có điều gì không hay. Nếu một lớp mây xám ùn ùn dâng lên, họ cũng không thể ngăn cản nổi. Họ không giúp gì được cho bố. Bố cần ngắm mây để kiếm chỗ trú ẩn thật nhanh. Laura nghĩ về điều này thật nhiều nhưng dù vậy, cô vẫn vội vã bước lên gác băng qua làn hơi lạnh để tới ngó ra từ cửa sổ. Mẹ và Carrie nhìn cô rất nhanh khi cô bước xuống và cô luôn trả lời mọi người lớn tiếng để Mary nghe được: - Trời quang đãng, không có gì khuấy động ngoại trừ hàng triệu tia lấp lánh trên tuyết. Chiều hôm đó, bố kéo cỏ qua đường hầm nhồi đầy gian chái. Bố đã đào đường hầm qua trước cửa chuồng để David có thể ra vào và phía bên kia chuồng bố uốn đường hầm ở một góc để cản gió có thể thổi vào chuồng. Bố nói: - Anh chưa từng thấy thời tiết như thế này. Chắc phải lạnh đều ở bốn mươi độ âm và không có một thoáng hơi khuấy động. Toàn thể giống như đông cứng lại. Anh hy vọng kiềm chế được cái lạnh này. Qua khỏi đường hầm kia thì không còn việc gì để mà làm cả. Mẹ thì thầm tựa hồ đang ngái ngủ: - Đừng điên đầu như vậy, Laura! Hôm đó không có đọc thơ văn. Tất cả không làm gì. Chỉ ngồi. Đêm cũng bất động. Nhưng buổi sáng khi mọi người thức dậy bằng một cơn điên cuồng gào hú. Gió lại nổi lên và tuyết quay cuồng quật ngã. Bố nói khi bước vào ăn bữa sáng: - Rồi, đường hầm sẽ biến mau thôi. Lông mày của bố lại đóng băng tuyết và mũ áo của bố cũng cứng ngắt. Hơi lạnh đang dồn cái ấm trở lại lò bếp. - Dù sao anh vẫn hi vọng đường hầm kéo dài nổi qua một đợt đập phá này. Quái quỉ cái trận bão tuyết này! Nó chỉ thả đủ lâu để nhỏ bọt trên tay nó. Mẹ gắt: - Đừng chửi thề, Charles! Mẹ sợ hãi đưa tay lên bịt miệng: - Ô,Charles, em xin lỗi! Em không có ý gắt gỏng với anh. Nhưng thứ gió quái quỉ này, cứ thổi và thổi… Giọng mẹ lạc đi và mẹ đứng lắng nghe. Bố nói: - Anh biết, Caroline. Anh biết chắc em đang cảm thấy thế nào. Nó đã khiến em mệt mỏi quá rồi. Anh biết nói gì với em. Sau bữa ăn mình sẽ đọc một lát về Châu Phi của Livingston. Mẹ nói: - Thật tệ là sáng nay em đã đốt quá nhiều cỏ, Charles. Em phải đốt nhiều hơn để cố giữ hơi ấm ở đây. Bố đáp: - Đừng nghĩ ngợi gì, rõ ràng là phải bện thêm nữa. Laura đề nghị: - Con sẽ phụ bố. Bố nói: - Mình sẽ làm trọn ngày. Mọi thứ ở chuồng ngựa đã đâu vào đấy cho đến tối. Mình sẽ bện cỏ khô trước rồi đọc sách sau. Grace bắt đầu thổn thức: - Chân con lạnh quá! Laura nói với bé: - Mắc cỡ quá, Grace! Em là một cô gái lớn rồi! Tự đi hơ ấm bàn chân đi! Mary nói trong lúc cảm nhận rõ cái cách đung đưa chiếc ghế trước lò bếp: - Tới ngồi trong lòng chị cho ấm đi. Sau khi Laura và bố bện xong một đống cỏ khô đem chất bên lò bếp thì Carrie mang tới cho bố cuốn sách lớn màu xanh lá cây. Cô yêu cầu: - Đọc đoạn nói về sư tử, nghe bố. Mình có thể chơi trò gió là những con sư tử đang gầm. Bố nói: - Anh sợ là anh cần có ánh sáng, Caroline. Chữ in nhỏ quá. Mẹ thắp cây đèn khuy áo đặt bên cạnh bố. Bố nói: - Nào, đây là đêm trong rừng Phi Châu. Ánh sáng chập chờn ở đây là do lửa trại của mình. Thú rừng đang bao xung quanh, tru tréo, gào hú. Có đủ cọp, sư tử, linh cẩu và bố đoán có cả một hoặc hai con hà mã nữa. Chúng không đến gần chúng ta vì chúng đều sợ lửa. Cũng có tiếng những chiếc lá lớn khua sột soạt và tiếng kêu quang quác của những con chim lạ. Đêm đen đặc và nóng bức với những ngôi sao lớn ở trên đầu. Bây giờ, mình bắt đầu nghe đọc về những điều xảy ra. Bố bắt đầu đọc. Laura cố lắng nghe, nhưng cô cảm thấy mụ người đi và tê cóng. Giọng bố trôi tuột vào âm thanh náo động không ngừng của cơn bão. Cô cảm thấy trận bão phải ngưng lại trước khi cô nghe nổi một điều gì, thậm chí cả trước khi cô có thể lắng nghe hoặc suy nghĩ nhưng bão không khi nào chịu ngừng. Nó cứ thổi dai dẳng. Cô đã mệt. Cô mệt vì hơi lạnh và bóng tối, mệt vì bánh nướng với khoai tây, mệt vì bện cỏ, nghiền bắp, đốt lò, rửa chén đĩa, làm giường, đi ngủ và thức dậy. Cô đã mệt, mệt vì những tiếng gió trong bão tuyết. Không có một điều nào khác mà chỉ là một mớ âm thanh hỗn độn vào tai. Đột nhiên cô lên tiếng cắt ngang việc đọc sách của bố: - Bố, bố chơi đàn được không? Bố nhìn cô với vẻ ngạc nhiên. Rồi bố đặt cuốn sách xuống. Bố nói: - Sao không, Laura. Nếu các con thích nghe đàn thì bố đàn. Bố nắm rồi mở các bàn tay và chà xát các ngón tay trong lúc Laura mang hộp đàn từ chỗ nằm ấm áp của nó trên nền nhà sau lò bếp tới. Bố chuốt vĩ, đặt chiếc đàn vào dưới cằm và chạm vào các sợi dây. Bố nhìn Laura. Laura nói: - Bài Bonnie Donn, bố! Và, bố đàn và hát: - Dốc đứng, bờ cao Bonnie Donn xinh đẹp Hoa nở khoe màu, hương ngát ra sao? Nhưng mỗi nốt đều không chuẩn do những ngón tay bố rất vụng về. Tiếng nhạc kéo lê và dây đàn gắt gỏng. Bố lên tiếng tựa hồ mắc cỡ: - Bố không thể đàn vì các ngón tay dầy và cứng do ngấm lạnh quá nhiều. Bố đặt cây đàn vào hộp, nói: - Cất đi, Laura. Chờ dịp khác. Mẹ nói: - Em mong sẽ được anh giúp bằng cách nào đó, Charles. Mẹ cầm lấy chiếc cối xay cà phê từ trong tay Mary, trút hết chỗ hạt đã nghiền ra khỏi ngăn kéo nhỏ. Mẹ đổ đầy bắp vào trong máng rồi đưa chiếc cối xay cho bố. Mẹ nói với bố: - Em cần nghiền thêm một mẻ khác để làm bánh ăn bữa trưa. Mẹ lấy một đĩa bột chua đậy kín đang đặt dưới lò bếp. Mẹ khuấy mạnh rồi đong khoảng hai ly đầy cho vào chảo, trộn thêm muối cùng với chỗ bột mà Mary và Carrie đã nghiền. Sau đó, mẹ cầm lấy chiếc cối xay trong tay bố, trút thêm số hạt bố mới nghiền. Mẹ nói: - Vậy là đủ. Cảm ơn anh, Charles. Bố nói: - Vậy tốt hơn là anh đi lo cộng việc trước khi trời tối quá. Mẹ nhắc bố: - Em sẽ có một bữa ăn nóng, chờ lúc anh trở về. Bố choàng áo, đội mũ bước ra ngoài trời bão. Laura lắng nghe tiếng gió trong lúc cô ngắm ô cửa sổ không nhìn thấy gì. Điều tồi tệ nhất đã xảy ra là bố không thể chơi đàn nổi. Nếu cô không đòi bố chơi đàn chắc hẳn bố không biết là đã không chơi đàn nổi. Mẹ với Carrie ngồi quây bên cô còn Mary đang đung đưa chiếc ghế ngay trước mặt, cạnh lò bếp. Cô ẵm Grace trong tay đung đưa chậm rãi và khẽ hát: Hát cho em nghe về một vùng tươi sáng Quê hương thẳm xa những linh hồn Nơi bão táp không bao giờ thối tới Tháng năm dài mãi mãi bình yên Bài thánh ca than vãn hòa với tiếng than vãn của gió trong lúc màn đêm buông xuống với những lớp tuyết quay cuồng dầy đặc. Chương 23: Hạt Giống Trong Bức Vách Buổi sáng đống tuyết không còn nữa. Khi Laura cào một lỗ hổng ở cửa sổ tầng gác và ngó qua, cô thấy mặt đất trần trụi. Tuyết đang bị cuốn đi như những đám mây là đà màu xám khiến đường phố lộ rõ mặt đất cứng màu nâu. Cô kêu lớn: - Mẹ! Mẹ ơi! Con nhìn thấy mặt đất rồi! Mẹ đáp: - Mẹ biết rồi. Đêm qua gió đã lùa tuyết bay đi hết. Laura hỏi một cách ngớ ngẩn: - Mấy giờ rồi? Con định nói là tháng mấy rồi? Mẹ nói: - Đang giữa tháng hai. Thế là mùa xuân đã đến gần hơn Laura nghĩ. Tháng hai là tháng ngắn ngủi và tháng ba sẽ là mùa xuân. Xe lửa lại chạy tới và tất sẽ có bánh mì làm bằng bột trắng và thịt. Laura nói: - Con quá mệt với món bánh mì nướng không có gì ăn kèm. Mẹ nói nhanh với cô: - Đừng phàn nàn, Laura! Không bao giờ được phàn nàn về những thứ mà mình có. Luôn luôn nhớ rằng có được thế là may mắn. Laura không có ý phàn nàn nhưng chỉ không biết cách diễn tả ý nghĩ của cô thôi. Cô ngoan ngoãn trả lời: - Dạ, thưa mẹ. Rồi cô giật mình ngắm túi bắp trong góc nhà. Bắp chỉ còn rất ít đến nỗi chiếc túi gấp lại như một chiếc túi rỗng. Cô kêu lên: - Mẹ! Có nghĩa là… Bố luôn nhắc cô không bao giờ hoảng sợ. Cô cần phải không hoảng sợ bất cứ điều gì. Cô hỏi: - Còn bao nhiêu bắp? Mẹ đáp: - Mẹ nghĩ còn đủ nghiền cho ngày hôm nay. Laura nói: - Bố không thể mua thêm được nữa, phải không? - Ừ, Laura. Trong thị trấn không còn gì nữa. Mẹ đặt những khoanh bánh mì nướng một cách cẩn thận lên giàn hấp để hơ nóng cho bữa ăn sáng. Lúc đó, Laura đã tự trấn an, bình tĩnh trở lại và cô hỏi: - Mẹ, mình sẽ chết đói không? Mẹ đáp: - Mình sẽ không chết đói, không đâu. Nếu cần, bố sẽ giết Ellen và con bò tơ. Laura kêu lên: - Ô, đừng, đừng! Mẹ nhắc: - Yên nào, Laura! Carrie và Mary đang xuống cầu thang để tới thay đồ bên lò bếp. Mẹ lên gác bồng Grace xuống. Bố kéo cỏ khô suốt ngày và chỉ ghé vào để nói là bố ghé qua cửa hàng Fuller’s một phút trước khi ăn tối. Khi quay về, bố mang theo một số tin tức. Bố nói: - Trong thị trấn có tin đồn là có người định cư cách đây chừng mười tám hay hai mươi dặm về phía nam hoặc đông nam mùa hè vừa rồi thu hoạch khá nhiều lúa mì. Họ bảo ông ta đang trú đông trong trại của ông ta. Mẹ hỏi: - Ai nói vậy? Bố nhắc lại: - Đó chỉ là tin đồn. Hầu như mọi người đều nói. Người gần nhất mà anh biết là Foster đã nói ra tin đó. Ông ta nói nghe thấy điều đó từ những người đang làm việc trên đường sắt. Ông ta bảo một số người đi qua vào mùa thu vừa qua đã nói về vụ lúa, theo đó thì người kia nói có miếng đất trồng rộng mười mẫu, mỗi mẫu thu được từ ba mươi đến bốn mươi khạp. Vậy là có tới ba trăm khạp lúa mì ở cách đây chỉ hai mươi dặm. Mẹ nhỏ nhẹ: - Em tin là anh không nghĩ đến chuyện khởi sự một cuộc săn ngỗng trời như thế, Charles. Bố nhận xét: - Một người đàn ông phải làm như thế với hai ngày thời tiết đủ tốt và số tuyết rơi nâng nổi một cỗ xe trượt thì anh ta phải đủ sức làm với tất cả rủi … Mẹ cắt ngang: - Không! Bố giật mình nhìn mẹ. Tất cả nhìn mẹ. Chưa bao giờ mẹ như thế. Mẹ bình tĩnh nhưng khủng khiếp. Mẹ bình thản nói với bố: - Em nói « không ». Anh không cầu may như thế. Bố nói: - Sao… Caroline! Mẹ nói: - Việc kéo cỏ của anh đã đủ tồi tệ rồi. Anh không được đi săn lùng lúa mì như thế. Bố nói ngọt ngào: - Không đến nỗi như em cảm nghĩ về việc đó đâu. Anh sẽ chẳng sao. Nhưng… Mẹ vẫn nói bằng giọng kinh khủng: - Em không nghe bất kì một tiếng « nhưng » nào nữa. Lúc nào em đã đặt chân xuống. Bố đồng ý: - Đồng ý. Thế là giải quyết xong. Laura và Carrie nhìn nhau. Các cô cảm thấy sấm sét thình lình nổ trên đầu rồi thình lình tan đi. Mẹ rót nước trà với bàn tay còn run rẩy. Mẹ nói: - Ô, Charles, em rất tiếc đã rót tràn li rồi. Bố nói: - Đừng nghĩ gì. Bố trút li nước trà đầy tràn vào chiếc tách. Bố nhận xét: - Lâu quá rồi anh không rót trà vào ly cho nguội. Mẹ nói: - Em sợ lửa sắp tàn. Bố nói: - Không phải lửa. Thời tiết đang lạnh hơn. Mẹ nói: - Bằng mọi cách, anh không thể đi. Sẽ không có người làm việc nhà và không có người kéo cỏ. Bố trấn an mẹ: - Em có lí, Caroline, em luôn có lí. Mình sẽ xoay sở với cái gì mình có. Rồi bố nhìn xéo vào góc nhà, nơi có túi bắp. Nhưng bố không nói gì cho tới khi bố làm xong các công việc thường lệ và bện thêm một số cỏ khô. Bố đặt một ôm cỏ mới bện xong xuống bên lò và đưa hai bàn tay ra hơ ấm. Bố nói: - Hết bắp hả, Caroline? - Dạ, Charles. Còn đủ làm bánh cho bữa sáng. - Khoai tây cũng hết. Mẹ trả lời: - Có vẻ như mọi hứ kéo nhau hết cùng một lúc. Nhưng em còn sáu củ khoai tây cho ngày mai. Bố hỏi: - Xô đựng sữa đâu rồi? Mẹ lặp lại: - Xô đựng sữa? Bố nói: - Anh ra phố ít phút và muốn có một chiếc xô đựng sữa. Laura mang chiếc xô tới. Cô không kìm được câu hỏi: - Trong thị trấn vẫn còn một con bò sữa hả bố? Bố nói: - Không, Laura. Bố đi qua phòng trước và tất cả nghe tiếng cửa đóng lại. Almanzo và Royal đang ăn bữa tối. Almanzo chất đống bánh kép với rất nhiều đường nâu. Royal đã ăn hết nửa đống còn Almanzo ăn gần hết đống của mình và một đống mười hai chiếc bánh với đường nâu tan ra đang nhỏ giọt vẫn đứng sững chưa ai đụng tới. Lúc bố gõ cửa, Royal ta mở cửa. Royal nói: - Vào đây, ông Ingalls! Ngồi ăn vài chiếc bánh với tụi tôi! - Cảm ơn các cậu. Các cậu có thể vui lòng bán cho tôi một ít lúa mì được không? Bố hỏi trong lúc bước vào. Royal nói: - Tiếc quá. Tụi tôi không còn nữa. Bố nói: - Đã bán hết rồi ư? Royal nói: - Bán hết rồi. Bố nói: - Tôi bằng lòng trả giá cao để có một ít. Royal đáp: - Tôi mong là mình đã sản xuất thêm một xe khác. Dù sao thì hãy ngồi xuống và ăn một chút gì với tụi tôi. Manzo rất muốn khoe những chiếc bánh của mình. Bố không trả lời. Bố đi tới bức vách cuối phòng, nhấc một chiếc yên lên khỏi móc. Almanzo kêu lên: - Này, ông làm gì thế? Bố áp chắc vành chiếc xô sữa vào bức vách. Bố kéo chiếc nút khỏi hốc mắt gỗ. Một dòng suối lúa mì lớn bằng chiếc lỗ trút vào trong chiếc xô. Bố trả lời Almanzo: - Tôi mua của cậu một ít lúa mì. Almanzo tuyên bố: - Ông nói gì? Đây là lúa giống của tôi. Tôi không bán. Bố đáp: - Nhà tôi không còn một hạt lúa mì nào, tôi cần mua một ít. Những hạt lúa tiếp tục trút vào chiếc xô, chảy xuống thành đống, va lanh canh vào cạnh thiếc. Almanzo đứng nhìn bố, nhưng một phút sau, Royal ngồi xuống. Anh ta ngả đầu vào ghế, tựa vào vách, thọc bàn tay vào túi quần và cười thích thú với Almanzo. Khi chiếc xô đã đầy, bố nhét nút gài vào chiếc lỗ. Bố nó thật chắc rồi khẽ vỗ lên bức vách, chà tay qua. Bố nói: - Các cậu còn quá nhiều lúa ở đó. Bây giờ mình nói về giá cả. Các cậu tính xô này bao nhiêu? Almanzo thắc mắc: - Làm sao ông biết có lúa nằm ở đó? Bố nói: - Phía trong căn phòng này không ngang với phía ngoài. Nó ngắn hơn khoảng một bộ, ngoài ra còn phải kể thêm những hàng đinh móc. Trong chỗ đó, các cậu phải có một khoảng trống cỡ mười sáu inch. Bất kì ai nhìn thoáng qua cũng nhận ra. Almanzo nói: - Chết tôi rồi! Bố thêm: - Tôi đã nhận ra chiếc nút mắt gỗ vào cái ngày mà cậu gỡ những chiếc yên xuống khi săn sơn dương. Vì vậy, tôi cho rằng các cậu chứa hạt trong đó. Nó giống như là thứ duy nhất để chảy ra khỏi lỗ. Almanzo hỏi: - Có ai khác trong thị trấn biết điều đó không? Bố nói: - Đó không phải điều tôi biết tới. Royal chen vào: - Ông coi này. Chúng tôi không hề biết là ông đã hết lúa mì. Chỗ hạt đó là của Almanzo chứ không phải của tôi. Nhưng Almanzo giấu đi để nhìn mọi người chết đói. Almanzo giải thích: - Đây là hạt giống của tôi. Thứ hạt giống cực tốt. Đó là chưa nói tới việc hạt giống này cần được gieo đúng lúc vào mùa xuân. Dĩ nhiên, tôi không thấy ai chết đói bởi có thể đi kiếm lúa mì thu hoạch được ở phía nam thị trấn. Bố nói: - Tôi nghe nói là ở phía đông nam. Tôi cũng nghĩ tới chuyện đi đến đó, nhưng… Royal cắt ngang: - Ông không thể đi được. Ai sẽ chăm lo gia đình của ông nếu ông kẹt vào một trận bão và… phải về trễ hoặc một điều gì đó? Bố nhắc lại: - Mình vẫn chưa giải quyết về số tiền tôi nên phải trả cho số lúa mì này. Almanzo phất tay: - Đáng xá gì một chút xúi lúa như thế giữa hàng xóm? Ông cứ tự nhiên mang đi, ông Ingalls. Nhưng hãy kéo ghế ngồi xuống ăn vài chiếc bánh kẻo nguội hết. Nhưng bố dứt khoát đòi trả tiền. Sau một hồi giằng co, Almanzo định giá hai mươi lăm xu và bố trả tiền. Rồi, theo lời mời, bố ngồi xuống nhấc chiếc bánh phủ trên đống bánh còn nguyên xắn một phần những chiếc bánh kép nóng thấm đầy xi-rô. Royal dùng nĩa tiếp thêm vào đĩa của bố một khoanh giăm-bông từ chảo chiên và Almanzo rót đầy ly cà phê của bố. Bố nhận xét: - Các cậu chắc chắn sống rất phong lưu. Những chiếc bánh kép không phải là loại bánh thông thường làm bằng bột lúa mạch. Almanzo làm theo cách của má, và những chiếc bánh xốp nhẹ như bọt thấm chất đường nâu tan chảy. Món giăm-bông cũng được làm với đường, xông khói hồ đào từ trại của gia đình Wilder ở Minnessota. Bố nói: - Tôi không biết có lúc nào còn được ăn một bữa ngon hơn. Họ nói về chuyện thời tiết, săn bắn, hoạt động chính trị, đường sắt, trồng trọt. Khi bố ra về, cả hai anh em Royal và Almanzo đều mời bố luôn ghé lại. Cả hai đều không chơi cờ nên thời giờ ở cửa hàng quá dài. Chỗ của họ lại ấm áp. Royal nói: - Bây giờ ông đã biết rõ đường đi rồi, ông Ingalls. Hãy nhớ trở lại. Chúng tôi rất vui được đón ông bất kì lúc nào. Manzo và tôi đều rất mệt với những vị khách thăm viếng khác. Hãy quay lại bất kì lúc nào, chốt cửa luôn để ngỏ. Bố trả lời: - Tôi rất rất vui! Chợt bố ngưng ngang và lắng nghe. Almanzo cũng bước ra cùng với bố trong hơi gió lạnh cóng. Những vì sao lấp lánh trên đỉnh đầu nhưng ở vùng trời phía tây bắc tất cả vụt biến đi thật nhanh khi một khối đen dầy quét qua. Bố nói: - Nó tới rồi! Tôi đoán là sẽ không có khách nào thăm viếng trong một khoảng thời gian dài. Nếu đi nhanh thì may mắn tôi vừa kịp về tới nhà. Cơn bão tuyết ào xuống căn nhà khi bố về tới cửa nên không ai nghe thấy bố bước vào. Nhưng cả nhà không phải lo lắng lâu vì gần như ngay lập tức bố đã xuất hiện ở nhà bếp, nơi tất cả đang ngồi trong bóng tối. Tất cả đều ngồi sát ló bếp và đủ ấm nhưng Laura đang run rẩy, nghe bão nổi trở lại và nghĩ là bố còn ở ngoài. Bố lên tiếng: - Có một ít lúa mì đây rồi, Caroline. Vừa nói, bố vừa đặt chiếc xô xuống cạnh mẹ. Mẹ nghiêng tới gần thọc tay vào đống hạt. Vừa đung đưa chiếc ghế, mẹ vừa nói: - Ô, Charles! Ô, Charles! Em tin chắc là anh sẽ mang thức ăn về, nhưng anh kiếm ở đâu ra vậy? Em nghĩ là trong thị trấn không còn lúa mì nữa. Bố giải thích: - Anh không dám chắc là có nên đã không nói với em. Vả lại, anh không muốn dấy lên những hy vọng rồi lại thất vọng. Anh đã nhận lời không nói rõ kiếm được ở đâu, nhưng đừng ngại, Caroline. Ở đó còn khá nhiều. Mẹ nói như được tiếp thêm năng lực: - Bây giờ tới đây, Carrie. Mẹ sẽ đưa con và Grace đi ngủ. Khi quay trở xuống, mẹ thắp chiếc đèn khuy áo và đổ đầy hạt vào cối xay cà phê. Tiếng nghiền của cối xay lại bắt đầu và theo Laura với Mary lên căn gác lạnh lẽo cho tới khi bị át đi trong tiếng gió hú. Chương 24: Không Đói Thực Sự Bố nói: - Đáng kể là làm sao để có cả khoai tây nữa. Từ từ, họ ăn những củ khoai tây cuồi cùng, cả vỏ và không bỏ chút nào. Bão tuyết đang quật ngã và chà xát vào căn nhà, trong lúc gió rên rỉ, gào thét. Cửa sổ nhòa nhạt trong lớp sáng chạng vạng và lò bếp cố gom hơi nóng yếu ớt để chống lại cái lạnh. Laura nói: - Con không đói, bố! Ăn tiếp phần của con đi. - Ăn đi, Laura! Bố nói dịu giọng nhưng dứt khoát. Laura phải cố nuốt miếng khoai đã nguội ngắt trong đĩa. Cô ngắt một mẩu nhỏ bánh nướng rồi bỏ phần còn lại. Chỉ có món trà nóng, ngọt ngào là ngon lành. Cô cảm thấy tê cóng và nửa như ngủ thiếp đi. Bố lại khoác áo, đội mũ đi sang gian chái để bện cỏ. Mẹ cố kích động: - Ráng đi, các con! Hãy lo rửa chén đĩa, chùi lò bếp và quét nhà trong lúc mẹ dọn giường, rồi sau đó lo học bài. Khi nào mọi thứ xong hết, mẹ sẽ nghe các con đọc và mẹ sẽ có một thứ bất ngờ cho bữa ăn tối. Không ai thực sự quan tâm nhưng Laura cố trả lời mẹ. Cô nói: - Thực hả, mẹ? Chắc hay lắm! Cô rửa chén đĩa, quét nền nhà rồi khoác chiếc áo vá đi qua gian chái giúp bố bện cỏ. Hình như không có thứ gì là có thực ngoại trừ bão tuyết kéo dài không dứt. Chiều hôm đó, cô bắt đầu đọc: Già Tubal Cain là con người vô địch Con người toàn năng xứng với bản thân Già tìm kiếm nào ống tiêu, nào chén bát Nào những tay đàn… Cô gần như bật khóc: - Ôi, mẹ! Con không biết mình đang làm sao! Con không nhớ nổi nữa. - Do cơn bão này đó. Mẹ tin là mình đều buồn ngủ hết. Mẹ nói và ngưng một lát rồi tiếp: - Mình không nên chú ý tới nó. Mọi thứ đều diễn biến chậm lại. Một lát sau, Mary hỏi: - Làm sao không thể lắng nghe nó? Mẹ chậm rãi gấp cuốn sách lại. Cuối cùng, mẹ đứng lên nói: - Mẹ đi lấy thứ bất ngờ vào. Mẹ mang từ phòng trước vào. Đó là một mảnh cá thu ướp muối đông cứng mà mẹ đã cất giữ ở đó. Mẹ nói: - Bữa ăn trưa sẽ có bánh mì với sốt cá thu. Bố kêu lên: - Ui cha! Caroline, không có gì qua nổi sản phẩm Tô cách lan. Mẹ đặt miếng cá thu vào lò hấp để làm cho tan và cầm lấy cối xay cà phê và mẹ đang gỡ rời miếng cá thu. Bố nói: - Chỉ hửi mùi thôi đã đủ tỉnh người rồi! Caroline, em thật kỳ diệu. Mary nhìn nhận: - Em nghĩ là món này sẽ tạo một thay đổi cho khẩu vị đậm đà. Nhưng món bánh mì thì mình sẽ phải cả ơn ra sao, Charles. Mẹ nhìn bố đang ngắm xô lúa mì và mẹ nói: - Đủ để kéo dài qua cơn bão này nếu bão không dài hơn thường lệ. Laura cầm lấy chiếc cối xay từ tay Carrie. Thật đáng lo ngại thấy Carrie mỏng manh trắng bệch và kiệt sức như thế với việc nghiền bột. Nhưng không kém lo ngại là sự nhàm chán, và xa hơn là sự thù ghét, tiếng thình thịch không ngừng của cơn bão. Chiếc tay quay cối xay cà phê xoay tròn và xoay tròn liên tục. Hình như nó đang góp thêm phần với những cơn gió xoay tít cuốn tròn tuyết trên mặt đất, trong không trung, quay cuồng va đập vào bố trên đường ra chuồng ngựa, quay cuồng rú rít quanh những ngôi nhà đơn độc, lùa đảo các cụm tuyết bốc lên trời, đưa đi xa và quay cuồng mãi mãi trên thảo nguyên vô tận. Chương 25: Tự Do Và Độc Lập Suốt những ngày có bão, Almanzo suy nghĩ. Cậu không đùa giỡn như thường lệ và khi lo công việc thường ngày, cậu chà cọ và chải lông cho mấy con ngựa như một cái máy. Thậm chí cậu ngồi tư lự ngẩn ngơ, bỏ mặc cho Royal làm bánh ăn bữa tối. Cuối cùng, cậu hỏi: - Anh biết em đang nghĩ gì không, Roy? Royal đáp: - Hẳn phải là điều gì đáng giá lắm so với số thời gian mà em đã dành cho nó. Almanzo tuyên bố: - Em nghĩ có những người dân trong thị trấn này đang chết đói. Royal nhìn nhận trong lúc đảo mấy chiếc bánh kép: - Có lẽ một số người đang khá đói rồi. Almanzo nhắc lại: - Em nói là đang chết đói. Hãy coi nhà Ingalls, gia đình có tới sáu người. Anh có thấy cặp mắt của ông ấy và ông ấy gầy ốm tới mức nào chứ? Ông ấy bảo ông ấy không còn lúa mì. Được, hãy lấy một thùng, một thùng và một phần tư lúa mì, một gia đình sáu người sẽ kéo dài nổi bao lâu với số đó? Anh thử tính toán coi. Royal nói: - Ông ấy phải có thức ăn khác chứ. - Họ đã có mặt ở đây trước mùa hè vừa rồi và không về miền tây làm việc ở đường sắt. Ông ta có một nông trại. Tự anh dư biết một người đàn ông có thể thu hoạch được bao nhiêu trong vụ hè đầu tiên trên ruộng đất. Và quanh đây lại không có việc gì để kiếm sống. Royal hỏi: - Em đang muốn tính chuyện gì? Sẽ bán hết số hạt giống của em? Almanzo tuyên bố: - Không như loại đồ hộp của anh! Không, nếu không có cách nào để giữ lại. Royal hỏi: - Được, rồi sao? Almanzo không lưu ý tới câu hỏi. Cậu tiếp tục nói: - Em hình dung không chỉ riêng ông Ingalls lâm vào tình thế khó khăn đó. Chậm rãi và có thứ tự, cậu ước lượng số thực phẩm dự trữ ở thị trấn khi xe lửa ngưng chạy rồi kể tên từng gia đình mà cậu có lí do để tin chắc là họ đã thiếu ăn. Cậu ước lượng cả số thời gian cần thiết để khai thông đường sắt sau khi bão dứt. Cậu kết luận: - Cứ cho là tháng ba thì bão ngưng. Em sẽ nêu rõ rằng dân ở đây phải ăn số lúa mì của em hoặc là chết đói trước khi thực phẩm được chở tới, phải không? Royal kết luận một cách bình thản: - Anh cho là sự thực đã khiến em thấy rõ. - Mặt khác, giả dụ rằng thời tiết này tiếp tục kéo dài tới tháng tư. Đừng quên rằng ông già da đỏ kia đã báo trước nó kéo dài bảy tháng. Nếu xe lửa không chạy trước tháng tư hoặc là người ta không đưa hạt giống tới trước thời gian đó thì em phải để dành hạt giống hoặc là mất trắng vụ mùa tới. Royal đồng ý: - Hãy nhìn theo cách đó. - Và đó là đỉnh điểm, nếu xe lửa không chạy sớm trong tháng tư thì thế nào cũng có người chết đói. Thậm chí họ đã ăn hết số lúa của em. Royal nói: - Tốt, tới lúc quyết định rồi. - Đây là quyết định. Mọi người phải đi vét số lúa đã thu hoạch được ở phía nam thị trấn. Royal chậm rãi lắc đầu: - Không ai làm điều đó hết. Mạng sống của một con người đáng giá lắm. Lập tức Almanzo tươi lại ngay. Cậu kéo bàn ăn, nhấc đống bánh kép vào đĩa của mình. Cậu hỏi một cách vui vẻ trong lúc tưới mật mía lên đống bánh đang bốc hơi: - Tốt rồi, sao không chộp lấy một cơ may? Đôi khi không thể cứ nói hoài. Royal nói: - Bốn mươi dặm! Đi ra giữa đồng cỏ kia để kiếm một cây kim trong bụi cỏ - hai mươi lăm dặm đường rồi trở về? Em đã tự biết không thể nói trước điều gì khi bão tuyết ào tới. Mình chưa hề có một ngày đẹp trời kể từ khi khởi đầu cơn bão này. Thường là chỉ có nửa ngày. Không thể làm được, Manzo. Một người sẽ không có một cái may của một trái cầu tuyết trong âm phủ. Almanzo trả lời một cách hợp lí: - Vẫn có người làm được điều đó. Em chứng minh được. Royal nói: - Đúng, nhưng hãy lo nhanh thôi! Almanzo nhắc lại một câu nói của cha: - Khi mình tin là đúng, hãy bước lên trước. Royal đáp lại bằng một câu nói của mẹ: - Hãy giữ bình an hơn là hối hận. Almanzo trả lời: - Tốt thôi, anh là một chủ cửa hàng, Roy. Một nông dân cần nắm lấy dịp may. Anh ta phải vậy. Royal nói một cách nghiêm trang: - Almanzo, nếu anh để cho em lạc mất theo cơn điên của em ở ngoài đồng cỏ thì anh sẽ phải nói sao với ba má? Almanzo đáp: - Anh cứ nói lại là anh không làm gì được, Roy. Em hoàn toàn tự do, da trắng và đã hai mươi mốt… hoặc gần như thế. Dù thế nào thì đây cũng là một xứ sở tự do còn em tự do và độc lập. Em sẽ làm như em muốn. Royal khuyên: - Đừng quá bất cẩn, Manzo. Hãy suy nghĩ cho kĩ. Almanzo nói: - Em đã suy nghĩ rồi. Royal im lặng. Cả hai lặng lẽ ngồi ăn trong hơi ấm đều đặn của lửa than và ánh sáng chiếu từ cây đèn và những cạnh thiếc phản quang. Những bức vách hơi run rẩy và bóng của cả hai trên vách khẽ lay động dưới gió thổi dài theo các mái hiên, gào thét trong các xó xỉnh và luôn rào rào như tiếng nước đang đổ xuống. Almanzo lấy thêm một chồng bánh khác. Đột nhiên, Royal đặt con dao xuống và đẩy đĩa ăn sang bên. Anh nói: - Có một điều rất chắc chắn là em sẽ không phải một mình giải quyết chuyến đi ngu dại nào cả. Nếu em thấy bắt buộc phải làm và dứt khoát làm, anh sẽ đi cùng với em. Almanzo kêu lên: - Coi này! Không thể có chuyện cả hai đứa cùng đi được! Chương 26: Thời Gian Thoi Thóp Hôm sau là buổi sáng phẳng lặng. Mặt trời chiếu sáng nhưng lạnh lẽo và chỉ có tiếng quay tròn của chiếc cối xay cà phê hòa theo tiếng gió thổi đều đặn cùng tiếng đập vỡ của cỏ khô trong gian chái, nơi Laura và Carrie đang làm việc. Các cô đều rất lạnh. Không thể bện quá hai hoặc ba nùi cỏ khô mà không đi hơ bàn tay trên lò bếp. Khó giữ nổi ngọn lửa cháy đều vì các cô không thể chất đống từng đống nùi cỏ và còn phải dành thời gian để phụ việc giặt giũ. Vì vậy mẹ gác việc giặt giũ lại. - Có lẽ ngày mai trời ấm hơn. Mẹ nói và phụ cùng bện cỏ. Mẹ thay phiên cho Mary và Laura để các cô có thể thay phiên cho Carrie bên chiếc cối xay cà phê. Cuối buổi chiều bố vẫn không về. Cuối cùng, khi bố trở về thì bữa ăn chiều đã chờ sẵn. Bố nói: - Chà, một ngày lạnh cóng. Bố chỉ kéo được duy nhất một xe cỏ trong ngày hôm đó. Các đống cỏ đều bị vùi trong tuyết. Bố phải đào cỏ ra khỏi những khối tuyết khổng lồ. Lớp tuyết mới lại phủ lấp đường xe cũ và đổi hẳn hướng nhìn về đầm cỏ. David tiếp tục sa xuống những hố cỏ sâu. Grace lo lắng hỏi: - Mũi bố có cứng ngắt không, bố? Đương nhiên trong thời tiết này, tai và mũi bố đều lạnh cóng đến độ bố phải chà xát cho tan tuyết đóng. Bố vẫn nói phịa với Grace là mũi bố dài hơn mỗi khi tê cóng và Grace vờ tin điều đó. Đó là trò vui đặc biệt của hai bố con. Bố trả lời bé trong lúc cảm thấy chiếc mũi sưng đỏ hơi đau: - Hôm nay nó đông cứng năm hay sáu lần. Nếu mùa xuân không một mau thì mũi bố sẽ dài như mũi voi. Tai bố cũng giống như tai voi. Điều đó khiến Grace cười thích thú. Sau khi ăn xong, bố bện cỏ đủ để kéo dài tới giờ ngủ. Bố đã lo xong các việc thường lệ khi cho David vào chuồng. Vẫn còn sót lại một chút ánh sáng ban ngày và bố nói: - Anh nghĩ là anh sẽ ghé lại cửa hàng Bradley’s coi đánh cờ một lát. Mẹ nói: - Anh đi đi, Charles. Sao anh không ngồi chơi vài ván? Bố đáp: - Chà, em thấy đó, đám thanh niên độc thân dành hết thời giờ trong mùa đông này để chơi cờ. Họ đều là những tay cờ cao vì không có việc gì khác để làm. Họ quá cao so với anh. Cho nên, anh cũng chỉ đứng coi vì cũng chẳng còn biết có điều gì khác thích thú hơn là coi một ván cờ hay. Bố đi không lâu. Bố nói cửa hàng quá lạnh nên hôm đó không có người chơi cờ. Nhưng bố có một tin mới. - Almanzo Wilder và Cap Garland sẽ đi kiếm lúa mì ở phía nam thị trấn. Mặt mẹ bình thản nhưng hai mắt mở lớn tựa hồ nhìn thấy một điều gì khủng khiếp. - Anh nói chỗ đó cách bao xa? Bố nói: - Không ai biết chắc. Không thể nói chắc chỗ đó ở đâu. Chỉ có tin đồn là một người ở một nơi nào đó trong khoảng đó đã trúng mùa lúa vừa qua. Quanh đây không có ai bán lúa mì cho mọi người ở thị trấn nên chỉ còn kiếm chỗ đó nếu tin đồn là đúng. Foster nói được nghe bảo là người nọ đang trú đông trong trại của ông ta. Mấy cậu bé sẽ cố lùng kiếm. Loftus chịu bỏ tiền cho các cậu mua cỡ nào mà các cậu có thể kéo về nổi. Grace bắt đầu la hét đòi leo lên để lấy mấy ngón tay đo mũi của bố. Bố thẫn thờ nhấc bé lên. Thậm chí nhỏ như Grace mà cũng thấy không phải lúc đã nô giỡn. Bé nhìn bố một cách lo ngại rồi nhìn mẹ và ngồi im trên đầu gối bố. Mẹ hỏi: - Chừng nào họ đi: - Sáng sớm mai. Hôm nay họ đã đóng xong cho Cap Garland một cỗ xe trượt tuyết. Cả hai anh em Wilder cùng đi nhưng đã quyết định là chỉ có một người tiếp tục nếu gặp bão tuyết. Không ai nói gì thêm trong một lúc. Rồi bố tiếp: - Họ có thể lo xong chuyện. Thời tiết như vầy mà kéo dài thì họ có thể đi xa. Mong là sẽ giữ được hai hoặc ba ngày. Nhưng ai biết chắc được thế nào. Mẹ nói: - Đó là điều rắc rối. Ai mà biết chắc được. Bố nhấn mạnh: - Nếu họ thành công, mình sẽ có đủ lúa mì để kéo dài tới mùa xuân. Với điều kiện ở đó có lúa và họ tìm ra được. Trong đêm khuya, Laura cảm thấy choáng váng và nghe rõ tiếng gió bão gào hú. Chỉ còn lại đúng một ngày ngắn ngủi bảo ngưng. Bão sẽ không để cho ai bước ra ngoài để đi kiếm lúa vào ngày mai. Chương 27: Bữa Ăn Hằng Ngày Trong đêm thứ ba của cơn bão đó, một sự yên tĩnh đánh thức Almanzo. Bão đã ngưng. Cậu băng qua cái lạnh tới chỗ chiếc áo treo trên ghế, chộp chiếc đồng hồ, bật quẹt và thấy là gần ba giờ sáng. Vào những buổi sáng mùa đông tối tăm lạnh giá, cậu vẫn nhớ cha đã phải lôi cậu ra khỏi giường. Lúc này, cậu phải tự lôi mình ra khỏi những lớp mền ấm để bước vào cái lạnh. Cậu phải thắp đèn, cời lửa, tự đập băng đóng đóng trong xô nước và có thể chọn có bữa ăn sáng hay nhịn đói. Ba giờ trong những buổi sáng mùa đông là thời điểm duy nhất mà cậu không vui với sự tự do, độc lập của mình. Tuy nhiên, khi đã rời khỏi giường và mặc xong quần áo, cậu lại thích lúc sáng sớm hơn bất cứ lúc nào khác trong ngày. Không khí lúc này tươi mát hơn bao giờ hết. Trên nền trời băng, ngôi sao sáng nhất treo thật thấp. Nhiệt độ là mười độ âm và gió thổi đều đặn. Một ngày dễ chịu đang hứa hẹn tới. Khi cậu đứng trên cỗ xe trượt kéo cỏ xuống phố Main Street, mặt trời chưa mọc nhưng ngôi sao sáng đã nhạt nhòa trong ánh nắng chiếu ngược lên. Căn nhà của gia đình Ingalls đứng vững chãi và đen ngòm trên đồng cỏ phía đông vô tận đang chìm trong tuyết. Ở bên kia căn nhà, cuối phố Second Street là hai dãy chuồng ngựa với những đống cỏ có vẻ nhỏ và phía bên kia là ngôi nhà nhỏ của gia đình Garland có 1 đốm sáng trên bếp. Cap Garland đứng trên cỗ xe trượt tuyết của mình đang điều khiển con ngựa thiến màu nâu hung. Cậu vẫy chào Almanzo và Almanzo đưa cả hai cánh tay bao cứng trong những ống tay áo len nặng chịch lên. Các cậu đều trùm mũ kín mặt và không cần phải lên tiếng. Ba ngày trước đó, khi cơn bão vừa rồi thổi, các cậu đã định xong kế hoạch. Almanzo tiếp tục không ngừng lại và Cap Garland thúc con ngựa hung nâu theo sau phố Main Street. Tới cuối đoạn phố ngắn, Almanzo quẹo về phía đông nam băng qua đầm Big Slough ở chỗ hẹp nhất. Mặt trời đang lên. Bầu trời xanh nhạt nhẹ nhàng và mặt đất ngập tuyết tới tận đường chân trời ửng hồng với những vệt tối xanh mờ. Hơi thở của ngựa tạo thành một đám mây trắng ngay trước đầu nó. m thanh duy nhất là tiếng móng chân của con Prince khua trên lớp tuyết cứng và tiếng những bàn trượt của cỗ xe lao đi. Không một dấu đường trên những cồn sóng tuyết, không một dấu chân thỏ hoặc dấu những móng vuốt chân chim. Không có gì cho thấy đường đi, không có gì chỉ tỏ có một sinh vật từng ở trên những cánh đồng tuyết đông cứng mà khắp nơi đều hoàn toàn đổi khác lạ lùng. Chỉ có gió tạo ra các gợn sóng lăn tăn với những làn óng xanh mờ nhạt và gió đang lùa những bụi tuyết bốc lên từ những mỏm cao. Có một điều gì đó đang giễu cợt trong cái mặt đại dương lấp lánh không dâu vết. Ở đó từng vệt bóng tối di động cùng với những bụi tuyết màu nâu luôn gây rối cho những cặp mắt dò tìm dấu vết trên mặt đất. Almanzo cố ráng sức ước định phương hướng và khoảng cách ở những nơi mọi thứ đã thay đổi không còn chắc chắn nữa. Cậu nghĩ: - Chà, mình sẽ phải dò theo sự dự đoán và sự tình cờ! Cậu ước tính là đã đi tới bên đầm Big Slough đang bị phủ lấp ở một khoảng gần với nơi mà cậu từng kéo cỏ khô qua. Nếu cậu đúng thì tuyết ở dưới cỗ xe trượt sẽ rất cứng và chỉ trong năm phút hay ít hơn cậu đã yên ổn trên đất liền. Cậu liếc về phía sau. Cap đã kìm chậm con ngựa hung nâu lại theo sau cậu ở một khoảng cách thận trọng. Đột nhiên Prince sụp xuống. - Oa-oa! Bình tĩnh! Almanzo hô lớn qua chiếc mũ trùm nhưng cậu hô một cách điềm đạm và không lo lắng. Chỉ có đầu con ngựa đang khịt khịt vươn lên từ cái túi không khí đầy cỏ trước cỗ xe trượt. Cỗ xe trượt tiếp tục lướt tới vì không có cách gì hãm nhưng nó dừng thật đúng lúc. Almanzo kéo dây cương một cách quả quyết và nói: - Oa, Prince! Bình tĩnh nào! Ngập mình trong tuyết, Prince đứng im không nhúc nhích. Almanzo nhảy xuống khỏi xe. Cậu gỡ cây gióng khỏi sợi xích cột vào các bàn trượt. Cap Garland cho xe chạy vòng qua chỗ cậu và ngưng lại. Almanzo bước tới bên đầu của Prince, đầm mình trong tuyết lở và vẹt đám cỏ khô để nắm lấy đoạn dây cương sát các hàm thiếc: - Bình tĩnh, bạn già Prince, bình tĩnh, bình tĩnh! Cậu nhắc lại vì sự loạng choạng của cậu lại khiến Prince phát hoảng. Rồi cậu đập nén tuyết cho tới khi cậu có thể trấn tĩnh Prince rằng chỗ tuyết đó đủ chắc để nó bước lên. Nắm chắc Prince ngay hàm thiếc, cậu khuyến khích nó bước tới cho khi bằng một cố gắng nâng người lên cực mạnh, nó vọt ra khỏi hố và Almanzo vội vã dắt nó leo nhanh lên chỗ tuyết cứng. Cậu dẫn nó tới bên xe của Cap Garland và trao dây cương cho Cap. Những con mắt sáng lên của Cap cho cậu thấy Cap đang cười vui vẻ dưới lớp mũ trùm. Cap nói: - Thì ra đó là cách làm của bồ. Almanzo đáp: - Không mất nhiều công lắm. Cap nhận xét: - Thời tiết thật tuyệt cho một chuyến đi. Almanzo đồng tình: - Ừ, đúng là một buổi sáng thật tuyệt! Almanzo đi tới kéo cỗ xe trống nằm sát phía sau chiếc hố rộng trong tuyết. Cậu rất thích Cap Garland. Cap vô tư vui vẻ nhưng sẵn sàng đương đầu với bất kể hậu quả. Khi Cap Garland gặp chuyện phải nổi xung lên, mắt cậu nheo lại lóe sáng với một cái nhìn ít có người dám đối lại. Almanzo từng thấy cậu ta đã đẩy lui một công nhân đường sắt thô bạo nhất. Almanzo cầm sợi dây cuốn lại buộc một đầu vào xích cỗ xe trượt. Cậu cột đầu kia vào Prince và với sự giúp đỡ của Prince cậu đưa cỗ xe chạy vòng quanh chiếc hố. Sau đó, cậu cột Prince vào cỗ xe, cuộn sợi dây dài lại và lái xe đi. Cap lại tụt lại chạy theo sau. Thực sự thì cậu ta chỉ thua Almanzo một tháng tuổi. Cả hai đều mười chín. Nhưng vì Almanzo đã được cấp đất lập trại nên Cap cho rằng Almanzo phải trên hai mốt tuổi. Thêm nữa là Cap rất nể nang Almanzo. Almanzo không phản đối chuyện đó. Cậu dẫn đường tiến về hướng mặt trời cho tới khi cậu tin chắc là đã qua khỏi đầm Big Slough. Rồi cậu hướng về phía nam nhắm vùng hồ đôi Henry và Thompson. Lúc này trên những cánh đồng tuyết vô tận chỉ có một màu duy nhất là ánh phản chiếu mờ nhạt của màu xanh nền trời. Khắp nơi lấp lóe những tia sáng nhỏ li ti. Ánh sáng chiếu thẳng vào mắt Almanzo khiến mắt cậu nhíu gần như nhắm lại giữa khe hở của chiếc mũ và chiếc khăn choàng. Lớp len đóng băng trì xuống, cọ trên mũi, trên miệng theo mỗi nhịp thở. Bàn tay cậu lạnh cóng không còn cảm nhận nổi dây cương khiến cậu cứ phải chuyển từ tay này sang tay kia để đập một tay lên ngực cho máu lưu thông ấm lại. Khi bàn chân bị tê, cậu nhảy xuống khỏi xe chạy bộ theo bên cạnh. Tim cậu đập nhanh tăng cường ấm cho bàn chân cho tới khi có cảm giác ngứa ran và nóng lên thì cậu lại nhảy lên xe. Cậu quay về phía sau nói với Cap: - Không có gì làm ấm cho bồ tập thể dục! Cap hô lớn: - Hãy đặt tớ ngồi bên lò sưởi. Và, cậu ta nhảy xuống chạy bộ theo. Cứ thế cả hai tiếp tục đi tới, lúc chạy bộ, lúc đi xe, đập tay vào ngực rồi lại chạy bộ trong lúc những con ngựa nhẹ nhàng xoải theo nước kiệu. Cap lại hô lớn đùa giỡn: - Này, mình cần giữ thế này bao lâu? Almanzo đáp: - Cho tới khi thấy lúa mì hoặc cảnh băng giá dưới địa ngục. Cap đáp lại: - Bây giờ lướt đi! Cả hai tiếp tục. Mặt trời đã mọc đang tỏa sáng nhưng gió có vẻ lạnh hơn. Không có một gợn mây trên nền trời và khí lạnh tăng lên đều đặn. Prince lại sập hố trong một khu đầm nhỏ. Cap đưa xe lên và dừng lại. Almanzo tháo dây cho Prince, đưa nó lên chỗ tuyết cứng kéo cỗ xe vòng quanh hố, dóng ngựa lại. Cậu hỏi Cap: - Có thấy bóng cây cô đơn ở chỗ nào phía trước không? Cap trả lời: - Không. Nhưng có thể tin ở cặp mắt tớ. Nắng chói khiến mặt cậu ta chỉ thấy những đốm đen ở khắp nơi. Cả hai quấn lại khăn choàng, phủi những mảng băng khỏi lớp da, mặt rốp lên. Xa tắp khắp chân trời xung quanh không có gì khác ngoài tuyết lấp lánh và gió thổi một cách giữ dằn. Almanzo nói: - Tới giờ vẫn còn may. Chỉ sập hố có hai lần. Cậu lại nhảy lên xe và nghe thấy Cap hô lớn. Trong lúc quẹo để nối theo, con ngựa hung nâu đã sập hố. Cap lôi nó ra, kéo cỗ xe vòng quanh hố và đóng ngựa lại. Cậu nhắc lại với Almanzo: - Không có gì làm ấm người hơn là tập thể dục. Từ trên mỏm cao của một gò đất kế cận, các cậu nhìn thấy cây bông cô đơn trụi lá gầy guộc. Tuyết phủ trên hồ đôi và những bụi cây thấp mọc xen ở giữa. Độc nhất chỉ có một thân cây trần trụi vươn thẳng trên màu trắng bất tận. Ngay khi nhìn thấy, Almanzo quay mau về hướng tây để tránh xa mấy đầm lầy quanh mấy khu hồ. Trên đất liền, tuyết cứng ngắt. Cây cô đơn là cột mốc cuối cùng. Nó lại biến mất mau chóng vào những gợn sóng tuyết không lưu dấu vết. Không có đường đi, không có bất kì loại dấu vết gì ở mọi nơi. Không ai biết người trúng mùa lúa đang sống ở nơi nào. Không ai biết chắc liệu ông ta còn đang ở vùng này không. Cũng có thể không hề có một người như thế. Chỉ có tin đồn là một người nào đó nói với một người nào đó rằng có một người đang sống ở đâu đó trong vùng đó đã trúng mùa lúa. Mọi cơn sóng trên cái biển tuyết mênh mông đều giống nhau như hệt. Dưới lớp tuyết bốc lên từ những mỏm cao, các gò đất thấp trên đồng cỏ cũng có vẻ liên tục đổi vai và giống nhau như hệt. Mặt trời vẫn từ từ lên cao và hơi lạnh tăng đậm hơn. Không có một âm thanh nào ngoài tiếng vó ngựa, tiếng những bàn xe trượt lướt lướt lên mà không lưu dấu nổi nơi mặt tuyết đóng băng cùng với tiếng gió rú rít. Thỉnh thoảng Almanzo nhìn về phía sau và Cap lắc đầu. Không thấy một lọn khói nào in lên bầu trời. Mặt trời nhòa nhạt có vẻ bất động nhưng vẫn đang vươn lên. Những chiếc bóng thu ngắn lại, những gợn tuyết, những đường cong trên đồng cỏ tựa hồ dàn mỏng ra. Cánh đồng hoang trắng toát trải bằng phẳng tieu điều và vắng ngắt. Cap hô: - Còn đi xa bao nhiêu nữa? Almanzo gọi trở lại: - Tới khi gặp lúa mì! Nhưng, chính cậu cũng đang tự hỏi liệu có một hạt lúa mì nào trong cái vùng hoang vu bất tận này không. Lúc này mặt trời đã lên thẳng đỉnh đầu và nửa ngày đã qua. Vùng trời tây bắc không có dấu hiệu đe dọa, nhưng có được nhiều hơn một ngày quang đãng giữa các trận bão là điều bất thường. Almanzo biết là các cậu cần quay về thị trấn. Tê cóng vì lạnh, cậu lộp cộp rời khỏi cỗ xe để chạy bên cạnh. Cậu không muốn quay về thị trấn túng đói để nói rằng cậu trở về với cỗ xe rỗng không. Cap hỏi: - Bồ ước tính mình đã đi xa bao nhiêu rồi? Almanzo đoán: - Khoảng hai mươi dặm. Bồ có nghĩ là tốt hơn hãy quay về không? Cap nói vui vẻ: - Không thể đầu hàng bão táp được. Cả hai nhìn quanh. Cả hai đang đứng trên một chỗ đất cao. Nếu không có một lớp sa mù nhỏ do tuyết bị gió thổi bay lấp lóa thì họ có thể nhìn xa tới hai mươi dặm. Nhưng các gò đất trên đồng cỏ có vẻ như bị ánh nắng san bằng lại vẫn che khuất thị trấn ở phía tây bắc. Trời ở phía đó vẫn quang. Vẫn dẫm chân rồi đập cánh tay vào ngực, các cậu vừa dõi nhìn mặt đất trắng toát từ đông qua tây và xa hút về phía nam. Không nơi nào có một đợt khói. Cap hỏi: - Phải đi theo lối nào đây? Almanzo nói: - Đường nào cũng tốt như đường nào. Các cậu quấn khăn choàng. Hơi thở đọng đầy thành băng trên khăn. Thật không dễ tìm được một mảnh len để gỡ cái đau của băng bám trên ở những chỗ bị cọ xát phồng. Cậu hỏi Cap: - Bàn chân bồ thế nào? Cap đáp: - Chúng không chịu nói gì. Tớ đoán là chúng sẽ ổn. Tớ sẽ chạy. Almanzo nói: - Tớ cũng vậy. Nếu chúng không mau chóng ấm trở lại thì tốt hơn là mình ngừng lại lấy tuyết chà xát. Mình hãy theo gò đất phía tây kia. Nếu không tìm thấy gì ở hướng đó thì có thể bọc vòng xa hơn về hướng nam. Cap đồng ý: - Đi thôi. Những con ngựa lại thoải mái chạy nước kiệu và cả hai chạy bộ theo bên cạnh các cỗ xe. Dải đất cao chấm dứt sớm hơn các cậu nghĩ. Đồng tuyết chạy xuống thoai thoải kéo dài tới một thung lũng bằng phẳng đã bị gò đất cao che khuất. Dường như có một đầm cỏ. Almanzo kìm Prince đi chậm lại và nhảy lên xe để nhìn bao quát khắp vùng. Thung lũng bằng phẳng chạy dài về phía tây và không có lối nào đi bọc tới mà không đảo ngược dọc theo gò đất. Lúc đó, cậu nhìn thấy ngay phía trước mặt ở bên kia đầm cỏ, một vệt màu nâu xám chen trong lớp tuyết từ một đống tuyết bay lên. Cậu kìm Prince dừng hẳn lại và kêu: - Coi, Cap! Giống như có khói ở phía trước? Cap đang ngắm. Cậu ta hô: - Giống như nó bốc lên từ một bờ tuyết! Cả hai băng ngang đầm cỏ đi tới. Trong lúc vội vàng, Cap lái xe đi cặp Almanzo và con ngựa hung nâu sập hố. Đây là cái hố sâu nhất mà các cậu phải đưa ngựa lên. Tuyết khắp xung quanh hố trút xuống nhiều đến mức gây lúng túng. Những chiếc bóng bắt đầu chuyển dần về phía đông trước khi các cậu giúp con ngựa đặt chân lên lớp tuyết cứng để bắt đầu thận trọng đi tiếp. Lớp khói mỏng bay lên từ một dải bờ tuyết dài và không có một vết xe nào trên tuyết. Nhưng khi các cậu bọc vòng trở lại tới bờ phía nam thì nhìn thấy tuyết đã được xúc khỏi phía trước một khung cửa nằm trong bờ tuyết. Các cậu kéo xe tới và kêu. Cánh cửa mở ra và một người đán ông xuất hiện, ngạc nhiên. Tóc ông mọc dài, râu không cạo lởm chởm tới gó má. Ông ta la lên: - Chào! Chào! Vào đây! Vào đây! Các cậu từ đâu tới? Ông ta bị kích động đến nỗi không đợi một câu trả lời. Almanzo nói: - Chúng tôi phải lo cho lũ ngựa trước đã. Người đàn ông chộp lấy chiếc áo choàng bước ra, nói: - Tới dọc theo lối này, đi theo tôi. Các cậu từ đâu tới vậy? Cap nói: - Chúng tôi vừa từ thị trấn tới. Người đàn ông dẫn tới một khung cửa trong một bờ tuyết khác. Các cậu xưng tên trong lúc tháo dây cột cho lũ ngựa và người đàn ông nói ông tên ông ta là Anderson. Các cậu dắt ngựa vào khu chuồng ấm gọn ghẽ dưới bờ tuyết. Cuối chuồng ngựa là một phần ngăn riêng ra bằng những thanh gỗ tròn với một khung gỗ tròn và có nhiều hạt lúa mì lọt ra từ một kẽ hở. Almanzo và Cap cùng ngắm rồi cười với nhau. Các cậu tắm cho Prince và con ngựa hung nâu bên chiếc giếng ở trước cửa, cho chúng ăn lúa mạch và cột chúng vào một máng cỏ khô bên cạnh cặp ngựa của Anderson. Rồi các cậu theo Anderson trở lại căn nhà dưới bờ tuyết. Căn nhà chỉ có một phòng với chiếc trần thấp làm bằng những gióng gỗ tròn phủ cỏ khô lún xuống dưới sức nặng của tuyết. Vách đều bằng đất. Anderson để cửa khép hờ cho một chút ánh sáng lọt vào. Ông ta nói: - Tôi không xúc tuyết khỏi cửa sổ từ đợt bão vừa rồi. Tuyết dồn đống ở phía tây bắc phủ kín tôi luôn. Nhờ thế chỗ này ấm hơn và tôi không cần phải xài quá nhiều chất đốt. Bằng cách thì những căn nhà bằng đất vẫn ấm nhất ở đây. Căn phòng ấm áp và hơi nước bốc lên từ chiếc ấm nước đang sôi trên lò. Bữa ăn trưa của ông Anderson đã bày trên chiếc bàn thô nhám đặt sát vách. Ông ta mời cả hai cùng ăn. Kể từ tháng mười vừa qua, ông ta chưa hề thấy một người nào khi ông ta rời khỏi thị trấn và đưa đến đây những đồ ăn dự trữ trú đông của ông. Almanzo và Cap ngồi xuống ăn thật tình món đậu nấu, bánh nhào bột với xốt táo khô. Thức ăn nóng và cà phê giúp các cậu nóng lên và các bàn chân được hơ nóng đến nỗi cảm thấy đau nhức để các cậu biết là chúng không bị tê cóng. Almanzo cho ông Anderson biết cậu và Cap phải đi kiếm mua một số lúa mì. Ông Anderson nói một cách lãnh đạm: - Tôi không bán thứ gì cả. Tất cả những thứ thu hoạch được, tôi giữ để làm giống. Ông ta thắc mắc: - Các cậu mua lúa mì làm gì vào lúc này trong năm? Các cậu kể cho ông ta nghe xe lửa đã ngưng chạy và dân trong thị trấn đang đói. Almanzo nhấn mạnh với ông ta: - Từ trước Giáng sinh, nhiều phụ nữa và trẻ em không có một bữa ăn no. Họ cần có cái gì ăn để sống hoặc sẽ phải chết đói trước khi mùa xuân đến. Ông Anderson nói: - Điều đó không phải chuyện tôi quan tâm. Không ai chịu trách nhiệm về những người khác đã không biết tự lo liệu đủ cho họ từ trước. Almanzo vặn lại: - Không ai nghĩ là ông phải có trách nhiệm và không ai đòi ông phải cho họ thứ gì. Chúng tôi sẽ trả cho ông cái giá cực cao là tám mươi hai xu một giạ cộng thêm phí chuyên chở đến thị trấn. - Tôi chẳng có hạt lúa mì nào để bán. Ông Anderson đáp và Anderson hiểu ông ta muốn nói điều gì. Lúc đó Cap nhập cuộc với nụ cười rạng rỡ trên gương mặt đỏ đầy tàn nhang vá nứt nẻ do gió buốt. - Chúng tôi rất thật thà cởi mở với ông, ông Anderson. Chúng tôi đã đặt lá bài trên bàn rồi. Dân trong thị trấn cần có một số lúa mì của ông hoặc là chết đói. Hợp lí thôi, họ phải trả hết mọi phí tổn. Ông mất gì nào? Ông Anderson nói: - Tôi đang cố mang lợi lại cho các cậu đây. Tôi không muốn bán vì đây là lúa giống của tôi. Lúa giống cho vụ mùa năm tới. Nếu muốn bán thì tôi đã bán hết từ mùa thu vừa rồi. Almanzo quyết định nhanh chóng: - Chúng tôi trả giá một đô-la một giạ. Cao hơn giá thị trường mười tám xu một giạ rồi. Và đừng quên là chúng tôi còn trả thêm phí tổn chuyên chở. Ông Anderson vẫn nói: - Tôi không bán lúa giống. Tôi sẽ thu hoạch vụ mùa tới. Almanzo nói có vẻ trầm tư: - Lúc nào mua lúa giống mà không được. Hầu hết dân ở đây cũng sẽ mua. Ông đã vứt bỏ dịp may thu mười tám xu lời một giạ so với giá thị trường, ông Anderson. Ông Anderson hỏi: - Làm sao tôi biết người ta sẽ mang lúa giống tới kịp vụ gieo hạt? Cap yêu cầu một cách hợp lí: - Được, về vấn đề này, làm sao ông biết ông sẽ có một vụ mùa? Này, ông cứ quay lại với số tiền biếu này và gieo hạt đi. Một trận mưa đá sẽ lo liệu cho nó hoặc một đám châu chấu. Ông Anderson nói: - Đó cũng là sự thực. Almanzo nói: - Điều chắc chắn nhất là đống tiền này nằm trong túi ông. Ông Anderson chậm chạp lắc đầu: - Không, tôi không bán. Tôi như tự giết mình khi phá bỏ bốn mươi mẫu vừa qua. Tôi phải giữ lại hạt để gieo. Almanzo và Cap nhìn nhau. Almanzo móc ví ra: - Chúng tôi trả ông một đô-la hai mươi lăm xu một giạ. Tiền mặt. Cậu đặt ví tiền trên bàn. Ông Anderson do dự. Rồi ông ta quay nhìn ra chỗ khác. Cap nói: - Một con chim trong tay giá trị hơn hai con chim trong bụi. Ông Anderson lại liếc nhìn đống tiền dù không muốn. Rồi ông ngửa người về phía sau và cân nhắc. Ông ta đưa tay gãi đầu và cuối cùng lên tiếng: - Cũng được, tôi có thể gieo một phần lúa mạch. Cả Almanzo và Cap đều im lặng. Các cậu biết ý nghĩ của ông ta đang chao đảo và nếu lúc này ông quyết định không bán thì ông ta sẽ không thay đổi nữa. Sau hết, ông ta quyết định: - Tôi nghĩ là tôi có thể để lại cho các cậu chừng sáu mươi giạ theo giá đó. Almanzo và Cap đứng lên rời bàn ngay. Cap nói: - Tới thôi, lo chất hàng liền! Mình còn một đoạn đường dài để trở về. Ông Anderson đề nghị các cậu nghỉ lại một đêm nhưng Almanzo đồng ý với Cap. Cậu nói nhanh: - Dù thế nào cũng xin cảm ơn ông. Nhưng chúng tôi chỉ có một ngày giữa các trận bão và lúc này đã quá buổi trưa rồi. Đã trễ giờ khởi hành trở về của chúng tôi. Ông Anderson nói rõ: - Lúa mì chưa đóng bao. Almanzo nói: - Chúng tôi có mang bao tới. Tất cả vội vã ra khu chuồng ngựa. Ông Anderson giúp các cậu xúc lúa từ thùng chứa vào những chiếc túi hai giạ và chất lên xe. Trong lúc cột ngựa vào xe, các cậu hỏi ông Anderson cách qua đầm tốt nhất như thế nào nhưng ông ta không qua đầm vào mùa đông đó và không có đủ dấu vết để chỉ dẫn cho các cậu lối qua đầm mà ông ta đã đi vào mùa vừa rồi. Ông ta lại khuyên: - Chịu khó ở lại đây đêm nay đi… Nhưng cả hai chào tạm biệt và ra đi. Các cậu lái xe từ căn nhà ẩn kín trong nhưng bờ tuyết lớn vào cái lạnh thấu xương và đã gặp khó khăn ngay lúc bắt đầu băng qua vùng thung lũng bằng phẳng vì Prince sa xuống một hố trống. Vội vã bọc vòng chỗ nguy hiểm, con ngựa hung nâu của Cap chợt cảm thấy lớp tuyết phía dưới nó sụp vỡ thình lình đến nỗi nó hét lên kinh hoàng khi đâm lao xuống. Tiếng hét kinh hoàng của con ngựa thật khủng khiếp. Almanzo phải mất một hồi ráng sức giữ bình tĩnh cho Prince. Rồi cậu thấy Cap đầm mình dưới tuyết đang đeo cứng hàm thiếc của con ngựa nâu hung đang sợ hãi cực điểm. Lao tới và chồm lên, con ngựa gần như dật cỗ xe của Cap xuống hố. Nó chồm sát mép bờ và một phần lúa văng ra. Almanzo hỏi sau khi con ngựa hung có vẻ bình tĩnh lại: - Ổn chứ? - Ừ! Cap trả lời. Rồi cả hai cùng lo làm, mỗi người đều tháo ngựa cho đứng dưới chỗ tuyết sập và chệch choạng xung quanh, bước đi nặng nề, giậm chân tạo một chỗ cứng cho ngựa đặt chân lên. Cả hai đều lạnh buốt tới xương và phủ đầy tuyết. Các cậu buộc cả hai con ngựa vào xe của Almanzo rồi dỡ hàng trên xe của Cap xuống, lôi ra khỏi hố và chất đống lại những bao gạo nặng một trăm hai mươi lăm pao. Xong các cậu lại đóng ngựa vào xe. Không dễ nắm chắc những sợi dây da lạnh cứng bằng những ngón tay tê cóng. Và rất cẩn thận, Almanzo vẫn thêm một lần băng qua đầm cỏ xảo trá. Prince lại sập xuống nhưng mau mắn cho con ngựa nâu hung không bị. Có Cap phụ giúp, việc đưa con Prince lên khỏi hố không lâu lắm. Và không gặp thêm rắc rối khác nữa, các cậu lên tới chỗ đất cao. Almanzo ngưng tại đó, gọi Cap: - Cứ dò theo dấu xe cũ của mình để về chắc tốt hơn? Cap trả lời: - Khỏi! Tốt hơn là nhắm thị trấn chạy ào tới. Mình không có thời giờ để bỏ mất. Móng ngựa và xe trượt không lưu lại dấu trên lớp tuyết cứng. Dấu vết duy nhất chỉ là những hố rải rác mà họ đã rơi xuống trong các khu đầm cỏ nằm ở phía đông đường trở về. Almanzo dẫn đường về phía tây bắc băng qua đồng cỏ rộng trắng xóa tuyết phủ. Bóng của cậu chính là người chỉ đường. Mỗi gò đất trên đồng cỏ đều giống nhau, đầm cỏ phủ tuyết chỗ này chỉ khác chỗ kia về kích thước. Băng qua vùng đất thấp có nghĩa là chấp nhận mạo hiểm sụp hố và mất thời gian. Theo các bờ đất cao có nghĩa là đi xa hơn nhiều dặm đường. Ngựa đã mệt. Chúng đều sợ rơi xuống những chiếc hố bị che lấp và sự sợ hãi này khiến chúng mệt thêm. Lần lượt chúng rơi vào một lớp băng mỏng. Cap và Almanzo lại cởi dây, đưa chúng lên và đóng xe trở lại. Chúng bước đi một cách khó khăn trong gió lạnh như cắt. Lúc này chúng quá mệt lại thêm phải kéo nặng nên không thể phóng nhanh đủ cho Almanzo và Cap có thể chạy bên các cỗ xe. Cả hai chỉ cần dậm mạnh bàn chân khi đi bộ để giữ cho khỏi bị tê cứng và đập cánh tay vào ngực để giữ cho máu lưu thông. Cap gọi: - Này, Wilder! Mình có đang chạy thẳng quá về hướng bắc không? Almanzo gọi lại: - Làm sao tớ biết được? Tất cả tiếp tục bước, Prince lại sập hố đứng gục đầu xuống trong lúc Almanzo tháo dây đập tuyết đưa nó lên để đóng vào xe trở lại. Cả hai tới một khoảng đất