9. Cuộc chiến đấu đang diễn ra ở cửa ngõ thị trấn Ust-Medvediskaia. Grigori vừa cho con ngựa rẽ từ một con đường dùng về mùa hè sang con đường của các vị Ghet-man thì nghe thấy tiếng hoả lực pháo binh nổ ầm ì. Trên đường, chỗ nào cũng còn lưu dấu vết cuộc rút lui hấp tấp của các đơn vị Hồng quân. Hai người gặp vô số những chiếc xe hai bánh và bốn bánh bị bỏ lại. Bên ngoài thôn Madveevsky, trong cái mương xói còn nằm chỏng gọng một khẩu pháo mà trục đã bị một đạn pháo bắn gãy, chỗ ngồi cũng bị hỏng. Các đoạn dây thắng trên hai càng của phần trước đều bị chém đứt chéo. Cách con mương nửa vec-xta trên một khoảng đất mặn, thấy xác của những người lính nằm sát nhau trên lớp cỏ ngắn cháy thui dưới nắng. Họ mặc những chiếc sơ-mi và quần màu cứt ngựa, chân quấn xà cạp và đi những đôi giày da đóng cá sắt rất nặng. Đó là những chiến sĩ Hồng quân bị kỵ binh Cô-dắc truy kích đuổi kịp và chém chết. Trong khi cưỡi ngựa qua chỗ đó, nhìn thấy những đám màu rất lớn đọng trên những chiếc áo sơ-mi cứng cộm lên như bánh đa và dáng nằm của những cái xác chết, đã dễ dàng nhận định ngay như thế. Họ nằm lại đấy như những đám cỏ bị chém ngả dưới lưỡi hái. Bọn Cô-dắc đã không kịp lột quần áo của họ có lẽ chỉ vì trận truy kích còn đang tiếp diễn. Một gã Cô-dắc bị giết nằm vật bên một bụi sơn trà. Hai chân hắn dang rộng cho thấy những nẹp quần đỏ lóe. Gần đấy còn lăn kềnh một con ngựa chết lông màu hạt dẻ nhạt, với cái yên đã cũ, giá yên sơn màu vàng nghệ. Hai con ngựa của Grigori chạy đã mệt, cần được cho ăn nhưng Grigori không muốn dừng lại ở một nơi mới đây vừa diễn ra một trận chiến đấu. Chàng bèn cho ngựa chạy thêm một vec-xta nữa, xuống một cái khe, rồi ghìm ngựa. Gần đấy có một cái ao và một con đê, nước xói vào đã làm vỡ hỏng đến chân đê, đất chỗ bờ ao đã rắn lại, nứt nẻ nham nhở. Prokho vừa đi tới bờ ao thì lập tức quay trở lại ngay. - Cậu làm sao thế? - Grigori hỏi. - Anh thử tới mà xem. Grigori thôi thúc con ngựa ra tới bờ đê. Một người đàn bà bị giết nằm thõng thượt trong một chỗ đất hõm, mặt bị phủ kín dưới cái vạt váy màu lam. Hai cái chân trắng trẻo, đầy đặn dang rộng một cách trơ trẽn nom rất đáng sợ, với những bắp chân rám nắng, đầu gối hằn vài vết lúm đồng tiền. Tay trái bị bẻ ngoặt xuống dưới lưng. Grigori vội xuống ngựa, bỏ mũ, cúi xuống sửa lại cái váy trên xác người bị chết. Ngay sau khi chết, khuôn mặt còn trẻ, ngăm ngăm đen, nom vẫn còn đẹp. Một ánh đùng đục hiện lên loáng thoáng trong cặp mắt mở he hé dưới hai hàng lông mày cau lại trong đau khổ Hai hàm răng sát sin sít, sáng bóng như xà cừ, nhe ra sau cặp môi có những đường nét rất mềm mại. Một món tóc mịn màng phủ kín bên má áp xuống đất. Vài con kiến bò lăng xăng trên má bên nầy đã bị thần chết in lên những mảng bềnh bệch vàng như nghệ. - Cái lũ chó đẻ ấy đã làm chết mất một người đẹp như thế nầy? - Prokho khẽ nói. Hắn lặng đi một lát rồi phẫn nộ nhổ toẹt một bãi nước bọt. - Những thằng… những thằng thông minh như thế nầy tôi thì đem xử bắn hết! Chúng ta rời khỏi chỗ nầy thôi, anh hãy vì Chúa ráng đi! Tôi không thể nào đứng nhìn được. Lòng dạ lộn cả lên rồi đây nầy! - Có lẽ chúng ta chôn cất cho chị nầy nhé! - Grigori hỏi: - Sao lại thế, chẳng nhẽ gặp người chết nào chúng ta cũng lần lượt đem chôn cả hay sao? - Prokho phát khùng. - Ở Yagonyoe chúng ta đã đem chôn một ông lão cha căng chú kiết nào đó, đến đây lại thêm người đàn bà nầy… Nếu đem chôn tất cả thì hai bàn tay sẽ chẳng còn chỗ nào mà lên chai nữa đâu! Lại còn cái huyệt thì lấy gì mà đào bây giờ? Trời nắng thế nầy, đất bị hun rắn cứng lại sâu đến một ác-sin ấy, dùng gươm cũng không thể đào được đâu, người anh em ạ. Prokho sợ cuống cuồng, chỉ muốn lên đường ngay, thành thử mãi mới lồng được mũi ủng vào bàn đạp. Hai người lại cho ngựa chạy lên gò. Lên đến ngọn gò, Prokho từ nãy cứ băn khoăn suy nghĩ về chuyện gì không biết, bỗng hỏi: - Thế nào, anh Panteleevich, máu đổ xuống đất đến thế đã đủ chưa? - Gần đủ rồi đấy. - Thế theo ý anh cái trò nầy đã sắp chấm dứt hay chưa? - Chúng ta bị chúng nó đánh bại rồi sẽ chấm dứt. - Đến lúc ấy sẽ lại bắt đầu được hưởng một cuộc sống sung sướng, sướng chết mẹ nó đi được! Cầu sao chúng nó đánh thắng chúng ta quàng quàng lên. Trong cuộc chiến tranh với bọn Đức, thường chỉ tự bắn cho mình một viên dạn vào ngón tay là sẽ được cho về ở hẳn nhà. Bây giờ thì dù chặt phăng một cánh tay chúng nó cũng vẫn bắt ở lại hàng ngũ như thường. Khoèo tay chúng nó bắt đi, thọt cẳng chúng nó bắt đi, lác mắt chúng nó bắt đi, sa ruột chúng nó cũng bắt đi, mọi của thổ tả bất thành nhân dạng đều bị chúng bắt đi tuốt miễn là còn đứng được trên hai chân. Cứ như thế thì cái cuộc chiến tranh nầy chấm dứt làm sao cho được? Quỷ dữ bắt mẹ tất cả chúng nó đi! - Prokho nói giọng tuyệt vọng rồi rẽ khỏi đường cái, xuống ngựa, vừa rồi nới đai bụng cho con ngựa vừa lẩm bẩm nói thêm không biết những gì. Đến đêm thì Grigori cưỡi ngựa tới thôn Kovansky ở gần thị trấn Ust-Medvediskaia. Một vọng tiêu của trung đoàn ba bố trí ở đầu thôn giữ chàng lại, nhưng bọn Cô-dắc đã nhận ra tiếng sư đoàn trưởng của chúng. Để trả lời câu hỏi của Grigori, chúng cho chàng biết rằng ban chỉ huy sư đoàn đang đóng ở ngay thôn nầy và gã trung uý trưởng ban tham mưu Kopylov đang mong chờ chàng từng giờ từng phút. Đội trưởng vọng gác là một gã rất lắm mồm. Sau khi cắt một gã Cô-dắc đưa chàng về chỗ ban chỉ huy, cuối cùng gã nói thêm: - Chúng nó củng cố trận địa vững vàng lắm, thưa anh Grigori Panteleevich, có lẽ chúng ta đánh chiếm Ust-Medvediskaia không phải là chuyện chóng vánh đâu. Nhưng sau nầy như thế nào tất nhiên ai mà biết được… Lực lượng của chúng ta cũng khá đầy đủ. Nghe nói quân đội Anh đang tiến từ Morozovskaia tới. Anh có được biết về chuyện ấy không? - Không? - Grigori vừa thúc ngựa vừa trả lời. Trong ngôi nhà dùng làm trụ sở của ban chỉ huy sư đoàn bao nhiêu cửa chớp đều đóng kín mít Grigori cứ tưởng trong các phòng đều đóng kín mít không có ai, nhưng chàng vừa bước vào hành lang đã nghe thấy những tiếng nói trầm trầm sôi nồi. Vì vừa đi trong bóng đêm đen tối nên chàng đã bị loá mắt vì ánh sáng của một ngọn đèn lớn treo trên trần phòng trong. Mùi khói thuốc lá hạng tồi nồng nặc hắc hắc đập vào mũi chànbớ - Cuối cùng anh cũng về đây rồi? - Kopylov ló mặt ra từ trong đám khói thuốc lá bốc cuồn cuộn trên cái bàn, nói giọng sung sướng. - Chúng tôi đợi người anh em đã mòn con mắt rồi đấy! Grigori chào hỏi những tên có mặt trong phòng, cởi áo ca-pốt, bỏ mũ rồi bước tới gần cái bàn. - Chà, các cậu hun khói đến ghê? Chẳng làm thế nào thở được nữa. Ít nhất cũng mở một cái cửa sổ ra chứ? Sao lại nhốt kín nhau trong phòng thế nầy? - Chàng cau mày nói. Gã Kharlampi Ermakov ngồi bên cạnh Kopylov mỉm cười: - Chúng tôi ngửi đã quen nên chẳng cảm thấy gì nữa. -Rồi hắn huých khuỷu tay đập vỡ một mảnh kính trên cửa sổ, đẩy mạnh một cánh cửa chớp ra. Không khí mát rượi của trời đêm ập vào trong phòng. Ngọn đèn sáng bừng lên rồi tắt ngấm. - Thật là ra dáng một ông chủ! Việc gì mà cậu phải đập vỡ miếng kính như thế? - Kopylov đưa hai bàn tay sờ soạng trên mặt bàn, nói giọng bực bội. - Ai có diêm nào? Cẩn thận kẻo bên cạnh bản đồ có lọ mực đấy. Mấy gã châm ngọn đèn, đóng lại cánh cửa sổ, rồi Kopylov vội nói ngay: - Đồng chí Melekhov ạ, tình hình mặt trận hôm nay như thế nầy nầy: bọn Đỏ cố giữ Ust-Medvediskaia, chúng phòng thủ thị trấn về ba mặt với lực lượng pháo binh và súng máy khá đầy đủ. Chúng đã đào chiến hào ở gần nhà tu và ở nhiều địa điểm khác nữa. Các cao điểm ven sông Đông đã bị chúng nó chiếm giữ. Anh xem đấy, trận địa của chúng nó tuy không thể nói là vững như bàn thạch, nhưng dù sao đánh chiếm được cũng là việc khá gay go đấy. Về phía ta, ngoài sư đoàn của tướng Fitkeliurov và hai chi đội xung kích gồm toàn sĩ quan, tham gia tấn công còn có toàn bộ lữ đoàn Sáu của Bogaturev và sư đoàn Một của chúng ta. Song sư đoàn ta không có đủ quân số, không có trung đoàn bộ binh vì hiện nay nó vẫn còn ở một chỗ nào đó gần Ust-Khopeskaia. Còn các trung đoàn kỵ binh thì đều đã có mặt, song quân số các đại đội hoàn toàn không thể nói là đầy đủ - Cứ lấy trung đoàn của tôi làm thí dụ thì rõ, đại đội ba vẻn vẹn còn ba mươi tám thằng. - Tên chuẩn uý Dudarev, trung đoàn trưởng trung đoàn Hai nói. - Thế trước kia bao nhiêu? - Ermakov hỏi. - Trước kia chín mươi mốt. - Sao cậu lại dám cho phép cả một đại đội về nhà? Cậu làm trung đoàn trưởng cái kiểu gì thế hử? - Grigori cau mày, vừa hỏi vừa gõ gõ những ngón tay xuống bàn. - Nhưng quỷ quái nào giữ nổi chúng nó bây giờ? Chúng nó bỏ nhau về các thôn, thăm gia đình làng xóm. Song bây giờ đã đang lục tục kéo về đấy. Hôm nay lại về thêm ba thằng. Kopylov đẩy tấm bản đồ về phía Grigori, đưa ngón tay út chỉ địa điểm bố trí của các đơn vị rồi nói: - Chúng ta còn chưa tham gia tấn công. Hôm qua sư đoàn ta chỉ có trung đoàn Hai tấn công theo đội hình bộ binh trong khu vực nầy, nhưng không thu được kết quả. - Thương vong có nhiều không? - Theo báo cáo của trung đoàn trưởng thì hôm qua chết và bị thương mất hai mươi sáu. Cán cân lực lượng thì như thế nầy, chúng ta chiếm ưu thế về quân số, nhưng thiếu súng máy để yểm hộ cho bộ binh tấn công, tình hình đạn pháo gay go. Trưởng ban quân khí của bên chúng nó có hứa rằng ngay sau khi có đạn chở đến sẽ cho chúng ta bốn trăm quả đạn pháo và mười lăm vạn viên đạn súng trường. Nhưng có trời biết đến bao giờ mới có! Mà ngày mai đã phải tấn công rồi, mệnh lệnh của tướng Fitkhelaurov là như thế. Ông ta đề nghị chúng ta điều một trung đoàn tới chi viện các đơn vị xung kích. Hôm qua chúng nó đã xung phong đến bốn lần, tổn thất rất nhiều. Chúng nó chiến đấu gan góc lì lợm như quỷ dữ ấy. Bây giờ thế nầy, Fitkhelaurov đề nghị tăng cường cánh bên phải và chuyển trung tâm đột kích đến chỗ nầy, anh thấy không? Địa hình khu vực nầy cho phép tiến sát chiến hào của địch tới một trăm, một trăm năm mươi xa-gien. Nhân tiện tôi cũng nói thêm rằng thằng phó quan của ông ta vừa ở đây về. Hắn chuyển đến cho chúng ta một mệnh lệnh bằng lời, bảo chúng ta sáu giờ sáng mai đến họp bàn về cách hợp đồng tác chiến. Hiện giờ tướng Fitkhelaurov và ban chỉ huy sư đoàn của ông ta đang ở thôn Đại Xênhin. Nói chung, nhiệm vụ của chúng ta quy lại là phải lập tức đánh bật quân địch trước khi chúng nó điều được viện binh từ nhà ga Xerebriakovo tới. Bên kia sông Đông, quân chúng ta hoạt động cũng không tích cực lắm đâu… Sư đoàn Bốn đã vượt sông Khop, nhưng bọn Đỏ đã đặt sẵn những lực lượng đánh chặn rất mạnh, và chúng nó cố sống chết cắt con đường tiến về phía đường sắt. Ngoài ra hiện nay chúng nó đã bắc xong một chiếc cầu phao qua sông Đông và ra sức chuyển trang bị đạn dược ra khỏi Ust-Medvediskaia. - Bọn Cô-dắc đồn rằng hình như quân đồng minh đang kéo đến, chuyện ấy có đúng không? - Có phong phanh là từ Chernusevskaia đang tiến về đây vài đại đội pháo và một số xe tăng của quân Anh. Nhưng vấn đề là chúng nó làm thế nào đưa nổi những chiếc xe tăng ấy qua sông Đông. Theo tôi thì cái chuyện xe tăng chỉ là chuyện bịa? Chúng nó bàn tán về xe tăng đã lâu lắm rồi… Trong phòng lặng đi một lúc lâu. Kopylov cởi khuy chiếc áo quân phục cổ bẻ màu nâu của sĩ quan, chống hai bàn tay lên cặp má phinh phính mọc lồm xồm những đám râu màu hạt dẻ cứng như rễ tre. Vẻ mặt đăm chiêu, hắn nhai nhat rất lâu mẩu thuốc lá đã tắt ngấm. Hai con mắt đen, tròn xoe, rất xa tinh mũi của hắn nheo nheo một cách mệt mỏi, khuôn mặt đẹp trai tiều tụy hẳn đi vì những đêm không ngủ. Trước kia Kopylov vốn là giáo viên trong một trường nhà chung của giáo khu, cứ chủ nhật lại đến chơi nhà bọn lái buôn trong thị trấn, đánh xtu-con-ca với vợ và đánh prê-phê-ran-xơ với chồng, mỗi ván chỉ đặt rất ít tiền. Hắn chơi ghi-ta rất giỏi và là một thanh niên vui nhộn, hồ hởi. Rồi hắn lấy một cô giáo trẻ và chưa biết chừng sẽ cứ sống mãi như thế trong thị trấn cho đến khi về hưu. Nhưng khi chiến tranh bùng nổ hắn bị gọi ra lính. Sau khi tốt nghiệp trường Yunke, hắn bị đưa sang Mặt trận MiềnTây tới một trung đoàn Cô-dắc. Chiến tranh đã chẳng thay đổi gì tính tình cũng như cái dáng dấp con người của Kopylov. Trong cái thân hình béo lùn, trong cách đeo gươm của hắn, trong cả lối hắn nói năng với cấp dưới đều toát ra một cái gì hoàn toàn vô thưởng vô phạt, chẳng quân sự chút nào. Giọng nói của hắn thiếu hẳn cái âm sắc kim khí lanh lảnh cần có khi ra lệnh, Trong khi nói chuyện hắn không có cái lối diễn đạt vắn tắt khô khan của tầng lớp quân nhân. Bộ quân phục sĩ quan trên người hắn bao giờ cũng rộng thùng thình. Ba năm sống trên mặt trận vẫn chưa làm cho hắn có được một tư thế quân nhân chỉnh tề đĩnh đạc. Ở hắn bất kỳ cái gì cũng đều chứng tỏ một con người ngẫu nhiên rơi vào chiến tranh. Nom hắn giống một anh chàng "xi vin" phát phì cải trang làm sĩ quan hơn là một tên sĩ quan chính cống. Tuy vậy bọn Cô-dắc vẫn kính trọng hắn, lời hắn nói được lắng nghe trong các cuộc hội nghị tham mưu và những tên chỉ huy của quân phiến loạn rất quý hắn vì đầu óc hắn tỉnh táo sáng suốt, tính hắn dễ dãi nhường nhịn, không thích ra dáng vẻ, và lòng can đảm của hắn đã được tỏ rõ nhiều lần trong chiến đấu. Trước Kopylov, trưởng ban tham mưu ở chỗ Grigori tà Krugiulin, một gã thiếu uý vô học và thiếu thông minh. Tên nầy đã bị giết trong một trận chiến đấu bên kia sông Tria. Sau khi lên nắm ban tham mưu, Kopylov đã điều hành công việc một cách khéo léo, thận trọng và thông minh. Hắn ngồi lì trong ban tham mưu nghiên cứu các kế hoạch chiến đấu một cách có lương tâm cũng như xưa kia hắn chữa bài cho học sinh, nhưng khi cần thiết, vừa có lệnh của Grigori là hắn quẳng ban tham mưu đấy, để lên ngựa, nắm quyền chỉ huy một trung đoàn, lôi trung đoàn dó xông lên chiến đấu. Hồi đầu, đối với tên trưởng ban tham mưu mới, Grigori không phải không có định kiến, nhưng hai tháng sau chàng đã hiểu sâu hơn về hắn và một hôm chàng đã nói thẳng với hắn sau một trận chiến đấu: "Kopylov ạ mình đã có những ý nghĩ rất tồi về cậu, nhưng bây giờ mình đã thấy rằng mình nhầm. Chỉ có thế thôi, cậu hãy thứ lỗi cho mình". Kopylov chỉ mỉm cười, không nói gì cả, nhưng thật ra mấy lời nhận lỗi có phần thô bạo của Grigori đã làm hắn hả lòng hả dạ. Không hiếu danh, cũng không có những quan điểm chính trị dứt khoát Kopylov coi chiến tranh chỉ như một điều bất hạnh không thế nào tránh được, song hắn cũng không mong chờ chiến tranh chấm dứt. Ngay lúc nầy hắn cũng hoàn toàn không nghĩ gì tới diễn biến của trận chiến đấu đánh chiếm Ust-Medvediskaia, mà chỉ nhớ tới những người trong gia đình và cái thị trấn chôn nhau cắt rốn của hắn. Hắn cứ nghĩ thầm, bây giờ mà được chuồn về nhà, nghỉ phép chừng tháng rười thì thú biết bao… Grigori nhìn Kopylov giờ lâu rồi đứng dậy: - Thôi các thầy quyền ngự lâm, chúng ta giải tán về đi ngủ thôi. Bọn mình chẳng cần phải đau đầu suy nghĩ về chuyện đánh chiếm Ust-Medvediskaia làm gì. Bây giờ đã có các ông tướng tính toán và quyết định thay cho chúng ta rồi. Ngày mai chúng ta sẽ đến chỗ Fitkhelaurov để hắn mở mắt cho những thằng khốn khổ như chúng ta… Còn về chuyện trung đoàn Hai thì mình nghĩ như thế nầy: trong lúc quyền hành vẫn còn trong tay chúng ta, ngay hôm nay phải cách chức trung đoàn trưởng Dudarev, tước hết quân hàm, huân chương… - Và cả suất cháo. - Ermakov nói xen vào. - Không, đừng có đùa, - Grigori nói tiếp, - ngay hôm nay phải cho hắn xuống làm đại đội trưởng và cử Kharlampi chỉ huy thay. Ermakov ạ, cậu vù ngay đến đấy đi, cậu nhận lấy trung đoàn và sáng mai chờ lệnh của chúng mình. Mệnh lệnh cách chức Dudarev, Kopylov sẽ viết ngay bây giờ, cậu hãy mang theo. Như mình thấy, Dudaev không thể làm nổi công việc nầy đâu. Hắn chẳng hiểu quỷ quái gì cả, không khéo lại làm cho anh em Cô-dắc giơ đầu chịu báng lần nữa. Cái lối đánh đấm của bộ binh nó đòi hỏi… Nếu thằng chỉ huy có một đầu óc ngu xuẩn thì rất dễ đưa con nhà người ta tới chỗ chết. - Đúng đấy. Tôi tán thành việc thay Dudarev. - Kopylov nói. - Còn cậu thì thế nào. Ermakov cậu phản đối à? - Grigori nhìn mặt Ermakov thấy hắn có vẻ không vừa ý bèn hỏi. - Không mà, tôi có gì đâu. Tôi động đậy lông mày một chút cũng không được hay sao? - Thế thì càng tốt. Ermakov không phản đối rồi. Riaptrikov sẽ tạm thời nắm trung đoàn kỵ binh của cậu ấy. Thôi viết ngay đi, ngài Mikhailo Grigorieevich, viết xong mệnh lệnh rồi vào mà đánh một giấc đến sáng. Chúng ta sẽ tới gặp cái ông tướng ấy. Chúng mình sẽ mang theo bốn liên lạc. Kopylov ngạc nhiên giương cao hai hàng lông mày. - Đem chúng nó đi nhiều thế làm gì? - Cho ra vẻ một chút! Chúng mình đâu phải là những thằng ngốc nghếch ngu xuẩn, chẳng gì cũng chỉ huy một sư đoàn. - Grigori mỉm cười châm biếm, ngọ nguậy hai vai, khoác đại khái chiếc áo ca-pốt rồi bước ra ngoài cửa. Chàng trải một tấm áo ngựa, không tháo ủng mà cũng chẳng bỏ áo ca-pốt, nằm ngủ ngay dưới hiên nhà kho. Ngoài sân, bọn liên lạc vẫn còn làm ồn ào rất lâu. Ở một chỗ nào đó gần đấy, vài con ngựa thở phì phì và nhai thóc đều đều. Nồng nặc mùi phân khô và mùi đất bị nắng ban ngày hun nóng còn chưa nguội. Những tiếng nói tiếng cười của bọn liên lạc vẳng đến tai Grigori trong lúc chàng đã thiu thiu. Chàng nghe thấy một gã, giọng có vẻ còn trẻ, vừa thắng yên con ngựa, vừa thở dài nói: - Chà anh em ạ, sống như thế nầy mà cũng gọi là sống à? Đêm hôm khuya khoắt thế nầy cũng vẫn phải mang công văn đi, chẳng được ngủ ngáy, cũng chẳng có phút nào yên ổn… Nhưng có đứng yên không, đồ quỷ sứ? Cái chân! Cái chân, bảo mày kìa? Một tên khác khẽ hát bằng một giọng trầm trầm, khàn khàn như bị cảm lạnh: Chán ngấy đời lính Toàn thân buồn phiền Đã vì mày cưỡi chết bao ngựa chiến… Rồi hắn chuyển ngay sang một giọng van lơn liến thoắng rất ăn người: - Prokho nầy, cho mình dúm thuốc cuốn một điếu nào? Cậu thật là một thằng vắt cổ chầy ra nước? Cậu quên rằng hồi ở gần Belavin mình đã cho cậu một đôi giầy da của bọn Hồng quân rồi à? Cậu lồi thật đấy? Một thằng khác mà được đôi giầy thì có lẽ suốt đời không quên đâu, còn cậu thì một điếu thuốc cũng chẳng chịu nhả ra? Có tiếng hàm thiếc lách cách trên răng ngựa. Con ngựa thở dài, tiếng thở như rút từ trong ruột ra. Rồi nói cất bước, bốn vó đập khô khan trên chất đất khô, rắn như đá. "Đứa nào cũng nói đến chuyện đó… Chán ngấy đời lính, toàn thấy buồn phiền", - Grigori mỉm cười thầm nhẩm lại câu hát rồi lại thiếp đi ngay. Chàng vừa chợp mắt thì nằm mơ ngay một giấc mà trước kia chàng đã có lần mới thấy rồi: những tuyến tản khai của Hồng quân đang tiến trong những đám rạ cao trên cánh đồng nâu nâu. Tuyến tản khai đầu tiên kéo dài vô tận, nhìn đến đâu cũng vẫn còn. Phía sau vẫn còn sáu bảy tuyến nữa. Bên tấn công tiến tới mỗi lúc một gần trong bầu không khí chết lặng nặng nề. Những hình người đen đen mỗi lúc một to dần và cuối cùng đã thấy những người lính đội mũ có tai, miệng mở hoác nhưng không kêu lên tiếng gì cả, đang cầm ngang cây súng trường, vừa chạy vừa vấp chân. Họ chạy mãi, chạy mãi và đã tới tầm bắn. Nằm trong một dãy chiến hào nông hoen hoẻn, Grigori liên tiếp kéo quy-lát nổ súng rất nhanh. Những phát đạn của chàng làm những chiến sĩ Hồng quân ngãn vật ra. Chàng nhét một kẹp đạn mới vào súng và đưa mắt nhìn quanh trong một giây và thấy bọn Cô-dắc đang nhảy ra từ những dãy chiến hào bên cạnh. Chúng quay đầu chạy bán sống bán chết, mặt méo xệch vì kinh hoàng. Grigori nghe thấy tiếng tim mình đập một cách khủng khiếp. Chàng kêu lên: "Bắn đi chứ! Lũ khốn kiếp! Chạy đi đâu? Đứng lại, không chạy nữa? Chàng cố hết sức gào thật to, nhưng giọng chàng lại yếu lạ lùng, chỉ hơi nghe thấy. Bản thân chàng cũng bị cái sợ xâm chiếm? Chàng cũng nhảy chồm dậy, và khi đã đứng lên rồi, chàng nổ súng lần cuối cùng vào một chiến sĩ Hồng quân đã có tuổi, da mặt ngăm ngăm, đang lầm lì chạy thẳng tới trước mặt mình, và thấy rằng mình bắn trượt. Người chiến sĩ Hồng quân có bộ mặt gan lì sôi nổi và nghiêm nghị. Anh ta chạy nhẹ nhàng, hai chân gần như không chạm đất, lông mày giương lên, mũ hất ra sau gáy, tà áo ca-pốt vén sang hai bên. Trong khoảnh khắc nào đó, Grigori liếc nhìn kẻ địch đang chạy tới, thấy một cặp mắt long lanh, hai gò má nhợt nhạt, bộ râu mới mọc loăn xoăn, chàng thấy hai cái ống ủng vừa rộng vừa ngắn, con mắt đen ngòm của nòng súng hơi chúc xuống và trên đầu súng còn có cái mũi lưỡi lê sẫm sẫm đưa đi đưa lại đều đặn theo nhịp bước chân. Grigori xâm chiếm bởi một nỗi kinh hoàng không thể giải thích nổi. Chàng kéo khoá hậu của khẩu súng trường nhưng không kéo được: nó bị hóc. Trong cơn tuyệt vọng, Grigori đập bừa cái khoá hậu vào đầu gối, nhưng chẳng có kết quả gì! Lúc nầy người chiến sĩ Hồng quân chỉ còn cách chừng năm bước. Grigori quay đầu chạy. Trước mặt chàng trên khắp cánh đồng nâu nâu trơ trụi đều đầy những tên Cô-dắc đang bỏ chạy. Grigori đã nghe thấy sau lưng tiếng thở nặng nề của kẻ địch đuổi theo mình, nghe thấy tiếng chân hắn chạy rầm rập vang rất to, nhưng chẳng làm thế nào chạy nhanh hơn. Chàng phải cố gắng một cách khủng khiếp mới có thể bắt hai cái chân bất lực chỉ muốn khuỵu xuống phải chạy nhanh hơn. Cuối cùng chàng chạy tới một nơi nghĩa địa âm u, gần hoàn toàn đổ nát, nhảy qua một dãy hàng rào xiêu vẹo, chạy len lỏi giữa những nấm mồ đã lún dụi, những cây thánh giá và những cái miếu nghiêng ngả. Chỉ cần cố gắng thêm một chút là có thể chạy thoát. Nhưng tiếng chân thình thịch phía sau nghe mỗi lúc một to hơn, vang hơn. Hơi thở nóng rực của kẻ đuổi theo Grigori như làm cổ chàng cháy bỏng và trong khoảnh khắc ấy, chàng cảm thấy như mình đã bị kẻ kia túm chặt lấy đai áo và vạt áo ca-pốt. Grigori kêu lên một tiếng khản đặc rồi tỉnh dậy. Chàng đang nằm ngửa, hai chân bị đôi ủng quá chật bó chặt, tê dại. Mồ hôi lạnh ngắt toát ra trên trán, toàn thân đau dần như vừa bị một trận đòn hội chợ. "Chà cái anh nầy, mẹ khỉ…" - Chàng nói giọng khàn khàn và sung sướng lắng nghe giọng nói của chính mình song vẫn còn chưa tin rằng tất cả những điều mình vừa thấy chỉ là một giấc mộng. Sau đó chàng xoay mình nằm nghiêng, kéo tà áo ca-pốt lên trùm đầu và nghĩ thầm: "Đáng là cứ để nó xông tới, tránh miếng đòn của nó, đánh báng súng cho nó ngã xuống, rồi hãy chạy…". Chàng suy nghĩ một lát về giấc mơ mà mình vừa thấy lần thứ hai, trong lòng bồi hồi sung sướng vì tất cả những điều đó chỉ là một cơn ác mộng và thực tế tạm thời còn chưa có điều gì đe doạ mình. "Kỳ quặc thật, tại sao trong một giấc mộng mọi chuyện diễn ra khủng khiếp gấp mười lần trong đời sống như thế nhỉ? Suốt đời mình chưa từng có một mẻ sợ như thế bao giờ, dù cho mình đã gặp phải bao nhiêu khó khăn gian nan rồi!" - Chàng duỗi hai cái chân tê dại một cách khoái trá, nghĩ thầm và ngủ thiếp đi. 10. Trời vừa rạng thì Kopylov đánh thức chàng dậy. - Dậy đi thôi, đã đến lúc sửa soạn lên ngựa thì vừa? Mệnh lệnh là sáu giờ phải có mặt đấy. Tên tham mưu trưởng vừa cạo râu xong, hắn đã đánh ủng và mặc một chiếc áo quân phục cổ bẻ nhầu nát nhưng sạch sẽ. Xem ra hắn cũng có lo đến muộn: cặp má phinh phính của hắn bị sướt hai vết dao cạo. Trên toàn bộ dáng dấp con người của hắn thấy hiện lên một vẻ tự nhiên nghiêm chỉnh bảnh bao trước kia đâu có thể nhận thấy ở hắn. Grigori nhìn Kopylov từ chân lên đầu như có ý chỉ trích. Chàng nghĩ thầm: "Hôm nay anh chàng lại làm dáng làm đỏm đến thế nầy. Xem ra hắn cũng không muốn ra mắt ông tướng một cách lùi xùi." Tựa như theo dõi được các ý nghĩ trong đầu óc Grigori, Kopylov nói: - Đến đấy mà ăn vận bừa bãi dơ dáy thì cũng không tiện. Cả anh, tôi cũng khuyên nên sửa sang con người cho chỉnh tề một chút. - Như thế nầy cũng được rồi! Grigori vươn vai, lẩm bẩm. - Thế cậu bảo rằng có lệnh sáu giờ phải có mặt à? Chúng nó bắt đầu ra lệnh cho mình với cậu rồi phải không? Kopylov nhún vai khẽ cười; - Thời thế mới thì bài hát cũng phải mới. Tính theo cấp bậc thì chúng mình là những kẻ phải phục tùng. Fitkhelaurov là một cấp tướng, ông ta đâu ở vào cái thế phải đến gặp chúng ta. - Đúng như thế đấy. Muốn có cái gì thì đã có được cái ấy rồi đấy. Grigori nói rồi đi ra giếng lau rửa. Mụ chủ nhà chạy vào trong nhà, lấy ra một chiếc khăn bông sạch, cúi chào đưa cho Grigori. Grigori dùng một đầu khăn cọt sát một cách tức tối bộ mặt đỏ như gạch bị nước lạnh làm cho nóng bỏng. Chàng thấy Kopylov bước tới, bèn bảo hắn: - Đúng là thế đấy, nhưng có một điều là các ngài tướng lĩnh còn phải nghĩ tới chuyện khác nữa: từ cách mạng tới nay, nhân dân đã đổi khác rồi! Nhưng các ông ấy vẫn cứ dùng cái thước cũ mà đo. Cái thước ấy sẽ gẫy lúc nào không biết cho mà xem… Các ông ấy chuyển hướng còn ì ạch lắm. Phải lấy dầu bánh xe bôi vào óc các ông ấy cho khỏi rít mới được! - Như thế là anh định nói về chuyện gì vậy? - Kopylov hỏi một cách lơ đãng và thổi một cọng rác trên tay áo. - Về chuyện tất cả bọn họ đều đang đi lạc theo con đường cũ. Như mình đây đã kiếm được cái quân hàm sĩ quan từ cuộc chiến tranh chống Đức. Đã đổ máu ra để đổi lấy nó đấy! Nhưng mình lọt vào giới sĩ quan thì cũng chẳng khác gì bước trong nhà ra ngoài trời giữa lúc băng giá mà chỉ mặc độc một chiếc quần lót. Cái lạnh buốt toát ra từ người chúng nó thấm vào mình, làm mình rùng cả lưng? - Grigori căm phẫn long lanh hai con mắt và giật giọng to tiếng lúc nào không biết. Kopylov đưa mắt nhìn quanh có vẻ bực mình, hắn khẽ nói: - Anh nói khẽ một chút, bọn liên lạc nghe thấy đấy. - Một câu hỏi tự nhiên phải được đặt ra: tại sao lại như thế? - Grigori hạ thấp giọng nói tiếp. - Chính là vì đối với họ mình là một con quạ trắng. Họ thì có hai bàn tay, còn mình chỉ có hai cái vó ngựa do những vết chai sần cộm lại từ trước! Chân họ đi đứng cứ nhẹ như không, còn mình thì hễ quay đi quay lại là vướng vào đủ mọi thứ. Người họ nặc mùi xà phòng thơm và đủ mọi thứ pom-mát của đàn bà, còn mình thì chỉ có mùi nước đái ngựa và mồ hôi ngựa. Tất cả bọn họ đều được học hành tử tế, còn mình thì trầy trật mãi mới tốt nghiệp được trường nhà chung. Mình khác họ từ đầu đến gót. Duyên cớ tất cả là như thế đấy! Vì thế hễ ở chỗ họ ra, là mình cảm thấy hoàn toàn thua kém, cứ như có một cái mạng nhện vướng trên mặt, ngứa ngáy khó chịu một cách khủng khiếp, chỉ muốn tắm rửa ngay cho nó hết mùi. Grigori ném chiếc khăn mặt lên cái khung gỗ quanh giếng rồi chải đầu bằng một mảnh lược xương. Vừng trán không bị rám nắng nổi bật trên khuôn mặt xạm đen của chàng. - Họ không muốn hiểu rằng tất cả những cái gì của cái thời xứa kia đều đổ bà nó cả rồi! - Grigori càng nói khẽ hơn. - Họ tưởng rằng chúng ta được nặn ra bằng một thứ bột khác, và những con người không có nhiều chữ nghĩa, những kẻ xuất thân từ đám dân thường đều chỉ như loài trâu loài ngựa. Họ tưởng rằng trong công việc nhà binh mình hoặc một anh chàng nào khác như mình không thể hiểu biết được bằng họ. Nhưng ở bên bọn Đỏ thì những con người như thế nào làm chỉ huy? Budionnyi đã từng làm sĩ quan chưa? Một bàn tay quản của quân đội cũ, chẳng phải hắn đã nện cho bươu đầu sứt trán các ông tướng trong bộ tổng tư lệnh hay sao? Chẳng phải vì hắn mà các trung đoàn sĩ quan cứ giậm chân tại chỗ hay sao? Guxensikov là ông tướng thiện chiến nhất, nổi tiếng nhất trong đám tướng lĩnh Cô-dắc thế mà mùa đông vừa qua chẳng phải ông ta đã phải cưỡi ngựa chạy bán sống bán chết khỏi Ust-Medvediskaia với độc một bộ đồ lót đấy hay sao? Thế cậu có biết người nào đã đuổi cho ông tướng ấy chạy tóe khói như thế hay không? Một anh chàng thợ nguội nào đó ở Moskva, trung đoàn trưởng một trung đoàn Hồng quân. Sau đó bọn tù binh có cho mình biết về anh ta. Những điều đó cần phải hiểu mới được! Còn những thằng sĩ quan ít chữ nghĩa như chúng ta, chẳng nhẽ trong cuộc bạo động chúng ta đã chỉ huy bọn Cô-dắc tồi lắm hay sao? Thử hỏi các ông tướng ấy có giúp đỡ chúng ta được nhiều lắm không? - Họ đã giúp đỡ không ít đâu. - Kopylov trả lời giọng ra vẻ thâm thuý. - Ừ có thể là họ đã có giúp Kudinov, nhưng mình đã tiến quân, đã nện bọn Đỏ mà chẳng được ai giúp đỡ, chẳng nghe theo lời khuyên của người nào khác. - Như vậy là thế nào: anh phủ nhận tác dụng của khoa học trong các vấn đề quân sự à? - Không, mình không phủ nhận khoa học. Song người anh em ạ, đó không phải là điều chủ chốt trong chiến tranh đâu. - Thế là cái gì, anh Pantelevich? - Là lý tưởng làm mục đích cho chiến tranh. - Chà đây lại là một chuyện khác… - Kopylov mỉm cười có ý đề phòng và nói - Đương nhiên như thế rồi… Trong vấn đề nầy, tất nhiên lý tưởng là điều chủ chốt. Chỉ kẻ nào biết chắc chắn rằng mình chiến đấu vì mục đích gì và tin tưởng vào sự nghiệp của mình thì mới có thể chiến thắng. Cái chân lý ấy nó cổ kính chẳng kém gì trái đất nầy; và nếu anh tưởng rằng anh đã phát hiện ra nó thì hoàn toàn không đúng đâu. Tôi bảo vệ cái cũ, cái thời tươi đẹp xưa kia. Nếu không tôi đã chẳng buồn động ngón tay để đi đến không biết nơi nào và đánh đấm chẳng biết để làm gì nữa. Tất cả những ai đi cùng đường với chúng ta đều là những con người dùng sức mạnh của vũ khí để bảo vệ các đặc quyền đặc lợi trước kia của mình, để trấn áp đám dân chúng nổi loạn. Và trong số những kẻ đi trấn áp ấy có cả tôi và anh. Nhưng anh Grigori Pantelevich ạ, từ lâu tôi đã để ý nhìn các việc làm của anh, nhưng chẳng làm thế nào hiểu anh được… - Rồi sau nầy cậu sẽ hiểu. Ta đi đi thôi. - Grigori nói rồi bước về phía nhà kho. Người chủ nhà muốn lấy lòng Grigori, cứ theo dõi từng cửa chỉ của chàng. Mụ hỏi: - Có lẽ ngài dùng ít sữa chăng? - Cám ơn bà mẹ, chẳng làm gì có thì giờ ăn sữa đâu. Để lần khác vậy! Prokho Zukov đứng bên cạnh nhà kho đang cầm một bát sữa chua ăn lấy ăn để. Thấy Grigori tháo ngựa, hắn cũng chẳng buồn chớp mắt, chỉ đưa tay áo lên chùi mép và hỏi: - Anh đi có xa không? Có cần tôi đi với không? Grigori tức sôi lên. Chàng nói với một vẻ giận dữ lạnh như tiền: - Đồ ôn dịch nầy, trong đầu óc có được những gì, không hiểu công tác phải làm gì à? Tại sao lại buộc mõm ngựa lên thế nầy? Đứa nào có nhiệm vụ mang ngựa cho tao hử? Chỉ được cái ăn như thần trùng. Hốc mãi mà chưa phễnh bụng à? Thôi quẳng cái muỗng đi! Không còn biết kỷ luật nữa à? Đồ quỷ, đồ khốn kiếp! - Nhưng tại sao anh lại tự nhiên hoá điên hoá ngộ lên như thế? - Sau khi đã ngồi vững vàng trên yên, Prokho làu bàu, giọng bực bội. Chẳng có chuyện gì mà cũng gào lên. Làm như ông lớn ấy không bằng! Thế trước khi lên đường tôi ăn qua một miếng cũng không được hay sao? Sao thế, có gì mà anh ầm ĩ lên như thế hử? - Vì cậu có thể làm mình mất đầu được đấy, đồ ruột lợn? Cậu nói năng với mình như thế đấy hử? Bây giờ chúng mình đi gặp một ông tướng đây, vì thế cậu hãy liệu cái thần hồn! Nếu không cứ quen cái thói suồng sã bừa bãi? Mình là thế nào đối với cậu hử? Đi lui về phía sau năm bước! Grigori vừa ra lệnh vừa cho ngựa ra khỏi cổng. Prokho và ba gã liên lạc kia ghìm ngựa một chút. Grigori cưỡi ngựa bên cạnh Kopylov, tiếp tục câu chuyện đang nói dở. Chàng hỏi bằng một giọng châm biếm: - Thế nào, như vậy thì có điều gì mà cậu còn chưa hiểu? Có lẽ mình phải nói rõ cho cậu biết mới được. Kopylov không chú ý tới tính chất châm biếm trong giọng nói và hình thức của câu hỏi. Hắn trả lời: - Tôi không nắm được lập trường của anh trong công việc mà chúng ta đang làm, vấn đề là như thế đấy! Một mặt thì anh chiến đấu để bảo vệ cái cũ, như mặt khác anh lại có phần, tôi xin lỗi vì nói năng gay gắt, lại có phần hao hao như một tên Bolsevich ấy. - Mình Bolsevich ở chỗ nào? - Grigori cau mày, dướn mạnh một cái để ngồi lại trên yên. - Tôi không nói là Bolsevich, mà nói có phần hao hao như một tên Bolsevich. - Cũng thế cả thôi. Nhưng ở chỗ aao? Mình hỏi cậu ở chỗ nào? - Cứ xem ngay những lời anh nói về giới sĩ quan và thái độ của họ đối với anh cũng đã rõ. Vậy anh muốn gì về phía những con người ấy? Đích xác anh muốn như thế nào? - Kopylov mỉm một nụ cười đôn hậu, vừa nghịch nghịch cái roi ngựa vừa hỏi vặn. Hắn ngoái nhìn mấy gã liên lạc thấy bọn kia đang tranh cãi sôi nổi không biết về chuyện gì bèn nói to hơn - Anh cảm thấy bị xúc phạm vì họ không tiếp nhận anh vào trong bọn họ như một kẻ bình đẳng, vì họ có thái độ kẻ cả đối với anh. Nhưng đứng trên quan điểm của họ thì họ đúng, đó là điều cần phải hiểu. Thật ra tuy anh cũng là sĩ quan, nhưng một sĩ quan rơi vào giới sĩ quan một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Dù có đeo những cái lon sĩ quan, nhưng xin anh thứ lỗi cho, anh vẫn cứ là một gã Cô-dắc thô lỗ. Anh không biết cách đi đứng nói năng lịch sự, lời nói thì vừa sai vừa thô bạo. Anh thiếu tất cả các đức tính mà một con người có học vấn cần phải có. Chẳng hạn như đáng lẽ dùng khăn tay như tất cả những người có văn hoá thường làm, anh lại sỉ mũi bằng hai ngón tay. Trong khi ăn anh không chùi tay vào ống ủng thì cũng chùi lên tóc. Sau khi tắm xong anh không ngại lau mặt bằng một tấm áo ngựa, móng tay thì lấy răng cắn hoặc cắt bằng mũi gươm. Lại còn một chuyện nầy hay hơn nữa: anh còn nhớ không, mùa đông năm ngoái, một lần ở Karghinskaia, hôm ấy có mặt tôi, anh đã nói chuyện với một người phụ nữ trí thức, có chồng bị bọn Cô-dắc bắt, và anh đã cài khuy quần ngay trước mặt người ta… - Như thế tức là mình cứ để quần như vậy không cài thì đúng hơn hay sao? - Grigori hỏi với một nụ cười âm thầm. Hai người cho ngựa đi sát bên nhau. Grigori liếc nhìn Kopylov, chàng nhìn khuôn mặt hồn hậu của hắn và trong khi nghe hắn nói, trong lòng không khỏi cảm thấy chua chát. - Vấn đề không phải là ở chỗ đó! - Kopylov cau mày kêu lên, giọng bực bội. - Nhưng sao anh lại có thể tiếp một người phụ nữ với hai chân không giầy không ủng, trên mình chỉ có độc một cái quần? Ngay đến cái áo quân phục cổ đứng, anh cũng chẳng buồn khoác thêm lên vai nữa. Chuyện ấy tôi còn nhớ rành rành? Tất cả những điều đó tất nhiên chỉ là chuyện lặt vặt, song cũng đủ chứng minh rằng anh là một con người… Nhưng nói với anh thế nào bây giờ… - Cậu cứ nói đi, nói toạc móng heo càng tốt! - Được là một con người hết sức bất nhã. Còn cách nói năng của anh thì như thế nào? Thật là khủng khiếp! Đáng nói "trú xá", anh lại nói "trúc xá"; đáng nói "triệt binh", anh lại nói "trật binh"; đáng nói "tựa hồ", anh nói "tựa hào"; đáng nói "pháo binh", anh lại nói "phá binh". Và cũng như mọi con người thiếu chữ nghĩa khác, anh thích dùng từ ngữ nước ngoài thật kêu với một sự ham mê không thể nào giải thích được, anh dùng các từ ngữ ấy cả lúc đáng dùng lẫn lúc không đáng dùng, mà nói thì sai chệch một cách khó tưởng tượng. Trong các cuộc hội nghị tham mưu, khi trước mặt anh có những anh chàng nói lên những thuật ngữ chuyên môn quân sự, chẳng hạn như "phối trí binh lực", "cường tập độ hà", "bộ thự tác chiến", "mật binh" vân vân, thì anh nhìn những người nói như thế với con mắt thán phục, tôi còn có thể nói là ghen tị nữa là khác. - Chà chuyện nầy thì đúng là cậu nói láo rồi! - Grigori kêu lên, vẻ mặt chàng bỗng trở nên linh lợi vui vẻ. Chàng vuốt ve đám lông giữa hai cái taỉ con ngựa, gãi gãi làn da ấm và mịn như lụa dưới cái bờm của nó và bảo - Được, cậu cứ tiếp tục chỉ trích sư đoàn trưởng của cậu đi! - Anh hãy nghe tôi, có gì mà chỉ với trích? Và anh cũng cần phải thấy rõ ràng về mặt ấy anh là một kẻ không may. Thế mà anh còn bực mình cho rằng giới sĩ quan không đối xử với anh như với một kẻ bình đẳng? Trong các vấn đề lịch sử và văn hoá thì quả thật anh chỉ là một cái nút bấc! Kopylov buột miệng nói ra một lời xúc phạm như thế, bất giác hoảng lên. Hắn biết rằng Grigori thường không tự chủ được như thế nào những khi chàng phát khùng, vì thế hắn sợ chàng sắp nổi nóng, nhưng sau khi liếc nhanh mắt nhìn Grigori, hắn lập tức yên tâm: Grigori ngửa hẳn người trên yên, cười không ra tiếng, hai hàm răng trắng xoá loá nhe ra dưới hàng ria. Kết quả của những lời Kopylov vừa nói quá bất ngờ đối với chính hắn, và cái cười của Grigori quá dễ lây, vì thế hắn cũng phá lên cười và nói: - Anh xem đấy, một con người có lý trí, một kẻ bình thường nào khác nghe thấy một lời nhận xét như thế thì khóc lên được, thế mà anh anh lại hí lên như con ngựa… Chà, anh chẳng phải là một con người kỳ quặc thì là gì? - Thế cậu bảo mình là một cái nút bấc à? Quỷ tha ma bắt cậu đi - Grigori cười hết cơn rồi nói. - Mình cũng chẳng muốn học các cách cư xử với cái lịch sự của các cậu làm gì. Mình trở về với mấy con bò thì những của đó sẽ chẳng dùng được vào việc gì. Nếu Chúa che chở, nếu mình còn sống thì trong khi giao thiệp với mấy con bò, mình sẽ không rạp đầu chào rồi mới nói với chúng nó: "Chao ôi, xin ngài thứ lỗi cho, ngài bò hói? Xin ngài thứ lỗi cho, ngài bò lang! Các ngài cho phép tôi sửa lại cái ách cày trên vai các ngài nhé! Kính thưa ngài, ngài bò giống, tôi cung kính xin ngài làm ơn đừng ra khỏi luống cày! "Đối với chúng nó thì phải hết sức ngắn gọn: vắt-nrư. Toàn bộ cách phái trí đối với loài bò thì chỉ có thế thôi. - Không phải là "phái trí" mà là "phối trí" - Kopylov sửa lại. - Cũng được thôi, ừ thì phối trí. Nhưng có một điều mình không đồng ý với cậu. - Điều gì thế? - Điều cậu bảo rằng mình là cái nút bấc. Ở với các cậu thì mình là một cái nút bấc, nhưng cứ chờ đấy, sau một thời gian, mình sang với bọn Đỏ thì ở bên chúng nó mình sẽ biến thành một hòn chì nặng cho mà xem. Đến lúc đó thì những thằng ăn bám có lễ độ, có học thức như các cậu chớ có chạm trán với mình? Mình sẽ móc linh hồn cùng với tim gan mề phổi của các cậu ra cho mà xem! - Grigori nói bằng một giọng nửa đùa nửa thật rồi thúc con ngựa, lập tức cho nó chuyển sang nước kiệu nhanh. *** Buổi sáng trên vùng ven sông Đông hiện ra trong một bầu không khí tịch mịch dệt tinh vi như một tấm lụa, đến nỗi mỗi tiếng động dù trầm đến đâu cũng làm nó rách và gây những hồi âm. Chỉ có những con chim sơn ca và cun cút ngự trị trên đồng cỏ, nhưng trong các thôn lân cận không ngừng vẳng ra những tiếng ầm ì trầm trầm thường kèm theo sự chuyển quân của những đơn vị quân đội lớn. Bánh xe của những cỗ pháo và những hòm đạn kêu lạch xạch ở những chỗ ổ gà. Ngựa hí bên những giếng nước, những đại đội bộ binh hành quân qua, tiếng chân bước ràn rạt, nhẹ nhàng, ăn nhịp. Xe ngựa và xe bò của các đại đội vận tải chạy long xồng xộc chở vũ khí và đạn dược ra mặt trận. Mùi cháo lúa mì nấu nhừ, mùi thịt ninh với lá nguyệt quếvà mùi những chiếc bánh mới lấy trong lò ra xông lên ngọt ngọt chung quanh những chiếc xe nhà bếp dã chiến. Ngày sát thị trấn Ust-Medvediskaia có những tiếng súng trường hai bên bắn nhau rất dữ, vài phát đạn pháo thưa thớt nổ bung ra một cách lười nhác, rất bang. Trận chiến đấu vừa mở màn. Tướng Fitkhelaurov đang ăn sáng thì một tên phó quan đứng tuổi mặt bự rượu, vào báo cáo: - Sư đoàn trưởng sư đoàn Một của quân bạo động Melekhov và trưởng ban tham mưu sư đoàn Kopylov. - Mời vào phòng tôi - Fitkhelaurov đưa bàn tay rất to đầy gân xanh đẩy cái đĩa đựng vỏ trứng, từ tốn uống một cốc sữa còn bốc hơi, gấp cẩn thận chiếc khăn ăn rồi bước ra khỏi bàn. Thân hình hết sức to lớn, nhưng nặng nề và nhẽo nhợt do tuổi tác, nom hắn có vẻ cao tới mức khó tưởng tượng trong căn phòng Cô-dắc nhỏ xíu với cái cửa ra vào long cả đà ngang và những cửa sổ đóng kín mít. Viên tướng vừa đi vừa sửa lại cái cổ đứng của chiếc áo quân phục may rất vừa người, ho những tiếng rất vang, bước vào phòng bên. Hắn thấy Kopylov và Grigori đứng dậy bèn khẽ gật đầu chào nhưng không chìa tay ra, rồi ra hiệu mời hai người ngồi vào bàn. Grigori đỡ gượm, nhẹ nhàng ngồi xuống mép một chiếc ghế đẩu và liếc nhìn Kopylov. Fitkhelaurov nặng nề ngồi phịch xuống, làm chiếc ghế dựa kiểu Viên kêu răng rắc. Hắn co cặp chân đài nghêu, đặt hai bàn tay to lù lù lên đầu gối, rồi bắt đầu nói bằng một giọng trầm khàn đặc: - Thưa hai ngài sĩ quan, tôi mời hai ngài đến để chúng ta nhất trí với nhau về một số vấn đề… Cái lề thói du kích của thời kỳ bạo động đã chấm dứt rồi! Các đơn vị của các ngài không còn tồn tại như những thể hoàn chỉnh độc lập nữa rồi, mà thật ra, các đơn vị đó cũng chưa bao giờ là những thể hoàn chỉnh. Chỉ là những sự bày đặt tưởng tượng thôi. Các đơn vị đó sẽ sát nhập vào Quân đội sông Đông. Chúng ta sẽ chuyển sang tấn công một cách có kế hoạch. Đã đến lúc cần phải nhận thức thấy tất cả những điều đó và phục tùng vô điều kiện mệnh lệnh của hộ chỉ huy tối cao. Xin các ngài hãy trả lời vì sao hôm qua trung đoàn bộ binh của các ngài không chi viện cho tiểu đoàn đột kích. Tại sao trung đoàn ấy từ chối không tấn công tuy đã có mệnh lệnh của tôi? Ai là người chỉ huy cái gọi là sư đoàn của các ngài? - Tôi. - Grigori khẽ trả lời. - Xin ngài làm ơn trả lời câu hỏi. - Mãi hôm qua tôi mới trở về sư đoàn. - Thế thì ngài đi đâu? - Tôi tạt về thăm nhà. - Giữa lúc đang chiến đấu mà sư đoàn trưởng lại tự cho phép mình về chơi nhà! Sư đoàn của ngài là một cái nhà thổ. Bừa bãi vô kỷ luật! Tồi tệ quá chừng! - Cái giọng trầm của viên tướng mỗi lúc một vang ồm ồm trong căn phòng chật hẹp. Ngoài cửa đã thấy mấy tên phó quan rón rén đi qua đi lại, chúng thì thào đưa mắt cười với nhau. Hai cái má của Kopylov mỗi lúc một trắng nhợt ra. Còn Grigori thì cứ nhìn bộ mặt đỏ tía và hai nắm tay phù thũng nắm chặt của viên tướng mà cảm thấy trong lòng mình đang sôi sục một cơn phẫn nộ không thể nào ghìm nén được. Fitkhelaurov bất thần nhảy lên một cách nhẹ nhàng rất là bất ngờ rồi nắm lấy lưng ghế quát lên: - Các ngài không phải là một đơn vị quân đội mà là bây Xích vệ - lưu manh! Một đám rác rưởi bại loại chứ không phải là những người Cô-dắc! Ngài Melekhov, ngài không đáng chỉ huy một sư đoàn mà chỉ đáng làm cần vụ!… Đi mà đánh giầy đánh ủng! Ngài đã nghe thấy chưa? Tại sao mệnh lệnh không được chấp hành? Chưa họp mít-tinh có phải không? Chưa thảo luận có phải không? Các ngài hãy ghi nhớ cho kỹ: ở đây không có đồng chí với các ngài đâu, và chúng tôi không cho phép đem cái trật tự Bolsevich áp dụng ở đây đâu! Chúng tôi không cho phép đâu? - Tôi xin ngài đừng quàng quạc lên với tôi? - Grigori đứng dậy, đưa chân gạt chiếc ghế đẩu ra rồi nói giọng âm thầm. - Ngài nói cái gì hử? - Fitkhelaurov nhô hẳn người ra qua mặt bàn, hỏi khàn khàn. Hắn tức quá giọng như bị nghẹn thở. - Xin ngài đừng quàng quạc lên với tôi! - Grigori nhắc lại to hơn… Ngài đã triệu tập chúng tôi đến để giải quyết công việc… - Chàng nín lặng trong một giây, đưa mắt nhìn xuống rồi nói thêm bằng một giọng gần như thầm thì, nhưng mắt vẫn nhìn chằm chằm vào hai bàn tay Fitkhelaurov - Thưa quan lớn, nếu ngài tìm cách động đến tôi, dù chỉ bằng một ngón tay, tôi sẽ cho ngài một nhát gươm ngay tại chỗ? Trong phòng chết lặng, nghe thấy rõ cả tiếng thở hổn hển của Fitkhelaurov. Không ai nói gì chừng một phút. Rồi có tiếng cánh cửa hơi cọt kẹt. Một tên phó quan hoảng hốt nhòm vào qua kẽ cửa. Rồi cánh cửa khép vào vẫn nhẹ nhàng như lúc mở ra. Grigori vẫn đứng đấy tay không rời đốc gươm. Hai đầu gối Kopylov hơi run run, mắt hắn nhìn vơ vẩn một khoảng nào đó trên tường. Fitkhelaurov nặng nề ngồi xuống ghế, húng hắng vài tiếng ho của người già rồi làu bàu: - Chuyện hay thật! - Và hắn nói tiếp, giọng đã hoàn toàn bình tĩnh, nhưng mắt không nhìn Grigori - Mời ngài ngồi xuống. Chúng ta đã có một cơn nóng nảy và như thế cũng đủ rồi. Bây giờ thì xin ngài nghe đây: tôi ra lệnh cho ngài lập tức ném tất cả các đơn vị kỵ binh… nhưng ngài ngồi xuống đi nào! Grigori ngồi xuống và đưa tay áo lên lau những giọt mồ hôi bất thần đổ ra đầm đìa trên mặt. - Thế nầy nầy, ngài sẽ lập tức tung ngay tất cả các đơn vị kỵ binh vào khu vực đông-nam và sẽ tấn công ngay tức khắc. Cánh bên phải của ngài sẽ tiếp xúc với tiểu đoàn hai của trung tá Trumakov… - Tôi sẽ không mang sư đoàn đến đấy. - Grigori nói bằng một giọng mệt mỏi rồi thọc tay vào túi quần lấy chiếc khăn tay. Chàng lau mồ hôi trán một lần nữa bằng chiếc khăn tay thêu ren của Natalia, rồi nhắc lại - Tôi không đưa sư đoàn đến đấy đâu. - Sao vậy? - Việc điều động đòi hỏi nhiều thì giờ… - Điều đó không liên can gì đến ngài. Tôi là người chịu trách nhiệm về kết quả của chiến dịch. - Không, có liên can đấy, và chịu trách nhiệm không phải chỉ có một mình ngài… - Ngài từ chối không chấp hành mệnh lệnh của tôi à? - Fitkhelaurov hỏi, giọng khàn hẳn đi. Rõ ràng hắn đã cố giữ bình tĩnh. - Vâng. - Trong hoàn cảnh như vậy, xin ngài lập tức trao lại ngay quyền chỉ huy sư đoàn? Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao mệnh lệnh của tôi đã không được chấp hành. - Chuyện ấy thì tuỳ ngài hiểu thế nào cũng được, nhưng sư đoàn thì tôi không trao. - Ngài muốn tôi hiểu ý ngài như thế nào? - Hiểu như tôi đã nói với ngài! - Grigori hơi thoáng có nét cười. - Tôi tước quyền chỉ huy của ngài! - Fitkhelaurov nói giật giọng, và ngay lúc đó Grigori đứng phắt dậy. - Thưa quan lớn, tôi không chịu quyền chỉ huy của ngài! - Nhưng cuối cùng ngài vẫn phải chịu quyền chỉ huy của một người nào chứ? - Vâng, tôi phục tùng quyền chỉ huy của tư lệnh các lực lượng bạo động Kudinov. Còn đối với ngài, tôi thậm chí lấy làm ngạc nhiên khi nghe thấy ngài nói ra tất cả những điều vừa nãy… Trong lúc nầy tôi và ngài vẫn ngang quyền với nhau. Ngài chỉ huy một sư đoàn và tôi cũng vậy. Vì thế trong lúc nầy ngài đừng có quát tháo với tôi… Bao giờ tôi bị kéo xuống làm đại đội trưởng thì lúc đó sẽ tuỳ ý ngài. Nhưng để cho người ta đánh mình thì… - Grigori giơ một ngón tay trỏ bẩn thỉu lên, rồi vừa mỉm cười vừa long lanh cặp mắt đầy tức tối, nói nốt -… ngay đến lúc đó tôi cũng không để cho người ta đánh đâu? Fitkhelaurov đứng dậy, sửa lại cái cổ áo làm hắn tức thở, hơi nghiêng mình chào và nói: - Chúng ta không còn có gì để nói với nhau nữa rồi. Ngài hành động như thế nào thì tuỳ ý ngài. Tôi sẽ lập tức báo cáo ngay lên bộ tư lệnh tập đoàn quân về tư cách của ngài và tôi dám bảo đảm với ngài rằng không cần chờ đợi lâu la mới thấy kết quả đâu. Toà án binh dã chiến của chúng ta hiện nay vẫn hoạt động đều. Chẳng chú ý gì đến đôi mắt đầy tuyệt vọng của Kopylov, Grigori chụp chiếc mũ cát-két lên đầu, bước ra cửa. Ra tới ngưỡng cửa, chàng đứng lại nói: - Ngài thấy cần phải báo cáo lên đâu thì cứ báo cáo, nhưng đừng có doạ dẫm tôi, tôi không phải là một thằng có thể doạ được đâu… Và trong lúc nầy ngài chớ có động đến tôi. - Chàng ngẫm nghĩ một lát rồi lại nói thêm - Nếu không tôi chỉ sợ anh em Cô-dắc của tôi sẽ cho ngài một trận… - Rồi chàng đóng cửa đánh sầm, lê gươm lách cách, bước những bước dài ra phòng ngoài. Kopylov hốt hoảng ra theo. Hắn đuổi kịp chàng ở phòng ngoài. - Anh điên mất rồi, anh Panteleevich? - Hắn nắm chặt hai tay một cách tuyệt vọng, khẽ nói. - Ngựa đâu? - Grigori vo tròn cái roi ngựa trong tay, quát oang oang. Như con quỷ dữ, Prokho ba chân bốn cẳng chạy ù tới trước thềm. Sau khi ra khỏi cổng, Grigori ngoái nhìn lại. Chàng thấy ba gã liên lạc đang hối hả đỡ tên tướng Fitkhelaurov ngồi lên một con ngựa cao lớn, thắng một cái yên trang hoàng rất đẹp… Đoàn người ngựa của Grigori lầm lì đi chừng nửa vec-xta. Kopylov không nói gì vì hắn biết rằng bây giờ không phải là lúc Grigori sẵn sàng chuyện trò và trong lúc nầy mà tranh cãi với chàng thì không phải không nguy hiểm. Cuối cùng lại chính Grigori không nhịn được nữa: - Sao cậu cứ câm như hến thế? - Chàng hỏi giọng gay gắt. - Cậu đến đây để làm gì hả? Đến làm người chứng kiến à? Cậu chơi cái trò giả câm giả điếc à? - Chà, người anh em ạ, mà anh vừa diễn một tiết mục cũng đặc biệt đấy! - Thế hắn không có tiết mục của hắn sao? - Kể ra thì chính ông ấy cũng không đúng. Cái giọng ông ấy nói với chúng mình thật đáng phẫn nộ! - Như thế mà bảo là hắn nói với chúng mình à? Ngay từ đầu hắn đã la lối, chẳng khác gì bị người ta chọc dùi vào đít ấy. Nhưng cả anh thì cũng khiếp! Không phục tùng một sĩ quan có cấp bậc cao hơn… Trong hoàn cảnh chiến đấu, việc đó, người anh em ạ… - Chẳng sao cả, nhưng không phải là vấn đề ấy! Chỉ tiếc rằng hắn đã không giơ tay đánh mình! Nếu không mình đã cho hắn một nhát gươm vào giữa trán, cho cái sọ của hắn toác ra làm đôi. - Dù không thế anh cũng không thể chờ đợi điều gì tốt lành đâu. Kopylov nói giọng bực bội rồi cho con ngựa chuyển sang bước một. - Nhìn chung đã có thể thấy rằng hiện giờ họ đã bắt đầu tăng cường kỷ luật, phải cẩn thận mới được! Hai con ngựa đi song song. Chúng vừa thở phì phì vừa ve vẩy đuôi đuổi mòng. Grigori nhìn Kopylov có vẻ chế nhạo và hỏi: - Cậu diện quần lành áo tốt như thế nầy thì được cái gì hử? Có lẽ cậu tưởng chúng nó sẽ pha trà mời cậu xơi đấy phải không? Chúng nó sẽ trịnh trọng mời cậu ngồi vào bàn tiệc đấy phải không? Cạo râu cạo ria, áo quân phục chải thật sạch, ủng thì đánh bóng lộn… Mình còn thấy cậu thấm nước bọt vào khăn tay cọ mấy vết bẩn nhỏ xíu trên đầu gối nữa đấy? - Thôi bỏ chuyện ấy đi, tôi xin anh? - Kopylov đỏ mặt, cố chống chế. - Thế là bao nhiêu công sức của cậu đều thành công cốc! - Grigori vẫn giễu hắn. - Không những thế nó còn không thèm chìa tay cho cậu bắt nữa. - Cùng đi với anh thì không phải chỉ có thể chờ đón những điều như thế. - Kopylov lẩm bẩm nói rất nhanh, rồi bỗng nhiên hắn nheo mắt kêu lên, giọng vừa kinh ngạc vừa sung sướng - Xem kìa! Đằng kia không phải là anh em mình đâu. Quân Đồng minh đấy! Một cỗ sáu con la đang kéo một khẩu pháo Anh chạy từ phía trước lại trong một ngõ hẹp. Một tên sĩ quan Anh cưỡi con ngựa hồng cộc đuôi đi bên cạnh. Tên coi ngựa cưỡi con la đầu tiên cũng mặc quân phục Anh, song vành mũ cát két của hắn lại đính quân hiệu sĩ quan Nga và lon vai là cấp trung uý. Khi chỉ còn vài xa-gien là tới ngang Grigori, tên sĩ quan Anh đưa hai ngón tay lên vành chiếc mũ cát bằng li-e, hất đầu ra hiệu bảo chàng né sang bên. Cái ngõ quá hẹp, muốn khỏi chạm vào nhau thì chỉ có một cách là cho hai con ngựa cưỡi đi sát hẳn vào hai dãy tượng vi bằng đá. Hai bên má Grigori đã có những cục tròn tròn động đậy. Chàng nghiến răng cho con ngựa tiến thẳng tới trước mặt tên sĩ quan Anh. Tên kia ngạc nhiên giương cao hai hàng lông mày và hơi lánh sang bên cạnh. Hai bên chỉ qua được một cách khó khăn sau khi tên sĩ quan Anh co chân bên phải đi chiếc ghệt bó rất chặt lên cái mông chải bóng nhoáng của con ngựa cái thuần giống của hắn. Một tên pháo thủ, coi vẻ là sĩ quan Nga, nhìn Grigori một cách tức tối: - Có lẽ ngài cũng lánh được sang bên chứ? Chẳng nhẽ ở chỗ nầy cũng có thể phơi bày cái vô giáo dục của mình ra hay sao? - Mầy cứ đi đường mầy và câm cái mồm đi, đồ chó đẻ, nếu không tao sẽ lánh ra cho mầy xem… - Grigori khẽ khuyên hắn. Tên sĩ quan đang ngồi trên phần trước của khẩu pháo bèn nhỏm lên, quay mặt về phía sau kêu to: - Các ngài ơi! Hãy giữ cái thằng vô liêm sỉ nầy lại! Grigori vung ngọn roi một cách đầy ý nghĩa, và vẫn cho ngựa đi bước một dọc theo cái ngõ. Bọn pháo thủ nhìn chàng bằng những cặp mắt thù địch nhưng không có tên nào tìm cách giữ chàng lại. Chúng đều mệt mỏi, bám bụi đầy người và đều là những tên sĩ quan còn trẻ, chưa có ria. Sáu khẩu đội của đại đội pháo đã khuất sau một chỗ ngoặt. Lúc đó Kopylov mới cắn môi, cho ngựa chạy lên sát Grigori: - Anh thật là làm bậy, anh Grigori Panteleevich! Cư xử cứ như một thằng bé con ấy! - Cậu muốn gì hử, được trao nhiệm vụ theo sát để lên lớp cho tôi có phải không. - Giọng Grigori gừ gừ. - Anh phát khùng lên với Fitkhelaurov thì tôi còn hiểu được, - Kopylov nhún vai nói, - song cái gã người Anh ấy thì nó làm gì anh? Hay là anh không thích cái mũ cát két của nó? - Tôi có phần không thích vì nó đội cái mũ ấy ở đây, ở ngay gần Ust-Medvediskaia… Cậu bảo nó đem đi chỗ khác mà đội thì hơn… Trong khi hai con chó đang cắn nhau thì con thứ ba chớ có dính vào. Cậu hiểu không? - À ra thế? Té ra anh phản đối sự can thiệp của nước ngoài! Nhưng theo tôi, một khi đã sắp bị bóp cổ thì nhận được bất kỳ sự giúp đỡ nào cũng sướng. - Được cậu sướng thì cứ sướng, còn mình thì mình không cho phép chúng nó đặt chân lên mảnh đất của chúng ta đâu! - Anh đã trông thấy những thằng Chiệc ở bên bọn Đỏ chưa? - Sao cơ chứ? - Chẳng phải cả hai đằng đều cũng thế cả hay sao? Cũng đều là sự giúp đỡ của người nước ngoài thôi. - Cậu nói không đúng rồi? Những thằng Chiệc ấy đã tự nguyện đến với bọn Đỏ. - Còn những thằng nầy thì theo anh, chúng nó đã bị lôi tới đây bằng vũ lực hay sao? Grigori không tìm được cách trả lời, cứ nín thinh ngồi trên yên hồi lâu. Chàng moi óc một cách đau khổ rồi cuối cùng nói thêm và trong giọng nói của chàng vang lên một niềm tức tối không giấu giếm. - Cái bọn các cậu, những thằng lắm chữ nghĩa ấy, thì bao giờ cũng thế… Thoắt cái nhảy sang bên nầy, thoắt cái nhảy sang bên kia, hệt như những con thỏ chạy trên mặt tuyết ấy! Song người anh em ạ, mình vẫn cảm thấy rằng về chuyện nầy cậu đã nói không đúng, thế mà mình chẳng có cách nào bẻ cho cậu cứng lưỡi được… Thôi chúng ta vứt mẹ nó đi. Đừng làm mình rối óc nữa. Không có cậu, đầu óc mình cũng đã rối bời lên rồi. Kopylov giận quá, từ lúc đó cứ nín thinh, và cho đến khi về tới nhà, hai người không nói thêm gì với nhau nữa. Chỉ có gã Prokho cứ lẵng nhẵng đuổi theo hai người để hỏi vì trong lòng hẳn đang nhức nhối vì tò mò, không nhịn được nữa! - Thưa ngài Grigori Panteleevich, bẩm quan lớn, ngài làm ơn bảo hộ cho, cái bọn Kadet chúng nó có cái gì kéo những khẩu pháo thế? Tai thì như tai lừa, nhưng tất cả những chỗ khác lại đúng là ngựa. Nhìn thấy cái con gia súc nầy mà cứ khó chịu thế nào ấy… Của quỷ quái gì vậy, nó là cái giống gì thế, ngài làm ơn giải thích hộ cho nếu không chúng tôi đã đánh cuộc với nhau bằng tiền… Hắn lẽo đẽo cho ngựa đi sau chừng năm phút, nhưng chờ mãi chẳng thấy trả lời, bèn ghìm ngựa. Đến khi ba gã liên lạc kia đến nơi, hắn mới thì thầm bảo chúng: - Anh em ạ, họ cứ ngậm tăm mà đi. Xem ra chính họ cũng cảm thấy lạ, cũng chẳng hiểu quái gì về chuyện cái của thổ tả ấy do đâu mà xuất hiện trên đời nầy… 11. Đã bốn lần các đại đội Cô-dắc xông lên từ dãy chiến hào nông hoen hoẻn, nhưng đều lại phải nằm xuống dưới hoả lực chết người của khẩu súng máy Hồng quân. Từ lúc trời mới rạng, các đại đội pháo của Hồng quân ngụy trang trong khu rừng trên bờ bên trái đã nhả đạn không lúc nào ngớt vào trận địa của quân Cô-dắc và các đội dự bị trong các khe núi. Những đám mây trắng như sữa của những phát đạn ghém tan dần trên các cao địa ven sông Đông. Đạn súng trường và súng máy làm tung lên những làn bụi nâu nâu phía trước và phía sau những dãy chiến hào chữ chi của quân Cô-dắc. Đến giữa trưa cuộc chiến đấu càng thêm kịch liệt. Gió tây truyền di rất xa trên sông Đông tiếng hoả lực pháo binh dội lên ầm ầm. Đứng trên điểm quan trắc một đại đội pháo của quân phiến loạn, Grigori theo dõi diễn biến của trận đánh. Chàng nhìn thấy các đại đội sĩ quan bất chấp tổn thất nặng nề, cứ ngoan cố tiến vọt từng chặng xông lên tấn công. Mỗi khi hoả lực địch dội lên quá mạnh, chúng nằm xuống một lát, đào chiến hào rồi lại tiến vọt từng chặng tới một chiến tuyến mới. Nhưng ở bên trái, về hướng nhà tu, bộ binh của quân phiến loạn vẫn không làm thế nào ngóc đầu lên được. Grigori viết nguệch ngoạc cho Ermakov vài chữ rồi sai liên lạc mang đi. Nửa giờ sau Ermakov phi ngựa tới nơi, mặt giận bừng bừng. Hắn xuống ngựa bên cạnh chỗ buộc ngựa của đại đội pháo rồi thở hổn hển leo lên tới chiến hào của điểm quan trắc. - Tôi không thể nào thúc bọn Cô-dắc xông lên được đâu! Chúng nó sẽ không xông lên đâu? Từ xa hắn đã vung tay gào lên. - Chúng tôi đã bị thương vong hai mươi ba thằng rồi? Anh có trông thấy súng máy của bọn Đỏ quét như thế nào không? - Bọn sĩ quan tiến lên được mà cậu lại không thể thúc quân của cậu lên được à? Grigori rít qua kẽ răng. - Nhưng anh thử nhìn mà xem, bên chúng nó mỗi trung đội có một khẩu trung liên mà đạn thì vô thiên lủng. Thử hỏi chúng ta có gì? - Thôi, thôi, cậu không phải giải thích với mình nữa! Lập tức dẫn ngay chúng nó xung phong lên, nếu không mình sẽ lấy đầu cậu? Ermakov chửi một tiếng rất tục rồi chạy từ trên nấm kurgan xuống. Grigori chạy xuống theo. Chàng quyết định tự mình dẫn trung đoàn bộ binh số Hai lên xung phong. Nhưng chàng vừa chạy đến khẩu đội pháo cuối cùng ngụy trang rất khéo bằng những cành sơn trà thì tên đại đội trưởng đại đội pháo giữ chàng lại. - Anh Grigori Panteleevich, anh thử nhìn cách làm ăn của bọn Anh mà xem. Ngay bây giờ chúng nó sẽ bắn vào cái cầu đấy. Chúng ta leo lên nấm kurgan nhé! Nhìn trong ống nhòm thì thấy lờ mờ hiện ra cái dải rất mỏng manh của chiếc cầu phao mà công binh Hồng quân đã bắc qua sông Đông. Trên đó những chiếc xe vận tải nối đuôi nhau thành một dòng liên tục. Chừng mười phút sau, đại đội pháo Anh bố trí sau một dãy mô đá trên khoảng đất trũng bắt đầu nổ pháo. Chúng bắn đến phát thứ tư thì chiếc cầu bị phá ở ngay gần giữa dòng. Đoàn xe đang tuôn cuồn cuộn dừng ngay lại. Rồi thấy các chiến sĩ Hồng quân rối rít đẩy những chiếc chiếc xe bị phá gãy và những xác ngựa xuống sông Đông. Ngay lúc đó có bốn chiếc thuyền chở công binh rời khỏi bờ bên phải. Nhưng họ chưa kịp lát xong một đoạn mặt cầu vừa bị phá hỏng thì đại đội pháo Anh lại nhả thêm loạt đạn nữa. Một phát phá tung cái mô cầu trên bờ bên trái, một phát khác xối lên một cột nước màu xanh lá cây ngay sát chiếc cầu. Việc đi lại trên cầu vừa được khôi phục đã bị đình lại. - Chúng nó bắn chính xác thật, bọn chó đẻ? - Tên đại đội trưởng đại đội pháo nói đầy vẻ thán phục.