cao, tiếp đó là một đầm cỏ, đưa tới một đầm cỏ khác và Prince lại sa hố. Cap hỏi khi Almanzo đã đóng ngựa vào xe trở lại: - Bồ có muốn mình dẫn đầu một hồi không? Cậu và Prince chịu trận quá nhiều rồi. Almanzo nói: - Hãy theo tớ. Mình sẽ luân phiên. Sau đó khi con ngựa này sa hố thì con ngựa kia vượt lại cho tới khi bị sa hố. Mặt trời đã xuống thấp và một lớp sa mù dày đặc ở phía tây bắc. Almanzo nói với Cap: - Mình phải thấy cây bông cô đơn từ gò đất phía trước. Một lúc sau Cap trả lời: - Ừ, tớ nghĩ là mình sẽ thấy. Nhưng khi cả hai dừng tại gò đất đó thì vẫn không có gì ngoại trừ những gợn sóng tuyết vô tận ở phía bên kia và lớp sa mù dày đặc ở phía tây bắc. Almanzo và Cap cùng ngắm lớp sa mù rồi hô lũ ngựa tiếp tục đi. Nhưng cả hai cho xe đi gần bên nhau. Mặt trời đang lặn đỏ rực trong bầu trời lạnh khi họ nhìn thấy ngọn cây bông cô đơn trần trụi ở thật xa phía đông bắc. Và ở phía tây bắc mây bão đã hiện ra dọc theo đường chân trời. Almanzo nói: - Có vẻ đang có chuyện. Tớ đã thấy nó từ phía xa ở đằng sau. Cap nói: - Tớ cũng đã thấy. Nhưng tốt hơn là quên cái lạnh và chạy tới. Ráng đi một hồi nữa. Almanzo đồng ý: - Yên chí đi. Tớ sẽ làm được sau vài phút nghỉ. Họ không nói gì thêm ngoài việc khuyến khích mấy con ngựa mệt mỏi bước nhanh hơn. Cap đi thẳng qua các gò đất, thẳng qua các trũng sâu giữa gió lạnh. Đầu cúi thấp để tránh gió. Các cậu cứ đi cho tới khi con ngựa nâu hung sa vào một lớp tuyết đóng băng. Almanzo theo sát phía sau gần tới mức không kịp tránh chiếc hố. Cậu đảo thật nhanh sang bên nhưng Prince xuống sát bên con ngựa nâu hung. Ở chính giữa là lớp tuyết đóng băng trút xuống và cỗ xe của Almanzo lật nghiêng trút hết mọi thứ trên xe xuống cỏ và đám tuyết lở. Bóng tối từ từ buông phủ trong lúc Cap giúp Almanzo kéo lui cỗ xe lại, đào và vác các bao lúa nặng. Tuyết tỏ sáng mờ nhạt. Gió đã ngưng, không có một làn hơi chuyển động trong sự tĩnh lặng đang đen đặc. Sao lấp lánh trên nền trời phía trên đầu về phía nam phía đông nhưng ở dưới thấp về phía bắc, phía tây thì nền trời đen kịt. Màn đêm dâng lên lan ra lần lượt che kín các vì sao. Cap nói: - Tớ đoán là mình dính chấu rồi. Almanzo đáp: - Mình sẽ ở gần khoảng kia. Cậu thúc Prince bước tới dẫn đường. Cap theo sau cậu và cỗ xe chỉ còn là chiếc bóng cồng kềnh di động trên nền tuyết trắng lờ mờ. Trên nền trời phía trước, các vì sao nối nhau biến mất vào đám mây đen đang dâng lên. Một cách điềm tĩnh, Almanzo và Cap lên tiếng khuyến khích mấy con ngựa. Vẫn còn phải băng qua khoảng hẹp trên đầm Big Slough. Lúc này cả hai không còn nhìn thấy những gò đất hay những trũng thấp. Các cậu chỉ nhìn thấy một lối đi nhỏ dưới ánh sao lờ mờ và ánh tuyết nhòa nhạt. Chương 28: Trận Bão Tuyết Bốn Ngày Suốt ngày trong lúc quay chiếc cối xay cà phê hoặc ngồi bện cỏ, Laura đều nhớ rằng Cap Garland và anh chàng Wilder em đang vượt những cánh đồng tuyết không in dấu vết đi kiếm lúa mì về cho thị trấn. Chiều hôm đó, Laura cùng Mary ra sân sau hít thở không khí và cô kinh hãi thấy ở phía chân trời tây bắc xuất hiện một đường viền đen kịt báo hiệu bão tuyết đang tới. Trời không có mây nhưng cô vẫn ngờ vực nhìn ánh nắng. Nắng quá sáng và đồng cỏ ngập tuyết lấp lánh có vẻ đang đe dọa. Cô run rẩy. Mary nói: - Vào nhà đi, Laura. Nắng lạnh quá. Em có thấy mây không? Laura trấn an: - Không có mây. Nhưng em không thích thứ thời tiết này. Không khí có vẻ man rợ thế nào ấy. Mary đáp: - Không khí chỉ là không khí thôi. Chắc em muốn nói trời lạnh. Laura gắt: - Em không nói tới trời lạnh. Em muốn nói có vẻ man rợ. Cả hai vào nhà bếp qua cửa gian chái. Mẹ ngưng khâu vớ cho bố ngẩng lên nhìn. Mẹ nói: - Các con vào mau thế. Các con nên hít thở nhiều không khí trong lành trước khi có cơn bão tiếp theo. Bố bước vào. Mẹ gạt công việc lại, tới lấy ổ bánh mì nướng ra khỏi lò trong lúc Laura rót một ít xốt cá thu vào chén. - Lại xốt cá. Tốt! Bố nói trong lúc ngồi ăn. Trời lạnh và việc kéo cỏ nặng nề khiến bố đói bụng. Mắt bố sáng lên khi nhìn các thức ăn. Bố nói không ai có thể hơn nổi mẹ trong việc làm bánh và không có gì ngon hơn bánh mì chấm nước xốt cá thu. Bố coi món bánh mì thô và thứ bột lúa mì nghiền cùng với một miếng cá muối như một bữa tiệc. Bố nói: - Mấy cậu bé có một ngày thật tuyệt để đi xa. Anh nhìn thấy một con ngựa sa xuống phía đầm Big Slough nhưng họ đã đưa lên không có gì phiền phức. - Liệu họ có trở về yên ổn không, bố? Carrie rụt rè hỏi và bố nói: - Không có lí do gì để không yên ổn nếu thời tiết này kéo dài. Bố ra ngoài lo các việc thường lệ. Mặt trời đã lặn và ánh sáng trở nên mờ nhạt khi bố bước vào. Bố đi qua phòng trước nên tất cả biết là bố đã đảo qua phố để thu lượm tin tức. Vừa nhìn thấy bố, tất cả đã biết là có tin hay không. Bố nói khi treo mũ áo lên đinh móc sau cửa ra vào: - Lại có bão nữa rồi. Một đám mây đang kéo tới rất nhanh. Mẹ hỏi bố: - Họ về tới chưa? Bố đáp: - Chưa. Mẹ lặng lẽ đu đưa chiếc ghế và tất cả ngồi im trong lúc bóng chiều chạng vạng tối dần. Grace đang ngủ trong lòng Mary. Những người khác kéo ghế lại gần lò bếp hơn nhưng vẫn im lặng như chỉ đợi tiếng chuyển động ken két của căn nhà cùng với tiếng gào hú của gió bão. Bố đứng dậy thở dài: - Hừ, nói lại tới đây. Rồi thình lình bố giơ nắm tay xiết chặt về phía tây bắc. Bố hét lớn: - Hú đi! Đập mi vỡ mặt! Hú! Tụi tao vẫn ở đây bình yên! Mi đừng hòng đụng đến tụi tao! Mi có hú hét mùa đông cũng không ăn nhằm gì tới tụi tao! Tụi tao sẽ bình yên ở đây tới khi mùa xuân đến! Mẹ nói như dỗ dành: - Charles, Charles! Chỉ là một trận bão thôi. Mình đã quen với chúng rồi. Bố buông người xuống ghế. Một phút sau bố nói: - Điên thật, Caroline. Trong một phút anh bỗng thấy gió như là một sinh vật đang cố đeo đuổi mình. Mẹ tiếp tục dịu giọng dỗ dành: - Đôi lúc nó cũng giống như thế. - Anh sẽ không suy nghĩ nhiều như thế nếu anh có thể chơi đàn được. Bố lẩm nhẩm nhìn xuống những bàn tay thô cứng nứt nẻ được soi sáng do những ánh lửa lọt qua kẽ lò bếp. Trước đây, vào những lúc khó khăn, bố thường đàn cho mọi người nghe. Bây giờ, không ai có thể đem âm nhạc tới cho bố. Laura cố tự khích lệ bằng cách nhớ lại điều bố đã nói là tất cả đang ở đó bình yên. Nhưng cô rất muốn hỏi bố một điều. Lúc đó, đột nhiên cô nghĩ tới câu “Tất cả chúng ta đều ở đây” trong bản hợp xướng “Bài ca của những người tự do”. Cô kêu lên: - Mình có thể hát chứ! Bố thật nhanh. Bố nói: - Con bắt nhịp đúng đấy, Laura, nhưng hơi cao một chút. Cố xuống si giáng đi. Laura bắt đầu trở lại. Trước tiên là bố rồi tất cả những người khác hát hòa theo: Lúc Paul và Silas rơi vào ngục tối Chẳng cần gì làm hại cho ai Kẻ cất tiếng ca, người đọc kinh cầu nguyện Chẳng cần gì làm hại cho ai Chúng ta đang ở đây đông đủ Chẳng cần gì làm hại cho ai Chúng ta đang ở đây đông đủ Chẳng cần gì làm hại cho ai Nếu đức tin mà mua chuộc được Chẳng cần gì làm hại cho ai Dù giàu sống và nghèo sẽ chết Chẳng cần gì làm hại cho ai Lúc này Laura đang đứng cùng với Carrie và Grace thức dậy cũng rang sức hát theo: - Chúng ta đang ở đây đông đủ Chẳng cần gì làm hại cho ai Chúng ta đang ở đây đông đủ Chẳng cần gì làm hại cho ai Bố nói: - Tốt lắm! Rồi bố xướng âm một nốt thấp và bắt đầu: Khúc xương cụt thành con thuyền trôi nổi Thả lênh đênh trên mặt đất thênh thang Gỗ từng đống ào ào lăn xô tới Con thuyền xưa biến mất im lìm - Nào bây giờ cùng hát: Và tất cả đồng ca: Đừng bao giờ buông ra lời giễu cợt Đừng bao giờ lên tiếng nói quàng xiên Đừng bao giờ buông ra lời giễu cợt Đừng bao giờ lên tiếng nói quàng xiên Khi tất cả ngưng hát, bão có vẻ dữ dội hơn. Một lát sau, bố lại hát và tới những đoạn trang trọng bày tỏ sợ biết ơn, tất cả đều như cảm nhận thấy: Vĩ đại thay đấng Chăn chiên Tối thượng Vinh dự thay được lên tiếng cầu xin Trong đất Chúa đầy lòng nhân hậu Giữa thánh đường của Chúa thiêng liêng Rồi mẹ bắt đầu: Khi trở thành con chiên của Chúa Những điện đài ngự giữa trời xanh Chào giã biệt mọi khổ đau khiếp hãi Và lau khô nước mắt, an lành Phía ngoài, bão điên cuồng gào hú, quật ngã vào cửa sổ, vào những bức vách, nhưng tất cả an toàn trong nơi trú ẩn ngồi sát bên hơi ấm của lửa cỏ khô và tiếp tục hát. Khi hơi ấm tàn trong lò thì đã quá giờ ngủ và do muốn tiết kiệm cỏ khô nên tất cả mò mẫm từ nhà bếp tối lạnh lên căn gác tối tăm hơn, lạnh lẽo hơn để tới giường nằm. Dưới những lớp mền, Laura và Mary cùng đọc lời cầu nguyện. Rồi Mary thì thào: - Laura. Laura cũng thì thào: - Chi vậy? - Em có cầu nguyện cho mấy người kia không? Laura đáp: - Có. Chị nghĩ là mình phải làm vậy hả? Mary đáp: - Không nên chỉ cầu xin cho riêng mình. Chị không nói về lúa mì. Chị chỉ xin hãy cho họ an toàn nếu đó là ý của Chúa. Laura nói: - Em nghĩ là phải như thế. Họ đang làm những điều tốt nhất. Và, bố cũng đã sống qua cơn bão ba ngày vào dịp Giáng sinh mà mình còn ở bên suối Plum. Suốt những ngày bão tuyết đó không nói thêm gì về Cap Garland và anh chàng Wilder em. Nếu họ tìm được nơi ẩn trú thì họ có thể sống qua cơn bão. Nếu không, không thể làm gì cho họ được. Cho nên nói chuyện đó chẳng tốt gì. Gió vẫn không ngừng và đập vào căn nhà cùng với tiếng gào thét la hú của bão khiến khó suy nghĩ nổi điều gì. Chỉ có thể ngồi chờ bão dứt. Suốt thời gian đó, họ nghiền bột, bện cỏ, giữ cho lửa luôn cháy trong lò bếp và xúm xít quanh đó để hơ những bàn tay tê cóng nứt nẻ, những bàn chân sưng vù, nhức buốt, ngứa ngáy trong khi nhai nuốt những miếng bánh làm bằng bột thô và đợi cơn bão dứt. Qua ngày thứ ba rồi đêm thứ ba, bão vẫn không dứt. Buổi sáng thứ tư, bão vẫn nổi dữ dằn. Bố nói khi từ chuồng ngựa bước vào: - Không có dấu hiệu bão ngớt. Đây là cơn bão tồi tệ nhất. Một lát sau, khi tất cả đang ăn những miếng bánh dành cho bữa sáng, mẹ cố trấn tĩnh và nói: - Em hi vọng là mọi người trong thị trấn đều không sao. Không có cách gì để biết rõ. Laura nghĩ tới những căn nhà chỉ nằm bên kia phố mà cũng không thể nhìn thấy. Không hiểu do đâu, cô nhớ tới bà Boast. Họ không thấy bà Boast từ mùa hè vừa qua và đã lâu không thấy ông Boast, kể từ khi ông ấy mang tới số bơ cuối cùng. Cô nói: - Nhưng mình cũng đã phải sống ở nhà trại. Mẹ nhìn cô thắc mắc không biết cô đang nghĩ gì, nhưng không hỏi. Tất cả chỉ chờ tiếng ầm ĩ của bão ngưng lại. Sáng hôm đó, mẹ thận trọng trút những hạt lúa mì cuối cùng vào cối xay cà phê. Chỉ còn vừa đủ để làm một ổ bánh mì nhỏ. Mẹ lấy muỗng cạo chén rồi với lấy mấy ngón tay, mẹ vét từng chút bột nhào cho vào chảo hấp. Mẹ nói: - Đây là đợt cuối cùng, Charles. Bố nói với mẹ: - Anh có thể kiếm thêm. Almanzo Wilder còn giữ một số hạt giống. Nếu băng qua nổi cơn bão thì anh có thể tới đó lấy. Cuối ngày hôm đó, khi ổ bánh được đặt trên bàn thì những bức vách ngưng lay động. Tiếng gào hú đã tan biến và chỉ còn tiếng gió lùa dọc các hàng hiên. Bố đứng bật dậy, nói: - Chắc là bão ngưng. Bố mặc áo, đội mũ, choàng khăn nói với mẹ rằng bố chạy qua cửa hàng Fuller’s. Nhìn qua những lỗ hổng được cào trên lớp sương giá, Laura và Carrie thấy tiếng đang bay theo gió. Mẹ ngả người trên ghế, thở ra một hơi dài: - Phải cảm ơn sự yên tĩnh này thật nhiều. Tuyết đang dồn lại. Một lát sau, Carrie nhìn thấy bầu trời và gọi Laura cùng nhìn. Cả hai ngắm khoảng trời màu xanh nhạt trên đỉnh đầu và ngắm ánh nắng ấm buổi chiều trên lớp tuyết đang bay là đà. Trận bão đã thực sự chấm dứt. Vùng trời phía tây bắc quang đãng. Carrie nói: - Em mong là Cap Garland và anh chàng Wilder em an toàn ở một nơi nào đó. Laura cũng mong thế nhưng cô biết nói ra cũng chẳng làm được gì khác. Chương 29: Dặm Đường Cuối Cùng Almanzo nghĩ có lẽ đã vượt qua khoảnh hẹp của đầm Big Slough. Nhưng cậu không dám chắc là mình đang ở đâu. Cậu có thể nhìn thấy Prince và cỗ xe cồng kềnh đang di chuyển chậm chạp. Phía bên kia là bóng tối như một màn sương dày đặc bao trùm một thế giới màu trắng phẳng lì. Những vì sao lấp lánh xa ở một khoảng nào đó. Trước mặt cậu, cơn bão đen ngòm dâng lên thật mau trên nền trời và lặng lẽ xóa biến các vì sao. Cậu kêu lớn với Cap: - Có thấy là mình đã qua đầm Big Slough không? Cậu quên là không cần phải hét lớn khi gió đã ngưng. Cap nói: Almanzo nói: - Mình đã không bị sa hố. Cap nói: - Nó đang đến rất nhanh. Cậu muốn ám chỉ cơn bão đen ngòm đang dâng lên. Chẳng có điều gì để nói về cơn bão đó cả. Almanzo lại khuyến khích Prince và mải miết bước. Cậu dậm mạnh bàn chân khi đi bộ nhưng khó cảm thấy sự va chạm. Chân cậu giống như bằng gỗ từ đầu gối trở xuống. Mỗi múi thịt trên người cậu đều kéo căng ra để chống với cái lạnh. Cậu không thể buông trùng sự gồng cứng làm đau quai hàm và nhức buốt ở trong người. Cậu đập mạnh hai bàn tay tê cóng vào nhau. Prince kéo cỗ xe nặng nhọc hơn. Mặc dù tuyết dưới chân bằng phẳng nhưng đang lúc lên dốc. Các cậu đều không nhìn thấy chiếc hố mà hồi sáng Prince đã sập xuống, nhưng bằng cách nào đó, họ đã băng qua đầm. Tuy nhiên, mọi thứ đều có vẻ lạnh lùng. Bóng tối pha trộn với ánh sao nhòa nhạt phản chiếu trên tuyết làm cho lối đi khác hẳn. Phía trước, trong bóng tối không có một vì sao nào để định hướng. Almanzo gọi với lại: - Chắc là mình qua đầm rồi! Xe của Cap đến sát phía sau và một hồi sau Cap mới nói: - Nhìn coi lối đi này! Nhưng Prince vẫn kéo rụt rè, run rẩy không chỉ do mệt và lạnh mà còn do sợ tuyết dưới chân sụp xuống. Almanzo nói lớn: - Ồ, mình qua chắc rồi! Lúc này cậu nói chắc chắn: - Mình đang ở trên đất liền, ổn rồi! Cap hét: - Thị trấn ở đâu? Almanzo đáp: - Chắc mình đang ở gần thị trấn rồi. Cap nói: - Nó đang đến nhanh quá. Almanzo biết thế. Cậu vỗ nhẹ hông Prince: - Ráng lên, Prince! Ráng lên! Nhưng Prince chỉ nhấn nhanh được một bước rồi lại thả bước nặng nề. Con ngựa đã mệt và không muốn chạy vào gió bão. Lúc này, cơn bão tràn lên cực nhanh gần như kín nửa bầu trời và bầu không khí sậm tối đang bị khuấy động. Cap nói: - Có tiếp tục lái xe đi hoặc là sẽ tiêu luôn. Almanzo ghét đi tới nhưng cậu leo lên cỗ xe quấn dây cương quanh hai vai và đập Prince bằng những đầu dây. - Ráng lên, Prince! Ráng lên! Prince bước tới và kinh hoảng. Từ trước Almanzo chưa bao giờ đánh nó. Nó lao tới kéo chiếc ách cỏ và giật nẩy cỗ xe tới trước rồi xoải vó phóng nước kiệu xuống dốc. Cap cũng đánh con ngựa nâu hung. Nhưng cả hai đều không biết chắc thị trấn ở đâu. Almanzo ráng sức dẫn đường. Khắp nơi trước mặt chỉ là bóng tối dầy đặc. Almanzo hỏi: - Nhìn thấy gì không? Cap đáp: - Cóc thấy gì. Mình dính chấu rồi. Almanzo nói: - Thị trấn không thể ở xa phía trước đâu. Trong một thoáng cậu bỗng bắt gặp một tia sáng. Cậu nhìn về phía đó và lại không thấy gì trong cơn bão đen đặc. Rồi cậu lại nhìn thấy tia sáng, một tia sáng bừng lên và biến đi đột ngột. Cậu biết đúng là tia sáng chiếu ra từ một ô cửa sổ mở rồi đóng. Tới gần hơn, cậu nghĩ lúc này cậu đã nhìn thấy lờ mờ một ô cửa đọng sương giá và cậu hét lớn với Cap: - Thấy ánh đèn không? Tới luôn! Các cậu đã đi hơi xa hơn về phía tây. Bây giờ, hướng thẳng về hướng bắc, Almanzo cảm thấy cậu biết đường chắc chắn. Prince cũng vậy, chạy háo hức hơn và con ngựa nâu hung xoải nước kiệu theo sau. Almanzo lại nhìn thấy một lần nữa ánh lửa lóe sáng qua đường phố và lúc này hình ô cửa sổ lờ mờ đã hiện rõ. Đó là cửa sổ ở cửa hàng Loftus’. Khi họ tới trước ô cửa thì gió cuốn tới một đợt tuyết xoáy. Almanzo nói với Cap: - Tháo xe ra và chạy về đi. Tớ lo chỗ lúa mì cho. Cap cởi dây và phóng lên con ngựa nâu hung. Almanzo hỏi qua cơn bão: - Cậu thấy về nổi không? Cap hô khi con ngựa phóng qua những lô đất trống để chạy về: - Được không hả? Tớ làm được. Almanzo chạy thình thịch vào cửa hàng ấm áp. Ông Loftus bật dậy khỏi chiếc ghế bên lò sưởi. Ở đó không có ai khác. Ông Loftus nói: - Vậy là các cậu đã về được. Tôi cứ nghĩ là các cậu không về nổi. Almanzo nói: - Cap và tôi đã làm xong công việc được giao. Ông Loftus hỏi: - Tìm ra cái người trúng vụ mùa hả? Almanzo đáp: - Và đem về sáu chục gia lúa. Ông giúp tôi mang vào chứ? Cả hai kéo lê những bao lúa vào chất đống sát vách. Bão đang thổi dữ dằn. Khi bao lúa cuối cùng được chất xong, Almanzo trao cho ông Loftus tờ biên nhận do ông Anderson kí và số tiền mua hàng còn dư lại. - Ông đưa cho tôi tám chục đô-la để mua lúa mì và đây là số còn dư lại, chẵn năm đô-la. Ông Loftus nhìn tờ biên nhận nói: - Một đô-la hai mươi lăm xu một giạ. Đúng là cái giá tốt nhất mà các cậu làm được chứ? Almanzo đáp lại: - Bất kì lúc nào ông không ưng, tôi sẵn sàng mua lại từ tay ông với giá đó. Ông chủ cửa hàng vội nói: - Tôi không quay lại với chuyện giá cả đâu. Cậu tính tôi phải trả phí tổn chuyên chở bao nhiêu? Almanzo nói và bước ra: - Không đáng một đồng xu nhỏ. Ông Loftus gọi với theo: - Này, ngồi lại một chút cho ấm chứ? - Và để cho ngựa của tôi đứng giữa trời bão sao? Almanzo đóng sập cửa lại. Cậu nắm cương ngựa cho nó đi ra đường phố dọc theo những cột buộc ngựa và những đường gờ cổng trước các cửa hàng. Lần theo bức vách dài của kho chứa thực phẩm, cả ha lết đi mệt nhọc về phía chuồng ngựa. Almanzo tháo ngựa và đưa vào trong ngăn chuồng yên tĩnh trước tiếng hí mừng rỡ của Lady. Cậu chặn cửa lại để cản gió rồi tháo một chiếc bao tay, thọc bàn tay phải vào nách làm ấm lại cho tới khi các ngón tay đủ mềm để thắp đèn. Cậu cho Prince vào ngăn chuồng của nó, lấy nước cho nó, cho nó ăn rồi kì cọ và chải lông cho nó. Xong, cậu trải cỏ khô làm một nệm nằm sạch, dầy và mềm cho con ngựa đã mệt nhọc. Cậu nói với Prince trong lúc nhẹ nhàng vỗ lên người nó: - Bồ đã cứu được chỗ hạt giống rồi, bồ già. Cậu khoác xô nước vào cánh tay và bước qua bão táp. Ngay tại phía ngoài cửa phòng sau, cậu vục đầy một xô tuyết. Khi cậu ngả nghiêng bước vào thì Royal đang đi từ kho thực phẩm trống rỗng lên phòng trước. Royal nói: - Ô, em đây rồi. Anh đang cố nhìn xuống phố coi có thấy em không, nhưng không thể nhìn xa quá nổi một bộ trong cơn bão này. Nghe nó hú kìa! May mắn là em đã về đúng lúc. Almanzo nói với anh: - Tụi em mang về sáu mươi giạ lúa mì. - Em không giỡn chứ! Anh đã nghĩ đó là một cuộc đi săn ngỗng trời. Royal bỏ thêm than vào lửa, tiếp: - Em mua với giá bao nhiêu? Almanzo kéo ủng ra: - Một đô-la hai mươi lăm xu. Royal huýt gió: - Ui cha! Đó là giá thấp nhất mà em trả được hả? - Đúng thế. Almanzo đáp cụt ngủn trong lúc cởi những lớp vớ khỏi chân. Lúc đó Royal mới nhận ra việc Almanzo đang làm và nhìn chiếc xô đầy tuyết. Anh kêu lên: - Lấy tuyết làm gì đây? Almanzo khịt khịt mũi: - Anh nghĩ dùng làm gì? Để chà các bàn chân của em. Các bàn chân cậu trắng bệch như hết máu và không còn cảm giác. Royal giúp cậu chà tuyết trong góc phòng lạnh nhất cho tới khi cậu bắt đầu thấy ngứa ngáy và cảm thấy dội lên cảm giác đau buốt. Quá mệt mỏi, đêm đó cậu lại không ngủ nổi do cơn đau bàn chân khiến phát sốt, nhưng cậu mừng vì đau buốt cũng có nghĩa là bàn chân không bị đe dọa liệt cứng. Suốt mấy ngày đêm có bão, các bàn chân cậu sưng tấy và đau đớn đế nỗi cậu phải mượn ủng của Royal mỗi khi anh ta đi làm công việc thường lệ trở về. Nhưng khi trận bão chấm dứt vào cuối buổi chiều ngày thứ tư thì cậu đã có thể mang ủng của mình và đi xuống phố. Thật dễ chịu khi bước ra ngoài trong cái lạnh mới, nhìn ánh nắng và chỉ nghe thấy tiếng gió lùa thẳng sau khi đã nghe quá lâu tiếng bão quay cuồng. Nhưng sức gió vẫn còn đủ mạnh để thổi bay một người và trước khi tới một tòa nhà lớn. Cậu lạnh tới mức mong cho gió thổi mình bay tới ngay cửa hàng Fuller’s. Tại chỗ đang có một đám đông. Gần như mọi người đàn ông trong thị trấn đều có mặt và đang trò chuyện với vẻ giận dữ căng thẳng. Almanzo lên tiếng: - Xin chào. Có chuyện gì đây? Ông Harthorn xoay quanh cậu: - Này, cậu đã không hề tính phí tổn chuyên chở cho Loftus. Cap Garland đã nói ở đây, đúng không? Cap cười với nét mặt rạng rỡ: - Chào Wilder! Bồ đã bòn rút cho cái tay keo kiệt đó, tại sao lại không lấy tiền? Tớ đã đủ điên để nói với ông ta là mình chỉ làm một công việc lấy vui. Lúc này, tớ muốn tính tiền ông ta bằng tất cả số ông ta gom được. Almanzo hỏi: - Có gì về chuyện đó? Không, tớ không tính một xu nhỏ. Ai bảo mình đi làm chuyện đó để lấy tiền? Gerald Fuller nói với cậu: - Loftus định giá ba đô-la một giạ lúa mì bán ra. Tất cả lại bắt đầu bàn tán, nhưng bố đứng lên trên một chiếc thùng cạnh lò sưởi, cao và ốm. Mặt bố nhăn nhúm, gò má nhô cao trên bộ râu màu hung nhưng cặp mắt xanh lơ sáng quắc. Bố nói: - Ngồi đây bàn tán thì chẳng đâu tới đâu. Tôi thấy hãy tới phân rõ phải trái với ông Loftus. Một người khác lớn tiếng: - Bây giờ còn nói năng gì! Đi tới, các bạn! Mình sẽ tự giải quyết số lúa mì đó. Bố phản đối: - Tôi nói là hãy phân phải trái với ông ta. Tôi đang nói về lẽ phải và công bằng. Một người hô: - Có lẽ anh phải đó. Nhưng tôi đang nói về cái gì để ăn và theo ý Chúa! Tôi sẽ không trở về gặp con cái tôi mà không có gì. Trong các anh có ai còn gì không? Nhiều người đồng tình hô: - Không! Không! Lúc đó Cap lên tiếng: - Wilder và tôi có điều cần nói về chuyện này. Chúng tôi đã mang lúa mì về. Chúng tôi không mang lúa về để gây xáo trộn. Gerald Fuller nói: - Đúng vậy đó. Nhìn lại coi, các bạn, mình đâu có muốn gây ra một xáo trộn nào trong thị trấn. Almanzo nói: - Tôi không thấy có ý nghĩa gì trong việc tức giận điên cuồng. Cậu còn toan nói tiếp, nhưng một người cắt ngang hỏi: - Phải, do cậu còn thừa thãi thức ăn! Cả cậu lẫn ông Fuller. Tôi không về nhà tay không… Cap cắt lời ông ta: - Nhà ông còn bao nhiêu thức ăn, ông Ingalls? Bố trả lời: - Hết nhẵn rồi. Hôm qua chúng tôi đã nghiền số lúa mì cuối cùng và ăn hết vào sáng nay. Almanzo nói: - Các ông thấy đó! Hãy để ông Ingalls lo liệu việc này. Bố đồng ý: - Được, tôi xin dẫn đầu. Tất cả các bạn hãy đi theo để thấy Loftus nói sao. Tất cả đạp trên tuyết bước thẳng hàng một đi theo bố. Khi mọi người bước vào cửa hàng thì ông Loftus lui về đứng sau quầy. Không ai nhìn thấy một hạt lúa nào. Loftus đã chuyển tất cả các bao lúa về phòng sau. Bố nói với ông ta rằng mọi người nghĩ ông định giá bán quá cao. Loftus nói: - Đây là chuyện kinh doanh. Tôi có lúa mì, phải không? Tôi đã phải trả những đồng tiền khó nhọc để có nó. Bố nói: - Chúng tôi hiểu, một đô-la hai mươi lăm xu một giạ. Ông Loftus nhắc lại: - Đây là chuyện kinh doanh của tôi. Một người kêu lên giận dữ: - Tụi tui sẽ chỉ cho ông thấy chuyện kinh doanh đó là gì! Ông Loftus trả lời: - Các ông đã đụng chạm quá nhiều đến tài sản của tôi và tôi sẽ nhờ đến luật pháp nói chuyện với các ông. Một số người bật cười một cách đe dọa. Nhưng Loftus không nhượng bộ. Ông ta đấm tay trên mặt quầy nói với họ: - Số lúa mì đó là của tôi và tôi có quyền định giá. Tôi muốn như thế. Bố đồng ý với ông ta: - Đúng vậy, Loftus, ông có quyền. Đây là xứ sở tự do và mỗi người đều có quyền làm theo ý mình đối với tài sản của mình. Bố quay về phía đám đông: - Các bạn biết điều đó là thực tế. Và bố nói tiếp: - Nhưng đừng quên mỗi người chúng ta đều tự do và độc lập, Loftus. Mùa đông này sẽ không kéo dài mãi và có lẽ ông vẫn muốn tiếp tục buôn bán khi mùa đông đã qua đi. Ông Loftus hỏi: - Ông đe dọa tôi, phải không? Bố đáp: - Chuyện đó không cần thiết. Đó là một sự thực hiển nhiên. Nếu ông có quyền làm điều ông thích thì chúng tôi cũng có quyền làm điều chúng tôi thích. Hai phía đều tiến hành được. Lúc này, ông đã làm trước chúng tôi. Đó là việc kinh doanh của ông, như ông nói. Nhưng việc kinh doanh của ông tùy thuộc vào thiện chí của chúng tôi. Lúc này có lẽ ông không nhận ra điều đó, nhưng vào mùa hè tới, ông sẽ nhận ra. Gerald Fuller nói: - Đúng thế, Loftus. Anh cần cư xử một cách hiểu biết với mọi người hoặc là anh sẽ không kéo dài được việc buôn bán, không thể buôn bán được ở vùng này. Người có giọng giận dữ nói: - Chúng tôi không tới đây để nói bá vơ. Lúa mì đâu? Ông Harthorn nói: - Đừng có điên, Loftus. Bố nói: - Tiền không ra khỏi túi ông quá một ngày. Và những cậu bé kia không tính ông một xu nhỏ tiền chuyên chở. Hãy tính một mức lời vừa phải và ông sẽ thu tiền về chỉ trong một giờ. Ông Loftus hỏi: - Ông nói mức lời vừa phải là gì? Tôi không phải cố sức mua giá hạ và có quyền bán giá cao. Đó là buôn bán tốt. Gerald Fuller nói: - Tôi không nghĩ như thế. Buôn bán tốt là đối xử biết điều với mọi người. Bố nói với Loftus: - Chúng tôi không phản đối cái giá của ông, nếu Wilder và Garland ở đây đã đòi ông phí tổn chuyên chở xứng với cái công đi mua về. Ông Loftus hỏi lại: - Được, sao lại không? Tôi vẫn sẵn sàng trả một phí khoản chuyên chở hợp lí. Cap Garland lên tuyết. Cậu không cười. Cậu nhìn bằng cái nhìn đã khiến một công nhân đường sắ phải lùi bước. - Đừng hòng mua chuộc tụi tui bằng những đồng tiền ghê tởm của ông. Wilder và tôi không liều mạng để mưu lời bằng cách lột da những người đang đói ăn. Almanzo cũng nổi nóng: - Ông hãy cố ngẩng thẳng đầu lên mà nghe. Không thể nào có đủ tiền để trả cho một chuyến đi như thế. Chúng tôi không làm việc đó cho cá nhân ông và ông không thể trả tiền công chúng tôi về việc đó. Ông Loftus nhìn từ Cap tới Almanzo rồi qua những khuôn mặt khác ở xung quanh. Tất cả đều tỏ rõ miệt thị ông ta. Ông có vẻ thấm đòn. Rồi ông ta nói: - Tôi sẽ nói rõ điều mà tôi là, các bạn. Các bạn có thể mua lúa mì với cái giá mà tôi đã mua, một đô-la hai mươi lăm xu một giạ. - Chúng tôi không phản đối việc ông thu một số lời vừa phải, Loftus. Bố nói nhưng Loftus lắc đầu: - Không, tôi bán đúng với cái giá đã mua. Sự việc bất ngờ đến mức tróng lúc, không ai biết làm thế nào. Rồi bố đề nghị: - Theo như ông đã nói thì chúng tôi gom hết lại chia tỉ lệ trên căn bản số người trong mỗi gia đình để kéo dài tới mùa xuân. Tất cả đều theo cách đó. Số lúa có vẻ đủ cho mỗi gia đình kéo dài từ tám đến mười tuần. Một vài người còn có khoai tây và một số người còn có cả bánh qui. Một số người vẫn còn đường mía. Những người đó sẽ mua ít hơn. Almanzo không mua gì. Cap Garland mua nửa giạ còn bố mua một bao hai giạ. Almanzo nhận thấy cậu đã không xốc nó lên vai như một người thường làm. - Nó đúng là một gánh nặng để mang trên tay. Almanzo tự nhủ và nhấc người lên đung đưa. Cậu đã mang nó qua phố vì trách nhiệm, nhưng một người không thích nhìn nhận rằng mình không thể mang nổi một trăm hai mươi lăm pao. Rồi Almanzo nói với Cap: - Tớ cá một điều xì-gà là sẽ đánh bại bồ trong một ván cờ. Và cả hai cùng đi tới cửa hàng tạp phẩm. Bố đang bước vào nhà khi các cậu đi ngang qua trong lớp tuyết bay theo gió. Laura nghe thấy tiếng cửa trước mở và đóng lại. Tất cả vẫn ngồi trong bóng tối và như một giấc mơ, mọi người nghe tiếng chân bố bước nặng nề dọc theo phòng trước rồi cửa bếp bật mở. Bố liệng cái khối nặng nề xuống nền nhà mạnh đến nỗi nền nhà như đau đớn nảy lên. Rồi bố đóng cửa bếp để chặn hơi lạnh ùa theo bố. Bố nói trong lúc thở khó khăn: - Mấy cậu bé đã về rồi. Đây là một phần trong số lúa mì các cậu ấy đã mang về, Caroline. Chương 30: Không Thể Đánh Bại Chúng Ta Mùa đông kéo dài tới mức ngỡ như không bao giờ dứt. Mọi người đều có vẻ như không lúc nào thức dậy. Buổi sáng, Laura ra khỏi giường bước vào cái lạnh. Cô mặc quần áo ở tầng dưới, bên đống lửa do bố nhóm trước lúc đi lo các việc ở chuồng ngựa. Sau đó tất cả ăn bánh mì nướng bột thô. Rồi suốt ngày cô cùng mẹ và Mary nghiền lúa mì và bện cỏ thật nhanh. Cần giữ lửa không tắt vì trời rất lạnh. Tất cả lại ăn mấy miếng bánh bột thô nướng. Rồi Laura lại trườn vào chiếc giường lạnh ngắt và run rẩy cho tới khi đủ ấm để ngủ. Sáng hôm sau cô lại ra khỏi giường bước vào cái lạnh. Cô thay quần áo trong gian bếp lạnh lẽo bên ngọn lửa. Cô lại ăn món bánh nướng bằng bột thô. Nhưng cô không khi nào thấy mình đang thức. Cô chỉ thấy mình đã bị đánh gục bởi bão và lạnh. Cô biết mình đang nhàm chán vào ngớ ngẩn, nhưng cô không thể thức dậy. Không còn bài để học nữa. Không còn gì trên đời ngoài hơi lạnh, bóng tối, công việc và món bánh nướng cùng với gió thổi. Bão luôn có mặt phía ngoài các bức vách, đôi lúc tạm ngưng nhưng để rồi lại lao tới lay chuyển căn nhà, hầm hè và kêu thét man dại. Rồi cô lại ra khỏi giường, vội vã xuống nhà dưới thay quần áo bên đống lửa. Tiếp theo là làm việc suốt ngày rồi lại chui vào chiếc giường lạnh ngắt và đêm chìm vào giấc ngủ khi đủ ấm. Mùa đông đã kéo quá dài. Nó giống như không dứt. Bố không còn hát những bài để khuấy động vào các buổi sáng. Vào những ngày quang đãng, bố đi kéo cỏ khô. Đôi khi một trận bão chỉ kéo dài hai ngày. Như thế là có thể có được ba ngày quang tạnh hoặc bốn ngày trước khi trận bão ập tới. Bố nói: - Mình đang khiến bão thành lỗi thời. Nó không còn nhiều thời gian nữa. Tháng ba gần qua rồi. Mình có thể vững lâu hơn nó. Mẹ nói: - Nhờ có chỗ lúa mì. Em rất biết ơn về việc đó. Cuối tháng ba tới. Tháng tư bắt đầu. Bão vẫn còn đó. Lúc này có vẻ tạm ngưng lại lâu hơn nhưng vật vã dữ hơn. Lạnh vẫn như cắt da và những ngày có bão vẫn là nghiền lúa mì, bện cỏ khô. Laura có vẻ quên hẳn mùa hè. Cô không tin là mùa hè sẽ trở lại vì tháng tư đã trôi qua. Mẹ hỏi: - Còn đủ cỏ khô không, Charles? Bố nói: - Đủ, nhờ có Laura. Nếu con không giúp bố phơi cỏ, bố sẽ không có đủ cỏ, bình rượu nhỏ! Mình chắc chắn sẽ phải thiếu cỏ từ lâu. Những ngày nắng nóng phơi cỏ đã trôi qua giống như lâu lắm. Laura mừng vì thấy bố nói về việc đó cũng có vẻ như đã qua lâu lắm. Chỉ có bão tuyết, chiếc cối xay cà phê đang nghiền, cái lạnh và ánh chiều chạng vạng đang đen đặc lại để chuyển vào đêm là thực. Laura và bố hơ những bàn tay sưng đỏ, cứng ngắt trên lò bếp. Mẹ đang cắt bánh nướng cho bữa tối. Bão gầm lớn hơn, giận dữ. Bố nói: - Không thể đánh bại chúng ta nổi! Laura hỏi một cách ngớ ngẩn: - Không thể, hả bố? Bố nói: - Không. Nó phải dứt vào một lúc nào đó và chúng ta thì không. Chúng ta sẽ không đầu hàng. Thế là Laura cảm thấy một làn hơi ấm trong người. Nó rất nhỏ, nhưng rất mạnh. Nó vững chắc như một ánh sáng nhỏ giữa bóng đêm cháy âm ỉ nhưng không cơn gió nào có thể dập tắt nổi và nó không đầu hàng. Tất cả ăn bánh nướng và đi qua bóng tối lên căn gác lạnh đi ngủ. Run rẩy trong chiếc giường lạnh ngắt, Laura và Mary lặng lẽ đọc lời cầu nguyện và hơi ấm dần dần tăng lên. Một lúc trong đêm, Laura không nghe thấy tiếng gió. Gió vẫn thổi dữ dội nhưng không còn giọng gào hú, gầm thét. Và trong gió còn có một âm thanh nào khác, cực nhỏ, không rõ rệt, âm thanh của chất lỏng mà cô không hiểu là gì. Cô ráng sức nghe, tháo nút gài lỗ tai và cảm thấy cái lạnh không tê buốt trên má. Bóng tối có vẻ ấm hơn. Cô đưa bàn tay ra ngoài và chỉ cảm thấy hơi se lạnh. Tiếng động nhỏ mà cô nghe thấy là một chuỗi những giọt nước. Các mái hiên đang nhỏ giọt. Lúc đó, cô bật hiểu. Cô vùng ra khỏi giường, gọi lớn: - Bố! Bố! Gió nam đang thổi! Bố trả lời từ một phòng khác: - Bố nghe thấy rồi, Laura! Mùa xuân đã tới rồi. Về giường ngủ đi. Gió nam đang thổi. Mùa xuân đã tới. Bão tuyết đã đầu hàng và bị đẩy lui về phía bắc. Sung sướng tột cùng, Laura nằm xoải trên giường. Đặt cả hai cánh tay lên trên đống mền và không thấy lạnh. Cô lắng nghe tiếng gió đang thổi, tiếng nước nhỏ giọt ở các hàng hiên và cô biết trong căn phòng khác, bố cũng đang nằm thức, nghe ngóng và vui mừng. Gió nam, gió mùa xuân, đang thổi. Mùa đông đã tàn. Buổi sáng gần như không còn thấy tuyết. Sương giá cũng tan chảy trên các ô cửa sổ và ngoài trời không khí nhẹ nhàng ấm áp. Bố đang huýt gió khi trở về chuồng ngựa. Bố nói một cách vui vẻ: - Tốt rồi, các con. Cuối cùng thì chúng ta đã đánh bại lão già mùa đông. Mùa xuân đã tới và không có ai bị lạc, bị chết đói hoặc chết cóng. Dù sao cũng không có nhiều người bị cóng. Và bố cảm thấy cái mũi của mình đã mềm lại. - Bố tin là nó đã dài hơn. Bố làm bộ lo ngại nói với Grace và mắt bố lấp lánh. Bố nhìn vào trong gương: - Nó dài hơn và đỏ nữa. Mẹ nhắc bố: - Đừng bận tâm về hình dáng nữa, Charles. Cái nết đánh chết cái đẹp. Tới ăn bữa sáng đi thôi. Mẹ mỉm cười và bố vuốt nhẹ dưới cằm mẹ khi bố tới bàn ăn. Grace chạy ào tới chiếc ghế của bé, leo lên và cười. Mary đẩy chiếc ghế lui ra xa lò bếp. Cô nói: - Ở gần lửa thì thực sự là quá ấm. Carrie khó thể rời xa ô cửa sổ. Cô giải thích: - Con thích ngắm nước chảy. Laura không nói gì dù cô rất sung sướng. Cô khó tin nổi là mùa đông đã hết, mùa xuân đã về. Khi bố hỏi tại sao cô im lặng như thế, cô trả lời một cách bình thản: - Con đã nói suốt đêm. Bố cũng trêu cô: - Bố cũng nói như thế. Mình thức dậy do giấc ngủ nhắc mình là gió đang thổi. Tựa hồ gió không thổi trong nhiều tháng! Laura nhắc bố: - Con nói về gió nam mà. Gió nam sẽ đổi khác mọi thứ. Chương 31: Chờ Đợi Xe Lửa Bố nói: - Mình phải đợi xe lửa. Mình không thể về trại trước khi xe lửa tới. Giấy chống thấm được bố đóng rất chắc trên mái lều đã bị gió và bão thổi tung lên và xé rách tả tơi khiến tuyết lọt vào từ mọi phía. Lúc này những trận mưa xuân lại xối qua các khe hở. Căn lều cần được sửa chữa và bố không thể làm được trước khi xe lửa tới, vì không có giấy chống thấm ở xưởng gỗ. Tuyết để biến mất trên đồng cỏ. Thay thế cho tuyết là một lớp cỏ mới xanh mướt. Nước từ những đống tuyết dày tan chảy dồn xuống lấp lánh khắp các đồng cỏ. Đầm Big Sluogh trải dài tới một phần hồ nước Bạc và bố phải bọc nhiều dặm đường về phía nam để tới trại. Một bữa, ông Boast đi bộ vào thị trấn. Ông giải thích là ông không thể lái xe vì còn nhiều đoạn đường ngập nước. Ông ấy đã đi trên một đoạn đường sắt dài băng ngang đầm cỏ. Ông ấy cho hay là bà Boast vẫn bình thường. Bà ấy không thể đi cùng vì đầm cỏ biến thành hồ nước ở khắp nơi. Chính ông ấy cũng không biết là đi theo đường sắt thì có thể đến thị trấn không. Ông ấy hứa là vào một ngày rất gần sẽ đưa bà Boast cùng tới. Một buổi chiều, Mary Power tới và cùng Laura đưa Mary đi dạo trên đồng cỏ phía tây thị trấn. Đã khá lâu Laura không gặp lại Mary Power nên cả hai đều lạ lẫm và phải bắt đầu làm quen trở lại. Khắp trên đồng cỏ xanh, những đầm cỏ giống như một mạng lưới bằng nước phản chiếu lung linh màu trời xanh ấm. Ngỗng trời và vịt trời bay thật cao trên đỉnh đầu với những tiếng gọi nhau vọng xuống văng vẳng. Không có một con nào đáp xuống hồ nước Bạc. Chúng hối hả vì đã chậm trễ để trở về gầy tổ ở phương bắc. Những trận mưa xuân nhẹ nhàng rơi xuống suốt ngày từ bầu trời xám không có gì tai hại khiến những vùng đồng cỏ lấp lánh cứ dâng cao và mở rộng thêm. Có những ngày nắng chen vào rồi mưa lại đến. Kho chứa thực phẩm khóa kín và trống trơn. Anh em nhà Wilder đã kéo lúa giống quanh khu đầm phía bắc thị trấn để tới trại của họ. Bố nói họ đang gieo hạt trên những cánh đồng rộng. Và, xe lửa vẫn chưa tới. Ngày nối ngày, Laura, Mary và Carrie vẫn luân phiên trong việc nghiền chiếc cối xay cà phê. Sáng, chiều hai bữa, các cô vẫn phải ăn bánh nướng làm bằng bột thô. Lúa mì trong bao cạn dần và xe lửa vẫn chưa tới. Bão đã dồn đất từ những cánh đồng được cày phá hòa với tuyết thổi và chất đống cứng ngắt ở các đoạn đường sắt khiến các máy xúc tuyết không thể dời đi nổi. Tuyết đóng băng không tan chảy vì trộn lẫn với đất nên phải dùng cuốc đào lên từng phân đoạn một. Công việc không thể tiến hành nhanh vì có quá nhiều đoạn đường bị cắt lớn phải đào sâu tới hai mươi bộ mới lộ đường sắt ra. Tháng tư từ trôi qua. Thị trấn không còn thức ăn ngoại trừ số lúa mì ít ỏi sáu mươi giạ mà Wilder và Cap đã mang về trong tuần lễ cuối tháng hai. Mỗi ngày, mẹ làm ổ bánh nhỏ hơn và xe lửa không đến. Mẹ hỏi: - Có kéo đi được thứ gì không, Charles? Bố đáp: - Bọn anh đã bàn kĩ chuyện này, Caroline. Không ai thấy nên làm ra sao. Bố đã mệt mỏi suốt mấy ngày với cây cuốc. Hết thảy đàn ông trong thị trấn đều đi đào đất ở khúc đường nghẽn đưa về miền tây để xe sửa chữa có thể tới Huron trước khi chuyến xe chở hàng chạy tới. Bố nói: - Không có cách gì để đưa nổi một đầu xe tới miền đông. Tất cả các con đường đều ngập nước, đồng cỏ biến thành hồ khắp nơi và ngay trên đất cao, một cỗ xe cũng bị sa lầy trong bùn. Với những tệ hại dồn dập đây đó, chỉ còn một cách là đi bộ theo đường sắt nhưng từ đây tới Brookings và quay lại xa tới một trăm dặm. Một người không thể mang được nhiều và còn phải ăn vào đó trong thời gian di chuyển. Mẹ nói: - Em đã nghĩ tới rau xanh. Nhưng em không thể tìm nổi thứ hạt giống nào để trồng trong khu sân khá lớn còn bỏ trống. Carrie hỏi: - Mình ăn cỏ được sao? Bố cười: - Không đâu, cô tiên ngớ ngẩn! Con sẽ không phải ăn cỏ. Thợ sửa đường ở Tracy đã vượt được hơn nửa đường rồi. Họ phải thông xe tới đây nội trong tuần này. Mẹ nói: - Mình có thể kéo dài số lúa mì tới lúc đó. Nhưng em mong là anh không nên làm việc quá vất vả như thế, Charles! Hai bàn tay bố đang run run. Bố đã quá mệt suốt ngày với cây cuốc và cây xẻng. Nhưng bố nói là bố chỉ cần ngủ ngon một đêm là xong. Bố nói: - Điều chủ yếu là phải thông đường xe. Vào ngày cuối cùng của tháng tư, xe sửa chữa chạy qua để tới Huron. Toàn thị trấn như choàng tỉnh khi lại nghe thấy tiếng còi xe lửa và nhìn thấy những cột khói trên nền trời. Phì phò phụt khói và rung chuông, cỗ xe dừng lại tại nhà ga rồi kéo còi inh ỏi, ra đi. Đây chỉ là một chuyến xe đi ngang, không mang thứ gì tới, nhưng một chuyến xe hàng hóa sẽ tới vào ngày mai. Buổi sáng, khi thức dậy Laura nghĩ: - Xe lửa sắp tới! Nắng chiếu chói chang. Cô đã ngủ quá giấc vì mẹ không gọi. Cô nhảy xuống giường và vội vã thay quần áo. Mary nài nỉ: - Chờ chị, Laura! Em vội vã như thế chị không tìm nổi vớ đâu. Laura tìm giúp. - Đây rồi. Em đã hất ra xa lúc em nhảy xuống giường. Bây giờ nhanh lên! Dậy đi Grace! Carrie hỏi không kịp thở: - Khi nào xe lửa tới đây? - Một lúc nào đó. Đâu có ai biết khi nào. Laura trả lời và chạy xuống cầu thang vừa cất tiếng hát: - Nếu mẹ thức hãy kêu con dậy Kêu con dậy ngay, hỡi mẹ thân yêu! Bố đã ngồi trên bàn ăn. Bố nhìn lên và cười với cô: - Tốt, nhà kho vỗ cánh! Con là bà hoàng tháng năm, đúng không? Bữa ăn sáng quá trễ rồi! Laura xin lỗi: - Tại mẹ không kêu con. Mẹ nói: - Mẹ không cần phụ giúp để nấu một chút đồ ăn sáng. Mỗi người chỉ có một chiếc bánh qui nhỏ xíu. Mẹ vét hết số lúa mì cuối cùng cũng chỉ làm được có thế. Laura nói: - Con không cần tới một chiếc. Mẹ có thể chỉ cho con chỗ còn lại. Con không thấy đói cho tới khi xe lửa tới. Bố bảo cô phải ăn hết phần của mình. Rồi tất cả chúng ta đều chờ xe lửa tới mang nhiều hơn. Cả nhà đều vui vẻ với những chiếc bánh qui. Mẹ nói bố cần ăn chiếc lớn nhất. Khi đồng ý với điều đó, bố nói mẹ phải nhận chiếc lớn thứ nhì. Dĩ nhiên tiếp theo là Mary. Chỉ có một chút phần về Laura và Carrie còn hai chiếc bánh gần giống nhau. Và chiếc bánh nhỏ nhất là của Grace. Mẹ xác định: - Em vẫn nghĩ là em làm các chiếc bánh cùng một cỡ. Bố giỡn: - Hãy tin ở sự sắp đặt của một phụ nữ Tô Cách Lan. Thậm chí chỉ còn một ít bột để làm bữa ăn cuối cùng trước khi xe lửa đến mà các con vẫn có những chiếc bánh thích hợp với mình. Mẹ nhìn nhận: - Thật là kì lạ là có sự phân phối đồng đều như thế. Bố mỉm cười với mẹ: - Em là con người kì diệu mà, Caroline. Bố đứng dậy, đội mũ. Bố tuyên bố: - Anh cảm thấy thật tốt. Lúc này chúng ta đã thật sự đánh bại mùa đông! Cơn bão cuối cùng đã bị quăng ra khỏi những đoạn đường bị nghẽn và xe lửa đang tới! Mẹ để cửa ngỏ vào sáng hôm đó cho không khí mùa xuân đượm hơi nước từ các đầm cỏ ùa vào. Dưới ánh mặt trời, căn nhà mát mẻ và đầy hương cỏ còn thị trấn xôn xao nhộn nhịp với những toán đàn ông đi tới nhà ga. Lảnh lót kéo dài trên đồng cỏ, tiếng còi xe lửa vang lên. Laura và Crarrie chạy tới cửa sổ nhà bếp. Mẹ và Grace cũng bước tới. Tất cả đều nhìn cột khói cuốn lên đen ngòm trên nền trời. Rồi phì phò và náo nhiệt, cỗ đầu máy ké theo một đoàn toa chở hàng tiến vào nhà ga. Một nhóm người đứng sẵn trên sân ga ngắm cỗ đầu máy chạy ngang. Làn hơi nước trắng phụt ra dâng theo cột khói và tiếng còi lảnh lót vang lên sau từng tiếng xịt. Một nhân viên chạy dọc trên mui xe từ toa này sang toa khác để hãm thắng. Đoàn xe ngừng lại. Cuối cùng thì đích thực đã có một chuyến xe lửa. Mẹ nói: - Ôi, mẹ mong rằng hai ông Harthorn và Wilmath sẽ nhận được đủ mọi món hàng đã mua vào mùa thu vừa qua. Một hồi sau, cỗ máy lại kéo còi và người phụ trách thắng xe lại chạy dọc các nóc mui xe để nhả thắng. Tiếng chuông leng keng, cỗ đầu máy nhích tới, rồi lui lại, rồi lại nhích tới và lao về miền tây kéo dài vệt khói trong hồi cói cuối cùng. Nó bỏ lại phía sau ba toa hàng hóa đang đậu trên đường sắt bên cạnh. Mẹ hít một hơi thở thật sâu: - Thật tốt là lại có đủ mọi thứ để nấu nướng. Laura lên tiếng: - Con hi vọng là không còn khi nào nhìn thấy một mẩu bánh mì nướng. Grace hỏi dồn: - Chừng nào bố về? Con muốn bố về! Con muốn bố về ngay! - Grace! Mẹ quở trách dịu giọng nhưng dứt khoát và Mary ôm Grace vào lòng trong lúc mẹ thêm: - Tới đây các con! Mình phải lo phơi giường cho xong. Gần một giờ đồng hồ trôi qua trước khi bố về. Cuối cùng, ngay cả mẹ cũng lạ lùng không biết có điều gì kềm chân bố. Tất cả đều chờ đợi một cách nôn nóng. Bố trở về ôm trong tay một túi lớn và hai túi nhỏ hơn. Bố đặt hết lên bàn ăn trước khi nói. Bố nói: - Mình quên đã có một chuyến xe lửa bị tuyết vùi suốt mùa đông. Nó chỉ chạy ngang qua và có ai đoán nổi nó đã để lại gì cho De Smet không? Bố tự trả lời ngay cho câu hỏi của mình: - Một toa chở cột điện thoại, một toa chở máy móc làm trại và một toa chở đồ cho dân di cư. Mẹ gần như phát khóc: - Không có thực phẩm? Bố nói: - Không! Không có gì hết. Mẹ sờ vào chiếc túi lớn: - Vậy cái gì đây? Bố nói: - Đó là khoai tây. Chiếc túi nhỏ đựng bột còn chiếc túi nhỏ nhất đựng thịt heo muối. Woodworth mở đại toa chở đồ di cư và chia những thứ gì có thể ăn được mà ông ấy tìm thấy. Mẹ nói trong vẻ choáng váng: - Charles! Ông ấy không nên làm điều đó. Bố nói một cách man rợ: - Anh chẳng quan tâm đến việc ông ấy nên làm gì. Cứ mặc cho đường sắt phải bồi thường. Không phải chỉ có một gia đình ở thị trấn này không còn gì ăn. Tụi anh đã bảo Woodworth mở đại toa xe ra hoặc là chính tụi anh sẽ tự làm. Ông ấy có cãi rằng sẽ có một chuyến vào ngày mai, nhưng tụi anh không thích chờ đợi. Bây giờ, nếu em nấu khoai tây và chiên một ít thịt thì mình đã có một bữa ăn trưa. Mẹ bắt đầu mở những chiếc gói. Mẹ nói: - Cho thêm cỏ khô vào cho lò bếp nóng lên, Carrie. Mẹ sẽ trộn một ít bột trắng để làm bánh. Chương 32: Thùng Quà Giáng Sinh Hôm sau, chuyến xe lửa thứ hai tới. Sau khi một hồi còi khởi hành tắt hẳn, bố và ông Boast khiêng một chiếc thùng ào về. Cả hai lật úp thùng trước cửa và chuyển vào dựng đứng giữa phòng trước. Bố gọi mẹ: - Thùng quà Giáng sinh đây! Bố mang búa ra bắt đầu nạy đinh trên nắp thùng, trong khi tất cả đứng xung quanh chờ coi bên trong có gì. Bố nhấc nắp thùng ra. Rồi bố lột lớp giấy dầy màu nâu phủ trên các thứ. Trên hết là quần áo. Bố lôi ra một bộ váy áo bằng flanen màu xanh sẫm tuyệt đẹp với chiếc váy xếp nếp hoàn hảo và vạt trước có một hàng nút tiện bằng thép. Bố cười rạng rỡ: - Bộ đồ này đúng cỡ với em, Caroline. Này, cầm đi! Bố lại bước tới chiếc thùng. Bố lấy ra một bộ đồ bằng tơ màu xanh nhạt xốp nhẹ cho Mary cùng với bộ đồ lót ấm bằng flanen. Bố lấy ra một đôi giầy da màu đen vừa khít với Laura. Bố lấy ra thêm năm đôi vớ dài bằng len trắng được dệt bằng máy. Tất cả đều đẹp hơn, mỏng hơn những đôi vớ đan tay ở nhà. Rồi bố lôi ra một chiếc áo ấm màu nâu hơi rộng một chút so với Carrie, nhưng vào mùa đông tới sẽ vừa in. Và bố lấy ra một chiếc mũ trùm đầu màu đỏ và những chiếc bao tay đi kèm với chiếc áo khoác. Tiếp theo là một chiếc khăn quàng bằng lụa. Laura nói: - Ôi, Mary! Đúng là món đồ tuyệt nhất, một chiếc khăn san bằng lụa! Màu nó được kết hợp thật lạ với những sọc xanh lá cây hồng, đen và một đường viền suốt kết hợp với tất cả các màu kia sáng lấp lánh. Sờ nó coi mềm và đẹp như thế nào! Và cô đặt một góc khăn san lên bàn tay Mary. Mary thở ra: - Ôi, dễ thương quá! - Ai sẽ giữ chiếc khăn choàng này? Bố hỏi và tất cả đều nói: - Mẹ! Một chiếc khăn san đẹp cỡ đó dĩ nhiên phải dành cho mẹ. Bố đặt chiếc khăn lên cánh tay mẹ và chiếc khăn cũng giống như mẹ, mềm mại và chắc chắn, nổi bật với những màu sắc sáng rỡ tuyệt hảo. Mẹ nói: - Mình sẽ luân phiên choàng chiếc khăn và Mary sẽ giữ nó vào lúc được tới trường. Laura hỏi bố: - Còn có gì cho bố, không bố? Cho bố là hai chiếc sơ-mi trắng và một chiếc mũ nhung nâu sậm. Bố nói: - Chưa hết đâu. Và, bố nhấc ra khỏi thùng hai bộ áo váy hỏ. Một bộ bằng flanen xanh và một bộ sọc đỏ xanh lá cây. Cả hai bộ đều quá nhỏ so với Carrie những quá lớn đối với Grace, nhưng Grace còn lớn lên. Sau đó còn một cuốn sách vỡ lòng bọc vải và một cuốn sách về ngỗng mẹ, nhỏ sáng bóng với chiếc bìa giấy mềm có in hình màu ở trên. Lại có một chiếc hộp dán hồ đựng đầy chỉ sợi màu sáng và một chiếc hộp khác đầy các mảnh lụa thêu cùng những miếng các-tông mỏng có châm lỗ màu bạc và màu vàng. Mẹ đưa cả hai chiếc hộp cho Laura, nói: - Con cất hết những món đồ xinh đẹp mà con đã làm đi. Bây giờ đã có sẵn ở đây nhiều thứ dễ thương cho con làm. Laura sung sướng đến nỗi không nói lên tiếng được. Những mảnh lụa mềm mại cọ trên các ngón tay thô ráp của cô đầy vết sẹo do cỏ khô cứa, nhưng những màu sắc tuyệt đẹp như đang cùng nhau lại tiếng hát và những ngón tay của cô lại mềm mại đến nỗi cô có thể thêu trên những miếng các tông màu bạc, màu vàng. - Bây giờ, còn có gì trong này? Bố nói khi nhấc từ đáy thùng ra một món đồ cồng kềnh, lỏn nhỏn bọc trong một lớp giấy bao dầy màu nâu. Bố kêu lên: - Quỷ thần ơi! Còn là gì được, nếu không phải là con gà tây Giáng sinh vẫn còn đông cứng! Bố đưa con gà tây lên cho tất cả đều nhìn thấy. - Mập quá! Phải nặng tới mười lăm pao. Và khi bố làm rớt đống giấy màu nâu xuống thì một tiếng thình vang trên nền sàn và lăn ra khắp phía những trái quất. Bố nói: - Đây lại là một gói quất đi kèm với món gà tây. Carrie hét lên vì thích thú. Mary đập hai bàn tay vào nhau, nói: - Ô, trời đất! Nhưng mẹ hỏi: - Thực phẩm đã về các cửa hàng chưa, Charles? Bố trả lời: - Rồi, bột, đường, thịt và trái cây khô… Ô, có đủ mọi thứ cần dùng. Mẹ nói: - Tốt rồi, anh Boast, ngày mốt anh đưa chị Boast tới đây. Ráng đến thật sớm. Mình sẽ đón mừng mùa xuân bằng một bữa ăn trưa Giáng sinh. Bố kêu lớn: - Êm hết rồi! Ông Boast ngửa đầu ra phía sau và căn phòng đầy ắp tiếng cười rổn rảng. Tất cả mọi người đều cười theo vì không thể nín cười khi ông Boast cười. Ông Boast thích thú: - Tụi tôi sẽ tới! Đánh cá là tụi tôi tới! Bữa ăn trưa Giáng sinh trong tháng năm! Thật là vĩ đại được dự tiệc mừng sau cái mùa đông chết tiệt gần phải nhịn đói kia! Tôi phải mau chạy về nhà cho Ellie hay. 33. GIÁNG SINH TRONG NĂM Chiều hôm đó bố đi mua thực phẩm. Thật kì diệu khi nhìn thấy bố về nhà với cả ôm những gói đồ và thật kì diệu lại được thấy những bao bột trắng, những bịch đường, táo khô, bánh qui lát và phô-mai. Dầu lửa đã đầy trở lại. Laura vô cùng sung sướng được đổ đầy dầu vào cây đèn, lau sạch bóng đèn và cắt tỉa bấc đèn. Vào giờ ăn tối, ánh đèn dọi của bóng thủy tinh chiếu xuống chiếc khăn bàn ca-rô màu đỏ và những chiếc bánh qui bằng bột trắng. Món khoai tây đã hâm nóng và đĩa thịt heo ướp muối chiên. Bữa tối đó, mẹ cho ăn bánh xốp bằng bột nổi và bánh nhồi thịt tẩm nước sốt táo khô. Sáng hôm sau, Laura không chờ mẹ đánh thức. Cô dậy từ sớm và suốt ngày giúp mẹ nướng bánh, chiên hầm các món ăn cho bữa ăn Giáng sinh vào ngày hôm sau. Sớm bữa đó, mẹ thêm nước và bột cho món bánh xốp để nó nở ra. Laura và Carrie chọn quất đem rửa sạch. Mẹ ngào quất với đường cho tới khi trở thành một khối lỏng màu đỏ tươi. Hai cô còn cẩn thận tỉa nho khô khỏi cọng và nặn hết hạt. Mẹ nhào táo khô với nho để làm bánh nhồi. Mẹ nói: - Thật lạ là lại có đủ mọi thứ cần để nấu nướng. Bây giờ có đủ kem và các thứ để mẹ sẽ làm bánh ngọt. Suốt ngày nhà bếp thơm lừng và đêm đến, chiếc tủ thức ăn đã chứa những ổ bánh lớn nâu giòn bằng bột mì trắng, một ổ bánh ngọt xối đường, ba ổ bánh nhào và món mứt quất. Mary nói: - Chị mong là được ăn ngay bây giờ. Giống như chị khó đợi nổi đến sáng mai. Laura nói: - Em đợi ăn món gà tây trước đã. Chị có thể nhồi lá xô thơm cho món này, Mary. Cô nói có vẻ độ lượng nhưng Mary cười chế giễu: - Chỉ tại lúc này không có một cọng hành nào cho em dùng cả… Mẹ nói: - Nào, hãy ráng kiên nhẫn, các con. Bữa tối của mình sẽ có một ổ bánh xốp cùng với một ít nước xốt trái quất. Thế là bữa tiệc Giáng sinh đã bắt đầu từ đêm trước. Có vẻ hại nếu bỏ phí thời gian sung sướng và giấc ngủ. Tuy nhiên, ngủ là cách đi tới sáng hôm sau mau nhất. Không có bao nhiêu thời gian khi Laura nhắm mắt cho tới lúc mẹ gọi cô dậy và ngày mai đã là hôm nay. Mọi thứ đều hết sức vội vã! Bữa sáng qua nhanh rồi trong lúc Laura và Carrie dọn dẹp bàn ăn, rửa chén đĩa thì mẹ lo làm món gà tây và pha trộn với bánh nhồi. Sáng tháng năm ấm áp và gió từ đồng cỏ đầy hương vị mùa xuân. Các cửa ra vào đều mở rộng và cả hai căn phòng đều được sử dụng. Ra vào căn phòng trước thênh thang bất cứ lúc nào muốn khiến Laura cảm thấy thoáng đãng, thảnh thơi như chưa tùng có bao giờ. Mẹ đưa mấy chiếc ghế đu ra gần cửa sổ phòng trước để dọn đường vào nhà bếp. Lúc này, con gà tây đã ở trong lò hấp và Mary giúp Laura kê bàn ăn ra giữa phòng trước. Mary kéo ráp mặt bàn lại và Laura trao cho cô một tấm khăn trải màu trắng để phủ lên. Rồi Laura bưng đĩa chén từ tủ chén tới cho Mary bày quanh bàn ăn. Carrie đang gọt vỏ khoai tây còn Grace chạy đua một mình dọc hai căn phòng. Mẹ bưng chiếc tô thủy tinh đầy mứt tới. Mẹ đặt vào giữa chiếc khăn bàn màu trắng và tất cả đều đứng ngắm. Mẹ nói: - Dù sao mình vẫn còn một chút bơ ăn kèm với bánh xốp. Bố nói: - Đừng nghĩ ngợi gì, Caroline. Lúc này đã có giấy chống thấm ở xưởng mộc. Anh sẽ sửa lại trại thật mau để mình dời về đó trong vài ngày tới. Món ngỗng quay tỏa mùi thơm đầy nhà khiến ai nấy đều chảy nước miếng. Khoai tây đang sôi và mẹ đặt cà phê lên khi ông bà Boast bước vào. Ông Boast tuyên bố: - Suốt dặm đường cuối cùng, mũi tôi cứ hướng về món gà tây! Bà Boast quở chồng: - Em nghĩ nhiều tới chuyện gặp bạn bè hơn là bất kì món ăn nào, Robert. Bà hơi gầy và màu hồng dễ thương trên gò má không còn nữa, nhưng bà vẫn đúng là bà Boast duyên dáng với cùng đôi mắt xanh lơ tươi tắn và cùng mái tóc sậm màu uốn cong dưới cùng chiếc mũ trùm màu nâu. Bà ấy thân mật bắt tay mẹ, Mary, Laura rồi cúi xuống kéo Carrie và Grace vào trong vòng tay để hỏi han các cô bé. Mẹ mời: - Vào phòng, cởi bớt đồ ra, chị Boast. Quá lâu mới được thấy lại chị thật mừng. Bây giờ chị ngồi nghỉ trên ghế đu, nói chuyện với Laura trong lúc tôi lo bữa ăn. Bà Boast đề nghị: - Cho tôi phụ giúp chị. Nhưng mẹ nói bà ấy đã quá mệt sau một cuộc đi bộ dài và mọi thứ đều sắp xếp xong rồi. - Laura và tôi sẽ bày bàn xong ngay bây giờ. Mẹ nói trong lúc bước nhanh vào trong nhà bếp. Trong lúc vội vã, mẹ đâm sầm vào bố. Bố nói: - Tốt hơn là mình nên tránh xa mọi người, Boast. Tới đây, tôi sẽ cho anh coi tờ Pioneer Press mới nhận sáng nay. Ông Boast đồng ý một cách háo hức: - Lại được coi báo thì thật tốt. Thế là nhà bếp lại được dành cho việc nấu nướng. Mẹ nói khi nhấc chiếc chão hứng mỡ nặng chĩu ra khỏi lò hấp: - Lấy chiếc đĩa lớn đặt con gà tây lên. Laura quay lại tủ chén và thấy trên đó có một gói đồ không hề có trước đó. Cô hỏi: - Gì đây, mẹ? - Mẹ không biết. Coi lại xem. Mẹ nói và cô mở gói giấy. Trên chiếc đĩa nhỏ là một tảng bơ. Cô gần như hét lên: - Bơ! Đó là bơ! Cả hai nghe thấy bà Boast cười. Bà ấy lên tiếng: - Đó chỉ là một món quà Giáng sinh nhỏ nhoi thôi. Bố, Mary, Carrie đều kêu lên thích thú còn Grace la ré thật dài khi Laura mang bơ tới bàn ăn. Rồi cô hối hả quay lại đặt chiếc đĩa lớn thật cẩn thận dưới con gà tây trong lúc mẹ nhấc nó ra khỏi chảo mỡ. Trong lúc mẹ làm nước sốt, Laura nghiền khoai tây. Không có sữa nhưng mẹ nói: - Để cho nước sôi thêm một chút, sau đó nghiền kĩ rồi đập thêm thật mạnh bằng chiếc muỗng lớn. Khoai tây đổi thành trắng và xốp tơi ra dù không có hương vị đậm đà của sữa nóng và bơ. Khi tất cả chiếc ghế đã được kéo lại quanh bàn ăn, mẹ nhìn bố và mọi người đều cúi đầu. - Lạy Chúa, chúng con cảm ơn Ngài về tất cả những gì có được do sự ban ơn của Ngài. Bố chỉ nói có thế nhưng có vẻ như đã nói hết mọi điều. Khi tiếp thức ăn vào đĩa của ông Boast, bố nói: - Bàn ăn có thể khác phần nào với mấy ngày trước đây. Và khi các đĩa đã được tiếp đầy, bố nói thêm: - Đã qua một mùa đông thăm thẳm. Ông Boast nói: - Một mùa đông ác nghiệt. Bà Boast nói: - Thật kì diệu là mình đã đứng vững tất cả và vượt qua nổi nó. Trong lúc ông bà Boast kể lại đã làm việc thế nào, xoay sở ra sao để qua nổi mùa đông dài đó trong cái cảnh trơ trọi dưới một mái lều trại giữa bão táp bủa vây, mẹ rót cà phê và rót trà cho bố. Mẹ chuyển bánh, bơ, nước sốt và nhắc bố tiếp thêm vào các đĩa ăn. Khi tất cả các đĩa ăn đã trống trơn sau đợt tiếp thứ hai, mẹ lại đổ đầy các ly và Laura mang bánh bột nhồi và bánh ngọt tới. Họ ngồi một hồi lâu bên bàn ăn nói về mùa đông đã qua và mùa hè đang tới. Mẹ nói đang nôn nóng mong được về nhà trại. Lúc này các con đường đều ướt át lầy lội khó di chuyển, nhưng bố và ông Boast đều cho rằng đường sẽ khô rất mau. Vợ chồng ông Boast đều mừng đã trú đông ngay trong trại của họ nên lúc này không cần di chuyển. Cuối cùng tất cả rời bàn ăn, Laura mang chiếc khăn phủ viền đỏ ra và Carrie giúp cô kéo che vừa vặn kín các món ăn và những chiếc đĩa trống trơn. Rồi, tất cả ngồi quây lại bên ô cửa sổ đầy nắng. Bố vươn hai cánh tay lên khỏi đầu. Bố mở rồi nắm các bàn tay, duỗi các ngón tay thọc qua mái tóc để dựng cho các sợi tóc đứng lên. Bố nói: - Thời tiết ấm áp này có lẽ không còn khiến các ngón tay tê cứng nữa. Laura, thử mang đàn ra coi bố sẽ làm được gì. Laura mang hộp đàn ra và đứng bên cạnh trong lúc bố nhấc cây đàn ra nghe. Rồi bố chuốt cây vĩ cầm và kéo qua các sợi dây. Một vài nốt nhạc trong trẻo khẽ rung lên. Cục bướu trong họng gần như khiến Laura nghẹt thở. Bố đàn một vài nhịp rồi nói: - Đây là một bài ca mà tôi học được vào mùa thu vừa rồi, lúc đi thông đường xe lửa ở Volga, Boast, anh hãy ngân giọng nam cao theo đàn trong lúc tôi hát qua lần đầu. Rồi tôi hát thêm vài lần cho tất cả thuộc lời ca. Tất cả ngồi quây quanh bố lắng nghe trong khi bố đàn lại các nhịp mở đầu. Rồi giọng nam cao của ông Boast bắt đầu theo tiếng đàn và giọng ca của bố. Cuộc sống này là một câu đố khó Cho nhiều người có mặt khắp nơi Mặt dài ra như cây đàn bỏ xó Thay vì luôn rạng rỡ tươi cười Trên mặt đất vốn tràn đầy nhựa sống Của thơm ngon đâu có thiếu bao giờ Phần sẵn chia không phân già hay trẻ Dù nhỏ nhoi cũng vẫn đủ no Lợi ích gì khi buông lời than vãn Nuôi chí bền đường sẽ rộng thênh thang Dù hôm nay mây mù giăng khắp lối Chắc chắn ngày mai nắng rực rỡ vàng. Nghĩ lại coi ngồi thở dài não ruột Có khi nào đạt nổi những ước mong? Kẻ hèn nhát mới thở than khóc lóc Và kêu ca:”Tôi khốn khổ vô cùng! Gắng sức cày sâu và coi thường gian khó Bàn tay ta xây dựng cuộc đời ta Bằng ý chí ta làm nên tất cả Tháng ngày dai mãi mãi cất tiếng ca. Lúc này tất cả cùng đồng ca và khi trở lại hát bè thì bà Boast cất giọng nữ cao hòa với giọng nữ cao của mẹ, giọng nữ cao ngọt ngào của Mary nối theo giọng nam cao của ông Boast, giọng nam trầm của bố rồi đến giọng nữ cao của Laura: Lợi ích gì khi buông lời than vãn Nuôi chí bền đường sẽ rộng thênh thang Dù hôm nay mây mù giăng khắp lối Chắc chắn ngày mai nắng rực rỡ vàng. Khi tất cả hát, nỗi sợ hãi cùng với những cơ cực của mùa đông thăm thẳm dường như đã bay lên tựa một đám mây đen trôi tan theo tiếng nhạc. Mùa xuân đã đến. Nắng vàng đang sưởi ấm với những đợt gió nhẹ nhàng lướt trên mặt cỏ xanh non./. Tập 7: Thị Trấn Nhỏ Trên Thảo Nguyên Chương 1: Chuyện Bất Ngờ Tiếng vo vo rộn rã của cỗ máy cắt cỏ vang lên từ vũng trâu đằm cũ ở phía nam căn lều, nơi bố đang cắt đám cỏ cao dầy đặc để phơi khô. Trời cao và như chao động theo làn hơi nóng phủ trên đồng cỏ lung linh. Mặt trời đã ngả về tây nhưng nắng vẫn hừng hực như giữa buổi trưa. Gió thổi tựa hồ đang quật lửa tới. Nhưng bố còn phải tiếp tục cắt cỏ nhiều giờ nữa trước khi ngưng lại vì trời tối. Laura lôi chiếc bình đầy nước lên khỏi chiếc giếng ở bên bờ đầm Big Slough. Cô súc rửa chiếc bình cho tới khi nó mát lạnh. Rồi cô vục đầy nước, đóng nắp thật chặt, xách ra đồng. Từng bầy bướm trắng nhỏ chập chờn trên đường đi. Một con chuồn chuồn với những chiếc cánh mỏng vun vút phóng theo một con muỗi độc. Trên những đám gốc cỏ lởm chởm, lũ sóc đất sọc vằn đang nhảy nhót toán loạn. Thình lình chúng bỗng lao chạy và chui hết vào hang. Đúng lúc, Laura nhận thấy có một chiếc bóng lướt nhanh. Cô nhìn lên và bắt gặp cặp mắt và những chiếc móng của một con ó ở phía trên. Nhưng hết thảy đám sóc nhỏ đã nằm an toàn trong hang. Bố mừng rỡ thấy Laura xuất hiện với một bình nước. Bố nhảy xuống khỏi cỗ máy cắt cỏ, uống một hớp. - Chà! Trúng mánh rồi! Bố nói và lại dốc ngược chiếc bình. Sau đó bố đóng nắp bình đặt xuống đất và phủ cỏ lên. Bố nói giỡn: - Cái nắng này gần khiến chàng trai mong có một bụi mầm non để che bóng mát. Thực ra, bố rất vui vì đang ở trên một vùng đất không có cây lớn. Khi ở Big Woods, mỗi mùa hè bố đã phải đào bứng rất nhiều bụi mầm non để dọn sạch đất. Ở đây, trên đồng cỏ xứ Dakota, không hề có một thân cây, một mầm non và không có một mảnh bóng mát ỏ bất kì nơi nào. - Dù sao, một người sẽ làm việc tốt hơn khi toàn thân ấm lên. Bố nói một cách vui vẻ và chặc lưỡi ra lệnh cho lũ ngựa Sam và David miệt mài kéo cỗ máy. Chiếc lưỡi với hàng răng thép dài vo vo xiên qua những đám cỏ cao cắt đổ rạp xuống. Bố ngồi trên ghế ngồi bằng sắt ở trên cao, nắm chiếc cần lái trong tay và ngắm đám cỏ ngả xuống. Laura ngồi trên cỏ nhìn bố bọc một đường vòng. Hơi nóng ở đây tương tự như trong lò nướng bánh. Những con sóc đất nhỏ sọc vằn vàng nâu lại hối hả xuất hiện đầy xung quanh cô. Lũ chim bé xíu bay quanh và đeo vào những cọng cỏ uốn cong làm đu đưa nhè nhẹ. Một con rắn hiệp sĩ đang trườn tới và cuốn mình qua một đám cỏ. Laura ngồi khom người tì cằm trên đầu gối và đột nhiên chợt thấy mình lớn như một trái núi khi con rắn cuộn mình lại ngóc đầu ngắm bức tường sừng sững là chiếc váy vải của cô. Cặp mắt tròn của nó sáng lên như những hạt cườm và chiếc lưỡi le ra cực nhanh tựa hồ một tia nước nhỏ phóng tới. Toàn thể hình dạng con rắn sọc sáng trông rất mềm mại. Laura biết rõ loại rắn hiệp sĩ không hề làm hại ai và còn giúp ích cho nhà nông do chúng chuyên ăn những thứ sâu phá hoại mùa màng. Con rắn vươn chiếc cổ đã hạ thấp đảo thành một góc vuông hoàn hảo trườn quanh Laura và luồn vào trong cỏ. Lúc đ, tiếng vo vo của cỗ máy vang lên dữ dội hơn và lũ ngựa đầu lắc lư chậm chậm bước tới. David nhảy dựng lên khi Laura bật kêu gần như ngay sát dưới mũi nó. - Oa! Bố hét lũ ngựa và ngạc nhiên: - Laura! Bố ngỡ con đã đi rồi chứ. Tại sao con lại chui trong cỏ như một con gà gô nhỏ vậy? Laura nói: - Bố, tại sao con không thể phụ bố phơi cỏ? Bố hãy để cho con làm đi, bố! Bố nhấc chiếc mũ lên, thọc mấy ngón tay vào mái tóc đẫm mồ hôi, dựng tất cả tóc đứng lên cho gió thổi qua. - Con không lớn lắm và không có sức nữa, bình rượu nhỏ à. Laura nói: - Con sắp tròn mười bốn tuổi rồi. Con có thể phụ giúp bố. Con biết là con làm được. Cỗ máy quá đắt đến nỗi bố không còn tiền để thuê người phụ việc. Bố cũng không thương lượng làm vần công được vì ở vùng đất mới mẻ này chỉ có vài gia đình nông dân và ai cũng bận rộn trong mảnh đất được chia cấp. Dù thế, bố vẫn cần được giúp đỡ để chất đống cỏ khô. Bố nói: - Ừ, có thể con làm được. Mình hãy thử coi. Nếu con làm nổi thì công việc phơi cỏ khô này sẽ do hai bố con mình tự làm. Laura nghĩ là không nên để bố buồn phiền về điều này và cô vội vã trở về lều nói với mẹ. Mẹ nói một cách lưỡng lự: - Sao, mẹ nghĩ là con có đủ sức. Mẹ vẫn không muốn thấy phụ nữ làm việc ở ngoài đồng. Chỉ có những người ngoại quốc mới làm thế. Mẹ và các con gái đều là người Mỹ nên không thể dính vào công việc của đàn ông. Nhưng việc Laura giúp phơi cỏ sẽ giải quyết xong vấn đề. Mẹ quyết định: - Được, Laura. Con có thể làm. Carrie cũng nôn nóng được phụ giúp: - Em sẽ mang nước uống ra cho chị. Em đủ lớn để mang bình nước rồi! Carrie đã gần mười tuổi nhưng thân hình quá nhỏ so với tuổi tác. Mary cũng sung sướng đề nghị: - Chị sẽ lãnh phần việc nhà của em, ngoài phần việc của chị. Mary vẫn tự hào có thể rửa chén đĩa, dọn dẹp giường ngủ không thua Laura, dù cô không thấy gì. Nắng và gió hong khô đám cỏ được cắt xong một cách mau chóng đến mức bố có thể cào lại vào ngày hôm sau. Bố cào thành những luống dài rồi cào gom lại thành từng đống lớn. Sáng sớm hôm sau, khi không khí bình minh còn mát dịu và khi bầy chiền chiện còn đang hót, Laura đã ngồi trên xe cùng bố ra đồng. Tới nơi, bố đi bên thùng xe điều khiển lũ ngựa bước giữa các đống cỏ. Bố dừng ngựa bên từng đống cỏ dùng chĩa hất cỏ khô lên máng. Cỏ chồng chất lộn xộn là Laura đập nén xuống. Lui tới lên xuống, cô cố sức đập nén đám cỏ khô lùng bùng trong lúc những chĩa cỏ cứ ào tới và cỗ xe lắc lư chuyển qua đống cỏ kế cận. Rồi bố hất cỏ lên từ phía bên kia. Dưới bàn chân cô, cỏ khô cao lên mãi và được đập nén xuống thật chặt. Cô tiếp tục trèo lên đạp xuống thật kĩ từ đầu tới cuối máng rồi băng qua ở giữa. Nắng trở nên nóng hơn và nồng mùi cỏ khô. Cỏ bung ra dưới chân cô chờm khỏi các cạnh máng. Càng lúc cô càng cao thêm trên đống cỏ khô được đập nén lại. Đầu cô vươn khỏi các thành máng và cô có thể nhìn khắp đồng cỏ mỗi khi ngừng đạp chân. Rồi máng cỏ đầy hết và những chĩa cỏ từ tay bố vẫn được hất lên. Lúc này Laura đứng cao ngất và đám cỏ khô trơn trượt nghiêng xuống xung quanh cô. Cô tiếp tục đập xuống một cách thận trọng. Mồ hôi ướt đẫm trên mặt, trên cỏ và chảy dài xuống lưng cô. Chiếc mũ rớt xuống phía sau lủng lẳng và những bím tóc cô xõa tung. Mái tóc dài màu nâu của cô rối bời trong gió. Rồi bố bước lên những giống cây. Một bàn chân bố đặt trên chiếc hông lớn của David và bố leo lên đống cỏ khô một cách khó khăn. Bố nói: - Con làm việc tốt lắm, Laura. Con đã đạp nén khá chặt đến mức mình có một đống cỏ rất lớn trên thùng xe. Laura đứng nghỉ trong đám cỏ khô tua tủa bốc nóng trong lúc bố đưa xe về gần chuồng ngựa. Lúc đó, cô tụt xuống và ngồi ngay dưới bóng của cỗ thùng xe. Bố hất một ít cỏ xuống rồi leo xuống trải rộng thành một lớp đáy tròn lớn cho một đống cỏ. Bố lại trèo lên hất thêm cỏ xuống rồi leo xuống trải cỏ thật đều và đạp nén chặt. Laura nói: - Con có thể tãi cỏ, bố. Như vậy bố khỏi phải leo lên leo xuống nữa. Bố hất chiếc mũ về phía sau nghiêng người vào chiếc chĩa, nói: - Thực ra thì đánh đống cỏ là việc làm của hai người. Làm theo cách bố đang làm thì rất tốn thời giờ. Bố muốn có sự giúp đỡ lắm nhưng con chưa đủ lớn, bình rượu nhỏ à! Cô chỉ có thể khiến bố nói: - Thôi được, mình thử coi đã! Nhưng khi hai bố con quay lại với máng cỏ thứ hai thì bố đưa chiếc chĩa cho cô thử làm. Chĩa cao vượt khỏi đầu cô và cô không biết cách sử dụng nên cầm nó một cách lóng ngóng. Nhưng khi bố hất cỏ khô từ thùng xe xuống, cô vẫn cố tãi ra thật đều, vừa tãi vừa đi vòng quanh để đạp nén chặt xuống. Dù cô đã ráng hết sức, bố vẫn phải san bằng lại đống cỏ cho chuyến xe kế tiếp. Lúc này, nắng và gió càng nóng dữ hơn và chân Laura run rẩy khi cô đạp nén cỏ xuống. Cô mừng được ngồi nghỉ một lát. Cô thấy khát, khát hơn nữa, rồi khát tới mức cô không còn nghĩ nổi tới thứ gì khác. Giống như lâu lắm mới tới mười giờ, khi Carrie xuất hiện kéo theo bình nước chỉ vừa đầy một nửa. Bố nhắc Laura uống trước và không uống nhiều quá. Không khi nào có được một điều gì ngon hơn thứ nước mát dịu trôi qua họng cô lúc đó. Vừa nhấp thử cô đã ngưng lại ngạc nhiên và Carrie vỗ hai bàn tay kêu lớn rồi cười nói: - Không được nói, Laura! Không được nói cho tới khi bố nếm. Mẹ đã gửi nước gừng tới. Mẹ hòa đường với nước lạnh cho nước có vị nho rồi bỏ gừng vào đó để giữ ấm cho bao tử và hai bố con có thể uống thỏa thích. Nước gừng không gây sốt như nước lạnh khi uống vào lúc đang quá nóng nực. Sự đãi ngộ này đã biến một ngày bình thường thành đặc biệt, ngày đầu tiên Laura phụ việc đánh đống cỏ khô. Khoảng trưa, hai bố con đã kéo hết cỏ khô và đánh đống xong. Bố lo làm chóp mái. Chóp mái được làm thật khéo và lớp cỏ khô phủ quanh để che mưa cho đống cỏ. Bữa ăn trưa đã sẵn sàng khi hai bố con về tới lều. Mẹ nhìn Laura thật nhanh và hỏi bố: - Công việc có khó với con bé lắm không, Charles? Bố nói: - Ô, không! Nó vững chắc như một con ngựa nhỏ và giúp được nhiều lắm. Nếu anh làm một mình thì phải mất cả ngày mới đánh đống hết chỗ cỏ đó. Nhưng bây giờ thì anh đã có trọn buổi chiều để cắt cỏ. Laura cảm thấy tự hào. Hai bàn tay cô đau nhức, lưng cô đau nhức, hai chân đau nhức và tối đó, khi lên giường, toàn thân cô đau nhức tới ứa nước mắt nhưng cô không nói với ai. Ngay khi bố cắt và cào gom cỏ đủ để đánh một đống khác, bố cùng Laura lại cùng làm. Tay chân Laura đã quen với công việc và không còn đau nhức nhiều nữa. Cô thích ngắm những đống cỏ mà cô đã phụ giúp để hoàn thành. Cô đã giúp bố đánh đống cỏ ở hai bên cửa chuồng ngựa và một đống dài phủ kín phía trên chuồng hang. Ngoài những đống cỏ này, hai bố con còn đánh đống thêm ba đống cỏ lớn nữa. Bố nói: - Bây giờ thì tất cả cỏ trên đất cao đã cắt hết rồi, bố muốn tính tới một số cỏ trong đầm. Việc này chẳng tổn hao gì và có thể mình sẽ bán được cỏ khi có thêm người định cư tới vào mùa xuân sau. Thế là bố cắt đám cỏ cao thô ở đầm Big Slough và Laura giúp bố đánh đống lại. So với những cọng cỏ nhỏ ở đất cao, loại cỏ này nặng hơn nhiều đến nỗi Laura không thể xốc cỏ bằng chĩa, nhưng cô vẫn có thể đạp nén chúng xuống. Một bữa, khi bố trầy trật leo lên đỉnh một đống cỏ, cô nói: - Bố còn bỏ sót một đống cỏ, bố! Bố ngạc nhiên: - Đâu? - Đó, trong đám cỏ cao. Bố nhìn theo hướng tay chỉ của Laura. Rồi bố nói: - Không phải đống cỏ đâu, bình rượu nhỏ! Đó là một ổ cầy hương. Bố ngắm kĩ một hồi lâu và nói: - Bố sẽ tới gần đã coi. Con có muốn tới không? Lũ ngựa sẽ dừng tại chỗ. Bố mở một lối đi băng qua đám cỏ cao xù xì và Laura theo sát phía sau. Đất dưới bàn chân mềm nhão bùn lầy và nước đọng giữa các rễ cỏ. Laura chỉ nhìn thấy lưng của bố còn khắp xung quanh là cỏ cao vượt khỏi đầu cô. Cô bước một cách thận trọng trên mảnh đất mỗi lúc một nhớp nhúa hơn. Đột nhiên, ngay phía trước cô mở ra một vũng nước chói chang. Ổ cầy hương nằm sát mé bờ của vũng nước. Ổ cao khỏi đầu cô và lớn hơn một vòng ôm của cô. Vách ổ uốn tròn và trên đỉnh xù xì, xám xịt. Lũ cầy hương cắn cỏ khô thành từng mảnh, nhào kĩ trong bùn để làm thành một loại hồ cho căn nhà của chúng và chúng đã dựng ổ một cách chắc chắn, phẳng phiu với phần chóp cuốn tròn kĩ lưỡng để cho mưa. Căn nhà của chúng không có cửa ra vào. Khắp xung quanh cũng không có một lối đi nào để dẫn tới. Trong các gốc cỏ xung quanh ổ và dọc bờ ao đầy bùn không có một dấu chân. Không có gì cho thấy lũ cầy hương ra vào ổ của chúng như thế nào. Bố nói rằng, vào lúc này, ở phía sau những bức vách dầy im ắng kia, lũ cầy hương đang ngủ, mỗi gia đình chiếm một khoang nhỏ riêng biệt có lót cỏ. Mỗi khoang có một ô tròn nhỏ dẫn vào một khoang dốc thoai thoải. Lối đi thông ở bên trong này uốn vòng từ trên cao xuống dưới đáy và tận cùng trong mặt nước sâu. Đây chính là cổng chính để ra vào của lũ cầy hương. Khi nắng tắt, lũ cầy hương thức dậy chạy nhanh trên mặt nền bùn của lối đi, phóng xuống dưới mặt nước đen ngòm, lặn xuyên qua vũng nước rồi biến vào trời đêm mênh mông. Suốt đêm, dưới ánh trăng hoặc ánh sao, chúng đầm mình trong nước nô giỡn dọc các mép bờ vừa ăn rễ, cọng hoặc lá của các loại cây cỏ mọc trong nước. Khi bình minh thoáng hiện, chúng liền quay về ổ. Chúng lăn tới khung cửa ở dưới nước. Rũ nước xong, chúng leo ngược lối đi dốc ở bên trong và trở về khoang riêng của mình có lót cỏ. Tại đó chúng cuộn mình ngủ thoải mái. Laura đặt bàn tay lên vách ổ. Lớp hồ xù xì nóng hầm hập dưới gió và nắng nhưng ở phía trong những lớp tường dầy, trong bóng tối, không khí chắc vẫn mát mẻ. Cô thích thú với ý nghĩ lũ cầy hương đang ngủ ỏ đó. Bố khẽ lắc đầu, nói như không có triển vọng gì: - Mình sắp phải trải qua một mùa đông khắc nghiệt. Laura ngạc nhiên hỏi: - Sao, bố biết bằng cách nào? Bố giải thích với cô: - Mùa đông càng lạnh thì lũ cầy hương càng đắp vách ổ dầy hơn. Bố chưa hề thấy vách ổ cầy hương nào dầy như thế này. Laura lại ngắm chiếc ổ. Nó rất chắc và lớn. Nhưng ánh nắng đang xối xuống đốt cháy vai cô xuyên qua lớp vải mỏng bạc màu và gió hừng hực thổi trong mùi bùn ẩm ướt hòa với mùi cỏ khô nồng nặc. Laura khó nghĩ nổi tới một khoảng thời gian lạnh lẽo dữ dội với băng tuyết. Cô hỏi: - Bố, làm sao lũ cầy hương lại biết nổi? Bố nói: - Bố không biết chúng biết bằng cách nào, nhưng chúng biết. Bố cho rằng chỉ có một cách là Chúa mách bảo với chúng. Laura lại hỏi: - Thế thì sao Chúa lại không mách bảo cho mình? Bố đáp: - Vì mình không phải là thú vật. Mình là người và như bản Tuyên ngôn độc lập đã nêu rõ, Chúa tạo ra con người hoàn toàn tự do. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tự lo cho mình. Laura nói khẽ: - Con nghĩ là Chúa đã lo cho mình. Bố nói: - Chúa lo tới mức để chúng ta làm những điều hợp lẽ phải. Chúa ban cho chúng ta lương tâm và trí tuệ để hiểu biết lẽ phải. Nhưng Chúa dành cho chúng ta quyền làm theo ý muốn. Đó là điều khác biệt giữa con người với mọi loài vật khác. Laura ngạc nhiên hỏi: - Vậy là cầy hương không được làm theo ý thích của chúng? Bố đáp: - Đúng. Bố không biết tại sao lại như thế nhưng co có thể thấy rất rõ. Hãy nhìn những chiếc ổ kia. Cầy hương phải dựng cùng một loại nhà như thế. Chúng luôn làm như thế và sẽ luôn làm như thế. Rõ ràng là chúng không thể dựng một kiểu nhà khác. Nhưng con người dựng lên mọi kiểu nhà. Mỗi người đều có thể tạo ra một kiểu nhà nào đó theo ý riêng của mình. Như vậy, nếu kiểu nhà đó không tránh được thời tiết thì hoàn toàn do con người. Con người hoàn toàn tự do và độc lập. Bố dừng lại một phút suy nghĩ rồi bất chợt hất đầu: - Đi thôi, bình rượu nhỏ. Tốt hơn là mình lo cắt cỏ trong khi còn nắng. Bố nháy mắt và Laura cười vì nắng đang chiếu rồi gắt. Nhưng trọn phần còn lại của buổi chiều, hai bố con làm việc khá đúng mức. Lũ cầy hương đã có một cái ổ ấm áp với những bức vách dầy nhưng căn lều của họ chỉ được làm với những tấm ván mỏng đã bị cái nóng mùa hè làm co rút lại đến nỗi những tấm nệm nhỏ không còn che kín hết những kẽ hở lớn trên vách. Ván và giấy chống thấm không đủ để ngăn chống với một mùa đông khắc nghiệt. Chương 2: Mùa Xuân Trên Đất Trại Một buổi sáng tháng chín, sương giá phủ trắng trên cỏ. Đó là một lớp sương mỏng và tan ngay khi nắng chiếu tới. Khi Laura nhìn ra, trời sáng chói chang thì sương không còn nữa. Nhưng lúc ăn điểm tâm, bố nói sương giá có sớm như thế là điều bất ngờ. - Sương như thế có làm hư cỏ khô không? Laura hỏi và bố đáp: - Ô, không đâu. Một lớp sương mỏng như thế chỉ khiến cỏ mau khô hơn khi được cắt ra. Nhưng lúc này tốt nhất là hãy làm thật nhanh để công việc khỏi kéo dài tới mức trở thành quá trễ. Bố hối hả tới mức hiếm khi ngưng lại uống nước vào chiều hôm đó, khi Laura mang bình nước tới. Bố đang cắt cỏ trong đầm Big Slough. Bố trao lại bình nước và nói: - Cất nó đi, bình rượu nhỏ. Bố đã quyết định dứt khoát cắt xong dải cỏ này trước khi mặt trời lặn. Bố lên tiếng thúc Sam và David tiếp tục bước lên kéo theo chiếc máy cắt cỏ kêu vo vo. Đột nhiên cỗ máy kêu bật lên một tiếng loảng xoảng và bố hô: - Oa! Laura chạy vội tới để coi xảy ra điều gì. Có một lỗ hỏng ở giữa những mũi thép sáng loáng. Lưỡi hái đã bị mất một chiếc răng. Bố nhắc bộ phận này lên nhưng không thể sửa chữa nổi. Bố nói: - Hết cách rồi. Đành phải mua một cái khác. Không còn gì để nói thêm về chuyện đó nữa. Bố suy nghĩ một lát rồi nói: - Laura, bố muốn nhờ con chạy ra thị trấn để mua. Bố không muốn mất thời giờ. Bố có thể tiếp tục cắt đỡ trong lúc con đi. Nhớ đi thật mau. Nói mẹ đưa cho con năm xu để mua. Mua ở tiệm đồ sắt Fuller’s. Laura nói: - Dạ, bố! Cô rất ngán thị trấn vì ở đó có quá nhiều người. Thực sự cô không sợ hãi nhưng những cặp mắt người lạ ngó lom lom khiến cô không thấy thoải mái. Cô đã có một chiếc áo vải sách và có giầy. Trong lúc vội vã chạy về, cô nghĩ là mẹ có thể cho cô đeo chiếc băng tóc dành cho ngày chủ nhật và có lẽ được đội chiếc mũ mới ủi của Mary. Cô nói hụt hơi: - Con phải ra thị trấn, mẹ. Carrie và Mary lắng nghe trong lúc cô giải thích lí do và ngay cả Grace cũng ngước cặp mắt lớn màu xanh lơ lên nhìn cô. Carrie lên tiếng: - Em sẽ đi theo chị cho có bạn. Laura hỏi: - Ô, được không, mẹ? Mẹ đồng ý: - Nếu nó chuẩn bị xong vào lúc con đi. Hai cô thay quần áo, mang vớ, đi giầy cực nhanh. Nhưng mẹ thấy không có lí do gì để dùng đến những băng buộc tóc vào một ngày bình thường và mẹ nhắc Laura phải đội mũ của cô. Mẹ nói: - Chiếc mũ đó sẽ mới hơn nếu con giữ gìn nó cẩn thận. Chiếc mũ móp méo do lủng lẳng hoài ở sau lưng cô và dây mũ cũng xộc xệch. Nhưng đó là do lỗi của Laura. Mẹ lấy trong bóp của bố cho cô năm xu rồi cô cùng Carrie hối hả ra thị trấn. Các cô theo lối đi làm thành do bánh xe của bố, qua giếng nước xuống triền dốc đầy cỏ trong đầm Big Slough, băng ngang những đám cỏ đầm lầy cao vút tới triền dốc đưa lên phía bên kia. Lúc đó toàn vùng cỏ lấp lánh có vẻ hoàn toàn lạ lùng. Ngay cả gió thổi trên đồng cũng tạo ra một thứ tiếng động man rợ hơn. Laura thích những thứ đó và cô mong là hai chị em không phải tới thị trấn, nơi mà những mặt tiền giả của các tòa nhà với đỉnh cao vuông vức để làm bộ như các cửa hàng ở phía sau lớn hơn mức độ thực có. Cả Laura và Carrie đều im lặng sau khi bước vào phố chính Main Street. Một vài nói đàn ông đang đứng trước cửa hàng và hai cặp ngựa đóng vào thùng xe đang được cột vào những cọc buộc ở bên kia phố Main Street, căn nhà của bố đứng trơ trọi. Căn nhà đã được cho mướn và ở bên trong có hai người đàn ông ngồi nói chuyện. Laura và Carrie bước vào cửa hàng bàn đồ sắt. Hai người đàn ông đang ngồi trên những thùng đinh nhỏ và một người ngồi trên chiếc cày. Họ ngừng nói chuyện, quay nhìn Laura và Carrie. Bức vách phía sau quầy lấp lánh những chiếc chảo thiếc, những chiếc xô và những cây đèn. Laura nói: - Bố cháu có một đoạn ghép vào lưỡi hái của máy cắt cỏ. Người đang ngồi trên chiếc cày nói: - Ông ta bị gãy một khúc, hả? Laura đáp: - Dạ, thưa ông? Cô nhìn ông ta gói vào trong giấy một chiếc răng ba góc nhọn và sáng loáng. Chắc ông ta là Fuller. Cô trao cho ông ta năm xu và cầm lấy gói giấy trong tay ông, nói: - Cảm ơn ông! Đoạn cô bước ra ngoài cùng với Carrie. Chuyện thế là xong. Nhưng cả hai vẫn im lặng khi phải đi bộ trong thị trấn. Rồi Carrie lên tiếng: - Chị làm hay quá, Laura. Laura đáp: - Ồ, chỉ là việc mua bán thôi. Carrie nói: - Em biết thế, nhưng em cảm thấy thật kì khi có người nhìn mình. Em cảm thấy … không phải sợ, mà thực sự là… Laura nói: - Không có gì phải sợ hết. Mình không nên sợ bao giờ. - Chị cũng cảm thấy vậy. Carrie nói: - Thực thế sao? Em không biết rõ điều đó. Nhưng chị không nên như thế. Em luôn cảm thấy yên tâm khi có chị ở bên cạnh. Laura đáp: - Em cứ yên tâm khi có chị. Chị sẽ lo cho em. Dù sao, chị cũng phải cố hết sức. Carrie nói: - Em biết vậy mà. Thật dễ chịu khi cùng nhau đi bộ. Để giữ gìn đôi giày, các cô không đi trên những vết xe đầy bụi. Các cô bước theo dải đất cứng hơn ở giữa đường, nơi mà móng chân ngựa khiến cỏ lún xuống. Các cô không nắm tay nhau nhưng cảm thấy giống như thế. Từ lâu Laura vẫn luôn nhớ Carrie là đứa em nhỏ của cô. Trước tiên đó là một bê-bi tí hon, rồi là bé Carrie, rồi một cái bóng lẽo đẽo luôn hỏi lung tung “tại sao?”. Lúc này thì cô bé ấy đã mười tuổi, đủ lớn thực sự để là một chị gái. Và cả hai cùng nhau ra khỏi nhà, cách xa cả bố lẫn mẹ. Công việc của các cô đã xng ngoài hẳn mọi ý nghĩ và nắng đang chiếu, gió đang thổi, đồng cỏ trải dài xa tắp xung quanh. Các cô cảm thấy tự do, độc lập và thoải mái bên nhau. Carrie bỗng nói: - Đường đi vòng về chỗ bố xa quá. Tại sao mình không đi theo lối này. Cô chỉ tay về mé đầm mà từ đó các cô có thể nhìn thấy bố và lũ ngựa. Laura trả lời: - Lối đó phải đi qua đầm. Carrie hỏi: - Lúc này khô mà, phải không? Laura đáp: - Đúng đó, đi thôi. Bố không dặn phải đi theo đường cái mà dặn là đi thật mau. Thế là các cô rời đường cái quay về lối đi tắt ngang đầm. Các cô đi thẳng vào trong đám cỏ đầm lầy cao vút. Thoạt đầu thật là thú vị, vì khá giống như đi vào bức tranh rừng rậm trong cuốn sách lớn màu xanh của bố. Laura lấn tới trước giữa những bụi cỏ dầy mở ra một lối đi lại bị khép kín trong tiếng lá xào xạc ở phía sau Carrie. Hàng triệu cọng cỏ xù xì với những chiếc lá thon dài màu vàng xanh và xanh vàng ở trong bóng mát. Mặt đất dưới chân khô khốc, nhưng một mùi ẩm ướt đọng lại dưới mùi cỏ hấp nóng. Ngay trên đầu Laura, ngọn cỏ quật ngã trong gió nhưng gốc cỏ vẫn bất động và chỉ đạp gãy do Laura và Carrie đạp ngã khi đi qua. Đột nhiên Carrie hỏi: - Bố ở đâu rồi? Laura nhìn quanh. Khuôn mặt gầy guộc của Carrie xanh nhợt trong bóng cỏ. Mắt cây bé gần như thất thần. Laura nói: - Từ đây mình không thể nhìn thấy bố đâu. Các cô chỉ nhìn thấy lá cỏ dầy đặc chập chờn và một khoảng trời hừng hực ở trên đỉnh đầu. - Bố ở thẳng phía trước mình. Chỉ chút xíu nữa mình sẽ tới chỗ bố. Cô nói bằng giọng quả quyết nhưng cô cũng đâu có cách nào để nhìn thấy bố đang ở đâu? Cô còn không thể biết chắc đang ở đâu và đang đưa Carrie tới nơi nào. Cái nóng ngột ngạt khiến mồ hôi chảy ròng ròng trên cổ. Đầm lầy còn tồi tệ hơn đồng cỏ nhiều. Mẹ vẫn thường sợ Grace bị lạc trong vùng đầm lầy. Cô lắng nghe tiếng vo vo của cỗ máy cắt cỏ nhưng tiếng cỏ khua đạp lấp đầy tai cô. Không có gì trong những chiếc bóng chao động của đám lá cỏ mỏng lắc lư, quăng quật ở phía trên tầm mắt cô có thể chỉ cho cô biết mặt trời đang ở đâu. Đám cỏ bị thổi rạp ngả nghiêng cũng không hề cho biết rõ hướng gió. Những bụi cỏ này cũng không đủ chịu đựng một sức nặng nào. Khắp nơi không có một thứ gì để cô có thể leo lên nhìn vượt trên ngọn cỏ để biết rõ cô đang ở đâu. Cô giữ giọng vui vẻ giục: - Đi tới, Carrie. Cô cố không làm cho Carrie hoảng sợ. Carrie ngoan ngoãn bước theo, nhưng Laura vẫn không biết mình đang đi đâu. Cô cũng không dám chắc là mình có giữ được đúng hướng đi thẳng không. Trên lối đi của cô luôn xuất hiện những bụi cỏ khiến cô phải quẹo qua phải hoặc qua trái. Ngay cả khi cô quẹo qua bên phải một bụi cỏ rồi quẹo qua bên trái một bụi cỏ kế tiếp thì cũng chưa hẳn là cô không đang đi theo một vòng tròn. Những người đi lạc thường đi theo chiều vòng tròn và phần đông họ không bao giờ tìm nổi lối ra để về tới nhà. Đầm lầy chạy dài khoảng một dặm hoặc hơn nữa với những lớp cỏ uốn cong nghiêng ngả, quá cao để nhìn vượt lên trên và quá mềm để trèo lên. Đầm lại quá rộng. Nếu Laura không đi thẳng tới thì các cô không bao giờ ra khỏi đầm. Carrie hổn hển: - Mình đi quá xa, Laura. Sao vẫn chưa tới chỗ bố? Laura đáp: - Bố phải ở quanh đây thôi. Cô không thể lần theo lối cũ để quay lại con đường an toàn. Giầy của các cô hầu như không thể để lại một dấu vết nào trên mặt bùn bị nung nóng và trên cỏ, những lớp cỏ vô tận đang ngả nghiêng với những chiếc lá khô gãy vụn hoàn toàn giống nhau. Miệng Carrie mở lớn. Mắt cô nhìn Laura như đang nói: - Em biết mình bị lạc rồi. Cô ngậm miệng lại, cố không thốt ra một tiếng nào. Nếu các cô bị lạc thì đã lạc rồi. Chẳng có gì để nói về điều này. Laura nói: - Tốt hơn là mình cứ tiếp tục đi. Carrie đồng ý. - Em cũng nghĩ thế. Mình cứ cố ráng sức đi thật xa. Các cô tiếp tục đi. Cả hai đều chắc là đã vượt qua chỗ bố đang cắt cỏ. Nhưng Laura không thể chắc chắn điều gì. Có lẽ nếu các cô nghĩ tới việc quay lại, các cô sẽ thực sự phải đi xa hơn. Các cô chỉ tiếp tục bước tới. Thỉnh thoảng cả hai dừng lại lau mồ hôi trên mặt. Các cô khát khủng khiếp nhưng ở đó không có nước. Cả hai cũng đều rất mệt do phải vạch lá để băng qua cỏ. Không chỉ riêng việc lấn đẩy tới có vẻ mệt nhọc mà mỗi bước đi tới cũng khó khăn hơn khi đạp cỏ khô. Mặt Carrie trắng bệch do đã quá mệt. Lúc đó, Laura bỗng nghĩ là cỏ ở phía trước đang mỏng dần. Đống cỏ loãng hơn và ngọn cỏ che phía trên thưa thớt hơn. Và thình lình, cô nhìn thấy ánh nắng ở phía bên kia những cọng cỏ tối xẫm. Có lẽ ở đó là một cái ao. Ôi! Có lẽ đó là vùng đất bố đã cắt sạch cỏ và có lẽ là cỗ máy cắt cỏ và bố. Cô nhìn thấy gốc cỏ khô lởm chởm trong nắng và cô nhìn thấy những đống cỏ khô rải rác. Nhưng cô nghe thấy một giọng nói lạ. Đó là giọng nói đàn ông, oang oang và thân mật. Giọng nói nhắc: - Di chuyển thôi, Manzo. Đưa cái đống này đi. Lát nữa là tối rồi. Một giọng khác uể oải lười biếng: - Ối chà! Roy! Laura và Carrie đứng sát vào nhau nhìn ra từ một bờ cỏ dựng đứng. Đồng cỏ không phải là đồng cỏ của bố. Một cỗ xe lạ đậu tại đó với một máng cỏ đầy vĩ đại ở phía trên. Trên đỉnh đống cỏ cao ngất ngưởng ấy, một chàng trai đang nằm dài. Anh ta nằm sấp, tì cằm trên hai bàn tay và hua bàn chân lên trên không. Người đàn ông lạ sấn một chĩa cỏ lớn hất phủ lên chàng trai. Cỏ vùi kín anh ta và anh ta trườn ra khỏi vừa cười vừa phủi cỏ khỏi đầu, vai. Anh ta có mái tóc đen, cặp mắt xanh lơ, mặt cùng hai cánh tay sạm nắng. Anh ta đứng trên đống cỏ cao in vào nền trời và nhìn thấy Laura. Anh ta nói: - Xin chào! Cả hai người đàn ông đều đứng nhìn Laura và Carrie bước ra khỏi bờ cỏ cao – giống như những con thỏ. Laura nghĩ thế và muốn quay lại trốn mất luôn. Nhưng cô cố lên tiếng trong lúc Carrie đứng nép vào phía sau cô nhỏ bé và bất động: - Tôi nghĩ là bố tôi đang ở đây. Người đàn ông nói: - Chúng tôi không nhìn thấy ai ở quanh đây cả. Bố cô là ai? Chàng thanh niên nói: - Chắc là ông Ingalls. Rồi anh ta hỏi Laura: - Có đúng không? Anh ta vẫn tiếp tục nhìn cô. Cô đáp: - Dạ. Và cô ngắm những con ngựa đã được cột vào xe. Trước đây, cô đã từng thấy những con ngựa màu nâu tuyệt đẹp này với những bắp chân căng bóng trong nắng và những chiếc bờm lấp lánh trên những cần cỏ lấp lánh. Đó là những con ngựa của nàh Wilder. Vậy thì người đàn ông này và chàng trai trẻ kia hẳn là anh em nhà Wilder. Chàng trai nói: - Từ đây tôi có thể nhìn thấy ông ấy. Ông ấy ở chỗ kia kìa. Laura nhìn theo hướng tay chỉ của anh ta. Cặp mắt xanh lơ của anh ta nhìn cô long lanh tựa hồ anh ta đã biết cô lâu rồi. - Cảm ơn anh! Laura lên tiếng một cách nghiêm trang rồi cùng Carrie bước đi, dọc theo con đường mà cặp ngựa Morgan và cỗ xe đã mở ra qua đám cỏ đầm lầy. Bố hô lũ ngựa khi nhìn thấy các cô: - Oa! Bố lột mũ xuống lau mồ hôi trên trán: - Ui chà! Laura đưa cho bố bộ phận máy cắt cỏ rồi cô và Carrie đứng ngắm trong lúc bố mở hộp dụng cụ, lấy chiếc lưỡi hái ra khỏi cỗ máy, tháo bỏ chiếc răng đã bị gãy. Bố gắn vào đó chiếc răng mới, đóng chốt bằng những chiếc đinh tán rồi nói: - Xong rồi! Nhớ nói với mẹ là bố về ăn tối trễ. Bố phải cắt xong dải cỏ này. Cỗ máy lại kêu vo vo đều đặn khi Laura và Carrie bước trở về lều. Carrie hỏi: - Chị sợ nhiều không, Laura? Laura nói: - Có, một chút thôi, nhưng chuyện tốt đẹp để kết thúc tốt đẹp. Carrie nói: - Đó là lỗi của em. Tại em muốn đi theo ngã đó. Laura nói: - Lỗi của chị vì chị lớn hơn. Nhưng mình đã học được một bài học. Chị đã nghĩ mình sẽ tiếp tục theo đường cái sau sự việc này. Carrie rụt rè hỏi: - Chị có kể chuyện này với bố mẹ không? Laura đáp: - Mình phải kể nếu bố mẹ hỏi. 3. MÙA THU Bố cùng Laura đánh đống xong đống cỏ đầm lầy cuối cùng vào một buổi chiều tháng chín nóng nực. Bố muốn cắt thêm một luống cỏ khác vào ngày hôm sau nhưng sáng đó trời đổ mưa. Liên tục ba ngày đêm mưa xối xả đều đặn khua lộp độp trên mái nhà và chảy tràn trên các ô kính cửa sổ. Mẹ nói: - Mình đành phải chờ thôi. Đang có bão rồi. Bố đồng ý một cách miễn cưỡng: - Đúng! Đúng là có chuyển đổi thời tiết. Một chàng trai có thể cảm nhận việc này ngay trong xương của mình. Sáng hôm sau, căn lều lạnh cóng với các ô kính cửa sổ gần như bị sương giá phủ kín và khắp phía bên ngoài là một màu trắng. - Chúa ơi! Mẹ run rẩy kêu lên trong lúc nhóm lò bếp: - Lúc này mới chỉ là ngày đầu tiên của tháng mười. Laura mang giầy và khăn choàng ra giếng lấy nước. Hơi lạnh đập trên má và xộc thẳng vào trong mũi cô. Nền trời màu xanh nhạt và khắp mặt đất trắng toát. Sương gía đọng trên từng lá cỏ, đóng cứng trên lối đi, trườn dài trên các lối đi dọc theo những nẹp nhỏ giữ lớp giấy chống thấm màu đen. Rồi mặt trời ló lên từ một mé đồng cỏ và khắp nơi sáng lóe. Mỗi vật nhỏ đều lóng lánh ánh hồng như mặt trời hoặc xanh nhạt như nền trời và tất cả cỏ lá kéo dài chói chang màu sắc cầu vồng. Laura thích thú với quang cảnh tuyệt vời. Cô vẫn biết sương giá sẽ làm úa héo rau cỏ. Những khóm cà chua xoắn xuýt với vẫn trái xanh, đỏ và những dây bí với những tàn lá lớn che trên các trái bí non đều lấp lánh sáng trong sương giá trên mặt đất mấp mô lạnh cóng. Những cây bắp ướt sũng với các cọng lá dài đều trắng toát. Sương giá đã giết chết tất cả. Trên mặt đất không một thứ màu xanh nào còn được sống sót. Nhưng sương giá vẫn đẹp tuyệt vời. Trong lúc ăn điểm tâm, bố nói: - Không còn cắt cỏ thêm được nữa nên mình sẽ lo thu hoạch. Mình không thu được nhiều trong năm đầu trên đất trồng nhưng cỏ sẽ thối rữa trong mùa đông này. Năm tới mình sẽ thu khá hơn. Những mảnh đất được cày bật lên vẫn bị rễ cỏ giữ bám cứng với nhau. Dưới những mảnh đất này, bố đào bới những củ khoai nhỏ cho Laura và Carrie lượm bỏ vào những chiếc thùng thiếc. Laura ghét cảm giác nhớp nhúa khô khốc khi ngón tay chạm vào đất. Nó khiến cô lạnh buốt sống lưng nhưng không thể nào tránh được, vì phải có người đi lượm khoai. Cô và Carrie miệt mài tới lui với những chiếc thùng cho tới khi lượm đầy năm bao. Đó là tất cả số khoai tây có được. Bố nói: - Đào bới quá nhiều mà chỉ thu được vài củ. Nhưng có năm khạp khoai còn hơn là không có gì và đã có thể tính tới đám đậu. Bố kéo những dây đậu héo chất thành đống cho khô. Lúc này mặt trời đã lên cao. Sương giá đã tan hết và gió đang thổi lạnh ngắt khắp đồng cỏ ngả màu vàng nhạt và nâu tím. Mẹ và Laura đi hái cà chua. Những cây cà rũ gx mềm oặt và đen sậm nên họ hái cả những trái xanh nhỏ nhất. Số cà chua chín chọn riêng ra chỉ có khoảng gần một ga-lông. - Mẹ sẽ dùng số cà chua xanh này làm gì? Laura hỏi và mẹ đáp: - Chờ coi. Mẹ rửa cà thật kĩ và giữ không cho một trái nào trầy tróc. Rồi mẹ xắt thành lát mỏng và nấu cùng với muối, ớt, giấm và gia vị. Mẹ hể hả: - Thế là có gần hai lít cà chua xanh ngâm dầu giấm. Nếu đợt hoa màu đầu tiên trong vườn không có gì khác nữa thì số cà ngâm giấm này cũng là một món đặc biệt để ăn kèm với đậu hấp trong mùa đông này. Mary thêm: - Và còn gần một ga-lông cà chín được dành riêng. - Thêm năm khạp khoai tây nữa. Laura nói trong lúc chùi hai bàn tay lên tấm tạp dề vì chúng vẫn gợi lại cảm giác nhớp nhúa dễ sợ. Carrie kêu lớn: - Còn củ cải nữa, rất nhiều củ cải! Carrie rất thích ăn củ cải sống. Bố cười: - Khi bố tách đậu xong, sàng sảy và đóng vào bao thì còn có thêm gần một khạp đậu. Rồi khi bố cắt xong mấy đồi lúa mì, xay cho xong vào một tách trà cất dưới hầm chứa thì mình đã có một vụ mùa kha khá. Laura biết rõ đây là một vụ mùa hết sức nghèo nàn. Nhưng cỏ khô và bắp đủ dùng cho bò ngựa tới mùa xuân còn năm khạp khoai tây, gần một khạp đậu thêm vào những thứ bố săn được sẽ đủ cho cả nhà sống tạm. Bố nói: - Ngày mai bố phải lo cắt lúa. Mẹ nhận xét: - Không có gì bất ngờ đặc biệt đâu, Charles. Mưa đã dứt rồi và em chưa từng thấy thời tiết mùa thu dễ chịu hơn thế này. Bố nhìn nhận: - Đúng là như vậy. Lúc này lạnh về đêm, sáng sớm trời khô còn ban ngày thì nắng ấm. Mẹ đề nghị: - Mình có thể kiếm một món thịt tươi để đổi thức ăn. Bố nói: - Ngay khi cắt lúa xong, anh sẽ đi săn. Ngày hôm sau, bố đi cắt và tụ lúa. Mười tụ lúa đứng như một hàng lều của người da đỏ bên cạnh những đống cỏ khô. Khi xong việc, bố mang từ ngoài đồng về sáu trái bí còn ửng màu vàng. Bố giải thích lí do: - Dây bí không còn mọc nổi trên mặt đất cứng ngắt và sương giá làm hư hết những trái non, nhưng mình cũng còn nhiều hạt giống cho năm tới. Mẹ hỏi: - Sao phải vội vã ngắt những trái bí như thế? Bố giải thích: - Anh cảm thấy sốt ruột, tựa hồ như cần phải vội vã. Mẹ nói: - Anh cần có một giấc ngủ ngon lành. Sáng hôm sau, một trận mưa trút xuống. Sau khi làm các công việc thường lệ và ăn sáng xong, bố khoác áo, chụp chiếc mũ rộng vành che kín hết gáy. Bố nói: - Anh sẽ kiếm về một cặp ngỗng. Hồi đêm anh đã nghe thấy chúng đang bay qua. Thế nào cũng có một số đáp xuống đầm. Bố lấy súng xuống, đeo vào dưới áo khoác và bước ra ngoài. Đợi bố đi khỏi, mẹ nói: - Các con gái, mẹ đã nghĩ tới chuyện dành cho bố một sự bất ngờ. Laura và Carrie rời khỏi chiếc xống chén và Mary ngồi thẳng dậy trên chiếc giường mà cô đang dọn dẹp. Tất cả đồng loạt hỏi: - Chuyện gì vậy? Mẹ nói: - Phải làm xong thật mau. Laura, con chạy ra chỗ tụ lúa lấy về cho mẹ một trái bí xanh. Mẹ sẽ làm bánh hấp! - Một chiếc bánh hấp! Nhưng bằng cách nào… Mary nói và Laura nói tiếp: - Một chiếc bánh hấp bằng bí xanh hả? Con chưa nghe thấy ai nói thế bao giờ, mẹ. Mẹ nói: - Cả mẹ cũng chưa nghe. Nhưng mình sẽ chẳng làm được gì nếu không dám làm những điều mà chưa có ai được nghe thấy trước đó. Laura và Carrie hối hả rửa sạch chén đĩa. Rồi Laura chạy dưới làn mưa sương lạnh buốt tới chỗ tụ lúa lôi về một trái bí xanh lớn nhất. Mẹ nói: - Tới đứng bên cửa lò hong khô người đi, Laura. Con chưa lớn lắm nhưng cũng đủ lớn để tự biết choàng khăn mà không cần phải nhắc. Laura nói: - Con chạy rất nhanh nên không trúng mưa nhiều. Mẹ coi, rõ ràng con chỉ bị ướt một chút thôi. Bây giờ, con làm gì đây? Mẹ nói: - Con hãy xắt bí thành miếng và gọt vỏ trong lúc mẹ làm vỏ bánh. Sau đó, mình sẽ thấy điều mình phải thấy. Mẹ bỏ lớp vỏ bánh mì vào chảo hấp, phủ đường nâu và gia vị lên. Rồi mẹ chất dầy lên lớp vỏ bánh những miếng bí xanh mỏng. Mẹ tưới lên một nửa ly dầu giấm, đặt một miếng bơ nhỏ lên trên rồi đặt lên một lớp vỏ bánh. - Đó! Mẹ nói khi xuống xong các cạnh bánh. Carrie thở ra, mở lớn mắt nhìn chiếc bánh hấp: - Con không biết mẹ có làm được không. Mẹ nói: - Ừ, mẹ cũng chưa biết. Mẹ chuyển nhanh chiếc bánh vào lò hấp và đóng cửa lò lại, tiếp: - Nhưng cách duy nhất để khám phá là thử coi. Gần giờ ăn trưa, mình sẽ biết. Tất cả ngồi đợi trong căn lều gọn gàng. Mary đang bận rộn đan cho xong đôi vớ ấm cho Carrie trước khi thời tiết trở lạnh. Laura đang khâu hai ghép hai mảnh vải bông dài lại để làm một tấm phủ giường. Cô ghép các mép vải lại một cách cẩn thận và dùng ghim để ghim vào áo của mình ngang chỗ đầu gối. Cô kỹ lưỡng kéo mép vải thật bằng phẳng rồi khâu vắt vào nhau với những mũi khâu nhỏ, đều đặn. Mũi khâu phải sát, nhỏ, chắc và sâu nhưng không sâu quá vì tấm phủ cần phẳng phiu không có một nếp nhăn nào ở chính giữa. Và, tất cả các mũi khâu phải hoàn toàn giống hệt nhau đến mức không phân biệt nổi vì đó chính là cách thức khâu vá. Mary rất thích làm việc đó nhưng lúc này cô đã bị mù và không thể làm được. Với Laura, việc khâu vá này khiến cô có cảm giác giống như bị xé ra thành nhiều mảnh và cô muốn hét lên. Gáy cô đau nhức và sợi chỉ xoắn lại rồi thắt nút. Cô phải tháo những mũi khâu hư ngang với những mũi khâu do cô khâu được. Cô nói một cách cáu kỉnh: - Chiếc mền len rộng đủ phủ kín giường. Tại sao những tấm phủ giường lại không đủ rộng như thế? Mary nói: - Vì các tấm phủ giường làm bằng vải bông và vải bông không có đủ khổ rộng bằng một tấm phủ giường. Chiếc kim của Laura trượt qua một lỗ nhỏ trên chiếc đê chạy vào ngón tay cô. Cô ngậm chặt miệng không nói một tiếng nào. Nhưng chiếc bánh hấp được hấp rất hay. Khi mẹ đặt chiếc áo đang may cho bố xuống và mở cửa lò hấp thì mùi bánh hấp thơm nồng tỏa ra. Carrie và Grace ngó chăm chăm khi mẹ đảo bánh lại cho vàng đều. Mẹ nói: - Bánh hấp dẫn lắm. Carrie kêu lên: - Ô, bố khó khỏi kinh ngạc! Ngay trước giờ ăn trưa, mẹ lấy bánh ra khỏi lò hấp. Đó là một chiếc bánh hấp thật tuyệt. Mấy mẹ con ngồi chờ ăn trưa cho tới gần một giờ nhưng bố không về. Khi đi săn, bố thường không chú ý đến giờ ăn. Cuối cùng, mấy mẹ con đành phải ăn và chiếc bánh hấp phải chờ tới giờ ăn tối khi bố trở về với những con ngỗng mập mạp để quay cho ngày hôm sau. Trọn buổi chiều mưa vẫn chậm rãi rơi đều đặn. Lúc Laura ra giếng kéo nước, bầu trời xám xịt hạ xuống thật thấp. Xa xa trên đồng, lớp cỏ màu nâu ướt sũng và những đám cỏ cao trong đầm uốn cong ủ rũ dưới mưa rơi. Laura vội vã rời khỏi giếng nước. Cô không thích nhòn quang cảnh bên ngoài khi tất cả cỏ đều rũ xuống. Mãi giờ ăn tối, bố mới trở về. Bố trở về không đem theo gì ngoài cây súng. Bố không cười nói và mắt bố mở lớn, lặng lẽ. Mẹ hỏi nhanh: - Có gì bất thường, Charles? Bố cởi chiếc áo ướt sũng, chiếc mũ đang nhỏ nước, treo lên trước khi trả lời: - Đó cũng là điều anh muốn biết. Có một cái gì đó rất lạ. Trên hồ không có một bóng con ngỗng hay một con vịt nào. Trong đầm cũng vậy. Không nhìn thấy một con nào hết. Chúng bay thật cao trên những đám mây và bay rất nhanh. Anh có thể nghe thấy tiếng chúng gọi nhau. Caroline, mọi loài chim đều bay cực nhanh về phía nam. Và mọi thứ mồi săn khác đều biến hết. Tất cả những sinh vật ở đây đều chạy trốn hoặc bơi đi ẩn mình ở một nơi nào đó. Anh chưa từng thấy một nơi nào hoang vắng và yên tĩnh như vậy. Mẹ nói một cách vui vẻ: - Đừng suy nghĩ nữa. Bữa tối đã sẵn rồi. Anh ngồi gần bếp lò đi, Charles, cho khô người. Em sẽ dọn bàn ăn. Em thấy giống như đang lạnh hơn. Thời tiết quả là đang lạnh hơn. Cái lạnh len vào dưới bàn, trườn từ những bàn chân trần của Laura lên đầu gối cô dưới lớp váy áo. Nhưng bữa ăn tối ấm áp, ngon lành và dưới ánh đèn sáng, tất cả các khuôn mặt đều rạng rỡ với điều bí mật sẽ gây ngạc nhiên cho bố. Bố không nhận ra điều đó. Bố đói và ăn nghiến ngấu mà không biết mình đang ăn món gì. Bố lại nói: - Thật là lạ, không có một con vịt hay một con ngỗng nào dừng lại nghỉ. Mẹ lên tiếng: - Giống như những con vật tội nghiệp đó đang muốn có nắng. Em mừng là mình được yên ổn khi trời đổ mưa dưới mái nhà chắc chắn như thế này. Bố đẩy chiếc đĩa trống lui lại và mẹ liếc Laura như ngầm nói: - Tới lúc rồi! Tất cả đều mỉm cười, ngoại trừ bố. Carrie ngọ ngoạy trên chiếc ghế và Grace nhấp nhổm trong lòng mẹ trong lúc Laura đặt chiếc bánh hấp xuống. Bố vẫn chưa nhìn thấy chiếc bánh ngay. Rồi, bố bật kêu lên: - Bánh hấp! Sự ngạc nhiên của bố vượt khỏi mức tất cả mong đợi. Grace, Carrie và ngay cả Laura đều cười lớn. Bố kêu lên: - Caroline, thế là em đã làm một chiếc bánh hấp hả? Bánh hấp gì vậy? Mẹ nói: - Nếm đi rồi sẽ biết! Mẹ cắt một miếng bánh đặt vào đĩa của bố. Bố cắm chiếc nĩa xuống lấy ra một miếng cho vào miệng. - Bánh táo hấp! Em kiếm táo ở đâu ra vậy? Carrie không thể giữ được lâu hơn nữa. Cô gần như kêu lên: - Đó là bí! Mẹ làm bánh bằng bí xanh! Bố xắn thêm một miếng nữa và nhai chậm rãi. Bố nói: - Bố không bao giờ nghĩ tới điều này. Mẹ luôn đánh bại cả nước về chuyện nấu nướng. Mẹ không nói gì nhưng một ánh hồng ửng trên má mẹ và mắt mẹ sáng lên khi tất cả đều ăn bánh hấp một cách ngon lành. Tất cả đều ăn thật chậm nhấm nháp từng miếng nhỏ như cố kéo dài hương vị thơm ngon tuyệt vời. Đó là một bữa cơm tối hạnh phúc mà Laura muốn kéo dài không bao giờ dứt. Khi đã lên giường nằm với Mary và Carrie, cô vẫn thức với cảm giác sung sướng. Cô được ngủ thoải mái và ấm áp hết sức. Tiếng mưa rơi trên mái cũng là những âm thanh thật dễ chịu. Một giọt nước lăn trên khuôn mắt lờ mờ trong bóng tối khiến Laura ngạc nhiên. Cô chắc chắn đó không phải là nước mưa vì mái nhà che kín phía trên. Cô chúi sát hơn vào Mary và mọi thứ tối dần vào giấc ngủ ấm áp. Chương 3: Con Mèo Cần Thiết Laura thình lình thức giấc. Cô nghe thấy tiếng hát và tiếng vỗ tay kì cục. Đời như đóa hướng dương này (bộp! bộp!) Ngả nghiêng vùng vẫy giữa heo may(bộp! bộp!) Tim ta (bộp!) như gió (bộp!) bay phơi phới (bộp! bộp!) Thổi là bay lìa khỏi nhánh cây (bộp! bộp!) Bố đang hát sôi nổi và đập cánh tay vào ngực. Mũi Laura lạnh buốt vì hở ra ngoài do cô cuốn mền xuống. Cô thò hẳn đầu ra và lúc này cô biết tại sao bố lại đập tay như thế. Bố đang cố làm nóng các bàn tay. Bố đã nhóm lửa. Trong lò, lửa đang réo, nhưng không khí vẫn lạnh buốt. Trên mền, ngay nơi nước rớt xuống từ một kẽ hở, tiếng băng rạn vỡ. Gió gào hú xung quanh căn lều, từ trên mái nhà và khắp các bức vách vang lên những tiếng động chà xát. Carrie hỏi trong cơn ngái ngủ: - Gì vậy? Laura nói: - Có bão tuyết. Em với Mary cứ nằm yên ở đây đi. Cẩn thận không cho hơi lạnh lòn vào dưới mền, cô trườn ra khỏi chiếc giường ấm áp. Răng cô va đập lách cách trong lúc cô mặc quần áo. Mẹ cũng đang thay đồ ở phía bên kia tấm màn che, nhưng cả hai đều không lên tiếng vì quá lạnh. Hai mẹ con cùng tới bên lò bếp. Lửa ở đây đang cháy dữ dội nhưng không làm nóng ngay nổi không khí trong nhà. Một màn tuyết trắng quay cuồng mù mịt trên cửa sổ. Gió lùa tuyết qua khe hở dưới cửa ra vào lòn khắp nền nhà và mỗi núm đinh trên các bức vách đều trắng sương giá. Bố đã ra chuồng ngựa. Laura mừng là có cả một hàng dài đống cỏ giữa chuồng ngựa và căn lều. Cứ đi lần theo từng đống cỏ, bố sẽ không thể bị lạc. Mẹ lập cập: - M…một cơn b- b- bão tuyết! Trong tháng mười! Mẹ không bao giờ nghe thấy… Mẹ cho thêm củi vào lò và đập băng trong xô nước bỏ đầy ấm trà. Xô nước chỉ đầy chừng một nửa. Cả nhà sẽ phải tiết kiệm nước vì không ai có thể ra giếng kéo nước giữa cơn bão thế này. Nhưng tuyết ở trên nền nhà rất sạch. Laura xúc tất cả vào chậu nước rửa rồi đặt lên lò cho tan ra để dùng làm nước rửa ráy. Lúc này không khí gần lò bếp không lạnh lắm nên cô quấn bé Grace trong mền, bồng tới bên lò bếp thay quần áo cho bé. Mary và Carrie cũng run rẩy thay quần áo sát cửa lò để ngỏ. Tất cả đều mang vớ dài và đi giầy. Bữa ăn sáng đã đợi sẵn khi bố trở về. Bố như bị cuốn vào nhà với tiếng gió hú và tiếng tuyết quay cuồng. Ngay sau khi hơ nóng người lại, bố nói ngay: - Đó, những con cầy hương kia biết rõ điều gì sẽ đến, phải không Laura? Và cả lũ ngỗng trời cũng vậy. Mẹ nói: - Thế là không còn ngạc nhiên nữa về việc chúng không đáp xuống hồ. Bố nói: - Lúc này chắc hồ đóng băng rồi. Nhiệt độ xuống dưới gần không độ và có thể còn thấp hơn. Bố liếc nhìn hộc củi khi nói chuyện. Laura chất đầy hộc vào tối qua nhưng số củi còn lại đã vơi. Thế là ngay sau khi ăn sáng xong, bố quấn người thật kín ra vác từng ôm củi lớn từ ngoài đóng vào. Căn lều trở nên lạnh hơn. Lò bếp không đủ hâm nóng không khí lạnh ở bên trong những vách ván mỏng. Không thể làm gì được ngoài việc cuộn mình trong áo khoác, khăn choàng và ngồi sát bên lò bếp. Mẹ nói: - Thật mừng là đã ngâm đậu vào tối hôm qua. Mẹ mở vung chiếc ấm đang sôi và sổ nhanh một muỗng nước sô-đa. Đậu sôi sùng sục và nổi bọt nhưng không trào ra. Mẹ nói: - Cũng vẫn còn một miếng thịt heo ướp muối. Chốc chốc mẹ lại dùng muỗng múc ra vài hạt đậu và thổi cho nguội. Khi vỏ đậu tách ra và quăn lên, mẹ chắt hết nước sô-đa khỏi ấm và đổ đầy nước nóng vào. Mẹ bỏ vào một miếng mỡ heo. Bố nói: - Không gì ngon hơn món xúp đậu nóng trong một ngày giá lạnh. Bố cúi xuống nhìn Grace đang kéo bàn tay bố. - Sao, mắt xanh, con muốn gì? Grace nói: - Một chuyện! Carrie nài nỉ: - Bố kể cho chúng con câu chuyện về ông nội và con heo trên cỗ xe trượt tuyết đi. Thế là bố nhấc Grace và Carrie ngồi lên đầu gối và bắt đầu kể lại những câu chuyện mà bố thường kể cho Mary và Laura ở vùng Big Woods khi các cô còn bé. Mẹ và Mary bận bịu đan áo trong những chiếc ghế đu chất đầy mền được kéo tới sát lò bếp còn Laura quấn khăn choàng kín người đứng giữa lò bếp và vách lều. Hơi lạnh trườn vào từ các góc lều tiến sát mãi tới lò bếp. Những đợt gió lạnh buốt bám dính và khua động những tấm màn che xung quanh mấy chiếc giường. Căn lều nhỏ run rẩy trong cơn bão. Nhưng mùi vị đậu đang sôi rất dễ chịu và có vẻ khiến cho không khí ấm hơn lên. Buổi trưa, mẹ xắt mỏng bánh mì và đổ đầy nước xúp đậu nóng vào chén cho mỗi người có thể ngồi ăn tại chỗ ngay bên lò bếp. Rồi tất cả đều uống trà nóng pha đậm. Thậm chí mẹ còn cho bé Grace uống một ly trà sữa. Trà sữa thật ra chỉ gồm nước nóng với sữa và một ít trà nhưng các cô bé đều cảm thấy đã lớn hơn khi được mẹ cho uống trà sữa. Món xúp nóng và nước trà nóng khiến mọi người ấm lên. Họ ăn hết nước đậu rồi mẹ vét đậu cho vào một chảo sữa, đặt một miếng mỡ heo vào giữa và chế thêm lên trên một ít mật mía. Mẹ đặt chảo vào lò hấp đóng cửa lò lại. Cả nhà sẽ có món đậu hầm cho bữa ăn tối. Sau đó, bố đi lấy thêm củi. Tất cả đều mừng vì đống củi ở sát gần cửa sau. Mới ôm được ôm củi đầu tiên bố đã loạng choạng hụt hơi. Khi có thể lên tiếng nổi, bố nói: - Gió thổi bạt hơi bố đi hết. Nếu bố biết trước có một cơn bão thế này, bố đã chất củi đầy nhà từ hôm qua. Bây giờ thì bố mang tuyết vào nhà nhiều hơn củi. Sự thực gần đúng như thế. Mỗi lần Laura mở cửa cho bố là tuyết lại cuốn vào. Tuyết rơi trên người bố và phủ đầy củi. Thứ tuyết này cứng như băng và mịn như cát, và do cửa cứ mở ra khiến hơi lạnh ùa vào làm cho tuyết không tan nổi. Bố nói: - Vậy là tạm đủ cho lúc này rồi. Nếu bố đưa thêm hơi lạnh vào nữa thì số củi bố mang vào không đủ tạo sức nóng để lùa hơi lạnh đi. Bố nói: - Lúc nào quét tuyết xong thì mang đàn cho bố, Laura. Ngay khi mấy ngón tay bố cựa quậy được, mình sẽ có một âm thanh để át tiếng gào của gió. Một lát sau bố đã có thể so lại dây và chuốt chiếc vĩ. Rồi bố đặt cây đàn lên vai và hát theo tiếng đàn: Nếu được sống lại thời trai trẻ Cuộc đời ta sẽ khác vô cùng Ta sẽ có tiền bạc, ruộng đồng Và mãi mãi cùng Dinah xum họp Nhưng nay đã da mồi tóc bạc Làm được điều chi nữa mà mong Xin cho ta được quay trở lại Về với bờ đất cũ xa xăm Đời vẫn cứ đưa ta đi mãi Đưa ta đi tới phút sau cùng… Mẹ cắt ngang: - Thôi, để yên đi. Em đang chờ nghe tiếng gió. Mẹ cố giữ cho bé Grace được ấm còn Grace đang rấm rứt vùng ra. Mẹ đặt bé xuống nói: - Đó, chạy đi nếu con thấy phải làm như thế! Con sẽ mừng được quay lại với lò bếp. Bố kêu lên: - Phải nói gì với các con bây giờ! Laura, Carrie hãy ra đó với Grace và bước đều, bước! Như thế máu sẽ vận chuyển và ấm lên. Thật không dễ rời khỏi chỗ ẩn mình với những chiếc khăn choàng quấn kín nhưng các cô phải làm như bố nói. Rồi giọng bố vang lên mạnh mẽ theo tiếng đàn: Tiến lên! Tiến lên! Hỡi người dũng cảm! Các