- Từ bây giờ đến đêm chúng nó sẽ không để cho bọn kia qua sông cho mà xem. Cái cầu thế là đi đứt. Grigori hỏi nhưng vẫn không rời mắt khỏi ống nhòm. - Nhưng tại sao cậu cứ câm như hến thế? Yểm hộ cho bộ binh của mình có hơn không? Mấy ổ súng máy của chúng nó ở đằng kia kìa. - Được bắn thì cũng sướng đấy, nhưng chẳng còn một viên đạn nào cả? Phát cuối cùng bắn trước đây đã nửa giờ, đành nhịn đói đến bây giờ? - Thế thì cậu ở lại đây làm gì? Lôi càng pháo mà chuồn mẹ nó đi cho xong! - Tôi đã phái những cậu sang chỗ bọn Kadet để xin đạn rồi. - Chúng nó sẽ không cho đâu. - Grigori nói như đinh đóng cột. Chúng nó đã từ chối một lần, tôi lại cho đi lần nữa. May ra chúng nó cũng rủ lòng thương. Chỉ cần chúng nó thí cho bọn mình chừng hai chục quả để diệt mấy khẩu súng máy kia đi. Đâu phải là chuyện đùa, anh em ta đã có hai mươi ba cậu bị giết rồi. Liệu còn phải chết thêm bao nhiêu nữa? Anh xem chúng nó bắn kìa? Grigori chuyển sang nhìn những dãy chiến hào Cô-dắc. Đạn súng trường và súng máy vẫn tiếp tục xới tung chất đất khô nẻ trên mặt dốc bên cạnh các chiến hào. Hễ một loạt đạn súng máy bắn trúng chỗ nào thì từ chỗ ấy lại bốc lên một dải bụi, tựa như có một người vô hình vạch nhanh lạ lùng một cái vạch xám tan dần dọc theo chiến hào. Suốt chiều dài của các chiến hào Cô-dắc đều như bốc khói với những vạch bụi như thế. Lúc nầy Grigori không còn theo dõi kết quả xạ kích của đại đội pháo Anh nữa. Chàng lắng nghe trong một phút tiếng hoả lực pháo binh và súng máy nổ không ngớt, rồi chạy từ trên nấm kurgan xuống, đuổi kịp Ermakov. - Chưa nhận được mệnh lệnh của mình thì cậu đừng xung phong lên vội. Không có pháo binh chi viện chúng ta không đánh nổi chúng nó đâu. - Lúc nầy chẳng phải tôi đã nói với anh như thế rồi hay sao? Ermakov nói có ý trách móc và cưỡi lên con ngựa đang hăng máu vì vừa phải chạy và cũng vì tiếng súng. Ermakov cho ngựa phi hết sức liều lĩnh dưới làn đạn. Grigori nhìn theo hắn, lo lắng nghĩ thầm: "Quỷ dữ nào bắt nó phải phóng thẳng một mạch như thế? Bị súng máy của chúng nó quét gục bây giờ? Sao nó không lần xuống chỗ lòng chảo, tiến theo đường đáy khe, leo lên rồi vòng ra sau ngọn gò, yên ổn về tới đơn vị nó có hơn không?" Ermakov phi ngựa như điên tới chỗ lòng chảo, lao xuống dưới đó và không thấy hắn nhô đầu lên phía bên kia nữa. "Như thế là nó hiểu ra rồi! Bây giờ thì đến nơi rồi đấy". - Nghĩ như vậy, Grigori cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm hẳn đi. Rồi chàng nằm xuống bên cạnh nấm kurgan, từ từ cuốn điếu thuốc. Một tâm trạng thờ ơ lãnh đạm rất lạ lùng tràn ngập trong lòng chàng? Không, chàng sẽ không dẫn anh em Cô-dắc tiến lên dưới làn đạn súng máy sữa. Chẳng tội gì mà làm như thế. Cứ mặc cho các đại đội xung kích của bọn sĩ quan tấn công. Mặc chúng nó tự đánh lấy Ust-Medvediskaia. Và bây giờ, nằm dưới chân nấm kurgan nầy, lần đầu tiên Grigori tránh không trực tiếp tham gia trận đánh. Nhưng trong lúc nầy, điều chi phối cách suy nghĩ của chàng không phải là lòng nhút nhát sợ chết, cũng không phải là nhận thức về sự tổn thất vô ích. Mới vừa nãy chàng đã không hề tiếc chút nào tính mạng của mình cũng như tính mạng của những gã Cô-dắc được trao cho chàng chỉ huy. Nhưng bây giờ lại như có cái gì vừa tan vỡ… Từ trước đến nay, chưa bao giờ chàng cảm thấy cực kỳ rõ ràng như thế nầy toàn bộ tính chất vô nghĩa lý của những việc đã xảy ra. Phải chăng là câu chuyện nói với Kopylov, là cuộc cãi lộn với Fitkhelaurov, hay là cả hai chuyện đó gộp lại đã là nguyên nhân gây ra cái tâm trạng nó bất thần xuất hiện ở chàng? Nhưng mãi đến khi đã nằm dưới làn đạn chàng mới quyết định không xông xáo nữa. Chàng có những ý nghĩa mơ hồ rằng mình không thể nào làm cho bọn Cô-dắc hoà giải với người Bolsevich được, và trong thâm tâm bản thân chàng cũng không thể nhẫn nhục chịu đựng, đồng thời chàng cũng không muốn và không thể bảo vệ những con người thù địch với mình, có tâm hồn hoàn toàn khác với mình, không thể bảo vệ tất cả những tên như Fitkhelaurov, những kẻ khinh ghét chàng thậm tệ, và bản thân chàng cũng không kém phần khinh ghét chúng. Rồi các mâu thuẫn xưa lại hiện ra trước mắt chàng một cách hết sức tàn nhẫn. "Thôi mặc chúng nó đánh nhau. Mình sẽ đứng ngoài xem. Hễ chúng nó lấy lại sư đoàn của mình là mình sẽ xin rời khỏi mặt trận để về hậu phương ngay. Đối với mình như thế là đủ rồi!"- Chàng nghĩ bụng như thế rồi thầm quay trở lại cuộc tranh cãi với Kopylov, và nhận thấy rằng mình đang cố tìm những lý lẽ bào chữa cho Hồng quân: "Người Tàu họ đi theo bọn Đỏ với hai bàn tay trắng, ngày nào cũng đem tính mạng ra mạo hiểm mà chỉ lĩnh mấy đồng tiền lương của một thằng lính trơn. Mà trong vấn đề nầy tiền lương thì có ý nghĩa gì? Lĩnh rồi thì mua được cái quái gì? Bất quá đủ chơi vài ván bài… Đúng là ở đây không có chuyện vì lợi lộc, mà vì một cái gì khác… Còn bọn đồng minh thì chúng nó đưa tới đây sĩ quan, xe tăng, những khẩu pháo và cả những con la nữa! Rồi sau đó chúng nó sẽ dựa vào tất cả những cái ấy để đòi những món tiền kếch xù! Điều khác nhau chính là ở chỗ đấy? Chà, về vấn đề nầy đến tối chúng mình sẽ còn tranh cãi với nhau! Về đến ban chỉ huy, mình sẽ gọi ngay nó ra một chỗ và bảo: Có điểm khác nhau chứ, Kopylov ạ, cậu đừng hòng làm rối đầu óc mình. Nhưng hai người đã không được tranh luận với nhau đến cùng. Chiều hôm ấy, Kopylov đi ngựa tới khu vực bố trí của trung đoàn bốn làm nhiệm vụ dự bị. Trong khi đi đường hắn đã chết vì một viên đạn lạc. Hai giờ sau Grigori mới nhận được tin đó. Sáng hôm sau các đơn vị thuộc sư đoàn Năm của tướng Fitkhelaurov đã chiến đấu chiếm được Ust-Medvediskaia. 12. Ba ngày sau khi Grigori ở nhà ra đi, Mitka Korsunov vác mặt về thôn Tatarsky. Nó đã không về một mình, cùng đi với nó còn có hai thằng cùng làm việc trong đội thanh tiễu. Một thằng là dân Kalmys, đã có tuổi, sinh ở một nơi nào đó trên sông Manyt, còn thằng kia là một gã Cô-dắc nhỏ bé xấu xí người trấn Raxpovinskaia. Tên Kalmys bị Mitka gọi một cách khinh bỉ là "Thằng Chiệc", nhưng con sâu rượu vô loài của trấn Raxpovinskaia lại được nó xưng hô long trọng là "anh Xilanchi Petrovich". Xem ra trong thời gian tham gia đội thanh tiễu, Mitka đã lập được khá nhiều công lao với Quân khu sông Đông. Trong mùa đông, nó đã được đề bạt làm chánh quản và sau đó lại được phong chuẩn uý. Nó về thôn trong một bộ quân phục mới rất diện. Có thể nghĩ rằng nó đã sống rất khá khẩm trong thời gian rút lui ở bên kia sông Dones. Hai cái vai rất rộng của nó độn căng chiếc áo quân phục mùa hè màu cứt ngựa, cái cổ đứng hằn sâu vào những ngấn da béo hồng. Cái quần đi ngựa vải chéo xanh có nẹp may sát quá chỉ chực bục ra đằng sau mông… Với cái mã ngoài uy phong lẫm lẫm như thế, có lẽ nếu không nổ ra cái cuộc cách mạng chết tiệt nầy, chắc chắn Mitka đã là một tên lính ngự lâm của trung đoàn Atamansky, sống ở chốn cung đình, bảo vệ ngọc thể của đức hoàng đế bệ hạ. Song tuy không được như thế, Mitka cũng chẳng có gì đáng than phiền về cuộc sống của nó. Cả nó cũng đã kiếm được cái hàm sĩ quan mà không cần phải đem tính mạng của mình ra mạo hiểm, không cần phải thi thố cái anh hùng của mình một cách bạt mạng như Grigori Melekhov. Trong một đội thanh tiễu mà muốn lập một công trạng thì việc đó lại đòi hỏi con người phải có những đức tính khác hẳn… Mà các đức tính ấy thì Mitka Korsunov có thừa, nó không tin tưởng bọn Cô-dắc dưới quyền lắm nên thường tự tay đem những người bị tình nghi là Bolsevich ra hành tội; để trừng trị những tên đào ngũ nó cũng không ngại dùng roi ngựa hay que thông nòng đánh chúng thừa sống thiếu chết; còn trong việc hỏi cung những người bị bắt thì toàn đội không thể có tên nào bì được với nó. Chính tên trung tá Prianhisnhikov cũng phải nhún vai nói: "Không đâu, các ngài ạ, muốn gì thì muốn, chứ không ai hơn được cái thằng Korsukov nầy đâu! Một con cọp[305] chứ không còn là con người nữa!" Mitka còn có một đặc điểm nữa làm cho nó hơn hẳn những tên khác là khi đội thanh tiễu bắt một người nào mà chúng không thể đem xử bắn nhưng cũng không muốn để sống sót thoát khỏi tay chúng thì chúng tuyên án phạt roi rồi trao cho Mitka nhiệm vụ chấp hành bản án. Thế là nó chấp hành, và với cái kiểu của nó, thì sau năm mươi roi, người bị hành tội bắt đầu nôn ra máu không sao kìm được nữa, rồi sau một trăm roi thì có thể tin tưởng bó chiếu đem đi, không cần phải khám nghiệm làm gì. Qua tay Mitka chưa từng có người nào bị kết án còn sống sót. Chính nó đã nhiều lần cười và pha trò: "Nếu lột tất cả những chiếc quần và váy của những tên Đỏ bị tao giết thì có lẽ cũng đủ cho toàn thôn Tatarsky mặc đấy. Vì không còn có gì ghìm hãm nữa cho nên sau khi được đem đến đội thanh tiễu, cái bản chất tàn ác mà Mitka sẵn có từ thời thơ ấu không những đã được áp dụng một cách xứng đáng mà còn phát triển đến mức quái đản. Do tính chất của công việc, nó đã tiếp xúc với tất cả những thứ rác rưởi trong giới sĩ quan trôi dạt tới đội thanh tiễu những tên nghiện thuốc phiện trắng, những thằng hiếp dâm, cướp bóc cùng những đứa đốn mạt có trí thức khác. Bọn kia đã đem hết tinh thần căm thù người cộng sản ra dạy nó những gì, nó đều sẵn lòng tiếp thu hết thảy với cái tính chuyên cần vốn có ở một thằng nông dân, và trò chẳng khó khăn gì đã vượt được thầy. Mỗi khi có tên sĩ quan nào thiếu tinh thần, không chịu đựng được nữa trước máu và sự đau khổ của người khác, Mitka chỉ nheo hai con mắt vàng hoe, đầy những tia li ti, làm nốt công việc đến cùng. Sau khi rời bỏ một đơn vị Cô-dắc để lọt vào đội thanh tiễu của tên trung tá Prianisnhikov và sống một cuộc đời lưu manh đểu cáng, cuối cùng Mitka đã biến thành một con người như thế. Sau khi vào đến trong thôn, nó ra oai ra thế và hầu như không thèm chào lại những người đàn bà mà nó gặp. Nó cho ngựa đi bước một về nhà, xuống ngựa cạnh cái cổng cháy dở, ám khói đen thui, trao dây cương cho tên Kalmys rồi khệnh khạng bước vào trong sân. Với tên Xilanchi đi kèm, nó lầm lì đi một vòng quanh nền nhà, đưa đầu roi ngựa chạm vào hòn thuỷ tinh bị chảy trong khi cháy nhà, lóng lánh như một viên ngọc lam, rồi nói bằng một giọng khàn đặc vì cảm động: - Bị chúng nó đốt mất… Ngôi nhà trước kia đường hoàng biết bao! Đẹp nhất thôn đấy. Miska Kosevoi, một thằng cùng thôn với tôi đã châm lửa. Chính nó đã giết ông tôi. Anh thấy đấy, anh Xilanchi Petrovich, tôi đã về thăm ngôi nhà thân yêu để được thấy đám tro tàn như thế nầy đây… - Thế nhà Kosevoi ấy có đứa nào ở nhà không? - Gã kia hỏi ngay. - Có lẽ cũng có. Chúng ta sẽ qua thăm chúng nó sau… Nhưng bây giờ chúng ta hãy tới nhà ông bà thông gia nhà tôi cái đã. Trên đường đi đến nhà Melekhov, Mitka gặp ả con dâu nhà Bogaturev bèn hỏi: - Mẹ tôi ở bên kia sông Đông đã về chưa? - Hình như còn chưa về thì phải, bác Mitli Mironovich ạ. - Thế ông thông gia Melekhov nhà tôi có nhà không? - Ông già ấy à? - Phải. - Ông già có nhà đấy. Nói chung là họ đều ở nhà, chỉ trừ Grigori. Petro thì bị giết dạo mùa đông rồi, bác đã nghe tin chưa? Mitka khẽ gật đầu rồi thúc ngựa chạy nước kiệu. Nó cưỡi ngựa đi trên dãy phố vắng tanh và trong hai con mắt ngao ngán, lạnh băng, vàng như mắt mèo của nó, không còn lưu chút dấu vết gì của cái vẻ cảm động sôi nổi vừa nãy. Trong khi đi gần tới sân nhà Melekhov, nó khẽ nói nhưng không riêng với một đứa nào trong hai thằng cùng đi: - Mình về nơi thôn xóm chôn nhau cắt rốn được đón tiếp như thế nầy đây! Muốn được ăn một bữa phải tìm đến nhà họ hàng… Nhưng được thôi, cứ chờ đấy mà xem! Ông Panteley Prokofievich đang chữa cái máy gặt dưới hiên nhà kho. Ông nhìn thấy mấy người cưỡi ngựa, nhận ra Mitka Korsunov trong đám, bèn bước ra cổng: - Xin mời các ngài vào chơi. - Ông vừa mở cái cửa xép vừa niềm nở nói. - Chúng tôi rất sung sướng được đón khách tới nhà! Mừng anh về chơi! - Chào ông thông gia! Ông vẫn khỏe chứ? - Ơn chúa, tình hình cũng khá. Nhưng sao, anh đã được phong hàm sĩ quan rồi cơ à? - Thế ông nghĩ rằng chỉ có các con ông mới được đeo lon trắng hay sao? - Mitka nói giọng tự mãn rồi chìa cho ông già một bàn tay dài ngoằng, đầy gân xanh. - Hai thằng nhà tôi cũng không thích đeo lon lắm đâu. - Ông Panteley Prokofievich mỉm cười trả lời rồi chạy đi trước để chỉ chỗ buộc ngựa. Vốn mến khách, bà Ilinhitna dọn bữa trưa cho khách ăn rồi sau đó mới bắt đầu nói chuyện. Mitka hỏi han cặn kẽ về tất cả những điều dính dáng đến gia đình nó, nhưng cứ lầm lì, không để lộ chút thái độ căm uất hay buồn phiền gì cả. Rồi như tiện câu chuyện, nó hỏi xem gia đình Miska Kosevoi có ai còn ở lại trong thôn không. Khi được biết rằng bà mẹ cùng mấy đứa em nhỏ của Miska có nhà, nó khẽ nháy mắt với tên Xilanchi, nhưng không để cho ai trông thấy. Chẳng mấy chốc ba người khách đã sửa soạn cáo từ ra đi. Trong khi ra tiễn khách, ông Panteley Prokofievich hỏi: - Anh định ở lại chơi trong thôn có lâu không? - Khoảng hai ba ngày gì đó. - Anh sẽ đi thăm bà nhà chứ? - Cái đó còn tuỳ. - Nhưng bây giờ anh đi có xa không? - À. Cũng chỉ qua thăm vài bà con trong thôn thôi. Chúng tôi sẽ đi quay về ngay. Mitka và hai thằng cùng đi còn chưa kịp quay về nhà Melekhov thì khắp thôn đã truyền đi cái tin: "Thằng Korsunov cùng bọn Kalmys đã đến đây chém chết cả nhà Kosevoi rồi!". Còn chưa hay biết gì cả, ông Panteley Prokofievich vừa ra lò rèn lấy cái hái về và đang sửa soạn chữa cái máy gặt thì bà Ilinhitna gọi ông: - Ông lại đây đã, ông Prokofit! Nhưng quàng quàng lên nào! Giọng nói của bà lão rõ ràng lộ vẻ lo lắng. Ông Panteley Prokofievich vội vào ngay trong nhà. Natalia khóc sướt mướt đứng bên cạnh bếp lò, mặt mày nhợt nhạt, Bà Ilinhitna đưa mắt về phía mụ vợ của gã Anikey, hỏi giọng âm thầm: - Ông đã nghe thấy tin gì chưa, ông già? "Chao ôi, lại có chuyện gì xảy ra với thằng Grigori rồi.. Cầu Chúa che chở, cầu Chúa rủ lòng thương!" - ý nghĩ ấy làm ông Panteley Prokofievich cảm thấy trong lòng như nung như nấu. Ông tái mặt, rồi vừa hoảng sợ vừa điên tiết vì chẳng thấy ai nói gì cả, bèn quát lên: - Có gì thì nói ngay đi chứ, cái bọn đáng nguyền rủa nầy? Thế nào, có gì xảy ra thế? Có chuyện với thằng Grigori à? - Rồi như bị tiếng kêu làm cho kiệt sức, ông ngồi phịch xuống chiếc ghế dài và đưa tay xoa xoa cặp chân run bần bật. Dunhiaska là người đầu tiên hiểu rằng bố đang lo có những tin không may về Grigori, bèn vội nói: - Không đâu, cha ạ, không phải là tin về anh Griska đâu, Mitka đã giết những người trong nhà Kosevoi. - Giết là thế nào? - Ông Panteley Prokofievich cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm hẳn đi, song ông vẫn còn chưa hiểu ý nghĩa của những lời Dunhiaska vừa nói bèn hỏi lại - Nhà Kosevoi ấy à? Mitka ấy à? Mụ vợ gã Anikey vừa chạy sang cho biết tin bèn bắt đầu kể lắp bắp: - Bác ạ, lúc ấy cháu đang đi tìm con bé, nên phải chạy sang sân nhà Kosevoi. Bỗng cháu thấy thằng Mitka và cùng với nó còn có hai tên lính nữa cưỡi ngựa tới sân và vào trong nhà. Cháu nghĩ bụng: con bê sẽ không đi quá cái cối xay gió đâu. Hôm nay là phiên cháu đi chăn bê mà… - Nhưng tôi cần quái gì đến con bê nhà chị! - Ông Panteley Prokofievich tức giận ngắt lời mụ. - Thế là chúng nó vào trong nhà. - Mụ kia lắp bắp kể tiếp, - còn cháu thì đứng lại đấy, bụng bảo dạ: "Chúng nó mì tới đây thì chẳng phải vì một chuyện tốt lành gì đâu". Rồi trong ấy bắt đầu có tiếng kêu la và nghe thấy cả tiếng đánh đập. Cháu sợ chết đi được, muốn bỏ chạy, nhưng vừa rời khỏi chỗ hàng rào thì nghe thấy sau lưng có tiếng chân rầm rập. Vừa ngoảnh lại đã thấy thằng Mitka nhà bác lồng một cái gấu váy vào cổ bà lão mà lôi xềnh xệch trên mặt đất, cứ như lôi con chó ấy, lạy chúa tha tội cho! Nó lôi và ấy tới nhà kho, nhưng bà lão khốn nạn chẳng kêu được một tiếng nào có lẽ vì đã bất tỉnh nhân sự. Thằng Kalmys đi cùng với thằng Mitka bèn nhảy lên cái xà ngang… Cháu thấy thằng Mitka ném một đầu cái gấu váy cho thằng kia và quát lên: "Kéo lên và buộc một cái nút!" Chao ôi, cháu sợ đến chẳng còn hồn vía gì nữa! Chúng nó đã treo cổ bà lão đáng thương ấy ngay trước mắt cháu, rồi sau đó chúng nó nhảy lên ngựa, phi dọc theo cái ngõ, có lẽ ra nhà hội đồng. Vào trong nhà thì cháu sợ không dám vào… Nhưng cháu nhìn thấy từ trong phòng ngoài, ngay bên dưới cánh cửa, có máu chảy ra những bậc thềm. Cầu Chúa tha cho cháu khỏi phải trông thấy một chuyện khủng khiếp như thế nữa! - Chúa đã đưa đến nhà ta những ông khách tốt như thế đấy? - Bà Ilinhitna vừa nói vừa nhìn ông già, có vẻ chờ đợi. Với vẻ mặt hết sức xúc động, ông Panteley Prokofievich nghe hết câu chuyện, rồi chẳng nói chẳng rằng, ông bước ngay ra phòng ngoài. Chẳng mấy chốc đã thấy Mitka cùng hai thằng tay chân của nó tới gần cổng nhà. Ông Panteley Prokofievich khập khiễng bước thoăn thoắt tới trước mặt chúng. - Đứng lại! - Từ xa ông đã quát lên, - Không được cho ngựa vào trong sân. - Có gì thế, ông thông gia thân mến? - Mitka ngạc nhiên hỏi. - Quay ngựa trở lại! - Ông Panteley Prokofievich bước tới sát Mitka rồi nhìn thẳng vào hai con mắt vàng hoe và long lanh của nó, nói rất rắn rỏi - Anh thông gia, anh đừng có giận, nhưng tôi không muốn anh đặt chân vào nhà tôi. Tốt nhất là anh đi đâu thì đi. A-a-a-… - Mitka kéo dài giọng ra vẻ đã vỡ lẽ, mặt nó tái đi. - Thế là ông đuổi tôi phải không? - Tôi không muốn anh làm bẩn nhà tôi? - Ông già kiên quyết nhắc lại - Và từ nay anh chớ có đặt chân vào nhà tôi nữa. Nhà chúng tôi, nhà Melekhov nầy, không có họ hàng gì với những tên đao phủ, dứt khoát là như thế? - Rõ rồi, nhưng ông thông gia thân mến ạ, ông thương người quá đấy. - Còn anh thì đúng là anh không hiểu lòng thương người là gì cả, vì anh đã bắt đầu đi giết đàn bà con nít? Chao ôi, anh Mitka, anh làm một cái nghề thật là bất lương… Ông cụ nhà anh nay đã mồ yên mả đẹp nhìn thấy anh cũng không lấy làm sung sướng lắm đâu. - Còn lão, lão già ngu xuẩn, có lẽ lão muốn tôi nựng nịu nuông chiều chúng nó phải không? Chúng nó giết bố tôi, chúng nó giết ông tôi, thế mà tôi lại ôm hôn chúng nó như trong ngày lễ phục sinh hay sao? Thôi cút mẹ lão đi! - Mitka hung hãn kéo cương, con ngựa đi ra khỏi cửa xép. - Anh đừng có chửi bới. Anh chỉ đáng tuổi con tôi thôi. Và chúng tôi không có gì chia sẻ với anh đâu, anh hãy đi đi và cầu Chúa che chở cho anh. - Lão đừng có đẩy tôi đến chỗ làm điều ác, đừng có đẩy tôi đến chỗ đó? Tôi còn thương con Natalia, nếu không đối với một thằng tốt bụng tốt dạ như lão, tôi thì… Tôi biết nhà lão lắm? Tôi đã nhìn thấy rõ tim gan nhà lão như thế nào rồi? Nhà lão đã không rút lui sang bên kia sông Dones phải không? Nhà lão đã đi theo bọn Đỏ phải không? Đấy, đấy? Tất cả già trẻ gái trai nhà lão cái lũ chó đẻ nầy, phải treo cổ hết chúng mày lên như nhà thằng Kosevoi mới phải! Thôi đi đi anh em! Nầy liệu hồn đấy, cái con chó dái thọt cẳng, lão đừng có chạm trán với thằng nầy lần nữa? Lão không thoát khỏi tay thằng nầy đâu? Thằng nầy không quên sự đón tiếp của lão đâu! Cái kiểu họ hàng như thế nầy thằng nầy cũng chẳng thiết! Hai tay run bần bật, ông Panteley Prokofievich đóng cửa xép, cài then rồi khập khiễng trở vào trong nhà. - Tao đã tống cổ thằng anh mày đi rồi. - Ông nói nhưng không nhìn Natalia. Natalia chẳng nói chẳng rằng tuy trong thâm tâm nàng rất đồng tình với cách đối xử của bố chồng. Bà Ilinhitna làm dấu phép rất nhanh và sung sướng nói: - Thật là ơn Chúa: cái quân quỷ dữ ấy chúng nó xéo rồi? Natalia ạ mày cũng đừng giận mẹ nói quá nặng lời, nhưng cái thằng Mitka nhà mày đúng là một quân thù quân hằn đối với chúng ta! Nó đã kiếm được một công việc như thế mà làm, nó không làm như những thằng Cô-dắc khác, không đi lính trong những đơn vị đàng hoàng mà, mày có thấy không? Nó đi theo một đội đao phủ! Đi làm một thằng đao phủ, treo cổ những bà già, cầm gươm chém những đứa trẻ vô tội, chẳng nhẽ một người Cô-dắc lại làm những điều như thế hay sao? Chẳng nhẽ mẹ con nhà ấy phải chịu trách nhiệm về thằng Mitka hay sao? Nếu thế thì bọn Đỏ có thể vì thằng Griska mà chém cả tao, cả mày lẫn thằng Misatka và con Poliakov. Nhưng họ có chém đâu, họ cũng biết thương đấy chứ? Không, cầu Chúa che chở cho, tao không đồng tình với bọn nầy được. - Mẹ ạ, con không bênh anh con đâu… - Natalia đưa khăn tay lên chùi nước mắt và chỉ nói như thế. Ngay hôm ấy Mitka rời khỏi thôn. Nghe nói hình như nó lại về với đội thanh tiễu của nó ở một nơi nào đó gần thị trấn Karginskaia và cùng toàn đội đi lập lại trật tự trong những làng Ukraina của khu Donesky, vì các làng nầy đã phạm cái tội tham gia trấn áp cuộc phiến loạn ở vùng Đông thượng. Sau khi Mitka đi rồi, trong thôn còn bàn ra tán vào hàng tuần về chuyện đó, phần lớn dân chúng đều lên án cái hành động tự quyền xét xử và tàn sát gia đình Kosevoi. Người ta đã lấy tiền công quỹ chôn cất ba mẹ con người bị giết và muốn bán căn nhà nhỏ của Kosevoi nhưng chẳng có ai mua. Theo lệnh tên ataman thôn, các cửa chớp của căn nhà đều có ván đóng chéo chữ thập. Trong một thời gian rất dài, con trẻ không dám đến chơi đùa ở nơi khủng khiếp ấy nữa, và mỗi khi qua căn nhà bị giết hết người ở, các ông già bà lão đều làm dấu phép cầu cho linh hồn những người bị giết được yên nghỉ. Sau đó là thời vụ cắt cỏ ngoài đồng và những chuyện vừa xảy ra cũng bị quên đi. *** Vẫn như xưa, thôn xóm kéo dài cuộc sống trong lao động và với những tin mặt trận. Các hộ nào còn giữ được bò ngựa kéo xe đều rên rỉ, chửi rủa mỗi khi phải sửa soạn xe để đi phu vận tải. Gần như ngày nào người ta cũng phải bỏ công việc làm ăn để đánh bò ngựa lên trấn. Trong khi tháo ngựa ra khỏi máy cắt cỏ, bọn già lão luôn miệng dùng những lời chẳng hay ho gì để nói về cuộc chiến tranh kéo dài nầy. Nhưng đạn pháo, đạn súng trường, súng máy, dây thép gai, lương thực thì không thể không chở ra mặt trận. Và người ta đã chở đi. Như cố ý trêu người, những ngày đó đều rất đẹp trời, làm người ta chỉ muốn đi cắt cỏ, đi đánh đống những lớp cỏ vừa đúng độ nên cắt nhiều chất bổ mộc cách lạ lùng. Ông Panteley Prokofievich sửa soạn đi cắt cỏ và rất bực mình với Daria. Ả đã đánh một đôi bò mộng đi chở đạn, đáng là phải từ chỗ chuyển xe trở về rồi, nhưng đã được một tuần mà chẳng thấy tăm hơi ả đâu cả. Không có đôi bò mộng già đáng tin cậy ấy thì ra đồng cỏ cũng chẳng làm được trò trống gì. Thật ra, đáng lẽ không cắt Daria đi mới phải… Khi trao cặp bò cho ả, ông Panteley Prokofievich đã phải cố nén lòng vì ông đã biết ả thích láng cháng tằng tịu và lười chăm nom gia súc như thế nào. Đunhiasa thì không thể nào cho đi được vì đi đường xa cùng với những gã Cô-dắc lạ mặt đâu phải là việc con gái con đứa làm. Natalia thì có con nhỏ: chẳng nhẽ đích thân ông già phải chở những viên đạn khốn kiếp ấy đi hay sao? Mà Daria lại sẵn sàng tự nguyện xin đi. Ngay xưa kia ả cũng vẫn vui lòng đi tất cả các nơi, dù là đến nhà máy xay để xay bột xay kê hay đi làm một việc gì khác cần thiết cho công việc trong nhà, nhưng tất cả chỉ vì ả cảm thấy rằng ra khỏi nhà thì mình được tự do hơn rất nhiều. Mỗi chuyến đi đều giúp ả giải khuây đều làm cho ả vui. Thoát khỏi cặp mắt theo dõi của mẹ chồng, ả có thể tán hươu tán vượn thoả thích với bọn đàn bà, và như ả thường nói, có thể "tình tang qua quýt" khi có gã Cô-dắc nhanh nhẩu hoạt bát lọt vào mắt ả. Còn ở nhà thì ngay sau khi Petro qua đời, bà Ilinhitna vốn tính nghiêm khắc cũng không để cho ả được tự do. Cứ như là sau khi đã lừa dối chồng trong khi chồng còn sống, Daria bắt buộc phải giữ trọn niềm chung thuỷ với người đã khuất. Tuy biết rằng hai con bò mộng sẽ không được chăm nom với cặp mắt của một người làm chủ, nhưng ông Panteley Prokofievich chẳng còn cách nào khác, đành phải sửa soạn cho con dâu cả lên đường. Cho đi thì vẫn cho đi, nhưng suốt một tuần ông cứ lo canh cánh, trong lòng không lúc nào được yên. "Đi đứt mất cặp bò của mình rồi!" - Nhiều lần ông đã tỉnh giấc giữa đêm, thở dài thườn thượt, bụng bảo dạ. Đến sáng hôm thứ mười một, Daria mới trở về nhà. Ông Panteley Prokofievich vừa ở ngoài đồng về. Ông thắng chung bò để cắt cỏ cùng với mụ vợ của gã Anikey. Ông để mụ và Dunhiaska ở lại đồng cỏ để về thôn lấy nước và thức ăn. Hai ông bà già và Natalia đang ăn sáng thì bên ngoài cửa sổ có tiếng xe lóc cóc nghe rất quen. Natalia chạy thoắt ra cửa sổ nhìn thấy Daria quấn khăn che mặt đến tận mắt đang đánh hai con bò mệt mỏi và gầy rộc. - Nó đấy phải không? - Ông già bị nghẹn vì một miếng chưa nhai kỹ nhưng vẫn hỏi. - Daria đấy? - Thật không ngờ còn được trông thấy hai con bò! Chà, thật là ơn Chúa? Cái con đĩ thoã đáng nguyền rủa? Mãi bây giờ mới lê xác về đến nhà… - Ông già ợ lên vì no, vừa làm dấu ghép vừa làu bàu. Tháo bò xong, Daria bước vào bếp, đặt ở ngưỡng cửa một mảnh vải thô gấp tư rồi chào hỏi mọi người trong nhà. - Mày làm sao thế, con yêu của cha! Sao mày chẳng đi thêm một tuần nữa! - Ông Panteley Prokofievich không trả lời câu Daria chào hỏi, gườm gườm nhìn ả và nói giọng bực bội. - Cha cứ thử đi lấy mà xem? - Ả vừa tháo chiếc khăn đầy bụi khỏi đầu vừa nói lại. - Sao mày đi lâu thế con? - Bà Ilinhitna hỏi xen vào cho không khí của buổi gặp gỡ đỡ căng thẳng. - Họ không cho về, vì thế mới đi lâu. Ông Panteley lắc đầu tỏ vẻ không tin rồi hỏi: - Con vợ thằng Khristonhia đến chỗ chuyển xe thì được về, còn mầy thì không à? - Nhưng tôi thì họ không cho về! - Daria hung hãn long hai con mắt nói thêm - Nếu cha không tin thì cứ ra mà hỏi lão đội trưởng đi theo đoàn xe vận tải ấy. - Tao chẳng cần gì phải đi dò hỏi về mày, nhưng lần sau mày sẽ ở nhà. Mày thì sẽ chỉ được cho đi thăm Diêm vương thôi. - Cha lại doạ tôi à! Ái chà chà, cha lại doạ tôi! Nhưng tôi, tôi cũng sẽ không đi đâu? Bảo tôi đi, tôi cũng sẽ không đi cho mà xem! - Hai con bò có khỏe không? - Giọng ông già hỏi đã ôn tồn hơn. - Khỏe. Bò của cha chẳng gặp phải chuyện gì đâu… - Daria trả lời giọng miễn cưỡng, mặt u ám hơn cả trời đêm. "Trên đường đã phải chia tay với một anh chàng yêu dấu nào chứ gì, chính vì thế chị chàng mới bẳn tính như thế đây", Natalia nghĩ thêm. Bao giờ nàng cũng cảm thấy thương hại và kinh tởm đối với Daria và cái thói trăng hoa bẩn thỉu của Daria. Ăn sáng xong, ông Panteley Prokofievich sắp sửa ra đồng cỏ, nhưng giữa lúc ấy lão ataman thôn mò tới. - Đáng là tôi phải chúc ông đi cho mạnh giỏi mới phải, nhưng ông hãy hượm đã, ông Panteley Prokofievich, ông đừng đi vội. - Ông lại đến lấy xe vận tải chứ gì? - Ông giả vờ hỏi bằng một giọng hiền lành ôn tồn, nhưng thật ra cơn giận sôi sục đã làm ông cảm thấy nghẹt thở. - Không, hôm nay lại là một điệu nhạc khác. Hôm nay chính tướng quân Sidorin, tổng tư lệnh của toàn thể quân đội sông Đông, sẽ đến thôn ta. Ông có hiểu không? Tôi vừa nhận được tờ giấy do liên lạc của ông ataman trấn mang tới, ra lệnh cho toàn thể bô lão và đàn bà phải tới họp đại hội thôn, không được thiếu một ai. - Họ có còn trí khôn nữa hay không? Việc ông Panteley Prokofievich kêu lên. - Giữa thời buổi công việc làm ăn tất bật như thế nầy, ai lại tổ chức một đại hội toàn thôn? Thế còn rơm cỏ thì ông tướng Sidorin của ông sẽ đi lấy về cho tôi dự trữ dùng trong mùa đông chứl - Ông ấy thì là của ông cũng chẳng kém gì của tôi. Lão ataman bình tĩnh trả lời. Tôi nhận được lệnh như thế nào thì lại làm như thế nấy thôi. Ông hãy tháo bò ra! Phải đem bánh mì và muối ra đón rước cho trọng thể. Ngoài ra nghe nói còn có cả những vị tướng Đồng minh cũng đến nữa đấy. Ông Panteley Prokofievich đứng lặng một lát bên cạnh chiếc xe bò, suy đi tính lại rồi bắt đầu tháo hai con bò. Lão ataman thấy lời lão đã đem lại kết quả, bèn vui vẻ hỏi thêm: - Ông có thể cho mượn con ngựa cái của ông không? - Ông cần đến nó để làm gì? Quỷ tha ma bắt chúng nó đi! Trong mệnh lệnh bảo rằng phải đem hai chiếc xe ba ngựa đi đón ở khe Thằng Ngốc. Nhưng kiếm đâu ra xe và ngựa bây giờ, thật phát điên lên được! Trời chưa hửng tôi đã dậy, chạy long tóc gáy, chiếc sơ-mi ướt rồi lại ráo tới năm lần mà mới kiếm được bốn con ngựa. Bà con đi làm việc tất tần tật, thật khóc lên được! Đến lúc nầy ông Panteley Prokofievich đã lấy lại được bình tĩnh, ông đồng ý cho mượn con ngựa cái, thậm chí còn đề nghị đem dùng chiếc xe ngựa có lắp díp của mình. Dù sao đây cũng là để cho tổng tư lệnh quân đội đi, lại có cả những ông tướng nước ngoài cùng đi nữa, mà đối với các ông tướng thì ông Panteley Prokofievich vốn dĩ bao giờ cũng hết sức kính sợ… Do sự mẫn cán của lão ataman, người ta đại khái cũng kiếm được hai chiếc xe ba ngựa rồi đánh đến khe Thằng Ngốc để đón các vị khách quý. Dân chúng kéo đến tề tựu trên bãi họp của thôn. Nhiều người bỏ cả công việc cắt cỏ, vội vã chạy từ ngoài đồng cỏ về thôn. Ông Panteley Prokofievich cũng không thiết gì đến công việc nữa. Để làm dáng làm đỏm một chút, ông mặc một chiếc sơ-mi sạch sẽ, một chiếc quần đi ngựa bằng nỉ có nẹp, đội một chiếc mũ cát-két mà trước kia Grigori đã mang về làm quà biếu ông, rồi đàng hoàng khập khiễng ra bãi họp việc làng sau khi đã dặn bà già bảo Daria mang nước và thức ăn ra đồng cỏ cho Dunhiaska. Chẳng mấy chốc một làn bụi mù mịt đã cuộn lên trên con đường và ào ào đổ về thôn như một dòng nước. Qua làn bụi thấy nhấp nhoáng một cái gì bằng kim khí và từ xa đã vẳng tới tiếng còi xe hơi bí bo. Các vị khách đi hai chiếc xe hơi mới toanh, lấp lánh màu sơn xanh sẫm. Xa xa phía sau, hai chiếc xe ba ngựa bỏ không đang vượt qua những người cắt cỏ từ ngoài đồng cỏ trở về thôn. Dưới cái vòng cung ở đầu càng xe leng keng mấy chiếc chuông xe bưu điện mà lão ataman đã cố kiếm cho buổi lễ long trọng nầy, tiếng chuông nghe đến là rầu rĩ. Đám người đứng trên bãi nhộn nhịp hẳn lên, nhao nhao tiếng người nói, tiếng trẻ con la hét vui vẻ. Lão ataman cuống quít chạy lăng xăng trong đám người để kiếm những tên bô lão danh dự sẽ ra hiến bánh mì và muối. Vừa nhìn thấy ông Panteley Prokofievich, lão mừng rơn nắm luôn lấy tay ông: - Ông hãy vì Chúa mà giúp tôi với! Ông là một người từng trải, biết cách nói năng đối xử… Chắc hẳn ông cũng biết bắt tay họ và làm được cả mọi thứ… Hơn nữa ông đã từng là uỷ viên Cơ-rúc và lại có được một con trai như thế… ông làm ơn mang hộ bánh mì và muối, kẻo tôi cứ thấy sờ sợ, run cả đầu gối. Tuy phổng cả mũi trước vinh dự đó, nhưng đầu tiên ông Panteley Prokofievich vẫn từ chối cho ra vẻ lịch sự, rồi một lát sau mới so vai rút cổ, làm dấu phép rất nhanh trước khi nhận lấy cái đĩa đựng bánh mì và muối, trên phủ chiếc khăn thêu. Ông đưa khuỷu tay hích những người đứng bên để lên phía trước. Chỉ loáng cái hai chiếc xe hơi đã chạy tới gần cái bãi, hộ tống có cả một bầy chó đủ các màu lông sủa đến khản cả tiếng. - Ông… ông thấy thế nào? Ông có sợ không? - Lão ataman mặt mày nhợt nhạt khẽ rỉ tai ông Panteley Prokofievich. Đây là lần đầu tiên trong đời lão được trông thấy những vị quan to như thế nầy. Ông Panteley Prokofievich long cặp mắt có hai cái lòng trắng xanh xanh, liếc nhìn lão một cái và nói bằng một giọng khê đặc vì cảm động: - Nầy, ông cầm hộ một lát, để tôi chải qua bộ râu cái đã. Cầm lấy kìa? Lão ataman sẵn lòng đỡ hộ cái đĩa. Ông Panteley Prokofievich vuốt râu vuốt ria, ưỡn ngực một cách ngang tàng, kiễng bên chân tàn tật để người ta không thấy rằng mình thọt, rồi lại nhận lấy cái đĩa. Nhưng cái đĩa cứ run bần bật trong tay ông đến nỗi lão ataman phải hốt hoảng hỏi ông: - Ông sẽ không để rơi chứ? Chao ôi, ông cẩn thận đấy? Ông Panteley Prokofievich nhún vai ra vẻ khinh bỉ. Ông mà đánh rơi hay sao? Sao lại có kẻ nói được một câu ngu xuẩn đến như thế! Một nhân vật đã từng làm uỷ viên Cơ-rúc như ông, một người đã từng lên tận tướng phủ của quan ataman nhiệm mệnh bắt tay tất cả các nhân vật mà lại bất thần hoảng sợ trước mặt một viên tướng nào đó hay sao? Cái thằng ataman vô danh tiểu tốt, cái thằng khốn nạn nầy đúng là đã mất hết trí khôn rồi! - Nầy, người anh em ạ, hồi lên họp Cơ-rúc Quân khu, tôi đã uống nước chè đường với chính ngài ataman nhiệm mệnh đấy… - Ông Panteley Prokofievich vừa bắt đầu nói đã lại nín thinh. Chiếc xe hơi đầu tiên dừng bánh trước mặt ông, chỉ cách chừng mươi bước. Gã tài xế mặt mày nhẵn thín đội chiếc mũ cát-két vành rất to, áo quân phục cổ bẻ đính những chiếc lon không phải của quân đội Nga, nhẹ nhàng nhảy xuống mở cửa xe. Từ trên xe hai quân nhân mặc quần áo màu cứt ngựa từ tốn bước xuống, đi về phía đám người. Cả hai tiến thẳng tới trước mặt ông Panteley Prokofievich, nhưng ông vẫn đứng nghiêm cứng người. Ông đoán rằng chính hai con người ăn vận giản dị nầy mới là hai ông tướng, còn những kẻ đi sau, quần áo bảnh bao hơn, thì chỉ là những cấp dưới trong đoàn tuỳ tùng. Ông gì đăm đăm nhìn những vị quan khách đang bước tới mỗi lúc một gần, và trong cặp mắt mở trừng trừng không chớp của ông mỗi lúc một hiện rõ một vẻ ngạc nhiên không chút giấu giếm. Còn đâu những cái lon cấp tướng nặng nề? Còn đâu những dây ngù vai và huân chương? Hai nhân vật nầy thì tướng với tá gì với cái trang phục và dung mạo nom chẳng khác gì những tên thủ lại tầm thường chỉ là lính trơn? Trong khoảnh khắc ông Panteley Prokofievich chợt cảm thấy mình thất vọng một cách chua chát. Thậm chí ông còn có phần bực mình, cả vì mình đã hoài công chuẩn bị đón tiếp long trọng, cả vì thấy hai tên kia đã bôi nhọ cái danh hiệu tướng lĩnh. Mẹ nó chứ, nếu ông biết trước rằng sẽ có những thằng tướng như thế nầy vác mặt tới đây thì ông đã chẳng ăn vận chải chuốt, chẳng chờ đón chúng với cả một tâm trạng rạo rực bồi hồi như thế, và dù sao cũng chẳng đứng đực ra như một thằng ngốc với cái đĩa trong tay đựng chiếc bánh mì mà một mụ già hạng bét nào đó đã nướng chẳng ra đâu vào đâu. Không, lão Panteley Melekhov nầy chưa từng làm trò cười cho thiên hạ bao giờ, thế mà bây giờ cái chuyện ấy đã xảy ra. Mới một phút trước đây thôi, chính tai ông đã nghe thấy bọn nhãi ranh cười khì khì sau lưng ông và một thằng tiểu yêu đã réo ầm làng nước: "Các cậu ơi! Xem lão thọt Melekhov đứng cứng người ra có ghê không kìa! Cứ như lão vừa nuốt chửng một con cá diếc ấy!". Nếu quả thật có gì đáng để ông phải nghe thiên hạ đàm tiếu và làm khổ cái chân đau phải căng thẳng ra như sợi dây đàn thì đã chẳng nói làm gì… ông Panteley Prokofievich giận quá, lục phủ ngũ tạng sổi cả lên. Trăm tội chỉ tại cái lão ataman khốn kiếp nhát như cáy. Lão dẫn xác đến nhà, nói nhăng nói cuội, lấy cả ngựa lẫn xe rồi chạy long tóc gáy khắp thôn, nhỏ rớt nhỏ dãi, kiếm nhạc kiếm chuông cho hai chiếc xe ba ngựa. Tục ngữ nói quả không ngoa: Kẻ nào chưa từng gặp một con người cho ra con người thì trông thấy một cái cành cây cũng mừng rơn. Suốt cuộc đời ông, ông Panteley Prokofievich đã từng trông thấy những tên tướng tá như thế nầy bao giờ đâu? Cứ tạm kể buổi duyệt binh của hoàng đế thôi, có những ông tướng ngực đầy huân chương, huy chương, những vàng là vàng, cứ nhìn mà sướng cả mắt, đúng là bức hình thánh chứ không còn là ông tướng nữa! Còn hai tay nầy thì toàn một màu xanh lá cây, nom chẳng khác gì hai con quạ. Một tay thậm chí còn không có được cái mũ cát-két hình thù cho tử tế một chút, mà lại đội kiểu như một cái nồi bọc vải, mặt mày lại cạo nhẵn thín, lấy đèn mà soi cũng chẳng tìm thấy được một sợi râu nào… ông Panteley Prokofievich cau có, thiếu chút nữa thì nhổ toẹt bãi nước bọt vì tởm lợm, nhưng có một tên không rõ là tên nào đã đẩy mạnh vào lưng ông và rỉ tai ông rất to: - Ông bước lên đi chứ, mang lên đi! Ông Panteley Prokofievich bước về phía trước. Tên tướng Sidorin đưa mắt qua đầu ông, lướt nhìn đám người rồi cất cái giọng oang oang lên nói: - Xin chào các ngài bô lão! - Xin chào quan lớn, chúc ngài khỏe mạnh! - Dân chúng trong thôn nhao nhao kêu lên. Viên tướng nhận bánh mì và muối trong tay ông Panteley Prokofievich với một vẻ rất độ lượng, nói: "Cám ơn!" rồi chuyển cái đĩa cho tên phó quan. Đứng bên cạnh Sidorin là một đại tá người Anh cao, gầy nhưng khỏe mạnh. Dưới vành mũ sụp xuống tới mắt, hắn nhìn đám dân chúng Cô-dắc với một vẻ hiếu kỳ phớt lạnh. Theo lệnh tên tướng Brichxơ, trưởng phái đoàn quân sự Anh ở vùng Kavkaz, hắn đi theo Sidorin trong chuyến tuần tra của tên nầy lại các vùng Quân khu sông Đông vừa đuổi được hết người Bolsevich và qua thông ngôn, hắn nghiên cứu rất cẩn thận tinh thần của dân Cô-dắc, đồng thời tìm hiểu tình hình các mặt trận. Tên đại tá đã mệt nhoài vì những thiếu thốn mà hắn đã phải chịu đựng trong khi đi đường, vì phong cảnh đơn điệu của vùng đồng cỏ cùng những cuộc chuyện trò chán ngấy và tất cả các nhiệm vụ phức tạp đổ lên đầu một nhân vật đại diện cho một cường quốc lớn, song vấn đề cần được đặt cao hơn hết vẫn là phải phục vụ cho các quyền lợi của vương quốc! Vì thế hắn vẫn chăm chú lắng nghe lời phát biểu của tên hùng biện trong trấn mà hắn đã gần hiểu được hết vì hắn có biết tiếng Nga, nhưng vẫn giấu những tên khác. Với vẻ kiêu ngạo chính cống Anh-cát-lợi, hắn nhìn những bộ mặt ngăm ngăm đen mang những tính chất hết sức khác nhau của những người con thượng võ nầy trên đồng cỏ và hắn cảm thấy rất đỗi ngạc nhiên trước cái tính chất hỗn hợp chủng tộc nó bao giờ cũng đập ngay vào mắt những người nhìn vào một đám dân Cô-dắc: Một anh chàng mang những nét điển hình của dân Mông-cồ đứng ngay bên cạnh một gã Cô-dắc tóc trắng phếch nòi Slavơ, và cũng gần đấy lại có một thanh niên với bộ tóc đen nhánh như cánh quạ, tay quấn những đám băng bẩn thỉu, đang nói chuyện với một lão già râu tóc bạc phơ nom như một vị tộc trưởng trong Kinh thánh, và hoàn toàn có thể đánh cuộc rằng trong người lão tộc trưởng chống gậy, mặc chiếc trermen Cô-dắc kiểu cổ nầy, đang chảy một dòng máu hết sức thuần tuý của dân miền núi Kavkaz… Tên đại tá cũng có thuộc đôi chút lịch sử: trong khi nhìn đám dân Cô-dắc hắn nghĩ rằng không riêng những con người man rợ nầy mà cả bọn con cháu họ cũng không thể nào đi đánh Ấn Độ dưới quyền chỉ huy của một ông Platov[306] nào mới. Sau khi đánh bại người bolsevich, nước Nga bị chảy hết máu trong nội chiến sẽ ra khỏi hàng ngũ các cường quốc lớn một thời gian dài, vì thế trong khoảng vài chục năm tới, các thuộc địa của Anh ở phương Đông sẽ không còn bị ai uy hiếp nữa. Còn cái việc người Bolsevich sẽ bị đánh bại thì tên đại tá tin tưởng như đinh đóng cột. Hắn vốn là một con người có đầu óc tỉnh táo, trước chiến tranh đã từng sống ở nước Nga nhiều năm, vì thế tất nhiên hắn không thể nào tin rằng các tư tưởng viển vông của chủ nghĩa cộng sản lại có thể dành được thắng lợi ở một nước gần như còn man rợ… Rồi đám phụ nữ chuyện trò nhao nhao bắt đầu thu hút sự chú ý của tên đại tá. Đầu không quay đi quay lại, hắn nhìn những khuôn mặt dãi dầu náng gió, gò má rất cao của họ, và trên cặp môi mím chặt của hắn hơi thoáng một nụ cười dè bỉu. Ông Panteley Prokofievich hiến bánh mì và muối xong lẩn ngay vào giữa đám đông. Ông không muốn nghe một gã bẻm mép nào đó từ thị trấn Vosenskaia về đây để nhân danh dân chúng toàn trấn chào mừng bọn quan khách vừa tới nơi, mà lại đi vòng ra sau đám đông, tới chỗ hai chiếc xe ba ngựa đang đỗ cách xa đấy một chút. Những con ngựa đều sủi mồ hôi, hai bên sườn đưa lên đưa xuống nặng nề theo nhịp thở hổn hển. Ông già đi tới trước mặt con ngựa cái cửa ông thắng ở giữa một cỗ ngựa, lấy tay áo lau mũi cho nó, thở dài. Trong tâm trạng quá thất vọng, ông chỉ muốn văng tục một câu, nhưng ông chỉ tháo ngay con ngựa và dắt về nhà. Trong khi đó tên tướng Sidorin đã bắt đầu nói chuyện với dân chúng thôn Tatarsky. Hắn ca ngợi các hoạt động quân sự của họ trong hậu phương của Hồng quân và nói: - Bà con đã anh dũng chiến đấu chống lại kẻ thù chung cửa chúng ta. Tổ quốc đang dần dần được giải phóng khỏi tay quân Bolsevich, khỏi cái ách áp bức khủng khiếp của chúng và sẽ không quên công lao của bà còn đâu. Tôi muốn tặng thưởng các bà phụ nữ thôn ta, những người như chúng tôi được biết, đã tỏ ra đặc biệt xuất sắc trong cuộo đấu tranh vũ trang chống lại bọn Đỏ. Tôi đề nghị các vị nữ anh hùng Cô-dắc sắp được gọi tên ngay đây tiến lên phía trước! Một tên sĩ quan đọc một bản danh sách ngắn. Người đầu tiên gọi tên là ả Daria nhà Melekhov, còn những người kia đều là vợ goá của những tên Cô-dắc bị giết hồi cuộc phiến loạn mới bùng nổ. Cũng như Daria, họ đã nhúng tay vào vụ giết hại các đảng viên cộng sản bị bắt làm lù binh và bị áp giải đến thôn Tatarsky sau khi trung đoàn Xerdovsky đầu hàng. Daria đã không ra đồng cỏ như ông Panteley Prokofievich ra lệnh. Ả cũng có mặt giữa đám đàn bà trong thôn và ăn mặc diêm dúa như đi chơi hội. Vừa nghe thấy đọc lên tên họ của mình, ả xô ngay mấy mụ đàn bà khác, mạnh dạn bước lên phía trước, vừa đi vùa sửa lại chiếc khăn bịt đầu trắng viền đăng ten, hai con mắt nheo nheo, nụ cười trên môi chỉ hơi có vẻ ngượng nghịu. Dù vẫn còn mệt mỏi sau chặng đường và những trò yêu đương, ả vẫn còn đẹp một cách lạ thường? Cặp má trắng nhợt không hề bị rám nắng càng làm nổi bật cái ánh bừng bừng của hai con mắt lim dim, nhìn sục sạo, và trên hai đường con phóng đãng của hai hàng lông mày tô đen cùng cặp môi cười toe toét thấy ẩn hiện một cái gì vừa khiêu khích vùa dâm đãng. Bị một tên sĩ quan đứng quay lưng về đám người ngáng đường, ả khẽ đẩy hắn ra và nói: - Lánh ra cho người yêu của chú rể đi nào? - Rồi ả đi tới trước mặt Sidorin. Sidorin nhận ở tay gã phó quan một chiếc mề-đay đính trên một dải huy chương thánh Gioóc, gắn lên bên trái ngực cái áo ngắn mặc ngoài của Daria bằng những ngón tay lóng ngóng rồi tươi cười nhìn vào mắt ả. - Bà là bà quả phụ vợ thiếu uý Melekhov bị giết hồi tháng Ba à? - Vâng. - Ngay bây giờ bà sẽ được nhận món tiền năm trăm rúp. Ông sĩ quan kia sẽ trao cho bà. Ngài ataman Quân khu African Petrovich Bogaevsky và Chính phủ sông Đông cảm ơn bà về tinh thần dũng cảm cao cả mà bà đã biểu hiện, đồng thời xin bà nhận cho lời chia buồn… Các vị đó xin chia buồn với bà về nỗi đau khổ của bà. Daria không hiểu được hết những lời viên tướng vừa nói với ả. Ả gật đầu cám ơn hắn, nhận tiền trong tay tên phó quan và chẳng nói chẳng rằng mỉm cười nhìn thẳng vào mắt tên tướng chưa lấy gì làm già lắm. Hai bên gần cao bằng nhau. Chẳng cần giữ ý gì cả. Daria cứ nhìn trân trân bộ mặt xương xương của viên tướng. "Chúng nó đánh giá anh chàng Petro của mình quá rẻ đấy, chẳng hơn gì một đôi bò mộng… Còn cái thằng tướng loắt choắt nầy kể cũng khá đấy, tạm dùng cũng được". - Trong lúc nầy ả đã nghĩ như thế với cái bản chất vô liêm sỉ sẵn có. Sidorin cứ tưởng Daria sẽ tức khắc bỏ đi ngay, nhưng không hiểu sao ả cứ trùng trình nán lại rất lâu. Tên phó quan và những tên sĩ quan khác đứng sau lưng Sidorin động đậy lông mày đưa mắt chỉ cho nhau ả goá đĩ tính. Trong mắt chúng long lanh những tia thích thú. Cả tên đại tá người Anh cũng hoạt bát hẳn lên. Hắn sửa lại dây lưng, giậm giậm chân, và trên bộ mặt phớt lạnh của hắn bỗng thấy hiện lên một cái gì phảng phất như một nét cười. - Tôi đi được rồi chứ? - Daria hỏi. - Được được tất nhiên rồi? - Sidorin vội đồng ý ngay. Daria nhét tiền vào kẽ ngực áo, động tác có phần ngượng nghịu, rồi bước về với đám dân chúng. Tất cả những tên sĩ quan mệt nhoài sau những lời phát biểu và những nghi thức đều chăm chú nhìn theo những bước chân nhẹ nhàng, đi như lướt trên mặt đất của ả. Mụ vợ của gã Marchin Samin đã qua đời ngập ngừng bước tới trước mặt Sidorin. Tấm mề-đay vừa cài lên chiếc áo đã cũ nát của mụ thì mụ bất thần khóc oà lên, khóc một cách cay đắng, bất lực và đàn bà đến nỗi nét mặt của bọn sĩ quan lập tức mất ngay cái vẻ thích thú vui nhộn vừa nãy để trở nên nghiêm trang, rầu rĩ và đồng tình. - Chồng bà cũng bị giết à? - Sidorin cau mày hỏi. Người đàn bà khóc nức nở, đưa hai tay lên che mặt, lặng lẽ gật đầu. - Con cái của mụ ấy thì một chiếc xe bò chở không hết đâu? - Trong đám Cô-dắc có người nói trầm trầm. Sidorin quay nhìn tên người Anh, nói to: - Chúng tôi tặng thưởng những người phụ nữ đã tỏ ra đặc biệt dũng cảm trong các trận chiến đấu chống lại bọn Bolsevich. Phần lớn đã có chồng bị giết hồi cuộc bạo động chống quân Bolsevich mới bùng nổ và để trả thù cho chồng, những người đàn bà goá nầy đã tiêu diệt cả một chi đội lớn những đảng viên cộng sản địa phương. Người đầu tiên được tôi tặng thưởng là vợ của một sĩ quan, bà ta đã tự tay giết một thằng chính uỷ cộng sản lừng danh là tàn ác. Trên sĩ quan phiên dịch nói liến thoắng bằng tiếng Anh. Tên đại tá lắng nghe rồi gật đầu và nói: - Tôi rất khâm phục lòng can đảm của những người đàn bà nầy. Xin tướng quân cho biết, họ đã tham gia chiến đấu cũng như đàn ông có phải không? - Vâng, - Sidorin trả lời gọn lỏn rồi nóng nảy đưa tay ra hiệu cho mụ đàn bà goá thứ ba lại gần hơn. Sau khi trao tặng thưởng xong, chẳng mấy chốc bọn quan khách đã lên đường trở về thị trấn. Dân chúng vội vã rời khỏi bãi họp để lại đi cắt cỏ ngay, và vài phút sau khi hai chiếc xe hơi chạy đã khuất giữa những tiếng chó sủa oăng oẳng tống tiễn, bên cạnh dãy tường bao của toà nhà thờ chỉ còn lại ba lão già. - Thời thế đã đến lúc quả là kỳ quặc? - Một lão khoát rộng hai tay nói. - Trước kia trong chiến tranh người ta chỉ tặng huân chương và huy chương thánh Gioóc khi có những thành tích thật là vi-ĩ-ĩ đại, anh hùng, mà đã tặng là tặng cho những ai cơ chứ? Phải là những tay to gan lớn mật nhất, cừ khôi nhất! Mà cũng chẳng có bao nhiêu tay dám liều mạng cố kiếm lấy tấm huân chương. Tục ngữ đã nói thật không ngoa: "Hoặc về với tấm huân chương, hoặc nằm trên bãi chiến trường phơi thây". Thế mà bây giờ họ lại đem mề-đay đến đeo lên ngực mấy mụ đàn bà. Nếu quả thật họ có được công trạng xứng đáng thì chẳng nói làm gì, đằng nầy… Họ chỉ dùng gậy nhọn đâm chết những thằng tù binh, những đứa không có vũ khí bị bọn Cô-dắc giải đến thôn. Như thế thì kiếm đâu ra tinh thần anh dũng? Tôi chẳng còn hiểu ra sao nữa, nói có sai thì xin Chúa cứ phạt! Một lão già khác, mắt thong manh, người ốm o gầy còm, đứng doạng chân, từ từ rút trong túi ra một cái túi đựng thuốc lá bằng vải cuộn tròn và nói: - Các ông quan lớn ấy từ trên Chercaxkov nhìn xuống thì tất nhiên phải minh mẫn hơn chứ. Có lẽ các ông ấy đã nghĩ như thế nầy nầy cần phải đưa ra một cái mồi nhử bọn đàn bà thì mới có thể động viên được tinh thần tất cả mọi người, làm cho mọi người đánh đấm cho thật hăng. Nào là mề-đay, nào là năm trăm rúp, thử hỏi có mụ nào lại chê cái danh giá như thế? Nếu trong đám Cô-dắc có thằng nào không muốn ra mặt trận, có thằng nào nghĩ tới chuyện trốn tránh chiến tranh thì thử hỏi nó có thể ngồi yên được hay không? Rồi nhất định nó sẽ bị mẹ đĩ vo vo bên tai cho mà xem! Con chim cu mà rủ rỉ hết đêm nầy sang đêm khác thì làm gì mà chẳng bắt được đức ông chồng phải nghe theo! Rồi chị chàng nào chẳng đinh ninh: "Có lẽ mình cũng sẽ được gắn mề đai chưa biết chừng?". - Ông nói như thế không đúng đâu, ông bạn đỡ đầu Fedor ạ! - Lão già thứ ba nói lại. - Họ cũng đáng được tặng vì thế người ta mới tặng thưởng cho họ. Mấy chị chàng đó đã bị chúng nó làm cho goá bụa, món tiền ấy sẽ giúp đỡ nhiều cho họ sinh sống làm ăn, còn tấm mề-đay là đề thưởng cho lòng dũng cảm của họ. Ả Đaska nhà Melekhov đã đứng ra trước tiên để trừng trị thằng Kotliarov, và ả làm như vậy là đúng? Tất cả chúng nó sẽ có Chúa xét xử, song cũng không thể nào kết tội bọn đàn bà ấy được: máu của chồng con trong lòng họ kêu gọi trả thù… Ba tên bô lão còn tranh cãi cho đến khi nhà thờ bắt đầu dóng chuông nguyện kinh chiều. Lão bõ trong nhà thờ vừa đánh tiếng chuông đầu tiên thì cả ba đều đứng dậy, bỏ mũ, làm dấu phép và bệ vệ bước vào trong dãy tường bao. 13. Cuộc sống trong gia đình nhà Melekhov đã thay đổi một cách kỳ dị. Mới đây ông Panteley Prokofievich còn cảm thấy mình là ông chủ nắm quyền sinh sát đối với cả nhà, tất cả mọi người trong gia đình đều phải tuân theo lời ông, không ai dám ho he nửa lời, mọi việc đều làm theo răm rắp, cả nhà cùng nhau chia ngọt sẻ bùi và toàn bộ sinh hoạt đều cho thấy một nếp sống nhịp nhàng đã hình thành qua rất nhiều năm. Gia đình nầy trước kia vốn đoàn kết rất chặt chẽ, nhưng từ mùa xuân qua, tất cả đều đảo lộn hết. Người đầu tiên tách rời ra là Dunhiaska. Tuy không công nhiên cưỡng lại lời bố, nhưng mọi việc đến phần mình làm, cô gái đều làm một cách rõ ràng là miễn cưỡng và cứ như làm thuê chứ không còn là làm cho mình nữa. Nhìn bên ngoài thì Dunhiaska trở nên âm thầm kín đáo, xa xa lánh lánh và rất ít khi còn có thể nghe thấy tiếng cười vô tư lự của cô gái. Sau khi Grigori ra mặt trận, cả Natalia cũng dần dần lẩn tránh hai ông bà già. Hầu như có được bao nhiêu thời giờ nàng đều dành cả cho hai con. Nàng sẵn sàng chuyện trò với chúng nó và lúi húi chăm nom cho chúng nó. Có cảm tưởng như đang có một chuyện gì đó làm Natalia hết sức âm thầm đau khổ, nhưng nàng không nói lời nào với người thân thích về nỗi đau khổ của mình, nàng không than vãn với một ai và tìm mọi cách che giấu điều đè nặng trong lòng mình. Về phần Daria thì chẳng có gì cần phải nói: sau chuyến đánh xe đi dân công vận tải, ả hoàn toàn không còn như trước nữa. Ả càng ngày càng hay xích mích với bố chồng, ngay đến bà Ilinhitna ả cũng không còn nể nang gì cả. Ả thường vô duyên vô cớ nổi nóng với tất cả mọi người, ả lấy cớ trong người khó ở trốn tránh công việc cắt cỏ, thái độ cứ như chỉ còn sống thêm trong nhà Melekhov những ngày cuối cùng. Ông Panteley Prokofievich nhìn thấy gia đình ông đang tan rã trước mắt ông. Chỉ còn lại một mình ông và bà lão gần gụi với nhau. Các mối liên hệ huyết thống bị phá vỡ một cách đột ngột và nhanh chóng, trong quan hệ giữa mọi người không còn cái không khí ấm cúng đằm thắm nữa và trong những lời mọi người nói với nhau ngày càng thấy lộ ra cái giọng bực bội và xa cách nhau… Ngay những khi cùng ngồi với nhau ở bàn ăn cũng không còn thấy đây là một gia đình thống nhất và hoà hợp trước kia nữa, mà cứ như những con người ngẫu nhiên gặp nhau. Căn nguyên của tất cả các chuyện đó chỉ là chiến tranh. Ông Panteley Prokofievich hiểu rõ như thế lắm. Dunhiaska oán giận bố mẹ đã làm cô mất hy vọng có ngày được về làm vợ Miska Kosevoi, người yêu duy nhất của cô, người mà cô yêu với tất cả nhiệt tình say đắm và chung thuỷ của một cô gái mới lớn lên. Còn Natalia thì với cái bản chất kín đáo của nàng, nàng cắn răng đau khổ sâu sắc trước việc Grigori lại mới tằng tịu với Acxinhia. Ông Panteley Prokofievich cũng có nhìn thấy tất cả những điều đó, nhưng ông không thể làm được chút gì để lập lại cái trật tự trước kia trong gia đình. Thật ra thì sau tất cả những chuyện đã xảy ra, ông không thể nào đồng ý cho con gái mình đi lấy chồng là một kẻ một lòng một dạ đi theo bọn Bolsevich, vả lại lời đồng ý của ông có giá trị gì đâu vì cái thằng chồng chưa cưới quỷ quái ấy lại đang ruổi rong không biết nơi nào trên mặt trận, hơn nữa nó lại đang ở trong một đơn vị Hồng quân. Tình hình cũng như thế đối với Grigori: nếu chàng không có cái hàm sĩ quan thì có lẽ ông Panteley Prokofievich đã trị cho chàng một trận nên thân. Nhất định ông sẽ cho Grigori một mẻ để sau đó chàng không còn dám liếc mắc sang nhà Astakhov nữa. Song chiến tranh làm mọi việc đều rối như tơ vò, làm cho ông già mất khả năng sinh sống và điều khiển gia đình như ý ông muốn. Chiến tranh làm ông phá sản, làm ông mất cái hăng say làm lụng trước kia, nó đã cướp mất của ông thằng con cả, đem lại tan vỡ và rối loạn cho gia đình ông. Chiến tranh đã đổ ập vào cuộc đời của ông như một trận bão trên cánh đồng lúa mạch. Nhưng ngay sau trận bão, lúa mạch lại vươn thẳng dậy, lại phô màu khoe sắc dưới ánh mặt trời, còn ông già thì không còn có thể gượng dậy được nữa. Ông đã thầm khoát tay không còn thiết gì nữa; mặc cho cuộc đời ra sao thì ra! Sau khi nhận được tặng thưởng từ tay tên tướng Sidorin, Daria vui vẻ hẳn lên. Hôm ấy, lúc ả ở ngoài bãi họp về nhà, nom ả rất sôi nổi và sung sướng. Hai con mắt long lanh, ả chỉ cho Natalia xem chiếc mề-đay. - Vì chuyện gì mà họ cho chị cái nầy thế? - Natalia ngạc nhiên hỏi. - Cái nầy là vì thằng bạn đỡ đầu Kotliarov đây, cầu cho nó hưởng phúc nơi thiên đường, cái thằng chó đẻ? Con cái nầy là vì Petro… - Ả vừa khoe vừa loạt soạt dở một tập giấy bạc sông Đông. Daria vẫn không chịu ra đồng. Ông Panteley Prokofievich muốn sai ả đem bữa ăn ra cho Dunhiaska nhưng Daria dứt khoát từ chối: - Thôi miễn cho con cha ạ, con đi đường xa về còn mệt lử đây nầy! Ông già sầm mặt, Daria muốn xoa dịu lời từ chối có phần sỗ sàng, bèn nói nửa đùa nửa thật: - Ngày hôm nay mà cha còn bắt con ra đồng là có tội đấy. Hôm nay là ngày vui của con cơ mà! - Tao sẽ tự tay đem ra cho nó