chàng trai, còn chờ đợi điều chi? Tiến lên! Tiến lên! Hỡi người dũng cảm! Màu mũ xanh đang phủ kín biên thùy Cờ biển tung bay đưa ta bước tới Tiếng thơm này sử sách mãi ghi. Laura cùng Carrie và Grace bước đều vòng quanh cùng cố sức hát lớn và đạp chân thình thịch trên nền nhà. Núi cao không chùn bước Những đứa con đất nước Quyết đấu tranh Cho gia đình và tổ quốc vẻ vang! Tất cả đều cảm thấy đang có những biểu ngữ tung bay phía trước và tất cả đang bước lên dành thắng lợi vinh quang. Thậm chí các cô còn không nghe cả tiếng bão gầm rú và ấm tới tận đầu ngón chân. Rồi tiếng nhạc dứt hẳn và bố cất đàn vào hộp. - Thôi, các con gái! Thế là đủ để tiến lên chống lại cơn bão này và tìm được thoải mái suốt đêm. Sẽ đáng khiển trách nếu điệu nhạc cổ này không xốc được tinh thần bố lên để chiến đấu ngay với một trận bão tuyết! Trong lúc bố cất hộp đàn, mẹ hơ ấm áo khoác và khăn quàng của bố bên lò bếp. Phía ngoài gió vẫn gào hú giận dữ. Mẹ hẹn với bố: - Mình vẫn còn đậu hầm và trà nóng chờ sẵn khi anh trở về, Charles. Và lúc đó tất cả sẽ lên giường ấm áp tựa như bão sẽ phải qua đi vào buổi sáng. Nhưng buổi sáng bố lại hát bài hát về hoa hướng dương. Cửa sổ vẫn phủ một lớp trắng nhạt nhòa và gió vẫn lùa tuyết vào căn lều nhỏ run rẩy. Trận bão tuyết kéo dài thêm hai ngày hai đêm nữa. 5. SAU CƠN BÃO Vào buổi sáng thứ tư, Laura có một cảm giác khác lạ ở trong tai. Cô hé mền nhìn ra và thấy tuyết dồn đống trên giường. Có tiếng nắp lò bếp va chạm khe khẽ rồi tiếng lửa bắt cháy lách tách. Lúc đó cô hiểu vì sao tai cô lại cảm thấy trống vắng. Tiếng ồn ào của trận bão đã dứt hẳn! Cô hích cùi chỏ vào người Mary kêu lớn: - Dậy thôi, Mary! Hết bão tuyết rồi! Cô nhảy ra khỏi chiếc giường ấm áp bước vào không khí lạnh như băng. Hình như lò bếp đang cháy vẫn không đủ sức nóng. Xô nước tuyết gần như đông cứng lại. Nhưng các ô cửa sổ đọng sương đang rạng sáng ánh nắng. Bố nói khi bước vào nhà: - Phía ngoài lạnh hơn bao giờ hết. Bố khom người trên lò bếp để rũ đám băng đọng trên hàm râu. Băng rớt xèo xèo trên nắp lò và bốc hơi. Bố chùi râu và tiếp tục nói: - Gió xé toạc một mảnh giấy chống thấm ở trên mái, dù đã được gắn rất chặt. Không có gì lạ khi mưa và tuyết từ trên mái rớt xuống. Laura nói: - Dù sao, bão cũng đã qua rồi. Thật dễ chịu khi ngồi ăn sáng và ngắm những ô kính cửa sổ ửng vàng. Mẹ quả quyết: - Mình sẽ có một mùa thu kéo dài. Cơn bão này đến sớm thế thì không thể là mở đầu cho mùa đông. Bố thừa nhận: - Anh chưa bao giờ thấy mùa đông đến sớm như vậy. Nhưng anh không thích cái cảm giác của những con vật. Mẹ thắc mắc: - Những con vật nào, Charles? Bố không thể nói một cách chính xác: - Có một số dấu vết súc vật ở gần những đống cỏ khô. Mẹ hỏi nhanh: - Chúng có giật đổ cỏ không? Bố đáp: - Không. Mẹ nói: - Vậy thì có sao đâu khi chúng không làm hại gì? Bố nói: - Anh đoán là chúng quá mệt do trận bão và đi kiếm chỗ trú ẩn ở bên các đống cỏ. Anh nghĩ là sẽ để cho chúng nghỉ ngơi và ăn một chút trước khi lùa chúng đi. Anh không thể để chúng kéo sập các đống cỏ nhưng chúng có thể ăn một chút và không làm điều gì tệ hại. Nhưng chúng lại không ăn. Mẹ hỏi: - Rồi có gì ổn không? Bố nói: - Chẳng có gì cả. Chúng chỉ đứng tại đó. Mẹ nói: - Thế thì có gì phải lo lắng. Bố nói: - Không! Bố uống trà rồi nói: - Thôi, anh cứ ra đuổi chúng đi cũng hay. Bố khoác áo, đội mũ, mang găng tay và bước ra. Một thoáng sau, mẹ nói: - Laura, tốt hơn là con nên đi với bố. Bố có thể cần phụ giúp để đuổi đám súc vật khỏi các đống cỏ. Laura hối hả để mẹ giúp choàng khăn san lên đầu và cài chắc dưới cằm bằng cây kẹp khăn. Những nếp gấp bằng len phủ kín từ đầu tới chân cô. Ngay cả các bàn tay cô cũng ủ dưới chiếc khăn san. Duy nhất chỉ có mặt cô là hở ra. Ánh nắng phía ngoài khiến cô chóa mắt. Cô hít một hơi dài làn hơi lạnh và đảo mắt ngó quanh. Bầu trời xanh thẳm và khắp mặt đất là màu trắng lay động trong gió. Gió thổi mạnh nhưng không cuốn tung tuyết lên mà chỉ lùa qua đồng cỏ. Hơi lạnh đập vào má Laura, xộc thẳng vào mũi, lòn trên ngực và bốc thành hơi trong không khí. Cô che một chéo khăn ngang miệng và hơi thở của cô thành sương giá trên đó. Khi bước qua góc chuồng ngựa, cô nhìn thấy bố đang đi phía trước và nhìn thấy lũ súc vật. Cô dừng lại ngó. Lũ súc vật đang đứng dưới nắng trong mảng bóng che của những đống cỏ, con màu đỏ, con màu nâu, con lốm đốm và một con màu đen nhạt. Tất cả đều đứng bất động, đầu chúi xuống đất. Tất cả những chiếc cổ màu đỏ, màu nâu lông xù xì đều vươn dài từ những khuôn vai xương xẩu tới những chiếc đầu màu trắng phồng to lên một cách quái đản. Laura hét lớn: - Bố! Bố ra dấu cho cô đứng im tại chỗ. Bố lết qua lớp tuyết đang bay là đà nhích về phía những con vật đó. Chúng hoàn toàn không giống trâu bò. Chúng đứng im lìm một cách dễ sợ. Cả bầy không hề có một cử động nhỏ. Chỉ hơi thở của chúng khiến khoảng sườn giữa các khung xương hóp lại rồi phình ra. Xương hông và xương vai của chúng nhô lên. Chúng xoải chân ra vững vàng và bất động. Và ở phần đầu của chúng là những khối u màu trắng phồng lên giống như cắm xuống đất dưới lớp tuyết lay động. Tóc trên đầu Laura dựng đứng lên và một cảm giác kinh hoàng chạy dọc sống lưng cô. Nước mắt trào ra từ những con mắt đang nhìn sững và chảy lạnh buốt trên má cô. Bố tiếp tục đi thật chậm ngược chiều gió. Bố đã tới sát lũ súc vật. Không một con nào cử động. Bố đứng nhìn một hồi. Rồi bố cúi khom xuống và làm thật nhanh một điều gì đó. Laura nghe thấy một tiếng rống và một thớt lưng bò đực nhô cao nhảy bật lên. Com bò đực màu đỏ lọang choạng chạy và rống lớn. Nó chỉ có một chiếc đầu bình thường với mắt, mũi và chiếc miệng đang mở lớn nhả hơi nước vào trong gió. Một con khác rống lên và chạy đi giận dữ, lảo đảo. Rồi một con khác nữa. Bố lần lượt làm cùng một điều với tất cả những con khác. Tiếng rống của chúng bốc lên trên nền trời lạnh. Cuối cùng, tất cả bầy tụ lại kéo đi. Lúc này chúng đi lặng lẽ trong đám tuyết dầy văng tung tóe. Bố vẫy tay cho Laura trở về trong lúc bố đi coi lại các đống cỏ. Mẹ hỏi: - Có gì mà ở ngoài đó lâu vậy, Laura? Lũ trâu bò có làm hư các đống cỏ không? Cô đáp: - Không, mẹ! Đầu của chúng.. Con đoán là đầu của chúng bị dính cứng vào mặt đất. Mẹ kêu lên: - Đâu có thể như vậy được! Mary đang ngồi đan trên chiếc ghế gần lò bếp cũng nói: - Đó đúng là một ý nghĩ kì quái của Laura. Làm sao mà đầu của cả đàn bò có thể đông dính cứng vào mặt đất được, Laura? Đôi lúc thực đáng lo về cách nói của em. Laura đáp gọn: - Được, chị hãy hỏi bố! Cô không thể kể với mẹ và Mary về điều cô đã cảm thấy. Cô cảm thấy bằng một cách nào đó giữa trời đêm hoang vu và bão táp, sự tĩnh lặng ở phía dưới tất cả những âm thanh trên đồng cỏ đã cột giữ lũ bò lại. Khi bố trở về, mẹ hỏi: - Có điều gì xảy ra với đám gia súc, Charles? Bố nói: - Đầu của chúng bị đông cứng lại cùng với băng và tuyết. Hơi thở của chúng đóng băng trên mắt và trên mũi chúng cho tới khi chúng không nhìn và thở nổi nữa. Laura ngừng quét nhà, lên tiếng trong sự kinh hãi: - Bố! Chúng con còn hơi chứ! Chúng con sẽ chết ngạt mất! Bố hiểu ngay cô đang cảm nghĩ gì. Bố nói: - Lúc này thì tất cả chúng đều ổn rồi, Laura. Bố đã đập băng khỏi đầu chúng. Lúc này chúng đ thở và bố đoán là chúng đã trú ẩn ở một nơi nào đó. Carrie và Mary đều trợn tròn mắt và ngay cả mẹ cũng tỏ vẻ kinh hãi. Mẹ nói nhanh: - Quét cho xong đi, Laura. Còn Charles, trời ơi, sao anh không lo cởi đồ và sưởi ấm đi? Bố nói: - Anh có một tứ để khoe với mọi người. Bố rút bàn tay ra khỏi túi một cách cẩn thận: - Coi đây, các con, coi xem bố tìm thấy thứ gì trốn trong một đống cỏ. Bố từ từ mở bàn tay ra. Giữa khoảng trống của chiếc bao tay là một con chim nhỏ. Bố khẽ đặt con chim lên hai bàn tay Mary. Mary kêu lên trong lúc mấy đầu ngón tay vuốt nhẹ nó: - Sao, nó đứng thẳng được! Tất cả chưa từng thấy một con chim như thế. Nó nhỏ giống như hệt bức hình con chim cánh cụt lớn trong cuốn sách bìa xanh của bố “ Những điều kì diệu trong thế giới loài vật”. Nó cũng có phần ngực trắng, lưng và cánh đen, có những chiếc chân ngắn lui hẳn về phía sau và có cùng bàn chân rộng với màng che. Nó đứng thẳng trên hai chiếc chân ngắn giống như một người tí hon với quần dài và áo khoác màu đen, chiếc sơ-mi trắng ở phía trước và đôi cánh đen nhỏ là hai cánh tay. - Chim gì vậy, bố? Ô, chim gì vậy? Carrie kêu lên thích thú và giữ mấy bàn tay nôn nóng của Grace lại: - Không được đụng nó, Grace. Bố nói: - Bố chưa từng gặp một thứ gì như thế. Chắc là nó bị kiệt sức do bão và tình cở rớt xuống đúng đống cỏ. Thế là nó trườn vào trong cỏ để trú ẩn. Laura nói: - Đúng là giống chim cánh cụt. Nhưng nó chỉ là một con con. Mẹ nói: - Nó lớn hơn hẳn rồi chứ không còn là một con chim non đâu. Coi lông nó kìa. Bố đồng ý: - Ừ, nó lớn hẳn rồi. Con chom nhỏ đứng thẳng trên lòng bàn tay mềm mại của Mary nhìn tất cả bằng cặp mắt đen long lanh. Bố nói: - Chắc trước đây nó chưa hề nhìn thấy người ta. Mary hỏi: - Làm sao bố biết được, bố? Bố nói: - Vì nó không sợ chúng ta. Carrie năn nỉ: - Ô, chúng con giữ nó, được không bố? Được không, mẹ? Bố đáp: - Được, nhưng còn tùy. Mấy ngón tay Mary vuốt ve khắp thân hình con chim nhỏ trong lúc Laura kể cho cô nghe cái ức của nó trắng mượt ra sao và lưng nó, đuôi nó và những chiếc cánh nhỏ của nó đen tới mức nào. Rồi các cô cho Grace sờ nhẹ nhàng vào nó. Con chim cánh cụt nhỏ nhoi đứng im lìm nhìn tất cả. Khi được thả trên nền nhà, nó bước đi một đoạn ngắn. Rồi nó bấu những vuốt chân trên mặt ván và vỗ vỗ những cánh nhỏ. Bố nói: - Nó không thể bay được đâu. Đây là một loại chim dưới nước. Nó phải bắt đầu bay từ trong nước vì ở đó nó mới có thể dùng những bàn chân có màng kia để tăng tốc độ. Cuối cùng con chim được đặt vào trong một chiếc hộp ở góc nhà. Nó đứng nhìn mọi người bằng những con mắt tròn đen láy sáng long lanh và tất cả đều thắc mắc không rõ thức ăn của nó là gì. Bố nói: - Đây là một cơn bão quẩn quanh kì lạ. Anh không thích chút nào cả. Mẹ nói: - Sao, Charles, đó chỉ là một trận bão tuyết. Lúc này có vẻ mình đã có được thứ thời tiết ấm áp. Trời để bắt đầu ấm lên rồi. Mary lại nhấc món đồ đan lên và Laura tiếp tục quét. Bố đứng bên cửa sổ và một lát sau, Carrie dắt bé Grace rời khỏi con chim cánh cụt nhỏ để nhìn ra ngoài. Carrie chợt kêu lên: - Ô, coi kìa! Những con thỏ lớn! Xung quanh chuồng ngựa có tới một tá thỏ đang nhảy nhót. Bố nói: - Cái quái quỉ này đã sống trên dám cỏ khô của mình suốt thời gian có bão. Phải đem súng ra kiếm một bữa thịt thỏ hầm mới được. Nhưng bố vẫn đứng bên cửa sổ ngắm lũ thỏ chứ không tiến về phía cây súng. Laura nài xin: - Tha cho chúng lần này đi, bố. Sở dĩ chúng tới chỉ vì chúng phải tới thôi, chúng cần tìm chổ trú ẩn. Bố nhìn mẹ và mẹ mỉm cười: - Mình không đói lắm, Charles, và em rất mừng về những thứ mình đã có để qua cơn bão. Bố nói: - Thôi, anh nghĩ là anh có thể chia một chút cỏ khô với lũ thỏ đó. Bố cầm lấy xô nước và đi ra giếng. Khi bố mở cửa, không khí ùa vào lạnh hơn nhưng nắng đã bắt đầu làm tan tuyết trên bờ phía nam của căn lều. 6. MÙA THU MUỘN Sáng hôm sau chỉ còn những mảnh băng vụn trong xô nước và ban ngày đã có nắng ấm. Bố mang bẫy đi đặt để bắt lũ cầy hương trong đầm Big Slough còn Carrie và Grace chơi ở ngoài sân. Con chim cánh cụt nhỏ không ăn gì. Nó không bật ta tiếng kêu nào nhưng Carrie và Laura nghĩ nó nhìn mọi người bằng ánh mắt thất vọng. Nó sẽ chết nếu không có thức ăn nhưng nó tỏ ra không biết làm cách nào để ăn những thứ mà mọi người đưa tới. Trong bữa ăn trưa, bố cho biết băng đang tan trên hồ nước Bạc. Bố nghĩ rằng con chim nhỏ lạ lùng kia có thể tự lo cho nó trên mặt nước thênh thang. Thế là sau bữa ăn, Laura và Mary mặc áo khoác, choàng mũ trùm đi theo bố tới chỗ thả con chim cánh cụt nhỏ. Hồ nước Bạc đang gợn những lớp song bạc và xanh nhạt dưới bầu trời màu xanh nhạt ấm áp. Băng chỉ còn dọc theo những mé bờ và là những tảng màu xám phẳng nổi lềnh bềnh trên sóng. Bố lấy con chim cánh cụt nhỏ ra khỏi túi. Nó đứng trên lòng bàn tay của bố trong lớp áo khoác màu đen mịn và chiếc áo sơ-mi trắng gọn gàng ở phía trước bằng những sợi lông nhỏ li ti. Nó nhìn mặt đất, bầu trời và mặt nước rồi nôn nóng nhón chân lên và vươn dài đôi cánh nhỏ. Nhưng nó không thể đi, cũng không thể bay. Đôi cánh quá nhỏ để nhấc bổng nó lên. Bố nói: - Nó không thuộc về mặt đất. Đây là loài chim dưới nước. Bố ngồi xổm gần một tảng băng trắng mỏng bên bờ hồ và cố vươn ra xa, bố hất con chim nhỏ từ bàn tay xuống làn nước trong xanh. Trong chớp mắt, nó vừa ở đó đã biến mất ngay. Ngoài xa những tảng băng là một vệt sọc dài rồi một hố đen. Bố nói: - Nó đang tăng tốc độ kìa, với những bàn chân có màng để nhấc bổng nó lên… Nó bay rồi! Laura không kịp nhìn theo nó bay lên nhỏ xíu giữa bầu trời xanh bao la chói nắng. Rồi, trong ánh nắng lấp lóe, nó biến mất. Hai mắt cô lóa nắng không còn nhìn thấy gì nữa. Nhưng bố vẫn đứng nhìn theo nó đang bay về phía nam. Tất cả không bao giờ hiểu chuyện gì đã xảy ra cho con chim nhỏ khi nó từ phía bắc xa xôi bay tới trong bão táp và cả khi nó về phía nam ngập nắng. Tất cả không bao giờ thấy hoặc nghe nói về một con chim khác giống như nó. Tất cả cũng không bao giờ tìm xem con chim đó thuộc giống chim nào. Bố vẫn đứng nhìn thật xa qua mặt đất mênh mông. Tất cả các đường cong trên đồng cỏ đều điểm màu từ nâu nhạt sang màu da thuộc, rồi màu vàng xám, màu tím phớ nhẹ xanh lá non và ở xa hơn là màu xanh xám. Nắng ấm và không khí như nhuốm sương mù. Laura chỉ cảm thấy hơi lạnh ở bàn chân do đứng gần những tảng băng bên bờ hồ. Mọi vật đều im lìm. Không có gió khuấy động lớp cỏ màu xám bạc và không có một bóng chim trên mặt nước hoặc trên bầu trời. Nước hồ chỉ vỗ nhẹ vào mé bờ của sự tĩnh lặng đó. Laura nhìn bố và cô biết bố cũng đang lắng nghe. Sự im ả còn khủng khiếp hơn cái lạnh. Nó mạnh hơn bất kì âm thanh nào. Nó có thể chặn đứng tiếng nước róc rách và những âm vang nhòa nhạt trong tai Laura. Sự im ả bao gồm cả không có âm thanh, không có chuyển động, không có một thứ gì ngoài sự đáng sợ của riêng nó. Tim Laura rộn lên vùng nhảy như muốn cố trốn ra khỏi nó. Bố chậm rãi lắc đầu nói: - Bố không thích thế. Bố không thích cái cảm giác về thời tiết. Có một cái gì… Bố không thể nói rõ cái gì đó ra sao và bố nhắc lại: - Bố không thích thế. Bố không thích thế chút nào. Không ai có thể nói đích xác có một cái gì đó bất thường trong thời tiết. Trời đang ở tiết thu muộn khá đẹp. Mỗi đêm đều có sương giá và thỉnh thoảng có đống băng còn ngày đều có nắng. Mỗi buổi chiều Laura và Mary dạo bộ trong nắng ấm trong lúc Carrie chơi với bé Grace ở cạnh nhà. Mẹ nhắc: - Hãy ráng sưởi nắng cho thật nhiều. Mùa đông sắp tới rồi và lúc đó các con sẽ phải bó gối ở trong nhà. Tất cả đều ra ngoài trong thời tiết sáng sủa nhẹ nhàng như để tích trữ ánh nắng và không khí dịu mát cho mùa đông khi họ không thể còn có gì. Nhưng thường thì trong lúc dạo bộ, Laura vẫn nhìn thật nhanh về hướng bắc. Cô không biết rõ tại sao. Ở đó chẳng có gì cả. Đôi lúc cô đứng im trong nắng ấm lắng nghe và thấy khó chịu. Không có lí lẽ nào để giải thích. Bố nói: - Sắp tới một mùa đông ác liệt. Mùa đông ác liệt nhất mà mình gặp. Mẹ phản đối: - Sao thế, Charles. Lúc này thời tiết đang rất dễ chịu. Chỉ có một cơn bão sớm thì chưa hẳn là lí do để bão trọn mùa đông sẽ tồi tệ. Bố nói: - Anh đã đánh bẫy cầy hương khá nhiều năm rồi và chưa bao giờ anh thấy chúng làm vách ổ dầy như thế. Mẹ nói: - Những con cầy hương! Bố nói: - Bằng một cách nào đó, những con thú hoang lại biết rõ. Mọi loài thú hoang đều đã sẵn sàng cho một mùa đông ghê gớm. Mẹ nêu ý kiến: - Có lẽ chúng chỉ sẵn sàng vì đã có trận bão dữ dội kia. Nhưng bố không tin như thế. Bố nói: - Phần anh, anh không thích cái cảm giác của các con vật. Thời tiết hiện nay giống như che giấu một điều gì mà không cho phép bỏ phí một chút. Nếu anh là một con thú, anh sẽ lùng sục trong hang của mình và đào cho nó sâu hơn. Còn nếu anh là một con ngỗng trời, anh sẽ xoải cánh bay khỏi đây. Mẹ cười với bố: - Anh đúng là một con ngỗng trời đó, Charles! Em chưa biết có lúc nào em thấy được một mùa thu muộn đẹp hơn. Chương 4: Những Ngày Hạnh Phúc Laura thình lình thức giấc. Cô nghe thấy tiếng hát và tiếng vỗ tay kỳ cục. Đời như đóa hướng dương này (bộp! bộp!) Ngả nghiêng vùng vẫy giữa heo may(bộp! bộp!) Tim ta (bộp!) như gió (bộp!) bay phơi phới (bộp! bộp!) Thổi là bay lìa khỏi nhánh cây (bộp! bộp!) Bố đang hát sôi nổi và đập cánh tay vào ngực. Mũi Laura lạnh buốt vì hở ra ngoài do cô cuốn mền xuống. Cô thò hẳn đầu ra và lúc này cô biết tại sao bố lại đập tay như thế. Bố đang cố làm nóng các bàn tay. Bố đã nhóm lửa. Trong lò, lửa đang réo, nhưng không khí vẫn lạnh buốt. Trên mền, ngay nơi nước rớt xuống từ một kẽ hở, tiếng băng rạn vỡ. Gió gào hú xung quanh căn lều, từ trên mái nhà và khắp các bức vách vang lên những tiếng động chà xát. Carrie hỏi trong cơn ngái ngủ: - Gì vậy? Laura nói: - Có bão tuyết. Em với Mary cứ nằm yên ở đây đi. Cẩn thận không cho hơi lạnh lòn vào dưới mền, cô trườn ra khỏi chiếc giường ấm áp. Răng cô va đập lách cách trong lúc cô mặc quần áo. Mẹ cũng đang thay đồ ở phía bên kia tấm màn che, nhưng cả hai đều không lên tiếng vì quá lạnh. Hai mẹ con cùng tới bên lò bếp. Lửa ở đây đang cháy dữ dội nhưng không làm nóng ngay nổi không khí trong nhà. Một màn tuyết trắng quay cuồng mù mịt trên cửa sổ. Gió lùa tuyết qua khe hở dưới cửa ra vào lòn khắp nền nhà và mỗi núm đinh trên các bức vách đều trắng sương giá. Bố đã ra chuồng ngựa. Laura mừng là có cả một hàng dài đống cỏ giữa chuồng ngựa và căn lều. Cứ đi lần theo từng đống cỏ, bố sẽ không thể bị lạc. Mẹ lập cập: - M…một cơn b- b- bão tuyết! Trong tháng mười! Mẹ không bao giờ nghe thấy… Mẹ cho thêm củi vào lò và đập băng trong xô nước bỏ đầy ấm trà. Xô nước chỉ đầy chừng một nửa. Cả nhà sẽ phải tiết kiệm nước vì không ai có thể ra giếng kéo nước giữa cơn bão thế này. Nhưng tuyết ở trên nền nhà rất sạch. Laura xúc tất cả vào chậu nước rửa rồi đặt lên lò cho tan ra để dùng làm nước rửa ráy. Lúc này không khí gần lò bếp không lạnh lắm nên cô quấn bé Grace trong mền, bồng tới bên lò bếp thay quần áo cho bé. Mary và Carrie cũng run rẩy thay quần áo sát cửa lò để ngỏ. Tất cả đều mang vớ dài và đi giầy. Bữa ăn sáng đã đợi sẵn khi bố trở về. Bố như bị cuốn vào nhà với tiếng gió hú và tiếng tuyết quay cuồng. Ngay sau khi hơ nóng người lại, bố nói ngay: - Đó, những con cầy hương kia biết rõ điều gì sẽ đến, phải không Laura? Và cả lũ ngỗng trời cũng vậy. Mẹ nói: - Thế là không còn ngạc nhiên nữa về việc chúng không đáp xuống hồ. Bố nói: - Lúc này chắc hồ đóng băng rồi. Nhiệt độ xuống dưới gần không độ và có thể còn thấp hơn. Bố liếc nhìn hộc củi khi nói chuyện. Laura chất đầy hộc vào tối qua nhưng số củi còn lại đã vơi. Thế là ngay sau khi ăn sáng xong, bố quấn người thật kín ra vác từng ôm củi lớn từ ngoài đóng vào. Căn lều trở nên lạnh hơn. Lò bếp không đủ hâm nóng không khí lạnh ở bên trong những vách ván mỏng. Không thể làm gì được ngoài việc cuộn mình trong áo khoác, khăn choàng và ngồi sát bên lò bếp. Mẹ nói: - Thật mừng là đã ngâm đậu vào tối hôm qua. Mẹ mở vung chiếc ấm đang sôi và sổ nhanh một muỗng nước sô-đa. Đậu sôi sùng sục và nổi bọt nhưng không trào ra. Mẹ nói: - Cũng vẫn còn một miếng thịt heo ướp muối. Chốc chốc mẹ lại dùng muỗng múc ra vài hạt đậu và thổi cho nguội. Khi vỏ đậu tách ra và quăn lên, mẹ chắt hết nước sô-đa khỏi ấm và đổ đầy nước nóng vào. Mẹ bỏ vào một miếng mỡ heo. Bố nói: - Không gì ngon hơn món xúp đậu nóng trong một ngày giá lạnh. Bố cúi xuống nhìn Grace đang kéo bàn tay bố. - Sao, mắt xanh, con muốn gì? Grace nói: - Một chuyện! Carrie nài nỉ: - Bố kể cho chúng con câu chuyện về ông nội và con heo trên cỗ xe trượt tuyết đi. Thế là bố nhấc Grace và Carrie ngồi lên đầu gối và bắt đầu kể lại những câu chuyện mà bố thường kể cho Mary và Laura ở vùng Big Woods khi các cô còn bé. Mẹ và Mary bận bịu đan áo trong những chiếc ghế đu chất đầy mền được kéo tới sát lò bếp còn Laura quấn khăn choàng kín người đứng giữa lò bếp và vách lều. Hơi lạnh trườn vào từ các góc lều tiến sát mãi tới lò bếp. Những đợt gió lạnh buốt bám dính và khua động những tấm màn che xung quanh mấy chiếc giường. Căn lều nhỏ run rẩy trong cơn bão. Nhưng mùi vị đậu đang sôi rất dễ chịu và có vẻ khiến cho không khí ấm hơn lên. Buổi trưa, mẹ xắt mỏng bánh mì và đổ đầy nước xúp đậu nóng vào chén cho mỗi người có thể ngồi ăn tại chỗ ngay bên lò bếp. Rồi tất cả đều uống trà nóng pha đậm. Thậm chí mẹ còn cho bé Grace uống một ly trà sữa. Trà sữa thật ra chỉ gồm nước nóng với sữa và một ít trà nhưng các cô bé đều cảm thấy đã lớn hơn khi được mẹ cho uống trà sữa. Món xúp nóng và nước trà nóng khiến mọi người ấm lên. Họ ăn hết nước đậu rồi mẹ vét đậu cho vào một chảo sữa, đặt một miếng mỡ heo vào giữa và chế thêm lên trên một ít mật mía. Mẹ đặt chảo vào lò hấp đóng cửa lò lại. Cả nhà sẽ có món đậu hầm cho bữa ăn tối. Sau đó, bố đi lấy thêm củi. Tất cả đều mừng vì đống củi ở sát gần cửa sau. Mới ôm được ôm củi đầu tiên bố đã loạng choạng hụt hơi. Khi có thể lên tiếng nổi, bố nói: - Gió thổi bạt hơi bố đi hết. Nếu bố biết trước có một cơn bão thế này, bố đã chất củi đầy nhà từ hôm qua. Bây giờ thì bố mang tuyết vào nhà nhiều hơn củi. Sự thực gần đúng như thế. Mỗi lần Laura mở cửa cho bố là tuyết lại cuốn vào. Tuyết rơi trên người bố và phủ đầy củi. Thứ tuyết này cứng như băng và mịn như cát, và do cửa cứ mở ra khiến hơi lạnh ùa vào làm cho tuyết không tan nổi. Bố nói: - Vậy là tạm đủ cho lúc này rồi. Nếu bố đưa thêm hơi lạnh vào nữa thì số củi bố mang vào không đủ tạo sức nóng để lùa hơi lạnh đi. Bố nói: - Lúc nào quét tuyết xong thì mang đàn cho bố, Laura. Ngay khi mấy ngón tay bố cựa quậy được, mình sẽ có một âm thanh để át tiếng gào của gió. Một lát sau bố đã có thể so lại dây và chuốt chiếc vĩ. Rồi bố đặt cây đàn lên vai và hát theo tiếng đàn: Nếu được sống lại thời trai trẻ Cuộc đời ta sẽ khác vô cùng Ta sẽ có tiền bạc, ruộng đồng Và mãi mãi cùng Dinah xum họp Nhưng nay đã da mồi tóc bạc Làm được điều chi nữa mà mong Xin cho ta được quay trở lại Về với bờ đất cũ xa xăm Đời vẫn cứ đưa ta đi mãi Đưa ta đi tới phút sau cùng… Mẹ cắt ngang: - Thôi, để yên đi. Em đang chờ nghe tiếng gió. Mẹ cố giữ cho bé Grace được ấm còn Grace đang rấm rứt vùng ra. Mẹ đặt bé xuống nói: - Đó, chạy đi nếu con thấy phải làm như thế! Con sẽ mừng được quay lại với lò bếp. Bố kêu lên: - Phải nói gì với các con bây giờ! Laura, Carrie hãy ra đó với Grace và bước đều, bước! Như thế máu sẽ vận chuyển và ấm lên. Thật không dễ rời khỏi chỗ ẩn mình với những chiếc khăn choàng quấn kín nhưng các cô phải làm như bố nói. Rồi giọng bố vang lên mạnh mẽ theo tiếng đàn: Tiến lên! Tiến lên! Hỡi người dũng cảm! Các chàng trai, còn chờ đợi điều chi? Tiến lên! Tiến lên! Hỡi người dũng cảm! Màu mũ xanh đang phủ kín biên thùy Cờ biển tung bay đưa ta bước tới Tiếng thơm này sử sách mãi ghi. Laura cùng Carrie và Grace bước đều vòng quanh cùng cố sức hát lớn và đạp chân thình thịch trên nền nhà. Núi cao không chùn bước Những đứa con đất nước Quyết đấu tranh Cho gia đình và tổ quốc vẻ vang! Tất cả đều cảm thấy đang có những biểu ngữ tung bay phía trước và tất cả đang bước lên dành thắng lợi vinh quang. Thậm chí các cô còn không nghe cả tiếng bão gầm rú và ấm tới tận đầu ngón chân. Rồi tiếng nhạc dứt hẳn và bố cất đàn vào hộp. - Thôi, các con gái! Thế là đủ để tiến lên chống lại cơn bão này và tìm được thoải mái suốt đêm. Sẽ đáng khiển trách nếu điệu nhạc cổ này không xốc được tinh thần bố lên để chiến đấu ngay với một trận bão tuyết! Trong lúc bố cất hộp đàn, mẹ hơ ấm áo khoác và khăn quàng của bố bên lò bếp. Phía ngoài gió vẫn gào hú giận dữ. Mẹ hẹn với bố: - Mình vẫn còn đậu hầm và trà nóng chờ sẵn khi anh trở về, Charles. Và lúc đó tất cả sẽ lên giường ấm áp tựa như bão sẽ phải qua đi vào buổi sáng. Nhưng buổi sáng bố lại hát bài hát về hoa hướng dương. Cửa sổ vẫn phủ một lớp trắng nhạt nhòa và gió vẫn lùa tuyết vào căn lều nhỏ run rẩy. Trận bão tuyết kéo dài thêm hai ngày hai đêm nữa. Chương 5: Làm Việc Trong Thị Trấn Vào buổi sáng thứ tư, Laura có một cảm giác khác lạ ở trong tai. Cô hé mền nhìn ra và thấy tuyết dồn đống trên giường. Có tiếng nắp lò bếp va chạm khe khẽ rồi tiếng lửa bắt cháy lách tách. Lúc đó cô hiểu vì sao tai cô lại cảm thấy trống vắng. Tiếng ồn ào của trận bão đã dứt hẳn! Cô hích cùi chỏ vào người Mary kêu lớn: - Dậy thôi, Mary! Hết bão tuyết rồi! Cô nhảy ra khỏi chiếc giường ấm áp bước vào không khí lạnh như băng. Hình như lò bếp đang cháy vẫn không đủ sức nóng. Xô nước tuyết gần như đông cứng lại. Nhưng các ô cửa sổ đọng sương đang rạng sáng ánh nắng. Bố nói khi bước vào nhà: - Phía ngoài lạnh hơn bao giờ hết. Bố khom người trên lò bếp để rũ đám băng đọng trên hàm râu. Băng rớt xèo xèo trên nắp lò và bốc hơi. Bố chùi râu và tiếp tục nói: - Gió xé toạc một mảnh giấy chống thấm ở trên mái, dù đã được gắn rất chặt. Không có gì lạ khi mưa và tuyết từ trên mái rớt xuống. Laura nói: - Dù sao, bão cũng đã qua rồi. Thật dễ chịu khi ngồi ăn sáng và ngắm những ô kính cửa sổ ửng vàng. Mẹ quả quyết: - Mình sẽ có một mùa thu kéo dài. Cơn bão này đến sớm thế thì không thể là mở đầu cho mùa đông. Bố thừa nhận: - Anh chưa bao giờ thấy mùa đông đến sớm như vậy. Nhưng anh không thích cái cảm giác của những con vật. Mẹ thắc mắc: - Những con vật nào, Charles? Bố không thể nói một cách chính xác: - Có một số dấu vết súc vật ở gần những đống cỏ khô. Mẹ hỏi nhanh: - Chúng có giật đổ cỏ không? Bố đáp: - Không. Mẹ nói: - Vậy thì có sao đâu khi chúng không làm hại gì? Bố nói: - Anh đoán là chúng quá mệt do trận bão và đi kiếm chỗ trú ẩn ở bên các đống cỏ. Anh nghĩ là sẽ để cho chúng nghỉ ngơi và ăn một chút trước khi lùa chúng đi. Anh không thể để chúng kéo sập các đống cỏ nhưng chúng có thể ăn một chút và không làm điều gì tệ hại. Nhưng chúng lại không ăn. Mẹ hỏi: - Rồi có gì ổn không? Bố nói: - Chẳng có gì cả. Chúng chỉ đứng tại đó. Mẹ nói: - Thế thì có gì phải lo lắng. Bố nói: - Không! Bố uống trà rồi nói: - Thôi, anh cứ ra đuổi chúng đi cũng hay. Bố khoác áo, đội mũ, mang găng tay và bước ra. Một thoáng sau, mẹ nói: - Laura, tốt hơn là con nên đi với bố. Bố có thể cần phụ giúp để đuổi đám súc vật khỏi các đống cỏ. Laura hối hả để mẹ giúp choàng khăn san lên đầu và cài chắc dưới cằm bằng cây kẹp khăn. Những nếp gấp bằng len phủ kín từ đầu tới chân cô. Ngay cả các bàn tay cô cũng ủ dưới chiếc khăn san. Duy nhất chỉ có mặt cô là hở ra. Ánh nắng phía ngoài khiến cô chóa mắt. Cô hít một hơi dài làn hơi lạnh và đảo mắt ngó quanh. Bầu trời xanh thẳm và khắp mặt đất là màu trắng lay động trong gió. Gió thổi mạnh nhưng không cuốn tung tuyết lên mà chỉ lùa qua đồng cỏ. Hơi lạnh đập vào má Laura, xộc thẳng vào mũi, lòn trên ngực và bốc thành hơi trong không khí. Cô che một chéo khăn ngang miệng và hơi thở của cô thành sương giá trên đó. Khi bước qua góc chuồng ngựa, cô nhìn thấy bố đang đi phía trước và nhìn thấy lũ súc vật. Cô dừng lại ngó. Lũ súc vật đang đứng dưới nắng trong mảng bóng che của những đống cỏ, con màu đỏ, con màu nâu, con lốm đốm và một con màu đen nhạt. Tất cả đều đứng bất động, đầu chúi xuống đất. Tất cả những chiếc cổ màu đỏ, màu nâu lông xù xì đều vươn dài từ những khuôn vai xương xẩu tới những chiếc đầu màu trắng phồng to lên một cách quái đản. Laura hét lớn: - Bố! Bố ra dấu cho cô đứng im tại chỗ. Bố lết qua lớp tuyết đang bay là đà nhích về phía những con vật đó. Chúng hoàn toàn không giống trâu bò. Chúng đứng im lìm một cách dễ sợ. Cả bầy không hề có một cử động nhỏ. Chỉ hơi thở của chúng khiến khoảng sườn giữa các khung xương hóp lại rồi phình ra. Xương hông và xương vai của chúng nhô lên. Chúng xoải chân ra vững vàng và bất động. Và ở phần đầu của chúng là những khối u màu trắng phồng lên giống như cắm xuống đất dưới lớp tuyết lay động. Tóc trên đầu Laura dựng đứng lên và một cảm giác kinh hoàng chạy dọc sống lưng cô. Nước mắt trào ra từ những con mắt đang nhìn sững và chảy lạnh buốt trên má cô. Bố tiếp tục đi thật chậm ngược chiều gió. Bố đã tới sát lũ súc vật. Không một con nào cử động. Bố đứng nhìn một hồi. Rồi bố cúi khom xuống và làm thật nhanh một điều gì đó. Laura nghe thấy một tiếng rống và một thớt lưng bò đực nhô cao nhảy bật lên. Com bò đực màu đỏ lọang choạng chạy và rống lớn. Nó chỉ có một chiếc đầu bình thường với mắt, mũi và chiếc miệng đang mở lớn nhả hơi nước vào trong gió. Một con khác rống lên và chạy đi giận dữ, lảo đảo. Rồi một con khác nữa. Bố lần lượt làm cùng một điều với tất cả những con khác. Tiếng rống của chúng bốc lên trên nền trời lạnh. Cuối cùng, tất cả bầy tụ lại kéo đi. Lúc này chúng đi lặng lẽ trong đám tuyết dầy văng tung tóe. Bố vẫy tay cho Laura trở về trong lúc bố đi coi lại các đống cỏ. Mẹ hỏi: - Có gì mà ở ngoài đó lâu vậy, Laura? Lũ trâu bò có làm hư các đống cỏ không? Cô đáp: - Không, mẹ! Đầu của chúng.. Con đoán là đầu của chúng bị dính cứng vào mặt đất. Mẹ kêu lên: - Đâu có thể như vậy được! Mary đang ngồi đan trên chiếc ghế gần lò bếp cũng nói: - Đó đúng là một ý nghĩ kì quái của Laura. Làm sao mà đầu của cả đàn bò có thể đông dính cứng vào mặt đất được, Laura? Đôi lúc thực đáng lo về cách nói của em. Laura đáp gọn: - Được, chị hãy hỏi bố! Cô không thể kể với mẹ và Mary về điều cô đã cảm thấy. Cô cảm thấy bằng một cách nào đó giữa trời đêm hoang vu và bão táp, sự tĩnh lặng ở phía dưới tất cả những âm thanh trên đồng cỏ đã cột giữ lũ bò lại. Khi bố trở về, mẹ hỏi: - Có điều gì xảy ra với đám gia súc, Charles? Bố nói: - Đầu của chúng bị đông cứng lại cùng với băng và tuyết. Hơi thở của chúng đóng băng trên mắt và trên mũi chúng cho tới khi chúng không nhìn và thở nổi nữa. Laura ngừng quét nhà, lên tiếng trong sự kinh hãi: - Bố! Chúng con còn hơi chứ! Chúng con sẽ chết ngạt mất! Bố hiểu ngay cô đang cảm nghĩ gì. Bố nói: - Lúc này thì tất cả chúng đều ổn rồi, Laura. Bố đã đập băng khỏi đầu chúng. Lúc này chúng đ thở và bố đoán là chúng đã trú ẩn ở một nơi nào đó. Carrie và Mary đều trợn tròn mắt và ngay cả mẹ cũng tỏ vẻ kinh hãi. Mẹ nói nhanh: - Quét cho xong đi, Laura. Còn Charles, trời ơi, sao anh không lo cởi đồ và sưởi ấm đi? Bố nói: - Anh có một tứ để khoe với mọi người. Bố rút bàn tay ra khỏi túi một cách cẩn thận: - Coi đây, các con, coi xem bố tìm thấy thứ gì trốn trong một đống cỏ. Bố từ từ mở bàn tay ra. Giữa khoảng trống của chiếc bao tay là một con chim nhỏ. Bố khẽ đặt con chim lên hai bàn tay Mary. Mary kêu lên trong lúc mấy đầu ngón tay vuốt nhẹ nó: - Sao, nó đứng thẳng được! Tất cả chưa từng thấy một con chim như thế. Nó nhỏ giống như hệt bức hình con chim cánh cụt lớn trong cuốn sách bìa xanh của bố “ Những điều kì diệu trong thế giới loài vật”. Nó cũng có phần ngực trắng, lưng và cánh đen, có những chiếc chân ngắn lui hẳn về phía sau và có cùng bàn chân rộng với màng che. Nó đứng thẳng trên hai chiếc chân ngắn giống như một người tí hon với quần dài và áo khoác màu đen, chiếc sơ-mi trắng ở phía trước và đôi cánh đen nhỏ là hai cánh tay. - Chim gì vậy, bố? Ô, chim gì vậy? Carrie kêu lên thích thú và giữ mấy bàn tay nôn nóng của Grace lại: - Không được đụng nó, Grace. Bố nói: - Bố chưa từng gặp một thứ gì như thế. Chắc là nó bị kiệt sức do bão và tình cở rớt xuống đúng đống cỏ. Thế là nó trườn vào trong cỏ để trú ẩn. Laura nói: - Đúng là giống chim cánh cụt. Nhưng nó chỉ là một con con. Mẹ nói: - Nó lớn hơn hẳn rồi chứ không còn là một con chim non đâu. Coi lông nó kìa. Bố đồng ý: - Ừ, nó lớn hẳn rồi. Con chom nhỏ đứng thẳng trên lòng bàn tay mềm mại của Mary nhìn tất cả bằng cặp mắt đen long lanh. Bố nói: - Chắc trước đây nó chưa hề nhìn thấy người ta. Mary hỏi: - Làm sao bố biết được, bố? Bố nói: - Vì nó không sợ chúng ta. Carrie năn nỉ: - Ô, chúng con giữ nó, được không bố? Được không, mẹ? Bố đáp: - Được, nhưng còn tùy. Mấy ngón tay Mary vuốt ve khắp thân hình con chim nhỏ trong lúc Laura kể cho cô nghe cái ức của nó trắng mượt ra sao và lưng nó, đuôi nó và những chiếc cánh nhỏ của nó đen tới mức nào. Rồi các cô cho Grace sờ nhẹ nhàng vào nó. Con chim cánh cụt nhỏ nhoi đứng im lìm nhìn tất cả. Khi được thả trên nền nhà, nó bước đi một đoạn ngắn. Rồi nó bấu những vuốt chân trên mặt ván và vỗ vỗ những cánh nhỏ. Bố nói: - Nó không thể bay được đâu. Đây là một loại chim dưới nước. Nó phải bắt đầu bay từ trong nước vì ở đó nó mới có thể dùng những bàn chân có màng kia để tăng tốc độ. Cuối cùng con chim được đặt vào trong một chiếc hộp ở góc nhà. Nó đứng nhìn mọi người bằng những con mắt tròn đen láy sáng long lanh và tất cả đều thắc mắc không rõ thức ăn của nó là gì. Bố nói: - Đây là một cơn bão quẩn quanh kì lạ. Anh không thích chút nào cả. Mẹ nói: - Sao, Charles, đó chỉ là một trận bão tuyết. Lúc này có vẻ mình đã có được thứ thời tiết ấm áp. Trời để bắt đầu ấm lên rồi. Mary lại nhấc món đồ đan lên và Laura tiếp tục quét. Bố đứng bên cửa sổ và một lát sau, Carrie dắt bé Grace rời khỏi con chim cánh cụt nhỏ để nhìn ra ngoài. Carrie chợt kêu lên: - Ô, coi kìa! Những con thỏ lớn! Xung quanh chuồng ngựa có tới một tá thỏ đang nhảy nhót. Bố nói: - Cái quái quỉ này đã sống trên dám cỏ khô của mình suốt thời gian có bão. Phải đem súng ra kiếm một bữa thịt thỏ hầm mới được. Nhưng bố vẫn đứng bên cửa sổ ngắm lũ thỏ chứ không tiến về phía cây súng. Laura nài xin: - Tha cho chúng lần này đi, bố. Sở dĩ chúng tới chỉ vì chúng phải tới thôi, chúng cần tìm chổ trú ẩn. Bố nhìn mẹ và mẹ mỉm cười: - Mình không đói lắm, Charles, và em rất mừng về những thứ mình đã có để qua cơn bão. Bố nói: - Thôi, anh nghĩ là anh có thể chia một chút cỏ khô với lũ thỏ đó. Bố cầm lấy xô nước và đi ra giếng. Khi bố mở cửa, không khí ùa vào lạnh hơn nhưng nắng đã bắt đầu làm tan tuyết trên bờ phía nam của căn lều. Chương 6: Tháng Hoa Hồng Sáng hôm sau chỉ còn những mảnh băng vụn trong xô nước và ban ngày đã có nắng ấm. Bố mang bẫy đi đặt để bắt lũ cầy hương trong đầm Big Slough còn Carrie và Grace chơi ở ngoài sân. Con chim cánh cụt nhỏ không ăn gì. Nó không bật ta tiếng kêu nào nhưng Carrie và Laura nghĩ nó nhìn mọi người bằng ánh mắt thất vọng. Nó sẽ chết nếu không có thức ăn nhưng nó tỏ ra không biết làm cách nào để ăn những thứ mà mọi người đưa tới. Trong bữa ăn trưa, bố cho biết băng đang tan trên hồ nước Bạc. Bố nghĩ rằng con chim nhỏ lạ lùng kia có thể tự lo cho nó trên mặt nước thênh thang. Thế là sau bữa ăn, Laura và Mary mặc áo khoác, choàng mũ trùm đi theo bố tới chỗ thả con chim cánh cụt nhỏ. Hồ nước Bạc đang gợn những lớp song bạc và xanh nhạt dưới bầu trời màu xanh nhạt ấm áp. Băng chỉ còn dọc theo những mé bờ và là những tảng màu xám phẳng nổi lềnh bềnh trên sóng. Bố lấy con chim cánh cụt nhỏ ra khỏi túi. Nó đứng trên lòng bàn tay của bố trong lớp áo khoác màu đen mịn và chiếc áo sơ-mi trắng gọn gàng ở phía trước bằng những sợi lông nhỏ li ti. Nó nhìn mặt đất, bầu trời và mặt nước rồi nôn nóng nhón chân lên và vươn dài đôi cánh nhỏ. Nhưng nó không thể đi, cũng không thể bay. Đôi cánh quá nhỏ để nhấc bổng nó lên. Bố nói: - Nó không thuộc về mặt đất. Đây là loài chim dưới nước. Bố ngồi xổm gần một tảng băng trắng mỏng bên bờ hồ và cố vươn ra xa, bố hất con chim nhỏ từ bàn tay xuống làn nước trong xanh. Trong chớp mắt, nó vừa ở đó đã biến mất ngay. Ngoài xa những tảng băng là một vệt sọc dài rồi một hố đen. Bố nói: - Nó đang tăng tốc độ kìa, với những bàn chân có màng để nhấc bổng nó lên… Nó bay rồi! Laura không kịp nhìn theo nó bay lên nhỏ xíu giữa bầu trời xanh bao la chói nắng. Rồi, trong ánh nắng lấp lóe, nó biến mất. Hai mắt cô lóa nắng không còn nhìn thấy gì nữa. Nhưng bố vẫn đứng nhìn theo nó đang bay về phía nam. Tất cả không bao giờ hiểu chuyện gì đã xảy ra cho con chim nhỏ khi nó từ phía bắc xa xôi bay tới trong bão táp và cả khi nó về phía nam ngập nắng. Tất cả không bao giờ thấy hoặc nghe nói về một con chim khác giống như nó. Tất cả cũng không bao giờ tìm xem con chim đó thuộc giống chim nào. Bố vẫn đứng nhìn thật xa qua mặt đất mênh mông. Tất cả các đường cong trên đồng cỏ đều điểm màu từ nâu nhạt sang màu da thuộc, rồi màu vàng xám, màu tím phớ nhẹ xanh lá non và ở xa hơn là màu xanh xám. Nắng ấm và không khí như nhuốm sương mù. Laura chỉ cảm thấy hơi lạnh ở bàn chân do đứng gần những tảng băng bên bờ hồ. Mọi vật đều im lìm. Không có gió khuấy động lớp cỏ màu xám bạc và không có một bóng chim trên mặt nước hoặc trên bầu trời. Nước hồ chỉ vỗ nhẹ vào mé bờ của sự tĩnh lặng đó. Laura nhìn bố và cô biết bố cũng đang lắng nghe. Sự im ả còn khủng khiếp hơn cái lạnh. Nó mạnh hơn bất kì âm thanh nào. Nó có thể chặn đứng tiếng nước róc rách và những âm vang nhòa nhạt trong tai Laura. Sự im ả bao gồm cả không có âm thanh, không có chuyển động, không có một thứ gì ngoài sự đáng sợ của riêng nó. Tim Laura rộn lên vùng nhảy như muốn cố trốn ra khỏi nó. Bố chậm rãi lắc đầu nói: - Bố không thích thế. Bố không thích cái cảm giác về thời tiết. Có một cái gì… Bố không thể nói rõ cái gì đó ra sao và bố nhắc lại: - Bố không thích thế. Bố không thích thế chút nào. Không ai có thể nói đích xác có một cái gì đó bất thường trong thời tiết. Trời đang ở tiết thu muộn khá đẹp. Mỗi đêm đều có sương giá và thỉnh thoảng có đống băng còn ngày đều có nắng. Mỗi buổi chiều Laura và Mary dạo bộ trong nắng ấm trong lúc Carrie chơi với bé Grace ở cạnh nhà. Mẹ nhắc: - Hãy ráng sưởi nắng cho thật nhiều. Mùa đông sắp tới rồi và lúc đó các con sẽ phải bó gối ở trong nhà. Tất cả đều ra ngoài trong thời tiết sáng sủa nhẹ nhàng như để tích trữ ánh nắng và không khí dịu mát cho mùa đông khi họ không thể còn có gì. Nhưng thường thì trong lúc dạo bộ, Laura vẫn nhìn thật nhanh về hướng bắc. Cô không biết rõ tại sao. Ở đó chẳng có gì cả. Đôi lúc cô đứng im trong nắng ấm lắng nghe và thấy khó chịu. Không có lí lẽ nào để giải thích. Bố nói: - Sắp tới một mùa đông ác liệt. Mùa đông ác liệt nhất mà mình gặp. Mẹ phản đối: - Sao thế, Charles. Lúc này thời tiết đang rất dễ chịu. Chỉ có một cơn bão sớm thì chưa hẳn là lí do để bão trọn mùa đông sẽ tồi tệ. Bố nói: - Anh đã đánh bẫy cầy hương khá nhiều năm rồi và chưa bao giờ anh thấy chúng làm vách ổ dầy như thế. Mẹ nói: - Những con cầy hương! Bố nói: - Bằng một cách nào đó, những con thú hoang lại biết rõ. Mọi loài thú hoang đều đã sẵn sàng cho một mùa đông ghê gớm. Mẹ nêu ý kiến: - Có lẽ chúng chỉ sẵn sàng vì đã có trận bão dữ dội kia. Nhưng bố không tin như thế. Bố nói: - Phần anh, anh không thích cái cảm giác của các con vật. Thời tiết hiện nay giống như che giấu một điều gì mà không cho phép bỏ phí một chút. Nếu anh là một con thú, anh sẽ lùng sục trong hang của mình và đào cho nó sâu hơn. Còn nếu anh là một con ngỗng trời, anh sẽ xoải cánh bay khỏi đây. Mẹ cười với bố: - Anh đúng là một con ngỗng trời đó, Charles! Em chưa biết có lúc nào em thấy được một mùa thu muộn đẹp hơn. Chương 7: Chín Đôla Một buổi chiều, một nhóm đàn ông tụ lại trong cửa hàng Harthorn ở thị trấn. Xe lửa bị ngừng do bão tuyết đã chạy trở lại và đám đàn ông từ các vùng đất được cấp phát đổ về thị trấn mua sắm các tạp phẩm đồng thời lùng nghe tin tức. Royal và Almanzo đến từ trang trại của mình. Almanzo điều khiển cặp ngựa Morgans nổi tiếng là cặp ngựa số một trong toàn vùng. Ông Boast cũng có mặt ở đó đứng chính giữa đám đông và khiến mọi người cười khi ông cười. Bố đi rảo quanh với cây súng trên tay nhưng không nhìn thấy nhiều hơn một con thỏ vào lúc này, bố đang chờ trong lúc ông Harthorn cân miếng thịt heo ướp muối mà bố phải mua thay cho một con mồi săn. Không ai nghe thấy tiếng bước chân, nhưng bố cảm thấy có ai đó ở sau lưng và bố quay lại để coi đó là ai. Lúc đó, ông Boast đột nhiên ngưng nói. Tất cả đều nhìn theo hướng nhìn của ông Boast và đứng dậy thật nhanh khỏi chiếc cày và những thùng đồ. Almanzo tụt xuống khỏi quầy hàng. Không ai nói điều gì. Đó chỉ là một người da đỏ nhưng bằng cách nào đó cái nhìn của ông ta khiến mọi người đều im lặng. Ông ta đứng đó và nhìn tất cả, nhìn bố, nhìn ông Boast, nhìn Royal Wilder, nhìn từng người khác và cuối cùng nhìn Almanzo. Ông ta là một người da đỏ rất già. Khuôn mặt nâu sậm của ông ta khắc hằn những nếp gấp sâu và nhăn nhúm trên các mấu xương, nhưng ông ta đứng thẳng sừng sững. Cánh tay của ông ta gấp dưới một tấm mền xám choàng quanh người. Đầu ông ta cạo nhẵn thín chỉ còn một chởm tóc với một cọng lông chim ưng cắm trên đó. Mắt ông sáng và sắc, phía sau ông, nắng đang chiếu trên đường phố lầm lụi và một con ngựa nhỏ của người da đỏ đang đứng chờ ở đó. Người da đỏ này lên tiếng: - Đống tuyết lớn đã tới. Tấm mền trượt khỏi vai ông và một cánh tay trần nâu sậm lộ ra. Cánh tay vung một vòng tròn rộng về phía bắc, phía tây, phía đông và gom tất cả lại cuộn xoáy. Ông ta nói: - Đống tuyết lớn, gió lớn. Bố hỏi: - Bao lâu? Người da đỏ đáp: - Nhiều con trăng. Ông ta đưa ra bốn ngón tay rồi thêm ba ngón tay nữa. Bảy ngón tay tức bảy tháng, một cơn bão tuyết dài bảy tháng. Mọi người nhìn ông ta không ai lên tiếng. Ông ta nói: - Các anh người da trắng. Ta nói cho các anh. Ông ta lại đưa bảy ngón tay. - Tuyết lớn. Rồi lại bảy ngón tay: - Tuyết lớn. Rồi lại bảy ngón tay: - Đống tuyết lớn, nhiều con trăng. Rồi gõ ngón tay trỏ lên ngực, ông ta nói một cách kiêu hãnh: - Già! Già! Ta đã thấy! Ông ta bước ra khỏi cửa hàng tới chỗ con ngựa đang đứng chờ và lên ngựa đi mất về phía tây. Ông Boast nói: - Chà, mình thật khỉ quá! Almanzo hỏi: - Bảy đám tuyết lớn là cái gì? Bố chỉ rõ là người da đỏ muốn nói mỗi mùa đông thứ bảy đều khắc nghiệt hơn hết. Ông ta đã đến để nói cho người da trắng biết mùa đông sắp tới chính là mùa đông thứ hai mốt và sẽ có bảy tháng bão tuyết. Royal thắc mắc: - Ông có nghĩ là ông già kia biết rõ điều ông ta đã nói hay không? Không ai có thể trả lời cho câu hỏi này. Royal tiếp: - Chỉ là một dịp may. Tụi tôi sẽ chuyển vào thị trấn trong mùa đông. Kho thực phẩm của tụi tui dư sức cho một nông trại trú đông. Tụi tui có thể nằm tại đó cho tới mùa xuân. Như thế có hợp ý em không, Manzo? Almanzo nói: - Hợp với em lắm. Bố hỏi: - Anh cảm thấy sao về việc chuyển vào thị trấn, Boast? Ông Boast chậm rãi lắc đầu: - Chưa biết chúng tôi sẽ thế nào. Chúng tôi có rất nhiều gia súc, bò, ngựa và gà. Không có đủ chỗ trong thị trấn để giữ chúng kể cả trường hợp tôi có đủ tiền để mướn nhà. Chúng tôi đã chuẩn bị khá kĩ cho mùa đông ở trại. Tôi nghĩ là Ellie và tôi sẽ ở lại đó. Mọi người đều điềm tĩnh. Bố trả tiền mua hàng, bước ra vội vã trở về nhà. Chốc chốc bố lại nhìn về góc trời phía tây bắc. Trời quang và nắng đang chiếu. Mẹ lấy bánh từ lò ra khi bố về tới. Carrie và Grace chạy ra đón bố rồi cùng bố vào nhà. Mary vẫn lặng lẽ khâu, nhưng Laura nhảy lên. Mẹ hỏi trong lúc trút những chiếc bánh thơm nức từ chảo vào một tấm vải trắng sạch: - Có chuyện gì không ổn thế, Charles? Anh về sớm. Bố đáp: - Không có gì không ổn hết. Đây là đường với trà của em và một miếng thịt heo ướp muối. Anh không kiếm được con thỏ nào. Bố nhắc lại: - Chẳng có gì không ổn hết, nhưng mình sẽ chuyển vào thị trấn càng sớm càng tốt. Trước tiên anh sẽ lo kéo cỏ khô cho gia súc. Nếu lo kịp anh sẽ kéo một chuyến trước khi trời tối. Mẹ hổn hển: - Trời ơi, Charles! Nhưng bố đã bước ra chuồng ngựa. Carrie và Grace nhìn mẹ rồi nhìn Laura, rồi lại nhìn mẹ. Laura nhìn mẹ và mẹ nhìn lại cô một cách bất lực. Mẹ nói: - Từ trước tới nay bố các con không bao giờ làm một điều như vậy. Laura đáp: - Chẳng có gì không ổn đâu, mẹ. Bố đã nói vậy mà. Con phải tới giúp bố lo đám cỏ khô. Mẹ cũng ra chuồng ngựa và bố kể với mẹ trong lúc vỗ vỗ chiếc yên ngựa. Bố nói: - Sẽ có một mùa đông rất khắc nghiệt. Anh rất sợ sự thực đúng như thế. Căn nhà này chỉ là một túp lều chứ chẳng là gì. Nó không đủ sức để ngăn hơi lạnh, cứ nhìn điều xảy ra với lớp giấy chông thấm trong trận bão tuyết đầu tiên thì rõ. Căn nhà của mình ở thị trấn đã được đóng ván và dán giấy, vách ngoài đã khép kín và có trần rồi. Đó là căn nhà vững chắc, kín đáo, ấm áp và nhà chuồng cũng rất ấm. Mẹ hỏi: - Nhưng cần gì phải vội thế? Bố nói: - Anh cảm thấy phải làm gấp. Anh giống như một con cầy hương có một điều gì đó nhắc anh phải gấp đưa em và các con vào phía trong những bức vách dầy. Anh có cảm giác này từ lúc nào đó và bữa nay thì ông già da đỏ kia.. Bố ngừng lại. Mẹ hỏi: - Ông già da đỏ nào? Mẹ nhìn tựa hồ mẹ ngửi thấy mùi của một người da đỏ khi mẹ nói. Mẹ coi thường người da đỏ và cũng sợ họ nữa. Bố thường nhấn mạnh: - Vẫn có nhiều người da đỏ rất tốt. Lúc này, bố nói thêm: - Và họ biết nhiều điều mà mình không biết. Anh sẽ kể cho em nghe vào lúc ăn tối, Caroline. Họ không thể nói chuyện đó trong lúc bố hất cỏ khô từ trên đống xuống và Laura đạp nén trong giá. Cỏ cao lên dưới ống chân chuyển động mau của cô cho tới lúc đống cỏ cao vượt trên lưng ngựa. Bố nói: - Bố sẽ tự lo liệu ở thị trấn. Trong thị trấn không có chỗ cho một cô gái làm công việc của con trai. Thế là Laura tụt xuống khỏi đỉnh của đống cỏ cao và bố lái xe đi. Buổi chiều thu muộn ấm áp, dịu dàng và yên tĩnh. Những gợn màu nhạt trên mặt đất trải dài xa tắp và bầu trên hiền hòa che phủ bên trên. Nhưng phía dưới vẻ hiền hòa và dịu dàng kia vẫn có một cái gì chờ đợi. Laura hiểu bố muốn nói tới cái gì. Laura chợt nghĩ tới mấy tiếng trong Kinh thánh: - Ô, mong sao tôi có những cánh chim. Nếu cô có những cánh chim thì cô cũng vươn cánh thật rộng, và bay đi thật nhanh, hết sức nhanh tới một nơi xa. Cô lặng lẽ trở về lo giúp mẹ. Không ai trong số họ có cánh nên họ chỉ có thể chuyển về thị trấn trong mùa đông. Mẹ và Mary không nghĩ gì nhưng Laura biết rõ là cô không thích sống giữa quá nhiều người như thế. Chương 8: Ngày Bốn Tháng Bảy Ngôi nhà của bố là một trong những ngôi nhà thuộc hạng nhất ở thị trấn. Ngôi nhà nằm ở phía đông phố Main Street. Mặt tiền nhà cao và vương vức với một cửa sổ lầu. Tầng dưới có hai cửa sổ với một cửa ra vào ở chính giữa. Bố không dừng xe ở đó mà lái xe vòng qua góc phố Second Street vốn chỉ là một con đường để bọc phía sau tới cửa gian chái. Ở đây có một chuồng ngựa bằng gỗ chắc chắn với một đống cỏ khô kế bên và phía bên kia là phố Second Street mà Laura nhận thấy có một ngôi nhà mới dựng bằng ván tươi. Nhà và chuồng ngựa của bố đã thành xám nhạt giống như các ngôi nhà khác trên phố Main Street. Bố nói: - Rồi, mình đã tới! Sẽ không phải dọn nhà quá lâu. Bố cởi dây cột ở sau xe cho con bò cái Ellden và con bò con của nó. Laura đưa chúng vào ngăn chuồng riêng trong chuồng ngựa trong lúc bố dỡ đồ khỏi thùng xe. Rồi bố đưa xe vào chuồng ngựa và tháo ngựa ra. Cửa trong gian chái mở dưới cầu thang đặt ở phòng sau. Phòng sau hẹp được dùng làm nhà bếp và mỗi phía đều có một ô cửa sổ nhìn ra con đường sẽ là phố Second Street và ra những khu đất trống kề bên một cửa hàng nhỏ bỏ trống. Xa hơn về phía đông bắc trên đồng cỏ, Laura có thể nhìn thấy nhà ga xe lửa hai tầng. Mẹ đứng trong gian phòng trước trống trơn ngắm nghía và tính toán chỗ kê đồ. Trong gian phòng rộng thênh thang có một lò sưởi than, một bàn giấy và một chiếc ghế bằng gỗ sáng bóng. Laura kêu lên: - Kỳ chưa, bàn ghế ở đâu thế này? Mẹ nói: - Của bố đó. Người cộng sự mới của ông thẩm phán Carroll có một chiếc bàn giấy nên ông Carroll giao cho bố bộ bàn ghế cũ của ông ta và cùng chiếc lò sưởi than để thay cho một phần tiền thuê nhà. Bàn có nhiều ngăn kéo và chiếc ở trên cùng có nhiều ô nhỏ dưới một tấm che co dãn kì lạ làm bằng những thanh gỗ dài có thể kéo cho uốn cong xuống hoặc đẩy dựng lên. Mẹ tiếp tục nói: - Mình sẽ đặt mấy chiếc ghế đu ở gần cửa sổ kia. Như thế thì Mary sẽ có nắng suốt buổi chiều và mẹ có thể đọc sách cho tới khi mặt trời lặn. Mình sẽ làm việc này trước hết. Mary, con hãy bước xuống và giữ Grace không cho cản đường. Mẹ và Laura đặt mấy chiếc ghế đu bên cửa sổ. Rồi hai mẹ con chuyển chiếc bàn ăn qua những khoảng trống đã đặt vào lò sưởi than và khuôn cửa xuống nhà bếp. Mẹ nói: - Ngồi ăn ở đây sẽ được ấm. Laura hỏi: - Bây giờ mình có thể treo màn chứ? Hai ô cửa sổ giống như những con mắt lạ đang nhìn vào nhà. Nhiều người lạ qua lại trong phố và bên kia phố sừng sững nhiều cửa hàng. Cửa hàng đồ sắt Fuller’s ở đó bên những cửa hàng tạp phẩm và tiệm may Power’s, cửa hàng lương thực Loftus, cửa hàng vải vóc và bách hóa tổng hợp. Mẹ nói: - Ừ, càng sớm càng tốt! Mẹ mở gói giấy lấy những tấm màn che bằng vải bông và cùng Laura treo lên. Một cỗ xe chạy ngang qua khi hai mẹ con treo màn và đột nhiên năm sáu cậu bé đổ xuống phố Second Street rồi một lát sau xuất hiện nhiều cô bé. Mẹ nói một cách mừng rỡ: - Đã có trường học rồi. Ngày mai con và Carrie sẽ đi học. Laura im lặng. Không ai biết cô ngán gặp gỡ những người lạ tới mức nào. Không ai biết nỗi hồi hộp và cơn nhốn nháo của cô khi gặp phải người lạ. Cô không thích thị trấn, không muốn tới trường. Đúng là bất công khi cô phải đi học! Mary mong trở thành cô giáo nhưng không được vì bị mù. Laura không muốn dạy học nhưng cô phải làm để mẹ vui long. Có thể trọn đời cô phải đi giữa những người lạ, chỉ dạy những đứa trẻ lạ. Cô luôn khiếp hãi và luôn che giấu nỗi khiếp hãi đó. Không! Bố đã nhắc phải không bao giờ sợ sệt và cô sẽ không sợ. Cô phải can đảm để không bị nỗi khiếp sợ bóp nghẹt. Nhưng ngay cả khi không còn khiếp sợ nữa thì cô vẫn không thích người lạ. Cô đã biết rõ các con vật xử sự ra sao, hiểu thấu chúng nghĩ gì nhưng không bao giờ dám đoán chắc về người ta. Dù sao thì những tấm màn cửa sổ đã ngăn không cho những người lạ nhìn vào nhà. Carrie đặt quanh bàn ăn những chiếc ghế trơn. Nền nhà bằng ván thông sạch bóng loáng và căn phòng rộng có vẻ rất thoải mái khi Laura cùng mẹ đặt trước mỗi khung cửa ra vào một tấm chùi chân kết bằng những mảnh vải. Bố đang đặt lò trong nhà bếp. Sau khi dựng xong ống khói lò, bố chuyển tủ chứa thực phẩm vào đặt dựa sát vách phía bên kia cửa ra vào. Bố nói: - Đó! Cả hai thứ lò bếp và tủ chứa thực phẩm đều thuận lợi đối với chiếc bàn ăn ở phòng bên. Mẹ tán dương bố: - Phải đó, Charles, ý kiến thật hay. Lúc này chỉ còn đưa mấy chiếc giường ngủ lên gác thì không còn nhiều việc nữa. Bố chuyển các bộ phận khung giường cho mẹ và Laura kéo qua khuôn cửa sập ở đầu cầu thang. Bố nhồi những chiếc đệm bằng lông chim lên trên. Rồi mỗi người đứng một bên mép giường, các cô kéo căng tấm vải, tấm phủ, chăn mền và cẩn thận gấp các mép thật vuông vức. Kế tiếp, mỗi cô vuốt phẳng một chiếc gối đặt vào đúng chỗ và giường được làm xong. Khi cả ba chiếc giường đã gọn gàng thì không còn việc gì để làm them nữa. Laura và Carrie đứng trong ánh nắng chiều dìu dịu se lạnh, nhìn ra ngoài cửa sổ. Bố và mẹ đang nói chuyện trong nhà bếp ở tầng dưới và hai người đàn ông lạ đang nói chuyện ở ngoài phố. Xa hơn, nhưng không xa lắm, một người đang huýt gió một điệu nhạc giữa nhiều âm thanh nhỏ và tất cả hợp lại thành tiếng động của thị trấn. Khói đang bốc lên từ sau những mặt tiền của các cửa tiệm vượt khỏi tiệm đồ sắt Fuller’s, phố Second