vậy. - Ông già đồng ý. - Nhưng còn món tiền thì thế nào? - Cái gì, tiền ấy à? - Daria ngạc nhiên giương cao hai hàng lông mày. - Món tiền ấy, tao hỏi mày sẽ làm gì bây giờ? - Đó là việc rìêng của con. Con muốn dùng vào việc gì thì dùng vào việc nấy. - Nhưng sao lại như thế được? Tiền nầy là họ cho mày vì thằng Petro cơ mà? - Tiền nầy là họ cho con và không phải để cha dùng đâu. - Nhưng mày có phải là một đứa trong gia đình không, hay là ai? - Thế cha muốn gì ở cái đứa trong gia đình ấy hả cha? Muốn cuỗm hết tiền của nó à? - Không phải là lấy hết tất cả, nhưng mày thử bảo thằng Petro là con của chứng tao hay là ai? Tao và bà lão cũng phải có phần chứ? Rõ ràng là điều đòi hỏi của ông bố chồng không có cơ sở chắc chắn, vì thế Daria kiên quyết giữ ý kiến của mình. Ả bèn nói bằng một giọng bình thản đầy vẻ chế nhạo. - Con sẽ không cho cho gì cả, dù là một rúp cũng không! Cha không có phần trong nầy đâu, nếu không họ đã trao tận tay cho cha rồi. Nhưng tại sao cha lại nghĩ rằng có cả phần của cha ở đây? Hoàn toàn không có chuyện như thế đâu, và cha đừng có tưởng màng gì đến món tiền của con, cha sẽ chẳng được gì đâu! Ông Panteley Prokofievich thấy thế bèn dùng đến chước cuối cùng: - Mầy sống trong gia đình, mày ăn bánh mì của chúng tao, như thế có nghĩa là mọi cái gì của chúng ta đều phải là của chung. Nếu người nào cũng đều làm ăn riêng lẻ thì sẽ ra cái thể thống gì nữa? Tao sẽ không cho phép như thế đâu. - Ông nói. Nhưng cả lần nầy Daria cũng bẻ gãy cái lý lẽ mới đưa ra hòng chiếm món tiền thuộc về ả, của riêng ả. Ả mỉm cười một cách trâng tráo và tuyên bố: - Cha ạ, con có phải là đã làm lễ cưới với cha đâu. Hôm nay còn sống ở nhà cha, nhưng mai sẽ đi lấy chồng rồi, và cha sẽ không còn trông thấy mặt con nữa đâu! Còn tiền ăn thì lại sao con lại có trách nhiệm phải trả cho cha? Con đã phải làm lụng quần quật mười năm trời cho gia đình cha mà không được dướn thẳng lưng lên rồi còn gì? - Mầy làm cho mầy chứ cho ai, con chó cái hoang nầy? - Ông Panteley Prokofievich tức điên lên, ông quát to và còn định gầm lên những gì không biết, song Daria không muốn nghe ông nói nữa. Ả lăng tròn gấu váy, quay ngoắt đi ngay trước mũi ông, bỏ đi vào chỗ của ả ở nhà trong. "Đừng hòng doạ nổi gái nầy!" - Ả mỉm một nụ cười nhạo báng, khẽ nói. Câu chuyện chỉ đến đấy là chấm dứt. Thật ra Daria đâu phải là một ả sợ cơn thịnh nộ của ông già đến nỗi chịu nhả của mình ra. Ông Panteley Prokofievich sửa soạn ra đồng và trước khi đi ông có nói qua vài câu với bà Ilinhitna: - Bà phải để ý tới con Daria một chút… - Ông dặn bà. - Sao lại phải để ý tới nó? - Bà Ilinhitna ngạc nhiên hỏi. - Vì nó sẽ cuốn xéo đi, sẽ cút khỏi nhà nầy và sẽ mang theo cả những thứ của nhà ta cho mà xem. Tôi thấy nó xù lông cánh lên như thế không phải là vô duyên vô cớ… Xem ra nó đã kiếm được thằng nào rồi và chỉ ngày một ngày hai là bỏ đi lấy chồng thôi. - Có lẽ như thế thật đấy, - bà Ilinhitna thở dài đồng ý. - Nó sống cứ như một thằng khô-khon đi làm bù nợ ấy, chẳng có gì được nó yêu nó quý, mọi thứ đều không vừa ý nó… Bây giờ thì nó cũng như một miếng bánh đã cắt rời, mà miếng bánh đã cắt rời thì cố công đến mấy cũng không dính liền lại được nữa đâu. - Cái ngữ ấy thì chúng ta chẳng cần dính nối lại làm gì! Hãy liệu đấy mụ già ngu ngốc nầy, nếu nó mở miệng nói ra như thế thì chớ có nghĩ tới chuyện khuyên can giữ nó lại. Mặc cho nó cút khỏi nhà nầy đi. Tôi đã chán không muốn bực mình vì nó nữa rồi. - Ông leo lên xe, rồi vừa đánh hai con bò vừa nói thêm - Nó lẩn trốn công việc cứ như con chó tránh ruồi, chỉ cố kiếm miếng ngon bỏ vào miệng và tìm chốn rong chơi. Thằng Petro đã về chầu Chúa rồi, cầu cho nó được hưởng phúc nơi thiên đường, chúng ta chẳng cần giữ của nầy trong gia đình làm gì nữa. Nó đâu phải là một con đàn bà, đúng là một của ôn dịch. Những điều dự đoán của hai ông bà đã không đúng sự thật. Daria đâu có ý định đi lấy chồng. Ả không nghĩ đến chuyện lấy chồng vì trong lòng ả đang có một điều lo lắng khác… Suốt ngày hôm ấy Daria hồ hởi với tất cả mọi người và tỏ ra rất vui vẻ. Ngay những lời qua tiếng lại chung quanh chuyện tiền nong cũng không ảnh hưởng đến tinh thần của ả. Ả lượn đi lượn lại rất lâu trước cái gương, ngắm nghía chiếc mề-đay từ đủ mọi phía, thay áo sống năm lần bảy lượt, thử xem cái dải lằn vằn của tấm mề-đay thánh Gioóc hợp với cái áo mặc ngoài nào nhất, rồi nói đùa: "Bây giờ tôi còn kiếm thêm được những tấm huân chương cho mà xem?" Rồi ả gọi bà Ilinhitna vào phòng trong, nhét vào trong tay áo bà hai tờ giấy bạc hai mươi rúp, đưa hai bàn tay nóng rực nắm lấy bàn tay sần sùi của bà, áp lên ngực mình và khẽ nói: "Đây là làm lễ cầu hồn cho anh Petro con… Mẹ ạ, mẹ hãy đặt cho một buổi cầu hồn lớn, mẹ cũng nấu ít cháo lúa mạch[307]… - Nói rồi ả oà lên khóc… Nhưng chỉ một phút sau, vài giọt lệ vẫn còn long lanh trong khóe mắt, ả đã ra đùa với thằng Misatka. Ả lấy chiếc khăn san bằng lụa mà ả thường quấn trong những ngày lễ trùm lên đầu nó và cười như chưa từng khóc, chưa từng biết cái vị mằn mặn của nước mắt bao giờ. Sau khi Dunhiaska ở ngoài đồng về thì cơn vui nhộn của ả lến đến mức cao nhất. Ả kể cho Dunhiaska nghe cái cảnh mình nhận mề-đay như thế nào rồi diễn lại một cách hài hước dáng điệu tên tướng nói năng long trọng như thế nào, cái vẻ tên người Anh đứng cứng đơ đơ nhìn mình, y hệt thằng bù nhìn giữ dưa như thế nào. Rồi ả ranh mãnh nháy mắt với Natalia như để ước định với nhau một âm mưu gì và làm bộ mặt trang nghiêm nói quả quyết với Dunhiaska rằng không bao lâu nữa, mình đây, Daria nầy, đã là vợ goá của một sĩ quan, lại được hưởng mề-đay thánh Gioóc, thì cũng sẽ được phong cấp sĩ quan và được chỉ định chỉ huy đại đội bô lão Cô-dắc. Natalia cố ghìm nụ cười, tuy có nghe Daria nói nhưng vẫn cắm cúi vá những chiếc sơ-mi nhỏ xíu của con. Còn Dunhiaska thì hoàn toàn chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, cứ chắp hai tay van Daria. - Chị Daria yêu quý! Chị yêu của em? Chị hãy vì Chúa mà thôi đừng bịa nữa đi! Nếu không em chẳng còn làm thế nào mà hiểu rằng chị nói dối hay nói thật nữa. Chị hãy kể lại đứng đắn đi nào? - Cô không tin à? Thế thì cô đúng là một con bé ngu xuẩn? Chuyện tôi nói với cô là hoàn toàn đúng sự thật. Có bao nhiêu sĩ quan đều ra trận cả rồi, vậy thì lấy ai huấn luyện các động tác đi đứng cùng tất cả các điều cần thiết khác về quân sự cho các cụ bô lão bây giờ? Vì thế các ông bố già ấy sẽ bị đặt dưới quyền chỉ huy của tôi và tôi sẽ trị được họ, cái bọn quỷ già ấy cho mà xem! Tôi sẽ chỉ huy họ như thế nầy nầy? - Daria khép cái cửa thông xuống bếp để mẹ chồng khỏi trông thấy rồi loáng một cái đã nhét cái vạt váy vào giữa hai chân, và đưa một tay ra phía sau nắm lấy đầu vạt váy, để lộ hai bắp chân để trần bóng nhoáng. Ả đi đều bước trong phòng, đến đứng bên cạnh Dunhiaska và trầm giọng xuống ra lệnh: "Các bô lão, nghiêm! Vênh râu cao nữa lên? Vòng bên trái đi đều… bước!" Dunhiaska không nhịn được nữa, phải đưa hai bàn tay lên che mặt mà cười phì phì. Natalia vừa cười vừa nói: - Chao ôi, thôi đi chị! Chị đùa rồ dại cứ như khi sắp có chuyện không may xảy ra ấy? - Sao lại sắp có chuyện không may xảy ra? Thế thím và cô đã được thấy một chuyện may mắn bao giờ chưa? Nếu không cù cho thím và cô cười một chút thì ở đây hai người cũng sẽ rầu rĩ đến lên mốc lên meo thôi! Nhưng cơn vui của Daria đã tắt ngấm một cách hết sức bất ngờ cũng như nó đã nổ ra. Chỉ nửa giờ sau ả đã bỏ về chỗ mình ở trong phòng bên, bực tức rứt chiếc mề-đay rủi ro trên ngực, ném nó vào trong cái rương, rồi tì hai tay lên má, ngồi rất lâu bên cạnh khung cửa sổ nhỏ. Nhưng đến đêm thì ả biến đi đâu không biết, mãi khi gà đã gáy đợt đầu mới trở về. Rồi sau đó ả ra đồng làm việc rất chăm chỉ chừng bốn ngày liền. Công việc cắt cỏ làm chẳng có gì là vui vẻ. Không có đủ người làm việc. Mỗi ngày chỉ cắt được hai đê-xi-a-chin là cùng. Cỏ đã chất đống rồi lại bị nước mưa thấm vào, thế là có ngay việc để làm thêm: phải cào những đống cỏ ra phơi nắng. Nhưng còn chưa kịp đánh đống thì mưa thêm như trút từ chiều hôm trước đến sáng sớm. Hôm sau, mưa liên miên không lúc nào ngớt cứ như đang là mùa thu. Sau đó trời lại nắng ráo, gió đông bắt đầu thổi, tiếng máy cắt cỏ lại lạch xạch trên đồng cỏ, từ những đống cỏ đã đen lại xông lên mùi mốc meo lợ lợ hắc hắc, đồng cỏ bị phủ một màn hơi nước và qua làn khói xanh lơ thấy ẩn hiện đường nét lờ mờ của những nấm cuộc-gan xưa kia dùng làm vị trí cảnh giới, những đường lòng khe xanh xanh, những vòm liễu xanh rờn trên những cái dầm đằng xa. Làm việc sang đến ngày thứ tư thì Daria sửa soạn đi thẳng từ ngoài đồng lên trấn. Ả nói cho mọi người biết ý định trong khi cả nhà đang ngồi ăn bữa trưa ở chỗ để xe. Ông Panteley Prokofievich hỏi giọng vừa bực bội vừa châm biếm: - Mày có chuyện gì mà cuống cuồng lên thế? Không thể chờ đến chủ nhật được hay sao? - Tất nhiên là có việc và không thể nào chờ thêm được nữa. - Như thế là một ngày cũng không nán thêm được à? Daria trả lời qua kẽ răng: - Không! - Thôi được, nếu mày đã vội đến không thể nán chịu thêm được chút nào nữa thì cứ đi đi. Nhưng dù sao mày cũng thử bảo những việc đó làm mày cuống cuồng lên là việc gì thế? Có thể biết được không? - Nếu cái gì cũng biết thì sẽ chết sớm đấy. Cũng như mọi khi, Daria không cần sục tay vào túi mới tìm được câu trả lời. Ông Panteley tức mình nhổ toẹt một bãi nước bọt, thôi không truy hỏi thêm nữa. Hôm sau, trên đường từ thị trấn về, Daria tạt vào trong thôn, ở nhà chỉ có bà Ilinhitna với hai đứa bé. Thằng Misatka chạy tới với bác nó, nhưng ả lạnh lùng đưa tay gạt nó ra và hỏi mẹ chồng: - Thế thím Natalia ở đâu hở mẹ? - Nó ở ngoài vườn rau, đang tưới nước cho khoai tây. Nhưng mày cần tìm nó làm gì hử? Hay là ông già bảo mày về gọi nó? Ông ấy hoá điên hoá ngộ rồi hay sao thế? Mày cứ bảo ông ấy như thế! - Chẳng ai bảo con về tìm thím ấy đâu, tự con có chuyện muốn nói với thím ấy thôi. - Mày đi bộ về à? - Vâng, đi bộ. - Nhà ta cắt đã sắp xong chưa? - Có lẽ mai sẽ xong - Nhưng hượm đã nào, mày chạy đi đâu thế hử? Cỏ có bị mưa hỏng nhiều lắm không? - Daria đã bước từ trên thềm xuống, nhưng bà già vẫn lẽo đẽo bước theo, cố hỏi cho kỳ được. - Không, không nhiều lắm đâu. Thôi, con phải đi đây, con không có thì giờ. - Mày ra vườn rau rồi tạt về nhà mang ra cho ông già cái áo sơ-mi nhé. Có nghe thấy không hử? Daria vờ như không nghe thấy gì, cứ hấp tấp đi ra sân gia súc. Ra tới bến đò thì ả đứng một lát, nheo mắt nhìn mặt sông Đông xanh mướt đang thở ra một là hơi ẩm nhạt thếch, rồi lững thững đi về phía những mảnh vườn rau. Gió giỡn trên mặt sông Đông, những con bạch âu vỗ cánh nhấp nhoáng. Những đợt sóng lười nhác trườn lên đoạn bờ sông thoai thoải. Mấy quả núi đá phấn hiện lên sáng bệch dưới nắng, sau một tấm màn sương trong suốt màu tím nhạt. Cánh rừng ven bờ bên kia sông được nước mưa xối rửa sạch sẽ xanh mướt ra, nom trẻ và tươi tắn cứ như đang lúc đầu xuân. Daria tháo đôi ủng ngắn khỏi cặp chân mệt mỏi, rửa chân rồi ngồi lại giờ lâu ven bờ, trên những hòn đá củ đậu nóng bỏng. Ả đưa tay lên che mắt cho khỏi chói nắng, lắng nghe tiếng những con bạch âu kêu rền rĩ và tiếng sóng ràn rạt đều đặn, Daria bỗng cảm thấy buồn đến khóc lên được vì bầu không khí lặng lẽ nầy, vì tiếng bạch âu đâm nhoi nhói vào tim mình và điều bất hạnh bất thần đổ ập lên đầu ả càng hiện ra nặng nề hơn, cay đắng hơn… Natalia vừa rướn lưng một cách rất vất vả để dựa cái cán cuốc vào hàng rào thì nhìn thấy Daria bước ra đón. - Chị ra tìm tôi đấy à, chị Daria? - Tìm thím với nỗi đau lòng ghê ghớm của tôi đây… Hai người ngồi xuống bên cạnh nhau. Natalia cởi chiếc khăn bịt đầu sửa lại món tóc và nhìn Daria có vẻ chờ đợi. Nàng rất đỗi kinh ngạc vì mới có vài ngày mà mặt mày Daria nom khác hẳn đi: hai bên má hõm xuống, đen sạm, một vết nhăn rất sâu hằn chéo trên trán, một ánh đầy lo âu bừng bừng trong hai con mắt. - Có chuyện gì xảy ra với chị thế? Mặt chị như đen lai ấy. - Natalia hỏi có vẻ thương hại. - Đã thế nầy thì mặt không đen sao được? - Daria mỉm cười gượng gạo rồi lại lặng đi một lát. - Thím còn phải xới cỏ nhiều không? - Đến gần tối thì xong. Nhưng có chuyện gì xảy ra với chị thế? Daria nuốt nước bọt đánh ực rồi nói nhanh, giọng âm thầm: - Chuyện thế nầy nầy: tôi bị bệnh… Tôi đã mắc cái bệnh bẩn thỉu ấy Đi vận tải lần vừa rồi thì mang nó vào thân… Một thằng sĩ quan đáng nguyền rủa đã đổ nó cho tôi? - Chơi bời liều lĩnh đến cùng cực rồi? - Natalia hoảng lên vỗ hai tay vào nhau đầy vẻ đau khổ. - Phải, chơi bời liều lĩnh đến cùng cực rồi. Song cũng chẳng có gì đáng nói thêm, cũng chẳng có ai mà oán thán… Cái thằng khốn kiếp ấy, nớ cứ bám lấy tôi, tán tỉnh mơn trớn mãi. Hai hàm răng thì trắng nhởn, nhưng ruột gan đã thành giòi thành bọ… Đời tôi như thế nầy là hết rồi. - Khổ thân cho chị? Chao ôi, sao lại như thế nầy? Rồi chị sẽ như thế nào bây giờ? - Natalia giương to mắt nhìn Daria. Daria cố tự chủ, nhìn chằm chằm xuống chân và nói tiếp bằng một giọng bình tĩnh hơn. - Thím có biết không, ngay trên đường về tôi đã bắt đầu nhận thấy trong mình như có chuyện gì… Đầu tiên tôi còn nghĩ bụng: có lẽ chẳng sao đâu… Chính thím cũng biết đấy, cái bọn đàn bà chúng mình thiếu gì chuyện nọ chuyện kia. Mùa xuân vừa qua tôi chỉ nhấc dưới đất lên một túi lúa mì, thế là rong huyết ba tuần liền. Nhưng lần nầy tôi lại thấy có cái gì không giống như thế… Đã có những triệu chứng cho thấy… Hôm qua tôi đã lên trấn tới chỗ thằng y sĩ. Ngượng chết đi được… Bây giờ tất cả như thế là hết rồi. Đối với một ả đàn bà như tôi, cuộc đời đã đem nướng sạch trong canh bạc! - Phải chữa đi mới được, nhưng ngượng lắm đấy? Nhưng bệnh như thế, nghe nói có thể chữa được thì phải. - Không, cô em ơi, cái bệnh của tôi thì không thể nào chữa được đâu - Daria mỉm một nụ cười đau khổ và lần đâu tiên từ lúc bắt đầu nói chuyện, ả ngước cặp mắt sáng bừng nhìn lên. - Bệnh của tôi là bệnh giang mai. Cái bệnh nầy không thể chữa được đâu. Mắc vào thì sẽ rụng cả mũi… Đấy, thím đã thấy mụ Andronhikha chưa? - Vậy thì chị làm thế nàơ bây giờ? - Natalia hỏi giọng mếu máo, hai con mắt đẫm lệ. Daria nín lặng giờ lâu. Ả ngắt một bông hoa trên dây thỏ ti bám vào thân một cây ngô, rồi đưa vào sát tận mắt. Những cái cánh viền màu hồng hết sức mịn màng của bông hoa nhỏ xíu, nhẹ lâng, trong suốt gần như không có trọng lượng, toả ra một mùi hương nặng nề rất là dâm dục của chất đất bị mặt trời hun nóng. Daria nhìn nó một cách khao khát và ngạc nhiên, cứ như lần đầu tiên được thấy loài hoa nhỏ nhoi, tầm thường và xấu xí nầy. Ả phập phồng hai cánh mũi nở to hít hít mùi hương của nó, và đặt nó rất nhẹ nhàng lên mặt đất xốp tơi đã bị gió thổi khô, rồi ả nói: - Thím hỏi tôi sẽ như thế nào bây giờ ấy à? Lúc ở trên trấn về tôi đã suy nghĩ, đã tính toán cẩn thận… Tôi sẽ tự tử, đó là việc tôi sẽ làm! Kể cũng tiếc, nhưng chẳng còn có thể chọn con đường nào khác nữa. Đằng nào cũng vậy thôi. Nếu tôi chạy chữa, mọi người trong thôn đều sẽ biết, người ta sẽ chỉ chỉ trỏ trỏ, sẽ lẩn tránh tôi, sẽ chê cười tôi… Một con đàn bà như tôi thì còn ai với đến nữa? Sắc đẹp sẽ tàn đi, tôi sẽ khô héo, sẽ thối rữa ngay khi còn sống.: Không, tôi không muốn như thế! - Ả nói như đang bàn bạc cân nhắc với bản thân mình và chẳng để ý gì đến những cử chỉ tỏ vẻ phản đối của Natalia. - Trước khi lên trấn tôi còn nghĩ rằng nếu mắc cái bệnh bẩn thỉu ấy tôi sẽ chạy chữa. Vì thế tôi đã không đưa món tiền cho cha, vì tôi nghĩ rằng còn phải trả tiền bọn y sĩ… Nhưng bây giờ tôi đã quyết định khác rồi. Tôi đã chán ngấy tất cả. Tôi không muốn chữa chạy gì nữa! Daria văng tục một câu ghê gớm như đàn ông, nhổ toẹt một bãi nước bọt rồi đưa mu bàn tay lên chùi những giọt nước mắt bám trên hàng mi dài. - Chị vừa nói những lời như thế nào vậy… Chị cũng phải biết sợ Chúa chứ?[308] - Natalia khẽ nói. - Đối với tôi bây giờ thì Chúa cũng chẳng được tích sự gì cả. Chúa đã gây vướng mắc cho tôi suốt một đời. - Daria mỉm cười, và trong nét cười nghịch ngợm và ranh ma ấy, Natalia lại nhìn thấy trong giây lát ả Daria của những ngày trước kia - Việc nầy không được làm, việc kia không được làm lúc nào cũng đem chuyện phạm tội và Ngày phán xét cuối cùng ra doạ người ta… Người ta không thể nào nghĩ ra được một điều gì khủng khiếp hơn lời phán xét của chính tôi đối với tôi đâu. Tôi chán ngấy rồi, Natalia ạ, tất cả đối với tôi thế là hết! Mọi người đều đã bắt đầu ghét bỏ tôi… Tôi sẽ có thể dễ dàng tính sổ với bản thân mình. Trước mặt tôi, sau lưng tôi đều chẳng còn có ai nữa. Cũng chẳng có ai phải dứt khỏi trái tim mình… Tình hình là như thế đấy. Natalia bắt đầu khuyên giải Daria bằng một giọng đầy nhiệt tình, nàng van ả suy nghĩ lại và đừng tính tới chuyện tự tử nữa. Đầu tiên Daria còn nghe nàng nói, một cách lơ đãng, nhưng sau ả như tỉnh lại và ngắt lời nàng một cách tức tối: - Thôi đi Natalia! Tôi đến đây không phải để nghe thím can ngăn, khuyên giải đâu! Tôi đến đây là để nói cho thím biết nỗi khổ của tôi và báo cho thím biết rằng từ hôm nay trở đi không được cho hai đứa con của thím lại gần tôi nữa. Cái bệnh của tôi là một bệnh hay lây, thằng y sĩ đã bảo thế và chính tôi cũng được nghe nói. Vì thế chớ để chúng nó lây bệnh ở tôi đã rõ chưa, đồ ngốc? Và thím cũng nói cho bà lão biết vì tôi ngượng không tự nói được. Còn tôi… Tôi sẽ không chui ngay đầu vào cái vòng thòng lọng đâu, thím đừng nghĩ như thế, việc ấy tôi còn có chán thì giờ để làm… Tôi còn sống thêm ít bữa, còn ngắm cái thế giới nầy cho sướng mắt, còn phải từ biệt cuộc đời. Nhưng thật ra thím có biết chúng ta thường sống như thế nào không? Nếu chưa có cái gì chọc vào tim mình thì cứ đi lại nhởn nhơ và chẳng nhìn thấy chung quanh mình có gì cả… Tôi đã sống cả một cuộc đời như đui như mù, nhưng trong khi từ trên thị trấn về, vừa đi dọc theo sông Đông vừa nghĩ rằng không bao lâu nữa mình sẽ phải chia tay với tất cả những thứ nầy, lúc ấy tôi đã nghĩ rằng mình như được mở mắt ra? Tôi nhìn lên mặt sông Đông, thấy trên đó đầy những vệt sóng lăn tăn, nắng chiếu vào nom cứ như bạc ấy lóng lánh chói cả mắt. Tôi đưa mắt ra chung quanh nhìn thấy, lạy Chúa tôi, sao mà đẹp thế! Thế mà trước kia tôi chẳng nhận thấy gì cả - Daria mỉm một nụ cười, ngượng ngịu, nín lặng một lát, hai bàn tay nắm chặt, rồi sau khi nén được tiếng nức nở bỗng nhiên dồn lên tới họng, ả nói tiếp bằng một giọng cao hơn, căng thẳng hơn: - Trên đường về tôi đã khóc đến mấy lần… Về gần tới sông Đông thì thấy mấy đứa nhỏ đang tắm dưới sông… Cứ nhìn chúng nó mà trong lòng đau thắt lại, tôi đã khóc oà lên như một con ngớ ngẩn. Tôi đã nằm trên cát hai tiếng đồng hồ. Chính tôi cũng chẳng được nhẹ nhàng chút nào khi nghĩ tới chuyện ấy… - Ả đứng dậy, rũ váy, sửa lại chiếc khăn trên đầu bằng một cử chỉ quen thuộc. - Tuy nhiên tôi vẫn còn có được một điều vui vui khi nghĩ tới cái chết: Sang đến thế giới bên kia tôi sẽ lại gặp Petro… Tôi sẽ bảo: "Nào, anh bạn yêu quý của tôi, anh Petro Panteleevich, anh hãy nhận lấy người vợ đĩ thoã của anh đi" - Rồi ả lại nói thêm với cái lối pha trò vô liêm sỉ thường thấy ở ả - Mà ở thế giới bên kia thì Petro không còn có thể đánh tôi được nữa, người ta không cho những kẻ hay đánh nhau lên thiên đường đâu, có phải thế không? Thôi tạm biệt thím Nalalia thân mến? Đừng quên nói cho bà mẹ chồng biết nỗi đau khổ của tôi nhé. Natalia vẫn đưa hai bàn tay nhỏ nhắn bẩn thỉu lên che mặt ngồi đấy Trong những kẽ ngón tay của nàng long lanh vài giọt nước mắt như những giọt nhựa trên những chỗ vỏ thông nứt. Daria đi tới cái cửa nhỏ đan bằng cành trên dãy hàng rào thì quay lại, nói bằng giọng thiết thực: - Từ hôm nay tôi sẽ ăn bát đĩa riêng. Thím nói hộ với mẹ như thế. Mà còn chuyện nầy nữa: thím bảo mẹ đừng nói với cha về chuyện đó, kẻo ông già lại điên lên đuổi tôi ra khỏi nhà mất. Đối với tôi thì chỉ còn thiếu chuyện ấy nữa thôi. Tôi sẽ từ đây ra thẳng chỗ cắt cỏ. Tạm biệt nhé! 14. Ngày hôm sau những người cắt cỏ đã từ ngoài đồng trở về. Ông Panteley Prokofievich quyết định ăn xong bữa trưa sẽ bắt đầu chở cỏ khô về nhà, Dunhiaska xua những con bò ra sông Đông, còn bà Ilinhitna và Natalia thì nhanh nhẹn bày bàn ăn. Daria là người cuối cùng bước vào bàn và ngồi ở một góc. Bà Ilinhitna đặt trước mặt ả một cái bát nhỏ đựng súp bắp cải, một chiếc muỗng và một cái bánh mì, rồi lại đổ súp vào một cái bát lớn chung cho tất cả mọi người như thường lệ. Ông Panteley Prokofievich ngạc nhiên nhìn vợ rồi đưa mắt chỉ cái bát của Daria và hỏi: - Như thế nầy là nghĩa thế nào? Sao lại múc riêng cho nó như thế? Chẳng nhẽ nó không còn tin Chúa như chúng ta nữa hay sao? - Chuyện ấy can gì đến ông? Thôi ông cứ ăn đi! Ông già nhìn Daria bằng cặp mắt đầy vẻ chế nhạo rồi mỉm cười: - À, tôi hiểu rồi! Từ ngày được người ta gắn mề-đay, chị chàng không thèm ăn chung bát chung đĩa với mọi người nữa rồi. Nhưng mày làm sao thế Daria, hay là mày thấy chúng tao không đáng ăn chung một cái bát với mày nữa? - Không phải không đáng ăn mà không ăn được.- Daria trả lời giọng khàn khàn. - Vì sao cơ chứ? - Đau cuống họng. - Ừ nhưng thế thì sao? - Con lên khám trên trấn, y sĩ dặn phải ăn bát đĩa riêng. - Tao cũng bị đau cuống họng, nhưng văn không ăn riêng và ơn Chúa, cái bệnh của tao có truyền sang người nào khác đâu. Vậy thì mày chắc cái bệnh cảm mạo gì thế hử? Daria tái mặt, đưa tay lên chùi môi rồi đặt chiếc muỗng xuống. Điên tiết trước những câu hỏi vặn của chồng, bà Ilinhitna bèn quát ông: - Làm gì mà ông cứ gây sự với nó như thế hử? Ngay lúc ngồi vào bàn ăn rồi ông cũng chẳng để cho người ta được yên! Bám dai cứ như quả ké ấy, không thể nào gỡ ra được nữa. - Nhưng tôi thiết gì đến chuyện ấy? Ông Panteley Prokofievich tức tối làu bàu. - Đối với tôi thì cứ cầm cả bát lên húp tôi cũng mặc. Ông cáu quá đổ cả vào miệng một cái muỗng đầy súp bắp cải vừa sôi ông bị bỏng bèn nhổ phì phì ra râu và gào lên bằng một giọng hung dữ: - Mang thức ăn ra mà cũng không nên thân, cái lũ đáng nguyền rủa nầy! Ai lại súp vừa lấy trên lửa xuống đã múc đem ra ngay thế nầy. - Nếu ngồi vào bàn ăn mà nói ít đi một chút thì đã chẳng đến nỗi phải bỏng. - Bà Ilinhitna an ủi chồng. Dunhiaska nhìn cha đỏ mặt tía tai gỡ những miếng bắp cải và khoai tây trên râu, thiếu chút nữa thì phì cười. Nhưng nét mặt mọi người khác đều rất nghiêm trang, vì thế cô gái cũng phải cố nhịn và không dám nhìn cha nữa, chỉ sợ mình sẽ cười không đúng lúc. Ăn xong bữa trưa, ông bà già và hai con dâu đánh hai chiếc xe bò đi chở cỏ. Ông Panteley Prokofievich cầm, một chiếc chàng nạng dài xốc cỏ hất lên xe, còn Natalia thì tiếp lấy những ôm cỏ nặc mùi mục ải rồi dận chặt xuống. Nàng ở ngoài đồng về cùng với Daria. Ông Panteley Prokofievich đã đi xa phía trước cùng với hai còn bò mộng già chân bước rất dài. Mặt trời đã lặn sau nấm kurgan. Trên cánh đồng đã cắt cỏ, mùi ngải cứu đắng hắc lúc chiều xuống càng xông lên rõ hơn, nhưng mất tính chất nồng nặc như chọc vào mũi lúc giữa trưa và trở nên nhẹ nhàng, dễ chịu hơn. Trời không còn oi bức lắm nữa. Mấy con bò vui vẻ cất bước. Trên con đường dùng về mùa hạ, một làn bụi nhạt thếch bốc lên từ những vó bò rồi rơi xuống những bụi phi liêm mọc hai bên đường. Ngọn của các bụi phi liêm như cháy rực với những đám hoa nở rộ màu đỏ tía. Những con ong đất lượn tròn trên lớp hoa. Vài con dẽ mào gọi nhau ơi ới, bay tới cái đầm phía xa trên đồng cỏ. Daria chống khuỷu lay nằm sấm trên chiếc xe lắc lư, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn Natalia. Natalia đang ngắm cảnh mặt trời lặn và trầm ngâm suy nghĩ không biết về chuyện gì. Những cái ánh đỏ như màu đồng thấp thoáng trên khuôn mặt bình thản và trong trắng của nàng. "Con Natalia nầy đúng là một đứa sung sướng. Nó có chồng có con, chẳng thiếu thốn gì cả, lại được cả nhà yêu, còn mình thì thật là một con người đến bước đường cùng. Mình mà chết đi thì chẳng được ai ồ lấy một tiếng đâu", - Daria bụng bảo dạ như thế và bỗng nhiên cảm thấy ngứa ngáy chỉ muốn kiếm một cách dằn vặt Natalia làm cho Natalia đau khổ. Tại sao lại chỉ có mình ả, Daria nầy, phải quằn quại trong những cơn tuyệt vọng, phải luôn luôn nghĩ tới cuộc đời đã tan vỡ của mình và đau khổ một cách khốc liệt như vậy? Ả liếc nhanh mắt nhìn Natalia lần nữa, rồi cố lấy giọng thân thiết, nói: - Natalia ạ, tôi muốn nhận lỗi với thím về một chuyện… Natalia không trả lời ngay. Trong khi ngắm cảnh mặt trời lặn, nàng đang nhớ lại rằng đã lâu lắm rồi, hồi nàng mới là vợ chưa cưới của Grigori, có lần chàng tới thăm nàng, nàng đã đưa tiễn chàng ra ngoài cổng. Hôm ấy, bầu trời hoàng hôn cũng đang cháy rực, một vầng sáng đỏ tía toả ra từ đằng tây, trong những đám liễu có những tiếng quạ kêu quàng quạc… Grigori vừa cho con ngựa cất bước vừa hơi quay người trên yên và nàng đã nhìn theo chàng với những giọt nước mắt bồi hồi sung sướng, bàn tay áp trên bộ ngực đồng trinh nhọn hoắt của mình cảm thấy tiếng tim đập rộn rập… Khó chịu vì bị Daria phá mất sự lặng lẽ của mình, Natalia miễn cưỡng hỏi: - Lỗi gì thế? - Lỗi của tôi là như thế nầy… Thím còn nhớ dạo mùa xuân chú Grigori ở mặt trận về nghỉ phép chứ? Chiều hôm ấy, tôi còn nhớ có đi vắt sữa bò. Vừa vào trong nhà thì có tiếng Acxinhia gọi tôi. Phải, nó đã gọi tôi sang nhà nó và cho tôi, nói đúng hơn là ép tôi nhận kỳ được cái nhẫn nầy nầy… Daria xoay xoay chiếc nhẫn vàng trên ngón tay vô danh. - Rồi nó nài tôi gọi hộ chú Grigori sang cho nó… Việc ấy tôi làm thì có khó gì đâu… Tôi bèn bảo chú ấy. Hôm ấy suốt đêm chú ấy đã… Thím còn nhớ không, chú ấy có nói rằng Kudinov đã tới và chú ấy phải ngồi với hắn ấy mà? Nói bậy đấy thôi? Chú ấy đã đến với con Acxinhia đấy! Natalia kinh ngạc tái mặt đi, nàng lặng lẽ bẻ gãy một nhánh cỏ đôn-nhích khô. - Thím Natalia ạ, thím đừng giận tôi. Tôi thú nhận với thím việc nầy, chính tôi cũng chẳng lấy gì làm sung sướng đâu… - Daria nói bằng một giọng ve vuốt và cố nhìn vào mắt Natalia. Natalia lặng lẽ nuốt nước mắt. Nỗi khổ vừa ập xuống đầu nàng lớn quá, làm cho nàng không kiếm đâu ra sức lực để có câu gì trả lời Daria, mà chỉ quay đi để giấu khuôn mặt méo xệch vì đau khổ. Xe đã sắp tiến vào trong thôn. Daria bỗng cảm thấy bực bội với bản thân mình, ả nghĩ thầm: "Ma quỷ nào đã xui giục mình làm tình làm tội con Natalia nầy như thế? Bây giờ thì nó sẽ khóc sụt sùi hàng tháng cho mà xem? Cứ mặc cho nó không biết gì, cứ thế mà sống có hơn không? Nhưng con bò cái như nó cứ nhắm mắt mà sống lại hơn". Ả muốn làm dịu bớt ấn tượng của những lời mình vừa nói, bèn bảo Natalia: - Nhưng thím cũng đừng nên sầu não quá làm gì. Chẳng có gì tai vạ lắm đâu! Nỗi khổ của tôi còn lớn hơn của thím rất nhiều, thế mà tôi vẫn sống một cách ngang nhiên như thường. Nhưng chuyện nầy thì ma quỷ nào biết được, có thể là thật ra chú ấy không gặp nó mà lại tới chỗ thằng Kudinov cũng chưa biết chừng. Riêng tôi thì không theo dõi chú ấy. Mà đã chưa bị bắt quả tang thì chưa phải là kẻ trộm. - Tôi cũng đoán là như thế… - Natalia kéo một góc chiếc khăn bịt đầu lau nước mắt, khẽ nói. - Nếu đã đoán là như thế thì tại sao thím không truy chú ấy cho ra? Chà, thím chẳng được tích sự gì cả! Nếu phải tay tôi thì chú ấy đừng có mà ho he! Tôi sẽ kìm sẽ kẹp cho nhìn gì cũng thấy buồn nôn mới thôi? - Tôi sợ không dám tìm hiểu cho ra sự thật… Chị tưởng đó là một việc dễ dàng hay sao - Natalia nói lắp bắp vì xúc động, hai con mắt long lanh. - Chị với anh Petro thì có thể sống như thế được… Còn tôi thì cứ mỗi lân nghĩ tới… hễ nghĩ tới tất cả… tất cả những điều mà tôi đã phải chịu đựng… là lập tức chết khiếp đi được. - Chà, nếu thế thì quên béng nó đi là xong. - Daria khuyên một cách ngây thơ. - Nhưng chẳng nhẽ chuyện ấy cũng có thể quên được hay sao? - Natalia kêu lên, giọng khàn hẳn đi, không còn nhận được ra nữa. - Còn tôi thì tôi sẽ quên ngay. Nào có là chuyện to tát gì? - Chị hãy thử quên cái bệnh của chị đi xem nào? Daria phá lên cười: - Quên được thì cũng sướng đấy, nhưng cái của đáng nguyền rủa ấy tự nó cứ bắt người ta phải nhớ tới nó! Thôi thế nầy nầy, thím Natalia ạ, nếu thím muốn, tôi sẽ hỏi Acxinhia cho thật cặn kẽ nhé! Nó sẽ nói với tôi cho mà xem! Tôi có nói sai thì xin Chúa cứ trừng phạt! Về cái chuyện anh chàng nào yêu mình và yêu như thế nào thì chẳng có cô ả nào nhịn được đâu. Tôi suy bụng ta thì ra bụng người thôi! - Tôi không muốn nhờ chị giúp đỡ đâu. Chẳng nhờ thì chị cũng đã giúp tôi nhiều rồi. - Natalia trả lời, giọng khô khan. - Tôi đâu phải là một con mù, tôi cũng đã thấy rõ chị kể cho tôi nghe chuyện ấy để làm gì. Chị thú nhận đã làm cái chuyện đưa ong dẫn bướm như thế đâu phải vì chị thương tôi. Đó chỉ là vì chị muốn làm tôi đau khổ thôi. - Đúng đấy? Daria thở dài thú nhận. - Thím tự ngẫm mà xem, chẳng nhẽ tôi cứ phải chịu đựng một mình hay sao? Daria tụt từ trên xe xuống, nắm lấy đoạn dây buộc sừng bò, dắt bò xuống dốc. Hai con bò mệt mỏi thẫn thờ lê bước. Đến chỗ rẽ vào trong ngõ ả lại gần chiếc xe: - Natalia nầy! Tôi muốn hỏi thím một câu… Thím yêu chú ấy lắm à? - Biết yêu đến đâu thì yêu kỳ hết bấy nhiêu - Natalia lúng búng trả lời. - Như thế tức là yêu lắm rồi. - Daria thở dài. - Mà tôi thì chẳng có được một người nào để yêu cho thật ra yêu. Tôi đã yêu theo kiểu chó má, yêu bừa bãi, bạ ai cũng yêu… Nếu bây giờ mà có thể bắt đầu lại cuộc đời từ đầu thì có lẽ tôi sẽ trở thành một con người khác đấy nhỉ? Màn đêm tối đen đã thay thế buổi hoàng hôn ngắn ngủi của mùa hè. Mọi người mò mẫm trong bóng tối đánh những đống cỏ ở ngoài sân. Mấy người đàn bà nín thinh làm việc, thậm chí Daria không trả lời những tiếng quát tháo của ông Panteley Prokofievich. 15. Các đơn vị hỗn hợp của quân đội sông Đông và quân phiến loạn vùng Đông Thượng truy kích quân địch rút lui khỏi Ust-Medvediskaia và tiến về phía bắc. Ở gần thôn Saskin trên sông Medvedixcha, mấy trung đoàn đã bị đánh bại của Tập đoàn quân Hồng quân số 9 tìm cách ngăn chặn quân Cô-dắc, nhưng lại bị đánh bật, phải rút lui về gần nhánh đường sắt Griaze-Sarysyn[309] không chống cự kiên quyết lần nào. Cùng với sư đoàn của chàng, Grigori đã tham gia trận chiến đấu ở gần Saskin và đã chi viện rất đắc lực lữ đoàn bộ binh của tên tướng Xutukov đang bị đánh vào bên sườn. Trung đoàn kỹ thuật binh của Ermakov xung phong theo lệnh của Grigori, đã bắt được gần hai trăm chiến sĩ Hồng quân làm tù binh, chiếm được bốn khẩu trọng liên và mười một chiếc xe chở đạn. Đến lúc trời sắp hoàng hôn, Grigori cùng một nhóm Cô-dắc thuộc trung đoàn một tiến vào Saskin. Bên cạnh ngôi nhà dùng cho sư đoàn bộ thấy đứng lốc nhốc một đám tù binh rất đông với chiếc áo sơ-mi và quần lót bằng vải thô trăng trắng, có một nửa đại đội Cô-dắc canh giữ. Phần lớn tù binh đã bị lột giày và quần áo ngoài, chỉ còn đồ lót. Giữa đám người mặc toàn đồ trắng ấy chỉ thấy lác đác vài chiếc áo quân phục cổ chui bẩn thỉu màu cứt ngựa. - Nom chúng nó trắng lốp như đàn ngỗng ấy? - Prokho Zykov chỉ đám tù binh, kêu lên. Grigori ghìm cương, cho con ngựa quay sang bên cạnh. Chàng đưa mắt tìm thấy Ermakov trong đám Cô-dắc bèn vẩy ngón tay gọi hắn lại. - Lại đây, cậu làm gì mà phải lẩn sau người khác như thế? Ermakov đưa nắm tay lên che miệng húng hắng ho, cho ngựa bước tới. Dưới hàng ria đen lơ thơ, máu đọng cứng trên cặp mỡi dập nát, má bên phải sưng vù còn in những vết sứt sẹo mới đen đen. Trong cuộc xung phong, con ngựa hắn cưỡi đang phi như bay thì vấp chân ngã lăn ra, Ermakov bị văng khỏi yên ngựa như hòn đá rồi trượt sát bụng hàng hai xa-gien trên khoảng đất hữu canh lồi lõm. Nhưng cả hắn lẫn con ngựa đều chồm dậy cùng một lúc, và chỉ một lúc sau hắn đã ngồi lại trên yên, đuổi kịp làn sóng xung phong của kỵ binh Cô-dắc đang đổ ào ào theo mặt dốc, đầu không đội mũ, người đầm đìa những máu, nhưng với thanh gươm tuốt trên tay… - Nhưng việc gì mà tôi phải lẩn trốn? - Hắn vờ làm vẻ ngạc nhiên, vừa hỏi Grigori vừa cho ngựa lên ngang với chàng, nhưng cặp mắt ngầu máu, long lên như mắt quỷ dữ còn chưa dịu đi sau trận chiến đấu cứ ngượng ngùng liếc nhìn sang chỗ khác. - Con mèo ăn vụng đã đánh hơi biết nó lấy cắp thịt nhà ai rồi? Sao cậu cứ cho ngựa đi tụt lại phía thế? - Grigori hỏi giọng giận dữ. Ermakov dành cặp môi sưng vù mà mỉm cười rất khó khăn, liếc nhìn đám tù bình. - Anh nói chuyện thịt với cá gì thế? Trong lúc nầy thì chớ có đặt câu đố cho tôi giải, tôi không thể nào giải được đâu. Hôm nay tôi ngã ngựa, đầu đâm xuống trước… - Đây là cái trò của cậu có phải không? - Grigori giơ roi ngựa chỉ đám tù binh Hồng quân. Ermakov vờ làm vẻ hết sức ngạc nhiên, cứ như hắn mới trông thấy đám tù binh lần đầu: - Chà cái lũ chó đẻ? Chà những thằng đáng nguyền rủa! Lột cả quần áo chúng nó Nhưng không biết chúng nó đã kịp làm cái trò nầy vào lúc nào? Lạ lùng thật! Tôi vừa mới bỏ đi có một lát mà cái lũ đáng thương nầy bị lột trần trụi, nhưng tôi đã ra lệnh thật nghiêm, cấm không cho động đến chúng nó rồi đấy! - Nầy cậu đừng giở trò ngớ ngẩn với tôi! Giả vờ giả tảng kiểu gì thế hử? Cậu ra lệnh lột chúng nó có phải không. - Lại Chúa che chở? Đầu óc anh vẫn còn sáng suốt đấy chứ, anh Grigori Panteleevich? - Cậu còn nhớ mệnh lệnh không? - Đó là mệnh lệnh về vấn đề… - Phải phải, đúng là vấn đề nầy đây? - Còn sao nữa, còn nhớ hẳn đi chứ. Tôi đã học thuộc lòng rồi mà! Y như những bài thơ ngắn xưa kia thường học ở nhà trường ấy. Grigori bất giác mỉm cười, chàng khom người trên yên, nắm lấy đoạn dây đeo gươm của Ermakov. Chàng vốn thích gã chỉ huy ngang tàng, dũng cảm đến mức bạt mạng nầy. - Kharlampi! Tôi không đùa nữa, tại sao cậu lại cho phép chúng nó làm thế? Thằng đại tá mới toanh mà chúng nó vừa mới đặt vào sư đoàn bộ thay Kopylov sẽ báo cáo, rồi lại phải trả lời cho mà xem! Đến khi chúng nó bắt đầu gây phiền phức, truy đi hỏi lại thì cậu sẽ hết phởn! - Tôi đã không thể nào nhìn được, anh Panteleevich ạ? - Ermakov trả lời một cách nghiêm trang và đơn giản. - Mọi thứ trên người chúng nó đều còn mới toanh, vừa được phát ở Ust-Medvediskaia, trong khi các anh em trung đoàn tôi thì rách bươm, ngay quần áo ở nhà cũng chẳng đầy đủ gì cho lắm. Mà đưa về hậu phương rồi thì đằng nào những thằng nầy sẽ bị lột thôi. Chẳng nhẽ chúng ta cứ tóm cổ chúng nó để cho cái bọn khốn nạn ở hậu phương lột quần áo hay sao? Không thể thế được, tốt nhất là cứ để cho anh em chúng ta dùng đã. Tôi sẽ chịu trách nhiệm, mà chúng nó thì làm gì được tôi? Còn anh thì làm ơn đừng có gây chuyện với tôi. Tôi dứt khoát chẳng hiểu gì đâu, và về các chuyện nầy tôi chẳng hiểu tí quái gì cả. Hai người đã lên ngang đám tù binh. Tiếng chuyện trò thầm thì trong đám người lắng cả đi. Những người đi bên ngoài tránh mấy gã cưỡi ngựa bằng những cặp mắt âm thầm lo ngại như đề phòng chờ đợi. Một chiến sĩ Hồng quân đoán rằng Grigori là một lay chỉ huy, bèn đến sát bên cạnh chàng, sờ tay vào bàn đạp: - Thưa đồng chí thủ trưởng? Xin đồng chí bảo bọn Cô-dắc của đồng chí trả lại cho chúng tôi ít nhất những chiếc áo ca-pốt. Xin đồng chí ban cái ơn nầy! Đêm thì lạnh lắm, mà chúng tôi đều trần như nhộng, chính đồng chí cũng thấy đấy. - Giữa mùa hè thì mày không chết cóng được đâu, đồ chuột dũi! - Ermakov cho con ngựa xô người chiến sĩ Hồng quân, nói giọng nghiêm khắc rồi quay sang nói với Grigori - Anh đừng bận tâm làm gì tôi sẽ bảo đem cho chúng nó một ít đồ cũ. Thòi xéo đi, xéo ngay, lính với tráng? Chúng mày hãy lần trong quần mà giết rận chứ đừng đi đánh nhau với người Cô-dắc? Trong sư đoàn bộ đang hỏi cung một đại đội trưởng bị bắt làm tù binh. Tên đại tá Andreynov tham mưu trưởng mới của sư đoàn ngồi sau một cái bàn phủ một chiếc khăn vải sơn đã tàng. Hắn là một tên sĩ quan có tuổi, mũi hếch, tóc hai bên thái dương đã bạc trắng, hai cái tai to vểnh như tai một thằng bé. Người chỉ huy Hồng quân đứng trước mặt hắn, cách cái bàn hai bước. Gã trung uý Xulin, một sĩ quan tham mưu đến sư đoàn cùng với Andreynov, ghi những lời khai của người bị hỏi cung. Người đại đội trưởng Hồng quân là một anh chàng thanh niên cạo lớn ria đỏ, tóc trắng bệch như rắc tro cắt "cua". Anh ta ngượng nghịu dẫm dẫm hai bàn chân không giầy không ủng trên mặt sân sơn vàng, chốc chốc lại đưa mắt nhìn tên đại tá. Bọn Cô-dắc chỉ để lại cho người tù binh một chiếc áo sơ-mi lót của binh sĩ màu vàng, may bằng vải thô chưa chuội. Chúng đã lấy mất của anh ta cái quần sĩ quan, và đổi cho anh ta chiếc quần đi ngựa Cô-dắc rách sơ mướp, với những nẹp quần bạc phếch và những miếng vá vụng về. Trong khi bước tới chỗ cái bàn, Grigori nhận thấy rằng người tù binh ngượng ngùng giật giật cái quần rách mông để che những chỗ hở thịt. - Ngài nói là do Uỷ ban quân sự tỉnh Orlovskaia à? - Tên đại tá nhìn người tù binh qua phía trên mắt kính, hỏi gọn lỏn, rồi lại nhìn xuống và vừa nheo mắt xem, vừa xoay xoay trong tay tờ giấy gì đó, có lẽ là giấy chứng minh. - Vâng. - Từ mùa thu năm ngoái à. - Dạo cuối mùa thu. - Nói dối! Tôi khẳng định là ngài nói dối! Người tù binh lặng lẽ nhún vai. Tên đại tá nhìn Grigori rồi hất đầu một cách khinh bỉ về phía người bị hỏi cung và nói: - Ngài thử nhìn nó cho kỹ mà xem: một sĩ quan cũ trong quân đội của Hoàng đế, mà bây giờ, ngài đã thấy chưa, là một thằng Bolsevich. Bị lọt vào tay chúng ta mới là bịa tạc, làm như nó chỉ đi theo bọn Đỏ một cách ngẫu nhiên, như bị chúng nó động viên. Nó nói láo một cách kỳ quặc, ngây thơ, chẳng khác gì một thằng học sinh trung học, và cứ tưởng người ta sẽ tin nó. Nhưng điều đơn giản là nó thiếu hẳn cái dũng khí của một công dân để thú nhận rằng mình đã phản bội Tổ quốc… Nó sợ, thằng đê tiện! Người tù binh bèn nói, chỗ lộ hầu đưa lên đưa xuống rất khó khăn. - Thưa ngài đại tá, cỏn tôi thì thấy rằng ngài có đầy đủ lòng dũng cảm của một công dân để làm nhục một tù binh… - Tôi không nói chuyện với những tên đê tiện! - Còn tôi thì bây giờ bị bắt buộc phải nói với chúng nó. - Liệu hồn đấy? Chớ có dồn tôi đến chỗ đó, tôi rất có thể dùng hành động để làm nhục ngài! - Ở cương vị của ngài thì việc ấy không khó khăn gì lắm và chủ yếu là không có gì nguy hiểm! Grigori chẳng nói chẳng rằng, đến ngồi vào bàn. Chàng mỉm một nụ cười đồng tình nhìn người tù binh mặt nhợt ra vì phẫn nộ và đang trả miếng từng câu với tên kia một cách hết sức gan dạ. "Nó đã giáng cho thằng đại tá những đòn đau ra trò"? - Grigori thích thú nghĩ thầm. Trong lòng chàng không khỏi cảm thấy khoái trá một cách ác ý khi nhìn thấy hai cái má bánh dầy đỏ như bồ quân của tên Andreynov giật giật trong cơn thần kinh. Ngày từ buổi gặp gỡ đầu tiên, Grigori đã ghét cay ghét đắng tên tham mưu trưởng. Andreynov nằm trong số những tên sĩ quan không có mặt trên mặt trận trong những năm đại chiến thế giới: hắn đã khôn khéo lợi dụng những bạn đồng sự và họ hàng quen thuộc có quyền thế để chúi xó trong hậu phương, và tìm mọi cách để bám lấy một công việc bình yên vô sự. Ngay trong nội chiến, tên đại tá Andreynov cũng kiếm được cách ngồi yên ở Novochekask để làm một công tác "quốc phòng". Mãi sau khi tên ataman Krasnov bị gạt ra khỏi chính quyền, hắn mới bị bắt buộc phải ra mặt trận. Sau hai đêm ở cùng một phòng với Andreynov, Grigori đã được biết qua lời hắn kể rằng hắn rất ngoan đạo và không thể nói tới những buổi lễ nhà thờ long trọng mà không chảy nước mắt; vợ hắn tên là Sofia Alexandrovna là một người đàn bà gương mẫu nhất mà người ta có thể tưởng tượng, xưa kia chính tên ataman nhiệm mệnh nam tước Phôn Grafe đã theo đuổi mụ mà không được. Ngoài ra tên đại tá còn tử tế kể tỉ mỉ: cha hắn nay đã mồ yên mả đẹp vốn có một sản nghiệp như thế nào, còn hắn, tức là Andreynov nầy đã được thăng đến cấp đại tá như thế nào và năm 1916 hắn đã từng đi săn với những nhân vật cao cấp nào. Hắn lại cho biết rằng theo hắn, lối đánh bài thú vị nhất là "u-uýt", đồ uống có lợi nhất là rượu cô-nhắc nấu bằng lá tiêu hồi, còn công tác có nhiều bổng lộc nhất là ở cục quân nhu của Quân khu. Hễ nghe thấy tiếng hoả lực pháo binh bắn gần là tên đại tá Andreynov run bắn lên. Lấy cớ là có bệnh đau gan, hắn chỉ cưỡi ngựa một cách miễn cưỡng. Hắn luôn luôn lo tới việc tăng cường bộ phận bảo vệ sư đoàn bộ, còn đối với bọn lính Cô-dắc thì hắn có thái độ khinh ghét ra mặt vì theo hắn năm 1917, tất cả dân Cô-dắc trở thành những kẻ phản bội và từ năm ấy hắn đã nhất loạt căm ghét tất cả "các cấp thấp hèn". "Chỉ có tầng lớp quý tộc mới cứu được nước Nga thôi! " - Trong khi nói như thế, tên đại tá cho biết thêm rằng hắn cũng xuất thân quý tộc và dòng họ Andreynov là dòng họ lâu đời nhất, có công lao nhất vùng sông Đông. Tất nhiên thói xấu căn bản của Andreynov là cái tính ba hoa đáng sợ không có gì ghìm hãm được của những kẻ già nua. Đó là bệnh thời đứng tuổi của một số những người lắm mồm và thiếu thông minh, từ trẻ đã quen thói nhận xét về mọi việc một cách khinh bạc, bừa bãi. Những con người thuộc giống chim muông đớn hèn như thế Grigori đã nhiều lần gặp thấy trong đời chàng và bao giờ chúng cũng gây cho chàng một cảm giác hết sức kinh tởm. Mới làm quen với nhau hôm trước thì hôm sau Grigori đã bắt đầu tránh mặt Andreynov. Việc ấy ban ngày thì chàng còn làm được, nhưng vừa đến lúc dừng chân nghỉ đêm Andreynov đã đi tìm chàng và vội vã hỏi ngay: "Chúng ta cùng nghỉ đêm với nhau nhé!", rồi không chờ trả lời, hắn đã tuôn ra một chàng: "Ông bạn hết sức thân mến của tôi ạ ngài bảo rằng lính Cô-dắc không được kiên cường trong các trận chiến đấu bộ binh, nhưng theo kinh nghiệm của tôi từ hồi còn làm sĩ quan tuỳ tùng của tướng quân… Nầy, có đứa nào đấy không, mang hộ cái va-li và cái giường vào đây!" Grigori nằm ngửa nghe hắn nói, mắt nhắm nghiền, hai hàm răng nghiến chặt, rồi chẳng cần giữ lịch sự gì nữa chàng quay lưng về phía tên kể chuyện không biết mỏi, kéo áo ca-pốt lên trùm kín đầu, bụng bảo dạ với cả niềm phẫn nộ không nói được: "Hễ mình nhận được lệnh thuyên chuyển là sẽ kiếm ngay một cái gì thật nặng cho nó một cái vào đầu; có lẽ chỉ sau đó nó mới câm cái mồm được một tuần?" - "Ngài ngủ đấy à, trung uý?" Andreynov hỏi, "Tôi ngủ rồi" - Grigori âm thầm trả lời. "Xin lỗi, tôi còn chưa nói hết mà!" - Thế là câu chuyện lại tiếp tục. Grigori nghĩ thầm trong lúc mơ mơ màng màng: "Chúng nó đã cố ý tống cái thằng lắm mồm nầy đến chỗ mình đấy. Đúng là lão Fitkhelaurov đã bố trí cái trò nầy. Chà, cùng với nó, với cái thằng dở hơi nầy thì còn làm ăn thế nào được? Rồi trong khi thiếp đi chàng vẫn còn nghe thấy cái giọng nam cao của tên đại tá như chọc vào tai nghe như tiếng mưa đập xuống mái tôn. Chính vì thế mà Grigori đã cảm thấy khoái trá một cách quái ác khi thấy người chỉ huy bị bắt làm tù binh chửi lại tên tham mưu tưởng lắm mồm của mình một cách tài tình như thế. Andreynov nín lặng một chút, hai con mắt nheo nheo, dái tai rất dài của cặp tai vểnh ra ngoài đỏ ửng, bàn tay sưng phù trắng hếu đặt trên mặt bàn run lên bần bật cùng với chiếc nhẫn vàng to tướng đeo trên ngón tay trỏ. - Thôi ngài hãy nghe đây, đồ quái thai! - Hắn nói bằng giọng khàn hẳn đi vì xúc động. - Tôi ra lệnh giải ngài đến gặp tôi không phải là để ngài dùng lời lẽ đối đáp lại với tôi, ngài chớ có quên là như thế? Ngài có hiểu rằng ngài sẽ không thoát được hay không? - Tôi hiểu rõ lắm. - Nếu vậy thì càng tốt cho ngài. Rốt cuộc thì tôi cũng chẳng cần đếm xỉa đến việc ngài tự nguyện đi theo bọn Đỏ hay là chúng nó đã động viên ngài. Điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là do những cách nhìn sai lệch về danh dự, ngài từ chối không chịu nói… - Rành rành là về vấn đề danh dự thì ngài và tôi hiểu không giống nhau đâu. - Đó là vì ngài không còn có danh dự nữa, tất cả chỉ có thế thôi! - Còn về ngài thì thưa ngài đại tá, cứ nhìn vào thái độ của ngài trong khi đối xử với tôi, tôi tự đặt câu hỏi không biết ngài đã từng có danh dự bao giờ chưa? - Tôi thấy ngài muốn đẩy cho kết cục tới nhanh hơn có phải không? - Thế ngài nghĩ rằng kéo dài thêm thì có lợi cho tôi hay sao? Ngài chớ có doạ tôi, chẳng được tích sự gì đâu! Bằng những ngón tay run bần bật, Andreynov mở hộp thuốc lá, châm một điếu, hút lấy hút để hai hơi rồi lại hỏi người tù binh: - Như thế tức là ngài từ chối không trả lời những câu hỏi có phải không? - Tôi đã nói về tôi rồi. - Quỷ dữ bắt ngài đi! Cái cá nhân xấu xa ti tiện của ngài là điều mà tôi ít cần biết hơn tất cả. Bây giờ ngài hãy trả lời tôi câu hỏi nầy: những đơn vị nào từ nhà ga Sibirkova tiến tới chỗ của ngài? - Tôi đã trả lời ngài rằng tôi không biết rồi. - Ngài có biết? - Thôi được tôi sẽ làm cho ngài được vừa ý, vâng tôi có biết, nhưng tôi sẽ không trả lời. - Tôi sẽ ra lệnh lấy que thông nòng nện cho ngài một trận, rồi lúc đó ngài sẽ nói! - Chưa chắc đâu! - Người tù binh đưa tay trái lên vuốt ria, mỉm cười một nụ cười đầy tự tin. - Trung đoàn Kamusinsky có tham gia trận chiến đấu nầy không? - Không. - Nhưng cánh bên trái của ngài đã được một đơn vị kỵ binh yểm hộ, đó là đơn vị nào? - Xin ngài thôi đi cho! Tôi nhắc lại với ngài lần nữa rằng tôi sẽ không trả lời những câu hỏi tương tự như thế. - Mày hãy lựa chọn đi, đồ chó, một là mày hãy mở mồm khai ngay, hai là mười phút nữa mày sẽ bị đem ra xử bắn! Thế nào hử? Đến lúc nầy người tù binh bất thần nói lanh lảnh giọng rất cao, rất trẻ: - Ngài đã làm tôi chán ngấy rồi, ngài là một lão già ngu xuẩn! Ngu si đần độn! Nếu ngài rơi vào tay tôi thì tôi không hỏi cung ngài như thế nầy đâu! Andreynov tái mặt, chộp tay xuống bao súng ngắn. Lúc đó Grigori mới từ từ đứng dậy, giơ tay ngăn lại. - Ồ! Thôi đi như thế nầy là đủ rồi. Như tôi thấy thì cả hai ngài đều nóng nảy… Thôi được, hai ngài đã không nhất trí được với nhau, mà cũng không cần thiết, vậy thì có gì mà phải nói nữa? Anh ta đã không phản bội quân đội của mình, và làm như thế là đúng. Thật đấy làm như thế là cừ lắm! Tôi cũng không ngờ như thế? - Không ngài cứ để cho tôi nói! - Andreynov nổi nóng, cố mở bao súng nhưng mãi không mở được. - Tôi không cho phép đâu! - Grigori vừa nói bằng một giọng sôi nổi và vui vẻ, vừa bước tới sát hắn, lấy thân mình che cho người tù binh. - Giết một tù binh là việc dễ như trở bàn tay. Làm thế nào mà lương tâm của ngài cho phép ngài có ý định giết anh ta, một con người như thế nầy? Một con người không còn vũ khí, đã bị bát làm tù binh, ngay đến quần áo cũng không được chúng nó để lại cho, thế mà ngài lại định… - Mặc tôi! thằng khốn nạn nầy đã làm nhục tôi? - Andreynov xô mạnh Grigori, rút khẩu Nagan ra. Người tù binh quay mặt ra cửa sổ, ngọ nguậy vai như bị lạnh. Grigori mỉm cười theo dõi Andreynov. Cảm thấy cái cán gạch khía ram ráp của khẩu súng ngắn trong tay mình, tên kia vung khẩu súng một cách lố bịch nhưng lại chúc mũi súng xuống rồi quay đi. - Tôi cũng chẳng muốn bẩn tay… - Hắn thở hổn hển, liếm cặp môi khô bỏng, nói giọng khàn khàn. Grigori không nhịn được cười, chàng nhe hai hàm răng trắng loá sủi đầy nước bọt dưới hàng ria và nói: - Mà muốn bắn cũng không được cơ mà? Ngài thử nhìn mà xem, khẩu Nagan của ngài đã bị tháo hết đạn rồi còn đâu. Ngay ở chỗ nghỉ đêm, lúc sáng sớm tôi tỉnh dậy, có cầm lấy nó trên chiếc ghế dựa để xem… Chẳng thấy một viên đạn nào cả, và có lẽ hai tháng nay chưa lau chùi gì cả! Ngài giữ gìn vũ khí riêng tồi quá đấy! Andreynov đưa mắt nhìn xuống, dùng ngón tay cái xoay xoay cái cối đạn, mỉm cười: - Quỷ quái thật? Đúng là như thế… Từ nãy tên trung uý Xulin vẫn nín thinh theo dõi mọi việc xảy ra với cặp mắt châm biếm. Đến lúc nầy hắn mới gấp tờ biên bản hỏi cung và nói với một giọng đớt đớt rất có duyên: - Thưa ngài Semion Polikarpovich, tôi đã nhiều lần thưa với ngài rằng ngài giữ gìn vũ khí thật chẳng ra sao cả. Việc xảy ra hôm nay lại cho thấy thêm một bằng chứng nữa đấy. Andreynov cau mày quát to: - Nầy, đám binh bét chúng mày có đứa nào đấy không? Vào đây! Từ phòng ngoài, hai gã liên tục và tên đội trưởng cảnh vệ bước vao. - Lôi cổ nó đi! - Andreynov hất đầu chỉ người tù binh. Người tù binh quay nhìn Grigori, lặng lẽ cúi chào chàng rồi bước ra cửa. Grigori có cảm tưởng như dưới hàng ria hung hung đỏ, môi anh tù binh hơi động đậy trong một nụ cười cảm ơn chỉ thoáng có thể nhận thấy… Khi tiếng những bước chân đã lãng đi, Andreynov mới bỏ cái kính xuống một cách mệt mỏi, lau rất cẩn thận mắt kính bằng một mẫu da hoảng mềm, rồi nói giọng cáu kỉnh: - Ngài bênh vực cái thằng khốn nạn ấy cừ lắm, chuyện ấy thuộc về các chính kiến của ngài, nhưng ngài lại nói ngay trước mặt nó về khẩu Nagan, đặt tôi vào tình thế khó xử thì ngài thử xem, như thế còn ra sao nữa? - Cũng chẳng có tai vạ gì lắm đâu. - Grigori trả lời làm lành. - Không, dù sao cũng là không đúng. Nhưng ngài có biết không, tôi rất có thể bắn chết nó. Cái thằng đến là khả ố! Trước lúc ngài đến tôi đã phải vật lộn với nó hàng nửa tiếng đồng hồ. Nó đã nói biết bao nhiêu điều dối trá, loanh quanh, xuyên tạc, đưa ra những tài liệu rành rành là giả tạo. Thật là khủng khiếp? Nhưng đến khi bị tôi vạch mặt thì giản đơn và dứt khoát từ chối không nói gì nữa. Ngài cũng thấy đấy, danh dự của một sĩ quan không cho phép nó tiết lộ với quân địch những bí mật quân sự, nhưng cái thằng chó đẻ, khi nó đi làm thuê cho bọn Bolsevich, thử hỏi nói có nghĩa đến danh dự sĩ quan hay không? Tôi nghĩ rằng cần phải không kèn không trống đem nó đi xử bắn cùng với hai thằng chỉ huy kia mới được. Về mặt thu lượm tin tức chung quanh những điều chúng ta quan tâm thì tất cả chúng nó đều không thể tin tưởng được. Chúng nó là những thằng vô lại thâm căn cố đế, không sao sửa chữa được nữa, vì thế không nên khoan hồng với chúng nó làm gì cả. Ngài thấy thế nào? - Ngài đã dùng cách nào để biết được rằng hắn là đại đội trưởng? Grigori hỏi thay câu trả lời. - Chính một thằng lính Hồng quân dưới quyền nó đã phản lại nó. - Tôi cho rằng cần phải xử bắn thằng lính Hồng quân, còn mấy thằng chỉ huy thì để lại! - Grigori nhìn Andreynov có vẻ chờ đợi. Tên kia nhún vai mỉm cười, cái mỉm cười của những người thấy kẻ nói chuyện với mình pha trò không có kết quả: - Không, nói đứng đắn thì ý ngài như thế nào? - Như tôi đã nói với ngài đấy. - Nhưng ngài cũng làm ơn cho biết như thế là vì những lý do gì? - Vì những lý do gì ấy à? Chính là vì lý do cần phải duy trì kỷ luật và trật tự cho quân đội Nga, ngài đại tá ạ. Hôm qua khi chúng ta vào giường ngủ, ngài nói hết sức chí lý về chuyện sau khi đánh tan quân Bolsevich, chúng ta sẽ thực hiện trong quân đội một chế độ như thế nào để diệt trừ cho hết cái giống vi trùng Đỏ trong tầng lớp thanh niên. Tôi hoàn toàn đồng ý với ngài, ngài còn nhớ chứ? - Grigori vuốt ria, theo dõi những sự thay đổi trên nét mặt tên đại tá rồi nói một cách rất cứng lý - Thế mà bây giờ ngài lại đề nghị nên làm như thế nào? Ngài mà làm thế thì sẽ gây ra tình trạng sa sút hư hỏng đấy! Như thế tức là cứ mặc cho lính tráng phản bội cấp chỉ huy của chúng nó hay sao? Sau đó ngài sẽ dạy dỗ chúng nó bằng cách nào? Nếu ngài và tôi bị rơi vào một tình thế như vậy thì lúc đó sẽ như thế nào? Không, xin ngài thứ lỗi cho, vấn đề nầy tôi dứt khoát giữ ý kiến của tôi? Tôi phản đối lối xử sự của ngài. - Thôi tuỳ ý ngài. Andreynov trả lời một cách lạnh lùng và chăm chú nhìn Grigori. Hắn cũng đã từng nghe nói sư đoàn trưởng của quân phiến loạn là một người con trái tính và có phần kỳ quặc, nhưng quả thật hắn không ngờ lại có chuyện như thế nầy về phía chàng. Hắn chỉ nói thêm: - Chúng tôi vẫn thường làm như thế với những tên chỉ huy của bọn Đỏ bị bắt làm tù binh, đặc biệt là những thằng sĩ quan cũ. Ý kiến của ngài có điều mới… Nhưng tôi cũng không hoàn toàn hiểu hết thái độ của ngài trước một vấn đề có vẻ không thể tranh cãi như thế nầy. - Chúng tôi thường giết chúng nó trong chiến đấu, nếu có thể, còn tù binh thì không đem bắn nếu không cần thiết! - Grigori đỏ mặt trả. - Thôi được, theo ý ngài chúng ta sẽ giải chúng nó về hậu phương. - Andreynov đồng ý. - Bây giờ còn một vấn đề nầy nữa: Một số trong đám tù binh có tỏ ý muốn chiến đấu trong hàng ngũ của chúng ta. Chúng nó là những thằng nông dân tỉnh Saratovskaia. Trung đoàn bộ binh của chúng ta không có tới ba trăm tay súng. Ngài có thấy sau khi đã chọn lựa cẩn thận, chúng ta có thể đưa một số tù bình lình nguyện vào trung đoàn ấy hay không? Về mặt nầy chúng ta đã có chỉ thị rất rõ ràng của bộ tư lệnh Tập đoàn quân. - Tôi không nhận một thằng mu-gích nào vào sư đoàn của tôi đâu. Nếu thiếu thì cứ bổ sung cho tôi bằng lính Cô-dắc. - Grigori tuyên bố như đinh đóng cột. Andreynov cố thuyết phục chàng: - Nhưng ngài hãy nghe tôi, chúng ta bất tất phải tranh cãi làm gì. Tôi cũng hiểu rằng ngài có ý muốn giữ cho thành phần của sư đoàn được thuần nhất là lính Cô-dắc, nhưng tình hình cần thiết bắt buộc chúng ta không được chê cả tù bình. Ngay trong Tập đoàn quân tình nguyện, một số trung đoàn cũng phải bổ sung bằng tù binh đấy. - Cứ mặc họ muốn làm như thế nào thì làm tôi thì từ chối không nhận những thằng mu-gích. Thôi chúng ta không nói thêm về chuyện nầy nữa. - Grigori cắt đứt câu chuyện. Một lát sau chàng ra ngoài hạ lệnh về việc giải tù binh đi. Trong bữa ăn trưa. Andreynov nói với chàng giọng xúc động: - Xem ra tôi với ngài khó mà cùng làm việc với nhau được… - Tôi cũng nghĩ như thế đấy. - Grigori trả lời một cách thản nhiên, rồi không để ý tới cái mỉm cười của Xulin, cứ dùng ngón tay lấy trên đĩa một miếng thịt cừu và bắt đầu gặm rau ráu một chỗ sụn khá rắn, nghe như tiếng răng chó sói, làm cho gã Xulin phải cau mặt như có gì đau lắm, thậm chí hắn nhắm mắt lại trong một giây. Hai ngày sau binh đoàn của tên tướng Xannhikov chịu trách nhiệm truy kỉch các đơn vị Hồng quân đang rút lui, còn Grigori thì bị cấp tốc gọi lên bộ chỉ huy binh đoàn. Tham mưu trưởng binh đoàn là một tên tướng có tuổi, mặt mũi đường hoàng. Hắn cho chàng biết về mệnh lệnh của tên tư lệnh Quân đội sông Đông, quyết định giải tán quân đội phiến loạn, rồi nói toạc móng heo: - Trong khi tiến hành chiến tranh du kích chống lại bọn Đỏ ngài đã chỉ huy có kết quả một sư đoàn, nhưng ngày nay chúng tôi không những không thể trao cho ngài một sư đoàn, mà ngay một trung đoàn cũng không được. Ngài chưa học qua một trường quân sự nào, vì thế trong những điều kiện chiến đấu trên một mặt trận rộng lớn, với những phương pháp tác chiến hiện đại, ngài không thể chỉ huy nổi một đơn vị quân đội lớn. Ngài cũng nhận thấy như thế chứ? - Vâng, - Grigori trả lời. - Chính tôi cũng muốn xin thôi chỉ huy sư đoàn. - Ngài không đánh giá cao khả năng của mình, như thế là rất tốt. Đức tính quá hiếm có trong lứa sĩ quan trẻ tuổi ngày nay. Bây giờ thế nầy: Theo lệnh của tư lệnh mặt trận, ngài được chỉ định làm đại đội trưởng đại đội bốn thuộc trung đoàn Mười chín, trung đoàn hiện nay tiến quân, ở một nơi nào đó gần thôn Viatnhikov, cách đây chừng hai mươi vec-xta. Ngài sẽ tới đó ngay ngày hôm nay, muộn lắm là ngày mai. Nhưng hình như ngài còn có điều gì muốn nói thì phải? - Tôi muốn các ngài điều đến một đơn vị hậu cần. - Như vậy không được. Nhất định ngài phải ra mặt trận. - Qua hai cuộc chiến tranh tôi đã bị ngoại thương và nội thương mười bốn lần. - Điều đó không có ý nghĩa gì cả. Ngài còn trẻ, nom người rất khỏe mạnh và còn có thể chiến đấu. Còn chuyện thương tật thì trong số sĩ quan ai mà không bị thương? Ngài có thể ra ngoài được rồi. Chúc ngài vạn sự tốt lành! Có lẽ vì muốn phòng ngừa tinh thần bất mãn thế nào cũng sẽ nảy ra trong dân Đông Thượng khi quân đội phiến loạn bị giải tán, nên ngay sau khi đánh chiếm được Ust-Medvediskaia nhiều tên Cô-dắc lính trơn có công trong cuộc nổi loạn đã được đeo lon hạ sĩ quan, gần như tất cả bọn sĩ quan đều được đề bạt chuẩn uý, còn những tên sĩ quan có tham gia bạo động thì đều được thăng cấp và khen thưởng. Cả Grigori cũng không bị bỏ qua, chàng được thăng cấp trung uý và các công lao xuất sắc của chàng trong cuộc chiến đấy chống Hồng quân đã được nêu lên và tuyên dương trong một bản thông lệnh gửi toàn quân. Việc cải biên quân đội đã được thực hiện trong vài ngày. Các tên sư đoàn trưởng và trung đoàn trưởng thiếu học vấn đã được thay bằng những tên cấp tướng và cấp đại tá. Các sĩ quan có kinh nghiệm được chỉ định làm đại đội trưởng. Toàn bộ thành phần chỉ huy trong các đại đội pháo và các ban tham mưu đều bị thay đổi. Còn bọn Cô-dắc lính trơn thì bị điều đi bổ sung cho các trung đoàn mang phiên hiệu của quân đội sông Đông vừa bị đánh tơi bời trong các trận chiến đấu ở vùng sông Dones. Trước khi trời hoàng hôn, Grigori tập hợp bọn Cô-dắc, công bố lệnh giải tán sư đoàn. Chàng nói những lời chia tay: - Thưa anh em đồng hương, vừa qua có điều gì không phải thì anh em cũng đừng để lòng để dạ? Chúng ta đã từng bị bắt buộc phải đi lính ở cùng một chỗ với nhau, nhưng từ đây trở đi, mọi người chúng ta sẽ chịu cay đắng ở riêng một nơi. Điều chủ yếu là anh em hãy giữ lấy cái đầu đừng để bọn Đỏ chúng nó xuyên thủng mất. Đầu óc chúng ta tuy hồ đồ, nhưng cũng không nên giơ nó ra chịu đạn một cách vô ích. Chúng ta còn phải dùng nó để suy nghĩ, suy nghĩ cho kỹ xem tương lai nên làm như thế nào. Bọn Cô-dắc đều ủ rũ đứng lặng đi, rồi tất cả đều cùng lao nhao nói khàn khàn đủ giọng: - Lại bắt đầu giở cái trò cũ rồi hay sao? - Bây giờ chúng ta sẽ đi đâu đây? - Cái lũ chó đểu, chúng nó muốn áp bức nhân dân thế nào thì áp bức! Chúng tôi không muốn bị giải tán đâu! Cái trật tự mới như vậy là nghĩa lý làm sao? - Chà, các cậu ạ, chúng ta hợp nhất với chúng nó để đeo tròng vào - Những thằng quan lớn ấy lại bắt đầu đè đầu cưỡi cổ chúng ta rồi! - Bây giờ thì liều liệu đấy! Rồi chúng nó sẽ nắn thẳng các khớp xương của chúng ta… Grigori chờ tất cả lặng đi rồi mới nói: - Anh em gào lên như thế cũng chẳng được tích sự gì đâu. Bây giờ đã chấm dứt cái thời kỳ thoải mái, cái thời kỳ anh em còn có thể đem mệnh lệnh ra bàn bạc và chống lại chỉ huy rồi. Anh em hãy giải tán về nhà và hãy bớt nói năng lung tung, nếu không thời buổi nầy thì cái lưỡi không thể đưa anh em đi Kiev[310] mà chỉ đưa ra thẳng toà án binh và những đại đội nhà pha thôi. Từng trung đội một, bọn Cô-dắc đến bắt tay từ biệt Grigori và nói: - Tạm biệt anh Panteleevich! Chúng tôi có điều gì không phải anh cũng đừng để tâm. - Chao ôi, phải đi lính dưới quyền những kẻ không phải là anh em nhà, chúng tôi sẽ cực lắm! - Anh để cho chúng tôi chịu khổ thì thật là sai. Không đồng ý trao sư đoàn nầy có hơn không! - Chúng tôi rất tiếc anh, anh Melekhov ạ. Những người chỉ huy khác họ có thể có nhiều chữ nghĩa hơn anh, song chúng tôi cũng sẽ chẳng nhờ đấy mà được dễ chịu hơn chút nào đâu, trái lại chỉ cực hơn thôi, tai vạ chính là ở chỗ ấy đấy! Chỉ có một gã Cô-dãc người thôn Napolovsky một tay bẻm mép pha trò giỏi nhất đại đội là nói: - Anh Grigori Panteleevich ạ, anh chớ có tin chúng nó. Nếu mọi việc không làm theo lương tâm, thì dù làm việc với anh em mình hay với kẻ khác cũng đều cực cả! *** Đêm hôm ấy Grigori uống rượu với Ermakov và mấy tên chỉ huy khác rồi sáng hôm sau chàng đem theo Prokho Zykov đuổi theo trung đoàn Mười chín. Chàng còn chưa kịp nhận đại đội và làm quen với binh lính và các cấp dưới thì đã bị gọi lên gặp trung đoàn trưởng. Lúc ấy trời còn sáng tinh sương. Grigori xem lại những con ngựa trùng trình mãi và nửa giờ sau mới lên tới nơi. Tên trung đoàn trưởng vốn rất nghiêm khắc đối với các sĩ quan nên chàng cứ tưởng hắn sẽ có những lời nhận xét về mình, nhưng hắn chào hỏi chàng rất vồn vã rồi hỏi: "Thế nào ngài thấy đại đội như thế nào? Chúng nó có vững vàng không?" và không chờ chàng trả lời hắn cứ nhìn đi đâu qua người Grigori mà nói: - Thế nầy nầy, ông bạn thân mến ạ, tôi phải báo cho ngài biết một tin rất buồn… Gia đình ngài đã gặp phải một việc rất không may. Đêm qua chúng tôi có nhận được từ Vosenskaia một bức điện. Tôi để cho ngài nghỉ phép một tháng để thu xếp công việc gia đình. Thôi ngài lên đường đi. - Xin ngài cho xem bức điện. - Grigori tái mặt nói. Chàng tiếp lấy tờ giấy gấp tư, mở ra đọc rồi nắm chặt bàn tay bỗng nhiên đầm đìa mồ hôi. Chàng không phải cố gắng nhiều lắm cũng tự chủ được mình và chỉ hơi lắp bắp một chút khi nói: - Vâng, tôi không ngờ lại xảy ra chuyện nầy. Thế thì tôi sẽ đi ngay. Xin tạm biệt ngài. - Ngài đừng quên lấy giấy nghỉ phép nhé. - Vâng, vâng. Xin cám ơn ngài. Tôi sẽ không quên. Chàng đi ra phòng ngoài với bước chân vững vàng và rắn rỏi, tay vẫn giữ gươm theo thói quen, nhưng vừa bước từ trên thềm cao xuống thì chàng bỗng nhiên không còn nghe thấy tiếng chân mình nữa và ngay lập tức cảm thấy mình đau nhói như bị một mũi lưỡi lê đâm vào. Xuống tới bậc cuối cùng, chàng lảo đảo, phải đưa tay trái ra nắm lấy dây lan can lung lay, còn tay phải thì vội vã mở khuy cổ áo quân phục. Chàng dừng lại chừng một phút, thở hổn hển nhưng hơi rất dài và trong giấy phút đó, nỗi đau đớn đã tựa như làm chàng say men rồi đến khi chàng rời tay khỏi lan can để đi đến chỗ con ngựa buộc ở cửa xép thì chàng dẫm từng bước một cách nặng nề, người hơi lảo đảo. 16. Vài ngày sau buổi nói chuyện với Daria, Natalia cứ sống với cảm giác của một người mơ ngủ, bị một cơn ác mộng làm mình nghẹt thở mà không thể nào có đủ sức tỉnh lại được. Nàng cố tìm một cớ có vẻ chính đáng để đến nhà mụ vợ gã Prokho Zykov, thử hỏi mụ xem trong thời kỳ rút lui Grigori đã sống ở Vosenskaia như thế nào và có gặp Acxinhia ở đấy không. Nàng muốn có bằng chứng về tội lỗi của chồng, còn những lời nghe Daria nói thì nàng vẫn nửa tin nửa ngờ. Trời tối mịt nàng mới bước tới sân gia súc của nhà Zykov, một cái cành nhỏ vung vẩy trong tay, nom rất vô tư lự. Mụ vợ gã Prokho vừa thu xếp xong công việc trong nhà đang ngồi bên cạnh cổng. - Chào chị, chị vợ lính vắng chồng! Chị có thấy con bò non nhà tôi đâu không chị? - Natalia hỏi. - Lạy chúa tôi, chị bạn yêu quý! Không, tôi không trông thấy. - Cái con đầu đường xó chợ, cái con đáng nguyền rủa ấy, không làm thế nào cho nó ở nhà được! Tôi chẳng còn biết đi đến đâu để tìm ra nó bây giờ. - Nhưng hượm đã nào, chị nghỉ một lát đã, rồi sẽ tìm thấy thôi. Chị xơi hạt hướng dương nhé! Natalia bước tới, ngồi xuống. Bắt đầu một câu chuyện rất là bình thường của đám đàn bà. - Chị có nghe được tin tức gì về thầy quyền nhà ta không? - Natalia hỏi. - Chẳng có tin tức gì cả. Cái gã phản chúa ấy, thật cứ như chìm xuống nước mất hút rồi! Còn anh chàng nhà chị có gửi được gì về không? - Không, anh Griska có hứa viết thư nhưng không hiểu sao vẫn chưa thấy gửi. Người ta nói quân ta đang tiến tới một nơi nào đó ở quá Ust-Medvediskaia thì phải, ngoài ra chẳng nghe thấy tin gì khác Rồi Natalia lái câu chuyện sang cuộc rút lui gần đây sang bên kia sông Đông và bắt đầu hỏi một cách dè dặt về chuyện lính tráng sống ở Vosenskaia ra sao và trong số bà con thôn nhà có những ai cũng ở đấy với họ. Mụ vợ ranh ma của gã Prokho đoán biết ngay là Natalia đến nhà mình có việc gì, nên trả lời rất khô khan, dè dặt. Qua lời chồng kể, mụ đã biết về chuyện Grigori. Nhưng tuy trong miệng đã ngứa ngáy lắm rồi, mụ vẫn sợ không dám nói lại. Mụ còn nhớ đinh ninh lời Prokho đe mụ: "Mụ phải nhớ cho kỹ: nếu mụ nói hở chuyện nầy với bất cứ ai, dù chỉ một lời thôi, tao cũng sẽ dần đầu mụ xuống cái bệ bổ củi, lôi cái lưỡi thổ tả của mụ tới một ác-sin rồi chặt phăng đi. Hễ có phong phanh như thế đến tai thằng Grigori là nó sẽ giết tao ngay mà không cần dừng chân bước hay ngừng tay làm việc khác đâu! Tuy tao đã chán ngấy mụ rồi, nhưng tao vẫn còn chưa chán đời. Đã rõ chưa? Vì thế có mồm thì cứ giả câm như đã chết rồi ấy!". - Anh chàng Prokho nhà chị có dịp nào gặp ả Acxinhia nhà Astakhov ở Vosenskaia không? - Natalia không thể chờ đợi lâu thêm nữa, đi thẳng vào việc. - Hắn ta làm thế nào mà gặp nó được? Chẳng nhẽ ở Vosenskaia hắn ta còn có hơi sức để đi tìm nó hay sao? Nói thật có Chúa chứng giám, tôi chẳng biết chút gì đâu, chị Mironovna[311] ạ, mà chị cũng đừng gạn hỏi tôi về chuyện ấy làm gì. Tôi không thể nào moi được một lời nào đứng đắn ở cái con quỷ tóc bạc phếch nhà tôi đâu. Hắn chỉ biết nói có mấy tiếng "đưa đây" và "cầm lấy" thôi. Thế là Natalia đành phải về không, trong lòng càng bực bội và xao xuyến hơn. Nhưng nàng không còn có thể chịu đựng được nữa cái tình trạng mở mịt không hiểu thực hư ra sao. Và chính điều đó đã đẩy nàng đến nhà Acxinhia. Vì sống sát hàng rào với nhau nên mấy năm gần đây hai người có gặp nhau luôn. Những lúc đó, hai bên chỉ lặng lẽ gật đầu chào nhau một cái, đôi khi cũng có nói với nhau vài lời. Trước kia, mỗi khi gặp nhau hai người không hề chào hỏi nhau mà chỉ trao đổi nhau những cái lườm nguýt đầy căm ghét, nhưng thời kỳ ấy đã qua rồi, Lòng thù địch giữa hai bên đã dịu bớt, vì thế trong khi tới nhà Acxinhia, Natalia hy vọng Acxinhia sẽ không đuổi mình và về chuyện ai thì không nói chứ về chuyện Grigori thì nhất định Acxinhia sẽ nói. Và hoàn toàn đã không nhầm. Acxinhia không giấu vẻ ngạc nhiên, mời nàng vào phòng trong, hạ các rèm cửa sổ, châm đèn và hỏi: - Chị sang chơi mang cho tin gì vui thế? - Không phải phần tôi đem đến cho chị những tin vui đâu. - Thế thì chị nói tin không vui vậy. Có chuyện gì không may xảy ra với anh Grigori Panteleevich phải không? Trong câu hỏi của Acxinhia thấy lộ rõ cả một tâm trạng lo lắng sâu sắc không sao giấu nổi, vì thế Natalia vừa nghe đã hiểu hết ngay. Chỉ trong một câu đó, Acxinhia đã nói lên tất cả nỗi lòng mình, đã cho thấy rõ là mình dựa vào đâu mà sống và đang lo sợ điều gì. Như thế thì về căn bản chẳng cần phải hỏi thêm về quan hệ giữa Acxinhia và Grigori làm gì, nhưng Natalia vẫn chưa bỏ về. Nàng chần chừ không trả lời ngay rồi nói: - Không, chồng tôi vẫn còn sống và còn mạnh khỏe, chị đừng sợ. - Việc gì mà tôi phải sợ, tại sao chị lại nói như thế? Chỉ có chị mới phải lo lắng về sức khỏe của anh ấy thôi, chứ tôi thì có đủ những chuyện để lo lắng rồi. - Acxinhia nói rất tự nhiên thoải mái, nhưng nàng bỗng cảm thấy máu dồn lên mặt mình, bèn bước nhanh tới chỗ cái bàn, đứng quay lưng về phía khách, sửa rất lâu ngọn đèn tuy bấc cháy vẫn đều. - Chí có nhận được tin gì về anh Stepan nhà chị không? - Mới gần đây có gửi lời hỏi thăm. - Anh ấy có khỏe mạnh không? - Có lẽ vẫn khỏe mạnh - Acxinhia nhún vai. Ngay lúc nầy nàng cũng không thể dối lòng, không thể giấu được tình cảm của mình: thái độ lãnh đạm đối với số phận của chồng lộ rõ trong câu trả lời của nàng đến nỗi Natalia bất giác phải mỉm cười. - Xem ra chị cũng chẳng lo buồn gì lắm về anh ấy… Chà, nhưng đó là việc của chị. Tôi đến đây chỉ là việc nầy: Trong thôn đang có những tin đồn nói rằng anh Grigori lại tằng tịu với chị và chị cùng anh ấy có gặp nhau hôm anh ấy về nhà. Có đúng là như thế không? - Thật là chị đã kiếm được đúng người mà hỏi! - Acxinhia nói giọng châm biếm. - Hãy để tôi hỏi chị có đúng là như thế không thì hơn. - Chị sợ nói ra sự thật à? - Không, tôi không sợ. - Nếu thế thì chị nói cho tôi biết, để tôi đỡ bị dày vò bứt rứt. Làm tình làm tội một cách vô ích như thế làm gì? Acxinhia nheo mắt, hai hàng lông mày đen lánh động đậy. - Dù sao tôi cũng chẳng thương gì chị. - Nàng nói tàn nhẫn. - Giữa tôi và chị thì như thế nầy: Tôi đau khổ thì chị sung sướng, chị đau khổ thì tôi sung sướng… Chỉ có một người đàn ông cho cả hai chúng ta mà thôi, có phải thế không? Thôi được, tôi sẽ nói sự thật với chị cho chị được biết trước. Tất cả những chuyện ấy đều đúng, thiên hạ không nói bậy đâu. Tôi đã chiếm lại Grigori và lần nầy sẽ cố hết sức không để tuột khỏi tay tôi nữa. Nào, như thế chị sẽ làm gì bây giờ? Chị sẽ vào nhà tôi đập các cửa kính hay cầm dao đâm tôi? Natalia đứng dậy, xoắn nhánh cây mềm mại, thắt lại thành cái nút, ném vào trong bếp lò rồi trả lời với vẻ cứng cỏi chưa từng thấy ở nàng bao giờ: - Bây giờ tôi sẽ không làm điều gì không tốt đối với chị đâu. Tôi sẽ chờ anh Grigori về để nói chuyện với anh ấy, rồi sau đó sẽ thấy tôi làm như thế nào với chị và anh Grigori, với cả hai người. Tôi có hai đứa con, tôi biết cách bảo vệ con tôi và tự bảo vệ mình! Acxinhia mỉm cười: - Như thế có nghĩa là tạm thời tôi có thể sống mà không phải lo điều gì nguy hiểm có phải không? Không để ý đến giọng nói nhạo báng. Natalia bước tới gần Acxinhia, sờ vào tay áo nàng. - Chị Acxinhia ạ! Tôi đã suốt đời bị chị đứng ngáng trên đường tôi đi, nhưng lần nầy tôi sẽ không van xin như xưa kia nữa đâu. Chị còn nhớ chứ? Hồi ấy tôi còn ít luổi, còn ngu xuẩn hơn bây giờ, tôi cứ nghĩ rằng mình van xin nó thì nó sẽ thương hại mình, sẽ ban ơn cho mình và nhả Griska ra. Bây giờ thì tôi sẽ không làm như thế nữa đâu! Tôi biết một điều là chị không yêu anh ấy mà chị lăng nhăng bám lấy anh ấy theo thói quen. Thử hỏi có bao giờ chị yêu anh ấy như tôi không? Chắc chắn là không đâu. Chị đã lăng nhăng với thằng Litnhitki, mà một con người trăng hoa bừa bãi như chị thì với ai mà chị không lăng nhăng? Khi người ta yêu người ta không làm như thế đâu. Acxinhia tái mặt, nàng đưa tay gạt Natalia ra, rồi đang ngồi trên chiếc rương, nàng đứng dậy. - Griska không trách tôi về chuyện ấy mà chị lại chê trách tôi à? Việc ấy thì có liên can gì đến chị? Thôi cũng được! Tôi thì xấu xa nhơ nhuốc, còn chị thì tuyết sạch giá trong. Ngoài ra còn gì nữa không? - Chỉ có thế thôi. Chị đừng giận. Tôi đi ngay đây. Cám ơn chị đã giúp tôi nhìn thấy sự thật. - Không dám, chị đừng cám ơn tôi, không có tôi chị vẫn có thể biết được. Chị hãy hượm một lát, tôi sẽ cùng ra với chị để đóng các cửa chớp. Ra đến thềm, Acxinhia dừng lại và nói: - Tôi lấy làm sung sướng, vì hai chúng ta đã chia tay nhau được êm thấm, không có đánh lộn gì cả. Nhưng chị láng giềng thân mến ạ, cuối cùng tôi muốn nói với chị như thế nầy: Nếu chị có đủ sức thì cứ giữ lấy anh ấy, bằng không cũng đừng giận. Tôi không dễ dàng buông Griska ra đâu. Tuổi tôi không còn ít ỏi gì nữa và tuy chị gọi tôi là một đứa lăng nhăng bừa bãi, nhưng tôi không phải là cái ả Daria nhà chị, với những chuyện như thế, xưa nay tôi không đùa bao giờ… Chị còn có được hai đứa con, chứ tôi, - giọng Acxinhia run lên, trầm hẳn xuống, thít đi, - Thì chỉ có một Griska trên đời nầy thôi! Người đầu tiên mà cũng là người cuối cùng đấy. Chị có biết không? Thôi chúng ta không nói đến chuyện ấy nữa. Nếu Griska còn sống, cầu Nữ hoàng trên trời che chở cho anh ấy, anh ấy về thì sẽ tự chọn lấy. Đêm hôm ấy Natalia không chợp mắt được lúc nào. Sáng hôm sau, nàng cùng với bà Ilinhitna ra rẫy cỏ vườn dưa. Những lúc làm việc, nàng cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm hơn. Trong khi hai tay hạ đều những nhát cuốc xuống những mô đất cát bị nắng hút khô tan vụn như cám thì đầu óc cũng đỡ nghĩ ngợi. Thỉnh thoảng nàng lại rướn thẳng dậy để lấy lại hơn, lau mồ hôi trên mặt và uống nước. Vài đám mây trắng bị gió tước ra như xơ mướp bay chập chờn và tan dần trên bầu trời xanh biếc. Những tia nắng hun bỏng khoảng đất đã nóng rực. Mưa lan dần tới từ phía trời đông. Natalia không ngẩng đầu lên; nhưng lưng nàng cũng cảm thấy mỗi khi có đám mây bay qua che ánh mặt trời làm không khí mát đi trong khoảnh khắc lại có một cái bóng xam xám lao rất nhanh xuống khoảng đất nâu hừng hực hơi nóng, xuống những dây dưa hấu nhánh đâm ngang dọc, những thân hướng dương cao lênh khênh. Cái bóng ấy phủ lên những mảnh vườn dưa trải ra san sát trên sườn dốc, những lớp cỏ héo hon nàm rạp xuống dưới hơi nóng ngột ngạt, những bụi sơn trà và mận dại với những đám lá héo rũ, đầy phân chim. Tiếng cun cút kêu xé ruội xé gan vang lên càng lanh lảnh hơn, tiếng hót đáng yêu của những con sơn ca nghe càng rót vào tai, thậm chí làn gió lay động lớp cỏ hấp hơi cũng có vẻ bớt nóng. Nhưng sau đó những tia nắng lại xuyên chéo qua những đường viền trắng loá của đám mây đang chập chờn trôi về phía tây rồi không còn bị vật gì ngăn giữ nữa, lại dội xuống mặt đất từng suối ánh sáng chói lọi màu vàng óng. Ở một nơi xa tít, cái bóng tiến theo đám mây vẫn còn sục sạo trên nhánh núi xanh xanh ven sông Đông và in một vết sẫm trên mặt đất, nhưng trong các vườn dưa, ánh nắng giữa trưa vàng như hổ phách vẫn hoàn toàn ngự trị một làn hơi lưu động rung rinh trườn trên đường chân trời, những mùi bốc lên trên cả khoảng đất lẫn lớp cỏ được nó nuôi sống càng ngột ngạt hơn. Đến giữa trưa, Natalia xuống cái giếng đào dưới khe lấy một bình nước nguồn lạnh như băng. Rồi nàng cùng với bà Ilinhitna uống nước, rửa tay và ăn bữa trưa ngay dưới ánh nắng chang chàng. Bà Ilinhitna cắt rất cẩn thận một cái bánh mì trên chiếc tạp dề trải dưới đất lấy trong túi dết hai cái muỗng, cái chén và lôi dưới cái áo ngắn mặc ngoài ra cái bình hẹp cổ đựng sữa chua mà bà đã giấu cho khỏi bị bắng dãi. Thấy Natalia chỉ ăn miễn cưỡng, bà mẹ chồng liền hỏi: - Đã lâu rồi tao thấy mày có cái gì khác trước thế nào đấy… Hay là giữa mày và thằng Griska lại có chuyện gì rồi? Cặp môi bị gió thổi khô nẻ của Natalia run run nom rất đáng thương: - Mẹ ạ, anh ấy đã lại ăn ở với con Acxinhia rồi. - Cái việc ấy mày hỏi đâu mà biết được? - Hôm qua con đã đến nhà con Acxinhia. - Thế cái con khốn nạn ấy nó nhận là có như thế à? - Vâng. Bà Ilinhitna nín lặng một lát, vẻ mặt đăm chiêu. Những vết nhăn nghiêm khắc lên trên khuôn mặt nhăn nheo và hai bên mép bà. - Có lẽ nó khoác lác đấy, cái con đáng nguyền rủa? - Không, mẹ ạ, đúng như thế đấy, trong chuyện nầy có gì mà… - Mày không chịu để ý theo dõi nó… - Bà già nói cách dè dặt. - Với một thằng chồng như thế thì không thể rời mắt được đâu. - Nhưng con làm thế nào mà để ý cho hết được? Con đã tin vào lương tâm của anh ấy… Chẳng nhẽ cứ buộc anh ấy vào gấu váy của con hay sao? - Natalia mỉm một nụ cười chua chát và nói thêm, giọng rất khẽ, chỉ hơi thoáng nghe thấy - Anh ấy đâu phải là một thằng Misatka mà có thể ngăn giữ được. Tóc đã trắng nửa mái đầu mà vẫn chưa chừa được tật cũ… Bà Ilinhitna lau rửa hai cái muỗng, tráng cái chén, thu dọn tất cả đồ ăn thức dùng bỏ vào túi dết rồi mới hỏi: - Tất cả tai vạ chỉ có thế thôi à? - Sao mẹ lại nói thế hả mẹ… Một cái khổ như thế cũng đủ làm người ta chán đời rồi? - Thế mày định làm gì bây giờ? - Con còn nghĩ ra một con đường nào khác nữa? Con sẽ đem hai cháu về ở bên nhà con. Con sẽ không sống với anh ấy nữa. Cứ mặc cho anh ấy đưa con ấy về nhà, ăn ở với nó. Con sống khổ sở như thế nầy đã đủ rồi. - Hồi còn trẻ tao cũng đã có lúc nghĩ như thế đấy. - Bà Ilinhitna nói qua một tiếng thở dài. - Chồng tao cũng không đứng hàng cuối trong bọn chó dái đâu. Những điều cực nhục mà ông ấy đã bắt tao phải chịu đựng thì không thể kể cho hết được. Nhưng bỏ một người chồng đầu gối tay ấp mà ra đi đâu phải chuyện dễ dàng, hơn nữa việc gì phải làm như thế? Mày hãy ngẫm cho kỹ rồi tự mày sẽ thấy rõ thôi. Mà làm cho hai đứa con mất bố thì sao cho đành? Không, mày nói như thế là nói bậy bạ. Thôi đừng có nghĩ tới chuyện ấy nữa, tao không cho phép đâu! - Không, con sẽ không sống với anh ấy nữa đâu, mẹ đừng nói vô ích. - Tao nói vô ích là thế nào hử? - Bà Ilinhitna nổi nóng. - Mà mày đối với tao là như thế nào, không phải là con cái trong nhà hay sao? Tao có thương chúng mày, hai đứa khốn kiếp nầy hay không hử? Thế mà mày lại nói với tao, với mẹ mày, với mụ già nầy những lời như thế à? Tao bảo cho mày biết: đừng có nghĩ ngợi gì nữa, thế là xong. Hãy thử xem cái ý nghĩa của mày: "Tôi sẽ bỏ nhà tôi đi" Nhưng mày sẽ di đâu bây giờ? Nhà mày còn ai cần đến mày nữa? Bố thì không còn, nhà thì bị đốt trụi, chính mẹ mày rồi cũng đến phải đi ăn mày ăn xin bên hàng rào nhà người ta mà sống, thế mà mày định mò về đấy đem cả hai đứa cháu của tao đi theo hay sao? Không, cô nàng yêu dấu ơi, mày làm như thế không được đâu! Chờ thằng Griska về, chúng ta sẽ xem nên làm như thế nào với nó, còn bây giờ mày đừng nói với tao về chuyện ấy nữa, tao không cho phép nói và không nghe nữa đâu? Tất cả những điều đã tích luỹ bao lâu nay trong lòng Natalia bất thần nổ ra thành tiếng nức nở giần giật như động kinh. Nàng rên rỉ, giựt chiếc khăn khỏi đầu, ngã sấp mặt xuống mảnh đất khô khan, thô bạo, rồi áp sát ngực xuống, thổn thức nhưng không có nước mắt. Bà Ilinhitna vốn là một bà già thông minh và dũng cảm. Bà vẫn ngồi yên chỗ cũ, bọc cái bình đựng chỗ sữa thừa vào trong cái áo, để nó vào một chỗ râm mát, rồi rót một chén nước và bước tới ngồi bên cạnh Natalia. Bà biết rằng đối với một nỗi đau khổ như thế nầy thì lời chẳng giúp được gì cả. Bà cũng biết rằng khóc được ra nước mắt thì còn tốt hơn là hai con mắt ráo hoảnh và cặp môi mím chặt. Sau khi để mặc Natalia khóc cho thoả, bà Ilinhitna đặt lên đầu con dâu bàn tay lao động đến sần sùi khô cứng của mình, vuốt vuốt làn tóc đen bóng của nàng và nói giọng nghiêm khắc: - Thôi đủ rồi! Đừng có dốc hết nước mắt đi, còn phải để dành cho lần khác. Nầy, uống lấy ít nước đã. Natalia đã lặng đi. Chỉ lâu lâu mới thấy vai nàng nhô lên một cái và cơn run khẽ lan khắp người nàng. Nhưng bất thình lình nàng nhảy chồm dậy, thấy bà Ilinhitna đang đưa cho mình chén nước bèn đẩy bà ra và quay mặt về hướng đông, chắp hai bàn tay đầm đìa nước mắt như để cầu nguyện rồi kêu lên rất nhanh, giọng nghẹn ngào: - Lạy chúa tôi! Tâm hồn con đã bị nó làm tình làm tội đến cùng cực rồi! Con không còn sức mà sống như thế nầy nữa rồi? Lạy chúa tôi, xin Người hãy trừng phạt nó, cái thằng đáng nguyền rủa ấy! Xin Người hãy quật chết nó ở ngoài ấy đi! Để cho nó đừng sống trên đời nầy đừng làm khổ con nữa! Một đám mây đen ngòm trườn cuồn cuộn từ phía đông tới. Một tiếng sấm nổ ra ầm ì. Một ánh chớp trắng loá mắt xuyên thủng những đỉnh mây tròn, loằng ngoằng bò loáng qua trên trời. Gió thổi rạp về phía tây những lớp cỏ dạt dào, thốc lên khỏi mặt đường những đám bụi đắng hắc, uốn những đoá hoa hướng dương trĩu hạt xuống gần sát mặt đất. Gió thổi bay tứ tung những món tóc rã rượi trên đầu Natalia, làm khô khuôn mặt ướt đẫm của nàng, quấn cái vạt rộng thùng thình của chiếc váy màu xám mặc thường ngày quanh hai chân nàng. Bà Ilinhitna nhìn con dâu trong vài giây với hai con mắt kinh hoàng đầy mê tín. Trên nền đám mây đen nặng đang giông bão đang bốc lên tới ngang trời, bà cảm thấy nàng trở nên xa lạ và khủng khiếp. Mưa bất thần đổ ập xuống. Bầu không khí chết lặng trước cơn giông không kéo dài mấy chốc. Một con chim lao mình chếch xuống mặt đất kêu lên mấy tiếng đầy lo âu. Có con chuột dũi rít lên đầu lần cuối cùng bên cạnh một lỗ hang. Một làn gió đặc quánh hất đám bụi cát vụn vào mặt bà Ilinhitna rồi vừa rú rít vừa bay ra đồng cỏ. Bà già đứng dậy rất khó khăn. Mặt bà hơi nhợt nhạt như mặt người chết khi bà kêu lên khàn khàn qua những tiếng ầm ầm của cơn bão đang ập tới: - Tỉnh lại đi con? Cầu Chúa cứu vớt mày? Mày cầu cho ai chết thế hử? - Lạy Chúa tôi, xin Người hãy trừng trị nó! Lạy Chúa tôi, xin Người cứ trừng phạt nó đi! - Natalia gào lên, hai con mắt rồ dại cứ đăm đăm nhìn về phía những đám mây đen bị những cơn gió xoáy dựng đứng, sáng rực lên trong những ánh chớp loá mắt, đang chất đống lên nhau, uy nghiêm và man rợ. Sấm nổ vang trên đồng cỏ với những tiếng rền khô khan. Không còn hồn vía gì nữa, bà Ilinhitna làm dấu phép, chập chững bước tới trước mặt Natalia, nắm lấy vai nàng: - Quỳ ngay xuống! Nghe thấy không, Natalia? Natalia nhìn mẹ chồng với cặp mắt như không trông thấy gì và lặng lẽ khuỵu đầu gối xuống. - Mày hãy cầu Chúa tha tội cho đi! Bà Ilinhitna ra lệnh, giọng rất oai vệ. - Mày hãy cầu Chúa đừng chấp nhận lời cầu xin của mày. Mày vừa cầu cho ai chết thế hử? Cho thằng bố của hai đứa con mày chết à? Chao ôi, tội mày to lắm đấy… Làm dấu phép đi! Cúi đầu rạp xuống đất để làm lễ đi! Nói ngay đi: "Lạy Chúa tôi, xin Người tha tội cho tôi, con đàn bà tội lỗi cực lớn nầy". Natalia làm dấu phép, lẩm bẩm không biết những gì bằng cặp môi nhợt nhạt rồi nghiến răng, nặng nề ngã vật sang bên cạnh. Được trận mưa rào rửa sạch, đồng cỏ hiện lên xanh rờn, đẹp lạ lùng. Một chiếc cầu vồng rất cong nằm uốn vòng từ cái đầm xa tít tới tận sông Đông. Sấm vẫn rền ầm ĩ ở phía dưới trời tây. Nước đục ngầu đổ ào từ trên núi xuống khe, nghe như tiếng đại bàng kêu. Những con suối sủi bọt lao như thác theo sườn dốc, qua những vườn dưa xuống dưới, tới sông Đông, cuốn theo những đám lá rụng trong trận mưa những rễ cỏ bị nước nhổ bật từ dưới đất lên, những bông mạch đen gãy gập. Những lớp cát màu mỡ tràn vào các vườn dưa, lấp cả những dây dưa hấu và dưa bở. Dọc theo các con đường dùng về mùa hạ, nước vừa chảy vừa giỡn, khơi sâu các vết bánh xe. Một đống cỏ khô bị sét đánh còn cháy nốt dưới đáy một cái khe ở đàng xa. Một cột khói màu tím ngắt bốc lên rất cao, nom như gần chạm tới đỉnh của cung cầu vồng bắc ngang vòm trời. Bà Ilinhitna và Natalia kéo cao gấu váy, rất cẩn thận đặt những bàn chân đất lên con đường bẩn thỉu trơn như mỡ, xuống dốc về thôn. Bà Ilinhitna nói: - Bọn trẻ chúng mày tính khí nóng nảy như Thiên lôi, tao nói thật đấy! Mới hơi một chút đã hoá điên hoá ngộ. Nếu mày phải qua tất cả các nông nổi của tao hồi còn trẻ thì không biết mày sẽ làm gì? Thằng Griska suốt đời không động ngón tay đánh mày, thế mà mày vẫn không vừa ý, vẫn giở những trò quái gở: hết nghĩ tới chuyện bỏ nó lại lăn đùng ra bất tỉnh, còn việc gì mà mày không làm nữa? Cả đến Chúa cũng bị mày đòi can thiệp vào những chuyện khốn kiếp của chúng mày… Chà, con yêu của mẹ, mày thử nói xem như thế có đúng hay không? Còn tao thì hồi còn trẻ tao đã bị cái lão hung thần thọt cẳng của tao đánh cho những trận thừa sống thiếu chết, mà có lý do gì đâu: tao chưa hề làm gì nên tội với lão bao giờ. Chỉ có lão làm những chuyện bẩn thỉu rồi lôi đình lại đổ lên đầu tao. Lão thường mò đi đến sáng mới về, hễ tao kêu khóc cay đắng, trách móc lão là lão thượng chẳng chân hạ cẳng tay ngay… Người bầm tím như chàm đỏ hàng tháng, nhưng tao vẫn phải sống nuôi con và chưa lần nào nghĩ tới chuyện bỏ nhà ra đi cả. Tao không nói hay cho thằng Griska đâu, nhưng với một thằng chồng như thế thì vẫn có thể sống được. Nếu không có con rắn độc kia thì có lẽ nó là thằng khá nhất trong đám Cô-dắc toàn thôn đấy. Đúng là nó bị con ấy bỏ bùa mê rồi. Natalia cứ nín thinh mà đi rất lâu, không biết đang suy nghĩ điều gì. Mãi sau nàng mới nói: - Thôi mẹ ạ, con không muốn nói về chuyện ấy nữa đâu. Phải chờ cho anh Grigori về rồi mới có thể biết con sẽ làm như thế nào… Có thể là tự con sẽ bỏ đi, cũng có thể là anh ấy sẽ đuổi con, nhưng hiện giờ con chưa bỏ mẹ đi đâu cả. - Mày sớm nói như thế có hay bao nhiêu không! - Bà Ilinhitna sung sướng nói. - Có Chúa phù hộ, mọi việc sẽ được thu xếp êm thấm thôi. Nó chẳng có cái cớ gì để đuổi mày đâu, mày đừng có nghĩ đến chuyện ấy! Nó yêu cả mày lẫn hai con nó như thế thì sao lại có ý nghĩ như vậy được? Không, không! Nó không đổi mày lấy con Acxinhia đâu, nó không thể làm như thế được đâu? Chà, giữa vợ chồng trong nhà thì thiếu gì chuyện nọ chuyện kia xảy ra? Chỉ cốt sao nó còn được sống mà trở về thôi… - Nào con có mong cho anh ấy chết đâu… Lúc nãy con chỉ nói như thế trong lúc quá nóng nảy… Mẹ đừng mắng con về chuyện ấy Con không dứt được anh ấy khỏi trái tim của con đâu, nhưng sống như thế nầy thì cực lắm? - Con yêu của mẹ? Chẳng nhẽ tao lại không biết hay sao? Nhưng mày chớ có làm chuyện gì liều lĩnh đấy. Nhưng nhớ nhé, thôi mẹ con ta đừng nói tới chuyện ấy nữa? Còn ông già thì bây giờ mày hãy vì Chúa đừng nói gì với ông ấy. Việc nầy không can gì đến ông ấy cả. - Con đang muốn nói với mẹ một việc… Con có còn ở với anh Grigori thì hiện giờ chưa biết nhưng con không muốn có con với anh ấy nữa đâu. Ngay về hai cháu, hiện giờ con cũng còn chưa biết nên làm như thế nào… Mà bây giờ con lại có mang, mẹ ạ… - Lâu chưa? - Đã sang tháng thứ ba. - Nếu thế thì làm thế nào mà tránh được? Dù muốn hay không cũng vẫn phải sinh nở cho mẹ tròn con vuông. - Con không đẻ nữa đâu. ~ Natalia nói một cách kiên quyết. - Ngay hôm nay con sẽ đến nhà mụ Kapitonovna. Mụ ấy sẽ lấy ra cho con… Mụ ấy đã làm cho vài người rồi. - Như thế là giết cái thai à, đồ mặt dày? - Bà Ilinhitna tức giận dừng lại giữa đường, vỗ hai tay đánh đét một cái. Bà còn muốn nói thêm không biết những gì, nhưng phía sau đã nghe thấy tiếng bánh xe lọc xọc, tiếng vó ngựa dẫm lõm bõm dưới bùn và tiếng một người nào đó thúc ngựa. Bà Ilinhitna và Natalia tránh khỏi lòng đường, vừa đi vừa hạ hai cái váy xắn quai cồng. Lão già Beskhlevnov Philip Agheevich ở ngoài đồng về cho chiếc xe lên ngang với hai mẹ con rồi ghìm con ngựa cái đang chạy rất nhanh. - Bà và chị ngồi lên đi, tôi sẽ đưa về, tội gì mà nhào bùn cho phí sức. - Cảm ơn cụ, cụ Agheevich, nếu không vừa đi vừa trợt chân như thế nầy thì cũng mệt lử. - Bà Ilinhitna sung sướng nói rồi ngồi lên trước trên chiếc xe rất rộng. Sau bữa trưa, bà Ilinhitna còn muốn nói thêm với Natalia, giảng giải cho nàng thấy là không cần phải cho ra thai làm gì. Bà vừa rửa bát vừa moi óc tìm những lý lẽ mà bà cho là có sức thuyết phục nhất, thậm chí còn định cho ông già biết về quyết định của Natalia để ông giúp bà khuyên giải người con dâu đang đau khổ đến hoá điên hoá dại đừng có một hành động mất trí như thế. Nhưng trong khi bà đang bận thu xếp công việc trong nhà, Natalia đã lén sửa soạn và đi mất rồi. - Con Natalia đi đâu thế? - Bà Ilinhitna hỏi Dunhiaska. - Chị ấy bọc những cái gì ấy trong một cái gói nhỏ đi ra ngoài rồi. - Nó đi đâu? Nó có bảo gì không? Cái khăn gói gì? - Con làm thế nào mà biết được hả mẹ? Chị ấy gói cái váy sạch và không biết những gì nữa vào trong khăn bịt đầu rồi đi ngay mà chẳng nói gì cả. - Tội nghiệp cho con bé! - Trước cặp mắt ngạc nhiên của Dunhiaska, bà Ilinhitna ngồi phịch xuống chiếc ghế đai, khóc nức nở một cách bất lực. - Mẹ làm sao thế hả mẹ? Cần Chúa che chở cho mẹ? Sao mẹ lại khóc thế. - Mặc tao, đồ hư. Không can gì đến mày! Nhưng nó đi có nói gì không? Mà sao lúc nó sửa soạn đi mày chẳng nói gì với tao cả? Dunhiaska bực mình trả lời: - Nói chuyện với mẹ thì chỉ khổ vào thân? Con làm thế nào mà biết được là phải nói cho mẹ biết về chuyện ấy? Nhưng chị ấy có bỏ đi hẳn đâu? Có lẽ chỉ về thăm bà cụ thôi. Mà tại sao mẹ lại khóc? Con chẳng hiểu ra sao nữa! Bà Ilinhitna chờ Natalia về, trong lòng hết sức bồn chồn. Vì sợ phải nghe những lời la mắng trách móc, bà quyết định không nói cho ông già biết. Đến khi mặt trời lặn, đàn gia súc ở ngoài đồng cỏ về thôn. Hoàng hôn xuống, một trong những buổi hoàng hôn ngắn ngủi của mùa hè. Trong thôn đã thấp thoáng vài ngọn đèn, nhưng Natalia vẫn chưa về. Nhà Melekhov, ngồi vào bàn để ăn buổi tối. Mặt tái nhợt vì lo lắng, bà Ilinhitna đặt lên bàn một món mì sợi có hành phi dầu thực vật. Ông già vun những cùi bánh mỳ rất rắn vào chiếc muỗng và dốc vào cái miệng râu ria xồm xoàm. Rồi ông ngơ ngác nhìn những người ngồi quanh bàn và hỏi: - Con Natalia đâu rồi? Sao không gọi nó ra cùng ăn? - Nó không có nhà. - Bà Ilinhitna khẽ trả lời - Thế nó đi đâu? - Có lẽ nó sang bên bà cụ và ở lại chơi bên ấy. - Nó ở chơi bên ấy lâu quá rồi đấy. Cũng đã đến lúc nó cần phải biết quy củ… - Ông Panteley Prokofievich lẩm bẩm, giọng tức tối. Nhưng bao giờ cũng vậy, ông ra sức ăn, ăn lấy ăn để. Thỉnh thoảng ông lại úp cái muỗng lên bàn, liếc nhìn thằng Misatka ngồi bên cạnh. Ánh mắt đầy vẻ thán phục rồi nói bằng một giọng thô bạo: "Quay lại đây, cháu yêu của ông, một tí thôi, để ông chùi môi cho mày. Con mẹ của chúng mày lang thang đầu đường xó chợ, không để mắt chúng mày nữa rồi"… Rồi ông đưa lòng bàn tay chai sần và đen thủi chùi cặp môi mọng hồng của thằng cháu. Cả nhà lãng lẽ ăn xong bữa tối rồi rời khỏi bàn ăn. Ông Panteley Prokofievich ra lệnh: - Vặn nhỏ đèn đi. Dầu đã hiếm thì chớ có dùng phí hoài. - Có cài then cửa không? - Bà Ilinhitna hỏi. - Cài lại - Nhưng còn con Natalia? - Nó về thì sẽ gõ cửa. Chưa biết chừng nó sẽ còn lang thang đến sáng cho mà xem. Cũng đã tập tọng cái thói ấy rồi… Mụ phù thuỷ nầy, mụ cũng chẳng chịu bảo ban gì nó cả! Lại nghĩ ra cái trò chơi ở đêm… Để sáng mai tôi sẽ bảo cho nó. Nó đã coi cái gương của con Daria rồi đấy… Bà Ilinhitna vào giường nằm nhưng không cởi áo xống. Bà nằm chừng nửa giờ, nín lặng trở mình hết bên nọ đến bên kia, chốc chốc lại thở dài. Bà vừa định trở dậy để đi đến nhà mụ Kapitonovna thì bên ngoài cửa sổ có tiếng chân bước lạo xạo, chập chững, không biết là tiếng chân ai. Bà già nhảy từ trên giường xuống với một vẻ nhanh nhẹn chẳng hợp với tuổi tác chút nào, rồi vội vã chạy ra phòng ngoài mở cửa. Natalia nhợt nhạt như người chết đang bám vào lan can nặng nề bước lên thềm nhà. Vừng trăng tròn vành vạnh chiếu sáng khuôn mặt tiều tụy, cặp mắt hõm sâu và hai hàng lông mày cong lên đau khổi. Nàng đi lảo đảo như một con thú bị thương nặng, chân bước đến đâu để lại đến đó một vết máu sẫm. Bà Ilinhitna lặng lẽ ôm lấy nàng, đỡ vào phòng ngoài. Natalia tựa lưng vào cửa, khẽ nói khàn khàn: - Nhà ta đi ngủ cả rồi à? Mẹ ạ, mẹ chùi hộ những vết máu phía sau con… Mẹ xem, con để lại những vết… - Sao mày làm khổ thân mày như thế hả con? - Bà Ilinhitna khẽ kêu lên, tiếng nức nở làm bà nghẹt thở. Natalia cố mỉm cười, nhưng thay cho nụ cười chỉ thấy mặt nàng méo đi, nhăn nhúm, nom thật là thảm hại. - Đừng nói to mẹ ạ… Nếu không sẽ đánh thức cả nhà dậy mất… - Dù sao con cũng được giải thoát rồi. Bây giờ trong lòng con đã thanh thản… Nhưng chảy nhiều máu quá… ộc ra như bị chọc tiết ấy… Mẹ đưa tay cho con vịn… Đầu óc con cứ đảo đồng. Bà Ilinhitna cài then cửa, rồi cứ như vào một nhà lạ, tay bà run rẩy sờ soạng mãi mà chẳng làm thế nào tìm thấy quả nắm cửa phòng trong bóng tối. Bà rón rén đưa Natalia vào trong đánh thức Dunhiaska, bảo cô gái ra ngoài, rồi gọi Daria và châm đèn. Cái cửa vào bếp vẫn để mở, từ trong đó đưa ra tiếng ngáy đều đặn rất to của ông Panteley Prokofievich. Con bé Poliuska vừa ngủ vừa bập môi một cách khoái trá và iắp bắp nói không biết những gì. Thật chẳng có gì kinh động được giấc ngủ say của một đứa con nít. Trong khi bà Ilinhitna đập gối, sửa soạn giường nằm. Natalia ngồi tạm trên chiếc ghế dài, đầu ngả xuống mép bàn không còn khí lực gì nữa. Dunhiaska định vào trong nhưng bà Ilinhitna nói một cách nghiêm khắc: - Cút ra ngoài kia, đồ mặt dày, đừng có vác mặt vào đây! Mày không có việc gì trong nầy cả. Daria có mang một miếng giẻ ướt ra phòng ngoài. Natalia ngửng đầu dậy một cách khó khăn và nói: - Mẹ bỏ cái khăn trải giường sạch ra… Mẹ trải cho con một tấm vải thô cũng được,… Đằng nào con cũng làm bẩn hết thôi… - Thôi im đi! - Bà Ilinhitna ra lệnh. - Cởi áo ra rồi vào nằm đây. - Con đau lắm à? Hay mẹ lấy nước cho con uống nhé! - Con thấy trong người yếu lắm… Mẹ lấy cho con cái áo sơ-mi sạch và ít nước. Natalia ráng hết sức để đứng dậy, bước tới cái giường, hai chân chập chững. Đến lúc nầy bà Ilinhitna mới thấy rằng cái váy của Natalia đẫm máu, nặng nề thõng xuống, dính chặt lấy hai chân. Bà hốt hoảng nhìn Natalia cúi xuống vắt vạt váy như người vừa bị mưa và bắt đầu cởi áo xống. - Mày bị băng hết huyết rồi còn gì. - Bà Ilinhitna nức nở. Cởi áo xống xong, Natalia nhắm mắt, hơi thở hổn hển và đứt quãng, bà Ilinhitna nhìn nàng một lát rồi cương quyết bước vào bếp. Bà phải vất vả lắm mới gọi được ông Panteley Prokofievich dậy rồi bảo ông: - Con Natalia ốm mất rồi. Nó ốm nặng lắm, chỉ lo nó chết mất… ông thắng ngựa ngay lập tức và lên trấn tìm y sĩ đi. - Mụ chỉ nghĩ ra những chuyện quỷ quái gì ấy? Nó làm sao hả? Nó ốm à? Nếu như đêm tối bớt mò mẫm… Bằng vài câu vắn tắt, bà già nói cho ông rõ tình hình. Ông Panteley Prokofievich lập tức phát khùng lên, ông nhảy trên giường bước xuống vào nhà trong, vừa đi vừa cài khuy quần. - Chà, con nhà mất dạy! Chà cái con chó đẻ? Nó lại nghĩ ra cái chuyện như thế à, hả?! Có ai bức bách nó làm như thế không? Để tao lập tức nện cho nó một trận? - Lão điên rồi hay sao, lão khốn kiếp nầy? Mò đi đâu thế nầy? Đừng vào trong ấy, nó không cần gì đến lão đâu mà vào? Lại làm hai đứa trẻ thức dậy bây giờ! Cút ra sân và thắng ngựa nhanh lên… Bà Ilinhitna muốn giữ ông già lại, nhưng ông nào có nghe, cứ bước thẳng tới trước cửa phòng trong, đạp toang cánh cửa ra. - Lại giở đến cái trò nầy nữa, quỷ dữ đẻ ra mày! - Ông đứng ở ngưỡng cửa, quát lên. Đừng vào trong nầy! Cha đừng có vào! Cha hãy vì Chúa, đừng vào trong nầy? - Natalia áp chiếc áo lót vừa cởi ra lên ngực, kêu lên bằng một giọng the thé. Ông Panteley Prokofievich văng tục một thôi một hồi bắt đầu tìm áo choàng, mũ cát két, dây thắng ngựa. Ông dềnh dàng lâu quá, đến nỗi Dunhiaska không chịu được nữa, phải nhảy xổ vào trong bếp, vừa mếu máo vừa nổ ra với bố một trận. - Có đánh xe đi nhanh lên không! Cha làm gì mà rúc loạn lên như con bọ hung trong đống phân như thế hử? Chị Natalia sắp chết đến nơi rồi mà người ta còn sửa soạn mất hàng giờ như thế nầy! Nếu không muốn đi thì cứ bảo cho tôi biết? Tôi sẽ tự thắng lấy ngựa rồi tôi đi! - Xì mày hoá ngộ rồi đấy à? Làm gì mà máy điên cuồng rồ dại như thế hử? Chỉ còn chưa nghe thấy tiếng mày nữa thôi, cái đồ ghẻ lở thối tha nầy? To tiếng cả với bố mày à, cái con đốn mạt! Ông Panteley Prokofievich vung chiếc áo choàng về phía con gái, làu bàu khẽ chửi một cầu rồi bước ra sân. Sau khi ông lên đường, mọi người trong nhà mới cảm thấy nhẹ nhàng một chút, Daria lau rửa sàn nhà kéo bàn xô ghế một cách hung dữ. Ông Panteley Prokofievich đi rồi, Dunhiaska được bà Ilinhitna cho phép vào nhà trong, bèn ngồi bên cạnh đầu giường Natalia, sửa gối, lấy nước cho nàng uống. Bà Ilinhitna chốc chốc lại ra xem hai đứa trẻ ngủ trong căn phòng bên rồi lại vào nhà trong, chống tay lên má, đứng nhìn Natalia rất lâu, đầu lắc lắc một cách đau khổ. Natalia nằm yêu không nói năng gì, đầu nàng lăn đi lăn lại trên cái gối cùng với những món tóc rũ rượi đẫm mồ hôi. Cứ nửa giờ một lần bà Ilinhitna lại nhẹ nhàng nâng nàng lên, rút cái đệm ướt đẫm ra để thay bằng một cái mới. Natalia mỗi lúc một yếu đi. Đến nửa đêm nàng mở mắt hỏi: - Trời đã sắp sáng chưa nhỉ? - Sắp sáng rồi đấy. - Bà già nói để an ủi nhưng trong bụng bà lại nghĩ: "Như thế là nó không sống được nữa rồi! Nó sợ mê đi không được trông thấy hai đứa con của nó nữa…" Tự như để chứng thực điều bà dự đoán, Natalia khẽ xin bà: - Mẹ ơi, mẹ đánh thức cháu Misatka và cháu Poliuska… - Mày làm sao thế, con yêu của mẹ? Đêm hôm khuya khoắt đánh thức chúng nó dậy làm gì? Nhìn thấy mày chúng nó sẽ sợ, sẽ khóc rầm lên… Đánh thức chúng nó làm gì? - Con muốn được thấy hai cháu… Con yếu lắm rồi. - Chúa vẫn che chở cho con, con nói gì thế? Cha sắp đưa ông y sĩ về chữa cho con bây giờ, Con yêu của mẹ, mày cố ngủ đi một lát thì hơn, thế nào? - Con bây giờ thì ngủ cái gì! - Natalia trả lời, giọng hơi có vẻ bực mình. Nhưng sau đó nàng nằm lặng đi giờ lâu, hơi thở đều đặn hơn trước. Bà Ilinhitna rón rén ra ngoài thềm, mặc cho nước mắt chảy ròng ròng. Đến lúc bà quay vào phòng trong với khuôn mặt đỏ dừ sưng húp, thì bầu trời đằng đông đã hơi bềnh bệch. Nghe thấy tiếng cánh cửa cọt kẹt, Natalia mở mắt hỏi lần nữa: - Trời sắp rạng chưa thế? - Trời đã rạng rồi. - Mẹ lấy cái áo choàng đắp chân cho con… Dunhiaska trùm lên chân nàng một cái áo choàng bằng lông cừu và sửa lại cái chăn ấm ở hai bên sườn. Natalia đưa mắt ra ý cám ơn rồi gọi bà Ilinhitna tới gần và bảo: - Mẹ lại ngồi bên cạnh con một lát, mẹ ạ, còn em, em Dunhiaska và chị, chị Daria hãy ra ngoài kia một lát, tôi có chuyện muốn nói riêng với mẹ… Cả hai ra chưa hả mẹ? - Natalia không mở mắt, hỏi. - Ra rồi. - Cha con chưa về à? - Sắp về rồi. Mày thấy khó chịu hơn hay sao thế? - Không, con vẫn thế thôi… Chuyện con muốn nói là như thế nầy… Mẹ ạ, con sắp chết đến nơi rồi… Trong lòng con đã cảm thấy như thế. Con đã mất bao nhiều là máu, thật khủng khiếp. Mẹ bảo hộ chị Daria, đề chị ấy nhóm lò, đun thật nhiều nước vào… Mẹ sẽ tự tay tắm rửa cho con, con không muốn để những người khác… - Natalia? Thôi đi, con yêu của mẹ? Sao mày cứ nói đến chuyện gở như thế? Chúa vốn nhân từ, rồi mày sẽ qua khỏi thôi. Natalia khẽ động đậy một cách yếu ớt xin mẹ chồng đừng nói nữa, rồi nàng nói tiếp: - Mẹ đừng ngắt lời con… Con nói đã thấy nhọc lắm rồi, nhưng con lại muốn nói… Đầu óc con đang quay lộn… Con đã nói với mẹ về chuyện nước nôi rồi chứ? Mà kể ra con cũng khỏe lắm… Mụ Kapitonnovna đã làm cho con từ lâu lắm, ngay sau bữa trưa, con vừa đến là làm ngay… Cũng tội nghiệp cho mụ, cả mụ ấy cũng sợ hết hồn… Chao ôi, con đã bị chảy máu nhiều quá… Chỉ cần sống được tới lúc trời sáng… Mẹ bảo đun nhiều nước vào nhé… Con muốn được chết cho sạch sẽ… Mẹ ạ, mẹ mặc cho con cái váy màu xanh lá cây cái có gấu thêu ấy… Anh Griska vẫn thích con mặc cái váy ấy và cái áo pô-pơ-lin… nó nằm trong cái rương, bên trên, dưới chiếc khăn san ấy… Còn hai cháu thì sau khi con chết rồi, mẹ cứ cho đưa hai cháu về bên nhà con… Mẹ cho đi gọi mẹ con, bảo đến ngay… Đã đến lúc con phải chia tay rồi… Mẹ lấy cái đệm lót ra cho con, ướt hết cả rồi… Bà Ilinhitna luồn tay xuống dưới lưng Natalia rút cái đệm ra, rồi nhét qua loa một cái khác. Natalia chỉ kịp lẩm bẩm: - Mẹ xoay cho con… nằm nghiêng? - Rồi nàng lập tức mê man. Ánh bình minh xanh biếc đã nhòm vào các khung cửa cổ. Dunhiaska rửa một cái thùng, ra sân gia súc vắt sữa bò. Bà Ilinhitna mở toang cửa sổ và làn hơi lạnh tươi mát, nhẹ nhàng, rất khỏe người của buổi sáng mùa hè ập vào căn phòng nhà trong nồng nặc mùi máu tươi nặng nề và mùi dầu tay đốt. Gió lay những đám lá anh đào, làm nhỏ xuống bậu cửa sổ những giọt lệ của sương mai. Vẳng có tiếng chim hót sớm, tiếng bò rống, tiếng roi của trẻ chăn bò quấn đen đét, ngút quãng và rất vang. Natalia tỉnh lại, nàng mở mắt, đưa đầu lưỡi liếm cặp môi khô khan, mất máu đã vàng ệch, xin uống nước. Cả về hai đứa con lẫn về mẹ, nàng đều không hỏi nữa. Tất cả đều rời bỏ nàng và xem ra lần nầy là vĩnh viễn… Bà Ilinhitna khép cửa sổ, bước tới bên giường. Chỉ qua một đêm mà Natalia đã thay đổi đáng sợ biết bao! Mới hôm trước nom nàng còn như một cây táo non đang độ rộ hoa, đẹp, khỏe, tràn trề sức sống, thế mà bây giờ cặp má của nàng trắng bệch hơn cả lớp đá phấn trên quả núi ven sông Đông, mũi nàng nhọn hẳn ra, môi nàng mất hết cái vẻ tươi thắm gần đây, mỏng hẳn đi và hình như khó che nổi hai hàm răng nhô ra ngoài. Riêng hai con mắt còn giữ được cái ánh long lanh trước kia, nhưng vẻ nhìn cũng đã khang khác. Có một cái gì mới mẻ, xa lạ và làm người ta sợ thoáng hiện trong cặp mắt Natalia khi lâu lâu nàng lại bị thôi thúc bởi một nhu cầu không sao giải thích được, phải ngước hai cái mi mắt xanh xanh, nhìn lướt quanh căn phòng rồi dừng lại một giây để nhìn bà Ilinhitna. Đến lúc mặt trời mọc ông Panteley Prokofievich về đến nhà. Mệt nhoài vì nhiều đêm không được chợp mắt và vì phải luôn luôn chăm sóc những người mắc bệnh thương hàn và bị thương, người y sĩ đang ngái ngủ vươn vai bước trên Xemenovsky xuống, rồi cầm lấy một cái gói nhỏ để trên ghế ngồi, bước vào trong nhà. Lên đến trên thềm, anh ta cởi áo mưa vải bạt, khom người qua lan can, rửa rất lâu hai bàn tay lông lá. Anh ta ngước nhìn Dunhiaska cầm bình nước đổ vào lòng bàn tay cho mình, thậm chí nháy mắt với cô gái hai ba lần. Rồi anh ta vào nhà trong, ở lại bên cạnh Natalia chừng mười phút sau khi bảo tất cả mọi người ra ngoài. Ông Panteley Prokofievich và bà Ilinhitna ngồi trong bếp. - Thế nào bây giờ nó thế nào rồi? - Hai người vừa bước ra khỏi phòng trong, ông già hỏi thầm thì. - Nguy lắm… - Cái việc ấy nó đã tự ý làm như thế à? - Tự nó đã quyết định làm như thế đấy… - Bà Ilinhitna tránh không trả lời thẳng vào câu hỏi. - Cho ít nước nóng mau lên? - Ngài y sĩ nhô cái đầu bù xù của anh ta ra khỏi cửa, ra lệnh. Trong khi chờ nước sôi, anh ta bước vào bếp. Thấy ông già ngước mắt nhìn có ý hỏi, anh ta khoát tay một cách tuyệt vọng: - Chỉ sống được đến bữa trưa là cùng. Băng huyết một cách khủng khiếp. Không còn làm gì được nữa rồi? Nhưng nhà ta đã báo cho ngài Grigori Panteleevich biết tin chưa? Ông Panteley Prokofievich không trả lời, vội vã khập khiễng bước ra phòng ngoài. Daria thấy ông già đi tới phía sau cái máy giặt để dưới hiên nhà kho, gục đầu vào đống phân bò khô để dành từ năm ngoái, khóc nức nở… Người y sĩ nán lại thêm chừng nửa giờ. Anh ta ngồi trên thềm nhà, ngủ gà ngủ gật dưới ánh bình minh, rồi khi nước đã sôi, anh ta lại vào phòng trong tiêm cho Natalia một phát bạc hà rồi xin ăn sữa. Anh ta phải vất vả lắm mới giữ được cho mình khỏi ngáp, uống hết hai cốc sữa và nói: - Nhà ta chở xe cho tôi về ngay bây giờ. Trên thị trấn ở chỗ tôi còn có những người ốm và bị thương, mà tôi ở lại đây cũng chẳng được tích sự gì. Tôi cũng muốn hết lòng giúp đỡ ngài Grigori Pantelevich đấy, nhưng tôi xin nói thành thực rằng tôi không thể giúp gì được nữa rồi. Chúng tôi chỉ có thể làm được những việc tầm thường, chỉ chữa được bệnh cho người ốm, còn cái việc làm cho người chết sống lại thì còn chưa học. Nhưng bác nhà ta lại đã bị họ làm cho chẳng còn gì để mà sống nữa rồi… Tử cung bị rách nát, thật quả chẳng còn chỗ nào nguyên lành. Xem ra mụ già ấy đã dùng một cái móc sắt. Đối với sự tối tăm dốt nát của chúng ta thì chẳng còn có thể làm gì được đâu? Ông Panteley Prokofievich bỏ một ít rơm lên chiếc xe ngựa bốn bánh rồi bảo Daria. - Mày sẽ đưa bác ấy về. Nhưng xuống tới sông Đông thì đừng quên cho con ngựa uống nước đấy. Ông nói với người y sĩ để anh ta nhận ít tiền, nhưng người ấy dứt khoát không nhận, làm ông già ngượng chín cả người. - Cụ Panteley Prokofievich ạ, cụ đem chuyện ấy ra nói mà không thấy thẹn hay sao. Người nhà với nhau cả mà cụ còn tiền với nong. Không, không, cụ đừng cầm tiền lại gần tôi. Làm thế nào mà cảm ơn ấy à? Chuyện ấy thì không cần nói làm gì? Nếu tôi chữa được cho bác ấy, cho con dâu cụ sống lại được thì lại là chuyện khác. Đến khi trời đã sáng, lúc khoảng 6 giờ. Natalia cảm thấy có phần dễ chịu hơn. Nàng xin được lau rửa, chải đầu trước cái gương Dunhiaska cầm hộ, đưa mắt nhìn một lượt mọi người trong nhà, ánh mắt bừng bừng một cách khác thường rồi gắng gượng mỉm cười. - Thôi bây giờ con bắt đầu đỡ rồi! Thế mà con cứ lo quá… Cứ ngỡ đối với con, tất cả thế là hết… Nhưng hai đứa nhỏ làm gì mà ngủ trưa thế nhỉ? Cô Dunhiaska, cô chạy vào xem hộ hai cháu đã dậy chưa? Mụ Lukinnhitna và con Grisápca đã đến. Mụ già nhìn con gái, khóc oà lên, nhưng Natalia nói liến thoắng, giọng xúc động: - Sao mẹ lại khóc hả mẹ! Con cũng không đến nỗi đâu… Mẹ và em có phải đến để đưa đám con đâu? Chà, thật ra có gì mà phải khóc như thế? Con Grisapca khẽ đụng vào người mẹ nó. Mụ kia chợt hiểu ra bèn lau ngay nước mắt, an ủi con: - Sao mày lại nói thế, con yêu của mẹ, mẹ chảy nước mắt cũng chỉ vì ngớ ngẩn đấy thôi. Nhìn thấy mày, lòng mẹ đau thắt lại… Nhưng mày thay đổi quá nhiều… Khi nghe tin thằng Misatka nói và tiếng con Poliuska cười, hai gò má Natalia hơi ửng lên: - Gọi chúng nó vào đây? Gọi chúng nó mau lên? - Nàng bảo. - Chúng nó cứ vào rồi hãy mặc quần áo cũng được… Con Poliuska bước vào trước. Đến ngưỡng cửa nó đứng lại, đưa nắm tay lên dụi cặp mắt ngái ngủ. - Mẹ của con ốm mất rồi… - Natalia mỉm cười nói. - Lại đây với mẹ đi, con gái yêu của mẹ! Con Poliuska ngạc nhiên nhìn những người lớn ngồi nghiêm trang trên những chiếc ghế dài, rồi vừa bước tới gần mẹ nó vừa nói giọng buồn rầu: - Sao mẹ không đánh thức con dậy? Và tại sao mọi người đều đến tất cả như thế nầy. - Đến thăm mẹ đấy… Nhưng con thì mẹ đánh thức con dậy làm gì? Con sẽ lấy nước cho mẹ uống, sẽ ngồi với mẹ… - Thôi, con ra ngoài lau rửa đi, chải đầu, cầu kinh xong rồi lại vào đây ngồi với mẹ. - Thế mẹ có dậy ăn sáng không? - Mẹ không biết. Có lẽ không đâu. - Thế thì con sẽ mang vào đây cho mẹ nhé, có được không hả mẹ? - Thật hệt như bố nó, nhưng trái tim nó không giống bố nó, dịu dàng hơn nhiều… - Natalia mỉm một nụ cười yếu ớt, ngả đầu ra sau, rồỉ bất chợt thất lạnh, vội lấy chân kéo căng cái chăn. Một giờ sau, Natalia yếu đi. Nàng vẫy ngón tay gọi hai con lại với mình, ôm lấy chúng nó, làm dấu phép, hôn chúng nó rồi xin mẹ đưa chúng nó về bên mụ. Mụ Lukinhitna bảo con Grisapca dẫn hai đứa bé ra ngoài còn mình thì ở lại bên con gái. Natalia nhắm mắt nói như trong cơn mê: - Thế là mình không còn được nhìn thấy anh ấy nữa rồi… - Sau đó tựa như chợt nhớ ra điều gì, nàng nhỏm dậy rất nhanh. - Cho cháu Misatka quay lại đây! Con Grisapca mếu máo đẩy thằng bé vào phòng trong, còn nó thì đứng lại trong bếp, rên rỉ kể lể rất khẽ. Thằng Misatka rụt rè bước tới gần cái giường với khuôn mặt âm thầm và hai con mắt chẳng có vẻ gì âu yếm của nhà Melekhov. Những nét biến đổi đột ngột trên mặt mẹ nó làm mẹ nó nom khác hẳn, gần như không thể nhận ra được nữa. Natalia kéo thằng con trai của nàng vào với mình và cảm thấy trái tim nhỏ nhoi của thằng Misatka đập thình thịch rất nhanh, y như trái tim của một con chim sẻ bị bắt. - Cúi xuống với mẹ đi, con trai của mẹ? - Natalia bảo nó. Nàng rỉ tai thằng Misatka không biết những gì, nói xong đẩy nó ra, mím chặt cặp môi run run, nhìn vào mắt nó một cách thăm dò, rồi gượng nở một nụ cười đau khổ, rất đáng thương và hỏi nó: - Con không quên chứ? Con sẽ nói chứ? - Con không quên đâu… Thằng Misatka nắm lấy ngón tay trỏ của mẹ nó, giữ chặt trong nắm tay nhỏ xíu, nóng hổi của nó chừng một phút rồi buông ra. Nó rời khỏi cái giường, không hiểu sao chân đi rón rén, hai tay lủng lẳng… Natalia đưa mắt nhìn theo nó ra đến cửa rồi lặng lẽ quay mặt vào tường. Đến giữa trưa thì nàng qua đời. 49. Lúc trời bình minh, mưa bắt đầu rơi tí tách. Gió thổi vù vù. Một đám mây đen nặng giông bão ùn ùn kéo tới từ phía trời đông. Trời vừa hửng, mấy gã chiến sĩ trung đoàn Xerdovsky ở cùng nhà với Stokman và Kotliarov đã dậy và đi đâu không biết. Nửa giờ sau, một đảng viên cộng sản người trấn Elanskaia tên là Tolkachev chạy vào. Cũng như Stokman và hai đồng chí của anh, Tolkachev cũng mới sáp nhập với trung đoàn Xerdovsky. Tolkachev mở cửa, hổn hển gọi to. - Stokman, Kosevoi, có nhà không? Ra ngoài nầy đi! - Có chuyện gì thế? Cậu vào đây đã nào! - Stokman bước ra phòng ngoài, vừa đi vừa lồng tay vào áo ca-pôt. - Cậu vào đây đã! - Tai hoạ rồi! - Tolkachev bước theo Stokman vào căn phòng thứ hai, vừa đi vừa khẽ nói. - vừa nãy ở ngay gần thị trấn… ở ngay gần thị trấn, bọn bộ binh đòi tước vũ khí của đại đội pháo vừa từ Krutovsky kéo tới đây. Hai bên đã bắn nhau… Anh em pháo binh đã đánh bật được cuộc tấn công, họ đã tháo quy-lát các khẩu pháo rồi dùng thuyền chạy sang bên kia sông… - Thế à thế à? - Kotliarov vừa hấp tấp hỏi vừa rên rỉ lồng chiếc ủng vào bên chân bị thương. - Còn bây giờ ở bên cạnh nhà thờ đang họp mít-tinh… Toàn trung đoàn… - Sửa soạn nhanh lên! - Stokman ra lệnh cho Kotliarov và nắm lấy tay áo bông của Tolkachev. - Chính uỷ đâu? Các đồng chí đảng viên khác đâu? - Tôi không biết… Có người bỏ chạy, còn tôi thì tôi đến với các đồng chí. Chúng nó đã chiếm nhà dây thép, không cho ai vào… P-hải chạy đi mới được! Nhưng làm thế nào chạy được bây giờ? - Tolkachev hoảng hốt ngồi phịch xuống nắp chiếc rương, hay tay buông thõng giữa hai đầu gối. Giữa lúc ấy ngoài thềm có tiếng chân bước ầm ầm, chừng sáu gã Hồng quân thuộc trung đoàn Xerdovsky cùng ập vào trong nhà. Mặt chúng đỏ bừng bừng, đầy vẻ kiên quyết và hung hãn. - Các đảng viên cộng sản ra họp mít-tinh! Nhanh lên! Stokman đưa mắt cho Kotliarov rồi nghiêm nghị mím chặt môi. - Ta ra thôi! - Để vũ khí lại! Có phải là ra chiến đấu đâu? - Một gã trong trung đoàn Xerdovsky nói, nhưng Stokman tựa như không nghe thấy, cứ khoác khẩu súng trường lên vai rồi bước ra trước. Trên quảng trường, một ngàn một trăm cái họng cùng gào lên đủ giọng. Không thấy có mặt những người dân trấn Ust-Khopeskaia. Họ sợ có chuyện gì xảy ra (trước hôm đó một ngày khắp trấn đã có những tin đồn nói rằng gần như chắc chắn trung đoàn sẽ chạy theo quân phiến loạn và trong trấn sẽ có thể xảy ra những trận chiến đấu với quân cộng sản). Stokman đi đầu, bước tới đám binh sĩ trung đoàn Xerdovsky đang rào rào như một bầy ong. Anh đưa mắt tìm xem có người nào trong số cán bộ chỉ huy trung đoàn không. Chính uỷ trung đoàn bị giải đi qua chỗ anh. Hai tên giữ tay anh ta. Bị thúc sau lưng, mặt nhợt nhạt, người chính uỷ trung đoàn bị đẩy sâu vào trong đám binh sĩ Hồng quân tập họp không ra đội hình gì cả. Stokman mất hút anh ta trong vài phút, nhưng một lát sau đã thấy anh ta đứng giữa đám đông trên một cái bàn kiểu dùng để đánh bài lôi không biết ở nhà ai ra. Stokman ngoái nhìn lại. Sau lưng anh, Kotliarov khập khiễng đứng tì tay lên khẩu súng trường, bên cạnh anh là mấy gã chiến sĩ Hồng quân cùng ra theo lúc nãy. - Các đồng chí Hồng quân! - Tiếng người chính uỷ vang lên yếu ớt - Ngay giữa lúc quân địch đang ở sát nách chúng ta… Các đồng chí… Bọn kia đã không để cho nói tiếp. Bên cạnh cái bàn những chiếc mũ lông màu xám của Hồng quân ngả nghiêng như bị gió bay, những mũi lưỡi lê màu xanh lơ đưa đi đưa lại, những bàn tay nắm chặt vươn về phía cái bàn. Những tiếng kêu gọn lỏn vang lên hung dữ như những phát súng trên khắp quảng trường: - Không còn đồng chí đồng choé gì nữa? - Lột cái áo da của nó ra! - Quân lừa đảo! - Mày đưa chúng tao đi đánh ai hử? - Lôi cẳng nó xuống! - Quạng cho nó một trận? - Xỉa cho nó một nhát lưỡi lê? - Không còn có chính uỷ chính iếc gì nữa rồi? Stokman nhìn thấy một tên Hồng quân khổng lồ đã có tuổi leo lên cái bàn, đưa tay trái ra nắm lấy chòm râu đỏ xén ngắn của người chính uỷ. Chiếc bàn ngật ngưỡng, và cả tên Hồng quân lẫn người chính uỷ đều lăn xuống những nắm tay đang vươn lên quanh cái bàn. Ở chỗ vừa nãy còn là cái bàn đánh bài thì nay chỉ thấy lúc nhúc một đống áo ca-pốt xám xịt. Tiếng kêu đơn điệu và tuyệt vọng của người chính uỷ chìm trong những tiếng la thét hoà lẫn với nhau, dội lên như sấm. Stokman chạy bổ ngay tới chỗ đó. Anh cố sống cố chết tay đẩy, chân đá len qua những cái lưng mặc áo ca-pốt xám đứng sát sin sít rồi gần như chạy tế tới chỗ người chính uỷ vừa nói lúc nãy. Bọn kia không ngăn giữ anh mà chỉ cần đấm anh dùng báng súng đánh vào lưng, vào gáy anh, giật lấy khẩu súng trường trên vai anh và cái mũ lông Cô-dắc đỉnh đỏ trên đầu anh. - Mày đi đâu thế nầy, đồ quỷ dữ? Một gã Hồng quân bị Stokman dẫm đau chân nổi giận quát lên. Một gã trung đội trưởng lùn choằn choằn chặn đường Stokman bên cạnh chiếc bàn nhỏ bị lật chỏng gọng. Chiếc mũ màu xám của gã may bằng lông cừu mới đội lật ra tới sau gáy, cái áo ca-pốt mở phanh, mồ hôi chảy ròng ròng trên khuôn mặt đỏ gạch, cặp mắt sáng bừng bừng lác xệch đi, long lanh một niềm phẫn nộ ghê gớm. - Mầy len đi đâu hử? - Có lời muốn nói! Có lời muốn nói với anh em binh sĩ? - Stokman nói giọng khàn khàn, lấy lại hơi một chút rồi chỉ nháy mắt đã kê lại cái bàn. Những tên xung quanh thậm chí còn giúp anh leo lên bàn. Song trên quảng trường vẫn còn dội lên tiếng gào thét phẫn nộ. Stokman hết sức gân cổ thét lên: - Yên la-ă-ặng! – Và nửa phút sau, khi những tiếng ồn ào đã lắng xuống, anh cố nén cơn ho, nói bằng một giọng phá ra: - Anh em chiến sĩ Hồng quân! Thật nhục nhã cho anh em! Anh em phản bội chính quyền nhân dân trong giờ phút gian nan nhất? Giữa lúc đang cần có một bàn tay cứng cỏi móc vào tim gan quân thù thì anh em lại dao động! Giữa lúc chính quyền Xô viết đang nghẹt thở trong vòng vây của quân thù thì anh em họp mít-tinh! Anh em đang mấp mé ngả sang trực tiếp phản bội rồi đấy! Tại sao vậy? Những thằng chỉ huy phản bội của anh em đã đem anh em bán cho bọn tướng tá Cô-dắc! Chúng nó là những thằng sĩ quan cũ, chúng nó đã phụ lòng tin cậy của Chính quyền Xô viết, chúng nó lợi dụng sự tối tăm ngu dốt của anh em, muốn đem thg đoàn ra đầu hàng quân Cô-dắc. Anh em hãy mau mau tỉnh ngộ! Chúng nó đang muốn dùng bàn tay của anh em để bóp chết chính quyền công nông đấy! Tên cựu thiếu uý Vaixminste đại đội trưởng đại đội hai đứng ngay gần cái bàn giương khẩu súng trường lên vai, nhưng Stokman nhìn thấy cử động của nó bèn quát lên: - Mày không được làm thế! Muốn giết tao thì lúc nào chẳng giết được? Tao muốn nói một lời với các chiến sĩ đảng viên cộng sản đã! Chúng ta là những người cộng sản. Chúng ta đem hết máu trong tim mình, từng giọt từng giọt… - Giọng Stokman chuyển thành một giọng nam cao căng thẳng nghe rất đáng sợ, mặt anh nhợt nhạt như mặt người chết, méo xệch -… ra phục vụ giai cấp công nhân, phục vụ tầng lớp nông dân bị áp bức. Chúng ta đã quen dũng cảm giương mắt nhìn thẳng vào cái chết? Các người có thể giết được tôi… - Chuyện ấy nghe mãi rồi? - Nện cho nó một trận đi! - Hãy để cho người ta nói đã? - Thôi câm cái mồm đi! - Có thể giết được tôi, nhưng tôi nhắc lại: anh em mau tỉnh ngộ? Đừng họp mít-tinh nữa, mà phải đi đánh bọn Trắng ngay! - Stokman nheo hẳn hai con mắt nhìn qua đám Hồng quân đã bắt đầu nín lặng, nhận ra tên trung đoàn trưởng Voronovsky đứng ngay gần mình. Thằng nầy đứng sát vai một tên chiến sĩ Hồng quân nào đó, mỉm cười ngượng nghịu và đang rỉ tai thằng nầy không biết những gì - Thằng trung đoàn trưởng của anh em… Stokman giơ tay chỉ vào mặt tên Voronovsky. Tên nầy đưa tay lên che miệng, thì thào không biết những gì với tên Hồng quân đứng bên cạnh. Stokman chưa kịp nói hết câu thì trong bầu không khí nặng hơi ẩm của trận mưa đầu mùa tháng Tư đã nổ ra một phát súng trầm trầm. Tiếng súng trường nổ ra không hết sức, nghe rất nhỏ chỉ như một tiếng roi quất, nhưng Stokman đã chộp tay lên ngực, ngã khuỵu xuống, bộ tóc bạc phơ trên cái đầu trần rũ xuống… Nhưng anh lập tức lảo đảo đứng dậy. - Yosif Davydovich! - Kotliarov trông thấy Stokman đứng chồm dậy bèn rên rỉ nhảy xô tới, nhưng bọn kia đã nắm lấy khuỷu tay anh khẽ bảo: - Câm đi! Đừng có dính vào! Đưa súng đây, đồ khốn nạn! Chúng tước vũ khí của Kotliarov, lục soát các túi của anh, lôi anh ra khỏi quảng trường. Ở các nơi khác trên quảng trường, chúng cũng tước vũ khí và bắt giữ các đảng viên. Trong một cái ngõ, gần ngôi nhà rất đẹp của một lão lái buôn bỗng nổ ra liên tiếp năm sáu phát súng: một đảng viên xạ thủ súng máy đã bị giết vì không chịu trao khẩu Levis. Trong khi đó Stokman đã nhợt ra như một cái xác chết, những bọt máu xùi ra hồng hồng hai bên mép. Anh lắp bắp như lên cơn kinh giật, đứng lảo đảo một phút trên chiếc bàn chơi bài, rồi thu hết sức lực và ý chí còn lại, cố kêu lên: - Chúng nó đã đưa các người tới chỗ lầm lỗi! Bọn phản bội… Chúng nó tìm cách lập công chuộc tội, kiếm những cái lon mới… Nhưng chủ nghĩa cộng sản sẽ sống mãi! Các đồng chí…! Hãy tỉnh ngộ! Tên Hồng quân đứng bên cạnh Voronovsky lại giương súng lên vai lần nữa. Một phát súng thứ hai hất Stokman ngã ngửa, lăn từ trên bàn xuống chân đám chiến sĩ Hồng quân. Rồi một thằng lính trong trung đoàn Xerdovsky nhảy rất lẹ lên bàn, với cái miệng rộng hoác, hai hàm răng bàn cuốc, bộ mặt rỗ nhằng rỗ nhịt. Nó gào lên oang oang: - Ở đây chúng ta đã được nghe đủ mọi lời hứa hẹn, nhưng các đồng chí thân mến ạ, tất cả chỉ là những lời bịa đặt trâng tráo và hăm doạ mà thôi. Cái thằng hùng biện râu dài nầy đã lăn quay xuống đây rồi, nhưng một con chó thì chỉ đáng hưởng cái chết của một con chó! Phải giết bọn cộng sản, những kẻ thù của nông dân lao động đi! Các đồng chí, anh em thân mến, tôi nói rằng bây giờ thì mắt chúng mình cũng được mở to rồi. Chúng ta đã biết chúng ta phải chiến đấu chống kẻ nào! Ở huyện Vonsky chúng tôi chẳng hạn, thử hỏi chúng nó đã nói những gì? Bình đẳng, hữu ái giữa các dân tộc! Bọn cộng sản, những thằng lừa bịp ấy đã nói như thế đấy… Nhưng thật ra tình hình là như thế nào? Ngay cha tôi đã có viết cho tôi một bức thư đầy nước mắt, báo tin chúng nó đang ăn cướp giữa ban ngày! Chính ông cụ đã bị chúng nó lấy hết thóc lúa và có cái nhà máy xay bé tí tẹo chúng nó cũng tịch thu. Nhưng sắc lệnh có tuyên bố là làm như thế với người nông dân lao động hay không? Mà cái nhà máy xay nhỏ ấy là do bố mẹ tôi quần quật đổ mồ hôi mới kiếm được. Tôi thử hỏi các đồng chí, như thế chẳng phải là một sự cướp bóc của bọn cộng sản là gì? Phải diệt cho hết bọn cộng sản đi! Tên hùng biện nầy đã không nói được hết lời. Từ phía tây hai đội đội của quân phiến loạn đã cho ngựa chạy nước kiệu tiến vào trấn Ust-Khopeskaia. Bộ binh Cô-dắc cũng kéo tới theo sườn phía nam của dãy núi ven sông Đông. Tên thiếu uý Bogatyrev lữ trưởng lữ đoàn độc lập của quân phiến loạn đã có mặt cùng với nửa đại đội bảo vệ lữ đoàn bộ. Mưa lập tức đổ ào ào bên dưới đám mây đen vừa bay từ phía đông tới và ở một nơi nào đó bên kia sông Đông, những tiếng sấm rền trầm trầm truyền lan trên sông Khop. Trung đoàn Xerdovsky vội vã tập họp ngay thành hàng ngũ, các hàng quân đều phân làm hai. Nhóm cưỡi ngựa trong lữ đoàn của Bogatyrev vừa xuất hiện trên núi, tên cựu thượng uý Voronovsky đã gầm lên bằng một giọng phát từ trong họng như của loài chim ưng mà các chiến sĩ Hồng quân chưa từng nghe thấy bao giờ. Trung đo-o-oàn! Nghi-i-iêm!