Street chạy ra đồng cỏ phía tây tới ngôi nhà đứng đơn độc trên đám cỏ héo. Nhà có bốn ô cửa và nắng chiếu xuyên qua cho thấy bên kia cũng còn nhiều cửa sổ nữa. Lối vào nhà lát ván, giống như một cái mũi gắn vào cuối đầu hồi phía trước và ống khói lò không nhả khói. Laura nói: - Chị đoán đó là trường học. Carrie gần như thì thầm: - Em muốn mình không phải tới trường. Laura nói: - Đâu có được, mình phải tới chứ. Carrie nhìn cô băn khoăn: - Chị… có sợ không? Laura đáp một cách mạnh mẽ: - Không có gì phải sợ cả! Mà nếu có gì, mình cũng không sợ. Lửa trong lò bếp sưởi ấm khắp nhà dưới và mẹ nói nhà này được dựng thật tốt đến nỗi không để lọt mất một chút hơi nóng nào. Mẹ đang nấu bữa tối và Mary đang bày bàn ăn. Mary nói một cách sung sướng: - Con không cần ai phải giúp cả. Tủ kê ở chỗ khác nhưng mẹ đã bày chén đĩa ở nguyên chỗ của chúng trên tủ nên con tìm thấy một cách dễ dàng. Phòng trước thoáng đãng trong ánh đèn, khi mẹ đặt cây đèn trên bàn ăn. Những tấm màn che màu kem, bàn và ghế đánh vẹt-ni màu vàng, những tấm mện trên ghế đôi, những tấm thảm chùi chân bằng vải ghép, những miếng khăn trải bàn màu đỏ và nền nhà màu gỗ nhạt, các bức vách ghép chắc tới mức không có chút hơi lạnh thấm qua. Laura nói: - Con ước mình có một căn nhà như thế này ở trong trại. Mẹ nói: - Mẹ mừng là đã có nhà ở thị trấn để các con có thể tới trường trong mùa đông này. Các con không thể đi mỗi ngày từ trại tới trường khi thời tiết xấu. Bố lên tiếng: - Đáng vui với anh là mình yên tâm về việc kiếm than và thực phẩm. Than ăn đứt củi về mặt cung cấp sức nóng đều đặn. Mình sẽ giữ đủ than trong gian chái để kéo dài qua mọi trận bão tuyết và anh có thể luôn kiếm them từ xưởng gỗ. Sống ở thị trấn cũng không có mối nguy thiếu hụt bất cứ thứ thực phẩm nào. Mẹ hỏi: - Hiện có bao nhiêu người sống ở thị trấn? Bố kể ra: - Có mười bốn cửa hàng và ga xe lửa rồi nhà Sherwood, nhà Garland, nàh Owen là mười tám gia đình cả thảy, chưa kể tới ba hoặc bốn căn lều ở đường phố phía sau. Rồi còn có anh em Wilder sống độc than trong cửa hàng thức ăn gia súc và một người tên là Foster mới đưa đàn bò đến trú tại nhà Sherwood. Tính chung hết thì phải có tới bảy mươi lăm hay tám mươi người đang sống trong thị trấn. Mẹ nói: - Thử nghĩ lại cùng thời gian này mùa thu vừa rồi ở đây không có một bóng ma nào. Em mừng là cuối cùng anh đã thấy sống ở một chỗ ổn định cũng có điều dễ chịu, Charles. Bố thừa nhận điều đó nhưng lại nói: - Nhìn về mặt khác thì quá tốn kém mà tiền ở đây lại hiếm như răng gà mái. Làm đường sắt là việc duy nhất để mọi người đàn ông kiếm một đô-la cho một ngày làm việc, nhưng đâu phải ai cũng được mướn. Còn mồi săn duy nhất quanh vùng thì chỉ có những con thỏ. Oregon mới là nơi thích hợp cho thời buổi này. Ngoài nơi đó thì khắp xứ đều sẽ trở thành vùng định cư trong thời gian không lâu nữa. Mẹ nói một cách chắc nịch: - Phải, nhưng bây giờ là lúc mấy đứa nhỏ phải được đến trường. Chương 9: Những Con Chim Sáo Laura ngủ không ngon giấc. Dường như suốt đêm cô biết rõ thị trấn đang bao quát quanh mình và biết rõ sáng hôm sau cô phải tới trường. Người cô nặng chịch trong sự ngán ngẩm khi cô thức dậy và nghe thấy tiếng bước chân dưới đường phố cùng tiếng những người lạ. Thị trấn cũng đang thức giấc và những người chủ tiệm đang mở cửa hàng. Những bức vách nhà ngăn cách mọi người lạ ở phía ngoài. Nhưng Laura và Carrie vẫn bứt rứt vì sẽ phải ra khỏi nhà và chạm mặt với những người lạ. Phần Mary lại rất buồn vì không thể tới trường. Mẹ nói: - Nào, Laura, Carrie, chẳng có lí do gì để lo ngại hết. Mẹ đảm bảo là các con sẽ theo kịp lớp học. Các cô nhìn mẹ ngạc nhiên. Mẹ đã dạy các cô ở nhà rất nhiều và các cô biết chắc sẽ theo kịp lớp học. Các cô không hề lo ngại về điều này. Nhưng các cô chỉ nói: - Dạ, thưa mẹ! Các cô vội vã rửa chén đĩa, làm giường và Laura hối hả quét phòng. Rồi các cô chọn thật kĩ những chiếc áo len mùa đông, chải và kết bím tóc một cách lo lắng. Các cô buộc bím tóc bằng những dải băng dành cho ngày chủ nhật rồi dùng các móc thép để kéo cài khuy giầy. Mẹ kêu: - Nhanh lên, các con! Hơn tám giờ rồi! Đúng lúc đó, Carrie giật đứt rời một chiếc khuy giầy. Chiếc khuy rớt xuống, lăn tròn và lọt vào kẽ ván. Carrie hổn hển: - Ôi, mất rồi! Cô khổ sở thất vọng. Cô không thể đi ra cho những người lạ nhìn thấy một lỗ hổng giữa hàng khuy giầy màu đen. Laura nói: - Mình phải gỡ một khuy giầy của Mary để gắn vào đó. Nhưng mẹ đã nghe thấy tiếng khuy giầy rớt xuống tầng dưới. Mẹ tìm thấy và khâu dính lại như cũ trên giầy của Carrie. Cuối cùng các cô đã sẵn sàng. Mẹ mỉm cười, nói: - Các con xinh lắm. Các cô khoác áo, trùm khăn và cầm sách lên. Cả hai cùng chào tạm biệt mẹ và Mary rời bước ra ngoài phố Main Street. Các cửa tiệm đều đã mở cửa. Ông Fuller và ông Bradley đã quét xong đang chống cây chổi đứng ngắm cảnh buổi sáng. Carrie níu chặt bàn tay Laura và Laura biết Carrie còn đang khiếp hãi hơn cô nhiều. Cố giữ can đảm, cả hai băng qua phố Main Street rồi bước đều dọc theo phố Second Street. Nắng đang chiếu sáng. Một đám cỏ dại úa khô in bóng bên những dấu bánh xe. Bóng của các cô dài lêu đêu ngả về phía trước phủ trên các dấu chân dọc lối đi. Có vẻ như con đường dài thật dài mới đưa tới nơi chỗ ngôi trường đứng trơ vơ giữa một khu đồng trống. Trước ngôi trường, đám con trai đang chơi banh và có hai cô gái lạ đứng trên bực trước cửa vào lớp. Laura và Carrie đi tới mỗi lúc một gần hơn. Laura thấy khó thở vì họng như nghẹn lại. Một cô gái lạ khá cao và ngăm ngăm. Mái tóc đen mướt bện xoắn lại thành một nút thắt thật chặt ở sau gáy. Chiếc áo màu xanh chàm của cô dài hơn chiếc áo màu nâu của Laura. Rồi đột nhiên, Laura thấy một người trong đám con trai nhảy lao lên cao đón bắt trái banh. Cậu ta cao lớn, lanh lẹ và cử động thoăn thoắt như một con mèo. Mái tóc vàng của cậu ta gần như bạc trắng trong ánh nắng và cặp mắt cậu ta màu xanh lơ. Cặp mắt đó mở lớn nhìn Laura. Rồi một nụ cười đột ngột khiến khắp khuôn mặt cậu ta rạng rỡ hẳn lên và cậu ta ném thẳng trái banh về phía cô. Cô thấy trái banh uốn vòng trên không lao tới cực nhanh. Trước khi kịp suy nghĩ cô đã nhảy bật lên và chộp lấy trái banh. Tiếng hét lớn vang lên từ phía đám con trai. Cả đám đều la: - Ê, Cap! Con gái không chơi banh! Cap đáp: - Tớ không ngờ cô ấy chộp được. Laura nói: - Tôi không thích chơi banh. Cap la lớn: - Cô ta không thua đứa nào trong đám mình. Cậu nói với Laura: - Tới chơi đi. Rồi nói thêm với mấy cô khác: - Tới chơi đi, Mary Power, Minnie! Tới chơi cùng bọn này đi! Nhưng Laura đã cúi lượm mấy cuốn sách bị cô bỏ rơi và lại nắm lấy bàn tay Carrie. Cả hai đi về phía mấy cô gái ở trước cửa trường. Dĩ nhiên mấy cô gái này không chơi chung với đám con trai. Cô không biết tại sao cô lại làm như thế và cảm thấy mắc cỡ, sợ mấy cô gái kia sẽ nghĩ không hay về mình. Cô gái da ngăm nói: - Tớ là Mary Power, còn đây là Minnie Johnson. Minnie Johnson mảnh mai, da trắng hơi tái và đầy tàn nhang. Laura nói: - Tớ là Laura Ingalls, còn đây là em gái tớ, Carrie. Ánh mắt Mary Power tươi hẳn lên. Mắt cô màu xanh sậm viền quanh bằng một lớp lông mi đen dài. Laura mỉm cười đáp lại và cô bỗng nghĩ ngay là ngày mai cô sẽ bện tóc lại và xin mẹ nới cho áo của cô dài ngang chiếc áo của Mary. Mary Power nói: - Người vừa ném trái banh về phía bạn là Cap Garland. Không có nhiều thì giờ để nói thêm về điều gì vì cô giáo đã xuất hiện trước cửa với chiếc chuông trong tay và tất cả vào lớp. Các cô treo áo khoác, mũ trùm lên một hàng đinh trong lối vào lớp có một cây chổi dựng sát góc gần thau nước đặt trên ghế dài. Rồi các cô bước vào lớp học. Laura lại cảm thấy rụt rè vì phòng quá mới và sáng chưng. Carrie đứng nép sát vào cạnh cô. Tất cả bàn đều đóng theo kiểu riêng bằng gỗ đánh vẹc ni bóng như gương. Chân bàn bằng sắt đen và chỗ ngồi hơi uốn lên một chút với phần tựa lưng hơi cong lên là phần ngăn với những chiếc bàn ở phía sau. Trên mặt bàn có những rãnh hẹp để giữ viết chì và phía dưới là những ngăn để cất bảng và sách. Có mười hai chiếc bàn trong mỗi hàng kê dọc theo hai bên phòng. Một lò sưởi lớn đặt ở giữa phòng giữa bốn chiếc bàn kê thêm ở phía trước và bốn chiếc bàn kê thêm ở phía sau. Gần như mọi ghế ngồi đều trống. Phía phòng dành cho con gái thì Mary Power và Minnie Johnson ngồi chung trên một chiếc ghế ở phía sau. Cap Garland và ba cậu học trò lớn khác ngồi ở những hàng ghế sau cùng bên phía phòng dành cho con trai. Những ghế phía trước chỉ lơ thơ mấy cô cậu bé. Lúc này, tất cả đã tới trường được một tuần lễ và đều thuộc chỗ ngồi của mình, ngoại trừ Laura và Carrie. Cô giáo nói với các cô: - Mấy em là trò mới, phải không? Cô giáo là một phụ nữ thanh lịch tươi tắn với những lọn tóc uốn cong. Chiếc áo đen của cô cài dọc phía trước một hàng nút lấp lánh. Laura nói tên họ của hai chị em xong thì cô giáo nói: - Cô là FlorenceGarland. Gia đình cô sống trong ngôi nhà nằm sau nhà của ba mấy em, trên đường phố kế đó. Vậy ra Cap Garland là em trai của cô giáo và họ sống trong ngôi nhà mới dựng trên đồng cỏ phía bên kia chuồng ngựa. Cô giáo hỏi: - Các em đã biết bài tập đọc thứ tư chưa? Laura đáp: - Dạ biết, thưa cô. Thực ra cô đã thuộc long từng lời nói của bài đó. Cô giáo quyết định: - Vậy thì thử coi các em sẽ làm được những gì với bài thứ năm. Và cô bảo Laura ngồi vào chính giữa hàng ghế sau phía bên kia Mary Power. Carrie được xếp cho ngồi ở phía trước gần các cô bé. Rồi cô giáo đi lên bàn giấy và gõ cây thước lên mặt bàn. Cô mở cuốn Kinh thánh và nói: - Cả lớp chú ý. Sáng nay mình sẽ đọc đoạn Thánh thi thứ hai mươi ba. Dĩ nhiên Laura đã thuộc làu các đoạn Thánh thi nhưng cô thích được nghe lại từng lời của đoạn thứ hai mươi ba từ câu “Chúa là người chăn dắt của tôi” cho tới câu “Tôi xin ở lại mãi mãi trong ngôi nhà của Chúa”. Rồi cô giáo gập cuốn Kinh thánh lại và tất cả học trò mở rộng sách trên bàn. Lớp học bắt đầu. Mỗi ngày Laura lại thích trường học hơn. Cô không ngồi chung ghế với ai nhưng vào giờ chơi hoặc nghỉ trưa, cô ngồi chung với Mary Power và Minnie Johnson. Sau buổi học, tất cả cùng đi bộ tới phố Main Street và tới cuối tuần đó thì các cô đều gặp nhau vào buổi sáng để cùng đi tới trường. Cap Garland đã nhiều lần đề nghị các cô cùng tham gia đánh banh với đám con trai vào giờ chơi nhưng các cô chỉ ngồi trong trường ngắm các cậu chơi banh qua cửa sổ. Cậu bé tóc đen, mắt nâu là Ben Woodworth sống ở ga xe lửa. Cha của cậu là người đàn ông bị bệnh mà bố đã xốc lên chuyến xe lửa cuối cùng vào năm trước “phương thuốc đồng cỏ” gần như thực sự điều trị được chứng đau phổi của ông ta nên ông ta lại tới miền tây để chữa chạy thêm. Hiện ông ta là nhân viên ở ga xe lửa. Cậu bé khác là Arthur Johnson. Cậu cũng mảnh dẻ như chị gái Minnie. Cap Garland mạnh nhất và lanh nhất. Từ phía trong cửa sổ, Laura cùng Mary, Minnie ngắm cậu ta liệng trái banh rồi phóng lên chộp lấy. Cậu ta không đẹp trai bằng Ben-tóc-đen, nhưng có một vẻ gì đó lôi cuốn. Cậu luôn tự nhiên với nụ cười giống như một tia sáng. Nó y hệt ánh mặt trời vụt lên lúc bình minh và đổi thay tất cả mọi thứ. Mary Power và Minnie đã đi học ở miền đông nhưng Laura bắt kịp cả hai một cách dễ dàng. Cap Garland cũng đã đi học từ miền đông nhưng ngay trong môn toán cũng không thắng nổi Laura. Mỗi đêm, sau bữa ăn tối, cô lấy sách và bảng ra đặt trên tấm trải bàn kẻ ô vuông màu đỏ dưới ánh đèn và cô học bài ngày hôm sau cùng với Mary. Cô đọc lớn các đề toán cho Mary tính trong đầu trong lúc cô làm trên tấm bảng viết. Cô đọc các bài sử và địa cho Mary cho tới khi cả hai trả lời được mọi câu hỏi. Nếu bố kiếm được đủ tiền để gửi Mary tới trường dành cho người khiếm thị, Mary hẳn sẵn sàng để đi. Mary nói: - Ngay cả khi chị không thể nào tới được trường thì chị cũng cố rang hết sức để học được thật nhiều. Mary, Laura và Carrie đều thích thú học tới nỗi tiếc là đã bị các ngày thứ bảy và chủ nhật cắt ngang. Các cô trông cho tới ngày thứ hai. Nhưng khi ngày thứ hai tới Laura lại cáu kỉnh với bộ đồ lót bằng fla-nen màu đỏ quá nóng và ngứa ngáy. Nó khiến cô ngứa ở lưng, ở cổ, ở cườm tay, ở bất kì nơi nào nó cuốn quanh như mắt cá chân, dưới vớ, ngang ống giầy. Bộ đồ lót đỏ gần như làm cô phát điên. Buổi trưa cô xin mẹ cho thay đồ nào mát hơn. Cô nói: - Con quá nóng nực với bộ đồ fla-nen đỏ rồi, mẹ! Mẹ đáp dịu giọng: - Mẹ biết là thời tiết đang ấm trở lại nhưng đây là thời điểm trong năm cần phải mặc đồ fla-nen và con sẽ bị nhiễm lạnh ngay nếu cởi nó ra. Laura quay lại trường một cách miễn cưỡng và ngồi vặn vẹo vì không được gãi. Cô mở rộng bài học địa lý trước mắt nhưng không học nổi. Cô cố chịu đựng cơn ngứa do lớp fla-nen gợi lên và chỉ muốn chạy về nhà để có thể cào gãi. Ánh nắng từ các ô cửa sổ phía tây chưa bao giờ bò đi chậm chạp như thế. Đột nhiên, ánh nắng bỗng biến mất. Nó vụt tắt giống như có ai đó thổi tắt mặt trời tựa hồ thổi tắt một chiếc đèn. Ngoài trời xám xịt, các ô kính cửa sổ xám xịt và cùng một lúc, một trận gió ùa vào trường học khua động các cánh cửa và làm rung chuyển các bức vách. Cô Garland đứng lên khỏi ghế. Một cô gái bé nhà Beardsley hét lên và Carrie trắng bệch. Laura nghĩ: - Đúng là cái cách đã xảy ra ở suối Plum vào dịp Giáng sinh mà bố bị mất tích. Cô giáo và tất cả đều nhìn qua các ô cửa sổ nhưng không còn thấy gì ngoài một màu xám xịt. Tất cả đều kinh hoàng. Rồi cô Garland nói: - Chỉ là một trận bão thôi, các em. Hãy tiếp tục bài học đi. Trận bữa cào quật trên các bức vách và gió gào thét, rên rỉ trong ống khói lò sưởi. Tất cả những cái đầu cúi xuống trong sách khi cô giáo nhắc tiếp tục học. Nhưng Laura cố nghĩ làm cách nào để trở về nhà. Trường học ở cách phố Main Street quá xa và không có thứ gì làm mốc chỉ đường. Hết thảy đám học sinh đều từ miền đông mới tới vào mùa hè. Tất cả chưa bao giờ thấy một trận bão tuyết trên đồng cỏ. Nhưng Laura và Carrie biết rõ nó thế nào. Đầu Carrie gục xuống ủ rũ trên cuốn sách để lộ ra phần gáy trắng bệch dưới các bím tóc mềm có vẻ nhỏ nhoi, tuyệt vọng và kinh hoàng. Tại trường chỉ có một lượng chất đốt nhỏ. Ban giám hiệu đang đặt mua than nhưng mới chỉ được giao một chuyến. Laura nghĩ là có thể chịu đựng qua cơn bão ở trong trường nhưng như thế thì sẽ phải đốt hết bàn ghế. Laura bỗng ngẩng đầu lên ngó chăm chăm vào cô giáo. Cô Garland đang cắn môi suy nghĩ. Cô không thể quyết định ngưng buổi học vì một cơn bão nhưng cơn bão đang làm cô hoảng sợ. Laura nghĩ: - Mình phải nói với cô về điều cần làm. Nhưng cô không nghĩ ra được cần làm gì. Rời trường học lúc này thì cũng không an toàn y hệt ngồi lại trường. Ngay cả đốt cháy hết mười hai chiếc bàn cũng chưa chắc đủ hơi ấm để chịu cho tới khi dứt bão. Cô nghĩ tới mớ khăn áo choàng của cô và Carrie trong hành lang lớp học. Dù xảy ra điều gì thì cô cũng phải tìm cách nào đó giữ cho Carrie được ấm. Hơi lạnh rõ ràng đã kéo tới. Trong hành lang vang lên tiếng đạp chân thình thịch. Mọi học trò đều chộn rộn nhìn ra cửa. Cửa mở ra và một người đàn ông loạng choạng bước vào. Ông ta quấn kín trong áo khoác, mũ, khắn quấn và tất cả đều bám cứng tuyết trắng xóa. Không thể nhận ra ông ta là ai cho tới khi ông ta lôi chiếc khăn quấn đã đông cứng ra. Ông ta nói với cô giáo: - Tôi tới để lo giúp cô. Đó là ông Foster, người chủ của một đàn bò và đã bỏ trại để tới trú đông trong thị trấn tại nhà của gia đình Sherwoods, bên kia dãy phố có ngôi nhà của cô giáo. Cô Garland cảm ơn ông ta. Cô gõ chiếc thước lên mắt bàn và nói: - - Chú ý! Buổi học chấm dứt! Các em ra mang hết đồ ấm ngoài hành lang vào đặt gần lò sưởi. Laura nói với Carrie: - Em cứ ngồi đây. Chị sẽ mang đồ của em vào. Hành lang lạnh cóng. Tuyết bay vào giữa các khe ván xù xì trên vách. Laura tê buốt trước khi kéo được áo khoác và mũ trùm của cô khỏi đinh móc. Cô tìm đồ của Carrie và ôm vào trong lớp. Tất cả xúm quanh lò sưởi choàng áo buộc chặt lại. Cap Garland không còn cười nữa. Cặp mắt xanh lơ của cậu ta nheo lại, miệng dẩu ra trong lúc ông Foster nói. Laura quấn khăn thật chặt trên khuôn mặt trắng bệch của Carrie và buộc kỹ bao tay cho em. Cô nói với Carrie: - Đừng lo. Mình sẽ ổn hết. Ông Foster cầm cánh tay cô giáo nói: - Bây giờ tất cả đi theo tôi. Nhớ đi sát vào nhau. Ông ta mở cửa dẫm đường cùng với cô Garland. Mary Power và Minnie dắt theo hai cô bé nhà Beardsley. Ben và Arthur theo sát các cô rồi tới Laura cùng Carrie bước ra giữa vùng tuyết mù mịt. Cap đóng cửa lại ở phía sau. Tất cả bước đi một cách khó khăn giữa sức gió va đập, quật ngã. Ngôi trường đã biến mất. Không ai nhìn thấy gì ngoài màn trắng quay cuồng và tuyết cùng những chiếc bóng thấp thoáng. Laura cảm thấy nghẹt thở. Những mảnh tuyết nhỏ đóng thành băng quay cuồng đập vào mắt cô và cắt ngang hơi thở của cô. Váy của cô phần phật quanh người và quấn chặt lại đến nỗi cô không bước nổi rồi lại quay cuồng như nhấc bổng đầu gối cô lên. Đột nhiên, cô bị trượt chân, vội níu chặt Carrie. Carrie có gượng cưỡng lại rồi lảo đảo bị gió giật đi và lập tức ném lại sát người cô. Laura nghĩ: - Mình không thể tiếp tục đi theo lối này. Nhưng tất cả đã bước đi. Một mình cô bối rối giữa gió đảo lộn và tuyết và không thể còn bước đi nổi nếu không có bàn tay của Carrie. Gió đập vào cô từ mọi hướng. Cô không thể nhìn, không thể thở, lại trượt chân ngã xuống. Rồi đột nhiên hình như cô được nhấc lên và Carrie đâm sầm vào cô. Cô cố suy nghĩ. Những người hẳn đang đi trước ở một chỗ nào đó. Cô cần đi nhanh hơn để bắt kịp họ nếu không chắc chắn cô và Carrie sẽ bị lạc. Nếu bị lạc trên đồng cỏ, hai chị em sẽ chết cóng. Nhưng cũng có thể tất cả đã bị lạc. Phố Main Street chỉ là hai dãy nhà chạy dài. Tất cả chỉ đi một đoạn đường ngắn về phía bắc hay phía nam là sẽ đi trệch khỏi dãy nhà gồm các tiệm buôn và phía bên kia là đồng cỏ hoang vắng kéo dài nhiều dặm. Laura thấy họ đã đi đủ xa để tới phố Main Street, nhưng cô không thể nhìn thấy gì. Rồi bão mỏng hơn một chút. Cô nhìn thấy lờ mờ những chiếc bóng ở phía trước. Đó là những vệt xám sậm hơn trong màn trắng xám đang quay cuồng. Cô cố nhấn bước nhanh hơn cùng với Carrie cho tới lúc đụng vào chiếc áo của cô Garland. Tất cả đang dừng lại. Do quấn kín dưới mũ áo nên tất cả y hệt những bó đồ dựng ssa1tnhau giữa màn sương mù đang xoay tít. Cô giáo và ông Foster cố nói chuyện nhưng tiếng gió át hẳn tiếng hét của họ khiến không ai nghe được người kia nói gì. Lúc đó Laura bắt đầu biết cô lạnh như thế nào. Bàn tay bao kín của cô tê cóng tới mức không còn nhận ra bàn tay của Carrie. Toàn thân cô run bần bật, một cơn run rẩy mà cô không thể nào kìm lại nổi. Chỉ ở chính giữa người cô là còn một khoảng cứng ngắt nhức nhối và cơn run rẩy cứ co rút khoảng cứng này lại chặt hơn khiến mức đau buốt tăng thêm. Cô bỗng hoảng sợ nghĩ tới Carrie. Hơi lạnh quá gắt sợ Carrie khó đứng vững nổi. Carrie nhỏ quá, lại mỏng manh, yếu ớt nên không thể chịu đựng lâu trong mức lạnh như thế. Tất cả cần tới một chỗ trú ẩn gấp. Ông Foster và cô Garland lại bắt đầu đi, hơi quẹo về bên trái. Cả đám cựa quậy và vội vã băng theo. Laura nắm Carrie bằng bàn tay kia để thọc bàn tay bị tê cóng vào túi cho giảm bớt phần nào và lúc đó, cô chợt nhìn thấy một chiếc bóng đi sát bên cạnh. Cô nhận ra đó là Cap Garland. Cậu ta không bước theo những người khác về phía bên trái. Hai bàn tay thọc sâu trong túi, đầu cúi thấp, cậu ta mải miết bước thẳng vào cơn bão. Một đợt gió dữ dằn cuốn tuyết bay lên mù mịt và cậu ta biến mất. Laura không dám bước theo cậu ta. Cô phải chăm lo cho Carrie và cô giáo đã dặn không được tách ra. Cô tin chắc là Cap Garland đang đi đúng hướng về phố Main Street, nhưng cô có thể đã lầm và cô không thể đưa Carrie rời xa những người khác. Cô nắm chặt Carrie vội vã bước theo ông Foster và cô giáo. Ngực cô đau nhức và mắt căng ra trong những vụn tuyết như cắt quật tới. Carrie phấn đấu một cách can đảm dù trượt té, kiệt sức vẫn chống vững chân tiếp tục bước tới. Chỉ thỉnh thoảng khi những cuộn tuyết xoáy mỏng hơn, các cô mới thoáng nhìn thấy những chiếc bóng lờ mờ cử động ở phía trước. Laura cảm thấy tất cả đang đi lạc hướng. Cô không biết tại sao lại cảm thấy vậy. Không ai nhìn thấy gì. Cũng không có gì làm dấu- không có mặt trời, không có nền trời, không có hướng gió trong các đợt gió thổi dữ dằn từ mọi phía. Không có gì ngoài sự quay cuồng chóng mặt và hơi lạnh. Giống như hơi lạnh, tiếng gió gào và tuyết va đập, phủ kín tới nghẹn thở cùng với những cố gắng và sự nhức buốt kéo dài triền mien. Bố từng sống qua ba ngày đêm trong một trận bão tuyết ở bên bờ suối Plum. Nhưng ở đây không có bờ suối. Ở đây không có gì ngoài đồng cỏ trơ trụi. Bố đã kể về những con cừu trong một trận bão tuyết cùng chụm lại dưới tuyết. Một số con nhờ thế đã sống sót. Carrie đã quá mệt không còn đi xa hơn được nhưng cũng quá nặng nếu Laura muốn cõng em. Các cô chỉ cố lết xa thâm được chừng nào hay chừng đó. Và rồi… Rồi ngay giữa màn trắng mù mịt có một caí gì đó va vào cô. Cú va đập mạnh vào vai rồi cả vào người cô. Cô đu đưa bàn chân và đụng vào một vật gì thật cứng. Vật đó cao, chắc Laura một góc nhô ra của hai bức vách. Bàn tay cô cảm thấy thế rồi mắt cô nhận ra. Cô đã va phải một tòa nhà cao nào đó. Cô cố vận hết sức kêu lớn: - Ở đây! Tới đây! Ở đây có nhà! Gió gào hú xung quanh ngôi nhà khiến thoạt đầu không ai nghe thấy tiếng cô. Cô lôi những tảng băng đóng cứng trên chỗ khăn quấn ở trước miệng và hét lớn hơn trong bão táp mù mịt. Cuối cùng, cô nhìn thấy một chiếc bóng, rồi hai chiếc bóng mỏng hơn bức vách mờ tối mà cô đang bám vào – đó là ông Foster và cô giáo. Sau đó là những chiếc bóng khác vội vã kéo tới vây quanh cô. Không một ai nói gì. Tất cả gom lại và đứng tại đó. Mary Power và Minnie với các cô bé nhà Beardsley, rồi Arthur Johnson và Ben Woodworth với mấy cậu bé Wilmarth. Chỉ có một mình Cap Garland là lạc mất. Tất cả lần theo một bên nhà cho tới khi đi tới cửa trước và nhận ra là nhà trọ Mead’s ở cuối đường phía bắc phố Main Street. Phía bên kia ngôi nhà không có gì, ngoài đường xe lửa bị vùi trong tuyết, nhà ga trơ trọi và đồng cỏ bát ngát. Nếu Laura chỉ đi vài bước nhích gần về phía những người khác thì tất cả đã lạc vào vùng đồng cỏ vô tận ở phía bắc thị trấn. Tất cả dừng lại một lúc bên những ô cửa rạng ánh đèn của nhà trọ. Phía trong nhà trọ yên tĩnh và ấm áp, nhưng bão tuyết tiếp tục tồi tệ hơn và tất cả còn phải lo về nhà. Phố Main Street sẽ dẫn tất cả về tới nơi ngoại trừ Ben Woodworth. Không có một ngôi nhà nào được xây cất ở giữa nhà trọ và ga xe lửa là nơi mà cậu sống. Thế là Ben vào nhà trọ nghỉ lại để chờ bão dứt. Cậu có đủ khả năng làm như thế vì cha cậu có việc làm thường xuyên. Minnie và Arthur Johnson dẫn mấy cậu bé nhà Wilmarth chỉ cần băng qua phố Main Street tới cửa hàng thực phẩm Wilmarth’s là nhà của cả hai ở ngay bên cạnh. Những người khác cặp át các tòa nhà đi xuôi phố Main Street. Họ đi qua quán rượu, qua cửa hàng thực phẩm gia súc Royal Wilder’s rồi qua tiệm tạp phẩm Barker’s. Kế đó là nhà trọ Beardsley, nơi mà các cô bé nhà Beardsley tới. Cuộc hành trình gần như đã chấm dứt. Họ qua tiệm đồ sắt Couse’s và quẹo sang phố Second Street tới tiệm đồ sắt Fuller’s. Lúc này Mary Power chỉ cần đi qua cửa hàng bán dược phẩm. Tiệm may của cha cô đứng kề bên đó. Laura, Carrie cùng cô giáo và ông Foster phải đi ngang phố Main Street. Con phố rộng dễ sợ. Nhưng nếu họ không nhận ra ngôi nhà của bố thì còn có những đống cỏ và chuồng ngựa chặn giữa họ và đồng cỏ hoang vắng. Họ không đi lạc. Một ô cửa sổ có ánh đèn hắt ra mờ mờ và ông Foster nhìn thấy trước khi chạy tới nơi. Ông đi quanh góc nhà và cùng với cô giáo lần theo dây phơi đồ, tới các đống cỏ, tới chuồng ngựa và tới nhà Garland. Laura và Carrie đã bình yên ở khung cửa trước nhà. Bàn tay Laura sờ soạng tìm nắm đấm cửa đã cứng ngắt. Bố mở cửa và giúp các cô vào nhà. Bố đã mặc áo khoác, choàng mũ và quấn khăn. Bố đặt cây đèn bão đã được thắp sáng xuống và thả rơi cuộn dây thừng. Bố nói: - Bố đang chuẩn bị đi kiếm các con. Bước vào căn nhà yên tĩnh, Laura và Carrie cùng đứng thở thật sâu. Gió không còn lôi kéo, xô đẩy các cô nữa. Mắt các cô vẫn bị lóa, nhưng những vụn tuyết đóng thành băng xoay tít không còn va đập vào mắt. Laura cảm thấy bàn tay của mẹ đang gỡ chiếc khăn quàng đóng băng cho cô và cô lên tiếng: - Carrie có ổn không? Bố nói: - Không sao, Carrie ổn rồi. Mẹ nhấc chiếc mũ trùm của Laura, cởi nút áo khoác cho cô và giúp cô kéo các ống tay áo. Mẹ nói: - Các thứ đều đóng băng đầy hết. Băng vỡ lách cách khi mẹ giũ và những hạt trắng nhỏ rắc đầy nền nhà. Mẹ nói: - Thôi, mọi thứ đã kết thúc tốt đẹp. Các con đã thoát khỏi bị chết cóng. Tới gần lò sưởi cho ấm đi. Laura cử động khó khăn nhưng cô khom xuống dùng mấy ngón tay cạy mảnh tuyết do gió lùa vào giữa lớp vớ len và giầy đã đóng thành băng. Rồi cô loạng choạng bước về phía lò bếp. Mary nói trong lúc đứng lên khỏi chiếc ghế đu: - Ngồi với chỗ của chị đi. Chỗ này ấm nhất. Laura ngồi xuống một cách cực nhọc. Cô cảm thấy tê dại và đờ đẫn. Đưa tay dụi mắt, cô nhìn thấy một vết màu hồng trên bàn tay. Mí mắt cô chảy máu do những vụn tuyết cào xát. Các cạnh của chiếc lò sưởi than đều nóng đỏ và cô cảm thấy hơi nóng ở trên da nhưng trong người cô vẫn thấy lạnh. Hơi lửa nóng không thể đụng tới cái lạnh đó. Bố ngồi sát lò bếp giữ Carrie trên đầu gối. Bố tháo giầy cho cô để biết chắc bàn chân cô không bị cóng và giúp cô gỡ chiếc khăn san. Chiếc khăn run rẩy theo nhịp run rẩy của Carrie. Cô nói: - Con không thấy ấm, bố. Mẹ nói: - Các con sẽ hết lạnh ngay. Mẹ có một món uống nóng cho các con liền bây giờ. Mẹ chạy vội vào bếp và mang ra cho mỗi cô một ly trà gừng đang bốc hơi. Mary nói: - Trời, mùi thơm quá! Grace nghiêng người trên đầu gối Laura nhìn thật lâu vào chiếc ly cho tới khi Laura cho bé một hớp. Bố nói: - Anh không hiểu tại sao lại không có đủ nước để uống một lượt. - Có lẽ có đó. Mẹ nói và lại đi vào trong bếp. Thật kì diệu được ngồi tại đó, bình an trong nhà mình, cách biệt với gió bão và hơi lạnh. Laura nghĩ điều này có phần nào giống như ở Thiên đàng, nơi mà kẻ rã rời mệt mỏi được nghỉ ngơi. Cô không thể hình dung Thiên đàng kì diệu hơn nơi cô đang có mặt với hơi ấm từ từ tăng lên và sự thoải mái được nhấm nháp vị nước trà gừng nóng hổi, ngọt ngào, được nhìn mẹ bên cạnh bé Grace cùng với bố, với Carrie và Mary đều đang thưởng thức những ly trà gừng của mình trong lúc bão táp gào hú phía ngoài mà không thể đụng nổi họ. Laura lẩm bẩm như đang ngái ngủ: - Con mừng là bố không phải đi kiếm chúng con, bố. Con mong bố an toàn. Carrie chúi sát hơn vào bố, nói: - Con cũng thế. Con vẫn nhớ dịp Giáng sinh ở suối Plum, khi bố không về nhà được. Bố nói một cách chắc chắn: - Bố cũng vẫn làm. Khi Cap Garland tới cửa hàng Fuller’s và nói rằng tất cả các con đang đi về phía đồng cỏ thì các con có thể đánh cá là bố đã tìm đến ngay với một sợi dây và một chiếc đèn bão. Laura choàng thức nói: - Con mừng là tụi con đã về tới đúng lúc. Bố nói: - Ừ, mọi người đã lập một nhóm lo đi kiếm các con mặc dù việc tìm kiếm giống như săn lùng cây kim trong đống cỏ. Mẹ lên tiếng: - Tốt hơn là quên chuyện đó đi. Bố tiếp tục: - Đúng, vẫn phải làm cái điều tốt nhất có thể làm. Cap Garland là một thằng bé tinh khôn. Mẹ nói: - Thôi, bây giờ thì Laura và Carrie lên giường nằm nghỉ ngơi đi. Một giấc ngủ ngon là điều các con đang cần. Chương 10: Mary Tới Trường Buổi sáng, khi mở mắt ra, Laura thấy tất cả những chiếc đinh gấp đóng vào mái nhà ở phía trên đều phủ trắng sương giá. Sương giá phủ đầy trên từng ô kính cửa sổ. Ánh sáng ban ngày mờ nhạt im lìm trong những bức vách kiên cố ngăn cách cơn bão đang gầm rú ở bên ngoài. Carrie cũng thức giấc. Cô lén nhìn Laura một cách lo lắng từ dưới tấm mền phủ dưới chiếc giường kê gần ống khói lò sưởi là giường của cô và bé Grace. Cô thổi hơi ra để coi mức lạnh ra sao. Dù nằm sát bên ống khói lò sưởi, hơi thở của cô cũng đóng thành một lớp màu trắng trong không khí. Nhưng ngôi nhà dựng hoàn hảo tới mức không một mảnh tuyết nào có thể lọt qua vách hay qua mái. Laura nằm im ê ẩm và Carrie cũng vậy. Nhưng sáng rồi và các cô phải trở dậy. Trượt ra khỏi giường bước vào cái lạnh khiến hụt hơi, Laura chộp vớ, giầy, áo và chạy vội vã ra đầu cầu thang. Cô lên tiếng trong lúc thầm cảm ơn bộ đồ fla-nen dài màu đỏ ấm áp dưới cái áo dài ngủ fla-nen. - Mẹ, tụi con thay đồ ở dưới đó có được không? Mẹ đáp: - Được, bố đang ở chuồng ngựa. Lò bếp sưởi ấm khắp nhà bếp và ánh sáng đèn giống như làm độ ấm tăng hơn. Laura mặc đồ lót, áo ngoài, mang giầy. Rồi cô mang quần áo của mấy chị em xuống hơ ấm và quấn Grace trong mền bồng xuống tầng dưới. Tất cả đều quần áo chỉnh tề và rửa ráy xong, khi bố quay vào với một xô sữa đông gần một nửa. Sau khi lấy lại hơi thở và rũ hết sương giá và tuyết trên bộ râu. Bố nói: - Rồi, mùa đông khắc nghiệt đã bắt đầu. Mẹ nói: - Sao vậy, Charles! Giống như anh không lo ngại gì về thời tiết mùa đông. Bố đáp: - Anh không lo ngại. Nhưng sắp tới một mùa đông khắc nghiệt. Mẹ nói: - Cũng đúng thôi, nếu nó tới thì mình đã ở đây, trong thị trấn là nơi mà mình có thể kiếm mọi thứ mình cần ở trong các cửa hàng ngay cả khi có bão. Cho tới khi dứt bão sẽ không có chuyện tới trường. Thế là sau khi làm xong mọi việc, Laura cùng Carrie, Mary ngồi học bài và sau đó chăm chú khâu vá trong lúc mẹ đọc sách cho các cô nghe. Khi ngẩng lên nhìn và nghe ngóng, mẹ nói: - Nghe âm thanh giống như một trận bão tuyết ba ngày bình thường. Laura nói: - Tuần này không có chuyện đến trường nữa. Cô tự hỏi không biết Mary và Minnie đang làm gì. Phòng trước ấm đến nỗi một phần sương gía trên cửa sổ tan ra biến thành băng. Khi cô phà hơi lên đó để dọn sạch thành một lỗ ngó ra, cô nhìn thấy qua kính cửa một lớp tuyết trắng xoay tít. Cô không thể tìm nổi cửa hàng đồ sắt Fuller’s nằm ở ngay bên kia phố, nơi bố đã ngồi tới bên lò sưởi để trò chuyện với những người đàn ông khác. Nhích về phía trên đầu phố, qua khỏi cửa hàng đồ sắt Couse’s và nhà trọ Beardsley, tiệm tạp phẩm Barker’s, cửa hàng thức ăn gia súc Royal Wilder’s tối tăm và lạnh lẽo. Không có ai tới mua thực phẩm gia súc trong cơn bão đó nên Royal không nhóm lò sưởi. Nhưng ở phòng sau, ở chỗ của anh ta và Almanzo lại rất ấm áp và đầy đủ. Almanzo đang nướng bánh kép. Royal đồng ý là ngay cả má cũng không qua nổi Almanzo trong việc làm bánh kép. Nhớ lại khi ở bang York lúc cả hai còn là những cậu bé và sau này, lúc ở trong khu nông trại lớn của ba ở Minnesota, cả hai không bao giờ nghĩ đến nấu nướng vì đó là việc của đàn bà. Nhưng từ khi cả hai tới miền tây nhận phần đất được cấp phát thì họ bắt buộc phải nấu nướng để khỏi bị chết đói. Almanzo phải lo bếp núc vì cậu khéo tay trong mọi thứ và cũng vì cậu nhỏ hơn còn Royal vẫn có ý nghĩ mình là chủ nhân. Khi tới miền tây, Almanzo tròn mười chín tuổi. Nhưng đó là một điều bí mật vì cậu đã được cấp đất lập trại và theo luật định thì chỉ những người từ hai mốt tuổi mới có quyền lợi đó. Almanzo không cho là mình đã vi phạm pháp luật vì cậu biết cậu không lừa gạt chính quyền. Thêm nữa, bất kì ai biết cậu mới mười chín tuổi cũng có quyền tước phần đất đã cấp cho cậu. Almanzo nhìn sự việc theo cách nhìn sau: Chính phủ muốn có sự định cư ở vùng đất này nên sẽ cấp đất lập trại cho bất kì ai đủ sức mạnh cơ bắp và trí não để tới đây khai phá và chịu gắn bó tới cùng với công việc. Nhưng các nhà chính khách ở xa mãi tận Washington lại không hiểu biết về những người định cư nên phải đặt ra các luật lệ và một trong các luật lệ đó qui định rằng người chủ trại phải ít nhất hai mươi mốt tuổi. Không có qui định nào được tuân theo khi người ta có ý làm trái. Almanzo biết có những người kiếm rất nhiều tiền nhờ lập các hồ sơ xin cấp đất phù hợp hoàn toàn với luật định rồi sang đất lại cho những người giàu có. Khắp nơi đều có những người ăn cắp đất đai như thế nhờ dựa vào tất cả các điều qui định của pháp luật. Almanzo nghĩ rằng trong tất cả các qui định về cấp phát đất đai thì điều điên rồ nhất là qui định về mức tuổi. Ai cũng biết rằng không có hai người hoàn toàn giống nhau. Nhưng người ta vẫn có những số chuẩn để đo vải, đo khoảng cách, nhưng không thể gộp chung mọi người lại và đo họ bằng các qui định. Trí não và tính cách không phụ thuộc vào bất kì thứ gì ngoại trừ bản thân mỗi con người. Có những người già tới sáu chục tuổi mà vẫn không có khả năng xét đoán trong khi người khác lại xét đoán tốt lúc mới mười sáu tuổi. Và Almanzo cho rằng cậu cũng có đủ những điều phải có của một người hai mươi mốt tuổi. Cha của Almanzo cũng nghĩ như thế. Một người cha có quyền giữ con trai ở lại làm việc cho mình tới khi đứa con trai tròn hai mươi mốt tuổi. Nhưng Almanzo lại cho các con của ông ra đời sớm hơn để được rèn luyện tốt. Almanzo đã học được cách dành dụm tiền bạc từ trước khi mười tuổi và đã làm mọi công việc nông trại của một người đàn ông từ khi cậu mới chin tuổi. Khi cậu mười bảy tuổi, cha cậu đã đánh giá cậu là một người trưởng thành và dành cho cậu trọn quyền sử dụng thời giờ của mình. Almanzo đã làm việc lấy số tiền công mỗi ngày năm mươi xu rồi để dành tiền mua hạt giống và dụng cụ. Cậu đã trồng lúa trên các phần đất được chia ở miền tây Minnesota và đã thu một mùa vụ tốt. Cậu cho rằng cậu đã là một người định cư thích hợp mà chính phủ cần và vấn đề tuổi tác của cậu chẳng là gì cả. Vì thế cậu đã nói với viên chức lo về ruộng đất: - Ông có thể ghi cho tôi hai mươi mốt tuổi. Và viên chức nọ nháy mắt với cậu và ghi như thế. Lúc này, Almanzo đã được cấp đất lập trại và mang từ Minnesota về đủ số hạt giống cho năm tới. Nếu cây có thể gieo những hạt giống đó trên các đồng cỏ nay và thu các vụ mùa tốt thì chỉ bốn năm nữa cậu đã có nông trại riêng. Cậu đang làm bánh kép không phải do Royal ra lệnh cho cậu mà là do Royal không thể làm nổi những chiếc bánh kép ngon lành và Almanzo rất thích những chiếc bánh làm bằng bột mì xốp nhẹ với thật nhiều mật mía. Royal nói: - Chà! Nghe kìa! Cả hai chưa từng nghe thấy gì giống như trận bão tuyết này. Almanzo nói: - Ông già da đỏ kia biết rõ ông ta nói về điều gì. Nếu mình sống suốt bảy tháng trong… Ba chiếc bánh kép trên vỉ nướng đang nổi phồng lên những lỗ nhỏ gần các mép giòn. Cậu lật nhanh mấy chiếc bánh và ngắm những cạnh màu nâu ở chính giữa. Mùi thơm của bánh hòa trộn với mùi thịt heo ướp muối nướng và mùi cà phê đang sôi. Căn phòng ấm áp và cây đèn với miếng phản quang bằng thiếc treo trên một đinh móc sáng trưng. Những chiếc yên và hàm thiếc ngựa lủng lẳng trên các vách ván thô nhám. Chiếc giường ngủ kê trong một góc và bàn ăn được kéo tới trước lò bếp để Almanzo có thể đặt bánh kép lên những chiếc đĩa sứ màu trắng mà không cần phải bước thêm một bước nào. Royal nói: - Trận bão này không thể kéo dài bảy tháng được. Đúng là nực cười. Mình lại chắc chắn là có những lời thần chú nào đó về thời tiết. Almanzo đáp một cách ung dung: - Mọi điều có thể xảy đến và phần đông thường là thế. Cậu lướt lưỡi dao dưới mép của mấy chiếc bánh. Bánh đã chín và cậu hất chúng vào trong đĩa của Royal rồi tra mỡ trên vỉ nướng bằng lớp da heo ướp muối. Royal tưới mật mía lên bánh, nói: - Có một điều không thể xảy ra. Đó chính là mình không thể tiếp tục ở đây cho tới mùa xuân mà không có xe lửa chạy. Almanzo trút thêm lên vỉ nướng đang xèo xèo ba viên bột nhồi từ bình đựng bột nhồi. Cậu uể oải tựa vào vách ngăn cạnh ống khói lò bếp chờ cho những chiếc bánh kép phồng lên. Cậu nói: - Mình nên tính tới việc kéo thêm cỏ khô. Mình phải có nhiều cỏ khô làm thức ăn cho bò ngựa. Royal nói trong khi ăn: - Ồ, họ sẽ thông đường xe lửa. Nếu họ không chịu làm thì mình sẽ phải đả phá việc đó. Than dầu lửa, bột và đường như thế nào? Về vấn đề này, kho thực phẩm dự trữ của mình kéo dài được bao lâu nếu cả thị trấn dồn đống lại đây để mua? Almanzo đứng thẳng lên. Cậu kêu lớn: - Này! Chẳng có ai tới lấy hạt giống của em hết! Không có vấn đề gì xảy ra. Royal nói: - Sẽ không có điều gì xảy ra. Ai mà nghe nổi là có những trận bão kéo dài bảy tháng? Đường xe lửa sẽ lại thông thôi. Almanzo đảo mấy chiếc bánh, nói: - Những thứ này tốt hơn. Cậu nghĩ tới ông già da đỏ và nhìn vào những túi hạt giống. Tất cả chất đống ở cuối phòng và có vài túi lăn lóc dưới gầm giường. Hạt giống không thuộc về Royal mà thuộc về cậu. Cậu đã trồng ở Minnesota. Cậu đã cày xới đất, bừa và gieo hạt. Cậu đã cắt lúa, bó, đập, đóng bao và lôi nó theo hàng trăm dặm, trên thùng xe. Nếu những trận bão như trận bão này cản trở xe lửa đến nỗi không có thêm hạt giống từ miền đông tới cho tới sau thời gian gieo hạt thì mùa vụ năm tới của cậu, đất đai của cậu tùy thuộc vào số hạt giống đã có này để gieo. Cậu sẽ không bán với bất kể giá tiền nào. Hạt giống phải được giữ lại cho mùa vụ. Không thể gieo những đồng đô-la bằng bạc. Cậu nói: - Em sẽ không bán quá một đấu hạt giống. Royal đáp: - Tốt thôi, tốt thôi, không có ai làm phiền những hạt giống của em đâu. Bao nhiêu chiếc bánh rồi? Almanzo vừa đặt chiếc bánh vào đĩa của Royal vừa nói: - Đây là chiếc bánh thứ hai mươi mốt. Royal hỏi: - Em đã ăn bao nhiêu chiếc trong lúc anh lo công việc? Almanzo cười: - Em không đếm. Nhưng, trời đất ơi, em đang thấy ngon miệng, anh ăn no đi. Royal nói: - Cố kéo dài bữa ăn ra thì khỏi phải rửa chén đĩa. Chương 11: Cô Wilder Dạy Học Buổi trưa ngày thứ ba, cơn bão chấm dứt. Rồi gió ngưng và trên bầu trời quang, mặt trời tỏa sáng. Bố nói một cách vui vẻ: - Tốt, qua hết rồi. Bây giờ có lẽ mình sẽ có một câu thần chú về thời tiết tốt. Mẹ thở ra khoan khoái: - Thật dễ chịu lại được thấy mặt trời. Mary thêm: - Và nghe thấy sự yên tĩnh. Tất cả lại nghe thấy những âm thanh nhỏ của thị trấn. Thỉnh thoảng cánh cửa ra vào của một cửa hàng đóng sập lại. Ben và Arthur đi ngang qua nói chuyện và Cap Garland huýt gió đi xuống phố Second Street. m thanh quen thuộc duy nhất mà tất cả không nghe thấy là tiếng còi xe lửa. Lúc ăn tối, bố nói xe kẹt do tuyết dồn đống cắt đường gần Tracy. Bố nói: - Nhưng họ sẽ phải xúc hết trong vài ngày. Với thời tiết như thế này, ai quan tâm tới xe lửa? Sáng sớm hôm sau, bố băng qua phố tới cửa tiệm Fuller’s rồi vội vã trở về. Bố nói với mẹ là một số người sẽ dùng xe guồng từ nhà ga tới đón xe lửa ở Volga. Ông Foster đã nhận lời làm giúp công việc trong nhà nếu bố đi. Bố nói: - Anh ngồi một chỗ quá lâu rồi nên thích đi xa một chút. Mẹ đồng ý: - Anh đi đi, Charles. Nhưng mở đường xa như thế trong một ngày sao được? Bố nói: - Anh cũng thấy thế. Những chỗ kẹt từ đây tới Volga rất nhỏ và chỉ xa khoảng năm mươi dặm. Tình trạng căng nhất nằm ở phía đông Volga và các đoàn sửa chữa xe lửa đang làm việc tại đó. Nếu bọn anh dọn sạch phần đường còn lại cho họ thì phải trở về cùng chuyến xe lửa thường lệ vào ngày mốt. Bố mang thêm một đôi vớ len ngắn trong lúc nói chuyện. Chiếc khăn quàng rộng quấn quanh cổ bố bắt chéo trước ngực nhét khít vào dưới chiếc áo khoác cài nút kín. Bố cột chặt tai mũ trùm, mang đôi bao tay ấm nhất, rồi đặt chiếc xẻng lên vai, bố đi tới nhà ga. Gần tới giờ học, nhưng thay vì bước gấp tới trường thì Laura và Carrie dừng lại trong phố Second Street nhìn bố bước đi. Chiếc xe guồng nằm trên đường sắt cạnh nhà ga và mọi người đang leo lên, lúc bố đi tới. Tất cả đều gọi: - Sẵn sáng rồi, Ingalls! Tất cả lên xe! Gió từ hướng bắc đang thổi trên lớp tuyết rực rỡ đưa rõ từng tiếng nói tới chỗ Laura và Carrie. Bố đã leo lên xe. Vừa bám được vào tay guồng, bố đã hô: - Lên đường, các chàng trai! Các ông Fuller, Mead và Hinz đứng thành một hàng đối mặt với bố, ông Wilmarth và Royal Wilder. Tất cả những bàn tay mang bao tay đều đặt trên hai going gỗ dài bắt ngang giữa xe kẹp hai bên chiếc guồng bơm. Ông Fuller hô lớn: - Sẵn sàng, các chàng trai! Guồng tới! Ông Mead và ông Hinz cùng cúi thấp xuống theo ông Fuller đẩy tay guồng xuống. Rồi lúc đầu họ theo tay guồng vươn lên thì bố và hai người cùng phía cúi xuống đẩy tay guồng xuống rồi lên, lại xuống rồi lên, hai nhóm người cúi thấp rồi đứng thẳng tựa hồ luân phiên cúi đầu chào nhau và bánh của chiếc xe guồng bắt đầu nhích từ từ, rồi lăn nhanh theo đường sắt về phía Volga. Và khi xe đã chạy đều, bố bắt đầu hát và tất cả hòa theo: Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Không lôi gì lếch thếch phía sau Lên và xuống, lên và xuống, tất cả những chiếc lưng chuyển động đồng loạt theo nhịp hát và những chiếc bánh xe lăn nhẹ nhàng, nhanh hơn mãi. Chặn đường ta là một tay lầm lỗi Ta sẽ ngừng xe đón rước hẳn hoi Và vẫn không lôi theo thứ gì lếch thếch Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Ta guồng cỗ xe già… Bùm! Cỗ xe lao nhanh vào một bờ tuyết. Ông Fuller hô lớn: - Xả hết! Không chỉ lần này, mình không lăn qua nó! Tất cả đều cầm xẻng lên và bước xuống xe. Những chiếc xẻng tíu tít hất văng những mảnh tuyết ra xa làm bụi tuyết bay mù mịt trong gió. Laura nói với Carrie: - Mình phải tới trường thôi. - Ô, chờ coi thêm một phút nữa. Carrie nài nỉ không rời cặp mắt ngó nghiêng qua lớp tuyết lấp lánh để ngắm bố đang làm việc trước cỗ xe guồng. Chỉ một thoáng, mọi người đã lại bước tới cỗ xe, buông xẻng xuống và cúi mình trên các tay guồng. Chặn đường ta là xa tăng quỉ dữ Ta sẽ cho xe cán chết tươi Và vẫn không lôi theo thứ gì lếch thếch! Cỗ xe nhỏ dần, nhỏ dần và hai nhóm người tiếp tục luân phiên cúi chào nhau trong tiếng hát văng vẳng vọng lại qua cánh đồng tuyết lấp lánh. Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Ta guồng cỗ xe già xộc xệch Không lôi gì lếch thếch phía sau… Hát và guồng, cỗ xe lăn tới mãi với những chiếc xẻng xúc thông đường xả sạch mọi bờ tuyết, mọi chướng ngại, bố đi xa lần về phía Volga. Trọn phần còn lại trong ngày và suốt ngày hôm sau, ngôi nhà trống vắng. Buổi sáng và buổi tối, ông Foster tới lo các việc lặt vặt. Sau khi ông ta rời khỏi chuồng ngựa, mẹ sai Laura tới coi xem ông ta làm có hoàn hảo không. Với đêm ngày thứ năm, mẹ nói: - Chắc chắn mai bố sẽ về. Trưa ngày hôm sau, một đoàn xe dài hụ còi vang động trên cánh đồng tuyết phủ và từ cửa sổ nhà bếp, Laura cùng Carrie nhìn thấy một cuộn khói đen cuồn cuộn bốc lên bầu trời trong lúc đoàn xe chạy rầm rập phía dưới. Đó là xe lửa chở công nhân, chen chúc đàn ông đang hô hoán và ca hát. Mẹ nói: - Giúp mẹ lo xong bữa trưa đi, Laura. Bố đói lắm rồi. Laura lấy bánh qui khi cửa ýt mở ra và bố gọi: - Ra coi, Caroline! Coi xem ai đi cùng anh về nhà mình. Grace đang dẫn đầu xông tới đón bố bỗng ngừng lại, bước lui, đưa mấy ngón tay lên miệng, đứng nhìn. Mẹ khẽ nhấc bé sang bên khi mẹ bước tới cửa với đĩa khoai tây nghiền trên tay. Mẹ kêu lên: - Trời ơi, anh Edwards! Bố nói: - Anh đã nói với em là mình sẽ gặp anh ấy, sau khi anh ấy giúp giành lại khu trại của mình. Mẹ đặt đĩa khoai tây lên bàn, nói với ông Edwards: - Tôi rất muốn cảm ơn anh về việc đã giúp anh Ingalls khai nhận được khu đất lập trại. Laura nhận ra ông ấy dễ dàng. Ông ấy vẫn là con mèo hoang cao, gầy, lang thang của xứ Tennessee. Những nếp nhăn ngộ nghĩnh trên khuôn mặt nâu bóng của ông ấy sâu hơn, trên má ông ấy có một vết thẹo do dao cắt trước đây không thấy, nhưng cặp mắt ông ấy vẫn cười cợt, lơ đãng và sắc sảo như cô còn nhớ. Cô kêu lớn: - Ô, bác Edwards! Mary nhắc: - Bác đã mang quà của ông già Noel về cho tụi cháu. Laura nói: - Bác đã bơi qua suối. Rồi bác xuôi theo sông Verdigris… Ông Edwards chà bàn chân trên nền nhà, cúi thấp đầu: - Chị Ingalls và các cháu gái, tôi rất mừng được gặp lại tất cả. Ông ấy nhìn vào cặp mắt của Mary đã không còn nhìn thấy ông ấy và giọng ông ấy dịu hẳn khi ông ấy nói: - Hai tiểu thư xinh đẹp này có phải là hai cô bé mà tôi đã tung lên đầu gối và tung xuống sông Verdigris không, Ingalls? Mary và Laura đáp phải và chỉ cho thấy Carrie lúc đó mới là một em bé. Mẹ nói: - Em bé của chúng tôi lúc này là Grace. Nhưng Grace không tới gặp ông Edwards. Bé chỉ ngó ông ấy và bám cứng vào váy mẹ. Mẹ nói một cách thân mật: - Anh đến thật đúng lúc, anh Edwards. Chỉ một phút nữa là bữa ăn đã bày xong. Và bố thúc giục: - Ngồi xuống liền, Edwards và không được mắc cỡ! Bữa ăn rất thịnh soạn đúng như nó phải thịnh soạn! Ông Edwards thích thú ngắm căn nhà thoải mái, dựng chắc chắn và bữa ăn tối ngon lành một cách thật tình. Nhưng ông ấy bảo ông ấy sẽ đáp chuyến xe lửa sắp tới đi miền tây. Bố không thể thuyết phục ông ấy ở lại lâu hơn. Ông ấy nói: - Tôi dự định đi thật xa về miền tây trong mùa xuân. Tôi cũng đã dứt khoát xong với vùng này. Đám chính khách đã kéo đến lúc nhúc và xin lỗi chị, nếu có một thứ dịch nào tệ hơn châu chấu thì chắc chắn là các chính khách. Sao, họ sẽ đánh thuế tới mảnh vải lót túi áo để duy trì những trung tâm hành chính ở đây! Tôi không thấy mình có cách gì phù hợp với một đời sống tỉnh lẻ. Tất cả chúng ta đều chạy theo hạnh phúc và bằng lòng với sự vắng mặt của những tay chính khách. Mùa hè vừa rồi, Feller bám theo đánh thuế tôi. Anh ta bảo tôi kê khai tới những thứ tối thiểu cuối cùng mà tôi có được. Thế là tôi kê khai những con ngựa của tôi, Tom và Jerry theo ước giá mỗi con năm mươi đô-la, cặp bò của tôi, Buck và Bright trị giá năm mươi đô-la và con bò cái ba mươi lăm đô-la. Ông ta hỏi “Anh chỉ có thế thôi sao?”. Được, tôi nói với ông ta là tôi khai thêm năm đứa con và tôi liệt giá mỗi đứa một đô-la. Ông ta nói “Đó là tất cả?” Ông ta tiếp “Còn vợ anh thì sao?” Tôi nói với ông ta “Chúa chứng giám cho tôi. Cô ấy nói rằng cô ấy không phải vật sở hữu của tôi nên tôi không tính là đóng một xu thuế nào cho cô ấy”. Tôi nói và tôi không kê khai. Mẹ nói: - Sao, anh Edwards, đây là những tin tức thông báo cho chúng tôi biết anh đã có gia đình. Anh Ingalls không nói gì về chuyện này cả. Bố giải thích: - Chính anh cũng không hề hay biết. Nhưng này Edwards, dù sao anh cũng không phải trả thuế vợ và thuế con. Ông Edwards nói: - Ông ta muốn có một bản liệt kê thuế thật dài. Các chính khách rất thích dí mũi vào công việc của người ta và tôi tính làm cho họ hài lòng. Điều đó chẳng thành vấn đề gì vì tôi đâu có định đóng thuế. Tôi đã từ bỏ quyền khai thác phần đất được cấp phát và vào mùa xuân khi đám nhân viên thuế lảng vảng tới thì tôi đã đi khỏi đó rồi. Đi không có con, không có vợ, vì đâu còn cách nào. Trước khi bố hoặc mẹ kịp lên tiếng, còi xe lửa hụ lớn và kéo dài. Ông Edwards nói: - Nó gọi rồi! Và ông đứng lên khỏi bàn ăn. Bố nài nỉ: - Edwards, hãy đổi ý, ở lại thêm một lúc nữa. Anh luôn đem may mắn đến cho chúng tôi. Nhưng ông Edwards lần lượt bắt tay mọi người và cuối cùng bắt tay Mary đang ngồi bên cạnh ông ấy. Ông ấy nói: - Tạm biệt tất cả! Và vội vã bước ra khỏi cửa chạy về phía nhà ga. Suốt khoảng thời gian đó, Grace chỉ trố mắt nhìn và lắng nghe chứ không nói một tiếng nào. Lúc này thì ông Edwards đột ngột biến mất và bé hít một hơi thật dài, hỏi: - Mary, đó là người đã nhìn thấy ông già Noel hả? Mary đáp: - Ừ. Đó là người đã đi bộ suốt bốn mươi dăm dưới trời mưa tới Independence để gặp ông già Noel ở đó và mang quà Noel về cho Laura và chị lúc các chị còn là những cô bé. Mẹ nói: - Ông ấy có một tấm long vàng. Laura nhắc: - Ông ấy đem về cho mỗi đứa con một chiếc ly thiếc và một thỏi kẹo. Cô chậm chạp đứng lên và bắt đầu giúp mẹ với Carrie dọn dẹp bàn ăn. Bố đi tới chiếc ghế lớn gần lò bếp. Mary nhấc chiếc khăn tay trong long bàn tay lên khi cô rời bàn ăn và một cái gì đó rơi nhẹ Cap Garland nền nhà. Mẹ cúi xuống lượm lên. Mẹ đứng sững cầm vật đó trong tay không nói được tiếng nào và Laura kêu lớn: - Mary! Hai mươi đô-la! Chị vừa đánh rơi một tờ hai mươi đô-la! Mary kinh ngạc: - Làm sao có chuyện đó! Bố nói: - Đó là của Edwards. Mẹ nói: - Mình không thể giữ lại. Nhưng tiếng còi từ giã cuối cùng của chuyến xe lửa đã bốc lên một hồi dài lanh lảnh. Bố hỏi: - Em tính sao về chuyện này? Edwards đã đi rồi và mình khó gặp lại nổi anh ấy trong nhiều năm, có thể là không bao giờ gặp lại nữa. Anh ấy đang đi tới Oregon vào màu xuân. Mẹ khẽ kêu lên trong sự bối rối: - Nhưng, Charles… Ôi, tại sao anh ấy làm vậy? Bố nói: - Anh ấy cho Mary. Hãy để Mary giữ số tiền. Có thể số tiền sẽ giúp con tới trường được. Mẹ suy nghĩ một lát rồi nói: - Thôi được! Và mẹ đưa tờ giấy bạc cho Mary. Mary cầm một cách cẩn thận, vuốt nhẹ bằng mấy đầu ngón tay và gương mặt rạng sáng: - Ôi, cháu cảm ơn bác Edwards. Mẹ nói: - Em mong là anh ấy không bao giờ cần đến số tiền này, dù anh ấy ở đâu cũng vậy. Bố an ủi mẹ: - Em nên tin rằng Edwards là người biết phòng xa. Mặt Mary mơ màng như khi cô nghĩ tới trường học dành cho người khiếm thị. Cô nói: - Mẹ, cộng với số tiền mẹ kiếm được do nấu cơm tháng hồi năm ngoái thì đã có ba mươi lăm đô-la hai mươi lăm xu. Chương 12: Mùa Đông Ấm Cúng Ngày thứ bảy nắng tỏa sáng và gió thổi nhẹ từ hướng nam, bố đang đi kéo cỏ khô ở trại về vì bò và ngựa cần ăn nhiều cỏ để đủ sức chống với cái lạnh. Trong ánh nắng xuyên qua các ô cửa sổ phía tây, Mary khẽ đung đưa chiếc ghế và những chiếc kim đan của Laura lóe sáng. Laura đang đan một dải ren bằng sợi trắng làm đường viền cho chiếc váy lót. Cô ngồi sát cửa sổ để ngó ra ngoài phố vì cô đang chờ Mary Power và Minnie Johnson. Mấy cô bạn sẽ tới vào buổi chiều mang tới cho cô những mẫu đan móc của họ. Mary đang nói về trường học mà một ngay nào đó cô có thể tới được. Cô nói: - Chị sẽ bắt kịp các bài học của em, Laura. Nếu được đến trường, chị mong em cũng tới đó. Laura nói: - Em nghĩ là em sẽ là giáo viên nên sẽ không có thể đi đâu. Em cho là chị quan tâm tới việc học nhiều hơn em. Mary khẽ kêu lên: - Ô, chị rất quan tâm tới việc học! Chị muốn học mọi thứ thật nhiều. Có biết bao nhiêu thứ để học và chị luôn muốn học hoài. Và chị cứ mong mình có thể để dành đủ tiền để chị được đi học, dù chị đã mù. Điều đó không kì diệu sao? Laura đồng ý một cách bình thản: - Kì diệu thật chứ. Cô hy vọng bằng một cách nào đó Mary có thể đi học. Cô bỗng kêu lên: - Chà phiền quá! Em tính lầm mũi đan rồi! Cô gỡ một hàng ra và bắt đầu đan lại từng mũi đan li ti. Cô nói: - Đúng, Chúa sẽ cứu giúp những ai đang cố tự cứu giúp mình. Chị chắc chắn sẽ được đi học, Mary, nếu… Cô quên luôn điều đang định nói. Những vòng sợi mờ hẳn đi trước mắt cô tựa hồ cô sắp bị mù. Cô không thể nhìn thấy rõ. Cô bật người lên và cuộn chỉ rơi khỏi lòng cô lăn xa trên nền nhà. Mary kêu lên: - Chuyện gì vậy? Laura đáp: - Không còn ánh sáng nữa! Ánh nắng đã biến mất. Không khí sầm tối và tiếng gió đang nổi lên. Mẹ vội vã từ bếp chạy tới. - Bão tới rồi, các con! Mẹ không còn thời giờ để nói vì liền đó, ngôi nhà đã lay động như bị bão đập phải. Mặt tiền những cửa hàng phía bên kia phố biến mất trong một đợt tuyết xoáy. Mẹ nói: - Ôi, ước gì Charles đã về nhà rồi! Laura rời khỏi cửa sổ. Cô kéo chiếc ghế của Mary tới bên lò sưởi và xúc thêm than từ trong xô cho vào lửa. Thình lình, bão hú lên ngay trong nhà bếp. Cửa sau đóng sầm lại một cách khó khăn và bố bước vào dính đầy tuyết nhưng tươi cười: - Anh đã thắng con bão về tới chuồng ngựa trước một nháy mắt. Bố cười, nói tiếp: - Sam và David rạp người phóng như tên bắn! Bọn anh về tới ngay giữa phút cuối cùng! Cơn bão này đúng là một trò lừa gạt. Mẹ cởi áo choàng cho bố, gấp lại giũ ra tuyết ở gian chái. Mẹ thì thầm: - Vậy là anh ở đây rồi, Charles! Bố ngồi xuống, nghiêng người tới lò sưởi, hơ ấm mấy bàn tay. Nhưng bố nghe tiếng gió một cách khó khăn. Một hồi lâu, bố rời khỏi ghế. Bố nói: - - Anh phải lo công việc trước khi bão trở nên tệ hại hơn. Có thể mất nhiều thời giờ, nhưng đừng lo, Caroline. Sợi dây phơi của em đủ dẫn đường cho anh trở về. Bố ra ngoài cho tới khi sập tối và lâu hơn nữa. Bữa tối đang nằm chờ khi bố trở vào vừa dậm các bàn chân vừa chà xát hai tai. Bố kêu lên: - Thật là độc địa quỉ quái! Lạnh gì mà tăng nhanh như thế! Tuyết đập vào người như đạn bắn. Lắng nghe tiếng gió hú đó coi! Mẹ nói: - Em chắc cơn bão sẽ lấp đường xe lửa? - Có sao, mình đã từng sống không có đường sắt mà. Bố trả lời một cách vui vẻ nhưng nhìn mẹ như muốn nhắc đừng nói thêm về chuyện này khi các cô gái đang lắng nghe. Bố nói tiếp: - Trước đây khi không có mọi người và các cửa hàng, mình vẫn đầy đủ và ấm áp. Bây giờ ăn đi cho nóng! Laura nói: - Bố, ăn xong bố chơi đàn, được không? Sau bữa ăn, bố gọi Laura mang đàn tới. Nhưng, khi so dây và chuốt vĩ xong, bố lại chơi một điệu nhạc lạ hẳn. Tiếng đàn rền rỉ một điệu trầm dồn dập thấp thoáng chen những nốt đàn cao man dại bốc lên cho tới khi nhòa nhạt hết để quay lại với những âm thanh than khóc gần như khác hẳn tựa hồ tất cả đã bị dội đi. Những cơn rung mình lòn trên xương sống Laura, chích sâu khắp da đầu và điệu nhạc man dại thay đổi từ cây đàn tiếp tục dâng lên cho tới khi cô không chịu nổi, kêu lớn: - Điều gì vậy, bố? Ôi, điệu gì thế? Bố ngưng đàn nhưng vẫn đặt chiếc vĩ cầm trên dây: - Nghe đi. Điệu nhạc ở phía ngoài. Bố chỉ chơi theo thôi. Tất cả đều lắng nghe tiếng gió theo một âm điệu cho tới khi mẹ nói: - Tất cả đã nghe đủ âm điệu rồi đó, không cần anh chơi lại nữa, Charles. Bố đồng ý: - Vậy thì mình sẽ có một điệu gì khác. Sẽ là điệu gì? - Điệu gì làm cho ấm người lên. Laura nói và tiếng đàn tươi vui, phấn khởi bắt đầu làm ấm mọi người. Bố đàn và hát bài “Annie Rooney, người tình của tôi” và bài “Con ngựa xám già” cho tới lúc ngay cả mấy ngón chân của mẹ cũng gõ nhịp theo. Bố đàn sang điệu nhạc vũ Tô Cách Lan, điệu nhạc Jic Ái Nhĩ Lan và rầm rập trên nền sàn, Laura với Carrie nhảy cho tới khi hụt hơi. Khi bố đặt cây đàn vào hộp là bố báo cho biết đã tới giờ đi ngủ. Thật khó rời căn phòng ấm áp để lên tầng gác. Laura biết là trong cái lạnh ở trên đó, mọi chiếc đinh móc qua mái đều có sương giá phủ. Cánh cửa sổ phòng dưới cũng đầy sương giá, nhưng bằng một cách nào đó, những chiếc đinh móc đọng sương vẫn khiến cô cảm thấy lạnh hơn. Cô quấn hai chiếc bàn ủi hơ nóng trong những lớp fla-nen và dẫn đường. Mary và Carrie bước nối theo. Hơi lạnh dữ dội trên tầng gác xộc thẳng vào trong mũi khi các cô tháo giầy và run rẩy cởi áo. - Chúa sẽ nghe thấy hết kể cả khi mình cầu nguyện ở trong mền. Mary lập cập nói và chui vào giữa những tấm mền lạnh ngắt. Những chiếc bàn ủi hơ nóng chưa kịp làm ấm giường. Trong cái lạnh cứng dưới những chiếc đinh đọng sương giá, Laura có thể nhận thấy khung giường lay động do Mary và Carrie đang run. Tiếng rền rĩ trầm trầm và những tiếng kêu rít man dại của gió bao quanh khắp khoảng không gian tĩnh lặng nhỏ nhoi. Mary gọi: - Em đang làm cái giống gì vậy, Laura? Mau tới nằm cho ấm giường. Laura không thể trả lời mà hàm răng không va đập lách cách. Cô đứng ở cửa sổ trong chiếc áo dài ngủ và những chiếc vớ bọc bàn chân. Cô cạo sương giá ở một điểm trên ô kính, cố nhìn qua. Cô khum bàn tay trên mắt để ngăn ánh sáng từ cây đèn tại cầu thang chiếu tới. Nhưng cô vẫn không thấy gì. Trong trời đêm đang rên rỉ ở phía ngoài không có một đốm sáng. Cuối cùng cô luồn vào bên cạnh Mary và co người thật chặt, áp bàn chân sát chiếc bàn ủi hơ nóng. Cô giải thích: - Em cố kiếm một ánh sáng. Hẳn phải có ánh sáng từ một căn nhà nào đó. Mary hỏi: - Có thấy không? Laura đáp: - Không. Cô không thể nhìn thấy ngay cả ánh sáng từ cửa sổ dưới nhà là nơi mà cô biết chắc là đèn đang thắp sáng. Carrie nằm im trên giường của mình sát ống khói dựng thẳng từ lò bếp hừng hực ở phía dưới. Ống khói giúp cô có hơi ấm và cô cũng có một chiếc bàn ủi hơ nóng. Cô ngủ rất nhanh khi mẹ tới đặt bé Grace bên cạnh cô. - Các con đủ ấm không? Mẹ thì thầm, cúi xuống giường cài mền quanh các cô chặt hơn. Laura trả lời: - Chúng con ấm lắm, mẹ. - Chúc các con ngủ ngon và có những giấc mơ đẹp. Nhưng ngay cả sau khi ấm áp, Laura cũng nằm thức lắng nghe điệu nhạc gió man dại và nghĩ tới từng căn nhà nhỏ trong thị trấn đang đơn độc đứng giữa màn tuyết xoáy không nhìn thấy cả một ánh đèn chiếu sáng từ căn nhà kế cận chiếu qua. Và cái thị trấn nhỏ bé cũng đứng đơn độc trên đồng cỏ mênh mông. Thị trấn và đồng cỏ đều chìm khuất trong bão táp cuồng loạn. Không phải đất, không phải trời, không phải bất cứ gì ngoại trừ những đợt gió dữ dằn và một màn trắng. Vì, bão có màu trắng. Trong đêm, rất lâu sau khi nắng tắt và ánh sáng cuối cùng của ban ngày không còn, bão tuyết đang quay cuồng trắng xóa. Một ánh đèn có thể chiếu xuyên qua màn tối đen đặc nhất và một tiếng thét có thể nghe rõ được từ xa, nhưng không một tia sáng, không một tiếng kêu nào lọt qua nổi một cơn bão gồm các âm thanh man dại và thứ ánh sáng riêng không tự nhiên của nó. Những tấm mền đã ấm lên và Laura không lạnh nữa nhưng cô vẫn run rẩy. Chương 13: Những Ngày Đi Học Xen trong những âm thanh man dại, Laura nghe thấy tiếng nắp lò lách cách và tiếng bố hát: - Đời tươi như đóa hướng dương này Ngả nghiêng vùng vẫy giữa heo may Bố gọi từ trên cầu thang: - Caroline! Lửa sẽ cháy tốt vào lúc em xuống. Anh sắp ra chuồng ngựa. Laura nghe thấy tiếng mẹ gọi dậy. Mẹ nói: - Cứ nằm im, các con. Đợi trong nhà ấm hơn, các con hãy dậy. Lạnh khủng khiếp phía ngoài những tấm mền. Nhưng tiếng rên rỉ và rú rít của giông bão khiến Laura không ngủ lại được. Những chiếc đinh đọng sương giá ở ngay phía trên cô giống như những chiếc răng trắng nõn. Cô chỉ nằm ở phía dưới chúng vài phút trước khi theo mẹ xuống tầng dưới. Lửa đang cháy sáng rực trong lò bếp và cạnh chiếc lò than trong phòng trước nóng đỏ, nhưng các gian phòng vẫn lạnh và tối đen giống như chưa phải ban ngày. Laura đập lớp băng nổi trên xô nước. Cô đổ đầy vào thau và đặt lên lò bếp. Rồi cô và mẹ run rẩy chờ nước ấm lên để rửa mặt. Laura bắt đầu thích sống ở thị trấn nhưng phải giống như mùa đông trước. Khi bố quay vào, râu bố đầy tuyết còn mũi và tai bố đỏ như trái nhót. Bố than: - Đúng là xuất sắc! May mắn là chuồng ngựa rất chắc chắn! Anh phải đào đường đi tới đó. Tuyết chất đống cao ngang với khung cửa ra vào. May là anh đã kéo dây phơi của em đúng chỗ, Caroline. Anh phải quay vào nhà chái lấy xẻng nhưng có sợi dây phơi để bám. Bánh kép nóng và thịt nướng có vẻ ngon quá! Anh đang đói cồn cào đây! Nước ấm trong thau đã cho bố và trong lúc bố rửa ráy, chải tóc trước ghế dài gần cửa, Laura bày ghế quanh bàn ăn và mẹ pha trà thơm nức. Những chiếc bánh nóng thật ngon cùng với những lát thịt heo béo ngây giòn tan điểm thêm lớp mỡ nâu vàng từ trong chảo và còn có cả xốt táo khô bên cạnh nước xi-rô đường. Không có bơ vì Ellen gần như kiệt sữa nên mẹ chia phần sữa cuối cùng của đêm trước vào ly của Grace và Carrie. Mẹ nói: - Hãy cảm ơn về số sữa ít ỏi mà mình có vì vẫn còn có một chút trước khi không còn gì. Tất cả đều tê lạnh ở bàn ăn nên sau bữa ăn đã ngồi gom lại quanh lò sưởi. Trong im lặng, tất cả lắng nghe tiếng gió và tiếng tuyết va đập trên cửa sổ và trên vách. Mẹ tự kích động bằng một cái lắc khẽ. - Tới dậy, Laura. Hãy làm cho xong mọi việc. Sau đó mới nhẹ nhõm ngồi bên ngọn lửa được. Thật là lạ trong căn nhà dựng hoàn hảo như vậy mà lửa không sưởi ấm nổi nhà bếp. Trong lúc mẹ luộc đậu và Laura rửa chén đĩa, cả hai đều thắc mắc không biết mức lạnh lúc này ở căn lều trại như thế nào. Mẹ cho thêm vào lửa rồi lấy cây chổi còn Laura run rẩy dưới chân cầu thang. Cô phải lên dẹp giường nhưng hơi lạnh từ trên xối xuống cầu thang thấm qua áo choàng len, qua váy lót, qua bộ đồ fla-nen tựa hồ cô đang đứng trần trụi ở đó. Mẹ nói: - Cứ để nguyên giường ở trên đó, Laura. Trên gác ngoài tầm mắt và con có thể dọn dẹp khi nhà ấm lên. Mẹ đã quyết xong và việc nhà bếp đã dứt. Cả hai trở lại phòng trước, ngồi xuống đặt những bàn chân lạnh ngắt lên bục kê lò sưởi để hơ ấm. Bố vào bếp và quay lại trong chiếc áo khoác lớn, khăn quấn và chiếc mũ cầm trong tay. Bố nói: - Anh sẽ qua phố sang tiệm Fuller’s để nghe tin tức. Mẹ hỏi: - Có cần thế không, Charles? Bố đáp: - Có thể có ai đó bị lạc. Chụp chiếc mũ lên đầu, bố bước tới cửa, ngừng lại nói: - Đừng lo cho anh! Anh biết rõ đi qua phố phải bước bao nhiêu bước và nếu anh không va vào một căn nhà ở đó thì anh cũng không đi xa hơn được cho tới khi tìm thấy một căn. Bố đóng cánh cửa lại ở phía sau. Laura đứng ở cửa sổ. Cô cạo sạch lấy một lỗ nhìn qua sương gía nhưng chỉ thấy một màn trắng. Cô không thể nhìn thấy bố ở trước cửa và không rõ bố bước đi lúc nào. Cô từ từ quay lại lò sưởi. Mary ngồi lặng lẽ đu đưa bé Grace. Laura và Carrie chỉ ngồi. Mẹ nói: - Này, các con! Một cơn bão chỉ ở phía ngoài không phải lý do khiến trong nhà ảm đạm. Laura nói: - Sống ở thị trấn có gì khá đâu? Mình cũng chỉ có ngần này người tựa hồ như chẳng có thị trấn nào cả. Mẹ như bị choáng: - Mẹ hi vọng là con không chờ đợi phụ thuộc vào bất kì ai khác, Laura. Một người không thể nghĩ như thế. - Nhưng nếu mình không ở trong thị trấn thì bố sẽ không phải đi ra ngoài giữa bão tuyết thế này để tìm xem có ai bị lạc không. Mẹ nói chắc nịch: - Dù thế nào chăng nữa thì đây cũng là thời gian dành cho những bài học ngày chủ nhật. Mỗi người mình sẽ đọc những đoạn thơ đã học trong tuần này và sau đó soát lại coi mình nhớ được bao nhiêu bài học cũ. Trước tiên là Grace, rồi đến Carrie, đến Laura, đến Mary và mẹ nhắc lại những đoạn thơ. Mẹ nói: - Bây giờ, Mary, con hãy đọc một đoạn thơ rồi đến Laura, đến Carrie. Mình sẽ coi ai đọc được lâu nhất. Carrie tỏ vẻ chán nản trước khi bắt đầu: - Ôi, Mary sẽ thắng. Laura khuyến khích: - Tới đi! Chị sẽ giúp em! Mary phản đối: - Hai đánh một là bất công. Laura cãi lại: - Cũng công bằng chứ! Phải không, mẹ? Vì Mary đã học thuộc lòng nhiều đoạn thơ trong Kinh thánh dài hơn so với Carrie. Mary quyết định: - Được. Mẹ nghĩ là công bằng nhưng Laura chỉ được nhắc Carrie thôi. Thế là các cô bắt đầu và tiếp tục, tiếp tục cho tới khi Carrie không thể nhớ nổi nữa thậm chí đã được Laura nhắc. Thế là chỉ còn lại Laura và Mary ganh đua với nhau cho tới cuối cùng Laura phải đầu hàng. Cô ghét nhìn nhận việc thua cuộc nhưng bắt buộc phải nhìn nhận: - Chị thắng em rồi, Mary. Em không thể nhớ thêm một đoạn nào khác nữa. - Mary thắng rồi! Mary thắng rồi! Grace vỗ tay, la hét và mẹ mỉm cười nói với Mary: - Cô gái thông minh của mẹ. Tất cả đều ngắm Mary đang nhìn bằng đôi mắt lớn, xanh lơ tuyệt đẹp nhưng không còn nhìn thấy gì nữa. Cô mỉm cười sung sướng khi mẹ ca ngợi cô rồi mặt cô vụt thay đổi như làn ánh sáng vụt biến khi bão tuyết ào tới. Trong một phút, cô nhìn giống hệt như cô thường nhìn khi mắt cô còn sáng và cô đang cùng Laura cãi cọ. Cô không bao giờ chịu thua Laura vì cô lớn hơn và là kẻ ra lệnh. Lúc đó, khắp mặt cô ửng đỏ và cô hạ thấp giọng, nói: - Chị không thắng đâu, Laura. Mình ngang nhau thôi. Chị cũng không nhớ thêm nổi một đoạn thơ nào khác nữa. Laura thấy xấu hổ.Cô đã ráng sức cố đánh bại Mary trong trò chơi, nhưng dù ráng sức tới đâu thì cô vẫn không tốt bằng Mary. Mary tốt thực sự. Lúc đó là lần đầu tiên Laura muốn trở thành cô giáo để có thể kiếm tiềm cho Mary tới trường. Cô nghĩ: - Mary sẽ tới trường, việc mình phải khó nhọc không thành vấn đề gì. Đúng lúc đó chuông đồng hồ gõ mười một tiếng. Mẹ than: - Trời ơi, bữa ăn trưa! Mẹ chạy vội vào bếp, cời lửa lớn lên và nêm món xúp đậu. Mẹ gọi: - Tốt hơn là cho thêm than vào lò đi, Laura. Hình như nhà vẫn chưa ấm lên nổi. Bố trở về nhà vào buổi trưa. Bố bước vào lặng lẽ, đi thẳng tới lò sưởi, cởi áo choàng và bỏ mũ ra. - Treo lên giúp bố được không, Laura? Bố đang khá lạnh. Mẹ nói từ nhà bếp: - Em xin lỗi, Charles. Hình như em không làm cho nhà mình ấm lên nổi. Bố trả lời: - Đừng băn khoăn. Lạnh ở bốn mươi độ âm và gió đang lùa vào cái lạnh. Đây là trận bão tệ hại nhất nhưng may mắn mọi người đã lường đoán được. Không có ai bị lạc khỏi thị trấn. Sau bữa ăn trưa, bố lấy đàn ra đàn bài thánh ca và tất cả cùng hát: Có một vùng chói chang ánh sáng Bằng đức tin, ta vẫn thấy từ xa… Chúa Ki-tô chính là hòn đá tảng Giữa một vùng đảo lộn phong ba Chúa Ki-tô chính là hòn đá tảng Chỗ nương thân trong bão giật gió lùa. Tất cả đã hát bài hát mà mẹ ưa thích nhất, bài “Vùng đất an lành ở xa, thật xa”. Và ngay trước khi bố đặt cây đàn vào hộp bởi đã tới giờ chăm sóc lũ gia súc ở chuồng ngựa, bố đã chơi một điệu kích động hào hứng làm tất cả đều tung chân lên hát say sưa: Mặc cho phong ba gào thét! Chẳng bao lâu sẽ trôi qua Chúng ta không còn hoạn nạn Bến bờ hạnh phúc cận kề! Bão vẫn đang rền rĩ với những lọn tuyết đóng băng cứng như đạn bắn và nhuyễn như cát quay cuồng rú rít trút xối xả lên ngôi nhà. Chương 14: Đuổi Khỏi Trường Cơn bão đó chỉ kéo dài hai ngày. Buổi sáng thứ ba, Laura bất chợt thức dậy. Cô nằm mắt mở lớn lắng nghe để nhận biết thứ gì đã đánh thức cô. Không có một tiếng động nào. Lúc đó thì cô hiểu. Chính cái tĩnh lặng kỳ lạ khiến cô choàng tỉnh. Không có tiếng gió, không một tiếng rít đập của tuyết đóng băng rơi trên vách, trên mái, trên cửa sổ. Ánh nắng phản chiếu sáng lóa trên lớp sương giá đọng ở cửa sổ phía trên cầu thang và ở dưới nhà, nụ cười của mẹ rạng rỡ như ánh nắng. Mẹ nói: - Bão qua rồi. Chỉ là một cơn bão hai ngày. Bố tán thành: - Em không thể nói chắc một trận bão ra sao. Mẹ nói một cách sung sướng: - Có thể là cái mùa đông khắc nghiệt của anh sẽ không ghê gớm lắm sau mọi thứ đã diễn ra. Lúc này, nắng đang chiếu và các chuyến xe lửa sẽ lại chạy đúng giờ. Laura, mẹ chắc là hôm nay sẽ có lớp học. Tốt hơn hết là con hãy sẵn sàng trong lúc mẹ lo bữa ăn sáng. Laura leo lên cầu thang để nhắc Carrie và mặc chiếc áo học trò của mình. Quay trở lại nhà bếp ấm áp, cô rửa mặt và cổ thật kĩ bằng xà phòng rồi ghim các bím tóc. Bố thở ra khoan khoái sau khi dứt các công việc vặt. Bố nói với mọi người: - Sáng nay, ông bạn già lại rạng rỡ tỏa nắng rồi! Gương mặt ông ta giống như vừa được tuyết rửa sạch. Món khoai tây trộn đã ở trên bàn và món mứt đào dại sáng vàng trong chiếc tô thủy tinh. Mẹ chất đầy một đĩa bánh mì nâu vàng trong lò hấp và lấy ra từ lò hấp một đĩa bơ nhỏ. Mẹ nói: - Mẹ phải hấp bơ lại. Nó cứng như một hòn đá, không thể nào cắt nổi. Mẹ hi vọng là ông Boast sẽ đem đến cho mình ngay một số kha khá. Đây đúng là thứ mà tay thợ sửa giày quẳng cho vợ của y. Grace và Carrie ngơ ngác trong lúc tất cả những người khác đều bật cười. Mẹ phải sung sướng tới mức nào nên mới nói giỡn như thế. Mary nói: - Đó là cái dùi của ông ta. Laura kêu lên: - Ô, không phải đâu! Đó là cái cốt giầy. Ông ta chỉ có thế thôi. - Các con, các con! Mẹ kẽ nhắc vì các cô cười quá nhiều ở bàn ăn. Rồi Laura nói: - Nhưng con thấy là tụi con sẽ vét sạch số bơ này khi mà cả ngày hôm qua không có một miếng nào. Mẹ nói: - Bánh kép với thịt ướp muối ngon lắm rồi. Mẹ dành bơ lại cho bánh mì. Chỉ có đủ bơ để trét một mảng nhỏ lên mỗi miếng bánh mì. Bữa điểm tâm vui vẻ trong hơi ấm, sự tĩnh lặng và ánh sáng đến nỗi đồng hồ điểm tám giờ rưỡi mà vẫn chưa ăn xong. Mẹ nói: - Nhanh lên, các con. Mẹ chỉ còn một giờ để lo công việc trong nhà. Khắp nơi ở bên ngoài đều sáng lóa trong ánh nắng chói chang. Nằm dài theo phố Main Street là một đống tuyết cao ngang với Laura. Cô và Carrie phải trèo lên và cẩn thận đi xuống ở cạnh bên kia. Tuyết đóng cứng đến nỗi giày của các cô không in dấu xuống và gót giầy không nhấn hõm xuống nổi để giữ cho các cô khỏi bị trượt xuống. Một đống tuyết khác cao gần ngang mái trường sáng lóa trong sân trường. Cap Garland cùng với Ben, Arthur và mấy cậu bé nhà Wilmarth đang trượt xuống trên những đôi giầy giống như Laura thường trượt trên hồ nước Bạc còn Mary Power với Minnie đang đứng dưới ánh nắng nhạt bên cửa sổ ra vào ngắm đám con trai chơi đùa. - Chào Laura! Mary Power mừng rỡ lên tiếng và lòn bàn tay bao kín vào dưới cánh tay Laura bóp mạnh. Các cô hết sức vui được gặp lại nhau. Hình như đã lâu lắm kể từ ngày thứ sáu, thậm chí là từ buổi chiều thứ bảy mà các cô đã dự tính ngồi chung với nhau. Nhưng không có nhiều thời giờ để trò chuyện vì cô giáo đã tới cửa và tất cả học trò trai gái đều phải vào lớp. Trong giờ chơi, Mary Power cùng Laura và Minnie đứng ở cửa sổ ngắm đám con trai trượt trên đống tuyết. Laura ước cũng được ra ngoài chơi. Cô nói: - Lúc này tớ mong là mình đừng lớn quá. Tớ không thấy có gì thú vị khi trở thành một cô gái trẻ. Mary Power nói: - Này, mình đâu có thể ngưng lớn lên được. Minnie Johnson vẫn đang thắc mắc: - Mary, bồ sẽ làm gì nếu bị kẹt vào trong một trận bão tuyết? Mary đáp: - Tớ nghĩ chỉ có một cách tiếp tục bước đi thôi. Bồ sẽ không bị chết cóng nếu bồ tiếp tục bước đi. Minnie nói: - Nhưng bồ sẽ bị mệt nhoài người. Mệt như thế bồ sẽ chết. Mary Power hỏi lại: - Thế thì bồ sẽ làm gì? - Tớ đào sâu vào một bờ tuyết và dùng tuyết làm mái che ở phía trên. Tớ không cho rằng bồ sẽ bị chết cóng ở trong một bờ tuyết. Phải không, Laura? Laura nói: - Tớ không biết. Minnie cố hỏi: - Vậy, bồ sẽ làm gì, Laura, nếu bồ kẹt trong một trận bão tuyết? Laura đáp: - Tớ không để bị kẹt như thế. Cô không thích nghĩ về chuyện này. Cô thích nói về chuyện khác với Mary Power. Nhưng cô Garland đã rung chuông và đám con trai lũ lượt kéo tới, đỏ gay vì lạnh nhưng tươi cười. Trọn ngày hôm đó ai cũng hào hứng như ánh nắng. Buổi trưa, Laura, Mary Power, Carrie và các cô gái nhà Breardsley hợp thành một đám đông chạy đua la hét vượt qua đống tuyết trên phố Main Street, một số đi về hướng bắc, một số đi về hướng nam còn Laura và Carrie trượt xuống cạnh phía đông tới cửa trước của căn nhà. Bố đã ngồi sẵn trên bàn ăn, Mary đang nhấc bé Grace khỏi đống sách vở trên ghế và mẹ đang đặt đĩa khoai tây hầm bốc khói trước mặt bố. Mẹ lên tiếng: - Em mong có một chút bơ cho các con. Bố nói: - Muối cũng sinh ra hương vị. Một tiếng gõ mạnh trên cửa nhà bếp khi bố đang nói. Carrie chạy tới mở cửa và ông Boast ào vào to lớn xù xì như một con gấu trong chiếc áo choàng bằng da bò. Bố lên tiếng: - Vào đây, Boast! Vào đây, vào đây! Vào đây và đặt mấy bàn chân ở dưới gầm bàn. Anh tới vừa đúng lúc! Cả nhà đều mừng khi thấy ông ta. Mary hỏi thầm: - Bà Boast đâu rồi? Mẹ nói một cách nôn nóng: - Phải rồi! Chị ấy không đi với anh hả? Ông Boast cởi lớp đồ choàng ngoài: - Không! Mọi người thấy đó, Ellie nghĩ là cô ấy cần giặt giũ trong lúc có nắng. Tôi bảo là mình còn nhiều ngày đẹp trời nữa nhưng cô ấy nói lúc đó cô ấy sẽ dành một ngày để vào thị trấn. Cô ấy gửi cho anh chị một ít bơ. Chỗ bơ này lấy từ thùng bơ cuối cùng của chúng tôi. Lũ bò của tôi sắp khô sữa. Trong thứ thời tiết như thế này, tôi không thể chăm sóc chúng được. Ông Boast ngồi với bàn ăn và tất cả bắt đầu với món khoai tây hầm ngon lành rồi sau hết, chấm dứt với món bơ. Bố nói: - Tụi tôi mừng thấy anh chị yên ổn qua cơn bão. Ông Boast nói: - Ừ, tụi tôi rất may mắn. Tôi đang cho bò uống nước ở bên giếng khi mây kéo đến. Tôi vội đưa chúng về, lùa hết vào trong chuồng và chạy về cách nhà nửa đoạn đường thì bão ập xuống. Món khoai tây hầm và bánh qui nóng với bơ thật tuyệt và để chấm dứt bữa ăn trưa là món bánh qui với một ít mứt cà chua ngọt ngây của mẹ. Bố nói: - Trong thị trấn không còn thịt heo ướp muối nữa. Tất cả nhu yếu phẩm của mình đều đưa từ miền đông tới thì mình sẽ bị thiếu khi xe lửa bị tắc. Ông Boast hỏi: - Anh nghe nói gì về xe lửa? Bố đáp: - Woodworth nói là người ta đã đưa nhiều toán công nhân đặc biệt tới khai thông ở Tracy và đem cả máy xúc tuyết tới. Trước cuối tuần có thể có xe lửa tới. Ông Boast nói: - Ellie đang tin chắc tôi sẽ mua về được các thứ đường, sữa và bột. Các chủ tiệm có tăng giá món nào không? Bố trấn an: - Theo tôi biết thì không có điều đó. Hiện chưa thiếu hụt thứ gì ngoại trừ thịt. Bữa ăn trưa đã dứt và ông Boast phải đi một vòng để trở về nhà kịp trước khi trời tối. Ông ta hứa sẽ đưa bà Boast tới thăm tất cả vào một ngày không xa. Rồi ông ta và bố ngược phố Main Street tới cửa tiệm Harthorn còn Laura và Carrie nắm tay nhau hớn hở trèo lên trên những đống tuyết trở lại trường học. Trọn buổi chiều thoải mái đó tất cả đều hít căng không khí trong lành và rạng rỡ như ánh nắng. Tất cả đều thuộc bài hoàn hảo và đọc lại trơn tru. Mỗi khuôn mặt trong lớp đều tươi tắn và cái cười lóe lên đột ngột của Cap Garland bao gồm hết thảy những nét thoải mái đó. Thật dễ chịu được nhìn thấy thị trấn lại sống lại và biết rằng tất cả những ngày trong tuần lại là những ngày đến trường. Nhưng trong đêm Laura mơ thấy bố đang đàn một điệu nhạc bão man dại và khi cô hét lên kêu bố ngừng thì điệu nhạc chỉ là một trận bão tuyết mù mịt xoay tít xung quanh cô ướp cô thành băng cứng ngắt. Lúc đó cô nhìn trừng trừng vào bóng tối, nhưng cơn ác mộng vẫn giữ cô bất động và lạnh cóng một hồi lâu. Cô nghe rõ không phải tiếng đàn của bố mà chỉ là tiếng bão gầm và tiếng rú rít của những cụm tuyết đóng băng va đập trên mái nhà và các bức vách. Cuối cùng cô đã cử động được. Lạnh tới nỗi cơn mơ vẫn hình như là thực khiến cô nhích sát vào Mary và kéo mền lên trùm kín đầu cho cả hai. Mary thì thầm trong giấc ngủ: - Gì vậy? Laura đáp: - Bão tuyết. Chương 15: Cuộc Viếng Thăm Của Ban Giám Hiệu Thức dậy vào buổi sáng không còn thú vị gì. Ánh sáng ban ngày mờ mịt, các ô cửa sổ đều trắng toát cùng với những đinh móc trên mái. Một cơn bão tuyết khác đang rên rỉ, gào thét, rú rít quanh nhà. Sẽ không có lớp học. Laura nằm dật dờ nửa thức nửa ngủ. Cô thấy thà rằng ngủ luôn còn hơn thức dậy trong một ngày như thế này. Nhưng mẹ gọi: - Chào buổi sáng, các con! Tới giờ thức dậy rồi! Do trời lạnh, Laura gom quần áo, giầy chạy ào xuống nhà dưới. Mẹ nhìn ra từ bên lò bếp, hỏi: - Sao vậy, có chuyện gì rắc rối, Laura? Laura gần như khóc: - Ôi, mẹ! Làm sao con có thể đi dạy học để lo giúp gửi Mary tới trường? Rút cuộc thì con thu thập được cái gì khi mà chỉ được đến trường có một ngày? Mẹ nói giọng thân mật: - Nào, Laura. Con không nên nản chí dễ dàng như thế. Thêm hay bớt một trận bão thì có khác gì đâu. Mình hãy làm mau cho xong mọi việc để các con có thể học. Những dự tính về môn toán đã đủ khiến con phải bận rộn nhiều ngày và con có thể thêm bao nhiêu tùy ý. Không thứ gì có thể ngăn cản việc học của con. Laura hỏi: - Tại sao bàn ăn lại ở trong bếp vậy? Mẹ trả lời: - Sáng nay bố không đốt lửa trong lò sưởi than. Họ nghe thấy bố đang đạp chân trong gian chái và Laura mở của cho bố. Bố có vẻ điềm tĩnh. Trên xô có một ít sữa đã đông lại. Bố nói trong lúc hơ tay trên lò bếp: - Anh tin rằng đây chưa phải là thứ tệ nhất. Caroline, anh không đốt lửa trong lò sưởi than. Than của mình vơi rồi và trận bão này giống như sẽ khiến xe lửa kẹt một thời gian. Mẹ đáp: - Em đã nghĩ nhiều đến chuyện đó khi thấy anh không đốt lò sưởi. Vì vậy em mới dời bàn ăn vào đây. Mình sẽ đóng cửa giữa lại để lò bếp sưởi ấm phòng này. Bố nói: - Anh sẽ qua nhà Fuller’s ngay sau khi ăn điểm tâm xong. Bố ăn thật nhanh và trong lúc bố choàng đồ thì mẹ lên gác. Mẹ mang xuống chiếc vì màu đỏ bằng da thuộc có hai cạnh cẩn xà cừ sáng loáng với các móc thép mà trong đó mẹ cất số tiền dành cho Mary tới trường. Bố chậm chạp đưa tay ra và cầm lấy. Rồi bố hắng giọng nói: - Mary, có thể thị trấn sẽ cạn các món nhu yếu phẩm. Nếu xưởng mộc và các cửa hàng tăng giá các thứ lên quá cao… Bố không nói tiếp và Mary nói: - Mẹ đang giữ tiền để dành cho con đi học. Bố có thể tiêu món tiền đó. Bố hứa: - Nếu bố phải tiêu thì con có thể tin là bố sẽ hoàn lại, Mary. Sau khi bố đi khỏi, Laura mang chiếc ghế đu của Mary ở phỏng trước vào đặt trước cửa bếp lò bỏ ngỏ. Ngay khi Mary vừa ngồi xuống ghế, Grace đã leo lên lòng cô, nói: - Em cũng được ấm. Mẹ phản đối: - Bây giờ con đã là một cô gái và nặng quá rồi. Nhưng Mary nói ngay: - Ô không đâu, Grace! Chị thích ôm em, ngay cả khi em là một cô gái lớn ba tuổi. Căn phòng chen chúc đến nỗi Laura khó thể rửa chén đĩa mà không va chạm phải một vài cạnh sắc. Trong lúc mẹ làm giường trên tầng gác lạnh cóng, Laura lo lau lò bếp và chùi bóng đèn. Rồi cô xoay chiếc cổ đèn bằng đồng và cẩn thận rót dầu vào đèn. Giọt dầu cuối cùng chảy ra khỏi vòi cạn dầu. Laura kêu lên trước khi kịp nghĩ: - Ô! Mình quên không nhắc bố mua dầu rồi! Carrie hổn hển quay nhanh lại từ tủ chén, nơi cô đang lo cất chén đĩa. Mắt cô kinh hãi: Laura đáp: - Trời ơi, ừ, chị đã đổ tràn khỏi đèn rồi. Bây giờ chị quét nhà cho em lau bụi. Tất cả công việc đều xong khi mẹ từ trên gác xuống. Mẹ run rẩy bên lò bếp, nói với các cô: - Gió gần như đưa căn nhà lật ngược lên. Mẹ mỉm cười: - Laura với Carrie làm mọi việc tốt quá. Bố không trở về nhưng chắc chắn bố không thể lạc trong thị trấn. Laura đem sách và bảng viết tới bàn ăn, sát bên Mary đang ngồi trong chiếc ghế đu. Ánh sáng mờ nhạt nhưng mẹ không thắp đèn. Laura đọc lần lượt các đề toán cho Mary giải trên tấm bảng trong lúc Mary giải nhẩm trong đầu. Các cô từng làm đề toán theo cách lật ngược lại để biết chắc là đã giải đáp đúng. Các cô học từ bài này sang bài khác và đúng như mẹ nói, đã có thật nhiều tiến bộ. Cuối cùng, các cô nghe thấy bố đang bước vào qua phòng trước. Áo choàng và mũ của bố đông trắng tuyết và bố mang một gói phủ đầy tuyết. Bố hơ cho tuyết tan bên lò bếp và khi có thể lên tiếng được, bố nói: - Bố không dùng đến món tiền dành để đi học của con, Mary. Bố nói tiếp: - Không còn than ở xưởng mộc. Mọi người đốt nhiều quá trong cái lạnh này và Ely không có nhiều trong tay. Bây giờ ông ta bán ván để đốt, nhưng mình không đủ khả năng đốt ván với giá tiền năm mươi đô-la một ngàn miếng. - Người điên mới trả số tiền đó. Xe lửa bắt buộc phải thông đường lâu rồi. Bố nói: - Không còn dầu lửa trong thị trấn. Và không còn thịt. Các cửa hàng đã bán ra gần hết mọi thứ. Anh mua được hai pao trà cuối cùng, Caroline. Vậy là mình có trà uống cho đến khi xe lửa thông đường. Mẹ nói: - Không có gì thích hơn một ly trà ngon trong thời tiết lạnh. Và cây đèn đầy dầu. Sẽ có đủ dầu để kéo dài một thời gian nếu mình đi ngủ sớm để tiết kiệm than. Em mừng là anh đã nghĩ đến mua trà. Mình đang thiếu thứ đó. Bố đã từ từ ấm lại. Không nói thêm điều gì, bố ngồi xuống bên cửa sổ đọc tờ báo Chicago Inter- Ocean đến trong chuyến thư vừa qua. Bố bỗng nhìn lên nói: - À này, trường học đóng cửa cho tới khi có than tới. Laura nói một cách chắc chắn: - Mình có thể tự học. Cô và Mary thì thầm với nhau về các đề toán, Carrie học đánh vần trong lúc mẹ khâu vá và bố lặng lẽ đọc báo. Trận bão tuyết trở nên tồi tệ hơn. Nó còn hơn cả trận bão tuyết dữ dội nhất mà họ từng nghe nói. Căn phòng dần dần lạnh hơn. Không có hơi nóng ở phòng trước để hỗ trợ thêm cho lò bếp. Hơi lạnh trườn vào phòng trước đang lòn qua dưới khung cửa. Hơi lạnh cũng bò qua dưới khung cửa gian chái. Mẹ phải mang những tấm đệm chùi chân từ phòng trước tới đó cuốn lại nhét chặt dưới các khung cửa. Buổi trưa bố ra chuồng ngựa. Không cần cho bò ngựa ăn vào giữa trưa nhưng bố ra coi chúng có được an toàn không. Bố lại đi vào giữa buổi chiều. Bố giải thích với mẹ: - Mấy con vật phải được ăn nhiều để giữ cho đủ ấm trong cái lạnh như thế này. Bão thật tệ hại và anh đã phải vật lộn một cách khó khăn vào sáng nay mới mang nổi cỏ vào chuồng trong những đợt gió đó. Anh không thể làm được nếu cỏ không ở ngay trước cửa. Cũng có một điều may khác là các đống tuyết đã bay hết. Chúng bị chà sạch chỉ còn trơ lại mặt đất. Bão gào hú dữ dội hơn khi bố bước ra ngoài và một luồng hơi lạnh tràn qua gian chái dù mẹ đã đẩy tấm nệm chùi chân vào sát cửa trong ngay khi bố đóng cửa lại. Mary đang kết một tấm nệm mới. Cô cắt những tấm len rách thành nhiều dải dài và mẹ đặt mỗi màu vào một chiếc hộp riêng. Mary sắp hộp theo thứ tự để nhớ màu nào nằm tại đâu. Cô kết các dải lại với nhau thành dây dài bỏ thành đống bên cạnh ghế. Khi tới cuối một dải màu cô chọn một màu cần để khâu nối vào. Chốc chốc cô lại sờ nắn đống dải đang lớn lên. Cô nói: - Chị chắc là chị làm gần đủ rồi. Chị sẽ lo xong để em khâu vào ngày mai, Laura. Laura phản đối: - Em muốn làm xong dải viền ren này trước đã. Cơn bão này làm tối sầm hết khiến em khó thể tính các mũi đan. Mary trả lời vui vẻ: - Bóng tối không làm phiền chị được. Chị nhìn bằng những ngón tay của mình. Laura chợt xấu hổ vì đã thiếu kiên trì. Cô nói với vẻ sẵn sàng: - Em sẽ khâu chiếc nệm của chị ngay khi chị làm xong. Bố đi khá lâu. Mẹ phải hâm nóng lại bữa ăn tối. Mẹ không thắp đèn và tất cả ngồi nghĩ tới sợi dây phơi sẽ dẫn đường cho bố qua cơn bão mù mịt. Mẹ lên tiếng tự kích động: - Nào, các con! Mary, con khởi xướng một bài hát đi. Mình sẽ hát cho tới khi bố trở vào. Thế là tất cả cùng hát cho tới khi bố bước vào. Đèn được thắp lên trong lúc ăn tối, nhưng mẹ bảo Laura để chén đĩa lại không rửa. Tất cả phải lên giường ngay để tiết kiệm dầu và than. Sáng hôm sau chỉ có bố và mẹ dậy lo công việc. - Các con cứ nằm ấm trên giường tùy thích. Mẹ nói và Laura chỉ trở dậy vào lúc chín giờ. Hơi lạnh bám lấy căn nhà, thấm vào, tăng dần lên mãi với tiếng ồn không dứt và ánh sáng chạng vạng tựa hồ níu thời gian đứng lại. Laura cùng Mary và Carrie đã học bài xong. Laura khâu dải dây kết thành một chiếc nệm tròn và đặt trên lòng Mary để cô có thể nhìn thấy bằng những ngón tay. Chiếc nệm làm cho hôm đó khác hẳn hôm trước, nhưng Laura cảm thấy ngày hôm trước lại quay Laura khi tất cả lại cùng hát trong bóng tối cho tới khi bố trở về và ăn cùng những món ăn trong bữa tối gồm khoai tây, bánh mì với xốt táo khô, uống trà và bỏ bát đĩa không rửa và lên giường ngay để tiết kiệm dầu và than. Một ngày khác cũng giống hệt. Gió bão không ngừng rên rỉ, gào thét, tuyết xoáy không ngừng rú rít. Tiếng ồn, bóng tối và hơi lạnh không bao giờ dứt. Đột nhiên tất cả ngưng lại. Gió bão dứt hẳn. Đó là vào cuối buổi chiều thứ ba. Laura thổi hơi và cào sương giá trên kính cửa sổ cho tới lúc có một lỗ hở để cô có thể nhìn thấy tuyết lướt thật thấp xuống mặt phố Main Street trước một đợt gió bình thường. Nắng chiều phản chiếu trên lớp tuyết đang bay lấp lánh màu hung. Bầu trời quang đãng và se lạnh. Rồi lớp ánh sáng hồng nhạt dần, tuyết đổi thành màu trắng xám và những cơn gió đều đều trở nên mạnh hơn. Bố đã làm xong công việc và trở vào. Bố nói: - Ngày mai anh phải đi kéo một ít cỏ khô. Nhưng bây giờ anh đi qua tiệm Fuller’s để xem ngoài mình còn có ai sống sót trong cái thị trấn đáng chửi rủa này. Suốt ba ngày rồi mình không thể thấy một ánh sáng, cũng không có một cụm khói hoặc một dấu hiệu nào cho hay có một người sống ở đây. Lợi ích của thị trấn là gì khi mà một người không thể nhận được một điều tốt lành nào? Mẹ nói: - Cơm tối sắp có rồi, Charles. Bố nói với mẹ: - Anh sẽ về trong một nháy mắt. Vài phút sau bố trở về và hỏi: - Có cơm chưa? Mẹ đang xúc thức ăn lên đĩa và Laura đang xếp ghế quanh bàn. Bố nói: - Mọi thứ trong thị trấn đều ổn và nghe nhà ga nói là sáng mai sẽ đưa người tới khai thông chỗ nghẽn lớn ở phía bên này Tracy. Mẹ hỏi: - Cần bao nhiêu thời gian mới thông xong đường cho xe lửa? Bố đáp: - Không thể nói được. Giá mà mình có được một ngày quang đãng để họ dọc sạch đường cho xe lửa thông vào hôm sau. Nhưng họ phải xúc tuyết ở cả hai bên chỗ nghẽn và lúc này các bờ tuyết đông cứng trong suốt lên tới đỉnh. Bây giờ họ phải đào vào một tứ đông cứng với độ tuyết dầy ba mươi bộ. Mẹ nói: - Việc sẽ không kéo dài lắm trong thời tiết tốt. Chắc chắn phải có một thời tiết tốt. Mình đã gặp quá nhiều bão và là những trận bão tệ hại hơn tất cả những trận bão trong mùa đông vừa qua. Chương 16: Những Tấm Danh Thiếp Buổi sáng trong trẻo quang đãng nhưng không có lớp học. Trường đóng cửa cho tới khi xe lửa chở than tới. Phía ngoài trời nắng nhưng sương giá vẫn còn bên cửa sổ và trong bếp có vẻ buồn chán và mờ tối. Carrie nhìn ra bên ngoài qua một lỗ hổng trong sương giá khi cô đang rửa chén đĩa của bữa ăn sáng còn Laura ủ rũ té văng lớp nước lạnh trong bồn rửa chén. Carrie nói một cách khổ sở: - Em muốn đi tới một chỗ nào đó. Ở mãi trong cái nhà bếp cũ xì này mệt quá rồi. Mary khẽ nhắc: - Hôm qua mình đã hết sức cảm ơn cái nhà bếp ấm áp này. Bữa nay mình phải cảm ơn bão đã qua rồi. Laura cắt ngang: - Dù sao chị cũng không đi học. Cô cảm thấy xấu hổ ngay khi nghe thấy những lời nói thốt ra nhưng khi nghe mẹ nhắc với giọng khiển trách “Laura”, cô lại cảm thấy cáu kỉnh hơn. Mẹ tiếp tục nói trong lúc đậy kín ổ bánh đã nhào trộn kỹ và đặt trước lò hấp cho nở ra: - Khi làm xong hết mọi việc, các con hãy mặc đồ ấm và cả Mary cũng thế, rồi tất cả ra ngoài sân hít thở không khí trong lành. Lời nói của mẹ khiến tất cả đều phấn khởi. Laura và Carrie làm việc thật nhanh và chỉ một thoáng sau các cô đã hối hả trong áo choàng, khăn san, khăn quấn và bao tay. Laura đưa Mary qua gian chái và tất cả lao vào khoảng trống lạnh lẽo lấp lánh. Nắng chiếu lóa mắt và hơi lạnh khiến các cô hụt hơi. Laura kêu lớn: - Đưa các cánh tay về phía sau và hít vào thật sâu, thật sâu! Cô biết rằng cái lạnh sẽ giảm bớt khi người ta không sợ nó. Các cô đều đưa cánh tay về phía sau, hít khí lạnh và xuyên qua những chiếc mũi đang co rúm lại, hơi lạnh thấm sau vào trong lồng ngực khiến các cô đều ấm lên. Ngay cả Mary cũng cười lớn tiếng. Cô nói: - Chị hửi thấy mùi tuyết! Tươi mát và sạch hết sức! Laura nói với cô: - Bầu trời xanh và khắp nơi trắng lung linh. Chỉ mấy căn nhà dựng thẳng đâm thọc qua tuyết và làm hư màn trắng đi. Em mong khắp nơi không có một căn nhà nào. Mary nói: - Một ý nghĩ khủng khiếp. Mình sẽ chết cóng hết. Laura tuyên bố: - Em sẽ đắp cho mình một lều tuyết và mình sẽ sống như người Eskimo. Mary rùng mình: - Eo ôi, vậy là trần như nhộng. Chị chịu thôi. Tuyết lạo sạo dưới bàn chân các cô, nhưng Laura không vốc nổi lên một nắm để làm trái cầu tuyết vì nó đóng quá cứng. Cô kể cho Carrie về tuyết mềm như thế nào ở vùng Big Woods thuộc Wisconsin thì Mary lên tiếng: - Có ai đang tới? Giống như tiếng ngựa của nhà mình. Bố đang đưa ngựa về chuồng. Bố đứng trên một thứ xe trượt tuyết thật kì lạ. Đó là một bục ghép bằng ván dài ngang thùng xe và lớn gấp hai thùng xe. Nó không có cần trước nhưng có một vòng xích buộc vào các bàn trượt rộng và những gióng cây buộc vào sợi xích. Laura hỏi: - Bố kiếm ở đâu ra cỗ xe trượt kì lạ đó, bố? Bố nói: - Bố đóng nó ở xưởng mộc. Bố nhấc cây chĩa trong chuồng ngựa, nhìn nhận: - Nó kì cục thật. Nhưng nó chứa nổi cả một đống cỏ nếu lũ ngựa kéo nổi. Bố không muốn bỏ phí thời giờ đi kéo cỏ về cho bò ngựa. Laura muốn hỏi bố về tin tức xe lửa nhưng câu hỏi sẽ khiến Carrie nhớ ra không còn than, không còn dầu, không còn thịt cho tới khi xe lửa tới. Cô không muốn làm cho Carrie lo lắng. Tất cả đều đang rất hào hứng, khỏe khắn trong thời tiết sáng đẹp này và nếu nắng kéo dài một ít lâu nữa thì xe lửa sẽ đến và không còn gì phải lo ngại nữa. Trong lúc cô suy nghĩ về điều đó, bố bước lên cỗ se trượt lớn thấp lè tè. Bố nói: - Nhắc với mẹ là họ đã mang xe xúc tuyết cùng một chuyến xe lửa đầy công nhân từ miền đông để mở đoạn đường nghẽn tại Tracy, Laura! Chỉ cần thời tiết đẹp vài ngày là họ sẽ lo ổn cho xe lửa chạy lại. - Dạ, bố. Con sẽ nói với mẹ! Laura nói với bố với giọng biết ơn và bố lái cỗ xe đi, quanh góc phố quẹo sang phố Main Street hướng về phía nhà trại. Carrie thở ra một hơi dài và kêu lên: - Đi nói liền với mẹ thôi! Qua cách nói của cô, Laura biết Carrie đang rất muốn hỏi bố về xe lửa. - Chúa ơi, gò má đỏ lên hết rồi! Mẹ nói khi các cô chạy vào trong nhà bếp mờ tối, ấm áp. Hơi lạnh tỏa ra từ lớp đồ khoác ngoài khi các cô cởi ra. Hơi nóng trên lò bếp khiến các ngón tay lạnh cóng ngứa ngáy một cách dễ chịu và mẹ rất mừng được nghe nói về xe sửa chữa và xe xúc tuyết. Mẹ nói: - Thời tiết này có vẻ sẽ kéo dài một thời gian và Laura này mình đã bị bão quá nhiều rồi. Sương giá đang tan trên cửa sổ và đóng thành những dải băng mỏng trên mặt kính. Laura phải khó khăn mới cạy ra hết được và lau khô các ô kính. Cô ngồi trong ánh sáng ban ngày đan tiếp dải đăng-ten và thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn ra những tia nắng chiếu trên tuyết. Không có một đám mây trên nền trời nên không có lí do gì lo ngại cho bố dù bố không quay về sớm như dự định. Đúng mười giờ, bố không về. Mười một giờ cũng không thấy dấu hiệu nào về bố. Chỉ có hai dặm đường đi về từ đây tới nhà trại và khoảng nửa giờ chất đống cỏ lên cỗ xe. Cuối cùng Mary lên tiếng: - Con chắc có chuyện gì giữ bố lại? Mẹ nói: - Giống như bố đã tìm thấy một việc cần làm ở nhà trại. Mẹ bước tới cửa sổ ngắm bầu trời phía tây bắc. Ở đó không có một gợn mây. Mẹ tiếp tục nói: - Không có gì để lo ngại. Có thể bão làm hư hại căn lều và cần sửa ngay. Buổi trưa, việc nướng bánh ngày thứ bảy đã xong với ba ổ bánh vàng cháy giòn tan và món khoai tây nấu đã bốc cạn hơi, còn trà đã pha nhưng bố chưa về. Tất cả đều chắc chắn đã có một điều gì xảy ra với bố, dù không ai nói ra và không ai có thể đoán đó là điều gì. Những con ngựa già chín chắn không thể chạy loạng quạng. Laura nghĩ tới những kẻ cướp đất. Bố không mang súng nên sẽ có chuyện nếu những kẻ cướp đất có mặt trong căn lều bỏ trống. Nhưng những kẻ cướp đất không thể băng qua bão tuyết để tới. Ngay cả gấu, báo hay người da đỏ cũng vậy. Không có một con sông nào cho tất cả vượt cạn lội qua. Vậy trong thời tiết tốt đẹp, thứ gì có thể cản trở hoặc làm hại cho một người đàn ông đang điều khiển những con ngựa ngoan ngoãn chỉ vượt một dặm đường bằng cỗ xe trượt tuyết đến nhà trại và quay trở lại trên cùng đoạn đường đó với một đống cỏ khô? Rồi bố hiện ra đang quẹo vào góc phố Second Street và qua cửa sổ, Laura nhìn thấy bố chạy ngang đầy tuyết trên một đống cỏ khô đầy tuyết che kín hết cỗ xe giống như đang được kéo lê trên tuyết. Bố ngưng lại bên cạnh chuồng, tháo ngựa đưa vào ngăn của chúng rồi bước vào nhà chái đạp chân. Laura và mẹ bày bữa ăn trưa lên bàn. Bố nói: - Chúa ơi! Bữa cơm có vẻ ngon quá! Anh có thể ăn tươi một con gấu mà không cần muối! Laura đổ nước nóng từ trong ấm nước vào thau cho bố rửa mặt. Mẹ nói nhỏ nhẹ: - Chuyện gì giữ anh lại lâu vậy, Charles? Bố đáp: - Cỏ. Bố vùi mặt vào hai bàn tay đầy nước xà phòng và Laura với mẹ nhìn nhau ngơ ngác. Bố nói vậy là có ý gì? Một phút sau, bố tới bên chiếc khăn cuốn và nói tiếp: - Cỏ rối ở phía dưới tuyết. Bố vẫn nói trong lúc lau tay: - Không thể đi theo đường cái. Không có cái gì hướng dẫn, không có hàng dậu, không có cây. Ngay khi ra khỏi thị trấn, không còn thấy gì ngoài những đống tuyết ở mọi hướng. Ngay cả hồ cũng bị phủ lấp. Gió dồn tuyết cứng ngắt và đông lại nên xe trượt thẳng ở trên tuyết và em sẽ nghĩ là em có thể đi thẳng tới bất kì nơi nào em muốn. Vậy đó, lần đầu tiên anh biết được chuyện này khi lũ ngựa chúi cằm vào đống tuyết cứng ngắt kia. Anh đã đâm xuống đầm vì ở đó tuyết cũng có vẻ đông lại như ở các nơi nhưng phía dưới là cỏ. Loại cỏ đầm lầy giữ một lớp tuyết cứng ở phía trên trong khi ở dưới chỉ có những cọng cỏ và không khí. Ngay khi lũ ngựa sấn tới, chúng lao thẳng xuống. Anh phải dành trọn buổi sáng phát sốt với con ngựa bỏ đi đó, Sam… Mẹ nói: - Charles! Bố đáp: - Caroline! Đủ để phải chửi thề. David rất tốt, nó có cảm giác của giống ngựa nhưng Sam thì hoàn toàn điên. Hai con ngựa đã ở đó, lưng chìm trong tuyết và mọi cố gắng thoát ra của chúng chỉ khiến lỗ hổng thành lớn hơn. Nếu chúng kéo cỗ xe xuống đó nữa thì không bao giờ anh lôi lên nổi. Thế là anh tháo xe ra. Rồi anh cố lôi cặp ngựa lên chỗ cứng để lại đi tiếp. Chính là Sam phát rồ, phóng lên, khịt mũi, nhảy nhót và đầm mình sâu hơn vào đám cỏ tuyết rối nùi đó. Mẹ đồng ý: - Đúng là một việc không hay. Bố nói: - Nó bứt tung xung quanh nên anh sợ David bị va chạm. Thế là anh phải nhảy xuống tháo dây cho hai con tách rời. Anh bám chặt Sam và cố sức đập tuyết xuống để làm một lối đi đủ cứng cho nó bước leo lên đỉnh đống tuyết. Nhưng nó chồm đứng trên hai chân sau, phóng tới và phá hư cho tới khi anh phải nói rằng vượt khỏi mức chịu đựng của bất kì người đàn ông nào. Mẹ hỏi: - Anh đã làm cái gì, Charles? Bố nói: - Ồ, sau hết thì lôi được nó ra. David bước theo anh ngoan ngoãn như một con cừu, bước thật cẩn thận và đi thẳng lên. Vậy là anh cột nó vào cỗ xe và nó kéo đi vòng lỗ hổng. Nhưng anh phải kìm cứng Sam suốt thời gian đó. Không có gì khác để hạn chế nó. Sau đó, anh lại cột cả hai vào với nhau để tiếp tục đi. Nhưng chỉ đi được khoảng một trăm bộ thì lại rơi xuống. Mẹ kêu lên: - Trời ơi! Bố nói: - Cái cách xảy ra là như thế. Suốt buổi sáng. Chiếm hết của anh trọn nửa ngày để đi hai dặm đường, chở về một chuyến cỏ và mệt hơn làm việc mệt nhọc trọn một ngày. Chiều nay anh sẽ đưa một mình Sam đi. Nó không thể kéo một đống lớn nhưng dễ hơn cho cả nó lẫn anh. Bố ăn vội vã rồi lật đật ra thắng một mình David vào cỗ xe trượt. Lúc này tất cả đều đã biết điều bố đang làm và không còn lo ngại nhưng tất cả đều tội nghiệp cho David đang phải rơi xuống những đống tuyết giả mạo và cho bố phải tháo xe, giúp con ngựa leo lên rồi cột nó vào xe trở lại. Suốt buổi chiều hôm đó, trời vẫn nắng, trên nền trời không một gợn mây và trước khi trời tối, bố đã kéo về được hai đống cỏ nhỏ. Bố nói với các cô lúc ngồi ăn tối: - David theo bố hệt như một con chó. Khi nó sụp xuống tuyết, nó đứng bất động cho tới lúc bố đập xong một lối đi cứng để nó bước lên. Rồi nó đi theo bố ra khỏi hố một cách cẩn thận tựa như nó hiểu rõ chuyện đó và bố tin chắc nó làm được. Ngày mai bố sẽ cột nó vào cỗ xe bằng sợi dây dài để khi nó sa hố bố không cần phải tháo xe ra. Bố chỉ phải giúp đưa nó lên và khi đó với sợi dây dài, nó có thể kéo cỗ xe đi vòng chiếc hố. Sau bữa ăn tối, bố qua tiệm đồ sắt Fuller’s để mua dây. Bố trở về ngay cùng với các tin tức. Tàu sửa chữa và máy xúc tuyết đã khai thông một nửa đoạn đường nghẽn ở Tracy vào ngày hôm đó. Bố nói: - Lần này phải khai thông lâu hơn vì mỗi lần dọn đường họ đều quăng tuyết sang hai bên khiến chỗ bị nghẽn trở thành sâu hơn nhiều. Nhưng Woodworth ở nhà ga bảo là dường như xe lửa sẽ thông vào ngày mốt. Mẹ nói: - Tin tốt lành rồi. Em phải cảm ơn sẽ lại có thịt ăn. Bố tiếp tục: - Chưa hết đâu. Dù có xe lửa hay không có xe lửa, mình vẫn sắp có thư. Thư đã được người ta cho chuyển bằng xe ngựa và người mang thư là Gilbert sẽ rời đây đi Preston vào sáng mai. Anh ta đang đóng một xe trượt tuyết. Vậy nếu em muốn gửi thư thì có thể được rồi. - Em đang viết một lá thư cho mọi người ở Wisconsin. Em không có ý viết xong sớm hơn, nhưng có lẽ em đã có thể dứt. Thế là mẹ mang lá thư tới bên tấm trải bàn dưới cây đèn và sau khi mẹ làm chảy tan mực trong lò thì tất cả ngồi quanh bàn nghĩ tới những điều cần nói cuối cùng không khi mẹ viết bằng cây viết nhỏ màu đỏ có chiếc quản cẩn xà cừ với hình thù giống như một cọng lông chim. Khi những chữ viết đều đặn kín trang giấy mẹ xoay ngang lại viết tiếp cho kín hết. Trên mặt giấy kia mẹ cũng làm như thế để mỗi phân giấy đều có những lời cần thiết. Carrie chỉ là một em bé khi ở Wisconsin. Cô không nhớ ra các cô, các dì, các chú, các bác và đám anh chị em họ Alice, Ella, Peter còn Grace thì chưa khi nào được thấy họ. Nhưng Laura và Mary vẫn nhớ rõ mọi người. Laura nói: - Mẹ nhắc là con vẫn còn giữ con búp bê vải Charlotte và con mong là con sẽ có một con mèo con là chút chít của con mèo đen Susan. Mẹ nói: - Lũ con cháu không chiếm nhiều chỗ lắm. Mẹ sợ lá thư này nặng quá rồi. Bố nhắc: - Nói với họ là khắp xứ này không có một con mèo. Mẹ tiếp: - Em cũng mong có được. Mình cần một con chó bắt chuột. Mary nói: - Mẹ hãy nói rằng mình mong cho mọi người tới họp mặt Giáng sinh năm nay với mình kiểu như trước đây ở Big Woods. Mẹ sửa lại một tiếng của Mary: - Giống như trước đây. Laura than: - Chúa ơi! Khi nào thì Giáng sinh? Con đã quên bẵng chuyện này. Chắc là sắp đến rồi. Grace nhún nhảy trong vòng tay Mary và kêu: - Bao giờ Giáng sinh tới? Bao giờ ông già Noel tới? Mary và Carrie đã kể tất cả về ông già Noel cho bé. Lúc này Mary không còn biết nói gì thêm với bé và cả Laura cũng thế. Nhưng Carrie lên tiếng: - Có lẽ ông già Noel không thể tới đây vào mùa đông này đâu, Grace, vì quá nhiều bão và tuyết. Em thấy đó, ngay cả xe lửa cũng không tới được. - Grace mở lớn cặp mắt to màu xanh lơ nhìn mọi người và nói một cách lo lắng: - Ông ấy đến bằng xe trượt tuyết mà. Ông ấy có thể đến, phải không bố? Phải không mẹ? Mẹ nói: - Dĩ nhiên là ông ấy có thể đến, Grace. Lúc đó, Laura nói một cách quả quyết: - Ông già Noel có thể đến bất kì nơi nào. Bố nói: - Có lẽ ông ấy sẽ mang xe lửa đến cho mình. Buổi sáng, bố mang lá thư ra bưu điện và tại đó bố thấy ông Gilbert phủ kín người trong những chiếc áo da, đặt túi thư lên cỗ xe trượt tuyết lái đi. Ông phải qua mười hai dặm tới Preston. Bố giải thích với mẹ: - Tại đó, ông ta sẽ gặp một toán đưa thư khác từ miền đông tới và nhận thư về. Ông ta phải về tới vào tối nay nếu không bị ngăn trở quá nhiều bởi các đầm lầy. Mẹ nói: - Thời tiết đang đẹp cho chuyện đi lại mà. Bố nói: - Tốt hơn hết là anh nên tận dụng thời tiết này. Bố bước ra buộc David vào cỗ xe trượt tuyết bằng một sợi dây dài. Sáng hôm đó bố kéo về thêm một đống cỏ khô. Buổi trưa, trong lúc mọi người ngồi ở bàn ăn, trời đột nhiên sầm tối và gió bắt đầu gào hú. Bố nói: - Bão tới nữa! Anh mong là Gilbert tới được Preston bình an. Chương 17: Họp Mặt Thân Hữu Hơi lạnh và bóng tối lại kéo đến. Những móc đinh trên mái nhà trắng sương giá và các ô kính cửa sổ xám xịt. Một lỗ nhỏ được cào ra chỉ cho thấy một màn trắng quay cuồng sát phía bên kia ô kính. Căn nhà vững chắc run rẩy lay động trong tiếng gió rên rỉ, gầm hú. Mẹ nhấn thật chặt những tấm nệm vải vào sát dưới các khung cửa nhưng hơi lạnh vẫn trườn vào. Khó có thể hứng khởi nổi. Buổi sáng và buổi chiều, bố lần theo sợi dây phơi ra chuồng ngựa cho lũ ngựa, con bò sữa và con bò con ăn. Bố phải lo dự trữ cỏ khô. Bố quay vào lạnh tới mức khó làm ấm lại ngay. Ngồi trước lò bếp, bố đặt Grace lên đầu gối và ôm Carrie sát vào người rồi bố kể chuyện những con gấu, những con báo mà bố đã từng kể cho Mary và Laura nghe. Sau đó, vào buổi tối bố mang đàn ra chơi những điệu nhạc vui tươi. Khi tới giờ ngủ và phải đối mặt với cái lạnh trên gác, bố chơi điệu nhạc đưa các cô đi ngủ. Bố nói: - Bây giờ, tất cả sẵn sàng! Phải, trái – phải, trái, bước! Laura đi đầu mang theo một chiếc bàn ủi hơ nóng quấn trong mền, Mary nối theo với một bàn tay đặt trên vai Laura. Carrie đi sau chót với một chiếc bàn ủi khác và tiếng nhạc đưa các cô lên cầu thang. Tiến lên! Tiến lên! Hỡi người can đảm! Màu mũ xanh đang phủ kín biên thùy Cờ biển tung bay đưa ta bước tới Tiếng thơm này sử sách mãi ghi. Núi cao không chùn bước Những con người đất nước Quyết đấu tranh Cho gia đình và tổ quốc vẻ vang. Tiếng nhạc giúp được phần nào. Laura hi vọng cô làm ra bộ hào hứng đủ để khuyến khích những người khác. Nhưng suốt thời gian đó, cô biết rằng bão đã chặn lại đường xe lửa. Cô biết rằng gần như trọn đống than trong gian chái đã hết và trong thị trấn không còn than nữa. Dầu lửa trong đèn đã vơi nhiều dù mẹ chỉ thắp đèn trong lúc cả nhà ăn bữa tối. Thịt không còn cho tới khi xe lửa tới. Bơ đã hết và chỉ còn một ít mỡ giọt để rắc trên bánh mì. Khoai tây vẫn còn nhưng bột mì thì chỉ gom vừa đủ để nướng thêm một đợt bánh nữa. Khi nghĩ về những thứ đó, Laura đinh ninh là xe lửa phải tới trước khi hết đợt bánh mì cuối cùng. Rồi cô lại bắt đầu nghĩ trở lại về than, về dầu lửa, về số mỡ giọt ít ỏi và về túi bột mì đã cận sát đáy. Nhưng chắc chắn, chắc chắn xe lửa phải tới. Suốt ngày và suốt đêm, căn nhà run rẩy trong tiếng gió rên rỉ, gào thét, tiếng tuyết trút trên vách, lên mái những chỗ mà những đinh móc đọng sương giá xuyên qua. Trong những căn nhà khác có người, có thể còn có ánh đèn, nhưng đó là chuyện quá xa để hình dung ra là có thực. Trong gian phòng sau cửa kho thực phẩm, Almanzo rất bận rộn. Cậu gỡ tất cả yên, cương, quần áo mắc trên bức vách cuối phòng xuống chất đống trên giường. Cậu đẩy bàn ăn sát vào tủ chén và trong khoảng trống đó cậu đặt một chiếc ghế thay cho giá cưa. Từ bức vách cuối phòng, cậu dựng lên một cái khung rồi cưa ván thành từng miếng đóng lên. Tiếng cưa và tiếng búa át hẳn tiếng ồn của gió bão. Khi dựng lên ở phía trong một bức vách lửng, cậu móc con dao nhíp ra rạch thủng một bao đựng lúa giống. Cậu nhấc chiếc bao nặng một trăm hai mươi pao lên cẩn thận trút hạt lúa vào khoảng trống giữa bức vách cũ và bức vách mới. Cậu nói với Royal đang ngồi đẽo gọt bên lò bếp: - Em tính là chỗ này có thể chứa hết tất cả. Khi em dựng bít lên hết sẽ có một thùng chứa không ai nhìn thấy. Royal nói: - Đó là việc của em. Lúa giống là của em. Almanzo đáp lại: - Anh cầm chắc mãi mãi nó là của em chứ! Và chắc chắn nó sẽ được gieo xuống đất, vào mùa xuân tới! Royal hỏi: - Cái gì khiến em nghĩ là anh sẽ bán lúa của em? Almanzo trả lời: - Anh gần như đã bán hết ngũ cốc rồi. Trận bão này sẽ giảm dần vào một lúc nào đó hoặc nó chỉ là một trận bão đầu tiên và ngay khi nó tạm dứt, cả thị trấn sẽ chất đống tại đây để mua lúa mì. Harthorn và Loftus đã chỉ giữ lại cho họ được đúng ba bao bột mì và trận bão này sẽ chận xe lửa tới sau Giáng sinh. Royal nhấn mạnh: - Tất cả những thứ đó đâu có nghĩa là anh bán lúa mì của em. Cậu nói: - Có lẽ không, nhưng em hiểu anh, Roy. Anh không phải một nông dân mà là một chủ cửa hàng. Một người đến đây nhìn quanh và nói “ Giá lúa mì của anh bao nhiêu?” Anh nói “Tôi bán hết lúa mì rồi”. Ông ta nói “ Những túi này là cái gì?”. Anh nói với ông ta “ Đây không phải lúa mì của tôi mà là của Manzo”. Thế là ông ta nói “Thôi, anh muốn giá bao nhiêu?” Và xin anh đừng nói với em rằng anh sẽ nói “Chúng tôi không bán đâu”. Không, thưa ngài Roy, anh là một chủ cửa hàng. Anh sẽ nói với ông ta “Ông trả bao nhiêu?”