… 50. Grigori Melekhov ở lại thôn Tatarsky năm ngày. Trong những ngày ấy chàng đã gieo cho nhà mình và cho mẹ vợ vài đê-xi-a-chin lúa mì. Vừa thấy ông Panteley Prokofievich từ đại đội về nhà, chấy rận như sung, người gầy rộc đi vì buồn nhớ công ăn việc làm, chàng đã sửa soạn ngay để trở về đơn vị. Sư đoàn của chàng vẫn còn đóng dọc theo sông Tria như trước, Kudinov có viết bức thư mật báo cho chàng biết về những sự đàm phán bắt đầu tiến hành với ban chỉ huy trung đoàn Xerdovsky và đề nghị chàng trở về nắm quyền chỉ huy sư đoàn. Hôm ấy Grigori sửa soạn đi Karginskaia. Đến giữa trưa, trước khi lên đường, chàng dắt con ngựa ra sông Đông cho nó uống nước. Trong khi xuống dốc tới chỗ mặt nước lên sát chân hàng rào các vườn rau, chàng nhìn thấy Acxinhia. Không biết nàng thật quả có cố ý chùng chình thẫn thờ múc nước để chờ Grigori hay chỉ là chàng có cảm tưởng như thế, nhưng Grigori đã bất giác rảo bước và trong cái giây phút ngắn ngủi trước khi chàng tới sát Acxinhia, một loạt những hồi ức vừa tươi sáng vừa buồn thảm đã loáng qua trong đầu óc chàng… Nghe thấy những tiếng chân bước, Acxinhia quay lại. Nét mặt nàng có vẻ ngạc nhiên, cái ngạc nhiên đúng là giả vờ, nhưng niềm vui sướng trước cuộc gặp gỡ và nỗi đau buồn qua bao nhiêu năm đã làm cho nàng không giấu được gì cả. Nàng mỉm cười, vẻ luống cuống và đáng thương trong nụ cười không hợp với khuôn mặt kiêu hãnh của nàng đến nỗi trái tim của Grigori bất chợt run lên với cả một niềm thương hại và trìu mến. Chàng bỗng cảm thấy buồn nhớ đến đau nhói trong lòng và những hồi ức ập tới đã hoàn toàn chi phối chàng. Grigori ghìm cương con ngựa và nói: - Chào Acxinhia, Acxinhia yêu quý! - Chào anh. Trong giọng nói khe khẽ của Acxinhia có hàm những tình cảm hết sức khác nhau: vừa ngạc nhiên, vừa âu yếm, vừa đau khổ. - Chúng ta không nói chuyện với nhau đã lâu rồi đấy nhỉ? - Đã lâu rồi. - Cả đến giọng nói của Acxinhia tôi cũng không còn nhớ nữa… - Nhanh quá nhỉ. - Nhanh quá ấy à? Grigori nắm đoạn dây buộc mõm, giữ con ngựa đứng sát vào mình. Acxinhia cúi đầu cố mắc đòn gánh vào một quai thùng nhưng chẳng làm thế nào mà mắc được. Hai người đứng lặng một phút. Như một sợi dây câu lăng thẳng ra xa, một con vịt trời bay vụt qua đầu hai người với một tiếng vút dài. Sóng nước đập vào khoảng vách đứng liếm mãi không chán những tảng đá xanh biếc. Những làn sóng bạc đầu dồn lại với nhau nom như đàn cừu ở chỗ ven rừng bị nước lên to tràn vào. Gió phả tới một lớp bụi nước li ti, kèm theo một mùi nhạt thếch bốc lên từ dòng nước hùng vĩ của sông Đông đang cuồn cuộn tuôn về vùng hạ du. Grigori chuyển tầm mắt từ khuôn mặt Acxinhia ra sông Đông. Với những thân cây trắng nhợt, đám tiêu huyền bị ngâm nước lắc lư những cái cành trơ trụi. Những cây liễu đâm chồi nảy lộc xum xuê rũ những chùm hoa nom như hoa tai của những cô gái và vươn lên khỏi mặt nước như những đám mây nhẹ lâng màu xanh lá cây hết sức kỳ lạ. Grigori hỏi, giọng hơi đượm vẻ bực mình và phiền muộn: - Sao thế? Chẳng nhẽ hai chúng mình không còn có gì để nói với nhau nữa hay sao? Tại sao Acxinhia cứ nín thinh như thế? Nhưng Acxinhia đã lấy lại được bình tĩnh. Không một thớ thịt nào rung động trên khuôn mặt đã trở lại lạnh lùng của nàng khi nàng trả lời: - Có lẽ chúng ta có gì đã nói hết cả rồi… - Thật vậy ư? - Tất nhiên là như thế rồi? Cây cối cũng chỉ nở hoa mỗi năm một lần… - Acxinhia cho rằng cái cây của chúng ta đã tàn hết hoa rồi hay sao? - Thế còn chưa à? - Tất cả những việc trước đây thật lạ lùng thế nào ấy… - Grigori cho con ngựa ra tới làn nước rồi nhìn Acxinhia với nụ cười âu sầu. - Nhưng tôi thì, Acxinhia ạ, tôi chẳng làm thế nào dứt bỏ được hình ảnh Acxinhia khỏi trái tim tôi. Hai đứa con tôi đã lớn, chính tôi đã bạc trắng nửa mái đầu, giữa hai chúng ta đã có bao nhiêu năm ngăn cách như một cái vực sâu… Thế mà tôi vẫn một niềm nhớ tới Acxinhia. Trong những giấc mơ tôi vẫn còn thấy Acxinhia và cho đến nay vẫn còn yêu Acxinhia. Có những lúc tôi nhớ tới Acxinhia, nhớ lại hồi chúng ta ở nhà Litnhitki… hai chúng ta đã yêu nhau như thế nào… và những hồi ức ấy đã làm cho tôi… Có những lúc nghĩ lại toàn bộ cuộc đời của mình, Acxinhia ạ, tôi thấy đời tôi chỉ như một cái túi rỗng, lộn lần trong ra lần ngoài… - Tôi cũng thế thôi… Nhưng tôi phải về đây… Chúng ta nói chuyện với nhau quên hết mọi việc rồi. Acxinhia cương quyết nhấc đôi thùng, đặt hai bàn tay rám nắng xuân lên cái đòn gánh cong veo. Nàng đã bắt đầu lên dốc, nhưng bất thần quay mặt nhìn Grigori, gò má hơi ửng đỏ, nom rất trẻ. - Tôi nhớ rằng hình như mối tình của chúng ta bắt đầu ngay ở bến sông nầy, anh Grigori nhỉ. Anh có nhớ không? Hôm ấy là ngày tiễn tráng đinh Cô-dắc đến trại quân dịch, - Nàng mỉm cười, giọng nói đã rắn rỏi và có cái gì, vui vui. - Tôi còn nhớ hết! Grigori dắt con ngựa về sân gia súc, buộc bên cạnh máng ăn. Vì còn phải đưa tiễn Grigori, từ sáng ông Panteley Prokofievich chưa đi bừa. Ông bước từ dưới hiên nhà kho ra và hỏi: - Thế nào, sắp lên đường rồi chứ? Lấy ít thóc cho ngựa nhé! - Lên đường đi đâu bây giờ? - Grigori ngơ ngác nhìn bố. - Mầy làm sao thế? Đi Karginskaia chứ còn đi đâu? - Hôm nay con không đi đâu. - Sao lại thế? - Thay đổi ý kiến rồi… Có thế thôi… - Cái nóng trong người làm môi Grigori khô cả lại. Chàng liếm môi, ngước mắt nhìn trời. - Mây kéo đến ùn ùn, sắp mưa rồi đấy, tội gì mà giơ đầu ra hứng lấy mưa? - Chẳng tội gì thật đấy, - Miệng ông già nói đồng ý nhưng trong lòng lại không tin Grigori chút nào, vì mới trước đó mấy phút, ông đứng trong sân gia súc nhìn ra thấy Grigori nói chuyện với Acxinhia trên bến sông. "Chúng nó lại thậm thụt với nhau rồi, - Ông già lo lắng nghĩ thầm. - Hình như nó đã lại có chuyện lủng củng với con Natalia rồi thì phải… Chà, mẹ cái thằng Griska nầy chứ? Cái thói chó dái ấy không hiểu nó thừa hưởng ở ai nhỉ? Chẳng nhẽ ở mình?". Ông Panteley Prokofievich ngừng tay rìu, thôi không vát đoạn gỗ bạch dương trên chiếc xe ngựa nữa. Ông nhìn theo cái lưng gù gù của thằng con đang bỏ đi, cố moi rất nhanh trong trí nhớ để hồi tưởng thời trai trẻ của mình, rồi ông nhận định dứt khoát: "Đúng là ở mình rồi, con quỷ dữ! Mà còn hơn cả bố nó là khác, thằng khốn nạn! Phải nện cho nó một trận để nó cạch không làm mê mẩn đầu óc cái con Acxinhia ấy nữa, khỏi làm rối loạn gia đình. Nhưng bây giờ làm thế nào mà nện được nó?". Xưa kia mà ông Panteley Prokofievich nhìn thấy Grigori nói chuyện tay đôi với Acxinhia ở xa chỗ có người thì nhất định ông sẽ không đắn đo gì cả, sẽ vớ luôn bất cứ cái gì để nện vào lưng chàng. Nhưng lần nầy ông luống cuống không nói được gì cả, thậm chí thần sắc cũng không để lộ là mình đã đoán ra những nguyên nhân thực tế làm cho Grigori đột nhiên hoãn ngày lên đường. Và tất cả chỉ vì ngày nay Grigori không còn là "thằng Griska", không còn là một thằng thanh niên Cô-dắc ngang ngạnh như xưa nữa, mà đã trở thành một vị sư đoàn trưởng, tuy không có lon, nhưng dù sao cũng là một "ông tướng" soái lĩnh hàng mấy ngàn gã Cô-dắc mà bây giờ tất cả mọi người đều phải gọi là ngài Grigori Panteleevich. Làm thế nào mà ông Panteley Prokofievich nầy, một kẻ trước kia bất quá leo được đến cấp hạ sĩ, lại dám giơ tay đánh một vị tướng, dù ông tướng ấy là con đẻ của mình? Tinh thần phục tùng cấp trên thậm chí còn không cho phép ông Panteley Prokofievich nghĩ tới điều đó, vì thế ông cứ cảm thấy mối quan hệ giữa mình và Grigori nó đã trở nên gò bó, nhạt nhẽo thế nào ấy! Muôn tội đều chỉ vì Grigori được thăng cấp nhanh chóng lạ lùng như thế? Hôm đi cày đến ngày thứ ba, thậm chí Grigori đã quát ông: "Nầy, ông làm gì mà cứ đứng há hốc miệng ra như thế? Khiêng cái cày lại đây!". Ông Panteley Prokofievich đã nhịn nhục chịu dựng, không hé răng nửa lời… Trong thời gian gần đây hai cha con tựa như đã thay đổi cương vị: Grigori thường quát tháo người cha già nua, còn ông Panteley Prokofievich thì hễ nghe thấy cái giọng chỉ huy khàn khàn của chàng là luống cuống, khập khiễng đi với cái chân tàn tật, cố làm cho thằng con vừa lòng… "Nó lo trời mưa à? Nhưng làm quái gì có mưa, gió thì thổi đằng đông mà giữa đỉnh trời mới có một đám mây thì lấy đâu ra mưa! Hay mình bảo cho con Natalia biết chăng?" Ông Panteley Prokofievich hiểu vỡ lẽ, đã lật đật đi vào trong nhà, nhưng ông nghĩ đi nghĩ lại sợ xảy ra chuyện lục đục, nên lại quay ra với đoạn gỗ trên xe chưa vát xong… Còn Acxinhia thì vừa về đến nhà nàng đã đổ hai thùng nước rồi bước tới trước mảnh gương nhỏ ghép trên bếp lò, bồi hồi nhìn đi nhìn lại mãi khuôn mặt đã già đi nhưng vẫn còn rất đẹp của mình. Mặt nàng vẫn còn giữ được cái vẻ đẹp lẳng lơ mê người như xưa, tuy mùa thu của cuộc đời đã phủ lên cặp má của nàng những màu héo hắt, làm mí mắt nàng úa vàng, dệt thêm vài sợi bạc như tơ nhện lẫn trong làn tóc mun và làm mờ đi cái ánh long lanh trong con mắt nàng ngày nay đã thoáng một vẻ mệt mỏi bi thảm. Acxinhia đứng đấy một lát rồi đi tới bên cái giường, nằm úp mặt xuống khóc nức nở, những giọt nước mắt tràn trề, làm nhẹ lòng nhẹ dạ. Đã lâu lắm nàng không được khóc một lần nào như thế nầy rồi… Mùa đông, trên một khoảng sườn dốc đứng của dãy núi ven sông Đông, những luồng gió lạnh thường lồng lộn xoáy tròn, gào rú trên một đoạn dốc mọc lồi hẳn ra ngoài mà người ta thường gọi là "Thằng trộm". Những đợt gió đông lạnh buốt thốc lên những đám tuyết vụn trắng bong trên ngọn gò trọc, cho rơi xuống, rồi lại quét thành đống, đống nọ chồng lên đống kia. Tuyết ụn lại như núi bên trên cái vách đứng, nắng chiếu vào lấp loáng như đường kính, lúc hoàng hôn thì xanh cta trời, sáng sớm thì tím nhạt và khi mặt trời mới mọc thì hồng hồng. Ụn tuyết ấy sẽ còn lắt lẻo trên đó, chết lặng một cách rùng rợn, cho đến khi hơi nóng của những ngày tuyết tan đục khoét nó từ bên dưới hay những trận gió thốc tới từ bên sườn làm cho chính bản thân sức nặng của nó kết liễu đời nó. Và khi đó, bị hút xuống dưới, nó sẽ đổ xuống với những tiếng êm êm, trầm trầm, sẽ đè bẹp trên đường những bụi kim tước thấp lè tè, sẽ dúi gãy những cây sơn trà e thẹn nép mình bên sườn dốc, sẽ ào ào kéo theo sau một cái vạt váy toàn bụi tuyết trắng như bạc nó bông lên, sực lên, bốc mù mịt lên trời… Ba năm nay, tình cảm của Acxinhia đã tích lại như ụn tuyết chồng chất tầng tầng lớp lớp kia, chỉ chờ có một cái gì đẩy hết sức khẽ. Cuộc gặp mặt với Grigori, lời chào âu yếm của chàng: "Chào Acxinhia, Acxinhia yêu quý." đã tạo ra sức đẩy ấy. Thế còn chàng? Chẳng nhẽ chàng không phải là người mà nàng yêu quí hay sao? Mấy năm nay chàng không phải là người mà nàng mong nhớ hàng ngày, hàng giờ, và những ý nghĩ rối bời trong đầu óc nàng chẳng phải đều hướng về chàng hay sao? Dù cho nghĩ gì, dù cho làm gì, tâm tư của nàng lúc nào cũng gắn bó với chàng, không bao giờ xa rời, không bao giờ đổi khác. Hoàn toàn không khác gì con ngựa mù đi quanh cái vòng kéo nước giếng… Acxinhia nằm lì trên giường đến chiều mới dậy, hai con mắt khóc đến sưng húp. Nàng rửa mặt, chải đầu, hấp tấp mặc áo xống, nhưng chải chuốt như cô gái sắp có người đến xem mặt. Nàng mặc một chiếc sơ-mi sạch, một cái áo len màu huyết dụ, chít khăn lên đầu, nhìn lại mình loáng một cái trong gương rồi bước ra ngoài. Ánh hoàng hôn phủ lên thôn Tatarsky một màu xanh xám. Ở một chỗ nào đó trên đoạn khuỷu sông mênh mang nước lũ có vài con vịt trời hốt hoảng kêu quàng quạc. Vầng trăng nhợt nhạt, không sức sống, lên cao dần từ sau dãy tiêu huyền ven sông Đông. Ánh trăng trải dài trên làn nước con đường xanh xanh sóng gợn lăn tăn. Đàn gia súc trên đồng cỏ đã quay về thôn từ lúc trời còn sáng. Vài con bò cái ăn cỏ non chưa đẫy bụng kêu í ới trong mấy cái sân. Acxinhia không vắt sữa con bò nhà nàng. Nàng đuổi con bò non mũi trắng ra khỏi chuồng, đẩy nó ra với con bò mẹ. Con bò non hối hả đạp hai chân sau, vẫy vẫy đuôi, rúc mõm lên cái vú tóp của mẹ, nom vẻ rất háu ăn. Ả Daria nhà Melekhov vừa vắt sữa bò xong. Ả đang trở vào nhà trong với cái thùng và cái rót sữa trong tay thì bên kia hàng rào có tiếng gọi: - Chị Daria! - Ai thế? - Tôi đây, Acxinhia đây… Mời chị tạt sang bên tôi một lát. - Chị cần gì đến tôi thế? - Cần lắm! Chị ra đi! Lạy Chúa tôi! - Tôi rót xong sữa sẽ ra ngay. - Thế tôi đợi chị cạnh sân gia súc nhé. - Được rồi? Một lát sau Daria bước ra. Acxinhia đang đợi ả bên cái cửa xép nhà nàng. Người Daria đang toả ra mùi sữa bốc hơi ấm ấm và mùi sân nuôi gia súc. Daria rất ngạc nhiên khi thấy Acxinhia không vén gấu váy mà ăn vận rất đẹp, rất sạch sẽ. - Chị láng giềng nhà tôi dọn dẹp xong xuôi sớm quá nhỉ. - Không có ông Stepan ở nhà, công việc của tôi cũng gọn thôi. Nhà chỉ có một con bò cái, việc bếp nước gần như không phải làm gì. Chỉ nhấm nháp ừ đồ nguội là xong… - Chị gọi tôi có việc gì thế? - Mời chị vào nhà tôi một lát. Có chút việc… Giọng Acxinhia run run. Daria đã mơ hồ đoán ra mục đích của câu chuyện, bèn lặng lẽ vào theo. Không châm đèn, Acxinhia vừa bước vào trong nhà đã mở chiếc rương, lục lọi trong đó một lát rồi đưa hai bàn tay vừa khô vừa nóng nắm lấy tay Daria và vội vã lồng vào ngón tay Daria một cái nhẫn. - Sao chị lại làm như thế? Một cái nhẫn phải không? Chị cho tôi đấy à? - Biếu chị đấy! Biếu chị đấy. Làm một vật kỷ niệm… của tôi… - Bằng vàng có phải không? - Daria vừa hỏi bằng một giọng rất thiết thực vừa bước ra cửa sổ, giơ cái nhẫn nho nhỏ trên ngón tay ra ngắm dưới ánh trăng bềnh bệch. - Bằng vàng đấy. Chị giữ lấy mà đeo! - Chà, lạy Chúa tôi? Chị cần gì mà lại cho tôi như thế nầy? - Chị gọi hộ tôi… gọi ông ông Grigori nhà chị. - Lại cái chuyện ấy à? - Daria mỉm cười có vẻ đã đoán ra. - Không, không đâu! Chao ôi, sao chị lại nói thế? - Acxinhia hoảng sợ đỏ mặt, chảy cả nước mắt. - Tôi cần phải nói với ông ấy về chuyện Stepan… May ra cũng xin được cho Stepan về nghỉ phép ít bữa… - Thế sao chị không sang nhà chúng tôi? Chị đã có công việc cần đến chú ấy thì có thể sang nói với chú ấy chứ? - Daria nói giọng ranh mãnh. - Không, không… Natalia có thể lại nghĩ thế nọ thế kia… Không tiện đâu… - Thôi được rồi, tôi sẽ gọi. Tôi cũng chẳng thương gì hắn. Grigori đã ăn tối xong. Chàng vừa buông cùi dìa xuống, liếm mút chòm ria dính mứt hoa quả và đưa mu bàn tay lên chùi thì cảm thấy dưới gầm bàn, không rõ chân ai chạm vào chân mình. Chàng nhìn lên thì thấy Daria hơi nháy mắt ra hiệu cho mình. "Nếu ả muốn mình thay thế anh Petro vừa mồ yên mả đẹp và nói gì với mình về chuyện ấy thì mình phải nện cho ả một trận mới được. Mình sẽ lôi ả ra sân đập thóc, tốc váy chụp lên đầu quật cho một mẻ như đánh một con chó cho mà xem!" - Chàng tức sôi lên, bụng bảo dạ như vậy. Suốt thời gian gần đây, chàng chỉ cau cau có có mặc cho chị dâu ve vãn mình. Chàng đứng dậy, rời khỏi bàn ăn, châm thuốc hút và lững thững bước qua cửa. Daria gần như lập tức cùng ra theo. Lúc đi qua trước mặt Grigori ở phòng ngoài, Daria sát ngực vào người chàng, khẽ nói: - Nầy, đồ vô lương tâm! Ra ngoài kia đi… Người ta gọi đấy. - Ai thế? - Grigori khẽ hỏi. - Người ta. Một giờ sau, lúc Natalia và hai con đã ngủ say, Grigori mặc một chiếc áo ca-pốt cài hết khuy, cùng Acxinhia bước ra khỏi cửa sân gia súc nhà Astakhov. Hai người lặng lẽ đứng một lát trong cái ngõ tối om rồi cũng lặng lẽ như thế đi ra đồng cỏ, nơi bầu không khí trầm lặng tối đen và hương cỏ ngây ngất đang thu hút họ. Grigori mở tà áo ca-pốt, ôm siết Acxinhia vào mình và cảm thấy người nàng run lên, tim nàng đập thình thịch rất thưa, rất mạnh dưới làn áo… 51. Ngày hôm sau trước khi ra đi, Grigori đã phải có vài lời biện bạch với Natalia. Nàng gọi chàng ra một chỗ rồi khẽ hỏi: - Đêm qua anh đi đâu thế? Anh ở đâu mà về muộn thế? - Làm gì mà muộn? - Không muộn thì còn gì nữa? Em tỉnh dậy lúc gà gáy đợt đầu vẫn chẳng thấy anh đâu… - Kudinốp đã đến đây. Anh phải đến chỗ hắn dự cuộc họp về công việc quân sự của anh. Đó không phải là chuyện đầu óc đàn bà các em lo được. - Nhưng tại sao hắn không lại nhà ta nghỉ đêm? - Hắn vội đi ngay Vosenskaia ngay. - Thế hắn vào ở nhà ai? - Nhà Abosenkov. Hình như nhà nầy có họ xa với hắn thì phải. Natalia không hỏi thêm gì nữa. Có thể thấy là nàng có phần xiêu xiêu, nhưng ánh mắt vẫn kín dáo, vì thế Grigori vẫn không thể biết được rằng nàng có tin mình hay không. Chàng ăn vội vã bữa sáng. Ông Panteley Prokofievich ra thắng ngựa, còn bà Ilinhitna thì làm dấu phép, hôn Grigori và khẽ nói rất nhanh: - Con, con ơi… mầy đừng quên mất Chúa đấy! Người ta đồn rằng mày đã chém những người lính thuỷ… Lạy Chúa tôi! Nhưng Griska ạ mầy phải tỉnh ngộ lại mới được! Mầy hãy xem kìa, mầy còn có hai đứa con phải nuôi cho khôn lớn, và có lẽ những người bị mầy chém chết cũng để lại những đứa con thơ… Chao ôi, sao lại có thể làm như thế được? Hồi còn bé mầy dịu dàng, mầy đáng yêu như thế, mà bây giờ mầy cứ sống với cặp lông mày nhíu lại như thế nầy. Mầy hãy cẩn thận, khéo không tim mầy biến thành tim lang tim sói mất đấy. Mầy phải nghe lời mẹ, Griska ạ? Mầy cũng chẳng phải là có bùa phép gì, lưỡi gươm của kẻ ác rồi cũng có thể tìm thấy cái cổ của mầy thôi… Grigori mỉm một nụ cười chẳng có gì vui vẻ, chàng hôn bàn tay khô héo của mẹ rồi bước tới trước mặt Natalia. Nàng ôm hôn chàng một cách lãnh đạm rồi quay đi ngay. Trong cặp mắt ráo hoảnh của nàng, Grigori không nhìn thấy một giọt lệ nào mà chỉ nhận thấy một vẻ chua chát và nỗi căm uất thầm kín… Chàng chia tay với hai con rồi lên đường… Chàng đưa chân giữ bàn đạp, nắm lấy đám lông bờm ngựa cứng như rễ tre và không hiểu sao tự nhiên có ý nghĩ: "Chà, thế là cuộc đời mình lại chuyển theo hướng mới rồi, nhưng trái tim mình vẫn cứ lạnh lẽo và trống rỗng như cũ… Xem ra thì cả Acxinhia cũng không lấp nổi chỗ trống ấy đâu…" Bố mẹ, vợ con đứng túm tụm bên cạnh cổng nhà, chàng cũng chẳng ngoái nhìn lại, cứ cho ngựa đi bước một theo dọc phố. Khi đi qua nhà Astakhov, chàng liếc nhìn vào trong cửa sổ thấy Acxinhia đứng trong cái khung cửa sổ trên bức tường phía sau ở phòng trong. Nàng mỉm cười giơ một chiếc khăn thêu vẫy chàng, nhưng lại lập tức vo chiếc khăn áp lên miệng, lên cặp mắt thâm quầng sau một đêm mất ngủ… Grigori cho con ngựa chạy một nước kiệu rất nhanh dùng trên đồng không. Đến lúc con ngựa lên dốc, chàng nhìn thấy trên con đường mùa hè có hai người cưỡi ngựa và một chiếc xe bò đang từ từ tiến từ phía trước lại. Chàng nhận ra hai người cưỡi ngựa là gã Anchip, con lão "Vua nói phét" và Stremiannhikov, một gã Cô-dắc còn trẻ, đen thủi, nhỏ bé nhưng táo tợn, ở đầu thôn. "Chúng nó lại mang xác những thằng bị giết về rồi", Grigori nhìn chiếc xe bò, đoán như vậy. Chưa tới chỗ hai gã Cô-dắc, chàng đã hỏi: - Các cậu chở ai thế? - Aleksey Samin, Tomilin Ivan và Yakov "Móng lừa". - Chết trận à? - Ngỏm rồi! - Bao giờ thế? - Hôm qua trước lúc mặt trời lặn. - Đại đội pháo còn nguyên vẹn chứ? - Còn nguyên. Bọn Đỏ đã bao vây các pháo thủ của chúng ta trong nhà chúng nó ở tại Kalinovyi Ugol. Còn Samin thì bị chúng nó chém chết một cách hết sức… ngớ ngẩn! Grigori bỏ mũ, tụt trên ngựa xuống. Người đàn bà Cô-dắc đã nạ dòng, dân vùng sông Tria, đang đánh chiếc xe bèn cho hai con bò đứng lại. Grigori còn chưa kịp bước tới chỗ chiếc xe thì một làn gió hiu hiu đã đưa tới mũi chàng một mùi nhạt nhạt lợm lợm. Aleksey Samin nằm giữa, cái áo trermen cũ rích màu lam của hắn mở phanh, bên tay áo rỗng xếp dưới cái đầu bị bổ đôi. Bọc trong một miếng giẻ bẩn thỉu, mẩu còn lại của cái tay cụt từ lâu lắm rồi, trước kia vẫn hay động đậy như thế, bây giờ nằm áp chặt trên lồng ngực nở nang không còn chút hơi thở nào nữa. Một vẻ phẫn nộ rất là man rợ mãi mãi ngưng đọng trên cái miệng của Aleksey với hai hàm răng trắng nhởn nhe ra trong lúc chết, nhưng hai con mắt he hé vẫn nhìn bầu trời xanh ngắt, nhìn những đám mây bập bềnh trôi trên đồng cỏ một cách bình thản, và tựa như âu sầu, mơ mộng… Mặt Tomilin thì không còn nhận ra được nữa. Thật ra đó không còn là một bộ mặt mà chỉ là một cái gì đỏ lòm chẳng ra hình thù gì cả với vết một nhát gươm róc chéo. Yakov "Móng lừa" nằm nghiêng, mặt vàng như nghệ, cổ vẹo hẳn đi vì đầu gã đã bị chém gần lìa khỏi cổ. Chiếc áo quân phục cổ chui mầu cứt ngựa mở phanh cho thấy cái xương quai xanh bị chém đứt, và trên trán, phía trên con mắt một chút có một vết đạn bê bết những máu nom như hình một ngôi sao đầy những tia đen xịt. Có lẽ một người nào đó trong đám chiến sĩ Hồng quân thương gã Cô-dắc chết quá đau đớn, đã bồi thêm cho gã một phát đạn gần sát miệng súng, vì thế trên mặt gã Yakov "Móng lừa " đã chết vẫn còn in một vết bỏng và những điểm thuốc đạn đen đen. - Thôi anh em ạ, chúng ta hãy hút điếu thuốc để tưởng nhớ ba anh em cùng thôn, cầu cho hương hồn các cậu ấy được yên nghỉ. - Grigori nói rồi bước sang bên cạnh, tháo cái dây đai bụng lồng dưới yên ngựa, mở dây buộc mõm và cuốn dây cương vào chân trước bên trái của con ngựa, mặc cho nó đi ăn những lá cỏ xanh rờn, bóng nhoáng như lụa, lên thẳng vút như những mũi tên. Anchip và Stremiannhikov vui vẻ xuống ngựa, buộc hai chân sau hai con ngựa và thả cho ăn cỏ. Cả ba nằm xuống. Họ hút thuốc. Grigori ngắm con bò mộng đầy những tụm lông bết lại từng đám còn chưa rụng, đang vươn cổ tới những khoảng cỏ xa tiền ngắn củn. Chàng hỏi: - Thế Samin đã chết như thế nào? - Anh Panteleevich ạ, anh có thể tin rằng hắn đã chết do một sự ngớ ngẩn của chính hắn hay không? - Sao thế? - Anh thử xem, câu chuyện như thế nầy nầy, - Stremiannhikov bắt đầu kể. - Hôm qua, lúc trời xế chiều, chúng tôi ra đi trinh sát. Chính Platov Riaptrikov đã phái chúng tôi đi dưới quyền chỉ huy của một tay quản… Anchip nhỉ, cái tay quản đi cùng với chúng mình hôm qua tên là gì nhỉ? - Ôn dịch nào biết được? - Cũng chẳng sao, mặc mẹ hắn! Hắn ở một đại đội khác, chúng tôi không quen. Pha-a-ải… Thế là chúng tôi ra đi, tất cả có mười bốn thằng Cô-dắc, Samin cũng có trong số đó. Hôm trước đó hắn phởn suốt ngày, vì thế xem ra trong lòng hắn cũng chẳng cảm thấy trước điều gì cả! Trên đường đi hắn cứ ngọ nguậy mẩu tay cụt, ném dây cương lên mũi yên và bảo: "Chà, không biết bao giờ cái anh chàng Grigori Panteleevich của chúng mình mới về nhỉ? Chỉ mong được cùng với anh chàng ấy tuý luý và ca hát một chầu thôi?" Thế là hắn cứ cất cái giọng cao như giọng con nít của hắn mà hát cho đến khi tới gò Latysevsky: Như loàng trùng Ta sà xuống núi đồi Súng Berdanca nào ta bắn! Toàn thể anh em Cô-dắc sông Đông! Thế là chúng tôi cứ cho ngựa đi như vậy tới khoảng đất trũng gần khe Tovkaia. Đến đấy tay quản bảo. "Các cậu ạ, chẳng thấy bóng vía bọn Đỏ đâu cả. Có lẽ chúng nó còn chưa mò ra khỏi làng Axtakhovaya đâu. Bọn mu-gích chúng nó lười chảy thây, đâu có chịu dậy sớm, có lẽ đến bây giờ mới đang rán gà của bọn khô-khon để ăn bữa trưa. Bọn mình hãy nghỉ một lát đã, kẻo con ngựa nào cũng đẫm mồ hôi rồi". Chúng tôi bảo: "Được thôi, cũng chẳng sao". Thế là chúng tôi xuống ngựa, nằm xuống cỏ và cắt một cậu lên ngọn gò cảnh giới. Chúng tôi nằm đấy một lát. Tôi nhìn ra thì thấy anh chàng Aleksey đã yên nghỉ đây, luẩn quẩn giờ lâu bên cạnh con ngựa của hắn và tháo cái đai bụng. Tôi bèn bảo hắn: "Aleksey nầy, cậu đừng tháo đai bụng ra thì hơn, nếu không, cầu Chúa tránh cho cái tội đó, nhỡ chúng mình phải tức tốc đi ngay thì sao? Mà cậu thì làm thế nào buộc lại đai bụng với cái tay tàn tật của cậu được?" Nhưng hắn vẫn nhăn nhăn nhở nhở: "Mình làm những việc ấy còn nhanh hơn cậu nhiều? Một thằng nhãi ranh như cậu mà dám lên mặt dạy mình à?, Thế là hắn tháo đai bụng, tháo cả dây buộc mõm ngựa. Chúng tôi nằm đấy, cậu thì hút thuốc, cậu thì kể chuyện cổ tích, có cậu lại thiu thiu ngủ. Trong khi đó cái cậu cảnh giới của chúng tôi cũng ngủ. Hắn nằm ở đấy, dưới chân một cái kurgan nhỏ rồi ngủ khuấy đi mất. Nhưng tôi chợt nghe thấy như đằng xa có tiếng ngựa thở phì phì. Tôi ngại chẳng muốn dậy chút nào, nhưng cuối cùng vẫn cứ đứng dậy rồi mò từ dưới chỗ lòng chảo lên ngọn gò. Lên đến trên ấy nhìn xuống thì thấy chỉ cách chúng tôi chừng một trăm bước có một bọn Đỏ đang cưỡi ngựa đi dưới khe. Đi đầu là thằng chỉ huy của chúng nó cưỡi con ngựa màu hạt dẻ. Con ngựa của nó đúng là một con sư tử. Chúng nó mang theo cả một khẩu súng máy loại băng tròn. Tôi bèn chạy lao ngay xuống lòng chảo, kêu rầm lên: "Có bọn Đỏ! Lên ngựa!" Và có lẽ chúng nó cũng trông thấy tôi. Lập tức chúng tôi nghe thấy bên chúng nó có tiếng ra lệnh, bèn nhảy ngay lên ngựa. Tay quản rút gươm, muốn xông lên xung phong. Nhưng xung phong xung phiếc cái gì, vì bên ta chỉ có mười bốn, còn chúng nó thì đến nửa đại đội, lại có cả một khẩu súng máy! Chúng tôi bèn cưỡi ngựa bỏ chạy. Chúng nó nã súng máy bắn quét theo. Song cái khe đã cứu chúng tôi, vì tuy chúng nó có trông thấy chúng tôi, song khẩu súng máy không bắn tới được. Khi đó chúng nó bèn đuồi theo chúng tôi. Nhưng ngựa của chúng ta tốt hơn, chúng tôi chạy thoát. Sau khi chạy đã khá xa, chúng tôi lăn từ trên ngựa xuống, bắt đầu bắn lại. Mãi lúc ấy mới thấy rằng Aleksey Samin không còn có mặt trong số chúng tôi nữa. Như thế tức là trong lúc mọi người đang nháo cả lên, hắn cũng ra lấy ngựa. Nhưng có lẽ khi hắn đưa bên tay lành ra nắm lấy mũi yên, chỉ có một chân lồng vào bàn đạp, còn cái yên thì tuột xuống dưới bụng ngựa. Samin chưa nhảy được lên lưng ngựa thì đã chạm trán với bọn Đỏ. Nhưng con ngựa vẫn chạy theo chúng tôi, hai lỗ mũi như phụt lửa, cái yên vẫn lủng lẳng dưới bụng. Nó sợ hết hồn hết vía, không để cho ai lại gần và cứ thở phì phì như một con quỷ dữ! Aleksey đã toi mạng như thế đấy! Nếu hắn không tháo cái đai luồn qua đệm yên thì có phải vẫn còn sống không? Đằng nầy… - Stremiannhikov mỉm một nụ cười sau hàng ria đen đen, kết thúc câu chuyện. - Hôm kia anh chàng cứ luôn miệng hát: Nầy hỡi ông gấu, Bò tôi ông xơi, Đầu lâu tôi ông moi sạch… Bây giờ thì đúng là đầu lâu hắn đã bị chúng nó moi sạch… Mặt hắn không còn nhận ra được nữa! Ở chỗ ấy, máu trong người hắn chảy ra nhiều như một con bò bị chọc tiết ấy… Sau đó, khi đã đánh lui bọn Đỏ, chúng tôi quay về chỗ lòng chảo thì thấy hắn vẫn còn nằm đấy. Bên dưới người hắn có một vũng máu lênh láng, xác hắn cứ như nổi lên trên ấy. - Thế nào, sắp đi chửa? - Người đàn bà đánh xe sốt ruột, kéo chiếc khăn bịt đầu che nắng ra khỏi miệng rồi hỏi. - Cái nhà thím nầy, đi đâu mà vội mà vàng. Sắp về đến nơi rồi đấy! - Không vội thế nào được? Những cái xác nầy xông lên cái mùi nặng đến lảo đảo cả người đây nầy. - Làm thế nào mà có một mùi nhẹ nhàng được? Mấy thằng vừa chết đây trước kia vừa nhai thịt lại vừa mò đàn bà. Mà thằng nào đã làm những trò ấy thì chưa chết cũng đã bắt đầu có mùi rồi. Thiên hạ đồn rằng chỉ những ông thánh thì chết đi mới có mùi thơm, nhưng theo tôi thì cái chuyện ấy là láo toét. Thành gì thì thánh, chứ đã chết rồi thì theo qui luật tự nhiên, anh chàng nào cũng đều thối hoăng như một chuồng xí công cộng. Thánh gì thì thánh cũng vẫn phải tọng thức ăn vào bụng và lòng ruột cũng vẫn dài đủ số ba mươi ác-sin mà Chúa đã ban cho con người… - Anchip nói có vẻ tư lự. Nhưng không hiểu sao Stremiannhikov tự nhiên phát khùng lên, gã quát to: - Nhưng cậu cần đến các ông thánh làm cái quái gì? Dính dáng với thánh với thần làm cái gì? Thôi ta đi đi! Grigori chia tay với hai gã Cô-dắc rồi bước tới gần chiếc xe bò từ biệt ba gã đồng hương vừa qua đời. Mãi lúc nầy chàng mới nhận thấy rằng cả ba đều chân không và dưới chân chúng có lót những cái ống của ba đôi ủng. - Sao lại tháo ủng của người chết như thế nầy? - Anh Grigori Panteleevich ạ, đó là anh em Cô-dắc chúng tôi làm bậy đấy. Ủng của mấy cậu vừa chết đều còn tốt. Anh em trong đại đội bèn bàn nhau tháo những đôi ủng tốt ra, cho mấy cậu đang phải đi ủng xấu, còn ủng xấu thì đem về thôn. Vì người chết cũng còn có gia đình. Để cho con cái mấy cậu nầy đi thừa ủng xấu cũng được. Cậu Anikey đã bảo thế nầy: "Người chết thì không phải đi bộ, cũng không phải cưỡi ngựa nữa. Các cậu hãy cho mình đôi ủng của Aleksey, đế còn tốt lắm. Nếu không mình chờ đến khi lột được đôi bốt-tin của một thằng Đỏ thì đã chết cóng rồi". Grigori bỏ đi. Chàng đi rồi còn nghe thấy hai gã Cô-dắc cãi nhau rất hăng. Stremiannhikov quát lên bằng một giọng nam cao lanh lảnh: - Cậu chỉ nói láo, Brekhovich[284] ạ! Chính vì thế mà ngay ông già cậu cũng đã được gọi là "Vua nói phét" rồi đấy! Dân Cô-dắc làm quái gì có ông thánh nào? Tất cả các ông thánh đều xuất thân mu-gích cả. - Không, có đấy chứ? - Nói láo như con chó dái ấy! - Không, có đấy! - Thế ai nào? - Thánh Egori Vô địch[285] thì sao? - Xi-i-ì? Thôi im đi, đồ ôn dịch? Ông thánh ấy mà là dân Cô-dắc? - Chính cống dân sông Đông đấy, sinh ở một trấn miền dưới, hình như là Xemicara Korskaia thì phải. - Chà, lại còn cố nói liều! Đầu tiên phải suy nghĩ cho kỹ rồi hãy nói. Ông ấy không phải là dân Cô-dắc đâu! - Không phải là dân Cô-dắc ấy à? Thế tại sao người ta lại vẽ ông ấy với một ngọn giáo? Sau đó Grigori không còn nghe thấy gì nữa. Chàng thúc ngựa chạy nước kiệu, xuống một cái khe nhỏ, và khi vượt qua con đường của các vị Ghet-man, chàng lại nhìn thấy chiếc xe bò và hai gã cưỡi ngựa từ từ xuống dốc về thôn. Cho tới khi về gần tới Karginskaia, Grigori vẫn cho con ngựa chạy nước kiệu. Ngọn gió hiu hiu giỡn trong bờm con ngựa không đổ mồ hôi một lúc nào. Vài con chuột đồng lông nâu nâu, mình dài ngoẵng chạy qua đường, chúng sợ hãi kêu chi chí. Tiếng chuột rít nghe chọc vào tai như báo trước điều gì và phù hợp một cách lạ lùng với bầu không khí trầm mặc hùng vĩ đang ngự trị trên đồng cỏ. Vài con gà nước đực bay vụt lên trên những ngọn gò, những đường gờ hai bên đường. Một con gà nước nhỏ hối hả đập cánh rất nhanh, bay lên cao, bộ lông trắng muốt như tuyết phát ra những tia lấp lánh dưới nắng. Khi lên đến đỉnh trời, nom nó như nổi dập dờn trên khoảng mênh mông xanh ngắt, cổ nó vươn thẳng ra trong đà bay vun vút với cái vòng màu nhung đen đánh đai chung quanh như một cái vòng cưới. Con gà nước bay mỗi lúc một xa, nhưng sau khi bay được chừng một trăm xa-gien, nó bắt đầu xuống thấp, cánh vỗ càng gấp hơn, và có vẻ như đứng yên một chỗ. Đến khi nó xuống tới sát mặt đất hai đám lông cánh sáng rực lóe lên lần cuối như ánh chớp trắng loá trên cái nền xanh rờn của đủ mọi thứ cỏ, và con gà nước bị làn cỏ nuốt mất, không để lại tăm tích gì nữa. Chỗ nào cũng nghe thấy cái tiếng "tơ-rrgi" của những con gà nước đực kêu gọi đắm đuối, sôi nổi. Khi lên đến đúng đỉnh một ngọn gò ven sông Tria, Grigori ngồi trên yên nhìn thấy cách đường cái vài bước có một chỗ gà nước đạp mái; một khoảng đất tròn bằng phẳng, đường kính rộng tới một ác-sin rưỡi, đã bị dẫm rất chắc dưới chân những con đực đánh nhau để tranh cướp con mái. Bên trong chỗ đạp mái nầy không thấy còn sót sợi cỏ nào: khắp mặt là một lớp bụi màu xám rất phẳng lấm tấm những vết chân chim nom như những chữ thập nhỏ. Nhưng chung quanh cái khoảng đó, trên những cành cỏ dại và ngải cứu khô còn bám đầy những cái lông phấp phới trước gió, với những nét lằn vằn rất nhạt trên một cái nền hồng hồng. Đó là lông lưng và lông đuôi của những con gà nước đánh nhau. Gần đấy có con mái xấu xí, lông xám xịt nhảy ra khỏi tổ. Nó gù gù cái lưng như một bà cụ, lon ton đạp rất nhanh hai cái chân nhỏ xíu, chạy xuống dưới một bụi cỏ đôn-nhích héo quắt còn lại từ năm ngoái rồi trù trừ không muốn vỗ cánh bay lên, lủi ngay vào trong bụi. Do hơi xuân, một sức sống hừng hực, mãnh liệt, tràn trề, dồn dập như tiếng tim đập sôi nổi, nhưng mắt người không nhìn thấy, đang tràn ngập đồng cỏ. Cỏ tốt bời bời. Chim muông cũng như những con thú lớn nhỏ đã thành đôi thành lứa đều lẩn tránh con mắt hau háu tàn bạo của con người để trốn đi yêu nhau trong những cái tổ kín đáo trên đồng cỏ. Hằng hà sa số những mầm lúa mọc lên nhọn hoắt trên những khoảng đất cày. Chỉ có loại cỏ dại "bay theo gió" mọc năm ngoái đã sống hết đời cỏ là ủ rũ gục đầu trên sườn những nấm Kurgan xưa kia dùng làm vị trí cảnh giới rải rác khắp đồng cỏ và áp mình xuống đất như xin được che chở. Song những làn gió nhẹ mát rượi và đầy sức sống vẫn tàn nhẫn bẻ gãy tận gốc những đám cỏ khô giòn và thổi lăn đi ngang dọc trên khắp vùng đồng cỏ vừa sống lại dưới ánh nắng chói chang. *** Grigori về tới Karginskaia trước khi trời hoàng hôn. Chàng cho ngựa chạy qua sông Tria, và trong tàu ngựa gần một trang trại Cô-dắc, chàng đã tìm thấy Riaptrikov. Sáng hôm sau chàng nhận lại từ tay Riaptrikov quyền chỉ huy các đơn vị của sư đoàn Một hiện đang đóng rải rác ở các thôn. Chàng đọc qua mấy bản tin tóm tắt mà bộ tư lệnh vừa gửi tới, trao đổi ý kiến với tham mưu trưởng sư đoàn Mikhail Kopylov rồi quyết định tấn công về phía nam tới làng Axtakhovo. Các đơn vị thiếu đạn tới mức nguy ngập. Muốn kiếm được đạn thì phải chiến đấu để cướp lấy. Đó cũng là mục đích chủ yếu của trận tấn công mà Grigori quyết định tiến hành. Trước khi trời hoàng hôn, ba trung đoàn kỵ binh và một trung đoàn bộ binh được điều về Karginskaia. Trong số hai mươi hai khẩu vừa trung liên vừa trọng liên hiện có trong sư đoàn, chỉ quyết định mang theo sáu khẩu, vì các khẩu kia không có băng đạn. Sáng hôm sau sư đoàn xuất phát tấn công. Trên đường đi, Grigori để sư đoàn bộ ở lại một nơi nào đó, nắm quyền chỉ huy trung đoàn kỵ binh số ba, phái những đội trinh sát kỵ bị thăm dò phía trước, rồi tiến quân về phía nam, theo hướng làn Ponomanov theo đội hình hành quân. Theo tin của trinh sát, hai trung đoàn bộ binh Hồng quân 101 và 103 đang tập trung ở làng nầy. Chính hai sư đoàn nầy cũng đang sửa soạn tấn công Karginskaia. Chàng rời khỏi trấn ba vec-xta thì có một tên liên lạc đuổi kịp, trao cho chàng bức thư của Kudinov: "Trung đoàn Xerdovsky đã đầu hàng chúng ta! Tất cả những thằng lính hạng bét ấy đều bị tước vũ khí. Trong số chúng nó, chừng hai mươi thằng chống cự lại đã bị Bogatyrev cho về với ông bà ông vải: hắn đã ra lệnh chém chết hết. Chúng nó đã nộp cho bên ta bốn khẩu pháo (nhưng các khoá hậu đã bị bọn pháo thủ cộng sản khốn kiếp tháo vứt kíp), 200 quả đạn pháo và 9 khẩu súng máy. Quân ta mừng hết chỗ nói! Chúng ta sẽ phân tán bọn lính Hồng quân về các đại đội bộ binh, bắt chúng nó phải đánh lại bè lũ chúng nó. Tình hình ở chỗ cậu như thế nào? Mà còn việc nầy nữa, thiếu chút nữa thì quên mất: có bắt được hai thằng cộng sản đồng hương với cậu: Kotliarov, Kosevoi cùng nhiều thằng khác ở trận Elanskaia. Tất cả những thằng ấy sẽ bị khử trên con đường đi Vosenskaia. Nếu cậu quá cần đạn thì cứ bảo thằng cầm giấy nầy, bọn mình sẽ gửi cho khoảng 500 viên. Kudinov". - Liên lạc? - Grigori quát to. Prokho Zykov lập tức cho ngựa chạy tới. Nhưng nhìn thấy mặt Grigori mất hết thần sắc, hắn sợ quá, thậm chí đưa tay lên vành mũ: - Anh ra lệnh gì ạ? - Gọi Riaptrikov? Riaptrikov đâu? - Ở cuối đội hình. - Phóng ngay đi! Gọi ngay lên đây! Platon Riaptrikov cho ngựa chạy nước kiệu, vượt lên trước đội hình hành quân hàng dọc, tới ngang Grigori. Gió thổi làm mặt hắn bong cả da, bộ ria và hai hàng lông mày bị nắng xuân thui cháy đỏ lấp loáng như lông cáo. Hắn mỉm cười, vừa cho ngựa chạy vừa phì phèo điếu thuốc. Hắn cưỡi một con ngựa được cho ăn đầy đủ, lông màu hạt dẻ sẫm, không bị sút đi chút nào sau những tháng mùa xuân. Con ngựa chạy một nước kiệu nhẹ rất vui, những bắp thịt trên ngực nhấp nhoáng. - Có thư từ Vosenskaia đấy à? - Từ xa Riaptrikov nhìn thấy gã liên lạc bên cạnh Grigori bèn kêu lớn. - Có thư, - Grigori trả lời, giọng dè dặt. - Cậu hãy nhận lấy trung đoàn và sư đoàn. Mình phải đi đây. - Được thôi, chẳng sao cả, anh cứ đi đi. Nhưng có gì mà vội vã thế? Thư viết gì đấy? Của ai thế? Của Kudinov à? - Trung đoàn Xerdovsky đã đầu hàng ở Ust-Khop… - Sa-a-ao? Chúng ta vẫn còn sống được à? Anh đi ngay bây giờ à? - Đi ngay bây giờ. - Thôi, cầu Chúa che chở cho anh. Anh trở lại sư đoàn thì chúng tôi đã có mặt ở Axtakhovo rồi! "Làm thế nào cướp lại Miska và Kotliarov… Sẽ được biết đứa nào giết Petro… và cứu Kotliarov, Miska khỏi bị giết? Phải cứu mới được. Giữa hai bên đã có đổ máu, nhưng có phải là người dưng nước lã đâu?" - Grigori vừa nghĩ thầm vừa quất tới tấp, cho con ngựa phi như bay từ trên gò xuống. 52. Các đại đội của quân phiến loạn vừa tiến vào Ust-Khopeskaia và bao vây đám chiến sĩ trung đoàn Xerdovsky đang họp mít tinh thì tên Lữ đoàn trưởng lữ đoàn Sáu Bogatyrev đã cùng với hai tên Voronovsky và Volkov, bỏ đi một chỗ khác để họp riêng. Cuộc họp diễn ra ngay đấy, cạnh quảng trường, trong nhà một lão lái buôn và rất chóng vánh. Chiếc roi ngựa vẫn lăm lăm trong tay, Bogatyrev chào Voronovsky và nói: - Mọi mặt đều tốt đẹp. Đó là công lao của ngài đấy. Nhưng còn mấy khẩu pháo, tại sao các ngài không bảo vệ được? - Chỉ là ngẫu nhiên thôi! Hoàn toàn chỉ là một sự ngẫu nhiên mà thôi thưa ngài thiếu uý. Hầu như tất cả những thằng pháo binh đều là đảng viên cộng sản. Lúc bắt đầu tước vũ khí, chúng nó đã chống cự lại bất kể sống chết. Chúng nó đã giết mất hai thằng lính Hồng quân rồi tháo quy-lát các khẩu pháo và bỏ chạy mất. - Thật đáng tiếc! - Bogatyrev quẳng cái mũ màu cứt ngựa lên bàn, vành mũ còn hằn rõ vết chiếc quân hiệu sĩ quan mới tháo bỏ chưa được bao lâu. Hắn đưa chiếc khăn tay nhem nhuốc lên lau mồ hôi trên cái đầu cạo trọc lốc và khuôn mặt rám nâu, cười nửa miệng: - Nhưng thôi, như thế cũng tốt rồi. Bây giờ ngài hãy ra bảo bọn binh lính của ngài… Ngài hãy nói rõ ràng với chúng nó, bảo chúng nó đừng đừng có… hãy bảo chúng nó phải nộp tất cả vũ khí. Voronovsky cảm thấy khó chịu trước cái giọng cấp trên của tên sĩ quan Cô-dắc. Hắn lắp bắp hỏi lại: - Tất cả vũ khí à? - Hừ, tôi sẽ không nhắc lại với các ngài lần nữa đâu! Đã bảo nộp hết là phải nộp cho kỳ hết? Nhưng thưa ngài thiếu uý, chính ngài và bộ chỉ huy của ngài đã nhận điều kiện là sẽ không tước vũ khí của trung đoàn cơ mà? Sao lại thế nầy được? Phải, tất nhiên tôi cũng hiểu rằng súng máy, pháo, thủ pháo, tất cả các thứ ấy chúng tôi sẽ phải nộp hết vô điều kiện, còn như vũ khí của các binh sĩ Hồng quân… - Bây giờ không còn Hồng quân gì nữa rồi? - Bogatyrev hung hãn nhếch cái môi trên ria cạo nhẵn nhụi, nói giật giọng và đập cái roi ngựa bện xoắn xuống một bên ủng bê bết những bùn. - Bây giờ thì không còn Hồng quân Hồng kiếc gì nữa rồi, chỉ còn những người lính sắp sửa bảo vệ mảnh đất sông Đông thôi. Hi-i-ểu chưa? Nếu không bảo vệ thì chúng tôi sẽ có cách bắt phải bảo vệ! Không cần chơi ú tim với nhau làm gì! Đã đem đầu đến đồng đất chúng tôi ở đây thì anh còn có thể nói đến điều kiện gì nữa? Giữa chúng ta chẳng có điều kiện gì cả! Đã ro-o-õ chưa? Tên trung uý Volkov nổi giận, hắn còn khá trẻ và là tham mưu trưởng trung đoàn Xerdovsky. Hắn đưa ngón tay lên sờ sờ những cái khuy trên cái cổ đứng của chiếc sơ-mi may bằng dạ đen, xù cả bộ tóc đen xoăn tít như lông cừu non, hỏi giọng nóng nảy: - Như thế là ngài coi chúng tôi là tù binh à? Có phải thế không? - Tôi không nói với anh như thế, vậy thì chớ có gây chuyện với những lời đoán mò! - Tên lữ đoàn trưởng Cô-dắc ngắt lời hắn một cách thô bạo, và đã chuyển sang cách xưng hô bằng "anh" cho thấy rõ rằng hai kẻ tiếp chuyện mình phải trực tiếp và hoàn toàn chịu quyền chi phối của mình. Căn phòng chết lặng trong giây phút. Từ ngoài quảng trường vẳng vào những tiếng huyên náo trầm trầm. Voronovsky bẻ ngón tay răng rắc, đi đi lại lại vài lần trong phòng. Rồi hắn cài kín tất cả những cái khuy trên cái áo quân phục ấm cổ bẻ màu ca-ki, hấp háy con mắt như lên cơn thần kinh và nói với Bogatyrev: - Cái giọng của ngài đã xúc phạm đến chúng tôi và thật không xứng đáng với một sĩ quan Nga như ngài! Tôi nói thẳng cho ngài biết. Một khi ngài đã khiêu khích chúng tôi như thế, chúng ta vẫn còn có thể chờ xem… hãy chờ xem chúng tôi sẽ phải đối phó như thế nào… Trung uý Volkov? Tôi ra lệnh cho ngài: ra quảng trường bảo bọn quản là trong bất kỳ trường hợp nào cũng không nộp vũ khí cho bọn Cô-dắc! Ngài hãy ra lệnh cho trung đoàn sẵn sàng vũ khí. Tôi sẽ chấm dứt câu chuyện với cái nhà… cái nhà ông Bogatyrev nầy ngay bây giờ và sẽ ra quảng trường… Cơn giận làm mặt Bogatyrev đen sạm lại như mang vết một bàn chân thú đen xì. Hắn còn định nói thêm không biết những gì nữa, nhưng hắn cảm thấy rằng mình đã làm quá, nên phải cố nhẫn nhục và lập tức thay đổi hẳn thái độ. Hắn chụp mạnh cái mũ cát-két lên đầu và vẫn vung cái roi lồm xồm lên một cách hung hãn, nhưng giọng nói đột nhiên có vẻ ôn tồn và lịch sự: - Thưa các ngài, các ngài đã chưa hiểu rõ ý tôi muốn nói. Đương nhiên là tôi chưa được hưởng một sự giáo dục đặc biệt, chưa được học tập trong các trường Yunke, cho nên có thể là chưa trình bày được mạch lạc ý nghĩ của mình, mà thật ra thì làm thế nào mà mọi lời nói ra đều nhất nhất đúng cả được? Dù sao chúng ta cũng là người một nhà rồi mà! Giữa chúng mình với nhau không nên có những sự hờn giận bực bội làm gì. Lúc nãy tôi đã nói gì nhỉ? Tôi đã chỉ nói rằng phải lập tức tước vũ khí bọn binh lính Hồng quân của các ngài, đặc biệt là những tên nào mà các ngài cũng như chúng tôi đều không thể tin cậy được… Tôi nói là nói như thế đấy! - Có thế chứ! Đáng là phải trình bày ý kiến của mình cho rõ ràng hơn mới được, ngài thiếu uý ạ! Ngoài ra, ngài cũng phải thừa nhận rằng cái giọng khiêu khích của ngài, cách cư xử của ngài… - Voronovsky nhún vai nói tiếp bằng một giọng đã dịu hơn nhưng vẫn chưa hết vẻ phẫn nộ - Chính chúng tôi cũng nghĩ rằng cần phải tước vũ khí và trao cho các ngài những tên dao động, không kiên định… - Phải, phải! Đúng thế đấy! - Vì thế chính tôi nói với ngài rằng chúng tôi đã quyết định tự tay tước vũ khí những thằng như thế. Còn bộ phận chiến đấu trung kiên của chúng tôi thì chúng tôi sẽ giữ lại. Dù sao chúng tôi hoặc ngài trung uý Volkov nầy, người mà ngài đã tự cho phép xưng hô "anh, tôi", ngay từ lúc mới gặp… chúng tôi sẽ tự gánh lấy trách nhiệm chỉ huy và sẽ có thể tẩy sạch một cách trung thực cái nhục nhã đã đứng trong hàng ngũ Hồng quân. Các ngài cần phải cho chúng tôi điều kiện làm việc đó. - Bộ phận trung kiên của ngài có bao nhiêu tay súng? - Đại khái gần hai trăm. - Không sao, được rồi, - Bogatyrev miễn cưỡng đồng ý. Hắn đứng dậy, hé mở cái cửa thông ra hành lang rồi quát oang oang - Bà chủ đâu! - Đến khi thấy một người đàn bà đã có tuổi, chít khăn ấm, đến đứng ở cửa, hắn ra lệnh - Cho ít sữa tươi? Quàng lên một cái! - Nhà cháu không có sữa, ông thứ lỗi cho. - Đối với bọn Đỏ thì có lẽ có đấy. Nhưng tại sao chúng tôi hỏi lại không có? - Bogatyrev mỉm cười chua chát. Không khí trong phòng lại chết lặng làm cho mọi người đều cảm thấy khó xử. Gã trung uý Volkov đã phá tan bầu không khí đó: - Tôi có thể ra ngoài được chứ? - Được - Voronovsky thở dài trả lời. - Ngài hãy ra ngoài và ra lệnh tước vũ khí của những thằng mà chúng ta đã ghi trong danh sách. Danh sách do Gorigasov và Veystemiste giữ đấy. Cũng chỉ vì với tư cách là một sĩ quan, hắn cảm thấy lòng tự ái của mình bị xúc phạm, cho nên tên thượng uý Voronovsky mới thốt ra một câu: "Hãy chờ xem chúng tôi sẽ phải đối phó như thế nào". Kỳ thực hắn đã hiểu rất rõ ràng ván cờ của hắn đã thua và không còn đường nào rút lui nữa rồi. Theo những tin hắn thu lượm được thì những lực lượng do ban chỉ huy tập đoàn quân phái đi tước vũ khí trung đoàn Xerdovsky nổi loạn đã xuất phát từ Ust-Medvediskaiavà sẽ có mặt ở đây lúc nào không biết. Nhưng ngay Bogatyrev cũng kịp nhận thấy rằng Voronovsky là một con người đáng tin cậy, hoàn toàn vô hại và trong lúc nầy không thể nào lùi bước nữa rồi. Vì thế tên lữ đoàn trưởng đã gánh lấy trách nhiệm đồng ý cho thành lập một đơn vị chiến đấu độc lập gồm bộ phận kiên định nhất của trung đoàn. Cuộc họp đến đây thì chấm dút. Trong lúc đó trên quảng trường, bọn phiến loạn đã không chờ xem kết quả của cuộc họp ra sao, mà có ngay những hành động kiên quyết để tước vũ khí của những tên thuộc trung đoàn Xerdovsky. Những cặp mắt hau háu và những bàn tay tham lam của bọn Cô-dắc sục vào các xe vận tải bốn bánh và hai bánh của trung đoàn. Quân phiến loạn tranh cướp nhau không những đạn được mà cả những đôi giầy da vàng đế rất dầy của các chiến sĩ Hồng quân, những cuộn xà cạp những chiếc áo bông, quần bông và đồ ăn thức dùng. Chừng hai chục tên lính trung đoàn Xerdovsky chính mắt trông thấy bọn Cô-dắc hoành hành ngang ngược bèn cố chống cự lại. Một tên trong số đó thấy một tên phiến loạn khám mình, thản nhiên bỏ túi tiền của mình vào túi hắn, bèn nện luôn cho hắn một báng súng và quát lên: - Đồ ăn cướp? Mầy lấy cái gì thế hử? Trả lại ngay, nếu không ông sẽ cho mầy ăn lưỡi lê! Các bạn của gã đều đồng tình với gã. Vang lên những tiếng kêu phẫn nộ: - Các đồng chí, hãy cầm lấy vũ khí! - Anh em ta bị lừa dối rồi! - Đừng có trao súng! Một trận giáp lá cà nổ ra. Số chiến sĩ Hồng quân chống cự bị dồn đến sát một dãy hàng rào. Được tên đại đội trưởng đại đội kỵ binh số ba khuyến khích, bọn kỵ binh của quân phiến loạn đã chém họ chết sạch trong vòng hai phút. Tên trung uý Volkov ra tới quảng trường đã làm cho việc tước vũ khí tiến hành được dễ dàng hơn. Các binh sĩ Hồng quân phải tập hợp và bị lục soát dưới trận mưa như trút. Ngay gần đội hình tập hợp, bọn phiến loạn làm những giá súng trường hình chóp, chất những đống lựu đạn, dụng cụ của đội điện thoại trung đoàn, những hòm đạn súng trường và những băng đạn súng máy… Bogatyrev cưỡi ngựa ra quảng trường. Con ngựa hắn cưởi đang hăng luôn chân nhảy cỡn, xoay mình tứ phía trước đội hình của trung đoàn Xerdovsky. Hắn giơ cái roi bện xoắn to tướng trên đầu, đầy vẻ hăm doạ và quát to: - Hãy nghe đây! Từ hôm nay trở đi, các anh sẽ phải chiến đấu chống lại cái bọn ác ôn cộng sản và quân đội của chúng nó. Người nào một lòng một dạ đi theo chúng tôi, người ấy sẽ được tha thứ. Kẻ nào ngang bướng chống lại, kẻ đó sẽ được thưởng như thế kia ngay! - Và hắn giơ chiếc roi ngựa chỉ những người lính Hồng quân bị chém chết. Bọn Cô-dắc đã lột họ, chỉ để lại quần áo lót rồi chất thành một đống trắng hếu đầm đìa nước mưa, không còn ra hình thù gì nữa. Những tiếng xì xào khe khẽ truyền lan qua các hàng lính Hồng quân như một làn sóng, nhưng không ai nói to một lời nào phản đối, cũng không một người nào phá rối hàng ngũ… Chỗ nào cũng thấy những tên bộ binh và kỵ binh Cô-dắc đi lại lăng xăng từng toán hoặc riêng lẻ. Chúng vây chặt quảng trường thành một vòng đai dày đặc. Trong khi đó, trên ngọn gò bên cạnh tường bao nhà thờ đã thấy bố trí một dãy những khẩu súng máy sơn xanh lá cây của trung đoàn Xerdovsky, họng súng chĩa cả vào đám Hồng quân, và bên từng khẩu súng, sau lá chắn, những xạ thủ Cô-dắc ướt như chuột đã ngồi xổm, sẵn sàng bóp cò… Một giờ sau, Voronovsky và Volkov dựa vào danh sách chọn ra những tên "đáng tin cậy". Tất cả có một trăm chín mươi tư tên. Đơn vị mới biên chế được đặt tên là "Tiểu đoàn độc lập số 1 của nghĩa quân". Ngay hôm ấy nó bị điều ra mặt trận về hướng thôn Beavinsky. Các trung đoàn của sư đoàn kỵ binh số 23 kéo từ vùng sông Dones về đã lấy khu vực nầy làm cơ địa xuất phát tấn công. Nghe đồn có hai trung đoàn Hồng quân tham gia chiến đấu: Trung đoàn 15 dưới quyền chỉ huy của Bykadorov và trung đoàn 32 dưới quyền chỉ huy trứ danh Miska Blinov. Hai trung đoàn ấy ồ ạt kéo quân đi, nghiến nát các đại đội phiến loạn chặn đường họ. Trong số đó, một đại đội vừa được vội vã tổ chức tại một thôn của trấn Ust-Khopeskaia đã bị đánh vụn như cám. Bogatyrev quyết định điều tiểu đoàn của Voronovsky đi đương đầu với chính trung đoàn Blinov ấy để thử xem nó tỏ ra kiên cường đến mức nào qua trận chiến đấu đầu tiên… Số binh sĩ còn lại của Trung đoàn Xerdovsky, gồm hơn tám trăm người, thì bị giải đi bộ theo dọc sông Đông về Vosenskaia, đúng như tên Kudinov, tư lệnh các lực lượng phiến loạn, đã ra lệnh trong bức thư gửi cho Bogatyrev. Đi áp giải họ có ba đại đội kỵ binh vũ trang bằng những khẩu súng máy của trung đoàn Xerdovsky, tiến theo những ngọn gò ven sông Đông. Trước khi rời khỏi Ust-Khopeskaia, Bogatyrev