. Roy nhìn nhận: - Ừ, có lẽ anh sẽ nói. Điều đó có thiệt hại gì nào. - Thiệt hại ở chỗ giá cả sẽ được nâng cao tới mây xanh trước khi xe lửa được thông đường. Lúc đó em đang đi kéo cỏ ở một nơi nào đó và anh cho rằng em sẽ không từ chối một cái giá như thế hoặc anh nghĩ là anh hiểu biết nhiều hơn để làm lợi cho em. Anh không bao giờ tin rằng em dự tính gì khi em nói ra, Royal Wilder à. Royal nói: - Thôi, thôi, bình tĩnh đi, Manzo. Anh vẫn thấy anh lớn hơn em và có lẽ anh biết rõ hơn. - Có lẽ anh biết và có lẽ anh không biết. Dù sao chăng nữa, em sẽ đặt công việc của em theo hướng của riêng em. Em sẽ bít kín đám lúa giống của em không cho ai nhìn thấy để khỏi ai đưa ra bất kì vấn đề gì về nó và nó sẽ nằm sẵn tại đây khi mùa gieo hạt tới. Royal nói: - Được rồi, được rồi. Anh tiếp tục gọt cẩn thận một đoạn mắt xích liên kết từ một thanh gỗ thông, còn Almanzo trụ vững chân, nhấc từng bao lúa lên vai và trút vào trong chỗ cất giấu. Thỉnh thoảng một đợt gió thổi mạnh lay động các bức vách và thỉnh thoảng chiếc lò sưởi nóng đỏ lại phụt khói. Một tiếng gió gầm lên dữ dội hơn khiến cả hai lắng nghe và Almanzo nói: - Quỉ quái! Có một mắt gỗ ở đây! Cậu nói sau một lát suy tính: - Royal, đẽo cho em một miếng nêm vừa với cái mắt gỗ này, được không? Em muốn làm dứt việc này trước lúc lo công việc thường lệ. Royal bước tới ngắm nghía chiếc mắt gỗ. Anh khoanh vòng nó bằng một con dao và chọn một mẩu gỗ để làm chiếc nêm vừa khít. Anh nêu nhận xét: - Nếu giá cả lên cao như em nói thì em đúng là một thằng điên mới không chịu bán chỗ lúa mì của em. Trước mùa xuân, xe lửa sẽ thông đường. Lúc đó em sẽ mua hạt giống trở lại và còn có một món lời giống như anh đang tính làm. Almanzo nhắc anh: - Anh đã nói điều đó trước đây rồi. Em thà rằng chắc chắn hơn là hối tiếc. Anh không biết rõ khi nào xe lửa sẽ lại chạy và cũng không biết có lúa giống được chở đến trước tháng tư không. Royal nói: - Chẳng có gì chắc chắn ngoại trừ cái chết và thuế khóa. Almanzo nói: - Gần như chắc hẳn là cuối cùng mùa gieo hạt sẽ quay lại. Và những hạt lúa giống tốt sẽ tạo ra những vụ mùa tốt. Royal bình luận: - Em nói giống hệt ba. Anh thử chiếc nêm cho mắt gỗ và ngồi xuống chuốt lại. - Nếu trong vài tuần lễ nữa mà xe lửa không thông đường, anh không hiểu thị trấn này sống nổi bằng cách nào. Trong các cửa hàng thực phẩm không còn nhiều đồ dự trữ nữa. Almanzo nói: - Nông dân biết sắp xếp để xoay sở khi lâm vào cảnh đó. Gần như hết thảy đều làm ra sản phẩm vào mùa hè vừa qua giống như chúng ta. Và chúng ta có thể kéo dài cho tới khi thời tiết ấm áp nếu chúng ta phải như thế. Chương 18: Sinh Hoạt Văn Học Cuối cùng bão tuyết đã dứt. Sau ba ngày ồn ào liên tục, sự tĩnh lặng vang lên trong tai Laura. Bố vội vã đi kéo thêm cỏ khô và khi quay về, bố đưa David vào chuồng. Nắng vẫn đang lấp lánh trên tuyết và phía tây bắc không hề có mây khiến Laura thắc mắc không hiểu tại sao bố ngưng kéo cỏ. Mẹ hỏi nhanh khi bố bước vào: - Có chuyện gì không ổn, Charles? Bố đáp: - Gilbert đã tới Preston và trở về. Ông ấy có mang thư về. Giống như ngày Giáng sinh đã tới một cách bất chợt. Mẹ hi vọng có giấy tờ ở nhà thờ. Laura, Mary và Carrie hi vọng cha Eden sẽ gửi tới một thứ gì để đọc như thỉnh thoảng ông đã làm. Grace hào hứng vì tất cả tất cả đều hào hứng. Chờ bố trở về từ bưu điện thật khó khăn. Bố đi khá lâu. Đúng như mẹ nói, nôn nóng không phải là điều tốt. Hết thảy đàn ông trong thị trấn đều tới bưu điện và bố phải đợi tới phiên. Cuối cùng, bố đã trở về, hai tay đầy ắp. Mẹ hăm hở với đám giấy tờ từ nhà thờ còn Laura và Carrie cố chộp lấy bó báo Youth ‘s Companions. Cũng có cả báo tin tức nữa. Bố cười vui: - Đây! Đây! Đừng làm ồn quá! Không chỉ có thế là hết đâu. Hãy đoán coi bố còn có cái gì! Laura kêu lên: - Một lá thư? Ô, bố, bố có một lá thư? Mẹ hỏi: - Ai gửi vậy? Bố đáp: - Caroline, em có tờ Advances. Laura và Carrie có tờ Youth ‘s Companions. Anh có tờ Inter-Ocean và tờ Pioneer Press. Mary có thư. Mặt Mary sáng lên. Cô sờ đo độ dày và kích thước lá thư. - Một lá thư lớn và dầy cộm. Đọc đi, mẹ. Mẹ mở thư và đọc lớn. Thư của cha Eden. Cha tỏ ý tiếc vì ông không thể trở lại để tổ chức một buổi lễ vào mùa xuân vừa qua do phải đi lên xa hơn ở phía bắc. Ông hi vọng sẽ gặp lại tất cả khi mùa xuân trở lại. Các em trong lớp học chủ nhật ở Minnesota gửi tới cho các cô gái một bó tạp chí Youth ‘s Companions và sẽ gửi một bó khác vào năm sau. Nhà thờ của ông đã gửi tới họ một thùng quà Giáng sinh và ông hi vọng số quần áo sẽ vừa vặn. Đáp lại lòng hiếu khách mà họ đã dành cho ông và giáo sĩ Stuart vào mùa đông trước ở hồ nước Bạc, ông gửi tới một món quà Giáng sinh. Ông chúc tất cả có một Giáng sinh vui vẻ và một năm mới hạnh phúc. Một sự im lặng ngay sau khi mẹ đọc dứt bức thư. Rồi mẹ nói: - Dù sao mình đã có lá thư tốt lành này. Bố nói với tất cả: - Gilbert chuyển lới lại cho biết người ta đã tăng gấp đôi số công nhân và đưa hai xe xúc tuyết tới đoạn đường nghẽn ở Tracy. Mình có thể kịp nhận thùng quà vào ngày Giáng sinh. Mẹ nói: - Chỉ còn vài ngày nữa. Bố nói: - Trong vài ngày có thể làm xong rất nhiều việc. Nếu tình trạng hấp dẫn này của thời tiết kéo dài thì không có lí gì đường xe lửa không khai thông kịp. Carrie nói: - Ôi, con mong thùng quà Giáng sinh sẽ tới. Bố thông báo tin tức cho mẹ: - Các nhà trọ đã đóng cửa. Họ không còn củi đốt và lúc này, tay quản lí ngân hàng Ryth đã mua cho tới miếng vàn cuối cùng ở xưởng mộc. Mẹ nói: - Dù sao mình không có khả năng đốt ván gỗ. Nhưng, Charles, mình đã gần hết than rồi. Bố đáp một cách vui vẻ: - Mình sẽ đốt cỏ khô. - Cỏ khô? Mẹ lên tiếng và Laura hỏi: - Làm sao mình có thể đốt cỏ khô được, bố? Cô nhớ tới lửa đã lan nhanh qua các đám cỏ khô trên đồng cỏ như thế nào. Ngọn lửa liếm qua những cọng cỏ nhẹ, mỏng manh và biến mất trước khi tàn than vụn vỡ rơi xuống. Làm sao mà gian phòng giữ được hơi ấm của thứ lửa tắt nhanh như thế trong khi ngay cả sức cháy nóng hực của than cứng vẫn không thể ngăn nổi hơi lạnh? Bố nói với cô: - Mình sẽ phải tìm tòi xoay sở. Mình sẽ sắp xếp xong! Túng thì phải tính. Mẹ nói: - Có thể xe lửa sẽ tới đúng lúc. Bố lại đội mũ lên và nhắc mẹ là hãy làm bữa trưa hơi trễ một chút. Bố phải cố kéo kịp về thêm một chuyến cỏ khô nữa nên cần đi gấp. Bố bước ra và mẹ nói: - Tới đây, các con. Hãy cất bó báo Youth ‘s Companions đi. Mình cần giặt giũ trong lúc thời tiết sáng đẹp như vầy. Suốt ngày hôm đó, Laura, Carrie và Mary luôn hướng về bó báo Youth ‘s Companions và thường nhắc tới bó báo. Nhưng ngày sáng đẹp rất ngắn. Các cô quậy và đập quần áo đang sôi trên lò, dùng cán chổi nhấc bỏ qua khạp để mẹ chà xát xà phòng. Laura xối nước lên, còn Carrie quậy chiếc túi màu xanh trong làn nước xả thứ hai cho tới khi nó đủ xanh. Laura nấu cho hồ sôi lên. Và lúc mẹ lấy ra lần chót khỏi nước lạnh để hong những món đồ đã giặt trên dây phơi thì bố về tới để ăn trưa. Sau đó, các cô rửa chén đĩa, cọ sàn nhà, chùi lò bếp và rửa phía trong các ô kính cửa sổ. Mẹ mang quần áo đã khô cứng vào, phân loại, phun nước và cuốn lại để chờ ủi. Ánh sáng chiều chạng vạng đã hết. Thế là hôm đó quá trễ để đọc báo và sau bữa ăn tối lại phải tắt đèn để giữ lại số dầu lửa cuối cùng. Mẹ thường nói: - Công việc trước, trò chơi sau. Lúc này mẹ mỉm cười dịu dàng với Laura, Carrie và nói: - Các con đã giúp mẹ có một ngày làm việc thật tốt. Thế là các cô đã được tưởng thưởng. Carrie nói một cách sung sướng: - Ngày mai mình sẽ đọc một chuyện. Laura nhắc: - Ngày mai mình còn lo ủi đồ. Mẹ nói: - Ừ, mình còn phải phơi nệm và dọn sạch các xó xỉnh trên gác trong thời tiết tốt đẹp này. Bố bước vào và nghe thấy mấy mẹ con đang nói. Bố lên tiếng: - Ngày mai anh sẽ đi làm việc ở đường sắt. Ông Woodworth đã nhắc tất cả những người đàn ông đủ sức hãy đi làm việc trên nền đường sắt. Người giám thị việc thông đường ở Tracy đã đưa tàu sửa tới đó và các toán xúc tuyết đang xúc dọn đoạn đường từ Huron về miền đông. Bố tuyên bố: - Nếu gân sức và ý chí giải quyết nổi công việc thì sẽ có một chuyến xe lửa kịp tới vào dịp Giáng sinh. Đêm đó, bố từ chỗ làm việc trở về với nụ cười nở rộng trên gương mặt đỏ như mặt trời. Bố nói lớn: - Tin tốt lành! Xe sửa chữa sẽ thông đường vào một khoảng nào đó trong ngày mai! Chuyến xe lửa thường lệ sẽ đến sau đó, có thể là ngày mốt. - Ôi, tốt quá! Khoái quá! Laura và Carrie cùng kêu lên và mẹ nói: - Đúng thực là tin tốt lành rồi. Mắt anh làm sao thế, Charles? Mắt bố sưng đỏ. Bố trả lời vui vẻ: - Xúc tuyết trong nắng hại mắt lắm. Một số người đã bị chói tuyết không nhìn thấy gì nữa. Pha cho anh một ít nước muối, được chứ Caroline? Anh sẽ rửa mắt sau khi làm xong các việc thường lệ. Khi bố đã ra chuồng ngựa, mẹ buông người xuống chiếc ghế bên cạnh Mary, nói: - Các con, mẹ sợ dịp Giáng sinh này sẽ rất nghèo nàn. Nhưng trận bão tuyết khủng khiếp và mối lo sưởi ấm khiến mình không còn thời giờ để sắp đặt gì hết. Carrie mở đầu: - Có lẽ thùng quà Giáng sinh… Mary nói: - Mình không nên tin tưởng vào nó. Laura đề nghị: - Mình có thể chờ cho tới ngày Giáng sinh, tất cả trừ… Và cô nhấc bổng Grace đang mở to mắt lắng nghe. Grace hỏi với chiếc môi run run: - Ông già Noel không tới hả? Laura ôm chặt bé và nhìn qua mái tóc vàng của bé. Mẹ nói một cách quả quyết: - Ông già Noel luôn luôn đến với những cô bé ngoan, Grace ạ. Mẹ tiếp: - Nhưng các con, mẹ có một ý nghĩ. Các con thấy thế nào về việc mình giữ tất cả giất tờ của nhà thờ và bó tạp chí Youth ‘s Companions của các con chỉ mở đúng ngày Giáng sinh? Sau một lúc, Mary nói: - Con thấy đó là một ý kiến hay. Nó giúp mình học được sự từ chối. Laura nói: - Em không muốn thế. Mary nói: - Không ai muốn. Nhưng đây là điều tốt cho chúng ta. Nhiều Laura Laura không muốn làm ngay cả điều tốt. Nhưng sau một hồi im lặng nữa, cô nói: - Được, nếu mẹ và Mary muốn vậy, con sẽ làm theo. Như thế cũng có một điều khiến mình trông đợi ngày Giáng sinh. - Con thấy điều đó thế nào, Carrie? Mẹ hỏi và bằng một giọng nhỏ nhẹ Carrie đáp: - Con cũng làm theo, mẹ. Mẹ nói tiếp: - Mình có thể tìm một thứ nho nhỏ gì đó trong các cửa hàng cho… Mẹ nhìn về phía Grace. - Nhưng các con đều lớn rồi và đã biết, năm nay bố không thể làm việc gì để kiếm ra tiền. Mình lại không có tiền dành dụm để mua quà nhưng mình vẫn có thể có một ngày Giáng sinh hạnh phúc đúng nghĩa. Mình sẽ cố nghĩ để chế thêm một món ăn cho bữa trưa sau đó mình mở hết những tờ báo ra để đọc và khi trời tối quá không đọc nổi thì bố chơi đàn. Laura nói: - Mình đâu còn nhiều bột. Mẹ đáp: - Mấy chủ cửa hàng đòi hia mươi lăm xu một pao bột nên bố mới chờ xe lửa tới. Dù sao, không có gì để làm nổi một chiếc bánh nhồi thịt và không có bơ, không có trứng để làm bánh ngọt và thị trấn hết đường rồi. Nhưng mình sẽ nghĩ ra một món gì thêm cho bữa trưa Giáng sinh. Laura ngồi suy nghĩ. Cô đang làm một khung hình nhỏ với những mũi len đan chéo trên các-tông màu bạc mỏng. Trên các cạnh và ngang phía đầu cô tạo những mẫu hoa nhỏ màu xanh lơ và những chiếc lá màu xanh. Lúc này cô đang phác họa khoảng trống đặt hình bằng màu xanh dương. Trong lúc đưa mũi kim nhỏ xíu qua những lỗ châm trên tấm các-tông và kéo những sợi lem màu một cách cẩn thận cô bỗng nghĩ Carrie thèm được ngắm những vật xinh đẹp ra sao. Cô quyết định sẽ tặng khung hình này cho Carrie làm quà Giáng sinh. Có lẽ một ngày nào khác, cô có thể làm một chiếc khác cho mình. Thật may mắn là cô đã đan xong dải viền đăng-ten cho chiếc váy lót. Cô sẽ tặng Mary cái đó. Còn mẹ thì cô sẽ tặng tấm giữ tóc bằng các-tông mà cô đã thuê xong để cho có cặp với chiếc khung hình. Mẹ có thể treo nó trên một góc gương soi và khi mẹ chải tóc mẹ sẽ bỏ những sợi tóc đứt vào đó để sau này mẹ lấy ra dùng làm tóc độn. Cô hỏi: - Nhưng mình có thể tặng bố cái gì? Mẹ lo lắng: - Mẹ phải nói là mẹ không biết. Mẹ không nghĩ ra nổi thứ gì. Carrie nói: - Con có mấy penny. - Có chỗ tiền dành cho con đi học đó. Mary gợi ý nhưng mẹ nói: - Không, Mary. Mình không đụng tới chỗ tiền đó. Laura tư lự nói: - Chị có mười xu. Em có mấy penny, Carrie? Carrie nói với cô: - Năm. Laura nói: - Mình cần hai mươi lăm xu để mua cho bố một đôi dây đeo quần. Bố cần có một đôi dây đeo quần mới. Mẹ nói: - Mẹ có mười xu. Vậy là giải quyết xong vấn đề rồi. Laura, con và Carrie tốt nhất là mua ngay vào lúc bố vừa đi làm việc sáng mai. Hôm sau, khi vừa làm xong công việc buổi sáng, Laura và Carrie băng qua con phố đầy tuyết tới cửa hàng Harthorn’s. Ông Harthorn ở đó một mình với những giá đồ trống trơn. Dọc hai bức vách chỉ có vài đôi ủng của đàn ông, vài đôi giầy phụ nữ và mấy súc vải hoa. Thùng đậu trống trơn. Thùng bánh qui xốp trống trơn. Thùng thịt heo chỉ có một ít nước muối ở dưới đáy chứ không có thịt. Hộp cá thu dài, phẳng cũng chỉ có một ít muối ở dưới đáy. Thùng táo khô và thùng quả mâm xôi khô cũng sạch trơn. Ông Harthorn nói: - Tôi không còn đồ bán cho tới khi xe lửa tới. Tôi đang chờ một hóa đơn giao hàng khi xe lửa ngưng lại. Trên tủ còn mấy chiếc khăn tay, lược, kẹp tóc và hai đôi dây đeo quần, Laura và Carrie ngắm mấy đôi dây đeo. Chúng được đan trơn, buồn nản và xám xịt. Ông Harthorn hỏi: - Các cháu có cần tôi lấy ra cho coi không? Laura không thích nói không nhưng cô nhìn Carrie và thấy là Carrie hi vọng cô sẽ làm thế. Laura nói: - Dạ không, cảm ơn ông Harthorn. Chúng cháu không mua vào lúc này. Trở ra lại ngoài trời lạnh, cô nói với Carrie: - Mình hãy tới cửa hàng Loftus’ coi xem có kiếm được thứ khá hơn không. Các cô cúi đầu đi ngược trong gió lạnh ngắt, mải miết bước dọc con đường đóng băng với cổng vòm của các cửa hàng và tới tận cửa hàng tạp phẩm và đồ khô Dry Goods and Groceries. Cửa hàng đó cũng trống trơn và chỉ là những âm vang lập lại. Mỗi khạp, thùng đều không có gì và đồ hộp chỉ vỏn vẹn còn hai hộp sò dẹt. Ông Loftus nói với các cô: - Tôi đang đợi một số hàng khi xe lửa tới vào ngày mai. Trong tủ hàng có một đôi dây đeo màu xanh lơ có những hoa nhỏ màu đỏ thêu bằng máy rất đẹp với những khóa đồng sáng loáng. Laura chưa hề thấy những dây đeo đẹp như thế. Chúng rất hợp với bố. - Thứ này giá bao nhiêu? Cô hỏi gần như tin chắc giá rất đắt. Nhưng giá chỉ là hai mươi lăm xu. Laura đưa cho ông Loftus hai đồng năm xu của riêng cô, đồng năm penny của Carrie và đồng mười xu bằng bạc của mẹ. Cô cầm gói hàng thon mảnh và gió thổi bật cô với Carrie về nhà. Giờ đi ngủ đêm đó không ai nhắc đến việc treo những vớ dài. Grace còn quá nhỏ chưa thể biết về việc treo vớ vào buổi chiều trước lễ Giáng sinh và không còn ai khác chờ đợi có quà tặng. Nhưng tất cả đều chưa khi nào nôn nóng chờ ngày Giáng sinh như thế vì đường sắt lúc này đã được khai thông và ngày mai xe lửa sẽ tới. Ý nghĩ đầu tiên của Laura vào buổi sáng hôm đó là: “Hôm nay xe lửa sẽ đến!” Cửa sổ không còn đọng sương giá, trời quang đãng và đồng cỏ phủ tuyết đổi thành màu hồng trong nắng sớm. Xe lửa chắc chắn sẽ đến và Laura vui mừng nghĩ đến những bất ngờ trong ngày Giáng sinh của mình. Cô trượt xuống khỏi giường không đánh thức Mary và mặc áo thật nhanh trong hơi lạnh. Cô mở chiếc hộp cất các món đồ riêng của cô. Cô lấy ra cuộn dải viền ren đan đã được bao cẩn thận bằng giấy xốp. Rồi cô kiếm tấm thiếp đẹp nhất mà cô đã được tặng trong lớp học ngày chủ nhật, lấy chiếc khung hình nhỏ và tấm các-tông giữ tóc. Với những thứ đó trong tay, cô nhón gót bước xuống cầu thang. Mẹ nhìn lên ngạc nhiên. Bàn ăn đã bày xong và mẹ đặt bên cạnh mỗi đĩa ăn một gói nhỏ bao trong giấy sọc trắng-đỏ. Laura thì thầm: - Chúc mẹ Giáng sinh vui vẻ! Ô, cái gì đây? Mẹ cũng thì thầm: - Quà Giáng sinh! Con có cái gì ở đó? Laura chỉ mỉm cười. Cô đặt những gói của cô vào đĩa của mẹ và Mary. Rồi cô đẩy tấm thiếp của lớp học chủ nhật vào khung hình. Cô thì thầm: - Cho Carrie. Mẹ và cô cùng nhìn món quà. Nó rất đẹp. Sau đó, mẹ kiếm một miếng giấy xốp bao kín lại. Carrie, Grace và Mary đang trèo xuống cầu thang và nói: - Chúc Giáng sinh vui vẻ! Giáng sinh vui vẻ! Carrie bỗng ré lên: - Ôôô-ô! Em cứ nghĩ mình đang đợi Giáng sinh cho tới khi xe lửa mang thùng quà Giáng sinh tới! Ôôô-ô, coi kìa! Coi kìa! Mary hỏi: - Gì vậy? Carrie nói với cô: - Có quà đặt trên mỗi đĩa ăn ở trên bàn! Mẹ nói: - Không, không, Grace, không được đụng vào. Tất cả phải chờ bố đã. Thế là Grace chạy xung quanh bàn để ngắm nhưng không sờ. Bố đem sữa vào và mẹ lọc. Rồi bố bước vào gian chái và trở ra với một nụ cười mở rộng sáng rạng rỡ. Bố đưa cho mẹ hai hộp sò từ cửa hàng Loftus. Mẹ nói: - Charles! Bố nói với mẹ: - Hãy nấu món súp sò cho bữa ăn trưa mừng Giáng sinh, Caroline. Anh cố vắt được một ít sữa của Elen, nhưng không nhiều và là đợt sữa cuối cùng vì nó sắp cạn sữa rồi. Nhưng có lẽ em sẽ dùng tới. Mẹ nói: - Em sẽ pha thêm nước cho loãng một chút. Mình sẽ có món súp sò cho bữa ăn trưa mừng Giáng sinh. Lúc đó bố nhìn vào bàn. Laura và Carrie cười lớn tiếng, hô: - Giáng sinh vui vẻ! Chúc bố Giáng sinh vui vẻ! Và Laura nói với Mary: - Bố sẽ ngạc nhiên. Bố hô lớn: - Hoan hô ông già Noel! Ông bạn già vẫn tới dù không có xe lửa! Tất cả ngồi vào chỗ của mình và mẹ khẽ giữ bàn tay Grace lại. Mẹ nhắc: - Bố là người mở quà đầu tiên, Grace. Bố nhấc gói quà của mình lên. - Nào, đây là món quà gì và ai tặng tôi? Bố cởi dây, mở giấy bọc và giơ lên những dải dây đeo mới điểm hoa đỏ. - Ui chà! Bố kêu lên: - Thế này thì làm sao tôi còn khoác áo choàng được? Thứ này quá đẹp không thể phủ lấp đi được. Bố nhìn quanh ngắm từng khuôn mặt. Bố nói: - Tất cả mấy mẹ con đã làm chuyện này. Tốt, bố hãnh diện được đeo những dây này. Mẹ lại nhắc: - Chưa tới con, Grace. Mary mở tiếp theo. Mary mở ra mấy thước viền đăng-ten. Cô mân mê trên mấy ngón tay và gương mặt cô sáng lên thích thú. Cô nói: - Con sẽ để dành để mang khi nào được tới trường. Đây là một món khác để giúp con được đi. Nó rất hợp với chiếc váy lót trắng. Carrie đang ngắm món quà của cô. Đó là bức hình đấng Chăn chiên trong những lớp áo dài màu xanh lơ và trắng đang ôm trong tay những con cừu con trắng như tuyết. Tấm các-tông màu bạc được thêu những bông hoa xanh lơ tạo thành một khung hình hoàn hảo. Carrie thì thầm: - Ôi, dễ thương quá chừng! Dễ thương quá chừng! Mẹ người chiếc giữ tóc đúng là thứ mẹ đang cần. Lúc đó, Grace xé toạc tấm giấy bọc gói quà của mình và kêu lên mừng rỡ. Hai hình nhân nhỏ bằng gỗ mỏng đứng trên một chiếc bục giữa các cột sơn màu đỏ. Tay các hình nhân nắm vào những sợi dây xoắn chặt với nhau ngay trên đầu. Cả hai đội mũ chóp cao màu đỏ, khoác áo màu xanh lơ với hàng nút vàng. Quần của cả hai kẻ sọc xanh-đỏ và những đôi ủng màu đen với những ngón chân cong lên. Mẹ khẽ bóp phía dưới những chân cột. Một hình nhân nhảy lộn nhào lên và hình nhân kia đung đưa. Rồi hình nhân ở trên hạ xuống trong khi hình nhân ở dưới nhào lên và cả hai đều gật đầu giật cánh tay, chân đu đưa nhảy và múa. Grace lêu lên: - Ô, coi này! Ô, coi này! Không bao giờ bé chán những hình nhân nhỏ nhảy múa này. Những gói quà nhỏ in sọc ở mỗi bên của đĩa ăn là những thỏi kẹo Giáng sinh. Laura thắc mắc: - Bố kiếm kẹo ở đâu vậy? Bố nói: - Bố kiếm lâu rồi. Đó là những miếng đường cuối cùng trong thị trấn. Một số nông dân vẫn thường nói họ thường dùng kẹo thay cho đường nhưng bố giữ chắc những thỏi kẹo Giáng sinh của mình. Carrie thở ra: - Ôi, một ngày Giáng sinh dễ thương vô cùng. Laura cũng nghĩ thế. Dù chuyện gì xảy ra thì họ vẫn luôn có một ngày Giáng sinh vui vẻ. Và, nắng đang chiếu, trời đang xanh, đường sắt đã khai thông, xe lửa đang tới. Sáng nay hẳn xe lửa đã qua đoạn đường nghẽn ở Tracy. Một lúc nào đó trong ngày, họ sẽ nghe thấy tiếng còi xe lửa và nhìn thấy nó dừng lại bên nhà ga. Buổi trưa, mẹ lo nấu súp sò. Laura đang bày bàn ăn, còn Carrie và Grace chơi với món đồ hình nhân nhào lộn. Mẹ nếm súp và đặt chiếc xoong trở lại lên lò: - Xúp sò đã chín. Bánh mì nướng vàng rồi. Bố đang làm gì nhỉ? Laura nói: - Bố đang khuân cỏ khô. Bố mở cửa. Phía sau bố, gian chái dường như đầy cứng loại cỏ đầm lầy khô. Bố hỏi: - Xúp sò chín chưa? Mẹ đáp: - Em đang mang lên. Em mong là xe lửa sắp tới, mình chì còn số than cuối cùng. Rồi mẹ nhìn bố hỏi: - Có gì bất ổn, Charles? Bố nói thật chậm: - Có đám mây ở hướng tây bắc. Mẹ kêu: - Trời, mong đó không phải là một trận bão khác! Bố đáp: - Anh e đúng là bão. Nhưng không cần làm hư bữa ăn của mình. Bố đẩy chiếc ghế của mình sát vào bàn ăn, tiếp: - Anh đã dồn đống rất nhiều cỏ khô trong chuồng và chứa đầy gian chái. Bây giờ mình tính tới món xúp sò. Mặt trời vẫn tỏa sáng trong lúc họ ăn. Món súp nóng thật ngon dù sữa chỉ lõng bõng như nước. Bố bóp vụn bánh mì thả vào trong xúp, nói với mẹ: - Món bánh mì nướng này gần như bánh qui giòn. Anh không biết còn có gì ngon hơn. Laura thưởng thức món xúp ngon lành nhưng không thể không nghĩ về đám mây đen đang kéo tới. Cô cũng không thể không lắng nghe tiếng gió mà cô biết chắc sắp nổi lên. Nó đến đột ngột như một tiếng thét. Cửa sổ khua rầm rĩ và căn nhà chuyển động. Bố nói: - Chắc có một lỗ hở! Bố tới cửa sổ nhưng không thể nhìn nổi ra ngoài. Tuyết theo gió bay tới mù trời. Những đống tuyết cứng tung lên cuốn đi khi gió cắt ngang. Tất cả quay cuồng trong không khí đang xoáy tít và đảo lộn điên loạn. Bầu trời, ánh nắng, thị trấn đều biến mất hút trong điệu vũ chóa mắt của tuyết. Căn nhà lại đứng đơn độc. Laura nghĩ: - Thế là xe lửa không đến được. Mẹ nói: - Tới đây, các con. Hãy lo thanh toán chén đĩa, rồi mở các bó báo và hưởng một buổi chiều ấm áp. Laura hỏi: - Có đủ than không, mẹ? Bố ngắm ngọn lửa, nói: - Nó sẽ kéo dài cho tới giờ ăn tối. Và lúc đó, mình sẽ đốt cỏ khô. Sương giá đang đóng trên các ô kính cửa sổ và gian phòng thấm lạnh ở gần các bức vách. Bên lò bếp, ánh lửa cũng mờ nhạt khó đọc báo nổi. Khi chén đĩa được rửa sạch và cất xong. Mẹ đặt cây đèn trên chiếc khăn bàn ca-rô đỏ và thắp lên. Chỉ còn một ít dầu ở khúc bấc cuốn lại nhưng nó vẫn cho một làn sáng ấm áp, hứng khởi. Laura mở bó tạp chí Youth’s Companions và cô cùng Carrie háo hức ngắm số lượng truyện được in trên mặt bìa láng bóng. Mẹ nói: - Các con hãy chọn lấy một truyện. Và mẹ sẽ đọc lớn để tất cả cùng nghe. Vậy là, tất cả chụm sát lại giữa lò bếp và bàn ăn sáng sủa lắng nghe mẹ đọc truyện bằng giọng êm dịu, rõ ràng. Câu chuyện đưa tất cả rời xa khỏi vùng tối tăm bão lạnh. Khi đọc dứt một truyện, mẹ đọc tiếp truyện thứ hai, rồi truyện thứ ba. Thế là đủ cho một ngày và họ còn phải dành lại một số truyện cho lúc khác. Mary thở ra một cách sung sướng: - Các em có thấy mừng là mình đã dành lại những câu chuyện này cho ngày Giáng sinh không? Tất cả đều thấy như thế. Trọn buổi chiều đã qua đi thật nhanh và tới giờ lo công việc thường lệ. Khi từ chuồng ngựa quay vào, bố dừng lại một lát trong gian chái và cuối cùng bước vào với một ôm đầy cọng cây. Bố đặt xuống bên cạnh lò bếp, nói: - Đây là chất đốt của em dành cho bữa ăn sáng, Caroline. Những nùi cỏ cứng này rất tốt. Anh nghĩ là chúng sẽ cháy đượm. Laura kêu lên: - Những nùi cỏ khô? Bố hơ hai bàn tay trên lò bếp nóng: - Đúng, Laura. Bố mừng là cỏ đã nằm sẵn trong gian chái. Bố không thể mang nó qua gió đang thổi như lúc này mà không bị đâm thọc vào răng một lúc nào đó. Cỏ khô là những cọng dài. Bố đã xoắn lại bằng một cách nào đó và kết lại thật chặt đến nỗi mỗi nùi gần cứng như gỗ. Mẹ bật cười: - Củi cỏ! Liệu anh còn nghĩ nổi thứ gì kế tiếp không? Hi vọng anh sẽ tìm ra lối thoát, Charles. Bố mỉm cười với mẹ: - Em sẽ được thoải mái. Bữa ăn tối có món khoai tây hầm nóng hổi và một khoanh bánh mì cho mỗi người, với muối. Đó là đợt bánh mì nướng sau cùng, nhưng còn có đậu trong bao và củ cải. Vẫn còn trà nóng với đường và Grace có một ly trà sữa pha nước sôi và không còn sữa nữa. Trong lúc mọi người đang ăn thì ngọn đèn bắt đầu lóe lên. Ngọn lửa như đang gom tận lực cố lôi mình lên để kéo những giọt dầu cuối cùng thấm vào bấc. Rồi nó hạ xuống rồi lại cố bùng lên một cách tuyệt vọng. Mẹ nghiêng người thổi tắt. Bóng tối ùa tới với tiếng rên rỉ và tiếng gào thét của bão. Mẹ khẽ nói: - Dù sao lửa cũng đang lụi dần, mình nên đi nằm thôi. Ngày Giáng sinh đã trôi qua. Laura nằm trên giường lắng nghe tiếng gió mỗi lúc một dữ dội hơn. m thanh giống như bầy sói đang hú quanh ngôi nhà nhỏ trên đồng cỏ thuở nào, khi cô còn nhỏ và bố đang bồng cô trên tay. Và có cả tiếng hú trầm hơn của con sói trâu cô và Carrie đã gặp bên hồ nước Bạc. Cô khởi sự run rẩy khi nghe tiếng gầm của con báo bên bờ lạch suối trong vùng đất của người da đỏ. Nhưng cô biết đó chỉ là tiếng gió. Lúc này cô lại nghe thấy tiếng hú xung trận của những người da đỏ đang nhảy các điệu vũ chiến đấu suốt nhiều đêm kinh hoàng bên bờ sông Verdigis. Những tiếng hú xung trận tan đi và cô nghe thấy những đám đông thì thầm rồi hét lên và kêu gào tháo chạy cố trốn khỏi những tiếng thét dữ dằn đang săn đuổi. Nhưng cô cũng biết cô chỉ đang nghe các âm thanh của gió bão. Cô kéo mền lên kín đầu, nhét chặt tai để ngăn chặn các tiếng động, nhưng cô vẫn nghe thấy. Chương 19: Vòng Xoay Vui Thú Cỏ khô bắt lửa mau, nóng hực cháy hết còn nhanh hơn sức bắt lửa. Mẹ đóng kín các ô thông gió của lò bếp và suốt ngày giữ cho lửa cháy. Suốt ngày, từ khi lo công việc thường lệ, bố kết thêm các nùi cỏ khô trong gian chái. Bão dữ dằn hơn và cơn lạnh càng thêm cay nghiệt. Bố thường tới lò bếp hơ ấm các bàn tay. Bố nói: - Mấy ngón tay tê liệt hết. Khó có thể bện tốt được. Laura năn nỉ: - Cho con làm phụ đi, bố! Bố không muốn cho cô làm. Bố nói với cô: - Bàn tay con quá nhỏ so với cộng việc này. Sau đó, bố chấp thuận: - Nhưng có ai phụ thì vẫn hơn một người làm cả hai việc giữ lửa cho lò bếp và kéo cỏ khô về. Cuối cùng, bố quyết định: - Tới đây. Bố sẽ chỉ cách cho con. Laura khoác chiếc áo choáng cũ của bố, trùm mũ, quấn khăn theo bố qua gian chái. Chái không đóng bít ở phía trong. Gió lùa tuyết qua tất cả các kẽ vách ván. Từng cụm tuyết nhỏ lăn lóc khắp nền và rải rác trên cỏ khô. Bố nhấc hai nắm cỏ lên vẩy cho tuyết văng ra hết. Bố nói với Laura: - Vẩy tuyết cho thật sạch. Nếu còn sót lại một ít thôi thì nó sẽ tan ra khi bện lại thành nùi và thấm ướt hết không thể bén lửa. Laura nhấc cỏ với tất cả sức của hai bàn tay và vẩy cho văng tuyết ra. Sau đó, cô quan sát bố và theo cách bố làm để bện kết cỏ lại. Trước hết, bố xoắn thành tao dài tối đa theo độ vươn của hai cánh tay. Rồi bốt chặt ở đoạn cuối của tao tay bên phải vào dưới cùi chỏ trái ép chặt vào sườn không cho nó bung ra. Lúc đó bàn tay phải nắm lấy đoạn cuối của tao bên tay trái. Bàn tay bố lướt xuống tối đa để nắm lấy cuối tao nằm dưới cùi chỏ trái. Bố lại xoắn tao cỏ. Lần này bố đặt đoạn cuối khác dưới cùi chỏ trái. Bố lặp lại những động tác này, thêm nữa, thêm nữa cho tới khi toàn thể tao của xoắn chắc lại và gồ lên ở chính giữa. Mỗi lần bố xoắn và đặt đoạn cuối dưới cánh tay trái, nùi cỏ quấn lại và cong lại xung quanh nó. Khi toàn thể chiền dài tối đa của nùi cỏ đã xoắn lại thật chặt, bố bẻ cong các đoạn cuối lại với nhau đút vào đường gồ lên cuối cùng. Bố liệng nùi cỏ khô bện cứng lên nền nhà và nhìn Laura. Cô đang thử đẩy những đoạn cuối tao như bố đã làm. Cỏ khô xoắn chặt đến nỗi cô không thể đẩy nổi. Bố nhắc: - Uốn cong tao cỏ một chút cho nó hơi lỏng ra. Rồi trượt các đoạn cuối vào giữa chỗ gồ lên và bỏ cho nó xoắn chặt trở lại. Cách làm là vậy. Nùi cỏ khô của Laura không đều và gồ ghề, không nhuyễn và chắc giống như bố làm. Nhưng bố nói lần đầu tiên mà làm được như thế là tốt rồi và cô có thể làm khá hơn vào lần sau. Cô làm sáu nùi cỏ và mỗi nùi đều khá hơn nùi trước cho tới nùi thứ sáu thì đã đúng cách. Nhưng lúc này cô lạnh tới mức các bàn tay không còn nhận ra cỏ khô. Bố nói với cô: - Đủ rồi! Gom lại vào đi sưởi ấm thôi! Hai bố con vác các nùi cỏ đã bện xong vào nhà bếp. Bàn chân Laura lạnh cóng giống như những bàn chân bằng gỗ. Hai bàn tay cô đỏ au và khi hơ trên hơi lò bếp nóng, cô thấy ngứa ngáy và buốt ở những chỗ bị lá cỏ khô cứa đứt. Nhưng cô đã phụ giúp bố. Những nùi cỏ khô mà cô bện đã đem lại cho bố thời giờ để hơ ấm trước khi phải quay về với cái lạnh để xoắn kết thêm nữa. Suốt ngày hôm đó và suốt ngày hôm sau, Laura giúp bố xoắn cỏ khô trong lúc mẹ giữ cho lửa cháy đều và Carrie phụ chăm sóc bé Grace cùng các công việc nhà. Để ăn bữa trưa, họ có món khoai tây nướng cùng với món củ cải nghiền với tiêu, muối và vào bữa tối, mẹ bằm nhỏ khoai tây hấp nóng trong lò, vì không còn dầu mỡ để chiên. Nhưng thức ăn nóng và ngon, lại còn khá nhiều nước trà với một ít đường. Đêm thứ hai, trong bữa ăn tối, mẹ nói: - Đây là ổ bánh mì cuối cùng. Mình thật sự cần một chút bột mì rồi, Charles. Bố nói: - Anh sẽ mua ngay khi bão ngớt. Không cần nghĩ đến giá cả nữa. Mary nói: - Bố hãy dùng số tiền dành cho con đi học, bố à! Ba mươi lăm đô-la hai mươi lăm xu sẽ mua được số bột mình cần. Mẹ nói: - Con đúng là đứa con ngoan của bố mẹ, Mary! Nhưng mẹ hy vọng là không phải tiêu vào món tiền dành cho con. Mẹ quay qua nói với bố: - Em cho rằng giá cả tùy thuộc vào việc thông đường xe lửa? Bố nói: - Đúng. Giá cả tùy thuộc vào chuyện đó. Mẹ đứng lên đặt một nùi cỏ bện khác vào lửa. Khi mẹ nhắc nắp lò, một tia lửa vàng hung đầy khói lóe lên đẩy lùi bóng tối một lát. Rồi bóng tối trở lại. Tiếng gào man dại của gió bão có vẻ dữ hơn và gần hơn trong bóng tối. Mẹ nêu ý kiến: - Chỉ cần một chút dầu đặc là em có thể tạo ra một loại đèn. Mình không thiếu ánh sáng vào lúc em còn là con gái trước khi được nghe nhắc tới thứ dầu lửa mới lạ này. Bố nói: - Vậy đó. Thời buổi này tiến bộ rất nhiều. Mọi thứ đều thay đổi hết sức nhanh. Đường sắt, điện báo, dầu lửa, lò than đều là những thứ rất hữu ích nhưng cũng là nguồn gốc của những xáo trộn. Người nông dân thì chỉ lệ thuộc vào chính mình. Buổi sáng gió vẫn gầm hú và phía ngoài ô cửa sổ đóng đầy sương giá, tuyết vẫn quay cuồng. Nhưng khoảng giữa trưa, một trận gió thổi mạnh thẳng tới từ hướng nam và mặt trời tỏa sáng. Trời rất lạnh, lạnh tới mức tuyết kêu lép nhép dưới bàn chân Laura trong gian chái. Bố băng qua phố đi mua bột mì. Bố đi một hồi rồi quay về với một túi hạt trên vai. Bố quăng thịch chiếc túi xuống nền nhà. Bố nói: - Đây là bột của em, Caroline, hoặc là một thứ để thay cho bột mì. Đó là bắp, chỗ bắp cuối cùng còn lại ở kho dự trữ của anh em nhà Wilder. Các cửa hàng đều không còn bột mì. Tay chủ ngân hàng Ruth đã mua bao cuối cùng vào sáng nay. Ông ta trả năm mươi đô-la tức một đô-la một bao bột. Mẹ hổn hển: - Chúa ơi, Charles! - Mình không thể mua được nhiều bột với cái giá đó nên anh nghĩ cứ để cho Ruth lấy cũng tốt. Lúc này mình có thể học cách nấu bắp. Liệu có cách nấu chín không? Mẹ nói: - Em không biết, Charles. Nhưng hình như mình không còn gì để ăn ngoài bắp. Bố nói: - Tội nghiệp là trong thị trấn không có một cái cối xay bắp. Mẹ đáp: - Em có một cái cối xay. Mẹ tới bên tủ chén và lấy ra cái xay cà phê. Bố nói: - Vậy là mình có rồi. Hãy coi nó xay ra sao. Mẹ đặt một chiếc hộp nhỏ lên trên bàn ăn, quay chiếc tay quay một hồi để trút hết những hạt cà phê cuối cùng ra khỏi ống nghiền. Rồi mẹ lôi chiếc ngăn nhỏ ra, trút sạch và chùi cẩn thận. Bố mở túi bắp. Chiếc máng sắt màu đen phía trên máy xay chứa được khoảng nửa cốc bắp. Mẹ đóng nắp lại. Rồi mẹ ngồi xuống, đặt hộp gỗ vuông giữa đầu gối để giữ chắc và bắt đầu guồng tay quay. Tiếng những ống nghiền vang. Mẹ nói: - Bắp cũng được nghiền giống như cà phê. Mẹ nhìn vào trong ngăn kéo. Những mảnh bắp vỡ vụn. Mẹ nói: - Có thể không giống như cà phê. Bắp đã không được rang trước và ẩm nước. Bố hỏi: - Em có thể làm bánh với thứ bắp này không? Mẹ đáp: - Dĩ nhiên là được. Nhưng mình phải nghiền liên tục nếu muốn có đủ để làm bánh cho một bữa ăn. Bố nói: - Anh phải đi kéo thêm cỏ khô về để nướng bánh. Bố lôi từ trong túi ra một chiếc hộp gỗ tròn, dẹt, đưa cho mẹ: - Đây là thứ em cần để làm ánh sáng. Mẹ hỏi: - Có nghe nói gì về xe lửa không, Charles? Bố nói: - Họ lại đang làm việc ở chỗ nghẽn tại Tracy. Tiếng lại chất đống lên tới đỉnh của những bờ tuyết mà người ta đã quăng ra hai bên vào dịp dọn đường vừa qua. Bố ra chuồng ngựa cột David vào cỗ xe trượt tuyết. Mẹ nhìn chiếc hộp gỗ tròn. Trong hộp đầu dầu bôi trơn trục xe màu vàng. Nhưng lúc đó không có thời giờ để nghĩ tới việc làm một ngọn đèn. Lửa đang lụn xuống và mẹ đặt nùi cỏ kết cuối cùng vào trong lò. Laura vội vã qua nhà chái để bện thêm cỏ khô. Vài phút sau, mẹ tới giúp cô. Mẹ nói: - Mary đang nghiền bắp. Mình cần bện thêm nhiều cỏ khô để giữ lửa cháy đều. Cần phải có lửa thật ấm khi bố về. Bố sẽ gần như đông cứng. Cuối buổi chiều bố mới về. Bố tháo xe gần cửa sau và đưa David vào chuồng. Rồi bố bốc cỏ khô vào gian chaí cho tới khi không còn một khoảng trống để lòn từ cửa này tới cửa kia. Xong việc, bố bước vào bên lò bếp. Bố lạnh tới nỗi ngồi một hồi lâu sau mới lên tiếng nổi. Bố xin lỗi: - Anh tiếc là về quá trễ, Caroline. Tuyết quá dầy. Anh phải đào khá lâu mới moi nổi cỏ khô ra khỏi đống tuyết. Mẹ trả lời: - Em nghĩ là mỗi ngày mình ăn trưa vào giờ này cũng hay. Để giữ cho luôn có lửa và ánh sáng thì ngày đã ngắn đến độ không còn đủ giờ để lo cho ba bữa ăn. Một bữa ăn trễ sẽ thay cho bữa ăn tối cũng tốt. Chiếc bánh màu nâu mà mẹ làm bằng bắp nghiền rất ngon. Nó có vị bùi và ngây có vẻ gần giống như mùi bơ. Bố nhận xét: - Anh thấy em lại làm bột chua trở lại. Mẹ đáp: - Đúng. Mình đâu cần phải có men rượu hoặc sữa mới làm được bánh mì ngon. Bố nói: - Ở chỗ nào có ý chí thì chỗ đó có lối thoát. Bố lấy thếm phần khoai tây, rắc muối lên, nói: - Không thể coi thường khoai tây và muối được. Muối làm nổi bật tất cả mùi vị của khoai tây vẫn thường bị bơ và nước xốt phủ lấp. Laura nói một cách châm chọc: - Vậy đừng ch đường vào trà, nghe bố. Như vậy bố sẽ có tất cả mùi vị của trà. Bố nheo mắt nhìn cô: - Một ly trà nóng ngon lành sẽ làm nổi bật mùi vị của đường, bình rượu nhỏ ạ. Rồi bố hỏi mẹ: - Em làm cách nào để đốt đèn với mỡ bôi trục xe? Mẹ nói: - Em chưa có thời giờ. Nhưng ngay sau khi mình ăn xong, em sẽ làm một cây đèn nút áo. Bố hỏi: - Đèn nút áo là cái gì? Mẹ nói: - Chờ coi. Khi bố làm các công việc thường lệ của buổi tối, mẹ bảo Carrie mang túi đựng vải vụn ra. Mẹ lấy một ít mỡ bôi trục xe tử trong hộp trét vào một chiếc ly cũ. Rồi mẹ cắt một mảnh vải nhỏ vuông vức. - Bây giờ kiếm cho mẹ một chiếc nút áo ở trong túi đựng nút áo, Carrie. Carrie mang túi nút áo từ phòng trước lạnh ngắt vào, hỏi: - Chọn thứ nút nào, mẹ? Mẹ nói: - Ồ, một chiếc nút nào đó trong chiếc áo choàng cũ của bố. Mẹ đặt chiếc nút vào chính giữa mảnh vải vuông. Mẹ kéo vải tụm lại che kín chiếc nút, dùng một sợi chỉ quấn chặt xung quanh và xoắn các góc vải lên thành một túm búp măng. Rồi mẹ chà một ít mỡ lên vải và đặt chiếc nút vào trong ly đựng mỡ. Mẹ nói: - Bây giờ thì mình chờ khi bố quay vào. Laura và Carrie hối hả rửa chén. Lúc bố quay vào thì trời đã tối. Mẹ nói: - Cho em xin một que diêm, Charles. Mẹ đốt trên đầu túm vải hình búp măng của chiếc đèn nút áo. Một tia lửa li ti rn rẩy và lớn dần. Nó cháy thật đều làm tan mỡ và hút lên qua miếng vải để giữ cho ngọn lửa tiếp tục sáng. Ngọn lửa như một ngọn nến trong bóng tối. Bố nói: - Thật kì diệu, Caroline. Chỉ là đốm sáng nhỏ nhưng đã đổi khác tất cả. Hơ bàn tay trên lò bếp, bố nhìn xuống đống cỏ khô nhỏ. Bố nói: - Nhưng anh không cần ánh sáng vẫn có thể bện cỏ khô thành nùi. Lúc này, mình cần phải có nhiều hơn. Chỗ có ở đây không đủ cho sáng mai. Bố bước ra đi bện cỏ và Laura cầm lấy hộp xay cà phê thay cho Mary. Quay chiếc tay quay nhỏ vòng vòng hoài khiến vai và tay tê nhức nên tất cả phải luân phiên nghiền bắp. Số bắp nghiền được lại quá ít nên tất cả phải giữ cho việc nghiền liên tục để có đủ bột làm bánh cho bữa ăn. Mẹ cởi giầy cho Grace, hơ ấm bàn chân cho bé bên cửa lò bếp trong lúc thay áo ngủ cho bé và choàng người bé bằng chiếc khăn san đang hơ ấm trên chiếc ghế cạnh lò bếp. Mẹ nói: - Tới thôi, Carrie, nếu con đã khỏe và đủ ấm rồi. Mẹ sẽ đặt Grace ngủ trong giường với con. Khi Grace và Carrie đã chui vào giường với chiếc khăn choàng ấm và chiếc bàn ủi nóng, mẹ xuống tầng dưới. Mẹ nói: - Bây giờ mẹ sẽ nghiền bắp, Laura. Con và Mary sẽ đi ngủ. Ngay khi bố quay vào, bố mẹ sẽ cũng đi ngủ để tiết kiệm cỏ khô vừa khó kiếm lại vừa khó bện. Chương 20: Bữa Tiệc Mừng Sinh Nhật Rồi tới một ngày nắng khi tuyết xốp lấn khắp đồng cỏ đông cứng màu trắng giống như những cụm khói. Bố lật đật trở về nhà. - Có một bầy sơn dương ở phía tây thị trấn. Bố nói trong lúc lấy cây súng xuống khỏi móc và nhét đạn đầy các túi. Laura quàng chiếc khăn quàng của mẹ quanh người chạy vào phòng trước lạnh ngắt. Cô cào một lỗ ngó qua lớp sương đọng trên cửa sổ và thấy một đám đông đàn ông đang tụ tập ngoài phố. Nhiều người đang ngồi trên lưng ngựa. Ông Foster và Almanzo Wilder cưỡi những con ngựa Morgan tuyệt đẹp. Cap Garland đang chạy tới nhập vào toán đàn ông đi bộ đang nghe bố nói. Tất cả đều mang súng. Ai nấy đều kích động nói năng sôi nổi và lớn tiếng. Mẹ gọi: - Trở lại chỗ ấm đi, Laura. Laura treo chiếc khăn choàng lên, nói: - Hãy nghĩ tới món thịt nai! Con hi vọng bố sẽ hạ được hai con sơn dương! Mẹ nói: - Mẹ rất mừng nếu có một ít thịt để ăn kèm với món bánh mì bắp nướng. Nhưng mình không nên đếm gà con trước khi trứng nở. Laura nói: - Được chứ, mẹ! Bố sẽ hạ một con sơn dương nếu có sơn dương ở đó. Carrie mang một đĩa bắp tới đổ đầy vào mánh cối xay cà phê mà Mary đang nghiền. Carrie nói: - Thịt nai nướng! Với nước xốt, nước xốt chấm khoai tây và bánh mì nướng. Laura nói: - Chờ một phút, Carrie! Nghe kìa! Mọi người đang đi đó! Gió đều đặn ập tới căn nhà và rít lên dọc các mái hiên, nhưng tất cả vẫn có thể nghe lờ mờ giọng nói cùng với tiếng chân người ngựa đang bước dọc phố Main Street. Tới cuối phố, mọi người dừng lại. Họ đã nhìn thấy ở xa chừng một dặm một bầy sơn dương màu xám đang lững thững đi về phía nam qua những gò tuyết và trong đám tuyết đang bay theo gió. Bố nói: - Hãy làm từ từ và nhẹ nhàng. Nhớ cho chúng tôi có đủ thời giờ bọc vòng chúng quay về phía bắc trước khi các bạn áp sát ở phía nam. Tiến vào chậm thôi và dồn chúng về phía tụi tui nhưng không làm chúng hoảng sợ trước khi chúng lọt vào tầm bắn. Không cần vội vã vì mình đang ở giữa ban ngày. Nếu làm hợp lí thì mỗi người sẽ phải có một con. Ông Foster nói: - Có lẽ tụi tui sẽ cưỡi ngựa lùa chúng từ phía bắc và các ông đi bộ chặn chúng từ phía nam. Ông Harthorn nói: - Không được, hãy làm như Ingalls. Tiến lên, anh em! Bố gọi: - Tản ra. Đi chậm và nhẹ nhàng. Đừng làm chúng sợ! Trên lưng những con ngựa Morgan, Almanzo và ông Foster vượt lên dẫn đầu. Gió lạnh khiến lũ ngựa háo hức bước tới. Tai chúng vểnh tới phía trước rồi bạt lại phía sau, đầu lắc lư, hàm thiếc sủng xiểng và chúng như cố tránh không đạp lên bóng của mình. Chúng vươn mũi dài về phía trước, lôi những chiếc hàm thiếc, vênh váo chạy nhanh hơn. Almanzo nói với ông Foster: - Giữ cho nó đi đều đặn. Đừng kéo cưa trên mấy chiếc hàm thiếc sẽ làm rách miệng đó. Ông Foster không biết cách cưỡi ngựa. Ông ta căng thẳng không khác gì Lady và khiến nó căng thẳng hơn. Ông ta nhún nhảy trên yên và không kềm chặt hai bên sườn ngựa. Almanzo thấy ân hận vì đã để cho ông ta cưỡi con Lady. Almanzo nhắc: - Coi chừng, Foster. Con ngựa cái đó sẽ phóng đi bây giờ. - Nó có vấn đề gì? Nó có vấn đề gì? Ông Foster nói lập cập trong gió lạnh và kêu lên: - Ô, chúng đang ở kia! Trong khoảng không thoáng đãng, lũ sơn dương hình như ở gần hơn. Phía bên kia, bầy thú đang lững thững, toán người đi bộ đang đi về hướng tây. Almanzo nhìn thấy ông Ingalls đi đầu. Chỉ trong vài phút nữa họ sẽ bao vây xong bầy thú. Cậu quay lại để nói với ông Foster và chỉ thấy chiếc yên trên lưng con Lady trống lốc. Cùng lúc một tiếng súng khiến cậu giật nẩy mình và cả hai con ngựa chồm lên phóng chạy. Almanzo ghì chặt dây cương kìm con Prince lại trong lúc Lady chạy vùn vụt. Ông Foster nhảy chồm chồm, huơ cây súng và hét. Phát điên vì căng thẳng do rớt xuống từ lưng Lady, ông ta đã thả dây cương và bắn về phía bầy sơn dương đang ở ngoài tầm đạn. Đuôi dựng đứng, đầu vươn dài, bầy sơn dương phóng chạy như bay tựa hồ gió đang lùa chúng đi trên những gò tuyết. Con ngựa nâu Lady chen vào chính giữa bầy thú vật màu xám và bị cuốn chạy theo chúng. Almanzo hét lớn dù cậu biết rằng tiếng hét của cậu bị gió đánh bạt: - Đừng bắn! Đừng bắn! Bầy sơn dương đang băng qua chỗ toán người đi bộ nhưng không ai nổ súng vì sợ bắn trúng con ngựa cái. Con ngựa Morgan nâu bóng loáng vươn đầu cao, bờm và đuôi tung bay chạy băng qua một gò đất trên đồng cỏ giữa đám mây xám sơn dương và biến mất. Chỉ một thoáng, con ngựa và bầy thú đã qua một khúc quanh màu trắng khác, trở nên nhỏ hơn. Chúng biến hiện rồi biến hiện trên đồng cỏ nuốt chửng chúng. Ông Harthorn nói: - Có vẻ cậu mất con ngựa đó rồi, Wilder! Tồi tệ quá! Những người cưỡi ngựa khác đã xuất hiện. Tất cả ngồi im trên lưng ngựa nhìn đồng cỏ xa tắp. Bầy sơn dương và con Lady chỉ là vệt tối nhỏ hiện ra thêm một lần nữa như một vết nhòe xám đang bay cực nhanh và biến hẳn. Bố cùng những người đi bộ đi tới. Cap Garland nói: - Đen đủi quá, Wilder! Hãy nghĩ coi chúng tôi cũng có thể có một phát đạn rủi ro. Gherald Fuller nói: - Anh là một thợ săn thông minh trước Chúa đó, Foster. Cap Garland nói: - Ông ấy chỉ là người duy nhất bắn một phát súng. Ôi, cái phát súng tai hại! Ông Foster nói: - Tôi rất tiếc. Chắc tôi đã làm con ngựa chạy mất. Tôi quá căng thẳng, không kịp suy nghĩ gì. Tôi chỉ tính giữ con ngựa dừng lại. Từ trước, tôi chưa hề thấy một con sơn dương. Gherald Fuller nói: - Lần sau chờ cho tới khi chúng đã đứng trong hàng rồi thì anh cố bắn lấy một con. Không ai nói thêm một điều gì. Almanzo ngồi trên yên trong khi Prince giật chiếc hàm thiếc, cố bứt ra để phóng theo bạn mình. Kinh hoàng và chạy theo bầy sơn dương như Lady thì mối nguy đã rõ là nó có thể chạy đứt hơi mà chết. Nhưng cố rượt theo nó thì không phải là điều tốt vì chỉ xua bầy sơn dương và khiến nó phải chạy xa hơn. Ước lượng theo mốc nhìn từ xa thì bầy sơn dương đã chạy năm hoặc sáu dặm về phía tây khi chúng quẹo lên phía bắc. Bố nói: - Chúng đang chuyển về phía hồ Spirit. Chúng sẽ ăn trong các bụi cây ở đó rồi xếp hàng đi vào những vách bờ sông. Mình sẽ khó thấy chúng thêm một lần nữa. Cap Garland hỏi: - Con ngựa của Wilder sẽ ra sao, ông Ingalls? Bố nhìn Almanzo rồi lại nhìn về phía tây bắc. Ở đó không có những cụm mây nhưng gió thổi mạnh và rét buốt. Bố nói: - Nó là con ngựa duy nhất ở vùng này chạy đua nổi với sơn dương, không kể con bạn nó ở đây, và cậu sẽ giết nó nếu cố đuổi theo bắt nó lại. Từ đây tới hồ Sprit cũng phải mất một ngày đường và không ai biết lúc nào bão tuyết sẽ ập xuống. Tôi không dám mạo hiểm như thế trong mùa đông này. Almanzo nói: - Tôi cũng không muốn thế. Nhưng tôi sẽ chỉ chạy vòng quanh một vòng và bọc phía bắc quay về thị trấn. Có lẽ tôi sẽ nhìn thấy nó. Nếu không, có lẽ nó sẽ tự tìm được đường về. Xa quá! Hẹn gặp ông trong thị trấn. Cậu cho Prince phóng nước kiệu đại về phía bắc trong lúc những người khác vác súng lên vai đi thẳng về thị trấn. Cậu cúi thấp đầu tránh gió nhưng trên mỗi gò đất hay mỗi đống tuyết cao, cậu đều cố nhìn khắp phía trước. Không có gì ngoài những dốc tuyết thoai thoải và đám bụi tuyết do gió lùa bốc lên. Mất con Lady khiến cậu đau đớn nhưng cậu không muốn liều mạng vì một con ngựa. Cặp ngựa nổi tiếng sẽ không còn nữa khi thiếu nó. Cậu sẽ không tìm nổi một con ngựa nào khác hoàn hảo như nó để ghép đôi với Prince. Cậu nghĩ cậu thật điên rồ khi cho một người lạ mượn con ngựa. Prince phóng nhẹ nhàng, vươn cao đầu trong gió leo lên những bờ dốc rồi phóng xuống. Almanzo không muốn đi xa thị trấn nhưng nền trời phía tây bắc vẫn quang đãng và luôn có một bờ dốc khác ở phía trước mà từ đó cậu có thể nhìn xa hơn về phía Bắc. Cậu nghĩ Lady có thể mệt và tụt lại phía sau bầy sơn dương. Nó có thể lang thang và đi lạc trở thành ngựa hoang. Nó cũng có thể được nhìn thấy từ trên mỏm đất cao kế cận. Khi cậu tới mỏm đất đó thì phía bên kia chỉ là một vùng trắng toát. Prince nhẹ nhàng chạy xuống sườn dốc và một mỏm đất khác hiện ra trước mắt. Cậu nhìn lại phía sau và không còn thấy thị trấn. Những đám mặt tiền nhà chen chúc với những làm khói mỏng từ các ống khói đều biến mất. Khắp nơi dưới bầu trời không có gì khác ngoài một vùng màu trắng với tuyết bay trong gió và hơi lạnh. Cậu không thấy sợ. Cậu biết rõ thị trấn ở đâu và khi nào còn mặt trời hoặc mặt trăng hoặc các ngôi sao trên nền trời lạnh thì cậu không thể đi lạc. Nhưng cậu cảm thấy gió thổi lạnh hơn. Cậu thấy mình là sinh vật duy nhất ở trên mặt đất rét buốt dưới bầu trời rét buốt. Cậu và con ngựa của cậu bơ vơ trong cái lạnh mênh mông. - Tới thôi, Prince! Cậu hô nhưng âm thanh tan trong tiếng gió không ngừng ào ạt thổi tới. Lúc đó cậu sợ là mình sẽ sợ hãi. Cậu tự nhủ: - Có gì đáng sợ đâu. Cậu nghĩ: - Mình sẽ không quay lại lúc này. Mình sẽ quay lại từ mỏm đất kế cận kia. Và cậu hơi gò cương giữ cho Prince theo nhịp phóng nước đại. Từ trên mỏm đất cao đó cậu thấy một dải mây trên đường chân trời phía tây bắc. Rồi toàn vùng đồng cỏ mênh mông thình lình như biến thành một cái bẫy biết cách chụp bắt cậu để giữ lại. Nhưng cậu cũng nhìn thấy Lady. Ở thật xa và nhỏ trên cánh đồng tuyết đang cuốn lăn, con ngựa màu nâu đang đứng ngó về phía đông. Almanzo xé toạc găng tay, đưa hai ngón tay lên miệng huýt gió lanh lảnh như cậu vẫn thường gọi Lady qua những bãi cỏ trong vùng Minnesota của ba khi nó còn là một con ngựa con. Nhưng gió trên đồng cỏ ở đây thổi bạt âm thanh bật khỏi môi cậu và đưa đi mất hút. Gió cũng thổi bật tiếng hí dài thoát ra từ cần cổ vươn cao của Prince. Lady vẫn đứng im lìm nhìn về phía khác. Rồi nó quay về phía nam và nhìn thấy cả hai. Gió đưa tiếng hí của nó đi xa, nhòa nhạt. Cổ nó uốn cong, đuôi dựng lên, nó phóng nước đại lao tới. Almanzo đợi cho tới lúc nó vượt qua một gò đất gần hơn, lại lên tiếng gọi nó. Rồi cậu quay ngựa đi về phía thị trấn. Dải mây thấp rơi xuống thấp hơn đường chân trời như Lady tiếp tục hiện ra phía sau cậu. Trong chuồng ngựa ở phía sau kho thực phẩm, cậu đẩy Prince vào trong ngăn chuồng của nó và lau khô mình cho nó. Cậu đổ thức ăn đầy máng và mang lại một xô nước cho Prince uống một ít. Ngoài cửa chuồng có tiếng khua lạch cạch và cậu mở ra cho Lady bước vào. Nó trắng toát như được phủ bằng một lớp bọt xà phòng. Rồi với chiếc bàn chải, cậu chà lớp bọt hai bên sườn đang hổn hển của nó và phủ cho nó bằng một tấm mền. Cậu vắt nước từ một miếng vải ướt cho vào miệng cho nó thấm lưỡi. Cậu chà và lau khô chân cho nó ở những chỗ còn tươm mồ hôi. Almanzo nói với nó trong lúc cậu làm những việc đó: - Tốt, Lady, vậy là mi có thể chạy vượt một con sơn dương. Mi đã làm một chuyện điên rồ, phải không? Bằng mọi cách đây là lần cuối ta để cho một gã điên cưỡi mi. Bây giờ hãy nghỉ cho ấm. Lát nữa mi sẽ có nước và thức ăn. Bố lặng lẽ bước vào nhà bếp và không nói một lời, bố treo cây súng lên móc. Không ai nói gì vì không cần phải nói. Carrie thở dài. Thế là không có thịt nai, không có nước sốt ăn với bánh mì nướng. Bố ngồi xuống bên lò bếp, đưa hai tay lên hơ ấm. Một lát sau, bố nói: - Foster điên đầu vì quá căng thẳng. Ông ấy ngã ngựa và nổ súng trước khi tới gần tầm để bắn. Chẳng còn ai có cơ may nữa. Tất cả bầy sơn dương cong đuôi chạy về phía bắc. Mẹ đặt một nùi cỏ bện vào trong lò bếp. Mẹ nói: - Vào mùa này trong năm, thịt sơn dương cũng gầy nhom. Laura biết rằng đám sơn dương phải đi trong tuyết dày để tới kiếm thức ăn nơi các đồng cỏ khô. Trong bão tuyết, chúng không thể làm như thế và lúc này với tuyết đóng dày, chúng có thể đang chết đói. Đúng thực là thịt sơn dương lúc này gầy nhom. Nhưng nó vẫn là thịt. Tất cả đều quá mệt vì không có gì khác để ăn ngoài khoai tây và bánh mì nướng. - Con ngựa của cậu bé nhà Wilder cũng chạy mất. Bố nói và kể cho tất cả nghe chuyện con ngựa chạy theo bầy sơn dương ra sao. Câu chuyện hấp dẫn Carrie và Grace bằng hình ảnh một con ngựa tuyệt đẹp thả sức chạy theo thật xa với bầy sơn dương hoang dã. Grace mở tròn mắt hỏi: - Có khi nào con ngựa không quay về không, bố? Bố nói: - Bố không biết. Almanzo Wilder cưỡi ngựa đi theo hướng đó và bố cũng biết là liệu cậu ta có về hay không. Caroline, trong lúc em lo nấu ăn, anh ghé lại kho thực phẩm để hỏi coi. Kho thực phẩm trơ trọi và trống lốc, nhưng từ phòng sau, Royal đã nhìn thấy và nói một cách thân mật: - Vào đi, ông Ingalls! Ông tới đúng lúc để nếm thử món bánh kép và thịt thăn muối. Bố nói: - Tôi không biết bây giờ là giờ ăn trưa của anh. Bố ngắm đĩa thịt đang được hơ nóng trên lò bếp. Trên chiếc đĩa khác có ba chồng cao bánh kép và Royal còn đang nướng thêm. Trên bàn còn có mật mía và một bình cà phê đang sôi. Royal nói: - Tụi tôi ăn vào bất kì lúc nào thấy đói. Đó là cái lợi của cuộc sống độc thân. Ở đâu không có các bà nông dân thì ở đó không có giờ ăn quy định. Bố nói: - Các anh may mắn là đã mang theo nhiều thực phẩm. Royal đáp: - Vâng, bằng mọi cách, tụi tôi đã chế ra cả xe thức ăn và tôi nghĩ mang theo nguyên liệu cũng hay. Tôi tính sẽ bán một xe trước khi xe lửa thông đường. Bố đồng ý: - Tôi mong là anh làm được. Bố nhìn quanh căn phòng gọn gàng, đảo mặt dọc những bức vách treo quần áo, yên ngựa và nhận ra nhiều khoảng trống ở bức vách cuối phòng. - Em anh chưa về sao? Royal đáp: - Nó vừa về tới chuồng ngựa. Rồi anh ta than: - Coi kìa! Họ nhìn thấy Lady không mang yên bước nhanh qua cửa sổ về phía chuồng ngựa với lớp bọt trắng trên người chảy ròng ròng. Trong lúc họ đang nói về cuộc đi săn và phát sứng điên cuồng của ông Foster thì Almanzo bước vào. Cậu ném phịch chiếc yên vào một góc để rũ sạch trước khi treo lên và sưởi ấm bên lò bếp. Rồi cậu và Royal nài nỉ bố ngồi vào bàn ăn và cùng ăn với họ. Almanzo nói: - Royal nướng bánh kép không ngon bằng tôi. Nhưng không ai có thể đánh bại nổi món thịt thăn ướp muôi này. Nó đã được xông bằng khói hồ đào và lám bằng thịt heo thiến được vỗ béo từ trại ở Minnesota. Royal nói: - Ngồi lại đi, ông Ingalls và ăn tự nhiên. Còn cả kho thức ăn thừa mứa. Thế là bố làm theo. Chương 21: Những Ngày Bốc Đồng Sáng hôm sau trời vẫn nắng và gió êm. Trời tiết có vẻ ấm hơn và nắng gắt. - Lại một ngày trời đẹp. Mẹ nói trong lúc ăn sáng, nhưng bố lắc đầu. Bố nói: - Nắng gắt quá. Anh sẽ đi kéo cỏ khô về ngay để nắm chắc là mình có đủ số cỏ cần nếu một cơn bão khác kéo tới. Và bố lật đật bước ra. Mẹ và Laura cùng Carrie có vẻ lo ngại, thỉnh thoảng lại nhìn qua lỗ hổng trên lớp sương đọng ở cửa ra ngoài ngó về vùng trời phía tây bắc. Mặt trời vẫn chiếu sáng khi bố trở về yên ổn. Sau bữa ăn thứ hai với khoai tây, bánh mì nướng, bố ra phố ra tin tức. Chỉ một lát sau bố đã quay về huýt gió vui vẻ bước qua phòng trước, ào vào bếp nói lớn: - Coi bố mang thứ gì về này! Grace và Carrie chạy tới hửi cái gói bố cầm về. - Nó giống như… Nó giống như… Carrie nói nhưng không dám nói hết vì sợ bị lầm. Bố nói: - Thịt bò đó! Bốn pao thịt bò! Để ăn với khoai tây và bánh mì của mình. Bố đưa cái gói cho mẹ. Mẹ hỏi giống như không tin là thực: - Charles! Bằng cách nào mà anh có thịt bò? Bố trả lời: - Foster hạ thịt mấy con bò đực của ông ấy. Anh đến đó vừa đúng lúc. Miếng cuối cùng xương xẩu không ngon lắm bán với giá hai mươi lăm xu một pao. Anh mua bốn pao và nó đây. Bây giờ mình sẽ sống như những ông hoàng. Mẹ mở nhanh lớp giấy bọc ngoài miếng thịt. Mẹ nói: - Em sẽ thui kĩ lại rồi om. Nhìn miếng thịt, Laura ứa nước miếng. Cô nuốt xuống và hỏi: - Mẹ, mẹ có thể làm nước xốt với nước và bột nướng không? Mẹ mỉm cười: - Có thể. Mình sẽ kéo dài một tuần, ít nhất để có một chút mùi vị và thời gian đó, chắc chắn xe lửa phải đến rồi, đúng không? Mẹ nhìn bố mỉm cười. Rồi mẹ ngưng cười và hỏi nhanh: - Có gì vậy, Charles? Bố đáp một cách miễn cưỡng: - Ừ, anh ghét nói ra với em. Bố hắng giọng: - Xe lửa không tới. Tất cả đều nhìn bố chăm chăm. Bố nói tiếp: - Xe lửa ngưng chạy cho tới mùa xuân. Mẹ đưa tay lên trời và buông người xuống ghế. - Sao lại có