đến dự một buổi lễ cầu kinh ở nhà thờ. Lão cố đạo vừa nói xong lời cầu Chúa đem lại thắng lợi cho "quân đội Cô-dắc kính Chúa Cơ đốc", Bogatyrev đã bước ra ngoài. Con ngựa được dắt tới, hắn lên ngựa, vẫy tay gọi tên đại đội trưởng của một trong những đại đội được để lại che bên sườn cho Ust-Khopeskaia, rồi cúi người trên yên, rỉ tai tên kia: - Bọn đảng viên cộng sản ấy, cậu phải canh giữ hết sức, cẩn thận, chúng nó còn nguy hiểm hơn cả một kho thuốc súng đấy! Sáng sớm mai cậu sẽ cắt một đội áp giải thật vững ốp chúng nó về Vosenskaia. Nhưng ngay hôm nay đã phải cho những thằng liên lạc tới các thôn, báo cho dân chúng biết chúng ta sắp áp giải những thằng như thế nào qua thôn của họ. Dân chúng các thôn ấy sẽ xử chúng nó theo kiểu của họ! 53. Một buổi giữa trưa tháng tư, có chiếc máy bay xuất hiện trên trời Xinghin, một thôn của trấn Vosenskaia. Bị cuốn hút bởi tiếng động cơ nổ ầm ì, đám đàn bà, trẻ con, và người già trong thôn đều chạy ùa trong nhà ra: họ ngẩng đầu, đưa tay lên che mắt, nhìn mãi chiếc máy bay nghiêng cánh lượn vòng, như con chim ưng dưới bầu trời u ám. Tiếng động cơ nổ mỗi lúc một vang hơn, dữ dội hơn. Chiếc máy bay xuống thấp dần, nó kiếm một chỗ phẳng để hạ cánh trên bãi chăn nuôi bên cạnh thôn. - Nó sắp ném bom bây giờ đấy? Liệu mà trốn đi! - Một lão già có vẻ hiểu biết hốt hoảng kêu lên. Thế là đám người tụ tập trong ngõ chạy vung ra tứ phía. Bọn đàn bà lôi xềnh xệch những đứa trẻ hoác mồm ra gào, mấy lão già vội vã nhảy qua hàng rào chạy vào khu rừng bên cạnh thôn, nhanh nhẹn không kém gì những con dê rừng. Trong ngõ chỉ còn lại một mụ già. Vốn là mụ cũng muốn chạy đi, nhưng không biết vì sợ quá bủn rủn cả chân tay, hay vì vấp phải một mô đất mà mụ ngã lăn kềnh ra, rồi không còn biết ngượng là gì nữa, cứ nằm ở chỗ cũ, giơ thẳng hai cái chân khẳng khiu lên trời, kêu thất thanh: - Trời ôi, cứu tôi với, bà con ôi? Trời ơi, tôi chết mất thôi! Nhưng chẳng có ai quay lại cứu mụ. Trong khi đó chiếc máy bay kia cứ gầm, cứ rú, cứ rít như gió bão, bay vụt qua gần sát nóc nhà thóc, cái bóng của nó vươn cánh che hẳn hai con mắt mở thao láo của mụ, khộng cho mụ trông thấy ánh sáng mặt trời nữa. Chiếc máy bay lướt qua, nhẹ nhàng chạm bánh xuống chất đất ẩm của bãi chăn nuôi bên cạnh thôn và chạy thêm một đoạn ra đồng cỏ. Đến lúc ấy, mụ già đã bĩnh ra quần như con nít. Mụ cứ nằm ỳ ra, sống dở chết dở, chẳng còn biết dưới lưng và chung quanh mình có gì nữa. Cũng dễ hiểu là mụ không nhìn thấy ở đằng xa, có hai người mặc áo da đen bước ra từ trong con chim khổng lồ vừa hạ cánh, ngập ngừng giậm chân tại chỗ một lát, nghênh ngó nhìn quanh rồi đi về phía một ngôi nhà. Song ông lão nhà mụ là là một lão già to gan lớn mật. Lão đang trốn trong cánh rừng cạnh thôn, dưới bụi đùm đũm còn lại từ năm ngoái, và tuy tim lão vẫn còn đập thình thịch như con chim sẻ bị mắc bẫy, nhưng lão vẫn còn có đủ can đảm để giương mắt ra nhìn. Lão còn nhận ra một trong hai người đang đi tới nhà lão là tên sĩ quan Pitot Bogatyrev, con trai một tên đồng đội của lão. Tên Pitot nầy trước đây đã cùng bọn Trắng rút lui sang bên kia sông Dones và là anh em con chú con bác với tên Grigori Bogatyrev lữ đoàn trưởng lữ đoàn độc lập số sáu của quân phiến loạn. Đích thị là hắn rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Lão già thõng hai tay ngồi xổm như con thỏ, nhìn thêm một phút có ý thăm dò. Cuối cùng lão đã tin chắc rằng đúng là tên Pitot Bogatyrev đang từ từ ngật ngưỡng bước tới, vẫn với hai con mắt màu lam như lão đã nhìn thấy năm ngoái, chỉ thêm bộ râu rễ tre rậm ri đã lâu không cạo. Lão bèn đứng dậy, nhún nhún thử xem hai chân còn đỡ được lão đứng vững hay không. Chân lão chỉ hơi run ở chỗ đầu gối, còn khỏe chán, vì thế lão lại lon ton chạy trong rừng ra. Lão không chạy tới chỗ mụ già vừa lăn chiêng lăn kềnh ra đất vì khiếp hãi, mà ra thẳng chỗ tên Pitot cùng thằng bạn đường của hắn. Từ xa lão đã bỏ cái mũ cát-két bạc màu trên cái đầu hói của lão xuống. Cả Pitot cũng nhận ra lão. Hắn mỉm cười, vẫy tay chào. Hai bên đã đến sát trước mặt nhau. - Ngài cho phép hỏi ngài có đúng là ngài Pitot không? - Chính tôi đấy, bố già ạ! - Già nua tuổi tác như thế nầy mới được Chúa gia ân cho xem một chiếc máy bay! Nó đã làm bà con chúng tôi sợ hết hồn hết vía rồi đấy! - Chung quanh đây có bọn Đỏ không, bố già? Không, không đâu, ông bạn thân mến ạ! Chúng tôi đã tống cổ chúng nó sang không biết chỗ nào bên kia sông Tria, về với bọn khô-khon rồi. - Bà con Cô-dắc chúng ta cũng đã nổi lên rồi à? - Nổi lên thì cũng có nổi lên, song nhiều tay đã lại nằm xuống. - Sao lại có chuyện như thế? - Bị giết rồi chứ còn sao nữa? - À-à à… Thế gia đình tôi, ông cụ nhà tôi, mọi người đều còn sống cả chứ? - Còn sống cả. Nhưng hai ngài từ bên kia sông Dones về đấy à? Có gặp thằng Tikhol nhà tôi có bên ấy không? - Vâng, từ bên kia sông Dones. Tikhol có gửi về lời hỏi thăm đấy Nhưng nầy bố già ạ, nhờ bố coi hộ cái máy bay nhé, đừng cho bọn trẻ con mó máy vào đấy, để tôi tạt về nhà một lát… Ta đi đi thôi! Pitot Bogatyrev và gã bạn đường của hắn bỏ đi. Trong khi đó những con người vừa nãy sợ mất mật trốn trong cánh rừng, trong các nhà kho, các hầm nhà và các khe các ngách đã mò ra ngoài. Họ đứng vòng trong vòng ngoài quanh chiếc máy bay còn toả hơi của động cơ chạy quá nóng, nồng nặc mùi xăng, dầu cháy. Hai cái cánh căng vải đã bị đạn súng trường, súng máy và mảnh đạn pháo bắn thủng nhiều chỗ. Cỗ máy chưa ai từng trông thấy bao giờ đứng lặng yên, hừng hực như con ngựa vừa chạy đến kiệt sức. Lão già, người đầu tiên vừa nãy gặp Bogatyrev, bỏ chạy vào trong ngõ, chỗ mụ vợ lão sợ quá đã ngã lăn ra không dậy được, định báo cho mụ cái tin mừng về thằng con trai Tikhol rút lui hồi tháng chạp năm ngoái cùng với chính quyền khu. Song mụ già không còn trong ngõ nữa. Mụ đã kịp chạy về nhà, chui vào phòng để đồ cũ, vội vã thay áo xống và đã mặc xong áo váy khác. Lão già phải mất bao nhiêu hơi sức mới tìm thấy mụ, lão kêu lên: - Thằng Pitot Bogatyrev đi máy bay đến đấy! Thằng Tikhol trân trọng gửi lời hỏi thăm đấy! Nhưng khi nhìn thấy mụ già thay áo xống, lão tức sôi lên. - Cái mụ phù thuỷ già sóc nầy, sao lại nghĩ ra cái trò làm dáng làm đỏm thế nầy? Chà, mẹ cái nhà mụ chứ! Liệu còn thằng nào với đến mụ nữa hử, cái con quỷ dữ bợt lông nầy? Nhưng nom mụ trẻ hẳn ra kìa? Chẳng mấy chốc bọn bô lão đã kéo đến nhà bố tên Pitot Bogatyrev. Lão nào bước vào cũng bỏ mũ ngay từ ngưỡng cửa, làm dấu phép trước các hình thánh rồi mới đàng hoàng ngồi xuống chiếc ghế dài, tay tì trên gậy. Pitot Bogatyrev uống một cốc sữa nguội chưa hớt bơ rồi kể rằng hắn đã cười máy bay tới đây theo lệnh Chính phủ sông Đông, và trong nhiệm vụ của hắn có việc bắt liên lạc với quân phiến loạn vùng Đông Thượng và giúp đỡ bọn nầy trong việc chiến đấu chống Hồng quân bằng cách dùng máy bay chở tới đạn được và những tên sĩ quan. Hắn cho biết rằng không bao lâu nữa quân đội sông Đông sẽ chuyển sang thế công trên khắp mặt trận và sẽ hợp nhất với quân đội của bọn phiến loạn. Nhân tiện tên Bogatyrev cũng có trách bọn bô lão là đã thiếu khuyên bảo bọn Cô-dắc trẻ tuổi nên bọn nầy đã bỏ mặt trận và để cho quân Đỏ tiến vào vùng đất quê hương. Hắn đã kết thúc những lời hắn nói như thế nầy: - Nhưng bây giờ bà con ta đã tỉnh ngộ và đã đuổi cổ Chính quyền Xô viết ra khỏi các trấn, vì thế Chính phủ sông Đông sẽ tha thứ cho bà con. - Nhưng bác Petro Grigori ạ, bác phải biết rằng ở vùng chúng ta hiện nay đang là chính quyền Xô viết, chỉ có điều không có đảng viên cộng sản thôi. Ở đây ngay đến lá cờ cũng không phải là cờ tam tài mà là cờ trắng và đỏ. - Một tên bô lão ngập ngừng cho biết. - Ngay trong khi xưng hô với nhau, cái bọn thanh niên ở đây, cái bọn chó đẻ, những thằng không biết ăn lời ấy, chúng nó vẫn cứ chào nhau là "đồng chí" đấy! - Một lão khác nói thêm. Pitot Bogatyrev mỉm cười sau hàng ria hung hung đỏ xén tỉa ngay ngắn, nheo cặp mắt màu lam tròn xoe một cách nhạo báng và nói: - Cái chính quyền Xô viết của các cụ cũng chỉ như lớp băng lúc trời sang xuân mà thôi. Mặt trời chiếu ấm một chút là tan hết ra nước. Còn những thằng đầu têu, những thằng đã bỏ mặt trận ở gần Calatri, thì hễ ở bên kia sông Dones về, chúng tôi sẽ cho chúng nó ăn roi ngay! - Những thằng khốn kiếp ấy, phải quật cho chúng nó bật máu ra! - Đúng là phải thế mới được! - Phải cho ăn roi! Phải cho chúng nó ăn roi! - Phải lôi ra trước dân làng mà nện cho bĩnh ra quần mới thôi! - Bọn bô lão sung sướng nói nhao nhao. Trước lúc hoàng hôn xuống, tên Kudinov tư lệnh quân phiến loạn và tên tham mưu trưởng Ilia Xafonov được bọn liên lạc cưỡi ngựa báo tin, đã đi một chiếc xe bốn bánh thắng ba con ngựa chạy đến sủi mồ hôi, phi như bay đến Xinghin. Trong lòng như mở cờ vì thấy tên Bogatyrev cưỡi máy bay đến, hai tên chưa kịp phủi bùn trên ủng và trên chiếc áo mưa bằng vải bạt, đã gần như chạy tế ngay vào trong nhà Bogatyrev. 54. Hai mươi nhăm đảng viên cộng sản mà trung đoàn Xerdovsky trao cho quân phiến loạn đã bị một đội áp giải mạnh đưa đi khỏi Ust-Khopeskaia. Chuyện chạy trốn thì không thể nào nghĩ tới được. Kotliarov khập khiễng đi giữa đám tù binh. Anh đưa cặp mắt tràn ngập âu sầu và căm uất nhìn những bộ mặt rắn như đá vì thù hận của những tên Cô-dắc áp giải, bụng bảo dạ: "Chúng nó lôi anh em mình đi giết đấy! Nếu không qua toà án thì sẽ mất mạng cả thôi!" Số lớn trong bọn áp giải là những thằng râu xồm. Chỉ huy bọn nầy là một lão già Cựu giáo, trước kia đóng quân ở trung đoàn Atamansky. Ngay từ đầu, lúc mới ra khỏi trấn Ust-Khopeskaia, lão ra lệnh cấm anh em tù binh không được chuyện trò với nhau, không được hút thuốc và không được hỏi han gì bọn áp giải. - Chúng mầy hãy cầu nguyện đi, cái bọn tay sai phản Chúa nầy? Chúng mầy đang đi về âm phủ đấy, còn sống được mấy tiếng đồng hồ nữa thì đừng phạm thêm tội ác gì nữa! Hừ-ừ-ừ? Chúng mầy quên cả Thượng đế rồi? Chúng mầy đã bán thân cho quỷ dữ! Chúng mầy đã lấy cái dấu đồng của quân thù đóng lên trán chúng mầy! - Nói rồi lão hết vung khẩu Nagan tự động lại sửa cái dây đeo súng ngắn tốt loăn xoăn đeo trên cổ. Trong số tù binh có hai đảng viên cộng sản là cán bộ chỉ huy của trung đoàn Xerdovsky. Tất cả số còn lại, trừ Kotliarov, đều là dân ngụ cư ở trấn Elanskaia, những anh chàng cao lớn, khỏe mạnh, vào đảng hồi quân đội Xô viết mới tiến vào trong trấn. Họ làm dân cảnh, làm chủ tịch các Uỷ ban cách mạng thôn, rồi sau cuộc phiến loạn họ đã chạy đến Ust-Khopeskaia sát nhập vào trung đoàn Xerdovsky. Xưa kia, hầu hết các anh em đó đều làm nghề thủ công: thợ mộc làm nhà, thợ đóng bàn ghế, thợ đóng thùng, thợ đá, thợ đắp lò, thợ giầy, thợ may. Người nhiều tuổi nhất trong số đó nhìn mặt không quá ba mươi lăm, người trẻ nhất chỉ chừng hai mươi. Những chàng thanh niên lực lưỡng, đẹp trai đó có những bàn tay rất to bị công việc lao động chân tay nặng nề làm cho méo mó, những cặp vai rộng, những bộ ngực nở nang, nom họ khác hẳn những lão già lưng còng đi áp giải. - Chúng nó có đem anh em mình đi xét xử không, anh thấy thế nào? - Một đảng viên cộng sản trấn Elanskaia đi bên cạnh Kotliarov rỉ tai anh. - Chưa chắc… - Chúng nó giết à? - Có lẽ thế đấy. - Nhưng bên chúng nó không có xử bắn cơ mà? Bọn Cô-dắc đã nói như thế đấy, anh còn nhớ không? Kotliarov không trả lời gì cả, nhưng một tia hy vọng bỗng lóe lên trong lòng anh, mong manh như một đốm lửa trước gió: "Mà sẽ đúng như thế đấy? Chúng nó sẽ không thể bắn anh em mình được. Bọn khốn nạn ấy, chúng nó đã nêu khẩu hiệu: "Đả đảo cộng sản, cướp bóc và bắn người? " cơ mà? Nghe nói chúng nó chỉ kết án tù khổ sai… Chúng nó chỉ tuyên án phạt roi và tù khổ sai. Được, như thế cũng chẳng có gì đáng sợ? Bọn chúng mình sẽ ngồi tù đến mùa đông, mà đến mùa đông, sông Đông vừa kết băng là quân ta sẽ lại tấn công chúng nó? Tia hy vọng ấy lóe lên nhưng lại tắt ngấm ngay như một tàn lửa trước gió: "Không đâu, chúng nó sẽ giết đấy! Chúng nó hung hãn lắm, cứ như một bầy quỷ dữ! Thôi vĩnh biệt cuộc đời! Than ôi, đáng là không nên như thế mới phải! Đã đánh nhau với chúng nó mà trong lòng còn thương hại chúng nó… Không thể nào thương hại chúng nó được, phải giết, phải chém chết tất cả chúng nó cho kỳ tuyệt nọc!" Anh nắm chặt hai bàn tay, cặp vai rung lên trong một cơn phẫn uất bất lực. Nhưng ngay lúc đó anh vấp chân, thiếu chút nữa thì ngã vì một ngọn roi quất từ phía sau vào đầu. - Mầy làm gì mà nắm tay lại hử, đồ lang đẻ sói đẻ? Tao hỏi mầy, mầy làm gì mà nắm tay lại hử? - Lão quản chỉ huy đội áp giải gầm lên, thúc con ngựa xô thẳng vào anh. Lão bồi thêm cho không Kotliarov một roi nữa, hằn chéo một con lươn trên mặt anh, từ một bên xương lông mày xuống tới cái cằm cương nghị có một vết lõm ở giữa. - Sao ông lại đánh bác ấy thế? Hãy đánh tôi đây nầy, ông bố già! Hãy đánh tôi đây nầy? Bác ấy bị thương mà ông còn đánh à? - Một đồng chí người trấn Elanskaia mỉm nụ cười van lơn, kêu lên giọng run run, rồi bước ra khỏi đám người, ưỡn bộ ngực chắc nịch, che cho Kotliarov. - Cả mầy nữa cũng có phần! Nện chúng nó đi, anh em đồng hương? Đánh bọn Cộng đi! Ngọn roi quất mạnh quá, xé toạc cả chiếc áo sơ-mi mùa hè màu cứt ngựa trên vai người chiến sĩ trấn Elanskaia, mảnh vải rách lật ra như tàu lá bị lửa nướng cong. Vệt roi hằn lập tức phồng ngay, máu đen phụt tóe ra như ở cổ một con vật bị chọc tiết, đẫm cả những mảnh vải… Lão quản thở hổn hển trong cơn tức giận điên cuồng, cho con ngựa dẫm những người tù binh, xông thẳng vào giữa đám đông, vung roi quật tới tấp… Lại thêm một roi nữa quật trung Kotliarov. Anh đổ cả đồng quang con mắt, mặt đất lảo đảo, ngả nghiêng và dải rừng xanh rờn viền theo khoảng bờ cát trước mặt, bên tả ngạn, như đổ sập xuống. Kotliarov đưa bàn tay chai sần nắm lấy bàn đạp, định lôi lão quản hoá điên hoá ngộ như thú rừng trên yên xuống, nhưng một nhát sống gươm đã đánh anh ngã lộn xuống đất. Một đám bụi nhạt thếch, ráp như lông cứng, ập vào miệng làm anh tức thở, máu nóng hổi ứa ra từ trong mũi, trong tai anh… Bọn áp giải dồn anh em tù binh lại thành một đám như đàn cừu rồi đánh họ một chập rất lâu, rất tàn nhẫn. Như trong một cơn ác mộng, Kotliarov vẫn nằm úp mặt xuống đường nghe thấy những tiếng kêu khàn khàn, tiếng chân giậm rầm rập chung quanh mình, tiếng ngựa hí điên cuồng. Một đám bọt mồ hôi ngựa ấm ấm rơi xuống cái đầu trần của anh, và gần như ngay lúc đó, không biết từ một chỗ nào rất gần, ngay bên trên đầu anh, có một tiếng đàn ông nức nở kêu lên, tiếng khóc rất ngắn nhưng nghe rất khủng khiếp: - Quân khốn kiếp! Chúng mày đánh những người không có vũ khí! Hư-hư-hư! Một con ngựa dẫm lên bên chân bị thương của Kotliarov, những cái đinh móng ngựa đã mòn ấn sâu xuống bắp chân anh. Bên trên vẫn vang lên không ngớt tiếng những đòn đánh dội xuống như mưa… Một phút sau lại thêm một thân hình ướt đẫm, nồng nặc mùi mồ hôi hắc hắc và mùi máu mằn mặn, nặng nề đổ xuống bên cạnh Kotliarov. Kotliarov chưa bất tỉnh hẳn, vì thế anh còn nghe thấy trong họng người vừa ngã xuống có tiếng máu ộc ra lọc ọc như từ trong một cái chai dốc ngược… Sau đó, anh em tù binh bị bọn kia dồn lốc nhốc ra sông Đông, bắt phải rửa hết máu me. Đứng dưới nước đến đầu gối, Kotliarov giấp nước vào những vết thương và những con lươn nóng rát như lửa đốt. Anh đưa tay khoả một khoảng nước còn loang máu mình, uống lấy uống để, chỉ sợ không kịp giải cái khát cháy họng bỗng nhiên ập tới. Mọi người đang đi trên đường thì có một gã Cô-dắc cưỡi ngựa đuổi kịp họ. Con ngựa màu hạt dẻ sẫm gã cưỡi béo núc, mồ hôi đổ ra đầm dìa làm lông nó bóng nhoáng như thường thấy trong mùa xuân. Con ngựa chạy một nước kiệu rất nhanh, vừa chạy vừa nhảy cỡn. Tên cưỡi ngựa phóng như bay và khuất trong thôn. Đoàn tù binh còn chưa kịp đi tới mấy cái sân gỉa súc đầu tiên thì đã thấy một đám dân chúng chạy ùa ra đón đường họ. Kotliarov nhìn thấy đám đàn ông và đàn bà Cô-dắc chạy từ phía trước lại biết rằng giờ chết của mình đã điểm. Tất cả các anh em khác cũng đều hiểu như thế. - Các đồng chí! Chúng ta vĩnh biệt nhau thôi! - Một đảng viên cộng sản thuộc trung đoàn Xerdovsky kêu lên. Đám người kia kéo đến mỗi lúc một gần. Trong tay họ có những chiếc chàng nạng, cuốc chim, gậy tầm vông, những cái chốt sắt rút ra từ những chiếc xe bò… Rồi sau đó tất cả đã diễn ra y như trong một cơn ác mộng rùng rợn nhất. Đoàn người đi ba mươi véc-xta qua những cái thôn nằm san sát, đến thôn nào cũng gặp những đám người ra hành hạ họ. Những lão già, những mụ đàn bà, những đứa còn thiếu niên đánh đập nhổ vào những bộ mặt sưng húp, máu chảy đầm đìa và đầy vết thâm tím của những người cộng sản bị bắt làm tù binh. Chúng ném đá, ném những tảng đất khô, tung bụi tung tro vào những cặp mắt đã bị đánh đến sưng vù. Bọn đàn bà thì đặc biệt hung ác, chúng nghĩ ra những cách đánh đập tàn nhẫn nhất. Hai mươi nhăm con người sắp làm mồi cho thần chết đã diễu qua những đám người đó. Cuối cùng họ đã biến đổi hẳn, không còn có thể nhận ra ai là ai nữa, không còn chút gì là những con người nữa vì thân hình họ, mặt mũi họ đều biến dạng, méo mó, chỗ xanh, chỗ đỏ, chỗ đen, tất cả đều phù ra, đều trở thành tàn tật, bê bết máu và bùn. Đầu tiên bất cứ ai trong số hai mươi nhăm người đó cũng tìm cách đi thật xa những thằng áp giải để đỡ bị ăn đòn: bất cứ ai cũng hết sức len vào giữa những hàng hỗn loạn, vì thế đám người cứ đi chen chúc nhau, lốc nhốc thành một khối. Nhưng họ luôn luôn bị xua đuổi, lôi kéo cho xa nhau ra. Vì thế, họ dần dần mất hết hy vọng là có thể giữ cho mình đỡ bị đánh đập, và cuối cùng cứ đi lẻ tẻ rời rạc, người nào cũng chỉ ôm một nguyện vọng đau khổ là cố thắng được chính bản thân mình, đừng ngã xuống thì sẽ không còn có thế trở dậy được nữa. Họ bị xâm chiếm bởi một tâm trạng thờ ơ, mặc cho mọi chuyện xảy ra. Đầu tiên người nào cũng đưa tay lên che mặt che đầu, bịt mắt mình một cách bất lực mỗi khi trông thấy những cái răng bằng thép xanh lè của chiếc đinh ba hay cái đầu gậy tầm vông trắng bệch loáng đến trước mặt mình. Lúc đầu từ trong đám tù binh bị đánh đập tàn nhẫn còn vang ra những tiếng van xin, chửi rủa và gào rú như tiếng kêu của thú vật vì những sự đau đớn không thể nào chịu được. Nhưng đến giữa trưa mọi người đều nín lặng. Chỉ có một người trong số các anh em trấn Elanskaia, người trẻ nhất, trước kia là một cậu hay nói chuyện tếu được toàn đại đội yêu, là còn kêu lên khi bị đập vào đầu. Anh ta cứ co rúm cả người, đi nhảy nhảy như phải bước trên vật gì nóng lắm, một bên chân bị một chiếc sào đánh gãy cứ phải kéo lê… Sau khi xuống sông Đông lau rửa, Kotliarov cảm thấy tinh thần của mình vững vàng hơn. Vừa trông thấy bọn đàn ông và đàn bà Cô-dắc chạy từ phía trước mặt lại, anh vội vã từ biệt mấy đồng chí đang ở gần mình nhất. Anh khẽ nói: - Không sao cả, anh em ạ, chúng ta đã biết chiến đấu thì cũng phải biết chết cho kiêu hãnh… Nhưng có một điều chúng ta cần phải ghi nhớ cho tới hơi thở cuối cùng, chúng ta vẫn còn có một niềm an ủi trong lòng là tuy chúng nó dùng gậy nhọn đâm chúng ta, song chính quyền Xô viết thì không thể nào bị gậy nhọn đâm chết được! Các đồng chí đảng viên cộng sản! Anh em ạ! Chúng ta hãy chết một cách cứng cỏi, để cho chúng nó không cười chúng ta được? Nhưng anh chàng người Elanskaia đã không đủ sức chịu nổi. Đến thôn Bobrovsky, khi bị bọn bô lão bắt đầu đánh đập anh ta một cách tàn nhẫn và khéo léo, anh ta đã gào lên bằng một giọng rất khó nghe, như con nít. Anh ta giật đứt các khuy cổ chiếc áo quân phục cổ chui, giơ cho bọn đàn bà Cô-dắc xem cây thập ác nhỏ đeo tuỳ thân trên cổ với sợi dây đeo bị cáu ghét và mồ hôi bám vào đen sì. - Các đồng chí! Tôi mới vào đảng được ít lâu thôi mà! Các đồng chí hãy thương lấy tôi! Tôi vẫn tin ở Chúa! Tôi còn có hai con thơ! Các đồng chí hãy tha cho tôi! Các đồng chí cũng có con cơ mà! - Chúng tao "đồng chí" gì với mày! Câm ngay cái mồm! - Mầy mà còn nhớ tới con cái cơ à, đồ ngoại đạo khốn kiếp! Mày lại còn giơ thánh giá ra à? Mầy đã nghĩ lại rồi à? Nhưng lúc mà bắn giết, hành quyết anh em chúng tao thì mầy có nhớ đến Chúa không? - Một lão già mũi hếch, có chiếc vòng lủng lẳng ở một bên tai, đánh anh ta hai cái rồi hổn hển hỏi lại và lại vung roi nhằm vào đầu anh ta lần nữa. Những điều phiến loạn mà mắt, tai, ý thức của Kotliarov thu nhận được tất cả đều lướt qua rất nhanh. Sự chú ý của anh không dừng lại lâu ở một điều gì cả. Trái tim anh như đã rắn lại thành đá và chỉ run lên có một lần. Đến giữa trưa đoàn người tiến vào thôn Chiukovnovsky, đi dọc theo đường phố, giữa những đám người đứng hai bên chửi rủa và đánh họ tới tấp. Giữa lúc ấy Kotliarov chợt liếc mắt sang bên, nhìn thấy một thằng bé chừng bảy tuổi đang níu lấy vạt áo mẹ, những giọt nước mắt đổ xuống như mưa đá trên hai cái má méo xệch của nó. Nó kêu lên the thé: - Mẹ ơi! Đừng đánh người ta! Chao ôi, đừng đánh nữa! Con thương! Con sợ! Người ta những máu là máu! Người đàn bà đang vung cái gậy lên định đánh một đồng chí Elanskaia, nghe thấy thế bất thần thét lên, ném cái gậy đi, rồi bế thốc đứa con nhỏ lên tay, chạy vùng vào trong ngõ. Cả Kotliarov cũng phải xúc động trước tiếng khóc và lòng thương người của thằng bé. Anh xao xuyến, vài giọt nước mắt mà anh không thể tha thứ cho mình bất giác trào ra, chảy mằn mặn xuống cặp môi giập nát, khô nẻ. Anh nấc lên một tiếng ngắn ngủi, nhớ tới đứa con nhỏ của mình, vợ mình và cái hồi ức vừa bừng lên như một ánh chớp ấy đã làm nảy ra trong đầu óc anh một mơ ước thôi thúc: "Chỉ cốt sao vợ con mình khỏi nhìn thấy mình bị giết ngay trước mắt họ? Và… Sao cho chúng nó giết mình ngay đi…" Đoàn người lê bước hết sức khó khăn, người lảo đảo vì mệt mỏi rã rời, các khớp xương xưng lên đau ê ẩm. Khi đến một cái bãi thả gia súc bên ngoài một cái thôn, họ thấy có một cái giếng trên đồng cỏ bèn xin lão đội trưởng đội áp giải cho họ uống nước: - Không uống làm gì cả! Như thế nầy cũng đã muộn mất rồi! Đi đi! - Lão quản quát lên. Nhưng một lão già áp giải đã nói hộ anh em tù binh: - Ông hãy rộng lòng thương họ một chút, ông Akim Xadonyt! Dù sao họ cũng là những con người. - Những đứa nầy mà là người à? Bọn Cộng không phải là người! Mà anh chớ lên mặt dạy khôn tôi! Tôi là đội trưởng hay anh là đội trưởng hử? - Cái loại đội trưởng như anh thì đã có quá nhiều rồi đấy? Thôi anh em ra mà uống đi! Rồi lão già nhỏ bé kia xuống ngựa, múc dưới giếng lên một thùng nước. Anh em tù binh vây chặt lấy lão, hai mươi nhăm đôi bàn tay đồng thời vươn về phía cái thùng, những cặp mắt sưng vù và bầm máu sáng bừng lên, nhao nhao những giọng nói khàn khàn, ngắt quãng: - Đưa cho tôi, cụ ơi! - Một ít thôi cũng được? - Chỉ một ngụm thôi mà - Các đồng chí, tất cả không thể cùng uống một lúc được đâu? Lão già ngập ngừng một lát, không biết nên cho ai uống trước. Lão trù trừ vài giây, vài giây chờ đợi cực kỳ căng thẳng, rồi đổ nước vào một cái máng khoét trong một khúc gỗ dài chôn dưới đất cho gia súc uống nước. Đổ xong lão vừa bỏ đi chỗ khác vừa kêu to: - Làm gì mà chen nhau như những con bò thế hử! Xếp hàng lần lượt mà uống! Nước chảy theo cái lòng máng đầy rêu, mượt như da hoẵng xanh, ùa tới chỗ gốc máng nặc mùi gỗ ẩm dãi nắng đến nóng rực. Anh em tù binh dốc cạn hết sức lực còn lại, đổ xô tới cái máng nước. Lão già lần lượt kéo mười một gàu nước, vừa đổ đầy cái máng vừa cau mày nhìn đám tù binh, ánh mắt đầy vẻ thương hại. Kotliarov quỳ xuống uống cho thật đã khát. Cảm thấy đầu óc nhẹ nhõm hơn, anh ngẩng lên nhìn thấy một cách rõ ràng, gần như sờ thấy được lớp bụi đá vôi trắng phủ như một dải thảm trên con đường ven sông Đông, những nhánh núi đá phấn dựng đứng xa xa nom như một cái ảo ảnh xanh lơ, và bên trên các nhánh núi ấy, bên trên dòng sông Đông cuồn cuộn trôi xuôi, có một đám mây nhỏ đang ngự cao ngất trên bầu trời xanh ngắt, bao la, lồng lộng. Đám mây vươn cánh dưới làn gió, bay vun vút về phía bắc, đỉnh mây tóe ra những tia trắng loá như một cánh buồm, và cái bóng màu đá mắt mèo của nó in xuống chỗ khuỷu sông Đông ở tít đằng xa. 55. Trong một cuộc hội nghị bí mật, bộ chỉ huy tối cao các lực lượng phiến loạn đã quyết định xin Chính phủ sông Đông, xin tên ataman Bogatyrev giúp đỡ. Kudinov được uỷ nhiệm viết một bức thư trong đó chứng tỏ lòng hối hận và lấy làm tiếc rằng cuối năm 1918 dân Đông Thượng đã đàm phán với Hồng quân và bỏ mặt trận. Bức thư ấy Kudinov đã viết xong. Nhân danh toàn dân Cô-dắc đã nổi dậy của vùng Đông Thượng hắn hứa rằng sau nầy sẽ chiến đấu chống người Bolsevich một cách kiên cường, cho tới giọt máu cuối cùng, và xin bọn kia giúp đỡ quân phiến loạn bằng cách dùng máy bay chở qua mặt trận đạn súng trường cùng những tên sĩ quan chính ngạch để lãnh đạo các đơn vị. Tên Pitot Bogatyrev ở lại Xinghin ít lâu rồi đi Vosenskaia. Còn gã lái máy bay thì quay về Novocherkask, mang theo bức thư của Kudinov. Từ ngày ấy chính quyền sông Đông đã có liên hệ chặt chẽ với bộ chỉ huy quân phiến loạn. Thế là hầu như ngày nào cũng có những chiếc máy bay mới đóng ở những nhà máy bên Pháp bay từ bên kia sông Dones tới, đem đến những tên sĩ quan, đạn súng trường và một số không đáng kể đạn pháo cho những khẩu pháo ba điu-im. Bọn lái máy bay cũng mang tới thư từ của những tên Cô-dắc vùng Đông Thượng đã rút lui theo quân đội sông Đông, rồi lại mang từ Vosenskaia đến vùng sông Dones thư trả lời của họ hàng thân thuộc của những tên Cô-dắc kia. Căn cứ vào tình hình mặt trận và các kế hoạch chiến lược của hắn, tên tư lệnh mới của quân đội sông Đông là tướng Sidorin bắt đầu gửi cho Kudinov những kế hoạch tác chiến, những mệnh lệnh do bộ tư lệnh thảo ra, cùng những tin chiến sự và tin tình báo về các đơn vị Hồng quân được tung vào mặt trận chống quân phiến loạn. Kudinov chỉ chọn vài tên đặc biệt để cho biết về chuyện thư từ đi lại với Sidorin, còn đối với tất cả những tên khác hắn hết sức giữ bí mật. 56. Anh em tù binh bị giải đến thôn Tatarsky lúc khoảng năm giờ chiều. Trời đã sắp hoàng hôn, một trong những buổi hoàng hôn mùa xuân loáng cái là tắt ngay. Mặt trời đã sắp lặn, cái đĩa cháy rực của nó đã chạm tới viền đám mây xanh xanh xám xám lờm xờm trải dài đằng tây. Ngoài phố, đại đội bộ binh của thôn Tatarsky đang kẻ đứng người ngồi tránh nắng dưới bóng ngôi nhà chứa thóc công cộng rất to. Đại đội nầy bị điều sang bờ bên phải sông Đông để chi viện cho các đại đội của trấn Elanskaia dạo nầy đang chống lại rất khó khăn sức tấn công của kỵ binh Hồng quân. Trên đường ra mặt trận, bọn lính thôn Tatarsky đã kéo cả đại đội tạt vào thôn để thăm gia đình và kiếm thêm ít đồ ăn thức dùng. Hôm ấy đáng là chúng phải lên đường rồi, nhưng lại nghe tin có một đoàn tù binh Hồng quân đang bị giải đỉ Vosenskaia, trong số đó có cả Miska Kosevoi và Kotliarov, mà tù binh cũng sắp qua thôn Tatarsky, vì thế chúng quyết định nán lại xem sao. Những tên đặc biệt đòi gặp mặt Miska và Kotliarov là những tên Cô-dắc có họ hàng với những gã đã bị giết cùng với Petro Melekhov trong trận đấu. Bọn lính thôn Tatarsky dựa những khẩu súng trường vào tường kho thóc, đứa đứng đứa ngồi, thẫn thờ nói chuyện với nhau, hút thuốc, cắn hạt hướng dương. Bọn bô lão, đàn bà, trẻ con đứng vây chung quanh. Toàn thôn đều kéo nhau ra phố. Vài đứa trẻ bò lên những mái nhà luôn luôn theo dõi xem đã giải tù đến chưa. Cuối cùng có một giọng con nít léo nhéo: - Nhìn thấy rồi! Chúng nó đang bị giải tới rồi! Bọn lính vội vàng đứng dậy, dân chúng trong thôn nhốn nháo, những lời trao đổi sôi nổi dội lên trầm trầm, mỗi lúc một to, tiếng chân những đứa trẻ chạy ra đón đoàn tù binh nghe rầm rập. Mụ vợ goá của gã Aleksey Samin vẫn còn chưa nguôi sau nỗi đau khổ mà mụ vừa phải chịu, và dưới ấn tượng mới mẻ của chuyện đó, mụ cứ gào lên như hoá ngộ. - Cái lũ quân thù quân hằn đã bị giải tới rồi! - Một lão già nói bằng một giọng rất trầm. - Nện nhừ tử cái bọn quỷ dữ nầy đi! Còn nhìn gì nữa, bà con Cô-dắc! - Lôi chúng nó ra toà mà xử! - Chúng nó đã hành tội bà con ta! - Treo cổ thằng Kosevoi và thằng bạn của nó lên! Ả Daria nhà Melekhov đứng bên cạnh mụ vợ của gã Anikey. Ả là người đầu tiên nhận ra Kotliarov trong đám tù binh bị đánh đập tàn tệ đang đi tới. - Cái thằng trong thôn bà con đã bị giải tới đây nầy? Bà con hãy cho cái thằng chó đẻ nầy xem bà con là như thế nào? Bà con hãy ra mà hôn đón nó đi! - Lão quản đội trưởng áp giải gào lên khàn khàn, át cả những tiếng nhao nhao mỗi lúc một hung dữ và những tiếng kêu khóc của đám đàn bà. Rồi vẫn ngồi trên ngựa, lão giơ tay chỉ Kotliarov. - Thế thằng kia đâu? Thằng Kosevoi Miska đâu? Thằng Anchip con trai lão "Vua nói phét" len qua đám người, vừa đi vừa gỡ dây đeo súng trường trên vai xuống, làm khẩu súng lúc lắc đập cả báng và lưỡi lê vào người khác. - Cùng thôn với bà con ta đây chỉ có một thằng thôi, ngoài ra không còn đứa nào nữa đâu. Nhưng nếu cần cho mỗi người một miếng thì thằng nầy cũng đủ chán… - Lão quản áp giải nặng nề đưa một bên chân qua mũi yên cầm chiếc khăn tay đỏ lau những giọt mồ hôi chảy đầm đìa trên trán. Những tiếng rít, những tiếng la thét của bọn đàn bà mỗi lúc một to và đã lên tới mức căng thẳng cực độ. Daria len tới chỗ bọn lính áp giải và nhìn thấy khuôn mặt bị đánh đập đến xám lại như gang của Kotliarov chỉ cách mình có vài bước, ngay sau cái mông ướt đẫm của con ngựa của một tên áp giải. Đầu anh sưng to một cách kỳ dị, những món tóc bết máu khô dính vào nhau dựng lên cao bằng một cái thùng úp ngược. Da trán anh phồng mọng, nứt ra, hai bên má đỏ rực bóng nhoáng, và trên đỉnh đầu lại có hai chiếc găng len đặt trên một đám lầy nhầy như thịt đông. Có lẽ anh đã đặt hai chiếc găng tay ấy lên đầu để che những vết thương nhằng nhịt khỏi những tia nắng cắn da cắn thịt, khỏi ruồi nhặng và những đàn muỗi nhắt lúc nhúc trong không khí. Hai chiếc găng đã dính vào các vết thương, khô lại và cứ thế nằm trên đầu… Anh hoảng hốt đưa mắt nhìn quanh như một con thú bị vây bắt, cố tìm vợ con nhưng lại sợ không dám bắt gặp cặp mắt của vợ hay của thằng con nhỏ. Anh chỉ muốn có thể van xin một người nào đó đưa vợ con mình đi chỗ khác nếu đang có mặt ở đây. Anh đã biết rằng mình sẽ không thể đi quá thôn Tatarsky nầy được, rằng đây chính là nơi mình sẽ chết, vì thế anh không muốn hai con người thân yêu chứng kiến cái chết của mình, nhưng đồng thời anh cũng mỗi lúc một thêm nóng lòng đợi chờ cái chết ấy. Anh gù lưng xuống, từ từ quay đầu rất khó khăn, đưa mắt nhìn một lượt những khuôn mặt quen thuộc của bà con cùng thôn, nhưng không hề bắt gặp một vẻ thương hại hay đồng tình nào trong một cặp mắt nào. Tất cả những đứa đàn ông và đàn bà Cô-dắc đều nhìn anh bằng những cặp mắt gườm gườm và hung hãn. Chiếc sơ-mi màu cứt ngựa đã bạc phếch của anh phồng cứng lên, hơi cử động một chút là kêu loạt soạt. Bất kỳ chỗ nào trên cái áo cũng in những vết máu chảy nâu xịt. Máu cũng đầm đìa trên chiếc quần bông đột chỉ của Hồng quân, trên hai bàn chân rất to không giầy không ủng, với lòng bàn chân phẳng bẹt và những ngón chân méo mó. Daria đứng lại trước mặt Kotliarov. Ả nghẹt thở vì lòng căm hờn dồn lên cổ, vì thương hại và vì nóng lòng chờ đợi một cái gì khủng khiếp sắp xảy ra đến nơi, ngay bây giờ. Ả nhìn vào mặt anh chằm chằm mà chẳng làm thế nào biết được rằng anh có nhìn thấy mình và nhận ra mình hay không? Nhưng Kotliarov vẫn bồn chồn, rạo rực nhìn sục sạo trong đám người bằng một con mắt long lanh man rợ (con mắt bên kia đã sưng vù không nhìn thấy gì nữa), và bỗng nhiên con mắt anh dừng lại trên mặt Daria lúc nầy chỉ đứng cách anh có vài bước. Anh chập chững bước tới như một người đang say mềm. Anh đã mất quá nhiều máu nên đầu óc cứ đảo đồng, không còn tri giác nữa. Anh rất khổ não vì cái trạng thái nửa hư nửa thực, khi mà mọi vật chung quanh đều trở nên huyền ảo, khi mà đầu óc quay lộn, hai con mắt tối sầm lại trong một cảm giác tê dại đau khổ. Song với một cố gắng cực lớn, anh vẫn còn đứng được trên hai chân. Sau khi nhìn thấy và nhận ra Daria, Kotliarov lảo đảo bước tới. Một cái gì chỉ có chút ít hao hao như một nét cười thoáng hiện trên cặp môi trước kia cứng rắn, nhưng bây giờ đã méo mó không còn ra hình thù gì nữa. Nhưng chính cái nhăn mặt phảng phất như một nụ cười ấy đã làm tim Daria đập thình thịch, dồn dập. Ả có cảm tưởng như trái tim của ả đang đập ở một chỗ nào ngay sát cổ họng. Ả bước tới sát Kotliarov, thở hổn hển như kéo bễ, mặt mỗi lúc một thêm nhợt nhạt: - Thế nào, chào bác, chào ông bạn đỡ đầu thân mến! Giọng nói lanh lảnh và sôi nổi của ả, những thanh sắc khác thường trong câu nói làm đám người lặng đi. Và trong bầu không khí chết lặng vang lên một giọng trả lời trầm trầm nhưng cứng rắn: - Chào bác, bác bạn đỡ đầu Daria! - Bác hãy kể lại đi, bác bạn đỡ đầu thân mến, làm sao mà chồng tôi, người bạn đỡ đầu của bác… - Daria chợt cảm thấy nghẹt thở, phải áp hai tay lên ngực. Ả không còn đủ hơi nói thêm nữa. Trong bầu không khí hoàn toàn chết lặng, căng thẳng đến cực độ, trong những phút nín tiếng chẳng có gì tốt lành ấy, ngay những hàng đằng sau cũng nghe thấy Daria hỏi nốt bằng một giọng chỉ hơi nghe ro: - Bác đã hành quyết chồng tôi, đã giết anh Petro Panteleevich như thế nào? - Không, bác bạn đỡ đầu ạ, tôi có xử tử bác ấy đâu? - Sao lại không xử tử? - Giọng nghẹn ngào của Daria đã cất cao hơn. - Chính bác và Miska Kosevoi đã giết người Cô-dắc cơ mà? Có phải thế không? - Không, bác bạn đỡ đầu ạ… Chúng tôi… chúng tôi không giết bác ấy đâu… - Thế đứa nào đã làm cho chồng tôi phải từ giã cõi đời nầy? Thế nào, đứa nào hử? Nói đi! - Hồi ấy là trung đoàn Damursky… - Mày! Chính mầy đã giết! Anh em Cô-dắc nói rằng đã trông thấy mày trên ngọn gò! Hôm ấy mày cưỡi con ngựa trắng mà! Cái thằng đáng nguyền rủa, mày còn chối hay sao? - Tôi cũng có mặt trong trận chiến đấu… - Bàn tay trái của Kotliarov đưa lên rất khó khăn tới ngang đầu, sửa lại hai chiếc găng tay dính khô vào vết thương. Giọng anh lộ rõ vẻ nghi ngại khi anh nói tiếp - Cả tôi cũng có mặt trong trận chiến đấu hôm ấy, nhưng người giết chồng bác không phải là tôi mà là Miska Kosevoi. Kosevoi đã bắn bác ấy. Tôi không phải chịu trách nhiệm về bác bạn đỡ đầu Petro đâu. - Thế thì mầy, đồ quân thù quân hằn, mày đã giết những người nào trong thôn chúng tao hử? Thế con cái những ai đã vì mày mà trở nên côi cút hử? - Mụ vợ goá của gã Yakov "Móng lừa" đứng trong đám dân chúng gào lên the thé. Rồi những tiếng đàn bà nức nở, kêu gào, kể lể khóc lóc những người đã chết lại vang lên, làm cho bầu không khí vốn dĩ đã sôi sục lại càng bị đun bỏng. Sau nầy Daria kể lại rằng ả cũng không nhớ là làm thế nào mà trong tay ả lại có một khẩu súng trường của kỵ binh, và ai đã nhét khẩu súng ấy vào tay ả. Đến khi đám đàn bà cất tiếng gào khóc, ả bỗng cảm thấy trong tay mình có một vật gì là lạ. Ả không nhìn xuống, nhưng chỉ sờ qua cũng biết ngay rằng đó là một khẩu súng trường. Đầu tiên ả cầm lấy nòng súng để đánh Kotliarov bằng báng súng, nhưng đầu ruồi đâm vào lòng bàn tay làm ả đau, vì thế ả đã đưa tay xuống báng súng, quay khẩu súng lại rồi giương súng lên, thậm chí nhằm đầu ruồi vào bên trái ngực Kotliarov. Ả nhìn thấy những gã Cô-dắc ở sau lưng Kotliarov đổ xô sang hai bên, để lộ bức tường bằng gỗ xám của kho thóc. Ả nghe thấy những tiếng kêu hốt hoảng: "Nầy? Làm bậy bây giờ? Giết nhầm người mình mất đấy? Hượm đã nào, đừng bắn vội!" Rồi sự chờ đợi và đề phòng rất là thú tính của quần chúng, những cặp mắt đổ xô nhìn vào ả nguyện vọng trả thù cho người chồng bị giết, và một phần cũng có cái sĩ diện hám danh bất thần nảy ra trong đầu óc ả, làm cho cảm thấy rằng mình sắp sửa có thể trở nên khác hẳn những mụ đàn bà khác rằng bọn đàn ông Cô-dắc đang nhìn mình bằng những cặp mắt ngạc nhiên, thậm chí sợ hãi, và đang chờ xem câu chuyện sẽ kết thúc ra sao, vì thế mình phải làm một việc gì khác thường, độc đáo, khiến mọi người đều phải kinh ngạc, tất cả các cảm xúc khác nhau ấy đã cùng một lúc thúc đẩy ả, xô ả, một cách nhanh chóng khủng khiếp tới chỗ làm một điều đã được quyết định sẵn ở một nơi rất sâu trong tiềm thức của ả, một điều mà ả không muốn, nhưng trong lúc nầy ả cũng không đắn đo được nữa. Ả ngập ngừng một lát, sờ sờ vào cò súng một cách rất thận trọng rồi bất thình lình, chính ả cũng cảm thấy bất ngờ, ả bóp mạnh một cái. Súng giật làm ả lảo đảo rất mạnh, phát đạn nổ làm ả ù cả tai, nhưng qua kẽ hai con mắt nheo nheo, ả nhìn thấy rằng chỉ trong khoảnh khắc khủng khiếp, một khoảnh khắc khủng khiếp và không sao cứu vãn được, khuôn mặt Kotliarov đang run run bỗng biến đổi hẳn. Ả thấy anh dang hai tay ra rồi chắp lại như sắp sửa lao đầu xuống nước từ một chỗ rất cao, nhưng sau lại ngã vật ngửa ra, đầu giật bần bật rất nhanh như trong một cơn sốt rét, mười ngón tay của hai tay vươn rộng lẩy bẩy ra sức cào xuống mặt đất. Daria ném khẩu súng đi và vẫn chưa nhận thức rõ ràng là mình vừa làm việc gì, ả quay lưng về phía người ngã vật xuống, sửa lại chiếc khăn bịt đầu, nhét lại những món tóc xoã ra ngoài, cử chỉ rất không tự nhiên trong cái giản dị bình thường của nó. - Nhưng nó vẫn còn thở kìa… - Một gã Cô-dắc vừa nói vừa lánh cho Daria đi qua, dáng điệu quá ư săn đón. Ả quay đầu nhìn lại, nhưng vẫn không hiểu người ta nói về ai và về chuyện gì. Rồi chợt ả nghe thấy một tiếng rên rất dài, rất đơn điệu, phát ra không phải từ trong họng mà như từ một chỗ nào rất sâu trong ruột gan, tiếng rên chốc chốc lại ngắt quãng vì những tiếng nấc lúc hấp hối. Mãi lúc ấy Daria mới hiểu ra rằng đó là Kotliarov đang rên rỉ và anh đang chết do bàn tay của mình. Ả bước rất nhanh, rất nhẹ nhàng qua kho thóc, đi về phía bãi họp, chỉ có vài người nhìn theo. Sự chú ý của mọi người chuyển sang gã Anchip, con lão "Vua nói phét". Như trong một cuộc diễn tập, gã rón chân chạy rất nhanh đến chỗ Kotliarov đang nằm với chiếc lưỡi lê tuốt trần của khẩu súng trường Nhật, không hiểu sao phải cầm giấu sau lưng. Mọi cử chỉ của gã đều được tính toán kỹ càng và rất chuẩn xác. Gã ngồi xổm xuống, hướng mũi lê vào ngực Kotliarov và khẽ nói: - Thôi chết đi cho rảnh, Kotliarov! - Gã nói xong đem hết sức ấn xuống cán lưỡi lê. Kotliarov hấp hối rất lâu, anh chết rất chật vật. Cái thân hình tráng kiện, xương xẩu của anh không muốn chia tay với cõi đời chút nào. Ngay sau nhát lưỡi lê thứ ba, anh vẫn còn há to miệng ngáp ngáp, một tiếng kêu khàn khàn nặng nề phát ra từ sau những cái răng nhe ra, đỏ lòm những máu: - A-a-a-! Chà cái thằng đổ tể nầy, cút mẹ mày đl! - Lão quản chỉ huy đội áp giải xô thằng con tên "Vua nói phét" ra rồi nâng khẩu Nagan nheo mắt trái nhằm bắn, động tác rất thành thạo. Phát súng nổ ra tựa như được dùng làm một hiệu lệnh. Bọn Cô-dắc vặn hỏi xong những người tù binh, bắt đầu đánh giết họ. Hoà lẫn với tiếng người kêu thét, những phát súng trường nổ ra khô khan, ngăn gọn… Một giờ sau Grigori Melekhov phi ngựa về tới thôn Tatarsky. Chàng đã đánh con ngựa đến chết. Trên con đường ra khỏi Ust-Khopeskaia, con ngựa đã quị xuống trên một chặng giữa hai thôn. Grigori vác yên ngựa tới cái thôn gần nhất, kiếm được ở đấy con ngựa cái vào hạng tồi. Thế là chàng đã về muộn… Đại đội bộ binh của thôn Tatarsky đã kéo nhau lên ngọn gò, tiến về những thôn của trấn Ust-Khopeskaia, tới địa giới khu du mục của trấn Ust-Khopeskaia, nơi đang diễn ra những trận chiến đấu chống các đơn vị của sư đoàn kỵ binh Hồng quân. Toàn thôn chết lặng, không một bóng người. Màn đêm đã phủ lên các ngọn gò chung quanh thôn như một lớp sương màu đen. Từ bên kia sông Đông vẳng sang tiếng rì rầm của những đám tiêu huyền và bạch lạp… Grigori cho ngựa tiến vào sân gia súc rồi đi vào trong nhà. Chẳng thấy đèn lửa gì cả. Trong bóng tối dày đặc chỉ nghe thấy tiếng muỗi vo ve và thấy nhấp nhoáng những chỗ mạ vàng trên mấy bức hình thánh treo ở góc chính. Grigori hít hít cái mùi xoa xuyến của ngôi nhà cha sinh mẹ đẻ, cái mùi mà chàng đã quen từ thời thơ ấu rồi hỏi: - Có ai ở nhà không? Mẹ ơi! Dunhiaska đâu thế? - Anh Griska! Có phải anh đấy không? - Có tiếng Dunhiaska hỏi ra từ nhà trong. Vẳng ra vài tiếng chân đất bước lệt sệt rồi qua kẽ cửa thấy loáng thoáng cái bóng trắng trắng của Dunhiaska đang vội vã thắt dây lưng cái váy lót. - Làm gì mà ở nhà đi ngủ sớm thế? Mẹ đâu rồi? - Ở ta… Dunhiaska nói đến đấy lại nín lặng. Grigori nghe thấy cô gái thở hổn hển đầy xúc động. - Ở ta làm sao? Bọn tù binh bị giải qua đây đã lâu chưa? - Họ bị giết rồi! - Sa-a-ao? - Bọn Cô-dắc đã giết họ… Chao ôi, anh Griska i Chị Daria nhà ta, cái của thối thây khô-ô-ốn kiếp ấy… - Trong giọng nói của Dunhiaska có thể cảm thấy những giọt nước mắt phẫn nộ, -… chính chị ấy đã tự tay giết Kotliarov, bắn bác ấy… - Mày nói láo cái gì đấy hử? - Grigori vừa kêu lên vừa hốt hoảng túm lấy cái cổ áo lót thêu của em gái. Hai lòng trắng con mắt của Dunhiaska long lanh mấy giọt nước mắt. Grigori nhìn thấy vẻ kinh hoàng lắng đọng trong tròng con mắt của em gái, biết rằng mình đã không nghe nhầm. - Còn Miska Kosevoi? Còn Stokman? - Không thấy có hai người trong đám tù binh. Bằng những lời lộn xộn, Dunhiaska kể vắn tắt về chuyện tù binh bị giết hại, về Daria. - Mẹ sợ không dám ngủ ở nhà với chị ấy nên đã bỏ sang bên láng giềng, còn chị Daria thì không biết đã đi đâu uống rượu rồi mới về say bí tỉ. Bây giờ đang ngủ… - Ở chỗ nào? - Dưới nhà thóc ấy. Grigori đi xuống nhà thóc, mở toang cánh cửa. Daria nằm ngủ ngay dưới đất, váy tốc lên một cách rất là vô liêm sỉ, hai cánh tay thon thon dang rộng, má bên phải bóng nhoáng, đầy rớt rãi, mùi rượu nặng bốc ra nồng nặc từ cái miệng há hốc. Ả nằm vẹo đầu một cách rất không tự nhiên, má bên trái áp xuống đất, hơi thở nặng nề như kéo bễ. Chưa bao giờ Grigori cảm thấy mình điên cuồng chỉ muốn chém giết như trong lúc nầy. Chàng mím chặt môi đứng vài giây phía trên Daria, miệng rên rỉ, người lảo đảo. Chàng nhìn cái thân hình nằm thườn thưỡn với cả một cảm giác căm ghét và kinh tởm không sao ghìm nén được. Rồi chàng tiến một bước, dẫm cái gót ủng đóng cá sắt lên khuôn mặt có cặp lông mày đen vòng cao như hai cánh cung của Daria và nói bằng giọng khán khàn: - Đ… ồ... rắn độc? Daria rên lên một tiếng, lẩm bẩm không biết những gì trong cơn say. Còn Grigori thì đưa hai tay lên ôm đầu, bỏ chạy ra sân, vỏ gươm đập lách cách trên ngưỡng cửa. Ngay đêm ấy, chàng không tới thăm mẹ, ra ngay mặt trận. 57. Hai tập đoàn Hồng quân số 8 và số 9 không đánh tan nổi sức chống cự của các đơn vị Quân đội sông Đông trước vụ lũ mùa xuân để tiến sang bên kia sông Dones, nhưng họ vẫn cố tìm cách chuyển sang thế tấn công trên những khu vực riêng lẻ. Phần lớn các cố gắng ấy chỉ đi đến thất bại. Thế chủ động đã chuyển sang bộ chỉ huy sông Đông. Cho tới trung tuần tháng Năm, trên Mặt trận Miền Nam vẫn chưa có sự thay đổi nào đáng kể. Nhưng chẳng bao lâu những thay đổi ấy cũng đã xảy ra. Theo kế hoạch mà tên tướng Denisov cựu tổng tư lệnh Quân đội sông Đông cùng tham mưu trưởng của hắn là tên tướng Poliakov đã thảo ra, trong khu vực hai trấn Kamenskaia và Ust-Kalitvenskaia đã thực hiện xong việc tập trung các đơn vị mệnh dânh là binh đoàn xung kích. Chúng đã điều về khu vực nầy của mặt trận những lực lượng ưu tú nhất gồm những phần tử cốt cán đã qua huấn luyện của cái quân đội trẻ tuổi nầy, những trung đoàn vùng hạ du đã được thử thách: Gundorovsky, Georgievsky, vân vân. Tính sơ lược thì lực lượng của binh đoàn xung kích nầy gồm một vạn sáu ngàn tay gươm, tay súng, cộng thêm có hai mươi tư khẩu pháo và một trăm năm mươi khẩu súng máy. Theo ý tên tướng Poliakov, đáng là binh đoàn nầy phải hiệp đồng tác chiến với các đơn vị của tên tướng Fitkelaurov hướng làng Makeevca, đánh tan sư đoàn Hồng quân số 12, rồi hoạt động bên sườn và trong hậu phương của hai sư đoàn 13 và Uralskaia, đột nhập vào địa hạt của khu Đông Thượng để hợp nhất với quân đội của bọn phiến loạn, và từ đó tiến quân tới khu Khopesky để "lấy lại sức khỏe" cho bọn Cô-dắc đang mắc cái bệnh Bolsevich. Ở vùng gần sông Dones, chúng đang tích cực làm công việc chuẩn bị tấn công, chuẩn bị đột phá. Quyền chỉ huy binh đoàn xung kích được trao cho viên tướng Sekrechev. Phần thắng đã rõ ràng ngả về phía Quân đội sông Đông. Tướng Sidorin mới lên chỉ huy quân đội nầy thay tướng Denisov, tay chân của tên Krasnov, vừa về hưu, cũng có xu hướng dựa vào Đồng minh cũng như viên tướng Frikan Bogaevsky lại được bầu làm ataman nhiệm mệnh của quân khu. Cùng với những tên đại diện của các phái đoàn quân sự Anh và Pháp, chúng đã thảo ra những kế hoạch đại qui mô để tấn công về Moskva và quét sạch chủ nghĩa Bolsevich trên toàn lãnh thổ nước Nga. Những tàu vận tải chở vũ khí đã cập bến những hải cảng trên bờ Hắc hải. Những chiếc tàu viễn dương không chỉ chở đến máy bay, xe tăng, trọng pháo, súng máy, súng trường của Anh và Pháp, mà cả những con la kéo xe cùng số lương thực, binh phục mất giá trị sau khi họ đã ký hoà ước với Đức. Các kho hàng ở Novorossisk đầy ắp những bó quần áo và quân phục cổ đứng màu xanh lá cây sẫm của quân đội Anh với hình con sư tử Anh đứng chồm hai chân trước in trên những chiếc khuy đồng. Bột mì, đường, chocolatte và rượu vang Mỹ được chất cao đến ngọn các nhà kho. Hoảng sợ trước sức sống bền bỉ của những người Bolsevich, châu u tư bản chủ nghĩa đã gửi không tiếc tay tới miền Nam nước Nga đạn pháo và đạn súng trường, chính số đạn mà các quân đội Đồng minh còn chưa kịp bắn vào quân Đức. Bè lũ phản động quốc tế đổ xô tới hòng bóp chết hẳn nước Nga Xô viết đang băng huyết… Bọn sĩ quan huấn luyện viên Anh và Pháp đến vùng sông Đông và sông Kuban dạy cho bọn sĩ quan Cô-dắc và sĩ quan của Tập đoàn quân tình nguyện các kỹ thuật lái xe tăng, bắn các kiểu pháo của Anh, chúng đang tưởng tượng mùi vị của ngày khải hoàn tiến quân vào Moskva… Nhưng trong khi đó ở vùng Dones đang diễn ra những sự việc quyết định thắng lợi của cuộc tấn công năm 1919 của Hồng quân. Không còn nghi ngờ gì nữa, nguyên nhân căn bản làm cho cuộc tấn công vừa qua của Hồng quân bị thất bại đó là cuộc nổi loạn của dân Đông Thượng. Trong hai tháng ròng cuộc bạo động đã đục khoét của hậu phương mặt trận của Hồng quân như một cái ung, đòi hỏi phải luôn luôn có sự điều động các đơn vị, gây trở ngại cho việc liên tục tiếp tế đạn được và lương thực cho tiền tuyến, làm cho việc đưa thương bệnh binh về phía sau trở nên khó khăn. Riêng hai tập đoàn Hồng quân số 8 và số 9 đã phải điều gần hai vạn tay súng về trấn áp cuộc phiến loạn. Vì không được biết rõ về mức độ đích xác của cuộc nổi loạn nên Uỷ ban quân sự cách mạng của nước cộng hoà đã không kịp thời áp dụng những biện pháp đủ kiên quyết để trấn áp. Đầu tiên người ta chỉ điều về vùng phiến loạn một số chi đội hay phân đội lẻ tẻ (chẳng hạn trường sĩ quan của Ban chấp hành trung ương toàn Nga đã phái đi một chi đội hai trăm người), những đơn vị không có đủ quân số, những đội đánh chặn nhỏ. Cả một đám cháy lớn đã nổ ra mà lại muốn dập tắt bằng cách múc từng cốc nước. Các đơn vị Hồng quân rời rạc bao vây cả một khu vực phiến loạn với đường kính lên tới một trăm chín mươi ki-lô-mét, hoạt động một cách độc lập, không có kế hoạch tác chiến thống nhất. Và tuy quân số chiến đấu chống quân phiến loạn có tới hai vạn năm ngàn tay súng, song vẫn không thu được những kết quả thực tế. Mười bốn đại đội bổ sung, vài chục chi đội đánh chặn đã lần lượt được điều tới phong toả không cho cuộc phiến loạn lan rộng. Một số chi đội học sinh sĩ quan cũng được đưa tới từ Tambob, Voronez, Ryazan. Và mãi đến khi cuộc nổi loạn đã phát triển mạnh, khi quân phiến loạn đã được vũ trang bằng những khẩu súng máy và những khẩu pháo cướp được của Hồng quân, hai tập đoàn quân số 8 và số 9 mới rút trong biến chế của mình ra, mỗi tập đoàn quân một sư đoàn tiễu phạt có những đội pháo binh và súng máy phối thuộc. Quân phiến loạn đã phải chịu những tổn thất nặng nề, nhưng chúng vẫn không bị đánh tan. Những tàn lửa của đám cháy trên vùng Đông Thượng đã bay cả sang cả khu Khopesky ở ngay bên cạnh. Bên đó đã nổ ra những cuộc bạo động của vài nhóm Cô-dắc không đáng kể do những tên sĩ quan lãnh đạo. Ở trấn Urinpinskaia, tên trung tá Alimov đã tập hợp được chung quanh bắn một số khá đông những tên Cô-dắc và sĩ quan đang lẩn trốn. Vốn là cuộc nổi loạn phải nổ ra đêm mồng một tháng Năm, nhưng âm mưu đã bị phát hiện kịp thời. Alimov cùng một số đồng đảng đã bị bắt tại một thôn của trấn Preobrazenskaia và bị xử bắn theo lời tuyên án của Toà án cách mạng. Cuộc bạo động như rắn không đầu, không thể bùng lên được nữa, vì thế các phần tử phản cách mạng của khu Khopesky đã không đạt được mục đích liên hợp với quân phiến loạn ở khu Đông Thượng. Trong mấy ngày đầu tháng Năm, một chi đội của trường sĩ quan thuộc Ban cháp hành trung ương toàn Nga xuống xe lửa ở nhà ga Chervoko, tại đấy đã có sẵn vài trung đoàn hỗn hợp của Hồng quân. Chervoko vốn là một trong những ga cuối cùng trên tuyến đường sắt Đông - Nam, các ga nầy nằm sát khu vực phía tây của mặt trận phiến loạn. Trong khi đó bọn Cô-dắc ở các trấn Migulinskaia, Mekovskaia và Kazanskaia đã tập kết những lực lượng kỵ binh rất lớn tại địa giới trấn Kazanskaia, liều mạng đánh những trận hết sức táo bạo chống lại các đơn vị Hồng quân chuyển sang thế tấn công. Trong trấn đang truyền đi những tin đồn nói rằng quân Cô-dắc đã bao vây Chervoko và sắp bắt đầu tấn công đến nơi. Tuy từ đấy đến mặt trận ít nhất còn có năm mươi vec-xta và phía trước còn có những đơn vị Hồng quân khác sẽ báo tin ngay một khi quân Cô-dắc mở được đột phá khẩu, nhưng trong trấn đã bắt đầu có tâm trạng hoang mang hốt hoảng. Các hàng ngũ Hồng quân đã dàn thành đội hình cũng rung động. Ở một chỗ nào đó sau nhà thờ chợt có tiếng ra lệnh oang oang: "Cầm su-u-úng!" Thế là dân chúng chạy rối cả lên trong các phố. Té ra chỉ là một cuộc báo động nhầm. Có một đại đội kỵ binh Hồng quân tiến từ phía làng Malkovo về trấn mà lại tưởng là quân Cô-dắc. Các học sinh sĩ quan và hai trung đoàn hỗn hợp xuất phát về hướng trấn Kazanskaia. Hai ngày sau hầu như toàn bộ, trung đoàn Kronstat vừa kéo đến chưa được bao lâu đã bị quân Cô-dắc tiêu diệt. Ngay sau trận chiến đấu đầu tiên với các chiến sĩ trung đoàn Kronstat, quân Cô-dắc đã tổ chức một trận tập kích đêm. Vì không dám mạo hiểm đến chiếm cái thôn mà quân phiến loạn vừa rút bỏ, trung đoàn phải nghỉ đêm trên đồng cỏ sau khi đã đặt những vọng gác và bộ tiêu bí mật. Đến nửa đêm, vài đại đội kỵ binh Cô-dắc đã bao vây trung đoàn, làm như phát huy một hoả lực điên cuồng, nhưng thật ra là khua những cái mõ rất to bằng gỗ! Ban đêm, quân phiến loạn thường khua những chiếc mõ ấy để giả làm tiếng súng máy: nói chung thì hầu như không thể phân biệt được tiếng mõ với tiếng hoả lực súng máy thật. Đến khi các chiến sĩ trung đoàn Kronstatsky bị bao vây nghe thấy trong bóng đêm mịt mùng tiếng nổ liên hồi của vô số những khẩu "súng máy", tiếng các bộ tiêu của họ nổ súng như điên, tiếng quân Cô-dắc la thét, tiếng huyên náo và tiếng vó ngựa rầm rập của những đợt sóng tấn công kỵ binh mỗi lúc một gần, họ đã chạy tán loạn ra sông Đông, cố chọc thủng vòng vây nhưng lại bị quân Cô-dắc xung phong đánh bật trở lại. Trong toàn quân số trung đoàn chỉ sống sót vài người bơi được qua sông Đông mênh mông vì cơn lũ mùa xuân. Sang tháng Năm, tất cả các lực lượng tăng viện mới của Hồng quân bắt đầu kéo từ sông Dones tới mặt trận của quân phiến loạn: sư đoàn Kubanskaia số 33 đã kéo tới nơi và lần đầu tiên Grigori Melekhov cảm thấy toàn bộ sức mạnh của một đòn tấn công thật sự. Các chiến sĩ Kuban liên tiếp đánh đuổi sư đoàn Một của chàng, không cho lấy lại hơi một phút nào. Grigori rút bỏ hết thôn nọ đến thôn kia, chạy về phía bắc, về sông Đông. Chàng nán lại một ngày ở gần trấn Karginskaia, trên địa giới vùng sông Tria, nhưng sau đó, dưới áp lực của một lực lượng địch quá lớn, chàng bị bắt buộc không những phải rút bỏ Karginskaia, mà còn phải tức tốc xin viện binh. Koldrat Medvedev điều tới cho chàng tám đại đội kỵ binh thuộc sư đoàn của hắn. Những tên Cô-dắc bên hắn đều được trang bị đầy đủ lạ lùng. Tất cả đều dồi dào đạn được, quần áo chỉnh tề, giầy ủng rất tốt. Mọi thứ đều đã được lột trên người các chiến sĩ Hồng quân bị bắt làm tù binh. Tuy trời nóng nhưng nhiều gã Cô-dắc trấn Kazanskaia vẫn diện áo da ngắn. Hầu như tên nào cũng có súng ngắn hay ống nhòm… Quân Cô-dắc trấn Kazanskaia đã chặn được ít lâu sức tấn công bất chấp mọi trở ngại của sư đoàn Kubanskaia số 33. Nhân tình hình đó, Grigori quyết định đi Vosenskaia một ngày vì Kudinov cứ khẩn khoản mời chàng về họp cho kỳ được. 58. Chàng đến Vosenskaia từ lúc sáng sớm. Nước lũ của sông Đông đã bắt đầu rút. Không khí nồng nặc cái mùi ngọt ngọt của những cây tiêu huyền. Ở gần sông Đông, những cái lá mọng nước mầu xanh sẫm của dãy sồi rì rầm như mơ ngủ. Hơi nước bốc lên ngùn ngụt trên những dải đất bị bóc trần. Một lớp cỏ nhọn hoắt đã nhú lên trên những chỗ đó, nhưng dưới những khoảng đất thấp vẫn còn nhấp nhoáng những đám nước tù, những con bò nước kêu me me bằng một giọng rất trầm và trong bầu không khí ẩm ướt sặc mùi đất sét và mùi bùn, những đàn muỗi vẫn bay nhung nhúc tuy mặt trời đã mọc. Trong bộ tư lệnh có tiếng một chiếc máy chữ cổ lỗ đập lách cách, người đông nghìn nghịt, khói thuốc lá bốc mù mịt. Grigori bắt gặp Kudinov đang làm một việc kỳ quặc: lúc chàng lặng lẽ bước vào, hắn cũng chẳng buồn ngước mắt lên nhìn chàng mà cứ nghiêm trang và tư lự rứt từng cái chân của một con nhặng to màu xanh như ngọc bích vừa bị hắn bắt. Sau khi rứt hết những cái chân, hắn nắm con nhặng trong lòng bàn tay khô héo rồi đưa lên tai, tập trung tinh thần nghiêng đầu lắng nghe con nhặng kêu vo vo khi trầm khi thanh. Nhìn thấy Grigori, hắn ném con nhặng xuống gầm bàn, vẻ mặt kinh tởm và bực bội, rồi chùi tay vào quần và ngả người một cách mệt mỏi ra cái lưng ghế bành mòn bóng. - Thôi ngồi xuống đi, ngài Grigori Panteleevich. - Có khỏe không thủ trưởng? - Chà, cũng như tục ngữ thường nói thôi, khỏe thì kể ra cũng khỏe, nhưng lại không làm giống được. Nhưng thôi, ở chỗ cậu hiện nay ra sao? Chúng nó đang tấn công phải không? - Tấn công ra tấn công! - Đã bám lên trên sông Tria phải không? - Nhưng được bao nhiêu lâu? Các cậu bên Kazanskaia có sang giúp. - Tình hình hiện nay như thế nầy, nầy cậu Melekhov ạ. - Kudinov quấn chiếc dây lưng da đầu kiểu Kavkaz của hắn quanh một ngón tay, rồi chăm chú nhìn chất bạc xỉn đen trên dây lưng, thở dài. - Xem ra tình hình chúng ta sẽ còn gay go hơn nữa đấy. - Hình như ở gần sông Dones đang xảy ra chuyện gì thì phải. Hoặc là ở đấy ành em mình đã nện bọn Đỏ ra trò và chọc thủng được mặt trận của chúng nó, hoặc là chúng nó đã hiểu rằng bọn mình chính là gốc gác mọi điều tai hoạ của chúng nó nên đang tìm cách tiêu diệt cho kỳ được bọn mình. - Thế có nghe được tin tức gì về bọn "Kadet" không? Chuyến máy bay cuối cùng vừa qua cho biết được những gì? - Chẳng có gì đặc biệt. Người anh em ạ, chúng nó đâu có đem các kế hoạch chiến lược của chúng nó nói cho cậu với mình biết. Sidorin, hẳn là một tay ranh ma lắm đấy, người anh em ạ! Ở hắn thì không thể mò ngay ra một điều gì đâu. Chúng nó đang có một kế hoạch chọc thủng mặt trận của bọn Đỏ và kéo đến giúp đỡ bọn mình. Chúng nó có hứa giúp đỡ. Nhưng cậu cũng biết rằng lời hứa thì không phải bao giờ cũng được thực hiện. Còn chọc thủng mặt trận thì đâu phải chuyện dễ dàng, mình cũng biết lắm vì chính mình đã từng làm việc đó với tướng Bruxilov. Mình với cậu làm thế nào biết được bọn Đỏ có bao nhiêu binh lực ở vùng sông Dones? Có thế là chúng nó đã điều từ phía Koltrak về đây vài quân đoàn, có phải thế không? Chúng mình thật là sống trong cảnh tối tăm mù mịt? Không thể nhìn thấy một cái gì xa quá đầu mũi của mình. - Nếu thế thì anh định nói gì bây giờ? Họp với hành cái gì? - Grigori vừa hỏi vừa ngáp dài một cách chán ngán. Kết cục của cuộc bạo động cũng chẳng làm cho chàng cảm thấy trong lòng đau khổ chút nào. Không hiểu sao chuyện ấy cũng không làm chàng xao xuyến gì cả. Từ ngày nầy qua ngày khác, như con ngựa kéo lê cái trục cán bằng đá trên sập đập lúa, chàng cứ đi quanh quẩn với những ý nghĩ về chỉ một vấn đề đó và cuối cùng chàng thầm khoát tay: "Bây giờ thì bọn mình không thể nào giảng hoà với Chính quyền Xô viết được nữa rồi. Nó làm chúng ta đổ quá nhiều máu. Mà chính chúng mình lại để cho nó tiến vào. Còn chính quyền của bọn "Kadet" thì hiện nay chúng nó ve vuốt, nhưng sau nầy sẽ giật ngược tóc lên cho mà xem. Thôi mặc mẹ nó? Kết cục sau nầy ra sao cũng được!". Kudinov mở bản đồ. Hắn nói nhưng vẫn không nhìn vào mắt Grigori: - Ở đây bọn mình đã họp một cuộc hội nghị và đã quyết định… - Anh đã họp hội nghị ấy với ai, với cái thằng công tước ấy có phải không? - Grigori ngắt lời hắn, chàng nhớ lại cuộc họp diễn ra gay trong căn phòng nầy dạo mùa đông và tên trung tá người Kavkaz. Kudinov cau mày, mặt sầm lại. - Hắn ta không còn sống nữa rồi. Sao lại thế? - Grigori hoạt bát hẳn lên. - Thế chẳng nhẽ mình còn chưa nói cho cậu biết hay sao? Chúng nó đã giết đồng chí Georgitze rồi. - Hừ, nó thì đồng chí đồng chóe gì với anh và tôi… Chừng nào nó còn mặc cái áo khoác ngắn bằng da thuộc thì nó còn là đồng chí. Nhưng hễ Chúa run rủi cho bọn mình hợp nhất với bọn Kadet mà nó vẫn sống thì ngày hôm sau nó sẽ bôi pom-mát lên ria, chải chuốt vào rồi không thèm chìa tay cho chúng ta bắt ngay. Hoạ chăng chỉ đưa ra ngón tay út như thế nầy nầy. - Grigori chỉa một ngón tay nâu xịt bẩn thỉu, cười khà khà, hai hàm răng nhe ra trắng loá. Mặt Kudinov nom càng cau có hơn. Trong ánh mắt và giọng nói của hắn đã lộ rõ vẻ khó chịu, bực bội và tức tối, nhưng hắn vẫn còn cố nén. - Chuyện nầy chẳng có gì đáng cười đâu. Đừng có cười cái chết của người khác. Cậu đã trở thành đại loại như thằng ngốc Vanhiuska[286] rồi. Chúng nó giết một con người mà cậu lại nghĩ: "Sao chúng mầy chẳng chết hết đi cho xong!" Grigori đã có chút bực mình, nhưng chàng vẫn không để lộ ra nét mặt là sự so sánh của Kudinov đã chạm tới lòng tự ái của chàng. Chàng bật cười trả lời: - Đúng là như thế đấy: "Sao chúng mầy chẳng chết hết đi cho xong". Tôi không thừa hơi mà thương cái bọn bạch diện thư sinh ấy. - Như thế đấy, chúng nó đã giết mất Georgitze… - Trong chiến đấu à? - Nói thế nào bây giờ? Cả một câu chuyện đen tối, mà sự thực như thế nào thì không phải có thể mau chóng làm sáng tỏ được đâu. Vốn là theo mệnh lệnh của mình hắn đã tới ở tại đội vận tải. Nhưng hình như hắn đã không ăn ý được với bọn Cô-dắc thì phải. Hôm ấy đang có chiến đấu ở gần Zuzarevka, chiếc xe hắn đi chỉ cách tuyến lửa hai vec-xta. Cái cậu Georgitze ấy, hắn ngồi trên càng xe (bọn Cô-dắc kể lại với mình như thế). Chúng nó bảo là đã có một viên đạn lạc trúng ngay vào thái dương hắn. Nhưng hình như không phải như thế… Có lẽ bọn Cô-dắc, mấy thằng chết tiệt ấy, chúng nó đã giết hắn… - Nhưng chúng nó giết như thế là đúng đấy! - Thôi cậu im đi! Đừng có nói lung tung. - Anh đừng bực mình làm gì. Tôi nói đùa đấy thôi. - Đôi khi cậu có những câu nói đùa thật là ngu xuẩn… Cậu thật như con bò mộng: ăn đâu phá đấy. Sao thế, theo ý cậu thì cần phải giết các sĩ quan à? Lại cái chuyện "đả đảo lon vai" phải không? Còn chưa đến lúc cậu phải thông minh thêm một chút hay sao, Grigori? Khập khiễng thì cũng phải dứt khoát khập khiễng một bên chân nào chứ? - Thôi đừng làm rầm lên nữa, kể nốt đi! - Còn có gì mà kể? Mình hiểu ngay là bọn Cô-dắc đã giết hắn, bèn tới đấy, nói toạc móng heo cho chúng nó nghe. Mình bảo chúng nó thế nầy: "Cái bọn chó đẻ, các anh lại định giở cái trò cũ phải không? Các anh lại bắt đầu bắn các sĩ quan, như vậy không sợ quá sớm à? Dạo mùa thu, các anh cũng đã bắn họ, nhưng sau đó, đến lúc bị chúng nó vặn cổ, các anh lại phải cần đến sĩ quan. - Mình lại bảo, - chính các anh đã kéo nhau đến quỳ gối van xin "Xin ngài hãy nắm lấy quyền chỉ huy, xin ngài hãy lãnh đạo chúng tôi?" Thế mà bây giờ lại vẫn cái nốt cũ à? Phải, mình đã nói cho chúng nó nhục, đã chửi mắng chúng nó một trận. Nhưng chúng nó vẫn chối bai bải, chúng nó bảo: "Cầu Chúa cứu vớt, thật quả anh em chúng tôi không giết hắn đâu?" Song mình nhìn vào mắt chúng nó, thấy đúng là chúng nó đã thịt hắn. Cậu bảo còn làm thế nào với hắn được nữa? Đái vào mắt chúng nó mà chúng nó cứ bảo là mưa móc Chúa ban cho. - Kudinov tức tối vo tròn sợi dây lưng, mặt đỏ bừng bừng. - Chúng nó đã giết mất một con người hiểu biết, còn mình mất hắn thì bây giờ cứ như mất một cánh tay. Lấy ai thảo các kế hoạch bây giờ? Lấy ai góp ý kiến bây giờ? Như cậu và mình bàn bạc với nhau đấy, hễ vấn đề có dính líu đến chiến lược, chiến thuật, là chúng mình lập tức trở thành những thằng chẳng được tích sự gì cả. Cũng may mà có Petro Bogatyrev đi máy bay tới đây, nếu không sẽ chẳng còn có ai để trao đổi ý kiến nữa… Chao ôi, nhưng thôi, mặc mẹ nó, không nói đến chuyện ấy nữa? Bây giờ công việc trước mắt là thế nầy: nếu anh em mình ở vùng Dones không chọc thủng được mặt trận thì chúng mình không bám được ở đây đâu. Đã quyết định như trước kia đã nói là đem cả quân đội ba vạn người xông ra mở đột phá khẩu. Nếu chúng nó kéo đến đánh cậu thì cậu cứ rút về tới sát sông Đông. Chúng ta sẽ bỏ bờ bên phải từ Ust-Khop tới Kazanskaia, sẽ đào chiến hào trên bờ sông Đông để phòng thủ. Ngoài cửa có tiếng gõ mạnh. - Cứ vào! Ai đấy? - Kudinov hỏi to. Grigori Bogatyrev lữ đoàn trưởng lữ đoàn Sáu bước vào. Bộ mặt đỏ rực, rắn rỏi của hắn bóng nhẫy mồ hôi, hai hàng lông mày hung hung đã bạc màu giương cao, đầy vẻ tức tối. Hắn không bỏ chiếc mũ cát két có cái đỉnh đẫm mồ hôi, ngồi luôn vào bàn. - Cậu đến có việc gì thế? - Kudinov mỉm cười một cách dè dặt, nhìn Bogatyrev và hỏi. - Cho đạn đi. - Đã phát rồi còn gì. Cậu còn cần bao nhiêu nữa? Mình ở đây là một xưởng đúc đạn có phải không? - Thử hỏi đã phát thì phát được bao nhiêu? Mỗi anh em được một viên chứ gì? Chúng nó nã súng máy như mưa vào tôi, còn tôi thì chỉ được khom lưng xuống mà nấp cho kín. Như thế mà là chiến tranh à? Thế nầy thì, thì… khóc được! Đúng là như thế đấy! - Nhưng cậu hãy hượm đã, ở đây hai chúng mình đang bàn một vấn đề quan trọng. - Kudinov thấy Bogatyrev đứng dậy định bỏ đi, bèn vội nói thêm - Cậu hượm đã, đừng đi vội, đối với cậu thì không có gì bí mật đâu. Như thế đấy, cậu Melekhov ạ, nếu chúng mình không còn bám lại ở bên nầy sông được nữa thì sẽ phải đột phá mà ra. Chúng mình sẽ bỏ tất cả những người không ở trong quân đội, bỏ tất cả các xe vận tải, cho bộ binh lên xe, mang theo ba đại đội pháo rồi chọc vòng vây về tới sông Dones. Chúng mình muốn cậu làm tiên phong. Cậu không phản đối chứ? - Mình thế nào cũng mặc. Còn gia đình của chúng ta thì sao? Bao nhiêu đàn bà, con gái, người già sẽ khốn mất. - Tình hình đúng như thế đấy. Chỉ riêng họ chịu nguy khốn thì vẫn hơn là tất cả chúng ta đều mất mạng. Kudinov trễ hai bên mép xuống, ngồi lặng đi giờ lâu, rồi lấy ở trong bàn ra một tờ báo. - Mà còn tin nầy nữa: tổng tư lệnh của chúng nó đã tới chỉ huy quân đội rồi đấy. Có tin đồn rằng hiện nay hắn đang ở Minlerovo, hoặc ở Kanchemirovka thì phải. Thế là chúng nó đã đến tính chuyện với chúng mình rồi! - Thật ư? - Grigori Melekhov có vẻ nghi ngờ. - Đúng thế đấy, đúng thế đấy! Đây nầy, cậu thử đọc mà xem. Sáng hôm qua trinh sát của ta đã choảng hai thằng cưỡi ngựa ở quá Sumilinskaia. Cả hai thằng đều là học sinh sĩ quan của bọn Đỏ. Bọn Cô-dắc đã chém chết cả hai thằng, một thằng nom mặt còn trẻ, chúng nó bảo rằng có thể là một thằng chính uỷ gì đó. Trên người chúng nó đã tìm thấy tờ báo mang cái tên "Trên đường" trong cái xà cột số ngày mười hai tháng nầy. Chúng nó viết về anh em mình thật hết sức kỳ quặc! - Kudinov chìa cho Grigori tờ báo, một góc đã bị xé để cuốn thuốc lá. Grigori nhìn lướt qua đầu đề bài báo đánh dấu bằng bút chì hoá học rồi bắt đầu đọc: CUỘC PHIẾN LOẠN TRONG HẬU PHƯƠNG Cuộc nổi loạn của một phần dân Cô-dắc sông Đông kéo dài đã nhiều tuần. Cuộc nổi loạn nầy đã do những tên sĩ quan phản cách mạng, đặc vụ của Denikin, kích động. Nó đã có được sự ủng hộ của tầng lớp kulak Cô-dắc. Bọn kulak đã lôi kéo được một phần đáng kể trong tầng lớp trung nông Cô-dắc đi theo chúng. Điều hoàn toàn có thể xảy ra là trong trường hợp nầy hay trường hợp khác, người dân Cô-dắc đã phải chịu những sự bất công do những người đại biểu cá biệt của Chính quyền Xô viết gây ra. Những tên đặc vụ của Denikin đã khéọ léo lợi dụng tình hình đó để thổi to ngọn lửa phiến loạn. Trong khu vực phiến loạn, những tên Bạch vệ đê tiện đã đeo cái mặt nạ ủng hộ Chính quyền Xô viết để có thể tranh thủ dễ dàng hơn sự tin tưởng của người trung nông Cô-dắc. Như vậy, những hành vi xảo quyệt của bọn phản cách mạng, các lợi ích của tầng lớp kulak và sự tăm tối của quần chúng Cô-dắc đã nhất thời hoà với nhau làm một thành một cuộc phiến loạn vô nghĩa lý và tội lỗi trong hậu phương quân đội của chúng ta ở Mặt trận miền Nam. Đối với người chiến sĩ, một cuộc phiến loạn trong hậu phương cũng giống hệt như một cái ung trên vai người công nhân. Muốn có thể chiến đấu để bảo vệ và phòng thủ đất nước Xô viết, muốn đánh bại các bầy cường đạo của giai cấp địa chủ và của bè lũ Denikin, thì cần phải có một hậu phương bền vững, an toàn, đoàn kết hoà hợp của công nông. Vì thế nhiệm vụ hết sức quan trọng trong lúc nầy là quét sạch cuộc phiến loạn và những tên phiến loạn ra khỏi vùng sông Đông. Chính quyền Xô viết trung ương ra lệnh phải giải quyết nhiệm vụ đó trong thời hạn ngắn nhất. Để chi viện cho quân đội tiễu phạt đang chiến đấu chống lại cuộc phiến loạn phản cách mạng đê tiện, những lực lượng tăng cường ưu tú đã và đang được điều động tới. Những cán bộ tổ chức ưu tú nhất đã được phái tới đây để giải quyết nhiệm vụ cấp thiết ấy. Phải chấm dứt ngay cuộc phiến loạn. Các chiến sĩ Hồng quân chúng ta cần phải nhận thức thật rõ ràng rằng những tên phiến loạn ở các trấn Vosenskaia, Elanskaia hay Bukanovskaia đều là những tên tay sai trực tiếp của hai tên tướng Bạch vệ Denikin và Koltrak. Cuộc nổi loạn càng kéo dài thì cả hai bên sẽ càng phải chịu thêm nhiều hy sinh. Muốn bớt đổ máu thì chỉ có thể có một con đường là giáng một đòn vũ bão, khốc liệt, đánh là phải tiêu diệt ngay. Phải chấm dứt ngay cuộc phiến loạn. Phải mổ ngay cái ung trên vai và lấy sắt nung đỏ dí vào. Lúc đó Mặt trận miền Nam sẽ được rảnh tay để giáng cho địch một đòn chí mạng". Grigori đọc xong, mỉm một nụ cười thê thảm. Bài báo đã làm cho trong lòng chàng tràn ngập phiền não và phẫn nộ. "Chúng nó hạ bút là ghép ngay cho bọn mình với Denikin, coi ngay bọn mình là tay sai của hắn…". - Thế nào, chúng nó viết có hay không? Chúng nó sắp sửa lấy sắt nung đỏ dí vào chúng ta đấy. Được, rồi để xem mèo nào cắn mỉu nào! Có đúng không, Melekhov? - Kudinov chờ một lát câu trả lời rồi nói với Bogatyrev - Cậu cần đạn à? Bọn mình sẽ cho! Cứ mỗi thằng kỵ binh ba mươi viên, cho toàn lữ đoàn. Đã đủ chưa? Cậu ra ngay nhà kho mà lĩnh. Nhưng Bogatyrev ạ, ở chỗ cậu phải dựa nhiều hơn vào thanh gươm và mưu trí mới được, như thế thì hơn? - Trên mình một con cừu ghẻ mà rứt được một túm lông thì cũng thú? - Bogatyrev sung sướng mỉm cười, rồi từ biệt bỏ ra ngoài. Sau khi thoả thuận xong với Kudinov về những chuyện liên quan tới cuộc rút lui về vùng sông Đông trù tính sẽ phải tiến hành, cả Grigori Melekhov cũng ra về. Trước lúc chia tay, chàng hỏi: - Trong trường hợp tôi đem toàn sư đoàn tới Batski, việc vượt sông sẽ phải thực hiện bằng cách nào? - Sao lại vẽ chuyện thế! Tất cả kỵ binh đều có thể bơi qua sông Đông được. Ở đâu lại có chuyện phải dùng cái gì để chở kỵ binh qua sông. Anh phải biết rằng ở chỗ tôi chỉ có ít anh em là dân ven sông Đông. Bọn Cô-dắc vùng sông Tria đâu phải là những thằng quen bơi lội. Quanh năm suốt đời sống giữa đồng cỏ, làm gì có chỗ nào mà bơi. Phần lớn xuống nước là chìm nghỉm. Cứ bám lấy ngựa mà qua sông. Trước kia thường làm như thế trong các cuộc diễn tập đấy, cả trong trận chiến tranh chống Đức cũng phải làm như thế. - Tôi nói là nói về bộ binh. - Đã có phà đấy. Chúng ta sẽ sửa soạn thuyền bè, cậu không phải lo - Nhân dân cũng sẽ phải qua bằng thuyền. - Mình cũng biết. - Anh sẽ phải đảm bảo cho tất cả mọi người vượt sông, nếu không lúc đó tôi sẽ cho anh hồn lìa khỏi xác! Nếu dân chúng vùng ta mà phải ở lại thì sẽ thấy tôi không nói đùa chút nào đâu. - Mình đã bảo làm được là sẽ làm được? - Còn pháo thì sao? - Súng cối sẽ phá nổ, còn mấy khẩu ba điu-im thì lôi về đây. Chúng mình sẽ kiếm những cái thuyền to để chở các đại đội pháo sang bờ bên kia. Grigori bước ra khỏi bộ tư lệnh, trong óc vẫn còn mang ấn tượng bài báo vừa đọc. "Chúng nó gọi bọn mình là những thằng tay sai của Denikin… Nhưng thật ra bọn mình là thế nào cơ chứ? Suy đến cùng thì rành rành là tay sai rồi, còn bực bội nỗi gì? Sự thật nó đập ngay vào mắt…" Chàng nhớ lại những lời mà gã Yakov "móng lừa" vừa qua đời đã nói. Hồi còn ở Karginskaia, có một lần khuya lắm Grigori mới về đến chỗ đóng quân. Grigori tạt vào chỗ bọn lính pháo binh ở một trong những ngôi nhà trên quảng trường. Trong lúc đang chùi chân vào cái chổi ở phòng ngoài, chàng nghe thấy gã Yakov "móng lừa" tranh cãi với một tên nào đó. Gã nói: "Cậu bảo rằng chúng mình tách rời hắn ra rồi à? Sẽ hành động không chịu uy quyền của một kẻ nào nữa rồi à? Khồ - khồ! Trên vai cậu không có một cái đầu mà chỉ có một quả dưa dại loại không ăn được thôi! Nếu cậu muốn tìm hiểu cho ra thì hiện nay chúng mình cũng chẳng khác gì những con chó không có nhà. Có những con chó bị chủ ghét bỏ, hoặc vì giở trò bậy bạ, bỏ nhà ra đi, nhưng đi đâu bây giờ? Không thể nào đi theo đàn sói được vì chuyện ấy cũng đáng sợ, hơn nữa còn cảm thấy rằng chó sói thuộc về loài thú dữ. Song nhà chủ thì không thể quay về được nữa, vì đã làm bậy thì sẽ phải đòn. Bọn chúng mình cũng thế thôi. Và cậu hãy nhớ lời mình nói: chúng mình hãy quặp đuôi xuống bụng, bò lết tới gặp bọn "Kadét" và nói với chúng nó: "Các anh em thân mến ơi, anh em hãy làm ơn làm phúc thu nạp lấy chúng tôi". Tình hình rồi sẽ như thế đấy!" Sau trận chiến đấu ở gần Klimovka, hôm chàng chém chết những chiến sĩ thuỷ binh, Grigori luôn luôn sống trong một tâm trạng lãnh đạm tê dại nó hoàn toàn xâm chiếm đầu óc chàng. Chàng cứ sống với cái đầu cúi gục, không một nét cười, không một niềm vui. Trong một ngày nào đó, chàng cũng có cảm thấy mình chao đảo vì nỗi đau buồn và thương xót trước cái chết của Kotliarov, nhưng sau đó cả đến tâm trạng ấy cũng qua đi. Điều duy nhất còn lại cho chàng trong cuộc đời (ít nhất cũng là chàng có cảm tưởng như thế) là tình cảm say đắm đối với Acxinhia nó vừa cháy bùng lên với một sức mạnh mới không gì có thể ghìm hãm được. Chỉ có một mình Acxinhia còn thu hút chàng như cái ánh lập lòe xa lắc của đống củi trên đồng cỏ thu hút người lữ hành trong đêm thu tối đen lạnh lẽo. Ngay lúc nầy, trong khi ở bộ tư lệnh ra về, chàng cũng nhớ tới nàng, bụng bảo dạ: "Bọn mình sắp chọc thủng vòng vây đến nơi rồi, nhưng còn Acxinhia thì sao? - Rồi chàng không trù trừ, không cần suy nghĩ lâu la gì, quyết định ngay - Natalia sẽ ở lại với hai con và với mẹ, còn Acxinhia thì mình sẽ đưa đi theo. Mình sẽ cho Acxinhia một con ngựa và cho đi cùng với sư đoàn bộ của mình". Chàng vượt qua sông Đông, sang tới Batki, vào chỗ ở của mình, rồi xé một tờ giấy trong cuốn sổ tay, viết vài chữ: "Acxiutka! Có lẽ chúng ta sẽ phải rút lui sang vùng tả ngạn sông Đông, vì thế em hãy bỏ hết của cải mà đi Vosenskaia. Em tới đó sẽ tìm đến chỗ anh, ở cùng với anh". Chàng lấy keo anh đào loãng dán bức thư, trao cho Prokho Zykov rồi đỏ mặt, cau mày, vờ làm vẻ nghiêm khắc để giấu không cho Prokho nhận thấy tâm trạng bối rối của mình và nói: - Cậu hãy về Tatarsky, trao bức thư nầy cho Acxinhia nhà Astakhov. Nhưng cậu phải đưa thế nào cho… cho, chẳng hạn như trong gia đình tôi, không có ai nhìn thấy. Hiểu chưa? Tốt nhất cậu chờ đến đêm hãy mang sang và đưa cho Acxinhia. Không cần có thư trả lời. Và sau đó, còn chuyện nầy nữa: cho cậu nghỉ phép hai ngày. Thôi đi đi! Prokho đã bước ra chuồng ngựa, nhưng Grigori chợt nhớ ra, bèn gọi lại: - Cậu nhớ tạt sang nhà tôi, bảo hộ mẹ tôi hoặc Natalia đưa sẵn quần áo và các đồ vật đáng giá khác sang bên kia sông. Thóc lúa thì đem chôn đi, còn gia súc thì đuổi cho bơi qua sông. 59. Ngày hai mươi tháng Năm, các đơn vị quân phiến loạn bắt đầu rút lui trên khắp vùng hữu ngạn. Các đơn vị đó vừa đánh vừa rút, cố nán lại trên từng tuyến. Dân chúng các thôn trên dải đồng cỏ đổ xô ra sông Đông với cả một tâm trạng hoang mang hốt hoảng. Những người già và phụ nữ thắng tất cả các gia súc kéo xe có trong nhà rồi chất hòm xiểng, đồ ăn thức dùng, thóc lúa và cho con nít lên xe. Họ phân chia những con bò và cừu trong các đàn nuôi chung và xua đi dọc theo đường cái. Những đoàn xe vận tải rất lớn vượt lên trước quân đội, kéo cuồn cuộn về các thôn ven sông Đông. Theo lệnh của bộ tư lệnh, bộ binh đã bắt đầu rút lui trước một ngày. Ngày 21 tháng Năm, đại đội bộ binh của thôn Tatarsky cùng đội nghĩa dũng của dân ngụ cư trấn Vosenskaia tiến ra khỏi thôn Trebotarev của trấn Ust-Khopeskaia, hành quân một chặng trên bốn mươi vec-xta, rồi đến nghỉ đêm ở thôn Ryvnyi thuộc trấn Vosenskaia. Ngày 22, từ tảng sáng bầu trời đã phủ một màn sương mù nhợt nhạt. Trên cả một khoảng bao la mênh mông sương khói chẳng thấy một gợn một bóng mây nào. Chỉ về phía nam, trên đường gờ của một cái đèo ven sông Đông là có một đám mây màu hồng chói lọi hiện lên nhỏ xíu lúc mặt trời sắp mọc. Đường viền phía đông của đám mây tựa như băng tuyết, tóe ra một thứ ánh sáng đỏ tía. Đến khi mặt trời ló ra sau những ngọn gò cát mát rượi sương đêm của bờ bên trái, đám mây ấy biến mất hẳn, không còn chút dấu vết gì nữa. Tiếng những con cuốc cuốc kêu trên bãi cỏ hoang nghe chói tai hơn, những con bói cá cánh nhọn hoắt lao thẳng xuống nước ở chỗ lòng sông cạn và đầy cát nom như những đám lông màu xanh biếc rồi lại bay vọt lên với những con cá nhỏ nhấp nhoáng như bạc trong những cái mỏ hung ác. Đến giữa trưa, trời nóng như thiêu, cái nóng chưa từng thấy trong một ngày tháng Năm. Hơi nước bốc ngùn ngụt như trước cơn mưa. Ngay từ lúc trời còn chưa rạng, những chiếc xe tải của dân chạy loạn đã từ đằng đông kéo theo bờ bên phải sông Đông tới những khoảng rừng đã chặt cây ở Vosenskaia. Không lúc nào ngớt tiếng bánh xe lọc cọc trên con đường của các vị Ghet-man. Tiếng ngựa hí, tiếng bò rống và tiếng người lao xao vang từ trên núi xuống bãi cỏ hoang ven sông. Đội nghĩa dũng của dân ngụ cư trấn Vosenskaia gồm khoảng hai trăm chiến binh, vẫn còn ở lại thôn Ryvnyi. Đến chừng mười giờ sáng họ nhận được mệnh lệnh truyền xuống từ Vosenskaia: đội nghĩa dũng chuyển tới thôn Bolsoi Gromoc, đặt những vọng tiêu trên con đường của các vị Ghet-man cũng như trong các phố để bắt giữ tất cả những gã Cô-dắc nào còn trong tuổi đi lính mà chạy về Vosenskaia. Xe cộ của dân chạy loạn về hướng Vosenskaia cứ trườn tới Gromoc như một làn sóng. Những người đàn bà đầy bụi bậm, đen sạm vì dãi nắng xua những đàn gia súc, những gã cưỡi ngựa tiến theo hai bên đường. Tiếng bánh xe rít, tiếng ngựa hí, tiếng cừu be be, tiếng bò rống, tiếng trẻ khóc, tiếng rên la của những người mắc bệnh thương hàn cũng được đưa đi theo trong khi rút lui, ngần ấy thứ tiếng làm náo động cả bầu không khí trầm lặng trước kia không có gì phá nổi của những cái thôn nấp kín trong những khu vườn anh đào. Các thứ tiếng ồn ào đủ loại ấy hoà lẫn với nhau, nghe đã khác thường đến nỗi những con chó trong các thôn đã sủa đến hoàn toàn khản cả tiếng và không còn xồ ra cắn từng người khách đi đường, không chạy theo những chiếc xe tái dọc vào các ngõ hàng vec-xta cho đỡ buồn như lúc đầu nữa. Prokho Zykov ở chơi nhà hai ngày, trao bức thư của Grigori cho Acxinhia, chuyển lời chàng dặn miệng cho bà Ilinhitna và Natalia, rồi đến ngày hai mươi hai lại đi Vosenskaia. Hắn dự tính sẽ bắt gặp đại đội của hắn ở Batki. Nhưng tiếng hoả lực pháo binh ầm ì vọng tới vùng sông Đông nghe như vẫn còn từ một nơi nào đó trên sông Tria. Prokho cũng ngại không muốn mò tới cuộc chiến đấu đang diễn ra sôi nổi, vì thế hắn quyết định cứ đến Batki rồi chờ ở đấy cho đến khi Grigori tới nơi cùng với sư đoàn Một của chàng. Suốt con đường tới thôn Gromoc, Prokho luôn luôn bị những chiếc xe tải của dân chạy nạn vượt lên trước. Hắn đi chẳng có vẻ gì vội vã gần như lúc nào cũng cho ngựa lững thững bước một. Mà cũng chẳng có gì làm hắn phải vội. Từ Rubegin trở đi, hắn nhập vào đoàn rút lui của trung đoàn bộ trung đoàn Ust-Khopeskaia mới được tổ chức trong thời gian gần đây. Trung đoàn bộ nầy hành quân với một chiếc xe ngựa kiểu đua có càng giữa, bánh có nhíp, và hai chiếc xe ngựa bốn bánh nhỏ. Bọn trung đoàn bộ có sáu con ngựa yên cương sẵn sàng buộc đằng sau ba chiếc xe đó. Một chiếc xe bốn bánh chở những giấy tờ gì đó và những máy điện thoại, còn trên chiếc xe kiểu đua có một tên Cô-dắc có tuổi bị thương và một tên nữa mũi diều hâu, gầy một cách khủng khiếp Không hề thấy hắn ngẩng cái đầu đội chiếc mũ lông cừu non màu xám của sĩ quan lên khỏi cái đệm yên gối đầu. Đúng là hắn vừa mắc bệnh thương hàn. Hắn đắp một chiếc áo ca-pốt kéo lên sát cằm. Bụi bám đầy trên cái trán dô xanh nhợt và cái mũi thanh thanh bóng nhoáng mồ hôi, nhưng hắn vẫn luôn miệng đòi lấy thêm cái gì ấm đắp lên chân mình, và cứ đưa bàn tay to xương, gân nổi nhằng nhịt lên chùi mồ hôi trán. Hắn vừa văng tục vừa lèm bèm: - Lũ khốn nạn! Lũ thối thây? Gió lùa vào chân tao đây nầy, có nghe thấy không? Mày có nghe thấy không, Polikap? Khép tà áo lại cho tao! Con lành con ở cùng bà, bây giờ… - Rồi hắn đảo hai con mắt đúng là không phải dân vùng nầy nhìn quanh, hai con mắt nghiêm khác của tất cả những người mắc bệnh nặng. Cái gã mà hắn gọi là Polikap là một thằng Cựu giáo cao lớn, vẻ rất hiên ngang. Gã nhảy xuống đất giữa lúc con ngựa còn đang chạy, đi tới bên chiếc xe đua. - Ngài thật dễ bị lạnh quá, ngài Xamoilo Ivanovich. - Đắp ngay vào, đã bảo kìa? Polikap ngoan ngoãn chấp hành mệnh lệnh rồi bỏ đi. - Hắn là ai thế? - Prokho Zykov đưa mắt chỉ tên bị thương hỏi gã. - Một sĩ quan ở Ust-Medvediskaia. Ở trung đoàn bộ của bọn mình hiện nay đang có những thằng như thế nầy đây. Đi cùng với trung đoàn bộ có cả những người chạy loạn từ các thôn Chiukov, Bobrovsky, Krutovsky, Dimovnyi và nhiều thôn khác của trấn Ust-Khopeskaia. - Nầy, quỷ dữ lôi bà con ta đi đâu thế? - Prokho hỏi một lão già chạy loạn. Lão ngồi trên một chiếc xe chở hàng kiểu Krym chất đầy đến ngọn đủ mọi thứ đồ lủng củng. - Chúng tôi muốn đến Vosenskaia. - Có lệnh bảo bà con đi Vosenskaia à? - Anh bạn thân mến ạ, lệnh thì không có đâu, nhưng ai lại muốn chết? Có lẽ khi nào cái sợ đã ập tới trước mắt thì chính bác cũng quàng chân lên cổ mà chạy thôi. - Tôi muốn hỏi rằng cụ mò đi Vosenskaia làm gì? Vượt sang bờ bên kia ở ngay Elanskaia có hơn không? Đỡ bao nhiêu thì giờ. - Nếu vậy thì qua bằng gì? Người ta bảo đằng ấy không có phà. - Nhưng đến Vosenskaia rồi sẽ qua bằng gì? Người ta sẽ cho cụ phà để chở những của tội của nợ nầy đấy chắc? Quẳng các đơn vị ở lại trên bờ để chở người và xe cộ của các người đấy chắc? Chà, ông cụ nầy, các người thật là hồ đồ! Cứ đi là đi mà cũng chẳng cần biết đi đến đâu và đi làm gì nữa. Nhưng nầy, sao cụ lại chất tất cả những của nầy lên xe thế? - Prokho cho ngựa lên tới ngang chiếc xe, giơ roi chỉ những chiếc tay nải, hỏi giọng bực bội. - Trên ấy chẳng thiếu thứ gì đâu? Nào quần áo, cổ ngựa, bột mì lẫn mọi thứ khác cần dùng trong công việc làm ăn… Không thể nào vứt lại được. Nếu không khi trở về chỉ còn có cái xác nhà cũng chửa biết chừng. Vì thế tôi đã thắng một cặp ngựa và ba cặp bò, xếp lên được những gì là mang đi hết, cho bọn đàn bà con gái ngồi lên là đi ngay. Anh bạn thân mến ạ, anh phải biết rằng tất cả đều do mình làm ăn quần quật, đổ bao nhiêu mồ hôi nước mắt mới kiếm được, chẳng nhẽ có thể vứt bỏ hết mà không tiếc hay sao? Nếu có thể thì cả đến cái nhà tôi cũng bê đi nốt, cho bọn Đỏ chúng nó khỏi chiếm được. Ôn dịch bắt chúng nó đi. - Nhưng chẳng hạn như cái rây lớn kia, cụ lôi đi theo làm gì? Hay những cái ghế dựa nầy nữa, đem theo thì dùng được việc gì? Bọn Đỏ chúng nó cần đến làm cái quái gì? - Nhưng không thể nào để lại được? Chà, cái anh chàng thật là kỳ quặc… Nếu để lại, chúng nó không đập nát cũng đốt ra tro thôi. Không, chúng nó sẽ không thể cướp được của chúng tôi mà phát tài đâu. Cho chúng nó tức điên lên một mẻ? Mang đi tuốt tuồn tuột! Lão già vung ngọn roi quất hai con ngựa béo tốt đang thẫn thờ lê bước. Rồi lão quay người lại, giơ roi chỉ chiếc xe bò thứ ba ở phía sau và nói: - Bác xem con bé chít khăn đang đánh bò kia là con gái tôi đấy. Trên cái xe nó đánh có một con lợn cái và một lứa lợn con. Hôm ra đi con lợn mẹ đang có chửa. Có lẽ chúng tôi đã làm nó đau trong khi trói nó và bỏ nó lên xe. Thế là đêm hôm ấy nó đẻ, ngay trên xe. Bác có nghe thấy bầy lợn con ủn ỉn không? Không, cái bọn Đỏ chết tiệt ấy không thể cướp được của tôi mà phát tài đâu. Quỷ dữ bắt chúng nó đi! - Nầy, bố già ạ, lúc nào đến chỗ qua phà thì bố chớ có chạm trán với tôi đấy! Prokho tức tối nhìn thẳng vào khuôn mặt rộng bè bè đẫm mồ hôi của lão già và nói - Bố chớ có dẫn xác đến trước mặt tôi nếu không tôi sẽ tống tất cả lợn mẹ, lợn con lẫn mọi thứ của cải của bố xuống sông Đông cho mà xem! - Nhưng sao lại thế? - Lão già hết sức kinh ngạc. - Đó là vì người ta đang chết mất xác, phải chịu mọi mặt thiếu thốn mà lão, cái con quỷ già nầy, lại quơ tất cả mang theo như một con nhện ấy! - Prokho quát lên tuy ngày thường hắn vốn là một thằng ôn hoà bình tĩnh. - Những đứa ăn bẩn như lão thì thằng nầy căm thù đến chết? Đối với thằng nầy thì cái bọn như lão là những con dao găm! - Thôi xéo đường nào thì xéo đi! Xéo đi cho khuất mắt! - Lão già phát khùng thở phì phì, quay đi chỗ khác. - Kiếm đâu được cái kiểu thủ trưởng như thế nầy, tài sản của người ta lại đem quẳng xuống sông… Mình thì đối xử với hắn như với một người hiền lành lương thiện… Chính tôi cũng có một thằng con trai đóng quân lúc nầy đang cùng với đại đội của nó đánh chặn bọn Đỏ đấy… Thôi bác làm ơn đi đi cho! Nhìn thấy của cải của người khác thì chớ đem lòng ghen ghét! Bác hãy cố kiếm thêm cho mình nhiều hơn rồi sẽ đỡ tráo mắt lên nhìn của người khác? Prokho thúc con ngựa chạy nước kiệu. Sau lưng hắn, một con lợn con rít the thé, con lợn mẹ cũng kêu lên, vẻ lo lắng. Tiếng rít của con lợn con xuyên vào tai như một cái dùi. - Cái của quỷ quái gì thế hử? Đâu ra một con lợn con như thế nầy? Polikap? - Tên sĩ quan nằm trên chiếc xe kiểu xe đua nhăn mặt đau khổ quát lên, và chỉ thiếu chút nữa thì hắn khóc. - Có con lợn con rơi xuống từ một chiếc xe bò, bị bánh xe chẹt gẫy chân, - Polikap cho ngựa chạy tới, trả lời. - Bảo chúng nó… Chạy ngay ra bảo thằng chủ con lợn giết nó đi. Bảo nó là ở đây có người ốm… Đã khổ đến thế nầy rồi mà nó còn để cho rít lên như thế. Mau lên! Đến bảo nó đi! Prokho lên tới ngang chiếc xe ngựa, nhìn thấy tên sĩ quan nhỏ bé mũi diều hâu nhăn mặt, giương mắt trừng trừng nghe tiếng lợn rít, rồi lấy chiếc mũ lông cừu non màu xám bịt tai, nhưng chỉ hoài công… Polikap cho ngựa chạy tới. - Người ta không muốn giết, thưa ngài Xamoilo Ivanovich. Họ bảo rằng con lợn con ấy nó sẽ khỏi thôi, và lại bảo rằng nếu không khỏi thì đến tối chúng tôi sẽ giết. Tên sĩ quan kia tái mặt, cố hết sức ngồi dậy, hai chân lõng thõng. - Khẩu Browning của tao đâu? Giữ ngựa lại! Thằng chủ của con lợn đâu? Tao sẽ lập tức cho nó thấy… Chiếc xe nào hử? Cuối cùng lão già có lợn cũng bắt buộc phải giết con lợn con. Prokho vừa thúc ngựa chạy nước kiệu đuổi kịp một đoàn xe của trấn Ust-Khopeskaia. Phía trước chừng một vec-xta lại thấy có những chiếc xe khác và những người cưỡi ngựa khác. Xe thì ít nhất cũng hai trăm chiếc, còn bọn cưỡi ngựa đi lẻ tẻ cũng khoảng bốn chục. "Ra đến chỗ qua phà thì sẽ đại loạn?" - Prokho nghĩ thầm. Hắn đã đuổi kịp đoàn xe. Từ một chiếc xe chạy trên đầu có một người đàn bà cưỡi con ngựa rất đẹp lông màu hạt dẻ sẫm phi nước đại tới trước mặt hắn. Tới ngang Prokho, người ấy ghìm cương. Con ngựa đóng một bộ yên rất sang, đai ngực và dây mõm đều lấp loáng ánh bạc, ngay đến má yên cũng chưa mòn chút nào, còn đai bụng và đệm yên bóng lộn màu da rất tốt. Người đàn bà cưỡi ngựa rất thạo, rất khéo, bàn tay rám nắng và khỏe mạnh nắm chắc hai sợi dây cương gióng rất đúng kiểu. Nhưng xem ra con ngựa chiến to lớn coi thường bà chủ của nó. Nó long hai con mắt lồi lồi ngầu máu, ngoái cong cái cổ, nhe những cái răng vàng phẳng bẹt, cố tìm cách cắn vào một bên đầu gối tròn tròn hở ra dưới gấu váy người đàn bà. Một chiếc khăn bịt đầu mới giặt, trước kia màu lam nay đã bạc thành màu xanh da trời, quấn che kín đến mắt người đàn bà. Người ấy kéo chiếc khăn khỏi miệng rồi hỏi: - Nầy bác, bác có vượt những chiếc xe chở thương binh không? - Vượt thì có vượt nhiều xe lắm. Nhưng có việc gì thế? - Thật là tai vạ, - Người đàn bà kéo dài giọng trả lời, - tôi đi tìm chồng mà chẳng thấy đâu cả. Chồng tôi cùng đi với trạm quân y từ Ust-Khop. Anh ấy bị thương ở chân. Bây giờ hình như vết thương mưng mủ, vì thế có nhờ bà con cùng thôn nhắn tôi đem con ngựa đến cho anh ấy. Con ngựa nầy là của nhà tôi đấy, - Người đàn bà đập ngọn roi vào cổ con ngựa, mồ hôi lấm tấm trên cái cổ ngựa như những giọt sương. - Tôi đã thắng ngựa tới ngay Ust-Khop, nhưng trạm quân y không còn ở đấy nữa, đi mất rồi, tìm quanh tìm quẩn không biết bao nhiêu chỗ mà chẳng thấy đâu cả. Prokho ngắm khuôn mặt tròn rất đẹp của người đàn bà Cô-dắc, hắn cảm thấy rất thích thú khi nghe cái giọng nữ trầm dịu dàng, rất thấp của người ấy. Hắn è è trong họng trả lời: - Chà, cái nhà thím nầy! Việc quái gì mà thím phải đi lùng kiếm đức ông chồng làm gì! Cứ mặc cho anh chàng đi theo trạm quân y, còn thím mặt hoa da phấn thế kia, lại thêm một con ngựa như thế nầy làm hồi môn thì anh chàng nào chẳng muốn nhận về làm vợ! Ngay tôi có lẽ cũng đánh liều một cái xem sao. Người đàn bà miễn cưỡng mỉm cười rồi cúi cái thân hình đầy đặn xuống kéo gấu váy che chỗ đầu gối hở: - Bác đừng có pha trò như thế nữa, bác hãy bảo giúp tôi là bác có vượt những xe quân y không? - Đến đám xe kia thì có cả người ốm lẫn người bị thương đấy, - Prokho thở dài trả lời. Người đàn bà vung roi, con ngựa chỉ dùng hai chân sau quay ngoắt lại, đám mồ hôi bám đầy bẹn nó ánh lên trắng loá. Nó đã quá mệt nên phải bắt đầu chạy nước kiệu rồi mới chuyển sang nước đại. Những chiếc xe tải lăn bánh chậm chạp. Những con bò vẫy đuôi một cách lười nhác, xua những đàn mòng kêu vo vo. Trời nóng quá, không khí trước lúc giông bão ngột ngạt khó thở quá, làm những cái lá non trên những cây hướng dương mọc thấp lè tè hai bên đường cong lại, bệch màu. Prokho lại đi bên cạnh đoàn xe vận tải. Hắn rất lấy làm lạ không hiểu vì sao có nhiều tên Cô-dắc trẻ đến thế. Bọn nầy gồm những tên lạc đại đội hoặc chỉ là những thằng đào ngũ. Chúng nhập vào các gia đình và cùng các gia đình ấy đi tới chỗ vượt sông. Một số tên buộc những con ngựa chiến của chúng vào những chiếc xe tải, rồi lên nằm dài tán chuyện với bọn phụ nữ, đùa nựng trẻ con. Cũng có những tên cưỡi ngựa, gươm và súng cũng chẳng buồn giấu đi. Prokho nhìn những tên Cô-dắc ấy, nghĩ thầm: "Chúng nó bỏ đơn vị chạy trốn đấy". Nồng nặc mùi mồ hôi ngựa, mồ hôi bò, mùi gỗ xe nóng rực, mùi các đồ dùng trong nhà và mùi mỡ bôi bánh xe. Những con bò lê bước, đầu cúi gục, hai bên sườn đưa đi đưa lại một cách nặng nề. Từ những cái lưỡi thè lè, nước rớt nước rãi chảy lòng thòng xuống tới bụi đường thành những dòng lỗ chỗ như thùa hoa. Đoàn xe tiến với tốc độ chừng bốn năm vec-xta một giờ. Những chiếc xe có ngựa kéo cũng khộng vượt lên trước các xe bò. Những hễ từ một chỗ nào đó rất xa về phía nam khẽ vẳng tới những tiếng hoả lực pháo binh là tất cả lại nhộn nhịp hẳn lên, những chiếc xe thắng một hay hai con ngựa lại phá rối trật tự, rời khỏi cái đội hình rồng rắn kéo dài của đoàn xe, rẽ sang bên đường. Những con ngựa chuyển sang nước kiệu, những ngọn roi vung lên loang loáng, những tiếng quát đủ các giọng lại vang lên: "Nào, đi đi!", "Na-a-ào, quỷ dữ đẻ ra mày!", "Quàng lên nào! " Những cành cây và roi da quật đen đét lên lưng những con bò, tiếng bánh xe nghe rộn ràng hơn. Sự kinh hoàng làm tất cả đều tăng thêm tốc độ di động. Những đám bụi xám nóng hổi bốc lên trên mặt đường, nặng nề, chập chờn bay về phía sau, quay tròn rồi rơi xuống hoa màu và các thứ cỏ. Prokho cưỡi một con ngựa nhỏ nhưng rất khỏe. Nó cứ vừa chạy vừa vươn cổ xuống cỏ, lấy răng rứt khi thì một nhánh cỏ sông Đông, khi thì một túm hoa cải đầu vàng khè, khi thì một bụi giới thái. Nó rứt cỏ xong lại ve vẩy hai tai lắng nghe và vừa ăn vừa cố đá lưỡi đẩy cái hàm thiếc luôn lách cách chạm vào răng. Nhưng sau loạt đạn pháo đầu tiên, khi Prokho lấy gót ủng thúc nó, con ngựa nhỏ bé tựa như cũng hiểu bây giờ không phải là lúc ăn, vì thế lại chuyển sang một nước kiệu rất xóc. Cuộc bắn phá của pháo binh mỗi lúc một mạnh. Những tiếng nổ phá ra của các phát đạn hoà lẫn vào nhau, và trong bầu không khí ngột ngạt những tiếng rền như sấm còn kéo dài rất lâu, khi trầm khi bổng. - Giê-su-ma lạy Chúa tôi! - Một người đàn bà còn trẻ ngồi trên một chiếc xe bò làm dấu phép, lôi khỏi miệng đứa con gái đầu vú nâu hồng, bóng nhoáng vì dính sữa, rồi nhét cái vú căng mọng vàng vàng vào trong áo lót. - Quân ta bắn hay ai bắn thế? Thế nào, thầy quyền? - Một lão già đi bên cạnh những con bò hỏi Prokho. - Bọn Đỏ đấy, bố già ạ! Bên quân ta không có đạn đâu. - Chao ôi, lạy Nữ hoàng trên trời, xin Người hãy cứu vớt họ! Lão già buông cái roi trong tay, bỏ chiếc mũ cát-két đã tàng xuống, rồi quay mặt về phía đông, vừa đi vừa làm dấu phép. Về phía nam, từ sau đường sống đồi mọc đầy những cây ngô cuối mùa lởm chởm như một rừng tên, bỗng hiện lên đám mây đen mong mỏng. Đám mây chiếm dần nửa đường chân trời, che hẳn một mảng trời như tấm thảm sương. - Cháy to quá bà con ta xem kìa! - Trong chiếc xe có người kêu lên. - Có thể là chuyện gì đấy nhỉ. - Cháy ở đâu thế? - Qua những tiếng bánh xe lóc cóc có tiếng người hỏi. - Ở ven sông Tria đấy. - Bọn Đỏ đang đốt các làng trên sông Tria! - Lại đang hạn hán thế nầy, lạy Chúa đừng để… - Xem kìa, khói đen có ghê không kìa! - Không phải chỉ cháy một thôn thôi đâu! - Xuôi theo sông Tria, cháy bùng bùng từ Karginskaia trở đi, hiện nay ở vùng ấy đang có chiến đấu mà… - Nhưng có thể là cả vùng sông Chernaia không? Đánh cho chạy nhanh lên thôi, Ivan? - Chao ôi, cháy đến thế kia! Làn sương đen ngòm lan rộng mãi ra, mỗi lúc lại chiếm một khoảng trời lớn hơn. Tiếng pháo binh gầm mỗi lúc một mạnh. Và nửa giờ sau, một làn gió nồm hiu hiu đã đưa tới con đường của các vị Ghet-man cái mùi khói lửa hắc hắc đầy kinh hoàng của đám cháy đang hoành hành trong các thôn trên sông Tria, cách con đường có ba mươi nhăm vec-xta. 60. Con đường đi Bolsoi Gromoc có chỗ chạy qua một đoạn tường bao xếp bằng đá xám, sau đó nó rẽ ngoặt về phía sông Đông, trườn xuống một cái khe khô không sâu lắm, trên khe có bắc một chiếc cầu làm bằng gỗ tròn. Mùa hanh, cát vàng và dá củ đậu ngũ sắc nhấp nhoáng dưới lòng khe, nhưng sau trận lũ mùa hạ, những dòng nước mưa đục ngầu chảy ào ào từ trên gò xuống khe, hợp lại với nhau. Nước đổ thẳng từ trên xuống như bức tường, rửa sạch những tảng đá rồi ầm ầm nhập vào sông Đông. Trong những ngày đó, cái cầu thường bị ngập nước, song cũng không bao lâu. Chỉ một hai giờ sau, nước đổ như điên từ trên núi xuống, phá tan hoang các vườn rau và nhổ cả những đoạn hàng rào lẫn những cọc chống đã rút xuống, dưới lòng khe bị phơi trần lại nhấp nhoáng lớp đá củ đậu mới được rửa sạch còn ẩm ướt, nặc mùi đá phấn và mùi nước. Phù sa mới bồi cũng sáng bóng lên hai bên bờ với những ánh nâu nâu: Tiêu huyền và liễu mọc rất rậm trên bờ khe. Dù những ngày hè nóng nhất, dưới bóng cây bao giờ cũng mát rượi. Bị cám dỗ bởi bóng mát, vọng tiêu của đội nghĩa dũng dân ngụ cư trấn Vosenskaia đã đến bố trí bên chiếc cầu. Vọng tiêu nầy gồm mười một gã. Khi xe cộ của dân tị nạn chưa xuất hiện trong thôn, bọn lính nằm dài dưới gầm cầu đánh bài, hút thuốc. Có những tên cởi trần ra, lần trong các đường chỉ của áo sơ-mi và đồ lót, tiêu diệt những con rận hút máu lính tráng không biết chán. Hai tên xin phép viên trung đội trưởng ra sông Đông tắm. Nhưng bọn lính được nghỉ ngơi cũng không bao lâu, chẳng mấy chốc xe cộ đã kéo ùn ùn đến cái cầu, những chiếc xe nối tiếp nhau thành một dòng liên tục và ngay lập tức cái ngõ râm mát và lặng tờ như ngái ngủ đã trở nên nhộn nhịp, ồn ào, tức thở tựa như bầu không khí ngột ngạt, hắc hắc trên đồng cỏ đã cùng với đoàn xe ập vào trong thôn từ trên ngọn gò ven sông Đông. Chỉ huy vọng gác chính là tên trung đội trưởng trung đội ba của đội nghĩa dũng, một hạ sĩ quan cao lớn, gầy khô, có bộ râu hung hung xén tỉa ngay ngắn và hai cái tai rất to vểnh ra như tai một thằng bé. Hắn đứng ngay giữa cầu, một tay đặt trên cái bao đã cũ mòn của khẩu Nagan. Hắn để cho khoảng hai chục chiếc xe được yên ổn đi qua, nhưng khi nhìn thấy trên một chiếc xe bò có một gã Cô-dắc còn trẻ, tuổi trạc hai mươi nhăm, hắn ra lệnh gọn lỏn: - Đứng lại! Gã Cô-dắc kia ghìm cương, cau mày. - Đơn vị nào? - Tên trung đội trưởng bước tới sát chiếc xe, hỏi bằng một giọng nghiêm khắc. - Nhưng các anh muốn gì? - Tôi hỏi anh thuộc đơn vị nào? Nói đi! - Đại đội thôn Rubezyn. Còn các anh là ai? - Xuống xe! Nhưng các anh là ai đã? - Xuống xe, nghe rõ chưa? Hai cái vành tai tròn như vỏ ngao của tên trung đội trưởng đỏ ửng lên. Hắn mở nắp bao súng, rút khẩu Nagan rồi chuyển sang tay trái. Gã Cô-dắc nhét dây cương vào tay vợ, nhảy trên xe xuống. - Tại sao không ở lại đơn vị? Đi đâu? - Tên trung đội trưởng hỏi vặn, - Tôi đã bị ốm. Bây giờ đi Batki… Đi cùng với gia đình. - Có giấy chứng nhận là ốm không? - Lấy đâu ra mà có được? Đại đội làm gì có y sĩ. - À không có à? Thế thì được, Karpenko, giải hắn ra trường học! - Nhưng các anh là ai mới được chứ? - Đến đằng ấy chúng tôi sẽ cho anh biết chúng tôi là ai! - Tôi còn phải về đơn vị! Anh không có quyền giữ tôi lại? - Chúng tôi sẽ đưa anh về. Có vũ khí mang theo không? - Chỉ có một khẩu súng trường. - Lấy xuống, mau lên, nếu không tôi cho một trận bây giờ! Đồ chó đẻ, còn trẻ như thế nầy mà cứ núp dưới váy vợ, chui rúc lẩn trốn! Muốn chúng tôi phải bảo vệ cho anh có phải không? - Rồi hắn nói với thêm bằng một giọng khinh bỉ - Cô-dắc Cô-diếc? Gã Cô-dắc lôi khẩu súng trường ra từ bên dưới đệm ghế rồi nắm lấy tay vợ, nhưng trước mặt người khác mà hôn nhau thì không tiện, vì thế hắn chỉ giữ bàn tay cứng cồm cộm của vợ trong bàn tay mình một lát, rỉ tai vợ không biết những gì và theo tên lính nghĩa dũng về trường học của thôn. Những chiếc xe ùn lại trong ngõ ầm ầm đổ xô qua cầu. Trong một tiếng đồng hồ, vọng gác đã giữ lại được chừng năm mươi tên đào ngũ. Trong số đó, vài tên thấy mình bị giữ lại có chống cự đặc biệt là một tên Cô-dắc nhỏ bé người thôn Hạ Kripsky trấn Elanskaia. Hắn không còn trẻ lắm, có bộ ria dài xễ, vẻ người hùng dũng. Nghe thấy tên đội trưởng vọng gác ra lệnh xuống xe, gã quất luôn cho con ngựa một roi. Hai tên lính nghĩa dũng nắm lấy dây hàm thiếc của hai con ngựa, giữ lại được thì chiếc xe đã sang tới bên kia cầu. Lúc đó gã Cô-dắc kia không cần nghĩ ngợi gì cả, rút luôn dưới tà áo ca-pốt ra một khẩu Winchester Mỹ, giương lên vai. - Tránh ra cho tao đi! Tao thì giết, quân khốn nạn! - Xuống ngay, xuống ngay! Chúng tôi đã được lệnh bắn những kẻ không phục tùng mệnh lệnh. Chúng tôi sẽ cho anh ăn kẹo đạn ngay bây giờ đấy! - Cái bọn người mu-gi-i-ích! Hôm qua còn đi theo bọn Đỏ mà hôm nay đã ra lệnh cho người Cô-dắc à? Thối không chịu được! Xéo ngay, ông bắn cho bây giờ! Một tên lính nghĩa dũng quấn một đôi xà cạp mùa đông còn mới đứng chặn ngay ở chỗ bánh trước của chiếc xe bốn bánh. Sau một cuộc vật lộn ngắn ngủi, hắn đã giằng được khẩu Winchester trong tay gã Cô-dắc. Gã kia cong lưng như một con mèo, luồn tay xuống dưới áo rút thanh gươm ra khỏi vỏ. Gã quỳ xuống, vươn người qua cái sàn treo sơn sặc sỡ buộc trên xe và thiếu chút nữa thì đâm được mũi gươm vào đầu tên lính nghĩa dũng, nhưng tên nầy đã kịp nhảy lùi lại. - Anh Timosa, thôi đi, anh Timosa yêu quý! Chao ôi, anh Timosa! Không nên làm như thế mà! Đừng gây chuyện làm gì? Họ giết mất anh bây giờ. - Mụ vợ gày gò, mặt mũi xấu xí của gã Cô-dắc phát điên đó vặn hai bàn tay vào nhau, khóc lóc kêu lên. Nhưng gã kia vẫn đứng thẳng người trên xe, múa loang loáng rất lâu lưỡi gươm sáng xanh, không cho những tên lính nghĩa dũng lại gần, vừa vung gươm vừa văng tục khàn khàn, hai con mắt rồ dại long lên nhìn khắp chung quanh. Bộ mặt xạm đen của gã giật giật như chuột rút, nước bọt phì ra dưới hàng ria dài vàng vàng, hai cái lòng trắng xanh xanh mỗi lúc một thêm ngầu máu. Bọn kia chật vật mãi mới tước được vũ khí của gã, vật gã xuống, trói gô gã lại. Xem ra nguyên nhân làm cho gã Cô-dắc nhỏ bé nầy dũng cảm hùng hổ như vậy cũng đơn giản thôi: chúng lục soát trong xe, tìm thấy một cái hũ đựng một thứ rượu nấu lấy, nồi đầu, nặng vào hạng nhất… Cái ngõ bị tắc nghẽn. Những chiếc xe đỗ sát nhau như nêm, phải tháo bò tháo ngựa, rồi dùng tay lôi những chiếc xe lên cầu. Những gọng xe, càng xe gãy răng rắc, những con ngựa tức tối hí rầm lên, những con bò bị những đàn mòng vây kín, lại bị chen chúc nên tức điên lên, không nghe theo lệnh của chủ nữa, cứ xô tới những dãy hàng rào. Tiếng chửi rủa, kêu la, tiếng roi quất đen đét, tiếng đàn bà than vãn kể lể còn vang lên rất lâu bên cạnh chiếc cầu. Những chiếc xe cuối cùng đỗ ở những chỗ có thể quay đầu được đã lộn trở lại, lên đường cái để qua sông Đông ở Bát ki. Những tên đào ngũ bị bắt giữ đều bị giải đi Batki, nhưng vì tất cả bọn chúng đều có vũ khí, nên những tên áp giải cũng không quản được. Lập tức đã nổ ra một cuộc đánh lộn giữa hai bên áp giải và bị áp giải ở ngay bên kia cầu. Một lúc sau tốp nghĩa dũng quay trở về còn những tên đào ngũ thì tự đi tới Vosenskaia, hàng ngũ có tổ chức hẳn hoi. Prokho Zykov cũng bị giữ lại ở Gromoc, nhưng hắn đưa trình giấy phép do Grigori Melekhov cấp nên bọn kia cho hắn đi ngay, không gây phiền phức gì cả. Hắn tới Batki thì trời đã sắp hoàng hôn. Hàng ngàn chiếc xe tải đổ tới từ những thôn vùng sông Tria, đỗ đầy tất cả các phố và các ngõ. Quang cảnh bên sông Đông không thể nào dùng lời mà tả được. Xe cộ của dân chạy nạn chiếm hết một khoảng bờ sông dài hàng hai vec-xta. Chừng năm vạn con người tản vào trong rừng, chờ qua sông. Phía trước mặt Vosenskaia, những đại đội pháo, những ban chỉ huy và những đồ quân nhu đã được chở qua bằng phà. Bộ binh qua sông trên những chiếc thuyền nhỏ. Vài chục con đò qua lại như mắc cửu mỗi chiếc chỉ chở được bốn, năm người. Ở bến đò, ngay sát mặt nước, diễn ra một cảnh chen chúc thật là đáng sợ. Song vẫn còn chưa thấy bóng vía số kỵ binh để lại làm hậu vệ. Từ vùng sông Tria vẫn đưa tới tiếng hoả lực pháo binh nổ như sấm và cái mùi nồng nồng, hắc hắc của các đám cháy cũng mỗi lúc một gắt, một chọc vào mũi. Cuộc vượt sông kéo dài đến lúc trời rạng. Khoảng mười hai giờ đêm thì có những đại đội kỵ binh đầu tiên tới nơi. Các đại đội nầy sẽ phải bắt đầu vượt sông lúc trời bình minh. Prokho Zykov được biết các đơn vị kỵ binh thuộc sư đoàn Một vẫn còn chưa tới nơi, bèn quyết định ở lại Batki để chờ đại đội của hắn. Hắn cầm dây cương dắt con ngựa đi len lỏi rất khó khăn giữa những chiếc xe đỗ sát sin sít bên cạnh dãy tường bao của nhà thương Batki. Hắn không tháo yên, buộc con ngựa vào càng một cái xe bò không biết của ai, nới đai bụng ngựa, còn mình thì sục trong đám xe tìm người quen. Khi đến gần cái đập, hắn nhận ra Acxinhia từ xa. Nàng đang đi ra sông Đông, chiếc khăn gói nhỏ áp trước ngực, trên vai khoác một chiếc áo ấm. Sắc đẹp lộng lẫy, đập ngay vào mắt của nàng đã làm những tên bộ binh đứng tụ tập trên bờ sông phải chú ý. Chúng nói với nàng không biết những câu gì tục tĩu, những hàm răng trắng nhởn nhe ra cười trên những khuôn mặt đầy bụi, đẫm mồ hôi. Những tiếng cười khoái trá, nghe như tiếng hí của những con ngựa đực, vẳng đến tai Prokho. Một gã Cô-dắc cao lớn ôm lấy nàng từ phía sau, và ghé môi lên cái cổ ngăm ngăm, tròn lẳn của nàng. Thằng cha có bộ tóc trắng phếch, áo sơ-mi không thắt dây lưng, cái mũ lông hất ra sau gáy. Prokho thấy Acxinhia xô mạnh gã kia ra, nhe nanh hung dữ, khẽ nói với gã không biết những gì. Những tên chung quanh phá lên cười, còn gã kia thì ngả mũ, trầm giọng xuống nói khàn khàn: "Chà, nhà thím nầy, chỉ chút xíu thôi mà!" Acxinhia rảo bước đi qua trước mặt Prokho, một nụ cười khinh bỉ rung rung trên cặp môi mọng. Prokho không gọi nàng, vẫn đảo mắt sục trong đám người, cố kiếm một bà con cùng thôn. Hắn đi lững thững giữa những chiếc xe chết lặng giương càng lên trời và bỗng nghe thấy những tiếng cười nói say sưa. Ba lão già đang ngồi trên một mảnh vải thô trải dưới gầm một chiếc xe. Giữa hai chân một lão có đặt một thùng rượu. Ba lão già đã say lè nhè lần lượt múc rượu ra uống bằng một cái ca đồng làm bằng vỏ đạn, vừa uống rượu vừa ăn cá khô. Mùi rượu nồng và mùi cá muối mặn mặn bắt anh chàng Prokho đang đói bụng phải đứng lại. - Nầy thầy quyền? Hãy vào đây uống với chúng tôi cho mọi sự đều được tốt lành! - Một lão già gọi hắn. Prokho không khách khứa gì cả, ngồi luôn xuống, làm dấu phép và mỉm cười nhận trong tay lão già mến khách ca rượu thơm phức. - Nào uống đi, còn sống được ngày nào thì cứ uống đi! Cá chép đây cứ chén đi. Nầy chàng thanh niên, anh đừng coi thường kẻ già cả nhé. Người già mới là những người thông minh! Bọn trẻ trai các anh còn phải học ở chúng tôi về cách sống và, hừ… về cả cách uống rượu nữa. - Một lão già khác nói ồm ồm giọng mũi. Mũi của lão không còn nữa, cả môi trên cũng bị ăn mất đến hở cả chân răng. Prokho vừa tợp một hớp vừa lo lắng nhìn lão già không có mũi. Uống xong ca thứ hai, sắp đến ca thứ ba thì hắn không nhịn được nữa, bèn hỏi: - Thế nào bố già, bố đã chơi bời đến mất cả mũi rồi à? - Đâu có thế, anh bạn thân mến ạ! Đó là vì lạnh đấy. Hồi còn con nít, có một lần tôi bị lạnh một trận đến phát ốm nên mới hỏng mất cái mũi đấy. - Thế mà tôi thật có lỗi với bố, cứ ngỡ bố mắc cái bệnh thổ tả ấy nên bị rụng mất mũi? Thật chẳng dại gì mà lây cái của tội của nợ ấy! - Prokho thành khẩn thú nhận. Hắn thấy lão già nói rõ như thế nên đã yên tâm ghé luôn miệng vào cái ca nốc thẳng một hơi cạn sạch, trong bụng không còn lo lắng. - Cuộc đời đã đến chỗ mạt vận rồi! Bây giờ thì tội gì mà chẳng uống? - Người có rượu, một lão già khỏe mạnh, thân hình chắc nịch, gào lên - Tôi chi mang theo đây hai trăm pút lúa mì, còn một ngàn pút nữa phải quẳng lại ở nhà. Đánh theo năm đôi bò mà phải vứt tất cả ở đây vì làm thế nào mà lôi theo với mình qua sông Đông cho được? Mình dành dụm kiếm được bao nhiêu thế là bây giờ mất hết! Tôi đang muốn có ca hát đây! Hãy chơi cho thoả đi, các bạn đồng hương ạ! - Mặt lão đỏ bừng lên, mắt lão ướt ướt vì những giọt nước mắt. - Thôi đừng kêu la làm gì, bác Trofim Ivanovich ơi. Moskva, họ không tin nhiều lắm ở những giọt nước mắt đâu. Còn người thì còn của. - Lão già ồm ồm giọng mũi khuyên bạn. - Nhưng tôi không kêu làm sao cho được? - Lão già kia nói càng to hơn, nước mắt làm mặt hắn méo hẳn đi. - Thóc thì mất! Bò sẽ chết hết! Nhà cửa sẽ bị bọn Đỏ đốt trụi! Có một thằng con trai lại bị chúng nó giết dạo mùa thu rồi! Thử hỏi tôi không kêu làm sao cho được? Kiếm tiền cho ai bây giờ? Thường là mỗi mùa hạ mục mất trên vai mười chiếc áo sơ-mi, thế mà bây giờ người không áo, chân không giầy… Thôi uống đi! Prokho vừa lắng nghe những lời trao đổi vừa ăn con cá chép to bằng cái nắp đậy lò và uống hết bảy ca rượu. Hắn kễnh cả bụng, phải cố gắng hết sức mới đứng dậy được. - Nầy thầy quyền! Cứu tinh của chúng ta! Có muốn lấy thóc cho ngựa không? Muốn bao nhiêu? Một túi! - Prokho lúng búng. Bây giờ thì xung quanh xảy ra chuyện gì hắn cũng chẳng cần biết. Lão già đổ lúa yến mạch thượng hảo hạng vào đầy một cái bao cỏ rồi giúp hắn khiêng lên vai. - Nhớ mang trả cái túi nhé! Đừng quên nhá, hãy vì Chúa! – lão vừa dặn Prokho vừa ôm lấy hắn và khóc với những giọt nước mắt của một kẻ say rượu. - Không, tôi không mang trả đâu. Tôi đã bảo không mang trả là không mang trả… - Không hiểu sao Prokho cứ khăng khăng không nghe. Rồi hắn lặc lè rời khỏi cái xe bò. Túi thóc đè oặt lưng hắn xuống, xô hắn sang một bên, Prokho có cảm giác như mình đang đi trên một khoảng đất láng băng trơn, hai chân vừa tượt vừa run như một con ngựa chưa đóng móng rụt rè bước lên băng. Hắn chập chững bước thêm vài bước rồi đứng lại. Hắn chẳng làm thế nào nhớ được rằng cái mũ trên đầu có còn hay không? Một con ngựa thiến lông hạt dẻ, trán trắng buộc bên một chiếc xe bốn bánh ngửi thấy mùi yến mạch bèn vươn cổ về phía cái túi, cắn vào một góc. Thóc lạo xạo chảy từ trong lỗ thủng ra. Prokho cảm thấy nhẹ hơn, lại cất bước. Chưa biết chừng hắn cũng có thể mang chỗ yến mạch còn lại về đến chỗ con ngựa của hắn, nhưng khi hắn đi qua một con bò mộng rất to, con bò bất thình lình đá ngang cho hắn một cái. Cái thói của loài bò vốn thường là như thế. Nó đang bị muỗi mòng cắn khổ sở, lại điên tiết vì nóng nực và cảnh chen chúc chật chội nên không để ai lại gần. Hôm ấy Prokho đầu phải là vật hy sinh đầu tịên trước cơn thịnh nộ của con bò. Hắn lạng sang một bên, đập đầu vào một cái chốt bánh xe và lập tức đánh luôn một giấc. Đến nửa đêm hắn tỉnh dậy. Trên đầu hắn, những đám mây xám xịt như chì quay lộn, bay vùn vụt về phía tây trên bầu trời xanh cao ngất. Cái lưỡi liền của vành trăng non chỉ ngó qua kẽ mây trong nháy mắt rồi bầu trời lại bị mây phủ kín mít như trong một cái gối, và gió lạnh thổi mạnh trong bóng tối cũng tựa như càng mạnh thêm. Một đội kỵ binh tiến qua rất gần ngay cạnh cá xe, chỗ Prokho nằm. Mặt đất than vãn rên siết dưới vô số những vó ngựa đóng móng sắt Đánh hơi thấy cơn mưa đã đén rất gần, những con ngựa thở phì phì. Lách cách tiếng gươm đập vào bàn đạp. Những đốm lửa ở đầu những điếu thuốc hiện lên đo đỏ. Từ chỗ đại đội tiến qua đưa tới mùi hôi ngựa và cái mùi chua loét của các đồ trang bị bằng da. Cũng như tất cả những tên Cô-dắc đã từng đi lính, qua những năm chiến tranh Prokho đã rất thân thuộc với cái mùi hỗn hợp nầy chỉ có thể có ở kỵ binh. Quân Cô-dắc đã mang cái mùi ấy qua tất cả các nẻo đường từ Phổ và Bucuvin về tới các đồng cỏ của vùng sông Đông và cái mùi ấy, cái mùi không gì đánh tan được của một đơn vị kỵ binh đã trở nên thân thiết và quen thuộc chẳng khác gì cái mùi của ngôi nhà thân yêu. Hai lỗ mũi hin hin của Prokho phập phồng hít lấy hít để, rồi hắn ngẩng cái đầu nặng như chì. - Đơn vị nào đấy, các anh em? - Kỵ binh… - Trong bóng tối có một giọng trầm trả lời tinh nghịch. - Nhưng tôi hỏi là đơn vị của ai cơ mà? - Của Petlikura[287]… Vẫn cái giọng trầm vừa nãy trả lời. - Chà cái thằng chết tiệt? - Prokho chờ một lát rồi nhắc lại câu hỏi - Trung đoàn nào đấy, các đồng chí? - Bokovsky. Prokho muốn đứng dậy, song những mạch máu trong đầu hắn cứ giật thình thịch, trong họng lờm lợm buồn nôn. Hắn bèn nằm yên một lát rồi lại thiếp đi. Lúc trời sắp rạng, gió từ sông Đông đưa vào vừa ẩm vừa lạnh. - Đã chết chưa? - Trong lúc mơ màng, hắn nghe thấy phía trên có tiếng người nói. - Vẫn còn ấm… nhưng say bí tỉ! - Một người nào đó trả lời ngay bên tai Prokho. - Lôi mẹ nó ra chỗ khác! Nằm thẳng cẳng như một cái xác chết ấy! Nhưng thôi, cậu hãy cho nó một cái vào ngực? Một tên cưỡi ngựa lấy cán giáo thúc vào sườn Prokho một cái rất đau trong lúc hắn còn chưa tỉnh. Có những bàn tay không biết của ai cào vào chân hắn, kéo hắn xềnh xệch sang bên cạnh. - Lôi hết xe cộ đi! Chúng nó ngủ như chết cả! Kiếm được một lúc như thế nầy mà ngủ với ngáy? Bọn Đỏ đánh đến đít rồi mà còn ngủ, làm như ở nhà không bằng! Đẩy hết xe cộ sang bên cạnh, đại đội pháo sắp qua đây rồi! Quàng quàng lên! Chúng nó chặn hết cả lối đi! Chà cái quâ-â-ân nầy! - Một giọng hách dịch gầm lên. Những người dân chạy nạn đang ngủ trên các xe và dưới gầm xe bắt đầu cựa quậy. Prokho đứng chồm lên. Trên người hắn chẳng còn gươm súng gì nữa, cả chiếc ủng bên chân phải cũng đã biến đâu mất, tất cả đều do hắn tự tìm cách quẳng bớt sau bữa rượu bí tỉ hôm qua. Hắn ngơ ngác nhìn quanh, định tìm dưới gầm xe, song những gã giữ ngựa và pháo thủ của đại đội pháo vừa kéo tới đã nhảy trên ngựa xuống, thẳng tay lật đổ chiếc xe cùng với tất cả các hòm xiểng chất trên đó, và chỉ nháy mắt đã dọn xong đường cho khẩu pháo tiến qua. - Ti-i-ến! Những tên giữ ngựa đã lại lên yên. Những đoạn dây thắng khâu rất rộng bị kéo thẳng căng rung lên. Những bánh xe rất cao của khẩu pháo có lồng áo ngoài vấp lạch xạch ở những chỗ ổ gà. Cái trục của một hòm đạn pháo vướng vào một cái gọng xe, làm gãy cả cái gọng xe. - Bỏ mặt trận phải không? Lính với tráng, mẹ chúng mày chứ! - Lão già ồm ồm giọng mũi uống rượu tối qua với Prokho quát to từ trên xe. Bọn lính pháo binh đang vội tiến ra chỗ vượt sông cứ lặng thinh đi qua. Prokho mò mẫm trong cảnh tranh tối tranh sáng lúc trời sắp rạng, cố tìm khẩu súng trường và con ngựa. Nhưng hắn chẳng thấy đâu cả. Ra tới gần một chiếc thuyền nhỏ, hắn tháo nốt chiếc ủng còn lại, quẳng xuống sông rồi nhúng rất lâu cái đầu đau ê ẩm như bị đánh đai sắt xuống nước. Mặt trời vừa ló thì kỵ binh bắt đầu vượt sông. Bọn Cô-dắc xuống ngựa, dồn một trăm năm mươi con ngựa đã tháo yên cương của đại đội Một xuống sông Đông, hơi phía trên chỗ khuỷu sông, nơi con sông rẽ ngoặt về phía đông thành một góc