thể như thế, Charles? Không thể được. Không thể như thế được. Cho tới mùa xuân? Bây giờ mới chỉ là ngày đầu tháng giêng. Bố nói: - Họ không thể khai thông được. Họ không thể dọn xong đường sớm hơn một cơn bão ập đến và tuyết lại đổ xuống. Giữa ở đây và Tracy đã có hai đoàn xe lửa bị ngập tuyết giữa các con đường nghẽn. Mỗi lần giải tỏa chỗ bị nghẽn, người ta quăng tuyết sang hai bên và tất cả các chỗ bị nghẽn vào lúc này đều chất đầy tuyết cao tới đỉnh các bờ tuyết. Và tại Tracy, viên giám thị đã hết kiên nhẫn rồi. - Kiên nhẫn hả? Mẹ kêu lên. - Kiên nhẫn! Kiên nhẫn của ông ta chính là làm cái điều mà mình đang muốn biết! Ông ta phải hiểu rằng những người đang sống ở đây đã hết thức ăn rồi. Ông ta nghĩ mình sẽ sống như thế nào cho tới mùa xuân? Việc của ông ta không phải là kiên nhẫn. Việc của ông ta là làm cho xe lửa chạy. Bố nói: - Này, Caroline. Bố đặt một bàn tay lên vai mẹ. Mẹ ngưng đung đưa chiếc ghế và cuộn mấy bàn tay vào trong tấm tạp dề. Bố nói với mẹ: - Xe lửa đã ngưng chạy hơn một tháng và mình đang kéo dài một cách ổn thỏa mà. Mẹ nói: - Dạ. Bố khuyến khích mẹ: - Chỉ còn tháng này, rồi tháng hai là một tháng ngắn và tháng ba sẽ là mùa xuân. Laura nhìn bốn pao thịt bò. Cô nghĩ đến số khoai tây còn lại và cô ngắm túi bắp đã vơi đứng ở trong góc. Cô hạ thấp giọng hỏi: - Bắp còn nhiều không, bố? Bố nói một cách kì lạ: - Bố không biết, Laura. Nhưng đừng lo. Bố đã mang về một khạp đầy và thế là hết xẩy rồi. Laura không thể không hỏi: - Bố, bố không thể bắn một con thỏ sao? Bố ngồi xuống trước cửa lò bếp, đặt Grace ngồi trên đầu gối. Bố nói: - Tới đây, bình rượu nhỏ và con nữa, Carrie. Bố sẽ kể cho các con một câu chuyện. Bố đã không trả lời câu hỏi của Laura. Cô biết câu trả lời là gì. Không còn một con thỏ nào ở vùng này. Chắc chúng đã rời về miền nam khi lũ chim bay đi. Bố không bao giờ mang súng theo khi kéo cỏ và nếu chỉ cần nhìn thấy không hơn một con thỏ bố đã mang súng theo rồi. Bố vòng tay quanh người cô khi cô đứng vào Carrie đang ngồi trên đầu gối bố. Grace nép sát vào cánh tay kia của bố, cười khúc khích khi bộ râu màu hung của bố cọ trên mặt bé giống như nó vẫn cọ trên mặt Laura lúc cô còn bé. Tất cả đều ấm áp trong vòng tay của bố với hơi ấm từ trong lò bếp tỏa ra một cách dễ chịu. Bố nói: - Bây giờ, chú ý đây, Grace, Carrie và Laura. Cả con nữa, Mary và mẹ. Đây là một câu chuyện thú vị. Và bố kể cho tất cả nghe câu chuyện về viên tổng giám thị. Viên tổng giám thị là một người miền đông. Ông ta ngồi trong phòng làm việc ở miền đông và ra lệnh gửi xe lửa tới để tiếp tục chạy. Nhưng các chuyên viên báo cáo rằng bão và tuyết đã chặn các đoàn xe lại. Viên giám thị nói: - Bão tuyết không chặn được chúng tôi cho xe chạy khắp miền đông. Hãy giữ cho xe lửa chạy tới đoạn đường cuối cùng ở miền tây. Đó là lệnh! Nhưng tại miền tây, xe lửa vẫn bị chặn đứng. Ông ta được báo cáo là các nơi bị nghẽn đang chất đầy tuyết. Ông ta hạ lệnh: - Dọn sạch ngay các chỗ nghẽn. Tăng thêm người. Giữ cho xe lửa tiếp tục chạy. Bất kể mọi tốn kém! Người ta thêm nhân công. Chi phí cực lớn. Nhưng xe lửa vẫn không chạy nổi. Lúc đó viên giám thị nói: - Tôi sẽ tới đó và tự mình thông đường. Điều mà những người ở đó cần là phải có một ai đó chỉ cho thấy cách chúng ta đã làm ở miền đông. Thế là ông ta xuất hiện ở Tracy trong một chuyến đặc biệt và tới tại chỗ trong y phục của người đô thị với găng tay, áo khoác lông thú. Và đây là điều ông ta nói: - Tôi tới đây để lo nhiệm vụ của mình. Tôi sẽ chỉ cho các anh cách giữ cho xe lửa tiếp tục chạy. Dù thế, ông ta không phải là người thuôc hạng dở. Ông ta nhảy lên xe sửa chữa tới đoạn nghẽn lớn ở phía tây Tracy và lao vào trong tuyết cùng với đoàn sửa chữa, chỉ huy giống như bất kì một đốc công lành nghề nào. Ông ta dời hết tuyết khỏi đọan đường nghẽn nhanh gấp đôi thời gian và chỉ trong hai ngày đã dọn sạch đoạn đường. Ông ta nói: - Điều đó cho các anh thấy cách làm như thế nào. Bây giờ thì đường đã thông cho xe lửa chạy vào ngày mai và tiếp tục chạy luôn. Nhưng đêm đó, một trận bão tuyết trút xuống Tracy. Chuyến xe đặc biệt của ông ta không thể chạy trong cơn bão tuyết đó và khi bão ngưng, đoạn đường nghẽn lại đóng dầy tuyết lên tới đỉnh một bờ tuyết mà ông ta cho quăng sang hai bên. Ông ta lại có mặt ngay tại đó cùng mọi người và họ lại cùng thông đường. Công việc đó kéo dài hơn vì họ phải chuyển một lượng tuyết lớn hơn. Nhưng ông ta đưa chuyến xe sửa chữa thông đường qua đúng lúc tuyết trút xuống do một cơn bão nối sau. Phải nhìn nhận viên giám thị là người quyết liệt kiên trì. Ông ta lại giải quyết đoạn đường nghẽn, có khai thông và thế là ông ta phải ở lại Tracy qua một cơn bão khác. Lần này ông ta huy động hai toán công nhân mới cùng hai đầu máy và một xe xúc tuyết. Ông ta đáp đầu máy thứ nhất tới đoạn đường nghẽn ở Tracy. Chỗ nghẽn chất cao như một quả đồi. Giữa các bờ tuyết mà ông ta đã cho quăng lên, bão tuyết đã đổ xuống và tuyết đông cứng lại dầy tới một trăm bộ và kéo dài khoảng một phần tư dặm. Ông ta nói lớn: - Ổn thôi, các anh! Chúng ta sẽ dùng cuốc và xẻng cho tới khi có thể cho xe xúc tuyết chạy qua. Ông ta giữ mọi người làm việc, nhanh gấp đôi, trả lương gấp đôi trong hai ngày. Trên đường sắt vẫn còn im lìm khoảng mười hai bộ tuyết nhưng ông ta nhận ra một điều. Ông ta biết rằng ông ta may mắn có được ba ngày quang đãng giữa các trận bão tuyết. Thế là sáng thứ ba, ông ta cho máy xúc tuyết chạy qua. Ông ta ra lệnh cho hai chuyên viên điều khiển đầu máy. Họ ghép hai đầu máy lại với xe xúc tuyết ở phía trước và cho xe sửa chữa chạy qua đoạn đường nghẽn. Hai kíp thợ nhào vào và chỉ vỏn vẹn hai giờ làm việc cực nhanh, họ dồn thêm được hai bộ tuyết. Lúc đó, viên giám thị cho ngưng làm. Ông ta lệnh cho các chuyên viên: - Bây giờ các anh cho đầu máy xe lui xa về phía sau hai dặm và từ đó các anh phóng hết sức máy tới phía trước. Với hai dặm lấy đà tốc độ, các anh phải lao vào đoạn đường nghẽn với tốc độ mười hai cây số giờ và sẽ dọn nó sách bong. Các chuyên viên leo vào trong đầu máy. Rồi người ở đầu máy phía trước lại bước xuống. Đám công nhân đang đứng xung quanh trong tuyết vừa dậm chân vừa vỗ tay để làm nóng. Họ tụ lại để nghe những điều mà người chuyên viên đi thẳng tới gặp viên giám thị và nói thẳng thừng: - Tôi nghỉ việc. Tôi đã lái xe lửa mười lăm năm và không một ai chê tôi là một kẻ hèn nhát. Nhưng tôi không chấp hành những mệnh lệnh đưa mình vào chỗ tự sát. Ông muốn dùng một đầu máy để húc bật một khối tuyết đông cứng dài mười bộ với tốc độ bốn mươi dặm một giờ, ông giám thị. Xin ông kiếm người khác lái. Ông nghỉ ngay lúc này và tại đây. Bố ngưng lại và Carrie nói: - Con không trách ông ấy. Laura nói: - Chị thì khác. Ông ta không nên nghỉ việc. Ông ta cần tính toán lấy một cách nào khác để vượt qua nếu ôn ta thấy cách kia ông thể làm được. Chị nghĩ ông ta sợ. Mary nói: - Ngay cả khi ông ta sợ, ông ta phải làm như ông ta được nhắc. Viên giám thị phải biết rõ điều gì hoặc ông ta cần là người giám thị thế nào? Laura phản đối: - Ông ta không hiểu biết tốt hơn. Grace nài nỉ: - Kể tiếp đi, bố, kể tiếp đi! Mẹ nhắc: - Im đi, Grace! Grace nói: - Con nài nỉ mà! Kể tiếp đi bố! Chuyện gì đã xảy ra sau đó? Mary hỏi: - Bố, lúc đó ông giám thị làm gì? Laura nói: - Bắn ông ta, phải không bố? Bố kể tiếp: - Ông giám thị ngắm người chuyên viên kia rồi ngắm những người đang xúm quanh nghe ngóng và ông ta nói “Tôi sẽ lái đầu máy xe. Tôi không ra lệnh cho bất cứ ai làm điều gì mà bản thân tôi không làm được. Tôi sẽ điều khiển nó.” Ông ấy leo lên đầu máy xe, cho nó lùi lại và hai chiếc đầu máy xe chạy lui trên đường sắt. Ông giám thị giữ cho các đầu máy xe lui khoảng hai dặm cho tới khi chúng ở thật xa trên đường sắt và giống như chỉ còn hơn một ngón tay cái. Rồi ông ấy kéo còi ra hiệu cho người chuyên viên ở phía sau và cả hai đều mở máy. Những đầu máy đó lao tới từ hai dặm đường thẳng mở hết ga để tăng tốc tối đa từng giây một. Một luồng khói than đen kịt cuốn dài về phía sau, những vệt đen dài pha lóe sáng lớn hơn trong ánh nắng, những vành bánh quay mù mịt rầm rập phóng tới với tốc độ năm mươi cây số giờ đâm thẳng vào đống tuyết đóng cứng. Carrie nín thở hỏi: - Điều gì… điều gì xảy ra… lúc đó, bố? - Lúc đó cả một suối tuyết bay lên vỡ tung thành nhiều mảnh văng ra tới bốn mươi thước khắp xung quanh. Khoảng một phút hoặc hai phút, không ai thấy khai thông được cái gì và không ai biết điều gì đã xảy ra. Nhưng khi mọi người chạy tới thì chiếc đầu máy thứ hai bị vùi kín một nửa trong tuyết và người chuyên viên đang trườn ra từ phía hông. Ông kinh hoàng tột độ nhưng không bị chấn thương nặng lắm. Tất cả hỏi người chuyên viên “Ông giám thị đâu? Ông ấy ra sao rồi?” Tất cả điều người chuyên viên nói được chỉ là “Tôi biết thế quái nào được? Tất cả điều tôi biết là tôi không chết”. Ông ta nói thêm “Tôi không bao giờ làm lại việc này nữa. Dù để lấy một triệu đồng đô-la bằng vàng”. Người đốc công hô mọi người xúm lại với cuốc, xẻng. Họ đào lớp tuyết xốp bao quanh chiếc đầu máy xe thứ hai và xúc đi. Người chuyên viên cho nó chạy lui lại trên đường sắt trong lúc tất cả điên cuồng bới tuyết tiến về phía trước để tới chiếc đầu máy thứ nhất và ông giám thị. Qua một hồi cực nhọc họ đối mặt với khối băng cứng ngắt. Chiếc đầu máy thứ nhất chạy hết tốc độ lao thẳng vào đám tuyết đó lấn sâu vào phía trong. Hơi nước và sức nóng của nó làm tan lớp tuyết xung quanh và lớp tuyết này chảy xuống đông cứng lại. Thế là ông giám thị nổi điên hơn một con ong bắp cày bị nhốt trong một chiếc đầu máy xe bị đông cứng giữa một khối băng! Grace, Carrie và Laura đều bật cười lớn. Ngay cả mẹ cũng mỉm cười. Mary nói: - Tội nghiệp ông ấy. Chị không nghĩ đây là một câu chuyện buồn cười. Laura nói: - Em lại thấy buồn cười. Lúc này em đoán là lúc này ông ấy không còn nghĩ rằng mình biết nhiều nữa. Mẹ nói: - Trèo cao thì ngã đau. Carrie nài nỉ: - Kể tiếp đi, bố! Người ta có đào lôi được ông ấy ra không? - Có, họ đào xuống, phá băng đục một lỗ xuyên tới đầu máy xe và kéo ông ấy ra. Ông ấy không bị thương và đầu máy xe cũng không bị hư hao gì. Chỉ có xe xúc tuyết là lãnh đủ. Ông giám thị leo ra khỏi đoạn đường nghẽn đi bộ tới chỗ người chuyên viên thứ hai và nói: - Anh có thể lấy đầu máy ra chứ? Người chuyên viên nói ông ta nghĩ là có thể được. Ông giám thị nói: - Được, làm đi. Ông ấy đứng ngắm cho tới khi chiếc đầu máy được đưa ra. Lúc đó, ông ấy nói với tất cả mọi người: - Tập hợp lại, mình sẽ trở về Tracy. Phân xưởng đóng cửa cho tới mùa xuân. Bố nói: - Các con thấy đó. Ông ấy không còn đủ kiên nhẫn do sự rắc rối như thế. Mẹ nói: - Thiếu tính bền bỉ. Bố đồng ý: - Thiếu bền bỉ. Chỉ vì ông ấy không thể thông đường bằng xẻng và xe xúc tuyết nên ông ấy cho rằng không thể thông đường nổi và ngưng cố gắng. Đành thôi, ông ấy là một người miền đông. Cần có nhẫn nại và kiên trì để vượt qua những chuyện xảy ra ở miền tây này. Laura hỏi: - Ông ấy ngưng việc khi nào, bố? Bố đáp: - Sáng nay. Tin tức truyền tới bằng điện báo và nhân viên điện đài ở Tracy đã kể cho Woodworth chuyện xảy ra thế nào. Thôi, bố phải đi lo công việc thường lệ trước khi tối quá. Cánh tay bố xiết lại, ôm ghì Laura một chút trước khi bố đặt Carrie và Grace xuống khỏi đầu gối. Laura biết bố muốn nói gì. Lúc này cô đã đủ lớn để đứng bên cạnh bố mẹ trong gian đoạn khó khăn. Cô cần không lo lắng và phải vui vẻ giữ vững tinh thần cho tất cả. Thế là mẹ khẽ hát ra bé Grace trong lúc thay quần áo cho bố đi ngủ, Laura liền hát nối theo: - Ôi, đất hứa Canaan, Canaan ngời sáng Con đã sẵn sàng….. Cô nói thật nhanh: - Hát, Carrie! Thế là Carrie bắt đầu hát rồi giọng nữ cao ngọt ngào của Mary nhập cuộc: Đứng chênh vênh giữa bão bùng đất lạ Mắt mỏi mòn nhìn về hướng xa xăm Bờ đất Canaan đang chan hòa ánh sáng Nhắc nhở bao gắn bó ân cần Ôi, đất hứa Canaan, Canaan ngời sáng Con đã sẵn sàng đi tới Canaan. Nắng chiều đỏ rực nhuốm trên những ô kính cửa sổ đóng sương giá. Một làn sáng màu hồng nhạt hắt vào nhà bếp, nơi mọi người đang ngồi hơ ấm bên lò bếp. Nhưng Laura nghĩ đã có một chuyển đổi trong tiếng gió với một âm thanh man dại ki nh hoàng. Sau khi mẹ xem xét coi tất cả đã nằm gọn trên giường chưa và bước xuống tầng dưới, tất cả đều lắng nghe và cảm thấy bão tuyết đang ào tới căn nhà. Dồn sát lại bên nhau và run rẩy dưới những lớp mền, các cô tiếp tục lắng nghe. Laura nghĩ tới những căn nàh lạc lõng, trơ vơ đứng đơn độc, tối tăm và chúi xuống trong cơn cuồng nộ của bão táp. Thị trấn có rất nhiều nhà nhưng ngay cả mọi tia sáng từ nhà này cũng không thể soi thấu tới nhà khác. Và thị trấn cũng hoàn toàn đơn độc trên đồng cỏ vô tận đông cứng dưới những lớp tuyết chồng chất và tiếng gió gào hú cùng với các cuộn bão quay cuồng dập tắt các vì sao và mặt trời. Laura cố nghĩ tới hương vị đậm đà của món thịt bò trong bữa ăn trưa mai, nhưng cô không thể nào quên rằng vào lúc này, mọi căn nhà và thị trấn đều hoàn toàn đơn độc cho tới mùa xuân. Còn nửa khạp bắp để các cô nghiền thành bột và còn một ít khoai tây, nhưng không có gì ăn cho tới khi xe lửa đến. Bắp và khoai tây không có đủ. Chương 22: Điều Bất Ngờ Trong Tháng Tư Trận bão tuyết đó giống như không bao giờ ngừng. Đôi lúc bão tạm chấm dứt nhưng chỉ để lập tức rên rỉ trở lại và dữ dằn hơn. Tiếng gió rên rỉ vào gào thét cuồng nộ suốt ba ngày đêm đè bẹp căn nhà tối tăm, lạnh lẽo và không ngừng cào xát với những bụi băng. Rồi mặt trời ló ra từ sáng tới trưa, và cơn giận dữ đen đặc của gió và băng tuyết lại trở lại. Đôi lúc trong đêm khuya, dật dờ và lạnh buốt, Laura chừng như mơ thấy mái nhà bị cào mỏng đi. Bão tuyết bao trùm một cách dễ sợ, kín khắp bầu trời, áp sát trên mái nhà và chà xát bằng một miếng vải vô hình cực lớn, xoay tròn và xoay tròn mãi trên lớp mái giấy mỏng cho tới khi xé rách một lỗ để lùa qua, rú rít, quăng quật và cười ha hả. Laura chỉ vừa kịp choàng dậy để tự cứu mình. Sau đó, cô không dám ngủ trở lại. Cô nằm nhỏ nhoi, bất động trong bóng tối và màn đêm đen kịt xung quanh vẫn thường thân mật và xoa dịu cô, lúc này lại là một nỗi khủng khiếp. Cô chưa có khi nào sợ bóng tối. - Mình không sợ bóng tối. Cô tự nhủ và lặp lại nhiều lần, nhưng vẫn cảm thấy bóng tối sẽ chụp bắt cô ngay bằng nanh vuốt của nó nếu nó nhận ra cử động và hơi thở của cô. Trong các bức vách, dưới mái nhà với những đinh móc đóng đầy sương giá, thậm chí cả dưới những lớp mền áp sát người cô, bóng tối đã thu mình lại và đang rình nghe. Ban ngày không tồi tệ như ban đêm. Lúc đó bóng tối nhòa nhạt hơn và mọi thứ đều bình thường. Một làn ánh nắng chập choạng đầy nhà bếp và gian chái. Mary và Carrie luân phiên ngồi bên chiếc cối xay cà phê để giữ cho nó không khi nào ngừng nghiền. Mẹ lo làm bánh mì, quét nhà, dọn dẹp và giữ lửa. Trong gian chái, Laura và bố xoắn kết cỏ khô cho tới khi các bàn tay không thể cầm và xoắn cỏ nổi mới đi hơ ấm bên lò bếp. Lửa cỏ không đủ sức xua cái lạnh khỏi nhà bếp nhưng sát lò bếp không khí tương đối ấm. Mary ngồi phía trước lò bếp với Grace ở trong lòng. Carrie đứng sau ống khói còn chiếc ghế của mẹ đặt ở mé cạnh lò bên kia. Bố và Laura nghiêng người trên lò bếp ở nơi hơi nóng bốc lên. Bàn tay hai cha con sưng đỏ, da tay lạnh ngắt và đầy vết cỏ cứa. Cỏ cắt đứt cả lớp vải áo choàng ở sườn trái và dọc phía dưới những ống tay áo phía trái của cả hai. Mẹ và những chỗ bị rách lại, nhưng cỏ lại cứa bung các miếng vá. Bữa ăn sáng chỉ còn có bánh mì nướng. Mẹ nướng bánh giòn và nóng trong lò hấp rồi nhúng vào trong nước trà. Mẹ nói: - Charles, anh thật chu đáo vì đã dự trữ một số trà như thế. Có khá nhiều trà và còn cả một ít đường nữa. Vào bữa ăn thứ hai trong ngày, mẹ luộc mười hai củ khoai tây để nguyên vỏ. Bé Grace chỉ cần một củ, nhưng người khác được hai củ và mẹ nói rõ bố được thêm một củ. Mẹ biện luận: - Mấy củ khoai không được lớn, Charles, anh còn cần giữ sức khỏe. Dù sao, vẫn là ăn dè sẻn. Em và các con không thích ăn thêm, đúng không, các con? Tất cả đều đáp: - Dạ không, mẹ. - Dạ không, cảm ơn bố. Thực sự con không muốn ăn. Sự thực đúng là thế. Các cô không thực sự đói. Chỉ có bố đói. Mắt bố háo hức nhìn ổ bánh mì nướng và những củ khoai tây đang bốc hơi khi bố trở về từ cuộc vật lộn với sợi dây phơi trong cơn bão. Những người khác chỉ thấy mệt, mệt vì gió, mệt vì lạnh và tối tăm, mệt vì món bánh mì nướng với khoai tây, mệt vì những thứ không liệt kê hết và vì nhàm chán. Mỗi ngày, Laura dành một ít thời giờ để học. Khi cỏ khô đã kết đủ để kéo dài một giờ, cô ngồi xuống bên Mary, giữa lò bếp và bàn ăn, mở sách vở ra. Cô không ghi nhận nổi bài học lịch sử và nghiêng đầu trên bàn ngắm đề toán viết trên tấm bảng không tìm cách giải quyết và cũng không muốn tìm. Mẹ nói: - Nào, nào, các con! Mình không thể rầu rĩ được. Thẳng người lên, Laura, Carrie! Hãy đọc bài cho nhanh rồi mình sẽ có một trò giải trí. Carrie hỏi: - Cách nào, mẹ? Mẹ nói: - Hãy lo học bài trước đã. Giờ học dứt, mẹ mở tập Người diễn giải độc lập thứ năm. Mẹ nói: - Thế này, mình sẽ coi ai là người nhớ được nhiều nhất. Mary, con đọc trước đi. Đoạn nào đây? - Diễn văn của Regulus. Mẹ mở tới các trang cần tìm và Mary bắt đầu đọc. - “Do xét đoán đức tính La mã theo ý riêng của các ngài, hẳn các ngài nghĩ rằng tôi thà nuốt lời hứa còn hơn là quay lại để chấp nhận sự trả thù của các ngài”. Mary đọc thuộc lòng hết đoạn diễn tả sự thách thức hào hùng đó. - “Ở đây, ngay tại kinh đô của quý ngài, tôi lên tiếng thách thức quí ngài! Có phải tôi không hề đánh tan những đạo quân của cq ngài, không hề phá tan những thành trì của các ngài và kéo sau vành bánh chiếc xe của tôi những tướng lãnh của các ngài, kể từ lúc cánh tay trai trẻ của tôi lần đầu sử dụng mũi giáo?” Nhà bếp có vẻ trở ấm hơn và rộng hơn. Gió bão không mạnh mẽ bằng những lời đó. - Con đọc thật hoàn hảo, Mary. Mẹ khen rồi nhắc: - Bây giờ, đoạn nào, Laura? - Già Tubal Cain. Laura bắt đầu đọc và những câu thơ nâng cô đứng lên. Phải đứng cho giọng đọc rung vang theo tiếng búa của ông già Tubal Cain. Già Tubal Cain nổi danh vô địch Khi trái đất này đang trong thuở hồng hoang Bên lò lửa nung rực hồng giận dữ Búa của già ròn rã khua vang… Bố bước vào trước khi Laura đọc tới đoạn cuối. Bố nói: - Tiếp tục, tiếp tục. Điều này còn làm bố ấm hơn lửa nhiều. Thế là Laura đọc tiếp trong lúc bố lột chiếc áo choàng bám tuyết trắng toát và nghiêng người trên lửa cho tuyết đóng trên lông mày tan chảy. Hãy hát ngợi ca con người vô địch Người bạn thủy chung độ lượng hiền hòa Và ngợi ca chiếc lưỡi cày bén gót Trong bàn tay trân trọng của ông già. Khi nỗi bất công ngang nhiên tác tệ Kẻ bạo hành thành chúa tể bốn phương Dù nhớ mãi ơn lưỡi cày nhân hậu Xin đừng quên đã có một đường gươm. Mẹ gấp sách lại nói: - Con thuộc đúng từng lời, Laura. Ngày mai sẽ tới lượt Carrie và bé Grace. Rồi tới lúc đi kết thêm cỏ khô nhưng trong khi run rẩy xoắn những cọng cỏ sắc cạnh trong giá rét, Laura nghĩ nhiều tới những câu thơ. Trưa ngày mai thành một thứ để nhắm tới. Người diễn giải thứ năm đầy những bài diễn văn hùng hồn và những bài thơ mà cô muốn nhớ chính xác và nhiều ngang mức như của Mary. Bão vẫn có đôi lúc ngưng lại. Gió hú bình thường và đều đặn. Bầu trời thoáng đãng trên những lớp tuyết bay và bố ra ngoài kéo cỏ. Lúc đó, Laura và mẹ làm thật nhanh việc giặt giũ và treo đồ lên trong hơi lạnh để hong khô. Không ai biết lúc nào bão sẽ trở lại. Bất kì lúc nào mây đều có thể dâng lên và kéo tới nhanh hơn ngựa chạy. Bố không thể bình an ở ngoài đồng cỏ cách xa thị trấn. Có lúc bão ngưng tới nửa ngày. Có lúc nắng chiếu từ sáng tới hoàng hôn và bão chỉ trở lại cùng với bóng tối. Vào những ngày như thế, bố kéo về ba chuyến cỏ khô. Cho tới lúc bố trở về, dắt David vào chuồng, Laura và mẹ lặng lẽ làm việc nhưng vẫn thường nhìn lên trời, lắng nghe tiếng gió còn Carrie im lìm ngó về phía tây bắc qua lỗ hổng mà cô cào ra trên cửa sổ. Bố luôn luôn nói bố không thể lo liệu nổi nếu không có David. Bố nói: - Nó đúng là một con ngựa hết tốt. Không biết còn có một con ngựa nào tốt và kiên nhẫn như thế. Khi David sa vào trong tuyết, nó luôn đứng im lìm cho tới khi bố mở lối cho nó ra. Rồi bình thản và nhẫn nại, nó kéo cỗ xe quanh chiếc hố và tiếp tục đi cho tới lúc lại sa vào một hố tuyết khác. Bố nói: - Anh ước là có thể kiếm cho nó được một ít lúa mạch hoặc bắp. Khi tiếng rên rỉ và rú rít của gió ào đến và tuyết lại xoáy tít cào xát. Bố nói: - Tốt, mình đã có đủ cỏ khô để kéo dài một thời gian, cảm ơn David. Sợi dây phơi vẫn còn ở đó để dẫn đường cho bố tới chuồng ngựa và quay vào trong nhà. Đã có cỏ khô, lại vẫn còn một ít bắp và khoai tây và trong lúc bão nổi lên thì bố đã bình yên ở nhà. Trong các buổi chiều, Mary cùng Laura và Carrie đọc lại các đoạn thơ văn. Thậm chí Grace cũng biết các bài “Con cừu nhỏ của Mary” và “Bo-peep mắt cừu”. Laura thích nhìn cặp mắt xanh lơ của Grace và Carrie sáng lên một cách căng thẳng khi cô đọc cho nghe: Lắng nghe đây, lắng nghe để thấy Chuyến lên đường giữa lúc đêm khuya Năm bảy mươi lăm, tháng tư, mười tám Một người còn sống đến bây giờ Ghi khắc mãi tiếng tăm một thuở… Cô và Carrie cùng phối hợp đọc lại bài « Ổ thiên nga »: Nhỏ nhoi cô bé đơn côi Giữa đồng hoang dưới hàng xồi xanh xanh Bên bờ suối chảy uốn quanh Cây cao in bóng xuống ghềnh cỏ non Lao xao bóng lá chập chờn Tóc bay trong nắng nét buồn bâng khuâng Ở đó không khí ấm áp, yên tĩnh, cỏ phơi mình trong nắng, nước róc rách tuôn và những cánh lá khẽ thì thầm. Côn trùng trên đồng cỏ ngân nga rỉ rả. Lúc cùng với Ellie là những cô bé ở đó. Laura và Carrie hầu như quên hết hơi lạnh. Các cô ít nghe thấy tiếng gió và tiếng tuyết xoay tít cào xát vào các bờ vách. Một buổi sáng êm ả, Laura xuống tầng dưới thấy mẹ đang có vẻ ngạc nhiên và bố đang cười. Bố nói với Laura: - Ra coi ở cửa sau! Cô chạy thẳng tới gian chái mở cửa sau ra. Một đường hầm thấp, lởm chởm chạy vào một mảng bóng tối trong lớp tuyết màu trắng xám. Vách và nền hầm đều bằng tuyết còn mái hầm là một lớp tuyết cứng ngắt đóng đầy phía trên khung cửa. Bố giải thích: - Sáng nay bố đào lấy một lối đi tới chuồng ngựa. Laura hỏi: - Nhưng bố làm gì với số tuyết? Bố thích thú: - Ồ, bố làm một đường hầm thấp đủ để bố có thể đi qua. Bố đào dồn tuyết về phía sau lưng và tống qua một cái lỗ mà cuối cùng bố đã lấp lại. Không có gì ngăn gió tốt bằng tuyết cả. Khi nào các bờ tuyết đó còn đứng vững, bố có thể làm các việc thường lệ trong sự thoải mái. Mẹ muốn biết: - Tuyết dầy chừng nào? Bố đáp: - Anh không thể nói chắc được. Kể như nó chất đống dầy hơn mái nhà chái. Mẹ kêu lên: - Anh không định nói là căn nhà này đã vùi trong tuyết chứ! Bố đáp: - Nếu thế thì là một điều tốt. Em sẽ thấy nhà bếp ấm hơn vào mùa đông này. Laura chạy lên gác. Cô cào một lỗ hổng trên cửa sổ, ghé mắt vào và khó thể tin nổi. Mặt đường phố Main Street nâng cao ngang mắt cô. Phía bên kia lớp tuyết lấp lánh, cô nhìn thấy chóp vuông khung mặt tiền giả của cửa hàng Harthorn dựng lên giống như một mảnh ván hàng rào ngắn. Cô nghe thấy tiếng hô hồ hởi rồi nhìn thấy những móng chân ngựa xoải nhanh ngay trước mắt. Tám chiếc móng ngựa màu xám với những cổ chân thon thả màu nâu uốn cong nhẹ nhàng và thướt thẳng qua cực nhanh kéo theo một cỗ xe trượt tuyết có hai đôi ủng đứng bên trên. Cô cúi người xuống nhìn qua lỗ hổng nhưng cỗ xe đã đi khỏi. Cô chỉ nhìn thấy bầu trời lạnh buốt với ánh nắng thọc thẳng vào mắt cô. Cô chạy xuống nhà bếp ấm áp để nói về điều vừa nhìn thấy. Bố nói: - Anh em nhà Wilder đó. Họ đang đi lấy cỏ khô. Laura hỏi: - Làm sao bố biết điều đó, bố? Con chỉ nhìn thấy những ống chân ngựa và mấy chiếc ủng. Bố nói: - Ở thị trấn này không có ai, ngoại trừ hai người đó và bố dám ra khỏi thị trấn. Tất cả đều sợ bão tuyết ập tới. Anh em Wilder đang kéo về những xe cỏ khô từ đầm Big Slough và bán mỗi xe với giá ba đô-la cho người ta đốt lửa. Mẹ kêu: - Ba đô-la! - Ừ, và tạm công bằng với sự mạo hiểm của họ. Họ đang đơn độc làm một điều tốt. Anh mong là anh cũng làm được. Nhưng họ có than để đốt. Anh thì chỉ mừng là có đủ cỏ để đốt qua ngày. Anh đã không tính đến việc dùng cỏ làm chất đốt cho mùa đông. Laura nói: - Họ đi qua cao ngang với các ngôi nhà! Cô vẫn bị kích động. Thật kì lạ khi nhìn thấy những móng chân ngựa, một cỗ xe trượt tuyết và những chiếc ủng ngay trước mắt giống như một con vật nhỏ, một con sóc đất chẳng hạn, vẫn luôn nhìn như thế. Mẹ nói: - Lạ là họ không bị sa lầy trong tuyết. Bố nhai ngấu nghiến miếng bánh, uống thật nhanh ly trà và nói: - Ô, không. Họ không bị lún được. Những đợt gió này khiến tuyết cứng như đá. Ngay cả những móng chân của David cũng không in dấu nổi trên tuyết. Rắc rối duy nhất là chỉ những nơi có cỏ mọc bùng nhùng phía dưới. Bố quấn quần áo một cách vội vã. - Mấy chàng trai đó đã tới điểm xuất phát của anh sáng nay do anh bận đào đường hầm. Bây giờ anh sẽ đào David ra khỏi chuồng và đi kéo cỏ khi trời đang nắng! Bố nói đùa khi đóng cánh cửa lại. Mẹ nói: - Bố cảm thấy vui vẻ vì đào được đường hầm đó. Thật may mắn khi bố có thể làm việc trong sự yên ổn tránh khỏi gió bão. Ngày hôm đó tất cả không thể nhìn thấy bầu trời từ cửa sổ nhà bếp. Hơi lạnh thấm qua tuyết ít đến nỗi Laura đưa Mary qua gian chái để chỉ cho cô cách xoắn bện cỏ. Mary vẫn muốn học cách làm nhưng gian chái quá lạnh, phải mất một thời gian vì cô không nhìn thấy cách Laura xoắn, giữ các tao cỏ và cài các đoạn cuối, nhưng cuối cùng cô đã làm được khá tốt. Suốt một ngày xoắn bện cỏ, các cô chỉ ngừng lại sưởi ấm vài ba lần. Rồi nhà bếp ấm đến mức họ không cần ngồi chụm lại quanh lò bếp. Căn nhà hết sức yên tĩnh. Tiếng động duy nhất chỉ là tiếng những ghế đu của mẹ và Mary khe khẽ đung đưa, tiếng cây viết chì chạy trên mặt bảng, tiếng ấm nước réo vo vo và tiếng mọi người nói chuyện nhỏ nhẹ. Mẹ nói: - Lớp tuyết đóng dầy này thật là vô cùng may mắn. Nhưng tất cả không thể ngắm bầu trời. Ngắm để biết có điều gì không hay. Nếu một lớp mây xám ùn ùn dâng lên, họ cũng không thể ngăn cản nổi. Họ không giúp gì được cho bố. Bố cần ngắm mây để kiếm chỗ trú ẩn thật nhanh. Laura nghĩ về điều này thật nhiều nhưng dù vậy, cô vẫn vội vã bước lên gác băng qua làn hơi lạnh để tới ngó ra từ cửa sổ. Mẹ và Carrie nhìn cô rất nhanh khi cô bước xuống và cô luôn trả lời mọi người lớn tiếng để Mary nghe được: - Trời quang đãng, không có gì khuấy động ngoại trừ hàng triệu tia lấp lánh trên tuyết. Chiều hôm đó, bố kéo cỏ qua đường hầm nhồi đầy gian chái. Bố đã đào đường hầm qua trước cửa chuồng để David có thể ra vào và phía bên kia chuồng bố uốn đường hầm ở một góc để cản gió có thể thổi vào chuồng. Bố nói: - Anh chưa từng thấy thời tiết như thế này. Chắc phải lạnh đều ở bốn mươi độ âm và không có một thoáng hơi khuấy động. Toàn thể giống như đông cứng lại. Anh hy vọng kiềm chế được cái lạnh này. Qua khỏi đường hầm kia thì không còn việc gì để mà làm cả. Mẹ thì thầm tựa hồ đang ngái ngủ: - Đừng điên đầu như vậy, Laura! Hôm đó không có đọc thơ văn. Tất cả không làm gì. Chỉ ngồi. Đêm cũng bất động. Nhưng buổi sáng khi mọi người thức dậy bằng một cơn điên cuồng gào hú. Gió lại nổi lên và tuyết quay cuồng quật ngã. Bố nói khi bước vào ăn bữa sáng: - Rồi, đường hầm sẽ biến mau thôi. Lông mày của bố lại đóng băng tuyết và mũ áo của bố cũng cứng ngắt. Hơi lạnh đang dồn cái ấm trở lại lò bếp. - Dù sao anh vẫn hi vọng đường hầm kéo dài nổi qua một đợt đập phá này. Quái quỉ cái trận bão tuyết này! Nó chỉ thả đủ lâu để nhỏ bọt trên tay nó. Mẹ gắt: - Đừng chửi thề, Charles! Mẹ sợ hãi đưa tay lên bịt miệng: - Ô,Charles, em xin lỗi! Em không có ý gắt gỏng với anh. Nhưng thứ gió quái quỉ này, cứ thổi và thổi… Giọng mẹ lạc đi và mẹ đứng lắng nghe. Bố nói: - Anh biết, Caroline. Anh biết chắc em đang cảm thấy thế nào. Nó đã khiến em mệt mỏi quá rồi. Anh biết nói gì với em. Sau bữa ăn mình sẽ đọc một lát về Châu Phi của Livingston. Mẹ nói: - Thật tệ là sáng nay em đã đốt quá nhiều cỏ, Charles. Em phải đốt nhiều hơn để cố giữ hơi ấm ở đây. Bố đáp: - Đừng nghĩ ngợi gì, rõ ràng là phải bện thêm nữa. Laura đề nghị: - Con sẽ phụ bố. Bố nói: - Mình sẽ làm trọn ngày. Mọi thứ ở chuồng ngựa đã đâu vào đấy cho đến tối. Mình sẽ bện cỏ khô trước rồi đọc sách sau. Grace bắt đầu thổn thức: - Chân con lạnh quá! Laura nói với bé: - Mắc cỡ quá, Grace! Em là một cô gái lớn rồi! Tự đi hơ ấm bàn chân đi! Mary nói trong lúc cảm nhận rõ cái cách đung đưa chiếc ghế trước lò bếp: - Tới ngồi trong lòng chị cho ấm đi. Sau khi Laura và bố bện xong một đống cỏ khô đem chất bên lò bếp thì Carrie mang tới cho bố cuốn sách lớn màu xanh lá cây. Cô yêu cầu: - Đọc đoạn nói về sư tử, nghe bố. Mình có thể chơi trò gió là những con sư tử đang gầm. Bố nói: - Anh sợ là anh cần có ánh sáng, Caroline. Chữ in nhỏ quá. Mẹ thắp cây đèn khuy áo đặt bên cạnh bố. Bố nói: - Nào, đây là đêm trong rừng Phi Châu. Ánh sáng chập chờn ở đây là do lửa trại của mình. Thú rừng đang bao xung quanh, tru tréo, gào hú. Có đủ cọp, sư tử, linh cẩu và bố đoán có cả một hoặc hai con hà mã nữa. Chúng không đến gần chúng ta vì chúng đều sợ lửa. Cũng có tiếng những chiếc lá lớn khua sột soạt và tiếng kêu quang quác của những con chim lạ. Đêm đen đặc và nóng bức với những ngôi sao lớn ở trên đầu. Bây giờ, mình bắt đầu nghe đọc về những điều xảy ra. Bố bắt đầu đọc. Laura cố lắng nghe, nhưng cô cảm thấy mụ người đi và tê cóng. Giọng bố trôi tuột vào âm thanh náo động không ngừng của cơn bão. Cô cảm thấy trận bão phải ngưng lại trước khi cô nghe nổi một điều gì, thậm chí cả trước khi cô có thể lắng nghe hoặc suy nghĩ nhưng bão không khi nào chịu ngừng. Nó cứ thổi dai dẳng. Cô đã mệt. Cô mệt vì hơi lạnh và bóng tối, mệt vì bánh nướng với khoai tây, mệt vì bện cỏ, nghiền bắp, đốt lò, rửa chén đĩa, làm giường, đi ngủ và thức dậy. Cô đã mệt, mệt vì những tiếng gió trong bão tuyết. Không có một điều nào khác mà chỉ là một mớ âm thanh hỗn độn vào tai. Đột nhiên cô lên tiếng cắt ngang việc đọc sách của bố: - Bố, bố chơi đàn được không? Bố nhìn cô với vẻ ngạc nhiên. Rồi bố đặt cuốn sách xuống. Bố nói: - Sao không, Laura. Nếu các con thích nghe đàn thì bố đàn. Bố nắm rồi mở các bàn tay và chà xát các ngón tay trong lúc Laura mang hộp đàn từ chỗ nằm ấm áp của nó trên nền nhà sau lò bếp tới. Bố chuốt vĩ, đặt chiếc đàn vào dưới cằm và chạm vào các sợi dây. Bố nhìn Laura. Laura nói: - Bài Bonnie Donn, bố! Và, bố đàn và hát: - Dốc đứng, bờ cao Bonnie Donn xinh đẹp Hoa nở khoe màu, hương ngát ra sao? Nhưng mỗi nốt đều không chuẩn do những ngón tay bố rất vụng về. Tiếng nhạc kéo lê và dây đàn gắt gỏng. Bố lên tiếng tựa hồ mắc cỡ: - Bố không thể đàn vì các ngón tay dầy và cứng do ngấm lạnh quá nhiều. Bố đặt cây đàn vào hộp, nói: - Cất đi, Laura. Chờ dịp khác. Mẹ nói: - Em mong sẽ được anh giúp bằng cách nào đó, Charles. Mẹ cầm lấy chiếc cối xay cà phê từ trong tay Mary, trút hết chỗ hạt đã nghiền ra khỏi ngăn kéo nhỏ. Mẹ đổ đầy bắp vào trong máng rồi đưa chiếc cối xay cho bố. Mẹ nói với bố: - Em cần nghiền thêm một mẻ khác để làm bánh ăn bữa trưa. Mẹ lấy một đĩa bột chua đậy kín đang đặt dưới lò bếp. Mẹ khuấy mạnh rồi đong khoảng hai ly đầy cho vào chảo, trộn thêm muối cùng với chỗ bột mà Mary và Carrie đã nghiền. Sau đó, mẹ cầm lấy chiếc cối xay trong tay bố, trút thêm số hạt bố mới nghiền. Mẹ nói: - Vậy là đủ. Cảm ơn anh, Charles. Bố nói: - Vậy tốt hơn là anh đi lo cộng việc trước khi trời tối quá. Mẹ nhắc bố: - Em sẽ có một bữa ăn nóng, chờ lúc anh trở về. Bố choàng áo, đội mũ bước ra ngoài trời bão. Laura lắng nghe tiếng gió trong lúc cô ngắm ô cửa sổ không nhìn thấy gì. Điều tồi tệ nhất đã xảy ra là bố không thể chơi đàn nổi. Nếu cô không đòi bố chơi đàn chắc hẳn bố không biết là đã không chơi đàn nổi. Mẹ với Carrie ngồi quây bên cô còn Mary đang đung đưa chiếc ghế ngay trước mặt, cạnh lò bếp. Cô ẵm Grace trong tay đung đưa chậm rãi và khẽ hát: Hát cho em nghe về một vùng tươi sáng Quê hương thẳm xa những linh hồn Nơi bão táp không bao giờ thối tới Tháng năm dài mãi mãi bình yên Bài thánh ca than vãn hòa với tiếng than vãn của gió trong lúc màn đêm buông xuống với những lớp tuyết quay cuồng dầy đặc. Chương 23: Khóa Học Lại Bắt Đầu Buổi sáng đống tuyết không còn nữa. Khi Laura cào một lỗ hổng ở cửa sổ tầng gác và ngó qua, cô thấy mặt đất trần trụi. Tuyết đang bị cuốn đi như những đám mây là đà màu xám khiến đường phố lộ rõ mặt đất cứng màu nâu. Cô kêu lớn: - Mẹ! Mẹ ơi! Con nhìn thấy mặt đất rồi! Mẹ đáp: - Mẹ biết rồi. Đêm qua gió đã lùa tuyết bay đi hết. Laura hỏi một cách ngớ ngẩn: - Mấy giờ rồi? Con định nói là tháng mấy rồi? Mẹ nói: - Đang giữa tháng hai. Thế là mùa xuân đã đến gần hơn Laura nghĩ. Tháng hai là tháng ngắn ngủi và tháng ba sẽ là mùa xuân. Xe lửa lại chạy tới và tất sẽ có bánh mì làm bằng bột trắng và thịt. Laura nói: - Con quá mệt với món bánh mì nướng không có gì ăn kèm. Mẹ nói nhanh với cô: - Đừng phàn nàn, Laura! Không bao giờ được phàn nàn về những thứ mà mình có. Luôn luôn nhớ rằng có được thế là may mắn. Laura không có ý phàn nàn nhưng chỉ không biết cách diễn tả ý nghĩ của cô thôi. Cô ngoan ngoãn trả lời: - Dạ, thưa mẹ. Rồi cô giật mình ngắm túi bắp trong góc nhà. Bắp chỉ còn rất ít đến nỗi chiếc túi gấp lại như một chiếc túi rỗng. Cô kêu lên: - Mẹ! Có nghĩa là… Bố luôn nhắc cô không bao giờ hoảng sợ. Cô cần phải không hoảng sợ bất cứ điều gì. Cô hỏi: - Còn bao nhiêu bắp? Mẹ đáp: - Mẹ nghĩ còn đủ nghiền cho ngày hôm nay. Laura nói: - Bố không thể mua thêm được nữa, phải không? - Ừ, Laura. Trong thị trấn không còn gì nữa. Mẹ đặt những khoanh bánh mì nướng một cách cẩn thận lên giàn hấp để hơ nóng cho bữa ăn sáng. Lúc đó, Laura đã tự trấn an, bình tĩnh trở lại và cô hỏi: - Mẹ, mình sẽ chết đói không? Mẹ đáp: - Mình sẽ không chết đói, không đâu. Nếu cần, bố sẽ giết Ellen và con bò tơ. Laura kêu lên: - Ô, đừng, đừng! Mẹ nhắc: - Yên nào, Laura! Carrie và Mary đang xuống cầu thang để tới thay đồ bên lò bếp. Mẹ lên gác bồng Grace xuống. Bố kéo cỏ khô suốt ngày và chỉ ghé vào để nói là bố ghé qua cửa hàng Fuller’s một phút trước khi ăn tối. Khi quay về, bố mang theo một số tin tức. Bố nói: - Trong thị trấn có tin đồn là có người định cư cách đây chừng mười tám hay hai mươi dặm về phía nam hoặc đông nam mùa hè vừa rồi thu hoạch khá nhiều lúa mì. Họ bảo ông ta đang trú đông trong trại của ông ta. Mẹ hỏi: - Ai nói vậy? Bố nhắc lại: - Đó chỉ là tin đồn. Hầu như mọi người đều nói. Người gần nhất mà anh biết là Foster đã nói ra tin đó. Ông ta nói nghe thấy điều đó từ những người đang làm việc trên đường sắt. Ông ta bảo một số người đi qua vào mùa thu vừa qua đã nói về vụ lúa, theo đó thì người kia nói có miếng đất trồng rộng mười mẫu, mỗi mẫu thu được từ ba mươi đến bốn mươi khạp. Vậy là có tới ba trăm khạp lúa mì ở cách đây chỉ hai mươi dặm. Mẹ nhỏ nhẹ: - Em tin là anh không nghĩ đến chuyện khởi sự một cuộc săn ngỗng trời như thế, Charles. Bố nhận xét: - Một người đàn ông phải làm như thế với hai ngày thời tiết đủ tốt và số tuyết rơi nâng nổi một cỗ xe trượt thì anh ta phải đủ sức làm với tất cả rủi … Mẹ cắt ngang: - Không! Bố giật mình nhìn mẹ. Tất cả nhìn mẹ. Chưa bao giờ mẹ như thế. Mẹ bình tĩnh nhưng khủng khiếp. Mẹ bình thản nói với bố: - Em nói « không ». Anh không cầu may như thế. Bố nói: - Sao… Caroline! Mẹ nói: - Việc kéo cỏ của anh đã đủ tồi tệ rồi. Anh không được đi săn lùng lúa mì như thế. Bố nói ngọt ngào: - Không đến nỗi như em cảm nghĩ về việc đó đâu. Anh sẽ chẳng sao. Nhưng… Mẹ vẫn nói bằng giọng kinh khủng: - Em không nghe bất kì một tiếng « nhưng » nào nữa. Lúc nào em đã đặt chân xuống. Bố đồng ý: - Đồng ý. Thế là giải quyết xong. Laura và Carrie nhìn nhau. Các cô cảm thấy sấm sét thình lình nổ trên đầu rồi thình lình tan đi. Mẹ rót nước trà với bàn tay còn run rẩy. Mẹ nói: - Ô, Charles, em rất tiếc đã rót tràn li rồi. Bố nói: - Đừng nghĩ gì. Bố trút li nước trà đầy tràn vào chiếc tách. Bố nhận xét: - Lâu quá rồi anh không rót trà vào ly cho nguội. Mẹ nói: - Em sợ lửa sắp tàn. Bố nói: - Không phải lửa. Thời tiết đang lạnh hơn. Mẹ nói: - Bằng mọi cách, anh không thể đi. Sẽ không có người làm việc nhà và không có người kéo cỏ. Bố trấn an mẹ: - Em có lí, Caroline, em luôn có lí. Mình sẽ xoay sở với cái gì mình có. Rồi bố nhìn xéo vào góc nhà, nơi có túi bắp. Nhưng bố không nói gì cho tới khi bố làm xong các công việc thường lệ và bện thêm một số cỏ khô. Bố đặt một ôm cỏ mới bện xong xuống bên lò và đưa hai bàn tay ra hơ ấm. Bố nói: - Hết bắp hả, Caroline? - Dạ, Charles. Còn đủ làm bánh cho bữa sáng. - Khoai tây cũng hết. Mẹ trả lời: - Có vẻ như mọi hứ kéo nhau hết cùng một lúc. Nhưng em còn sáu củ khoai tây cho ngày mai. Bố hỏi: - Xô đựng sữa đâu rồi? Mẹ lặp lại: - Xô đựng sữa? Bố nói: - Anh ra phố ít phút và muốn có một chiếc xô đựng sữa. Laura mang chiếc xô tới. Cô không kìm được câu hỏi: - Trong thị trấn vẫn còn một con bò sữa hả bố? Bố nói: - Không, Laura. Bố đi qua phòng trước và tất cả nghe tiếng cửa đóng lại. Almanzo và Royal đang ăn bữa tối. Almanzo chất đống bánh kép với rất nhiều đường nâu. Royal đã ăn hết nửa đống còn Almanzo ăn gần hết đống của mình và một đống mười hai chiếc bánh với đường nâu tan ra đang nhỏ giọt vẫn đứng sững chưa ai đụng tới. Lúc bố gõ cửa, Royal ta mở cửa. Royal nói: - Vào đây, ông Ingalls! Ngồi ăn vài chiếc bánh với tụi tôi! - Cảm ơn các cậu. Các cậu có thể vui lòng bán cho tôi một ít lúa mì được không? Bố hỏi trong lúc bước vào. Royal nói: - Tiếc quá. Tụi tôi không còn nữa. Bố nói: - Đã bán hết rồi ư? Royal nói: - Bán hết rồi. Bố nói: - Tôi bằng lòng trả giá cao để có một ít. Royal đáp: - Tôi mong là mình đã sản xuất thêm một xe khác. Dù sao thì hãy ngồi xuống và ăn một chút gì với tụi tôi. Manzo rất muốn khoe những chiếc bánh của mình. Bố không trả lời. Bố đi tới bức vách cuối phòng, nhấc một chiếc yên lên khỏi móc. Almanzo kêu lên: - Này, ông làm gì thế? Bố áp chắc vành chiếc xô sữa vào bức vách. Bố kéo chiếc nút khỏi hốc mắt gỗ. Một dòng suối lúa mì lớn bằng chiếc lỗ trút vào trong chiếc xô. Bố trả lời Almanzo: - Tôi mua của cậu một ít lúa mì. Almanzo tuyên bố: - Ông nói gì? Đây là lúa giống của tôi. Tôi không bán. Bố đáp: - Nhà tôi không còn một hạt lúa mì nào, tôi cần mua một ít. Những hạt lúa tiếp tục trút vào chiếc xô, chảy xuống thành đống, va lanh canh vào cạnh thiếc. Almanzo đứng nhìn bố, nhưng một phút sau, Royal ngồi xuống. Anh ta ngả đầu vào ghế, tựa vào vách, thọc bàn tay vào túi quần và cười thích thú với Almanzo. Khi chiếc xô đã đầy, bố nhét nút gài vào chiếc lỗ. Bố nó thật chắc rồi khẽ vỗ lên bức vách, chà tay qua. Bố nói: - Các cậu còn quá nhiều lúa ở đó. Bây giờ mình nói về giá cả. Các cậu tính xô này bao nhiêu? Almanzo thắc mắc: - Làm sao ông biết có lúa nằm ở đó? Bố nói: - Phía trong căn phòng này không ngang với phía ngoài. Nó ngắn hơn khoảng một bộ, ngoài ra còn phải kể thêm những hàng đinh móc. Trong chỗ đó, các cậu phải có một khoảng trống cỡ mười sáu inch. Bất kì ai nhìn thoáng qua cũng nhận ra. Almanzo nói: - Chết tôi rồi! Bố thêm: - Tôi đã nhận ra chiếc nút mắt gỗ vào cái ngày mà cậu gỡ những chiếc yên xuống khi săn sơn dương. Vì vậy, tôi cho rằng các cậu chứa hạt trong đó. Nó giống như là thứ duy nhất để chảy ra khỏi lỗ. Almanzo hỏi: - Có ai khác trong thị trấn biết điều đó không? Bố nói: - Đó không phải điều tôi biết tới. Royal chen vào: - Ông coi này. Chúng tôi không hề biết là ông đã hết lúa mì. Chỗ hạt đó là của Almanzo chứ không phải của tôi. Nhưng Almanzo giấu đi để nhìn mọi người chết đói. Almanzo giải thích: - Đây là hạt giống của tôi. Thứ hạt giống cực tốt. Đó là chưa nói tới việc hạt giống này cần được gieo đúng lúc vào mùa xuân. Dĩ nhiên, tôi không thấy ai chết đói bởi có thể đi kiếm lúa mì thu hoạch được ở phía nam thị trấn. Bố nói: - Tôi nghe nói là ở phía đông nam. Tôi cũng nghĩ tới chuyện đi đến đó, nhưng… Royal cắt ngang: - Ông không thể đi được. Ai sẽ chăm lo gia đình của ông nếu ông kẹt vào một trận bão và… phải về trễ hoặc một điều gì đó? Bố nhắc lại: - Mình vẫn chưa giải quyết về số tiền tôi nên phải trả cho số lúa mì này. Almanzo phất tay: - Đáng xá gì một chút xúi lúa như thế giữa hàng xóm? Ông cứ tự nhiên mang đi, ông Ingalls. Nhưng hãy kéo ghế ngồi xuống ăn vài chiếc bánh kẻo nguội hết. Nhưng bố dứt khoát đòi trả tiền. Sau một hồi giằng co, Almanzo định giá hai mươi lăm xu và bố trả tiền. Rồi, theo lời mời, bố ngồi xuống nhấc chiếc bánh phủ trên đống bánh còn nguyên xắn một phần những chiếc bánh kép nóng thấm đầy xi-rô. Royal dùng nĩa tiếp thêm vào đĩa của bố một khoanh giăm-bông từ chảo chiên và Almanzo rót đầy ly cà phê của bố. Bố nhận xét: - Các cậu chắc chắn sống rất phong lưu. Những chiếc bánh kép không phải là loại bánh thông thường làm bằng bột lúa mạch. Almanzo làm theo cách của má, và những chiếc bánh xốp nhẹ như bọt thấm chất đường nâu tan chảy. Món giăm-bông cũng được làm với đường, xông khói hồ đào từ trại của gia đình Wilder ở Minnessota. Bố nói: - Tôi không biết có lúc nào còn được ăn một bữa ngon hơn. Họ nói về chuyện thời tiết, săn bắn, hoạt động chính trị, đường sắt, trồng trọt. Khi bố ra về, cả hai anh em Royal và Almanzo đều mời bố luôn ghé lại. Cả hai đều không chơi cờ nên thời giờ ở cửa hàng quá dài. Chỗ của họ lại ấm áp. Royal nói: - Bây giờ ông đã biết rõ đường đi rồi, ông Ingalls. Hãy nhớ trở lại. Chúng tôi rất vui được đón ông bất kì lúc nào. Manzo và tôi đều rất mệt với những vị khách thăm viếng khác. Hãy quay lại bất kì lúc nào, chốt cửa luôn để ngỏ. Bố trả lời: - Tôi rất rất vui! Chợt bố ngưng ngang và lắng nghe. Almanzo cũng bước ra cùng với bố trong hơi gió lạnh cóng. Những vì sao lấp lánh trên đỉnh đầu nhưng ở vùng trời phía tây bắc tất cả vụt biến đi thật nhanh khi một khối đen dầy quét qua. Bố nói: - Nó tới rồi! Tôi đoán là sẽ không có khách nào thăm viếng trong một khoảng thời gian dài. Nếu đi nhanh thì may mắn tôi vừa kịp về tới nhà. Cơn bão tuyết ào xuống căn nhà khi bố về tới cửa nên không ai nghe thấy bố bước vào. Nhưng cả nhà không phải lo lắng lâu vì gần như ngay lập tức bố đã xuất hiện ở nhà bếp, nơi tất cả đang ngồi trong bóng tối. Tất cả đều ngồi sát ló bếp và đủ ấm nhưng Laura đang run rẩy, nghe bão nổi trở lại và nghĩ là bố còn ở ngoài. Bố lên tiếng: - Có một ít lúa mì đây rồi, Caroline. Vừa nói, bố vừa đặt chiếc xô xuống cạnh mẹ. Mẹ nghiêng tới gần thọc tay vào đống hạt. Vừa đung đưa chiếc ghế, mẹ vừa nói: - Ô, Charles! Ô, Charles! Em tin chắc là anh sẽ mang thức ăn về, nhưng anh kiếm ở đâu ra vậy? Em nghĩ là trong thị trấn không còn lúa mì nữa. Bố giải thích: - Anh không dám chắc là có nên đã không nói với em. Vả lại, anh không muốn dấy lên những hy vọng rồi lại thất vọng. Anh đã nhận lời không nói rõ kiếm được ở đâu, nhưng đừng ngại, Caroline. Ở đó còn khá nhiều. Mẹ nói như được tiếp thêm năng lực: - Bây giờ tới đây, Carrie. Mẹ sẽ đưa con và Grace đi ngủ. Khi quay trở xuống, mẹ thắp chiếc đèn khuy áo và đổ đầy hạt vào cối xay cà phê. Tiếng nghiền của cối xay lại bắt đầu và theo Laura với Mary lên căn gác lạnh lẽo cho tới khi bị át đi trong tiếng gió hú. Chương 24: Triển Lãm Học Đường Bố nói: - Đáng kể là làm sao để có cả khoai tây nữa. Từ từ, họ ăn những củ khoai tây cuồi cùng, cả vỏ và không bỏ chút nào. Bão tuyết đang quật ngã và chà xát vào căn nhà, trong lúc gió rên rỉ, gào thét. Cửa sổ nhòa nhạt trong lớp sáng chạng vạng và lò bếp cố gom hơi nóng yếu ớt để chống lại cái lạnh. Laura nói: - Con không đói, bố! Ăn tiếp phần của con đi. - Ăn đi, Laura! Bố nói dịu giọng nhưng dứt khoát. Laura phải cố nuốt miếng khoai đã nguội ngắt trong đĩa. Cô ngắt một mẩu nhỏ bánh nướng rồi bỏ phần còn lại. Chỉ có món trà nóng, ngọt ngào là ngon lành. Cô cảm thấy tê cóng và nửa như ngủ thiếp đi. Bố lại khoác áo, đội mũ đi sang gian chái để bện cỏ. Mẹ cố kích động: - Ráng đi, các con! Hãy lo rửa chén đĩa, chùi lò bếp và quét nhà trong lúc mẹ dọn giường, rồi sau đó lo học bài. Khi nào mọi thứ xong hết, mẹ sẽ nghe các con đọc và mẹ sẽ có một thứ bất ngờ cho bữa ăn tối. Không ai thực sự quan tâm nhưng Laura cố trả lời mẹ. Cô nói: - Thực hả, mẹ? Chắc hay lắm! Cô rửa chén đĩa, quét nền nhà rồi khoác chiếc áo vá đi qua gian chái giúp bố bện cỏ. Hình như không có thứ gì là có thực ngoại trừ bão tuyết kéo dài không dứt. Chiều hôm đó, cô bắt đầu đọc: Già Tubal Cain là con người vô địch Con người toàn năng xứng với bản thân Già tìm kiếm nào ống tiêu, nào chén bát Nào những tay đàn… Cô gần như bật khóc: - Ôi, mẹ! Con không biết mình đang làm sao! Con không nhớ nổi nữa. - Do cơn bão này đó. Mẹ tin là mình đều buồn ngủ hết. Mẹ nói và ngưng một lát rồi tiếp: - Mình không nên chú ý tới nó. Mọi thứ đều diễn biến chậm lại. Một lát sau, Mary hỏi: - Làm sao không thể lắng nghe nó? Mẹ chậm rãi gấp cuốn sách lại. Cuối cùng, mẹ đứng lên nói: - Mẹ đi lấy thứ bất ngờ vào. Mẹ mang từ phòng trước vào. Đó là một mảnh cá thu ướp muối đông cứng mà mẹ đã cất giữ ở đó. Mẹ nói: - Bữa ăn trưa sẽ có bánh mì với sốt cá thu. Bố kêu lên: - Ui cha! Caroline, không có gì qua nổi sản phẩm Tô cách lan. Mẹ đặt miếng cá thu vào lò hấp để làm cho tan và cầm lấy cối xay cà phê và mẹ đang gỡ rời miếng cá thu. Bố nói: - Chỉ hửi mùi thôi đã đủ tỉnh người rồi! Caroline, em thật kỳ diệu. Mary nhìn nhận: - Em nghĩ là món này sẽ tạo một thay đổi cho khẩu vị đậm đà. Nhưng món bánh mì thì mình sẽ phải cả ơn ra sao, Charles. Mẹ nhìn bố đang ngắm xô lúa mì và mẹ nói: - Đủ để kéo dài qua cơn bão này nếu bão không dài hơn thường lệ. Laura cầm lấy chiếc cối xay từ tay Carrie. Thật đáng lo ngại thấy Carrie mỏng manh trắng bệch và kiệt sức như thế với việc nghiền bột. Nhưng không kém lo ngại là sự nhàm chán, và xa hơn là sự thù ghét, tiếng thình thịch không ngừng của cơn bão. Chiếc tay quay cối xay cà phê xoay tròn và xoay tròn liên tục. Hình như nó đang góp thêm phần với những cơn gió xoay tít cuốn tròn tuyết trên mặt đất, trong không trung, quay cuồng va đập vào bố trên đường ra chuồng ngựa, quay cuồng rú rít quanh những ngôi nhà đơn độc, lùa đảo các cụm tuyết bốc lên trời, đưa đi xa và quay cuồng mãi mãi trên thảo nguyên vô tận. Chương 25: Bất Ngờ Trong Tháng Chạp Suốt những ngày có bão, Almanzo suy nghĩ. Cậu không đùa giỡn như thường lệ và khi lo công việc thường ngày, cậu chà cọ và chải lông cho mấy con ngựa như một cái máy. Thậm chí cậu ngồi tư lự ngẩn ngơ, bỏ mặc cho Royal làm bánh ăn bữa tối. Cuối cùng, cậu hỏi: - Anh biết em đang nghĩ gì không, Roy? Royal đáp: - Hẳn phải là điều gì đáng giá lắm so với số thời gian mà em đã dành cho nó. Almanzo tuyên bố: - Em nghĩ có những người dân trong thị trấn này đang chết đói. Royal nhìn nhận trong lúc đảo mấy chiếc bánh kép: - Có lẽ một số người đang khá đói rồi. Almanzo nhắc lại: - Em nói là đang chết đói. Hãy coi nhà Ingalls, gia đình có tới sáu người. Anh có thấy cặp mắt của ông ấy và ông ấy gầy ốm tới mức nào chứ? Ông ấy bảo ông ấy không còn lúa mì. Được, hãy lấy một thùng, một thùng và một phần tư lúa mì, một gia đình sáu người sẽ kéo dài nổi bao lâu với số đó? Anh thử tính toán coi. Royal nói: - Ông ấy phải có thức ăn khác chứ. - Họ đã có mặt ở đây trước mùa hè vừa rồi và không về miền tây làm việc ở đường sắt. Ông ta có một nông trại. Tự anh dư biết một người đàn ông có thể thu hoạch được bao nhiêu trong vụ hè đầu tiên trên ruộng đất. Và quanh đây lại không có việc gì để kiếm sống. Royal hỏi: - Em đang muốn tính chuyện gì? Sẽ bán hết số hạt giống của em? Almanzo tuyên bố: - Không như loại đồ hộp của anh! Không, nếu không có cách nào để giữ lại. Royal hỏi: - Được, rồi sao? Almanzo không lưu ý tới câu hỏi. Cậu tiếp tục nói: - Em hình dung không chỉ riêng ông Ingalls lâm vào tình thế khó khăn đó. Chậm rãi và có thứ tự, cậu ước lượng số thực phẩm dự trữ ở thị trấn khi xe lửa ngưng chạy rồi kể tên từng gia đình mà cậu có lí do để tin chắc là họ đã thiếu ăn. Cậu ước lượng cả số thời gian cần thiết để khai thông đường sắt sau khi bão dứt. Cậu kết luận: - Cứ cho là tháng ba thì bão ngưng. Em sẽ nêu rõ rằng dân ở đây phải ăn số lúa mì của em hoặc là chết đói trước khi thực phẩm được chở tới, phải không? Royal kết luận một cách bình thản: - Anh cho là sự thực đã khiến em thấy rõ. - Mặt khác, giả dụ rằng thời tiết này tiếp tục kéo dài tới tháng tư. Đừng quên rằng ông già da đỏ kia đã báo trước nó kéo dài bảy tháng. Nếu xe lửa không chạy trước tháng tư hoặc là người ta không đưa hạt giống tới trước thời gian đó thì em phải để dành hạt giống hoặc là mất trắng vụ mùa tới. Royal đồng ý: - Hãy nhìn theo cách đó. - Và đó là đỉnh điểm, nếu xe lửa không chạy sớm trong tháng tư thì thế nào cũng có người chết đói. Thậm chí họ đã ăn hết số lúa của em. Royal nói: - Tốt, tới lúc quyết định rồi. - Đây là quyết định. Mọi người phải đi vét số lúa đã thu hoạch được ở phía nam thị trấn. Royal chậm rãi lắc đầu: - Không ai làm điều đó hết. Mạng sống của một con người đáng giá lắm. Lập tức Almanzo tươi lại ngay. Cậu kéo bàn ăn, nhấc đống bánh kép vào đĩa của mình. Cậu hỏi một cách vui vẻ trong lúc tưới mật mía lên đống bánh đang bốc hơi: - Tốt rồi, sao không chộp lấy một cơ may? Đôi khi không thể cứ nói hoài. Royal nói: - Bốn mươi dặm! Đi ra giữa đồng cỏ kia để kiếm một cây kim trong bụi cỏ - hai mươi lăm dặm đường rồi trở về? Em đã tự biết không thể nói trước điều gì khi bão tuyết ào tới. Mình chưa hề có một ngày đẹp trời kể từ khi khởi đầu cơn bão này. Thường là chỉ có nửa ngày. Không thể làm được, Manzo. Một người sẽ không có một cái may của một trái cầu tuyết trong âm phủ. Almanzo trả lời một cách hợp lí: - Vẫn có người làm được điều đó. Em chứng minh được. Royal nói: - Đúng, nhưng hãy lo nhanh thôi! Almanzo nhắc lại một câu nói của cha: - Khi mình tin là đúng, hãy bước lên trước. Royal đáp lại bằng một câu nói của mẹ: - Hãy giữ bình an hơn là hối hận. Almanzo trả lời: - Tốt thôi, anh là một chủ cửa hàng, Roy. Một nông dân cần nắm lấy dịp may. Anh ta phải vậy. Royal nói một cách nghiêm trang: - Almanzo, nếu anh để cho em lạc mất theo cơn điên của em ở ngoài đồng cỏ thì anh sẽ phải nói sao với ba má? Almanzo đáp: - Anh cứ nói lại là anh không làm gì được, Roy. Em hoàn toàn tự do, da trắng và đã hai mươi mốt… hoặc gần như thế. Dù thế nào thì đây cũng là một xứ sở tự do còn em tự do và độc lập. Em sẽ làm như em muốn. Royal khuyên: - Đừng quá bất cẩn, Manzo. Hãy suy nghĩ cho kĩ. Almanzo nói: - Em đã suy nghĩ rồi. Royal im lặng. Cả hai lặng lẽ ngồi ăn trong hơi ấm đều đặn của lửa than và ánh sáng chiếu từ cây đèn và những cạnh thiếc phản quang. Những bức vách hơi run rẩy và bóng của cả hai trên vách khẽ lay động dưới gió thổi dài theo các mái hiên, gào thét trong các xó xỉnh và luôn rào rào như tiếng nước đang đổ xuống. Almanzo lấy thêm một chồng bánh khác. Đột nhiên, Royal đặt con dao xuống và đẩy đĩa ăn sang bên. Anh nói: - Có một điều rất chắc chắn là em sẽ không phải một mình giải quyết chuyến đi ngu dại nào cả. Nếu em thấy bắt buộc phải làm và dứt khoát làm, anh sẽ đi cùng với em. Almanzo kêu lên: - Coi này! Không thể có chuyện cả hai đứa cùng đi được! (còn nữa)