vuông. Tên đại đội trưởng có bộ râu chổi sể đỏ như râu ngô mọc rậm rì lên tới mắt và cái mũi quặp Tướng mạo hắn hung dữ, nom giống con lợn lòi một cách lạ lùng. Tay trái hắn được đeo lên cổ bằng những sợi băng bẩn thỉu đầy máu, tay phải luôn luôn quất quất chiếc roi ngựa. - Không được cho ngựa uống nước! Đuổi đi! Đuổi chúng nó xuống nước đi! Mà tại sao mầy… mẹ… mẹ… mẹ mầy chứ, mày sợ nước à? Lội ngay xuống! Con ngựa của mầy không phải là bằng đường nó không thấm nước đâu! - Hắn quát bọn Cô-dắc đang xua những con ngựa xuống nước, những cái răng nhọn hoắt của hắn nhe cả ra dưới hàng ria đỏ lòm. Những con ngựa cứ rúc vào nhau thành một đám, không muốn lội xuống nước lạnh. Bọn Cô-dắc vừa quát tháo vừa cầm roi quất tới tấp. Con ngựa đầu tiên bơi ra khỏi bờ là một con ngựa huyền mũi trắng, trên trán có ngôi sao màu hồng rất lớn. Xem ra nó bơi lần nầy không phải là lần đầu. Hai cái mông xuôi của nó chìm xuống nước, cái đuôi to sợi ngoặt sang một bên, nhưng cổ và lưng đều nhô lên khỏi mặt nước. Những con khác đều rẽ dòng nước ùa theo nó, rồi vừa kêu hồng hộc thở phì phì, vừa bơi trong làn nước sủi ngầu. Bọn Cô-dắc sang theo trên sáu chiếc thuyền. Một trong những tên đi theo đàn ngựa đứng trên mũi một cái thuyền, lăm lăm trong tay một cái dây thòng lọng, để phòng có chuyện gì xảy ra. - Đừng sang thẳng? Cho bơi chếch ngược dòng nước! Đừng để bị dòng nước cuốn đi. Cái roi trong tay tên đại đội trưởng lại hoạt động. Nó vẽ một vòng tròn, quật đánh đét xuống một bên ống ủng bê bết những vôi. Dòng nước chảy xối cuốn đàn ngựa đi. Con ngựa huyền bơi dễ dàng phía trước những con khác, bứt xa tới hai thân ngựa. Nó là con đầu tiên leo lên bãi cát ở bờ bên trái. Trong khi đó mặt trời đã ló ra sau những cành hắc dương lồm xồm, ánh sáng hồng hồng dội xuống con ngựa huyền làm bộ lông đẫm nước bóng nhoáng sáng bừng lên trong giây lát như một đám lửa đen cháy rực: - Chú ý con ngựa cái của Mrykhin? Giúp nó với! Đeo dây mõm vào cho nó. Nhưng chèo đi chứ! Chèo mạnh lên! - Tên đại đội trưởng tướng lợn lòi quát lên giọng khàn khàn. Đàn ngựa đã bơi qua sông được an toàn. Bọn Cô-dắc đã chờ sẵn ở bờ bên kia. Chúng tìm nhận ngựa, mắc dây hàm thiếc. Những chiếc yên bắt đầu được chở từ bờ bên nầy sang. - Hôm qua cháy ở đâu thế? - Prokho hỏi một gã Cô-dắc đang khiêng một cái yên ngựa lên thuyền. - Dọc theo sông Tria. - Cháy vì đạn pháo à? - Đạn với điếc gì? - Gã Cô-dắc trả lời, giọng đau khổ. Bọn Đỏ đốt đấy. - Đốt tất cả à? - Prokho kinh ngạc hỏi. - Khô-ô-ông đâu… Chúng nó chỉ đốt nhà của những kẻ có của, những nhà mái tôn hay những cơ ngơi bề thế thôi. - Đã có những thôn nào bị cháy rồi? - Từ Vitlôguzov đến Grachev. - Thế sư đoàn bộ sư đoàn Một, cậu có biết hiện giờ ở đâu không? - Ở Trukarinsky. Prokho quay về chỗ đoàn xe của dân chạy loạn. Khu vực nghỉ tạm ngoài trời kéo dài liên miên, chỗ nào cũng thấy gió thổi tạt những làn khói đắng hắc bốc mù mịt trên những đống củi đốt bằng cành khô, bằng hàng rào bị phá, bằng phân bò, ngựa khô: cánh đàn bà đang sửa soạn bữa sáng. Ban đêm còn đến thêm vài ngàn dân chạy loạn từ dải đồng cỏ bên hữu ngạn. Tiếng người nói nghe rào rào như ong vỡ tổ quanh những đống lửa và trên những chiếc xe lớn nhỏ: - Không biết bao giờ mới đến lượt mình được qua sông nhỉ? - Chao ôi, chờ đợi mãi sốt cả ruột! Lạy Chúa cứ trừng phạt tôi, tôi sẽ đổ thóc xuống sông Đông cho khỏi lọt vào tay bọn Đỏ! - Ở bến phà những người là người, cứ như một đám mây đen! - Em yêu của anh, chúng mình làm thế nào mà ném hòm xiểng ở lại trên bờ được? - Cứ dành dụm mãi đi, cứ dành dụm mãi đi… Lạy Chúa tôi, cứu tinh của chúng tôi! - Đáng là phải qua sông ngay ở thôn nhà… - Chao ôi, mất bao nhiêu hơi sức mới đến được cái trấn Vosenskaia nầy! - Nghe nói Kalinov Ugol đã bị đốt quang. - Vốn chỉ mong mò được tới bến phà… - Thôi đi, nếu không chúng nó sẽ tha chết cho phải không? - Bên chúng nó đã có lệnh: chém chết hết dân Cô-dắc từ đứa trẻ sáu tuổi đến những người già nhất. - Nếu chúng nó tóm được bà con ta ở bờ bên nầy… Nếu thế thì sao nhỉ? - Thịt đây tha hồ mà băm! Một lão già lông mày bạc phơ, thân hình cân đối, đang phô tài hùng biện bên chiếc xe bốn bánh sơn lòe loẹt kiểu Tavria. Cứ nhìn vẻ người và dáng điệu oai vệ của lão thì có thể nhận ra một tên ataman thôn đã từng giữ nhiều năm cái gậy ataman bịt đồng. - Tôi hỏi: "Chẳng nhẽ để mọi người đều phải bỏ mạng trên bờ hay sao? Vậy thì bao giờ chúng tôi mới có thể đem nồi niêu quần áo sang bên kia sông được? Phải biết rằng bọn Đỏ sẽ chém chết hết chúng tôi đấy!" Nhưng vị quan lớn ấy đã bảo tôi: "Bố già ạ, bố đừng lo! Nhân dân còn chưa sang sông hết thì chúng tôi còn giữ vững trận địa để bảo vệ nhân dân. Chúng tôi thà bỏ xác ở đây chứ không chịu để vợ con, bố mẹ già bị giết hại đâu!" Những lão già và những người đàn bà đứng vây quanh lão ataman lông mày bạc. Họ hết sức lắng nghe lão nói rồi cùng nhao nhao kêu lên: - Thế thì tại sao đại đội pháo lại chuồn đi! - Chúng nó phóng như bay ra chỗ qua sông, thiếu chút nữa thì chẹt chết người ta! - Cả kỵ binh cũng đã kéo đến rồi… - Nghe nói Grigori Melekhov đã bỏ mặt trận. - Như thế nầy thì còn ra quy củ gì nữa? Bỏ mặc nhân dân ở lại, còn bản thân chúng nó? - Quân đội lại rút đi trước! - Lấy ai bảo vệ chúng ta bây giờ? - Cứ xem đấy, kỵ binh đã bơi qua sông rồi? - Anh nào cũng chỉ biết lo cho cái thân xác của mình… - Đúng là như thế đấy! - Mọi người chung quanh đều đã phản bội chúng ta? - Mất mạng đến nơi rồi, còn gì nữa! - Phải cử vài cụ bô lão đem bánh mì và muối[288] đến chỗ bọn Đỏ. May ra chúng nó sẽ tha chết, không đem ra hành hình. Một gã kỵ binh bỗng xuất hiện ở lối vào ngõ, ngay cạnh ngôi nhà gạch đồ sộ của bệnh viện. Khẩu súng trường của gã đeo trên mũi yên, cái cán giáo sơn xanh lá cây lắc lư bên cạnh sườn gã. - Nhưng thằng Mikiska nhà tôi đây mà? - Một người đàn bà đầu trần, đã có tuổi, sung sướng kêu rên. - Có báo cáo lên tổng tư lệnh đây! Bà con tránh cho tôi đi! - Mikiska! Con yêu của mẹ! Người đàn bà có tuổi kêu lên, giọng xúc động. Làn tóc đen lẫn những món hoa râm loã xoã trước khuôn mặt hân hoan. Bà áp sát người vào bàn đạp, vào con ngựa đầm đìa mồ hôi, hỏi với nụ cười run run tên môi. Bà già nhảy qua những gọng xe, chạy len qua những chiếc xe và những con ngựa, đến trước mặt gã cưỡi ngựa. Người ta nắm lấy bàn đạp giữ gã lại. Gã giơ một chiếc phong bì màu xám có đóng dấu xi lên khỏi đầu, kêu lên: - Mầy có về thôn nhà chứ? - Có về. - Bây giờ bọn Đỏ đang ở đấy rồi… - Nhà ta thì sao? - Nhà ta vẫn còn nguyên. Nhưng nhà Fedortov bị đốt rồi. Gian nhà kho của nhà ta bắt lửa, nhưng chính chúng nó đã đến dập tắt. Con Fechixka ở trong ấy chạy ra kể lại rằng thằng quan của bọn Đỏ có bảo: "Không được để cháy một căn nhà nào của người nghèo, nhưng nhà của bọn tư sản thì đốt hết đi". - Chao ôi, thật nhờ ơn Chúa! Cầu Chúa cứu thế gia ơn cho họ? - Người đàn bà làm dấu phép. Một lão già có vẻ mặt nghiêm khắc nói giọng phẫn nộ: - Sao bà lại thế nhỉ, bà mẹ thân mến? Chúng nó đốt nhà láng giềng mà bà lại còn "thật nhờ ơn Chúa" à? - Quỷ dữ bắt họ di. - Người đàn nói rất nhanh, giọng sôi nổi. - Họ còn có thể xây được nhà khác. Còn như nhà tôi mà bị chúng nó đốt thì còn lấy quái gì mà dựng lại được nữa? Lão Fedot, nhà lão có chôn một hũ vàng, còn tôi… tôi thì quanh năm suốt đời đi làm mướn cho người ta, ăn bữa hôm lo bữa mai. - Thôi buông ra, mẹ! Con có công văn, còn phải vội. - Gã cưỡi ngựa khom người trên yên, van mẹ gã. Bà mẹ đi bên cạnh con ngựa, vừa đi vừa hôn bàn tay rám nắng đến đen sạm của thằng con trai, rồi chạy về chiếc xe của bà, còn gã cưỡi ngựa kia thì lại gào lên bằng một giọng nam cao rất trẻ: - Tránh ra nào! Có công văn đến tổng tư lệnh đây! Bà con tránh ra nào! Con ngựa của gã hăng máu, ngoáy mông loạn xạ, vừa đi vừa nhảy. Dân chúng miễn cưỡng tránh sang hai bên. Gã cưỡi ngựa có vẻ như chỉ tiến được rất chậm, nhưng chẳng mấy chốc gã đã bị lấp sau những chiếc xe, sau những cái lưng bò lưng ngựa, chỉ còn trông thấy ngọn giáo lắc lư bên trên rừng người, mỗi lúc một ra gần bờ sông. 61. Chỉ trong một ngày, tất cả các đơn vị của quân phiến loạn và dân chạy nạn đã được đưa sang bờ bên trái sông Đông. Các đại đội kỵ binh của trung đoàn trấn Vosenskaia thuộc sư đoàn Một của Grigori Melekhov sang sau cùng. Cho đến lúc hoàng hôn xuống, Grigori đã cùng mười hai đại đội kỵ binh tinh nhuệ ngăn chặn sức tấn công của sư đoàn Hồng quân Kubanskaia số 33. Khoảng năm giờ thì nhận được thông tri của Kudinov cho biết các đơn vị quân đội và dân chạy nạn đã được đưa sang sông. Mãi lúc đó chàng mới ra lệnh rút lui. Theo kế hoạch đã thảo từ trước, từng đại đội quân phiến loạn thuộc vùng ven sông Đông phải sang sông rồi bố trí đại đội của thôn nào ngay trước mặt thôn ấy. Đến giữa trưa thì bộ tư lệnh bắt đầu nhận được báo cáo của các đại đội. Phần lớn các đại đội ấy đã bố trí xong dọc theo bờ bên trái trước mặt thôn của mình. Ở các nơi có thừa những khoảng cách giữa các thôn, bộ tư lệnh đã điều tới đó những đại đội của dân Cô-dắc dải đồng cỏ ven sông. Các đại đội kỵ binh Krugilinskaia, Marxaevo, Xighinskaia, Karginskaia, các đại đội kỵ binh Latysepskaia, Likhovidovskaia, và Grachevskaia chiếm lĩnh các khoảng cách giữa Pegarevskaia, Vosenskaia, Lebirgiensky, Karanoiasky. Các đại đội còn lại thì rút về hậu phương, tới các thôn vùng bên kia sông Đông, Dubrovka, Cher, Gorokhovka, và theo ý kiến Xafonov, sẽ phải được tổ chức thành một đội dự bị mà bộ tư lệnh sẽ cần đến trong trường hợp quân địch chọc thủng mặt trận. Mặt trận của quân phiến loạn kéo dài một trăm năm mươi véc-xta trên bờ bên trái sông Đông từ các thôn đầu phía tây của trân Kazanskaia tới Ust-Khop. Sau khi sang sông, quân Cô-dắc chuẩn bị tiến hành chiến tranh trận địa: chúng vội vã đào ngay chiến hào, chặt và cưa những cây tiêu huyền, liễu, sồi để làm những hầm ẩn nấp và ổ súng máy. Tất cả những cái túi không đựng gì lấy được của dân chạy nạn đều được đổ đầy cát và xếp thoai thoải thành ụ phía trước một tuyến chiến hào kéo dài liên miên. Trước khi trời tối, tất cả các nơi đều đã đào xong chiến hào. Hai đại đội pháo số 1 và số 3 của quân phiến loạn nguỵ trang trong những khoảng trồng thông bên ngoài trấn Vosenskaia. Chỉ còn có vẻn vẹn năm quả đạn cho tất cả tám khẩu pháo. Cả đạn súng trường cũng sắp cạn. Kudinov đã phái những tên liên lạc cưỡi ngựa tới các nơi phổ biến mệnh lệnh nghiêm cấm không được bắn nhau với địch. Mệnh lệnh nầy dặn mỗi đại đại chọn ra một hay hai tên bắn giỏi nhất, phát cho mỗi tên một số đạn đủ dùng, để những tay thiện xạ đặc biệt đó tiêu diệt các xạ thủ súng, máy và chiến sĩ Hồng quân xuất hiện trên các phố của các thôn trên bờ bên phải. Những tên khác chỉ được phép nổ súng trong trường hợp Hồng quân tìm cách vượt sông. Mãi đến lúc hoàng hôn, Grigori Melekhov mới đi kiểm tra xong các đơn vị thuộc sư đoàn của chàng bố trí rải rác dọc theo sông Đông. Sau đó chàng trở về Vosenskaia để nghỉ đêm. Đã có lệnh cấm đốt lửa trên bãi cỏ hoang ven sông. Ngay trong trấn Vosenskaia cũng chẳng có đèn lửa gì cả. Khắp vùng bên kia sông Đông chìm trong một làn sương mù tím ngắt. Sáng sớm hôm sau, có những đội trinh sát đầu tiên của Hồng quân sớm xuất hiện trên ngọn gò ở Bát ki. Chẳng mấy chốc đã thấy họ thấp thoáng trên tất cả các nấm kurgan ở bờ bên phải từ trấn Ust-Khopeskaia đến trấn Kazanskaia. Mặt trận của Hồng quân đổ ào ào đến sông Đông như một dòng phun thạch có sức mạnh khủng khiếp. Sau đó các nhóm trinh sát lẩn đi và cho đến giữa trưa, các ngọn gò cứ chết lặng dưới một bầu không khí lặng tờ nặng nề của nơi sa mạc. Gió xoáy lên những cột bụi trắng trắng trên con đường của các vị Ghet-man. Khói của những đám cháy vẫn còn bốc lên ở phía nam như một màn sương đen tía. Những đám mây đen bị gió thổi tản ra đã tụ lại. Cái bóng của một đám mây như vươn cánh trên ngọn gò. Một tia chớp loằng nhoằng chữ chi hiện lên mờ nhạt dưới ánh sáng ban ngày. Trong nháy mắt, nó ngoằn ngoèo viền một dải bạc quanh một đám mây màu xanh rồi loáng lên lao thẳng xuống như một nhát giáo, đánh thốc vào bộ ngực căng phồng của nấm Kurgan xưa kia dùng làm vọng tiêu. Tiếng sét như xé toạc đám mây lơ lửng trên không: mưa toé ra từ giữa bụng đám mây. Gió tạt chếch qua làn mưa, mang những đợt sóng trắng dập dờn nhảy múa tới những sườn đá phấn của những nhánh núi mọc nhô ra sông, xuống những bông hướng dương đang héo hon vì oi bức, những cây lúa rũ đầu xuống đất. Lá cây còn non bị bụi xám xịt bám vào nom già hẳn đi đã được nước mưa rửa cho mới lại. Những nhánh lộc đầu xuân mọng nước óng a óng ánh, những cây hướng dương đã ngẩng cao đầu với những bộ mặt vàng hoe. Các vườn rau nồng nặc cái mùi mật ong của bí ngô đang ra hoa. Mảnh đất được uống đã khát bốc hơi ngùn ngụt mãi không thôi. Sau giữa trưa lại thấy trinh sát Hồng quân xuất hiện trên những nấm Kurgan đắp làm vọng tiêu, nằm liên tiếp thành một chuỗi rải rác theo đường sống của những gò núi ven sông Đông kéo dài tới biển Azov. Đứng trên các nấm Kurgan nầy có thể nhìn xa hàng chục véc-xta trên khoảng bình nguyên gợn lên vàng vàng với những cái hồ hiện ra như những hòn đảo xanh mướt. Các nhóm trinh sát của Hồng quân bắt đầu toả tới các thôn một cách thận trọng. Bộ binh đỏ ùa từ trên gò xuống theo đội hình chiến đấu. Các đại đội pháo dừng lại sau các nấm Kurgan. Xưa kia tiêu binh của dân Polovet và dân Brodnik[289] thiện chiến đã cảnh giới trên các nấm Kurgan nầy để khỏi bị kẻ địch đến đánh bất ngờ. Một đại đội pháo bố trí trên núi Bologorskaia bắt đầu bắn phá Vosenskaia. Trái lựu pháo đầu tiên nổ trên quảng trường, rồi sau đó toàn thị trấn chìm dưới những đám khói xám của đạn trái phá và những cái mũ màu trắng sữa tan dần trước gió của đạn ghém. Rồi lại thêm ba đại đội pháo nữa bắt đầu bắn phá Vosenskaia và các chiến hào của quân Cô-dắc ven sông Đông. Ở thôn Bolsoi Gromoc súng máy bắt đầu lên tiếng một cách hung hãn. Hai khẩu "Hotkit" bắn từng loạt ngắn, còn một khẩu "Marxim" thì với cái giọng nam trung của nó, cứ nhằm các tổ bộ binh của quân phiến loạn chạy đi chạy lại bên kia sông mà tuôn đạn thép liên miên. Những xe vận tải nối đuôi nhau leo lên gò. Hồng quân đào chiến hào trên những sườn núi mọc đầy mận gai. Những chiếc xe hai bánh, bốn bánh chạy lọc xọc trên con đường của các vị Ghet-man, mỗi chiếc đều kéo lê phía sau một làn bụi bốc lên cuồn cuộn như một vạt váy dài. Hoả lực pháo binh nổ ầm ầm khắp mặt trận. Từ các ngọn núi ven sông khống chế được toàn khu vực, các đại đội pháo của Hồng quân bắn phá vùng bên kia sông Đông đến tối mịt. Cánh đồng cỏ hoang ven sông với những chiến hào đào nhằng nhịt của quân phiến loạn cứ câm tiếng trên suốt một dải từ Kazanskaia đến Ust-Khopeskaia. Những tên giữ ngựa dắt ngựa vào ẩn trong những khu rừng vùng thấp kín đáo và rất rậm rạp, mọc đầy lau sậy, hương bồ và sa thảo. Ở đấy ngựa không bị muỗi mòng quấy nhiễu, mà không khí thì mát rượi trong những khoảng rừng rậm đầy hốt bố dại. Những cây liễu trắng cao ngất và các thứ cây khác có thể đảm bảo che được con mắt của các quan trắc viên Hồng quân. Không thấy bóng vía một người nào trên bãi chăn nuôi xanh rờn. Năm thì mười hoạ mới thấp thoáng những người dân chạy nạn hốt hoảng cúi gập lưng, cố rời thật xa bờ sông Đông. Một khẩu súng máy của Hồng quân tằng tằng nã theo họ vài tràng, tiếng đạn ríu dài làm họ mất hết hồn vía, xô họ nằm dúi xuống đất. Họ nằm lại trong đám cỏ rậm mãi đến hoàng hôn rồi mới chạy tế lên trốn vào rừng, chạy không ngoái đầu lại, chỉ mong sao mau chóng tới được vùng ao đầm đang hồ hởi mời đón với những đám xích dương và bạch dương hết sức rậm rạp. Thị trấn Vosenskaia bị pháo binh bắn phá dữ dội hai ngày liền. Dân chúng không ló đầu ra khỏi các hầm nhà. Các phố frong trấn bị đạn pháo bắn nát chỉ sống lại ban đêm. Trong bộ tư lệnh thấy nêu lên những giả thiết cho rằng quân địch bắn phá dữ dội như thế nầy không nhằm mục đích nào khác ngoài việc chuẩn bị tấn công, chuẩn bị vượt sông. Có những ý lo Hồng quân sẽ bắt đầu vượt sông ngay trước mặt Vosenskaia, với mục đích chiếm lĩnh thị trấn, thọc mũi dùi vào tuyến phòng thủ kéo dài trên bờ bên phải, cắt hẳn mặt trận làm hai, rồi sau đó mới dùng chiến thuật tấn công bên sườn từ Calat và Ust-Medvediskaia để giáng đòn tiêu diệt hoàn toàn. Theo lệnh của Kudinov, ở Vosenskaia đã tập trung tới bờ sông hơn hai chục khẩu súng máy với một số băng đạn đủ dùng. Những tên chỉ huy các đại đội pháo đã nhận được lệnh chỉ bắn những phát đạn còn lại trong trường hợp Hồng quân tìm cách vượt sông. Cái phà và tất cả thuyền bè được kéo về chỗ vũng sông ở phía trên Vosenskaia và một bộ phận rất mạnh được phân công canh giữ. Đối với Grigori Melekhov, những điều lo lắng của bọn sĩ quan tham mưu có vẻ không có cơ sở. Trong cuộc hội nghị ngày hai mươi tư tháng Năm, chàng đã chế giễu những điều ức đoán của Ilia Xafonov cùng những tên chia sẻ ý kiến của hắn. - Chúng nó sẽ dùng cái gì để vượt sông trước mặt Vosenskaia? - Chàng hỏi. - Mà chẳng nhẽ ở đấy có địa hình để có thể vượt sông hay sao? Các anh thử nhìn xem: ở phía bên nầy, bờ sông trơ thân cứ như một cái mặt trống, thêm con bơn toàn cát phẳng, ngay ven sông không một đám cây, bụi cỏ. Vậy có thằng ngu xuẩn nào lại rúc đầu vào địa điểm nầy để vượt sông? Chỉ có một mình Ilia Xafonov với tất cả các khả năng của cậu ấy mới có thể mò vào cái tử địa nầy mà thôi… Trên một bờ sông trần trùi trụi như thế nầy thì sẽ bị súng máy quét bay không còn một thằng nào sống sót! Mà Kudinov ạ, anh đừng tưởng bọn chỉ huy Hồng quân chúng nó đần độn hơn anh và tôi. Trong số chúng nó có những thằng thông minh hơn chúng ta nhiều đấy? Chúng nó sẽ không tấn công chính diện vào Vosenskaia đâu, vì thế chúng ta không nên chờ đón chúng nó tấn công ở đây, mà ở một khoảng nào nông, có thể lội qua trên lòng sông toàn cát, hoặc ở chỗ kín đáo, có địa hình, có rừng rậm. Phải theo dõi thật cẩn thận các nơi nguy hiểm ấy, nhất là ban đêm. Cần phải báo trước cho anh em Cô-dắc biết để họ khỏi bị hố, khỏi bị chúng nó đánh bất ngờ. Cần phải điều sẵn lực lượng dự bị đến các nơi nguy hiểm, để còn có gì mà đem ra dùng trong trường hợp nguy cấp. - Anh bảo chúng nó sẽ không tấn công vào Vosenskaia à? Thế tại sao chúng nó lại đem pháo tới giã giò lên thị trấn đến khuya mới thôi? - Gã tham mưu phó của Xafonov hỏi. - Chuyện ấy thì anh sang bên chúng nó mà hỏi. Nhưng có phải chúng nó chỉ bắn riêng vào Vosenskaia thôi đâu? Chúng nó nã cả vào Kazanskaia, cả vào Erinsky, các anh xem đấy, ngay đến núi Xemenovska cũng bị chúng nó xới lên. Còn thiếu chỗ nào mà chúng nó không đem pháo nã loạn vào? Có lẽ cũng vì chúng nó có nhiều đạn pháo hơn bên ta một chút. Mẹ cái pháo binh của chúng ta chứ… Vẻn vẹn năm quả đạn, mà vỏ đạn lại tiện bằng gỗ sồi. Kudinov cười khà khà: - Hay, phát nầy nã trúng đấy! - Bây giờ không phải là lúc phê phán nhau! - Tên đại đội trưởng đại đội pháo số 3 có mặt trong cuộc họp phát khùng. - Bây giờ phải bàn vào việc đi. - Cậu thử nói xem, có ai ngáng mồm ngáng miệng cấm cậu nói không? - Kudinov cau mày nghịch nghịch cái dây lưng. - Cái bọn quỷ dữ các cậu đã được dặn bao nhiêu lần: "Đạn thì chớ có đem dùng phí phạm vô ích, phải dành cho những trường hợp quan trọng?". Nhưng các cậu nào có chịu nghe, vớ được cái gì cũng bắn, xe bò xe ngựa cũng bắn. Bây giờ đến bước như thế nầy thì chẳng có cái gì mà bắn nữa. Bị phê bình còn bực bội nỗi gì? Melekhov cười cái pháo binh gỗ sồi của các cậu thì cũng đúng đấy. Cái kiểu làm ăn của các cậu bị người ta chê cười không oan đâu! Kudinov đứng về phía Grigori, hắn kiên quyết ủng hộ kiến nghị của chàng về việc tăng cường phòng thủ ở các nơi vượt sông thuận lợi nhất và tập trung các đơn vị dự bị vào ngay sát các khu vực bị uy hiếp. Hắn lại quyết định rút bớt một số súng máy ở ngay Vosenskaia, chuyển cho các đại đội Bologorskaia, Merkulovskaia và Gromkovskaia. Quân địch có nhiều khả năng vượt sông nhất ở khu vực của các đại đội nầy. Hôm sau đã có ngay những sự việc chứng thực giả thiết của Grigori nói rằng Hồng quân sẽ không tìm cách vượt sông ở trước mặt Vosenskaia, mà sẽ chọn một địa điểm thuận lợi hơn. Sáng hôm ấy tên đại đội trưởng đại đội thôn Gromoc báo cáo rằng Hồng quân đang chuẩn bị vượt sông. Suốt đêm từ bên kia sông Đông vẳng sang tiếng người xôn xao, tiếng búa đập, tiếng bánh xe rít. Vô số những chiếc xe tải chở ván gỗ không biết từ đâu tới thôn Gromoc, gỗ được hạ ngay trên xe xuống và lập tức nghe thấy những tiếng cưa xoèn xoẹt tiếng rìu, tiếng búa chan chát. Căn cứ vào tất cả hiện tượng ấy thì có thể đoán rằng Hồng quân đang sắp sửa dựng một cái gì đó. Đầu tiên bọn Cô-dắc giả thiết rằng Hồng quân định làm một cái cầu phao. Ban đêm đã có hai tay to gan lên quá trên chỗ có tiếng thợ mộc làm việc nửa vec-xta, chúng cởi quần áo, lấy lá cây nguỵ trang trên đầu rồi lặng lẽ bơi xuôi theo dòng nước. Hai tên mò tới sát bờ sông, nghe thấy ngay gần đấy tiếng nói chuyện của những chiến sĩ Hồng quân thuộc vọng tiêu súng máy bố trí trong đám liễu. Từ trong thôn đưa ra rành rọt tiếng người nói và tiếng rìu chan chát, nhưng chúng chẳng nhìn thấy gì trên mặt nước. Hồng quân đích xác đang làm một cái gì đó, nhưng dứt khoát không phải là làm cầu. Tên đại đội trưởng đại đội Gromoc tăng cường theo dõi bên bờ có địch. Đến lúc trời rạng, mấy tên quan sát không rời mắt khỏi ống nhòm, nhìn mãi mà chẳng thấy có gì cả. Nhưng chẳng mấy chốc, một tên được coi là thiện xạ nhất trung đoàn ngay từ trong cuộc chiến tranh với Đức, nhìn qua cái tranh tối tranh sáng trước lúc bình minh, đã thấy một chiến sĩ Hồng quân dắt hai con ngựa đóng sẵn yên cương xuống sông Đông. - Có một thằng Đỏ đang đi xuống nước, - Gã Cô-dắc rỉ tai bạn nó rồi hạ ống nhòm xuống. Hai con ngựa lội nước tới đầu gối, bắt đầu uống nước. Gã Cô-dắc lồng cái dây da nới dài khẩu súng trường vào khuỷu tay trái, nâng khung ngắm lên rồi nhằm rất lâu, rất cẩn thận… Phát súng nổ, một con ngựa từ từ lăn nghiêng ra, còn con kia chạy tế lên dốc. Người chiến sĩ Hồng quân cúi xuống để tháo lấy cái yên trên xác con ngựa bị bắn chết. Gã Cô-dắc nổ phát súng thứ hai, khẽ mỉm cười: người chiến sĩ Hồng quân đứng phắt dậy, định chạy từ dưới sông lên, nhưng bất thần lại ngã vật xuống. Anh ngã sấp mặt xuống để không bao giờ đứng dậy nữa… Grigori vừa nhận được báo cáo về việc Hồng quân chuẩn bị vượt sông, đã thắng ngựa để tới ngay khu vực của đại đội thôn Gromoc. Ra khỏi thị trấn, chàng cho con ngựa lội qua một cái hồ vừa hẹp vừa nông kéo dài tới cuối trấn, vốn là một nhánh, đã bị ngắt khỏi sông Đông, rồi cho ngựa phi qua rừng. Con đường chạy ngang một bãi cỏ, nhưng vượt qua bãi cỏ thì rất nguy hiềm, vì thế Grigori chọn một đường vòng hơi dài: chàng qua rừng tới cuối hồ Ratxokhov, men theo những đống đất mấp mô và những đám liễu trắng đến nỗi chỗ lội Canmứtki (đây là một cái ngòi mọc đầy súng, cần dại và lau sậy nối liền một bãi lầy trên đồng cỏ với hồ Postoilicha). Ngay sau khi qua được chỗ lội Canmứtsky, chàng ghìm cương ngựa cho nó nghỉ ngơi vài phút. Từ đấy ra tới sông Đông theo đường thẳng là chừng hai vec-xta. Vượt qua bãi cỏ để ra tới các chiến hào thì có nghĩa là phơi mình trước đạn địch. Cũng có thể chờ đến tối, trời nhá nhem rồi mới vượt qua bãi cỏ bằng phẳng, nhưng Grigori có cái tính không thích chờ đợi chàng thường nói: "Trên đời nầy không gì tồi tệ bằng chờ đợi và theo đuổi", vì thế chàng quyết định lập tức đi ngay. "Cứ thúc hết sức cho con ngựa phóng bạt mạng, có lẽ chúng nó sẽ không bắn trúng được đâu!" - chàng vừa nghĩ thầm vừa mò ra khỏi những bụi cây. Chàng chọn một dải liễu mọc nhô ra khỏi khu rừng ven sông như một nhánh núi rồi giơ roi. Ăn một roi cháy mông, lại nghe thấy tiếng quát man rợ, con ngựa run bắn lên, cụ sát hai tai vào nhau, phi lên vùn vụt mỗi lúc một nhanh và lao thẳng về phía sông Đông. Grigori chưa kịp vượt qua năm chục xa-gien thì trên một ngọn đồi bên hữu ngạn đã có một khẩu súng máy bắn tằng tằng những tràng dài từ phía trước mặt. "Chíu! Chíu… Chíu… Chíu… Chíu!" - Những viên đạn rít như tiếng chuột đồng. "Cao quá đấy, chú nó ơi!" - Grigori nghĩ thầm và kẹp chặt sườn ngựa, rồi thả lỏng dây cương, áp sát má xuống sát đám bờm ngựa bay tán loạn dưới làn gió thổi ngược. Và như đoán ra ý chàng, người xạ thủ súng máy Hồng quân nằm sau cái lá chắn sơn xanh của khẩu trọng liên ở một chỗ nào đó trên ngọn gò trăng trắng, chuyển sang nhằm hắn đón đầu. Hoả lực của khẩu súng máy tuôn ra như một luồng nước, sà xuống thấp hơn lúc nãy và kêu chíu chíu ngay trước chân ngựa một cách khoái trá. Những viên đạn nóng bỏng trong khi bay rít lên như những con rắn, xuyên xuống chất đất ẩm còn chưa khô sau khi nước lũ rút đi, làm bùn nóng phụt lên tứ tung… "Tặc! Chíu… Tặc! Tặc!". Rồi làn đạn bay qua đầu và bên cạnh thân ngựa: "Chiu-u-u! Chi-iu-út! Chiu-u-u!". Grigori hơi rướn người trên bàn đạp và gần như nằm rạp xuống cái cổ ngựa vươn thẳng. Rặng liễu xanh rờn lao vùn vụt từ trước mặt tới với một tốc độ khủng khiếp. Khi chàng đã vượt được nửa chặng đường khẩu pháo trên ngọn gò Semenovsky bắt đầu nhả đạn. Tiếng thép rít của quả đạn làm không khí rung lên. Phát đạn nổ quá gần nên Grigori ngồi trên yên lảo đảo. Tiếng những mảnh đạn rú rít rên siết còn chưa lắng trong tai chàng, lau sậy gần đấy còn chưa kịp ngỏng lên sau khi hơi nổ ồn ào như bão dúi gục xuống, thì từ trên gò lại vẳng tới tiếng nổ khác của khẩu pháo và tiếng rú của quả đạn bay tới mỗi lúc một gần lại đè xuống Grigori, bắt chàng phải rạp người xuống cái yên ngựa. Chàng có cảm tưởng như tiếng rít nặng nề, căng thẳng đến cực độ ấy nổ bùng ra trong một phần trăm giây nào đó, và trong một phần trăm giây ấy, một đám mây đen ngòm bốc vụt lên dựng đứng trước mặt chàng, mặt đất rung chuyển dưới đòn phá hoại khủng khiếp hai chân trước của con ngựa tựa như sụt xuống một cái hố. Grigori vừa ngã xuống đã tỉnh lại ngay. Chàng bị quật xuống đất mạnh quá, đến nỗi hai đầu gối của chiếc quần dạ màu cứt ngựa bục ra, hai đoạn dây bên dưới ống quần cũng đứt. Làn sóng nổ bật ra mạnh quá, ném bổng chàng bay xa con ngựa, làm chàng rơi xuống đất rồi còn tượt trên mặt cỏ hàng mấy xa-gien, lòng bàn tay và một bên má sát xuống đất rát như bỏng. Sau cái ngã choáng váng đầu óc, Grigori đứng dậy. Những mảnh đất vừa to vừa nhỏ, những bụi cỏ bật rễ rơi ào ào từ trên cao xuống như một trận mưa đen ngòm… Con ngựa nằm cách hố hình miệng phễu hai mươi bước. Đầu nó không động đậy gì nữa, nhưng hai chân sau bê bết những đất, cặp mông đầm đìa mồ hôi và chỗ xương đuôi thoai thoải vẫn còn khẽ giật như chuột rút. Khẩu súng máy ở bờ bên kia sông Đông đã thôi bắn. Không khí lặng đi chừng năm phút. Vài con chim bói cá lông xanh biếc cất tiếng kêu trên đám ao đầm. Grigori đi tới gần con ngựa, đầu óc chàng choáng váng, hai chân run lẩy bẩy, nặng ra một cách khủng khiếp Chàng có cái cảm giác thường thấy những lúc phải đứng dậy để cất bước đi sau khi ngồi trên yên rất lâu, rất gò bó, khi sự thay đổi cách tuần hoàn của máu làm cho hai chân trở nên tê dại như chân người khác, mỗi bước đi làm toàn thân chấn động… Grigori tháo lấy cái yên trên con ngựa bị giết và vừa bắt đầu đi về phía đám lau sậy bị những mảnh đạn chém đứt nát trên cái đầm gần nhất thì khẩu súng máy lại bắn từng đợt với những khoảng ngắt quãng đều đặn. Chàng không nghe thấy tiếng đạn bay, biết rằng đúng là kẻ địch trên gò đã bắt đầu bắn vào mục tiêu mới. Một giờ sau, chàng lần được tới hầm của tên đại đội trưởng. - Hiện giờ chúng nó không còn cưa đẽo gì nữa rồi. - Tên đại đội trưởng nói, - Song đến đêm nhất định chúng nó lại làm việc. Nhưng xin đồng chí quẳng cho chúng tôi ít đạn, nếu không có thể khóc được đấy, mỗi anh em chỉ có được hai kẹp. - Đến tối sẽ có đạn mang tới. Nhưng không được rời mắt khỏi bờ bên kia đấy? - Chúng tôi vẫn quan sát đấy. Đêm nay tôi định sẽ lấy mấy tay cảm tử bơi sang xem chúng nó đang giở cái trò gì bên ấy. - Thế sao đêm qua không phái đi! - Thưa đồng chí Grigori Panteleevich, cũng đã phái đi hai thằng, nhưng chúng nó sợ không dám mò vào trong thôn. Đã bơi tới sát bờ sông nhưng vào thôn thì sợ… Mà trong lúc nầy còn bắt buộc ai làm gì được nữa. Công việc thì mạo hiểm, chạm trán với vọng gác của chúng nó là toi mạng. Trong khi đánh nhau gần nhà, bọn Cô-dắc không tỏ ra dũng cảm lắm đâu… Hồi đánh nhau với quân Đức, thường có biết bao nhiêu người liều mạng vì một tấm huân chương, nhưng bây giờ, chưa nói đến chuyện mò sâu vào trận địa của địch để đi trinh sát, ngay đến việc canh gác cũng đã khó cắt phiên rồi. Mà ở đây lại còn đang có một cái tai hoạ nữa là bọn đàn bà: họ cứ bám riết lấy chồng, ngủ đêm nay trong chiến hào, đuổi cũng không đi nữa. Hôm qua tôi đã bắt đầu tống cổ họ đi, nhưng bọn Cô-dắc đã đánh tiếng đe tôi. Chúng nó bảo: "Thôi đi, bảo hắn liệu mà vừa vừa thôi, nếu không bọn mình sẽ cho nó một trận nên thân!" Từ căn hầm của tên đại đội trưởng, Grigori đi ra các chiến hào. Dãy chiến hào chạy chữ chi trong khu rừng, cách sông Đông chừng mười hai xa-gien. Những rừng sồi, những bụi ngải cứu và những đám tiêu huyền non rậm rạp che kín không cho các chiến sĩ Hồng quân nhìn thấy dãy ụ đất vàng. Vài đoạn hào giao thông nối liền các chiến hào với các hầm trú ẩn, nơi bọn Cô-dắc nghỉ ngơi. Ở gần các căn hầm thấy đổ bừa bãi những đống vẩy cá khô xanh xanh xám xám, xương cừu, vỏ hướng dương, mẩu thuốc lá và giẻ rách. Trên các cành cây treo lung tung những thứ đã giặt: bít tất, áo lót may bằng vải gai, vải bọc chân, áo sơ-mi và váy của đàn bà… Grigori vừa tới căn hầm thứ nhất đã thấy một người đàn bà còn trẻ, đầu trần, còn ngái ngủ, thò đầu ra. Người ấy dụi mắt, lãnh đạm nhìn Grigori một cái rồi thụt ngay vào sau cái cửa hầm đen ngòm như một con chuột đồng trong hang. Trong căn hầm bên cạnh có tiếng hát khe khẽ. Một giọng nữ cố ghìm nén, nhưng cao và trong, đan quyện với những giọng nam. Một người đàn bà Cô-dắc không còn trẻ lắm, nhưng ăn vận sạch sẽ, ngồi ngay ở lối vào căn hầm thứ ba. Một gã Cô-dắc có món tóc trước trán đã hoa râm nằm gối đầu lên đầu gối mụ. Gã nằm nghiêng, ngủ một cách thoải mái trong khi vợ gã thoăn thoắt chải đầu cho gã. Mụ giết những con chấy đen sì trên cái lược gỗ răng rất to và đuổi những con ruồi đậu trên mặt người bạn lòng đã luống tuổi. Nếu bên kia sông Đông không vang lên những tiếng súng máy hung hãn, nếu dòng nước không đưa tới những tiếng hoả lực pháo binh nổ rất vang từ một nơi nào đó trên thượng lưu, không biết là ở trấn Migulinskaia hay trấn Kazanskaia, thì có thể nghĩ rằng đây là một nơi nghỉ đêm của những người cắt cỏ ven sông Đông, vì quang cảnh đại đội thôn Gromoc của quân phiến loạn lên tuyến lửa sao mà thái bình vô sự. Trong năm năm chiến tranh, đây là lần đầu Grigori được chứng kiến một cảnh tượng lạ lùng như thế nầy trên trận địa. Chàng không ghìm được nụ cười trong khi đi qua các căn hầm. Đến chỗ nào chàng cũng nhìn thấy những người đàn bà đang bận phục dịch cho chồng, người thì sửa hoặc vá những chiếc quần áo Cô-dắc, người thì giặt những đồ lót của lính tráng, người thì nấu nướng hoặc rửa nồi niêu bát đĩa sau bữa ăn trưa đơn giản. - Các cậu ở đây sướng thật đấy! Mọi mặt đều đầy đủ… - Về đến hầm tên đại đội trưởng, Grigori bảo hắn. Tên đại đội trưởng nhe răng ra cười: - Chúng tôi sống thật sướng không đâu bằng. - Nhưng thoải mái quá rồi đấy! - Grigori cau mày nói. - Phải lập tức đuổi bọn đàn bà đi khỏi nơi nầy ngay? Đang chiến tranh mà còn như thế nầy à? Chỗ các cậu đây là nơi bày hàng ra bán hay là chợ phiên thế hử? Như thế nầy thì còn ra thể thống gì nữa? Bọn Đỏ chúng nó đang sắp vượt sông đến nơi mà các cậu chẳng nghe thấy gì cả: vợ kè kè bên cạnh thì còn lúc nào mà nghe với ngóng… Trời sâm sẩm là phải tống cổ hết cái bọn dài đuôi nầy đi! Nếu không ngày mai tôi quay lại mà còn thấy một đứa mặc váy là sẽ chặt ngay đầu cậu trước. - Vâng, đúng là phải thế mới được… Tên đại đội trưởng vui vẻ đồng ý, - Chính tôi cũng chống lại cái chuyện bọn đàn bà đến đây, nhưng đối với bọn Cô-dắc thì còn làm thế nào được? Chẳng còn kỷ luật gì nữa… Đàn bà họ nhớ chồng, chúng ta chiến đấu đã ba tháng rồi còn gì! Nhưng chính hắn lại đỏ bừng mặt, ngồi sụp xuống chiếc giường ván dưới đất để che một chiếc tạp dề màu đỏ của đàn bà, rồi hắn quay lưng về phía Grigori, lườm một cách đầy hăm doạ chỗ góc hầm được che bằng một tấm vải thô. Chính cô vợ yêu của hắn đang từ trong đó tươi cười nhìn ra với cặp mắt màu hạt dẻ. 62. Acxinhia đến Vosenskaia ở nhà một bà cô ruột, bên lề thị trấn, gần nhà thờ mới. Ngay hôm đầu nàng đã sục đi tìm Grigori, nhưng chàng còn chưa có mặt ở Vosenskaia. Hôm sau thì đạn réo, nổ ầm ầm khắp các phố và các ngõ mãi đến đêm khuya, vì thế nàng không dám ra khỏi nhà. "Gọi người ta đến Vosenskaia, hứa hẹn cùng sống với nhau, thế mà chính anh chàng lại không biết đã cút đi chỗ quỷ nào rồi!" - Nàng nằm trên chiếc rương ở nhà trong, cắn chặt cặp môi còn tươi tắn nhưng không còn thắm nữa, bực tức nghĩ thầm. Bà cô già ngồi bên cửa sổ đan bít tất, cứ sau mỗi phát đạn pháo nổ lại làm dấu phép. - Chao ôi, Giêsuma lạy Chúa tôi! Thật khủng khiếp? Sao chúng nó lại đánh nhau thế hử? Làm gì mà chúng nó cứ bắn giết nhau như thế? Chợt ngoài phố có quả đạn pháo nổ cách ngôi nhà chừng mười lăm xa-gien. Những khung cửa kính trong nhà rung lên rền rĩ và rơi vỡ loảng xoảng. - Cô ơi cô! Cô tránh cái cửa sổ ấy đi, họ bắn có thể trúng phải cô đấy! - Acxinhia van bà cụ. Bà cụ nhìn nàng qua cái kính bằng cặp mắt giễu cợt, rồi trả lời bực bội: - Ồ Acxinhia! Tao thấy mày thật là một con ngốc. Chẳng nhẽ tao là kẻ thù của chúng nó hay sao? Chúng nó bắn tao để làm gì cơ chứ? - Họ sẽ vô ý bắn phải thôi! Vì đạn bay đi đâu, họ có trông thấy đâu? - Mặc cho chúng nó giết! Mặc cho chúng nó không trông thấy! Chúng nó bắn bọn Cô-dắc vì bọn Cô-dắc là kẻ thù của chúng nó, của bọn Đỏ ấy. Còn một mụ già, một kẻ goá bụa như tao thì liên can gì đến chúng nó? Có lẽ khi bắn một phát súng hay nổ một phát đại bác chúng nó cũng phải biết rằng chúng nó nhằm vào ai chứ? Đến giữa trưa thì Grigori phi ngựa qua phố về hướng khuỷu sông phía xuôi, người cúi rạp trên cỗ ngựa. Acxinhia đứng trong cửa sổ trông thấy chàng, bèn chạy bổ ra chỗ thềm nhà có những dây nho dại cuốn nhằng nhịt. Nàng gào lên: "Anh Griska?", nhưng Grigori đã khuất sau chỗ rẽ, chỉ còn đám bụi bị vó ngựa hất tung lên từ từ rơi xuống mặt đường. Chạy theo cũng hoài công vô ích. Acxinhia đứng trên bậc thềm tức quá, khóc nức nở. - Thằng Stepan nó phi ngựa qua đấy à? Mày làm gì mà nhảy xổ ra như con mẹ ngộ thế? - Bà cô hỏi. - Không ạ… Đấy là một người trong thôn chúng cháu… - Acxinhia trả lời qua hai hàng nước mắt. - Thế thì can gì mà phải khóc? Bà cô tò mò hỏi vặn. - Cô yêu quý cô cần biết làm gì? Đâu phải chuyện cô hiểu được! - Không phải là chuyện tao hiểu được. Hừ, như thế tức là thằng nhân tình của mày nó vừa phi ngựa qua. Nếu không thì còn đứa nào nữa? Đâu phải vô duyên cớ mà mày gào lên như thế… Chính tao cũng đã sống đủ cuộc đời, tao cũng biết lắm chứ! Lúc trời sắp hoàng hôn Prokho Zykov bước vào trong nhà. - Xin chào cả nhà! Bà cụ chủ ơi, nhà ta có ai ở thôn Tatarsky đến đây không cụ? - Anh Prokho! - Acxinhia sung sướng ái chà một tiếng chạy từ trong nhà ra. - Đây rồi, cô nàng, thật là cô đã làm tôi chạy long tóc gáy! Chỉ vì tìm cô mà tôi rã rời cả hai chân đây nầy! Cô cũng đã biết hắn là một thằng như thế nào rồi chứ gì? Thật cha nào con nấy, nóng cứ như lửa. Đạn bắn đầy trời, người cũng như vật đều phải chui rúc lẩn trốn, thế mà hắn cứ khăng khăng: "Phải kiếm cho ra, nếu không tôi sẽ cho cậu vào cái sáu tấm!" Acxinhia nắm tay áo Prokho, kéo ra phòng ngoài. - Thế anh ấy đâu rồi, đồ khốn kiếp! - Hừm… Hắn thì còn có thể ở chỗ nào được nữa? Hắn đã đi bộ mò từ mặt trận về. Hôm nay con ngựa hắn đang cưỡi bị bắn chết. Hắn về hung hãn, như con chó xích. Hắn hỏi tôi: "Đã tìm thấy chưa?" Tôi bảo: "Tìm đâu ra bây giờ? Tôi có đẻ ra cô ấy đâu?" Còn hắn thì cứ "Con người không phải là cái kim! " Rồi hắn quay lại quạt cho tôi một trận… Đúng là một con chó sói đội lốt người? - Thế anh ấy bảo thế nào? - Cô thu vén rồi đi ngay, ngoài ra không còn gì khác nữa! Chỉ loáng một cái Acxinhia đã buộc xong khăn gói. Nàng vội vã từ biệt bà cô: - Thằng Stepan cho người lại phải không? - Vâng, Stepan đấy cô ạ! - Được bảo tao có lời hỏi thăm nó. Nhưng tại sao tự nó không đến? Đến đây có phải được uống sữa không, nhà lại còn có mằn thắn nhân phó mát… Acxinhia chưa nghe hết câu đã chạy ra khỏi nhà. Trên đường tới chỗ Grigori ở, nàng thở hổn hển, mặt tái nhợt, nàng đi nhanh quá, làm Prokho cuối cùng cũng phải van: - Cô hãy nghe tôi nói đã! Trong những năm trai trẻ tôi cũng đã có chạy theo bọn con gái, nhưng thật quả tôi chưa cuống cuồng lên thế nầy như cô bao giờ. Hay là không nhịn được nữa rồi? Làm gì mà như lửa thế? Cả cô lẫn hắn thật không còn là con người nữa… Nhưng trong khi đó hắn nghĩ thầm: "Chúng nó lại dính keo với nhau rồi… Hừ, bây giờ quỷ dữ cũng không thể nào chia rẽ được chúng nó nữa! Chúng nó chỉ lo cho bản thân chúng nó, còn mình thì phải xông phá dưới lửa đạn đi kiếm nó, con chó cái nầy… Lạy Chúa tôi, xin Người đừng để cho con Natalia biết chuyện, nếu không nó sẽ xé xác tôi ra… Cái dòng giống nhà Korsunov mình cũng đã biết lắm rồi? Không, nếu như tao không đam mê quá chén để mất ngựa mất súng thì tao cũng không đến nỗi phải lê xác đi khắp trấn tìm mày đâu! Tự chúng mày đã gây ra chuyện thì cứ để cho tự chúng mày giải quyết lấy!" Các cửa chớp ở nhà trong đều đóng kín mít, cây nến mỡ bò bốc khói mù mịt, Grigori đang ngồi bên cạnh một cái bàn. Chàng vừa lau xong khẩu súng trường và còn chưa thông cái nòng của khẩu Mauser thì có tiếng cánh cửa cọt kẹt. Acxinhia đã đứng ở ngưỡng cửa. Vầng trán hẹp trắng trắng của nàng đầm đìa mồ hôi. Trên khuôn mặt nhợt nhạt, trong hai con mắt hung dữ mở trừng trừng cháy lên một ngọn lửa tình cuồng dại đến nỗi Grigori vừa nhìn thấy nàng thì trái tim chàng run lên sung sướng. - Anh nói dối em… rồi chính anh… biến đi đâu mất hút. -Nàng thở hổn hển nói. Đối với nàng trong lúc nầy cũng như trước kia, cũng như ngày xửa ngày xưa, hồi hai người mới bắt đầu yêu nhau, ngoài Grigori, trên đời nầy chẳng còn có gì nữa. Cũng như xưa kia, mỗi khi Grigori vắng mặt thì đối với nàng toàn thế giới đều đã chết hết, và khi chàng ở bên cạnh nàng thì tất cả đều sống lại. Prokho đang ở trong phòng, nàng cũng chẳng thẹn, cứ chạy bổ đến ôm chặt lấy Grigori như một dây hốt bố dại, rồi vừa khóc vừa hôn cái má đầy râu rễ tre của người yêu. Giữa những cái hôn chùn chụt rất nhanh lên mũi, lên trán, lên mắt, lên môi chàng, nàng nức nở nói líu nhíu: - Cực em quá anh ơi! Khắp người em đau đớn ê ẩm! Anh Griska yêu quý! Anh yêu quý của em! - Kìa, thôi đí nào… Em hãy xem… Nhưng hượm đã! Acxinhia, thôi đi nào… - Grigori ngượng nghịu nói lắp bắp, chàng quay mặt đi chỗ khác, tránh không nhìn Prokho. Chàng đưa nàng đến ngồi xuống chiếc ghế dài, tháo cho nàng cái khăn bịt đầu trật ra sau gáy, vuốt làn tóc rối tung của nàng. - Em thật thế nào ấy… - Em thì bao giờ cũng thế nầy thôi? Còn như anh… - Không, thật đấy, em điên mất rồi! Acxinhia đặt hai tay lên vai Grigori, cười qua hai hàng nước mắt, khẽ nói liến thoắng: - Hừ, sao lại có thể như thế được nhỉ? Anh cho gọi em… em phải đi bộ đến, phải vứt bỏ hết… nhưng chẳng thấy anh đâu cả… Anh phi ngựa qua, em chạy bổ ra gọi rầm rầm lên, nhưng anh đã mất hút sau chỗ ngoặt… Nếu chúng nó giết mất anh, thì em chẳng được nhìn thấy anh lần cuối cùng nữa. Nàng còn nói thêm nhiều lời rất âu yếm, rất đáng yêu, rất đàn bà, rất ngớ ngẩn. Trong khi đó tay nàng cứ luôn luôn vuốt ve hai cái vai gù gù của Grigori, cứ nhìn vào mắt chàng bằng hai con mắt vô cùng ngoan ngoãn. Trong ánh mắt của nàng nung nấu một cái gì rất đáng thương, nhưng đồng thời cũng vô cùng tàn nhẫn, hệt như mắt của một con thú bị vây bắt, làm cho trong khi nhìn nàng Grigori bỗng cảm thấy ngượng ngùng đau khổ. Chàng hạ hai hàng mi bị nắng thui cháy, dim mắt gắng gượng mỉm cười, không nói gì cả. Trong khi đó má nàng cứ mỗi lúc một đỏ rực vì ngọn lửa bừng bừng trong lòng và hai tròng con mắt như phủ một lớp mù xanh. Prokho bỏ ra ngoài, không chào từ biệt. Ra đến ngoài hắn nhổ toẹt một bãi rồi đưa chân di bãi nước bọt. - Chỉ thêm phiền, chẳng được gì hơn đâu? - Hắn từ trên thềm bước xuống, nói một cách hung dữ, rồi đóng cánh cửa hàng rào đánh sầm như để ra oai. 63. Hai người sống hai ngày hai đêm như trong một giấc mộng, không phân biệt ngày hay đêm, cũng không biết chung quanh mình có gì xảy ra. Đôi khi Grigori tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngắn ngủi và mê mệt, thấy Acxinhia nhìn mình chằm chằm trong căn phòng nhá nhem tối chăm chú như nghiên cứu điều gì. Nàng thường chống khuỷu tay, nằm tì má lên lòng bàn tay, nhìn chàng hầu như không chớp. - Em nhìn gì thế? - Grigori hỏi. - Em muốn nhìn cho đã con mắt… Chúng nó sẽ giết mất anh, trái tim em nó thấy trước như thế. - Thôi được đã thấy trước như thế thì cứ nhìn đi, - Grigori mỉm cười. Đến ngày thứ ba chàng ra phố lần dầu. Từ sáng Kudinov đã năm lần bảy lượt sai liên lạc đến mời chàng tới họp hội nghị. "Tôi không đến đâu. Mặc họ bàn với nhau, không có mặt tôi cũng được", - Grigori trả lời những tên liên lạc. Prokho dắt về cho chàng một con ngựa mới, lấy được ở bộ tư lệnh, rồi đến đêm hắn lần tới khu vực của đại đội thôn Gromoc, khiêng về cái yên còn để đấy. Acxinhia thấy Grigori sửa soạn ra đi, bèn hoảng lên hỏi rằng: - Anh đi đâu thế? - Anh muốn tạt về thôn Tatarsky xem quân ta phòng thủ thôn xóm ra sao, nhân tiện hỏi xem gia đình ở đâu? - Anh nhớ con à? - Acxinhia thấy lạnh, vội quàng chiếc khăn san lên hai cái vai xuôi ngăm ngăm - Cũng nhớ đấy. - Anh không đi có được không? - Không, phải đi mới được. - Anh chớ có đi! - Acxinhia van chàng, mắt nàng bắt đầu sáng rực lên trong hai cái hố con mắt thâm quầng. - Như thế là anh quý gia đình hơn em à? Quý hơn có phải không? Cả ở đây lẫn ở đó đều không dứt ra được à? Thế thì anh đưa em về nhà anh đi. Đại khái em và Natalia sẽ có cách hoà hợp với nhau… Thôi được, anh cứ đi đi! Nhưng đừng vác mặt về đây với em nữa! Em sẽ không tiếp đâu. Em không muốn như thế nầy! Em không muốn… Grigori lặng lẽ ra sân, lên ngựa. *** Đại đội bộ binh của thôn Tatarsky ngại không muốn đào chiến hào. - Chúng nó lại nghĩ ra cái trò quỷ quái nầy, - Khristonhia nói với cái giọng ồm ồm của hắn. - Làm như chúng ta đang ở mặt trận đánh nhau với quân Đức không bằng? Anh em ạ, cứ đào cái loại chiến hào phổ thông, sâu đến đầu gối là được rồi. Đào bới tới hai ác-sin trong thứ đất rắn đanh nầy mà coi là một việc thông minh hay sao? Đến thuốn cũng chẳng chọc được xuống nữa là xẻng. Tất cả những tên khác đều lắng nghe hắn, vì thế chúng chỉ đào những đoạn chiến hào nằm bắn trong chất đất rất xốp trên cái vách đứng bên hữu ngạn và làm thêm vài cái hầm trong rừng. - Chà thế là chúng ta đã chuyển sang sống cuộc đời chuột đồng! - Anikey nói đùa, hắn vốn dĩ chẳng biết phiền muộn là gì. - Chúng ta sẽ chui rúc trong hang trong lỗ, sẽ đi kiếm cỏ mà ăn, nếu không các cậu sẽ chỉ thích chén bánh tráng với phó mát, thịt, mì sợi với cá chiến… Còn cỏ sông Đông thì các cậu không thích à? Hồng quân cũng ít quấy nhiễu bọn lính thôn Tatarsky. Phía trước thôn không có những đại đội pháo. Từ bên kia, hoạ hoằn mới có khẩu súng máy lên tiếng, nã vài loạt đạn ngắn vào tên quan sát ló đầu ra ngoài chiến hào, rồi tất cả lặng đi rất lâu. Các chiến hào của Hồng quân được đào ở trên núi. Trên đó năm thì mười hoạ cũng nghe thấy đì đẹt vài tiếng súng, nhưng các chiến sĩ Hồng quân chỉ tạt xuống thôn ban đêm, mà ở lại cũng không lâu. Grigori về tới bãi cỏ hoang ven sông trước mặt thôn nhà lúc hoàng hôn sắp xuống. Ở đây tất cả đối với chàng đều quen thuộc, mỗi cái cây nhỏ đều gợi lại một hồi ức… Con đường chạy qua cánh đồng Cô Gái. Trên cánh đồng nầy, hàng năm cứ đến ngày Pêtơrốp[290] bọn Cô-dắc lại ra uống vodka sau khi chia nhau cánh đồng cỏ. Khu rừng Aliuskin mọc đâm ra bãi cỏ hoang như một mũi đất đâm ra biển. Ngày xưa, hồi cánh rừng nầy còn chưa có tên, ở đấy có bầy sói ăn thịt con bò cái của anh chàng Aleksey nào đó, là người thôn Tatarsky. Anh chàng Aleksey nầy đã qua đời, những điều người ta nhớ được về anh ta đã phai nhoà như những hàng chữ trên tấm bia muộn, ngay đến họ của anh ta là gì, hàng xóm láng giềng cùng bà con đồng hương cũng không còn nhớ nữa, song cánh rừng mang tên anh ta vẫn còn sống, vẫn cứ vươn lén trời những cái tán xanh sẫm của những cây sồi và bách tán. Dân thôn Tatarsky tới chặt cây về làm đồ dùng trong công việc làm ăn hàng ngày, nhưng đến mùa xuân, từ những gốc cây vạm vỡ lại nhú lên những chồi non đầy sức sống, một hai năm sau lớn lên lúc nào không biết, rồi sang mùa hè, cánh rừng Aliuskin lại vươn lên những cái cành xanh mướt như đá khổng tước, và mùa thu lại khoác cho nó một bộ giáp trụ bằng vàng ròng với những lớp lá sồi bị sương muối ban mai đốt cháy rực. Mùa hè, những bụi hắc mai tua tủa những gai lại mọc đầy mặt đất ẩm ướt trong rừng Aliuskin. Những con phật pháp tăng và những con ác là lông lá diêm dúa làm tổ trên ngọn những cây bách tán cổ kính. Mùa thu, khi không khí nặng mùi quả sồi và lá sồi rụng, hắc hắc nhưng rất sảng khoái, lại có những con dẽ giun di cư qua ở lại trong rừng một thời gian ngắn. Nhưng đến mùa đông thì chỉ có những vết chân cáo tròn tròn rắc những chuỗi ngọc trai trên khắp tấm thảm tuyết trắng ioá. Hồi còn niên thiếu, Grigori đã nhiều lần đi đánh bẫy cáo trong cánh rừng Aliuskin. Chàng cho ngựa đi dưới những cành cây in bóng mát rượi, trên con đường cũ đầy những vết bánh xe. Chàng qua cánh đồng Cô gái, lần đến vách núi Đen, và những hồi ức cứ bốc lên đầu chàng như men rượu. Gần chỗ ba cây tiêu huyền, hồi còn nhỏ, đã có lần chàng đuổi theo một lứa vịt trời chưa biết bay trên cái đầm nhỏ và bắt cá hanh từ sáng đến tối ở hồ Tròn… Ngay gần đấy có một cây tuyết cầu nhỏ nom như một cái lều trại. Cái cây già cỗi, mọc đơn độc, tách rời hẳn ra. Đứng trong sân gia súc của nhà Melekhov cũng có thể trộng thấy nó, và mùa thu nào Grigori cũng thường ra thềm nhà ngắm cây tuyết cầu nhìn từ xa cứ như bọc trong những cái lưỡi đỏ lòm của một đám lửa Mồ ma Petro rất thích ăn bánh rán làm với thứ hoa tuyết cầu đắng đắng chát chát nầy… Grigori âu sầu lặng lẽ nhìn quanh những chỗ thân thuộc từ thời thơ ấu Con ngựa vừa đi vừa lười nhác vẫy đuôi xua những con muỗi nhắt và muỗi nâu rất hung hãn bay nhung nhúc trong không khí. Cỏ nga quan và thê mục thảo xanh rờn nhẹ nhàng cúi rạp đầu trước gió. Bãi cỏ nằm dưới một lớp sóng lăn tăn xanh rờn. Grigori cho ngựa đi tới dãy chiến hào của bộ binh thôn Tatarsky rồi bảo chúng đi gọi bố. Khristonhia đứng ở một chỗ rất xa đầu cánh bên trái gầm lên: - Ông Prokofievich? Lại nhanh lên, Grigori đến đấy! Grigori xuống ngựa, thấy Anikey chạy đến bèn trao dây cương cho hắn, và từ xa chàng đã nhìn thấy ông bố vội vã khập khiễng đi tới. - Thế nào, có khoẻ không, thủ trưởng? - Chào cha. - Mày mới tới đấy à? - Chật vật lắm mới thu xếp xong để đi được! Thế nào, ở nhà thế nào? Mẹ và Natalia đâu? Ông Panteley Prokofievich khoát tay, cau mày. Một giọt nước mắt lăn tăn trên cái má đen xạm của ông. - Thế nào, có chuyện gì thế? Ở nhà xảy ra việc gì thế? Grigori lo lắng hỏi giật giọng. - Không sang sông được! - Sao lại thế? - Con Natalia bị liệt giường hai ngày liền. Đúng là bị thương hàn. Thế là bà già không muốn bỏ nó lại. Nhưng con ạ, mày đừng sợ, ở nhà mọi chuyện đã ổn cả rồi. - Thế còn hai đứa nhỏ? Thằng Misátca? Con Poliuska? - Cũng ở đấy cả. Nhưng con Dunhiaska sang sông rồi. Nó sợ không dám ở lại… Cái chuyện con gái con đứa, mày có hiểu không? Hiện nay nó đi Volokhov cùng với vợ thằng Anikey. Tao có về qua nhà hai lần. Giữa đêm khẽ bơi thuyền qua sông rồi tạt vào nhà một cái. Con Natalia yếu lắm, nhưng hai đứa bé vẫn khá, thật ơn Chúa… Con Natalia mê man bất tỉnh, người nóng như lửa, môi nứt chảy máu ra. - Thế sao cha không đưa cả sang đây? - Grigori tức giận quát lên. Ông già cũng phát khùng, giọng nói run run đầy vẻ bực bộỉ và trách móc: - Còn mày thì làm gì hử? Mày không thở về sớm để đưa mẹ mày và vợ con mày sang sông hay sao? - Tôi còn có sư đoàn? Tôi còn phải chỉ huy sư đoàn vượt sông? - Grigori cãi lại giọng nóng nảy. - Chúng tao đã nghe nói mày làm những việc gì ở Vosenskaia rồi… Hay là mày không còn thiết gì với gia đình nữa? Chao ôi, Grigori ạ! Nếu mày không nghĩ tới con người nữa thì cũng phải nghĩ tới Chúa chứ… Tao qua sông không phải ở chỗ nầy, nếu không chẳng nhẽ tao lại không đưa cả đi hay sao? Trước kia trung đội tao ở Elan, về tới đây thì bọn Đỏ đã chiếm mất thôn rồi. - Chuyện tôi ở Vosenskaia ấy à? Việc ấy không can gì đến cha… Mà cha hãy… - Giọng Grigori khàn khàn, trầm hẳn xuống. - Nhưng cũng chẳng hề chi đến tao! - Ông già hoảng sợ, bực mình đưa mắt nhìn bọn Cô-dắc đang xúm đông gần đấy. - Tao không nói chuyện đó… Còn mày thì khẽ mồm chứ, kẻo chúng nó nghe thấy kia kìa… - Nói đến đây ông chuyển sang thầm thì. - Bản thân mày cũng chẳng còn bé bỏng gì nữa, tự mày đã phải biết rồi. Còn chuyện gia đình thì không cần phải lo lắng lắm. Con Natalia, ơn Chúa, đã có đỡ mà bọn Đỏ cũng không hà hiếp gì nó. Kể ra chúng nó cũng có giết mất con dê một tuổi, nhưng chuyện ấy không có gi đáng kể. Bụng dạ chúng nó cũng không tốt, không làm lung tung.: Chúng nó lấy mất chừng bốn mươi mera thóc. Chà, nhưng trong chiến tranh thì tránh sao được những sự mất mát! - Bây giờ cũng có thể đưa nhà ta sang được chứ? - Theo ý tao thì chẳng đưa sang làm gì. Con bé nó đang ốm như thế thì đưa đi đâu? Mà làm việc ấy thì mạo hiểm. Nhà ta ở bên ấy thì cũng chẳng sao. Có bà lão trông nom việc nhà, thành thử tao cũng yên tâm hơn, nếu trong thôn không có những đám cháy như thế. - Đứa nào đốt? Các nhà cửa quanh bãi họp đều cháy sạch. Phần lớn là nhà của bọn lái buôn. Nhà Korsunov thông gia của nhà ta bị đốt không còn chút gì. Bà thông gia Lukinhitna hiện giờ ở Andronov, còn cụ Grisaka thì vẫn ở lại coi nhà. Mẹ mày kể rằng cụ Grisaka bảo: "Tôi sẽ không rời khỏi sân nhà tôi đi đâu cả. Cái bọn phản Chúa ấy chúng nó sợ dấu phép không dám lại gần tôi đâu". Cuối cùng đầu óc ông cụ đã hoàn toàn lẫn cẫn mất rồi. Nhưng rõ ràng là bọn Đỏ khốn kiếp ấy chúng nó cũng chẳng sợ gì cây thánh giá của ông cụ, nhà trên nhà dưới đều làm mồi cho lửa, còn về ông cụ thì chưa có phong thanh gì cả… Nhưng kể ra ông cụ cũng đã đến lúc về chầu Chúa rồi. Cụ đã đóng sẵn cho mình chiếc quan tài hai mươi năm nay, nhưng vẫn cứ sống… Còn thằng đốt thôn chính là thằng bạn thổ tả của mày đấy, cái thằng chết tử chết tiệt! - Đứa nào thế? - Thằng Miska Kosevoi, nó thật đáng nguyền rủa ba lần. - Đúng nó ư? - Đảng nó đấy, có Chúa chứng giám! Nó có đến nhà ta, dò hỏi về mày và bảo mẹ mày thế nầy: "Hễ chúng tôi sang đến bờ bên kia là sẽ treo cổ ngay thằng Grigori nhà bà lên trước tiên. Sẽ treo nó lên cây sồi nào cao nhất". Nó lại bảo: "Tôi sẽ không chém nó cho bẩn gươm". Còn tao thì nó hỏi về tao xong bèn phát khùng nhe răng nhe lợi ra. Nó hỏi: "Còn lão thọt ấy, quỷ dữ đã đem lão đi đâu rồi?" Nó lại bảo: "Cứ ngồi rú trên lò, ở nhà có hơn không? Nhưng nếu tôi tóm cổ được lão thì sẽ không giết lão ngay, mà sẽ dùng roi quật cho đến lúc hồn lão lìa khỏi xác mới thôi!" Mày xem nó đã trở thành một con quỷ dữ như thế rồi đấy? Nó đã đi khắp thôn, phóng hoả đốt nhà của bọn lái buôn và cố đạo rồi nói: "Tao sẽ đốt trụi trấn Vosenskaia để trả thù cho Kotliarov và Stokman?" Mày bảo nó nói thật hay bỡn đấy? Grigori chuyện trò thêm với bố nửa giờ nữa rồi ra lấy ngựa. Trong khi nói chuyện, ông già không đả động thêm một câu nào về Acxinhia, nhưng Grigori vẫn canh cánh không yên tâm: "Cha mà đã biết thì tất nhiên mọi người cũng biết hết. Còn đứa nào có thể bép xép được nữa? Ngoài Prokho ra, có ai thấy Acxinhia đang ở với mình đâu? Chẳng nhẽ cả Stepan cũng biết rồi hay sao?" Chàng thậm chí nghiến răng ken két vì xấu hổ, vì bực bội với chính mình… Chàng cũng chuyện trò qua loa với bọn Cô-dắc. Anikey cứ luôn miệng pha trò. Hắn xin chàng gửi cho vài thùng rượu nặng. - Chỉ cần được một thùng vodka là ngay đến đạn chúng tôi cũng không cần nữa! - Hắn vừa nói vừa nháy mắt cười khà khà và bật móng tay một cách đầy ý nghĩa vào cái cổ áo sơ-mi bẩn thỉu. Grigori đem hết số thuốc lá mang theo ra thết Khristonhia và tất cả các anh em khác cùng thôn. Mãi đến lúc sắp sửa lên ngựa ra đi, chàng mới trông thấy Stepan Astakhov. Stepan bước tới, chào hỏi một cách từ tốn, nhưng không chìa tay cho chàng. Từ ngày cuộc nổi loạn bùng nổ đến nay, đây là lần đầu tiên Grigori gặp Stepan. Chàng nhìn anh ta vẻ thăm dò và lo lẳng: "Không biết nó có biết hay không?" Nhưng khuôn mặt xương xương rất đẹp trai của Stepan vẫn bình thản, thậm chí còn vui vẻ, vì thế Grigori thở dài nhẹ nhõm: "Không, nó chưa biết đâu!" 64. Hai ngày sau, Grigori trở về sau khi đi thăm mặt trận sư đoàn của chàng. Bộ tư lệnh đã rời đén thôn Chernyi. Tới gần Vosenskaia, Grigori cho con ngựa nghỉ nửa tiếng để nó uống nước, rồi thẳng tới thôn Cher, không tạt vào Vosenskaia. Kudinov tiếp đón chàng một cách vui vẻ. Hắn nhìn chàng với một nụ cười giễu cợt và có vẻ chờ đợi. - Chà, ngài Grigori Panteley, ngài đã nhìn thấy những gì rồi? Hãy kể đi nào? - Nhìn thấy anh em Cô-dắc, nhìn thấy bọn Đỏ trên những ngọn đồi. - Cậu đã giải quyết được nhiều việc lắm? Nhưng trong khi đó đã có ba chiếc máy bay tới đây, chở đến đạn dược và những bức thư gì đó. - Thế tướng Sidorin, cái gã đồng căn với anh, nó viết cho anh những gì thế? - Ông bạn đồng sự của mình ấy à? - Kudinov tỏ ra vui vẻ khác thường, hắn hỏi lại để tiếp tục câu chuyện vẫn với cái giọng bỡn cợt lúc đầu. Hắn viết rằng phải ráng hết sức cố thủ và không được để cho bọn Đỏ vượt sông. Hắn còn viết rằng không bao lâu nữa Quân đội sông Đông sẽ tấn công và giáng một đòn quyết định. - Nghe bùi tai lắm. Kudinov nghiêm nét mặt: - Chúng nó sẽ mở đột phá khẩu đấy. Mình chỉ nói riêng với cậu thôi, và phải tuyệt đối giữ bí mật đấy? Một tuần nữa chúng nó sẽ chọc thủng mặt trận Tập đoàn quân số 8 của bọn Đỏ. Phải giữ vững mới được. - Bọn mình vẫn giữ đấy chứ! - Ở Gromoc, bọn Đỏ đang sửa soạn vượt sông. Đến giờ vẫn còn nghe thấy tiếng rìu của chúng nó à? - Grigori ngạc nhiên. - Vẫn còn… Nhưng nầy, thế cậu đã nhìn thấy được những gì rồi? Vừa qua cậu ở đâu? Hay nhỡ ra cậu lại nằm lì ở Vosenskaia thì sao? Có thể là cậu chẳng đi đâu cũng chửa biết chừng! Hôm kia quả thật là mình đã cho sục khắp trấn tìm cậu, chỉ có một thằng được phái đi trở về nói rằng: "Đồng chí Melekhov không có nhà, nhưng ở phòng trong có một người đàn bà đẹp lắm bước ra và bảo: "Ông Grigori Panteleevich đi rồi, nhưng hai con mắt khóc sưng húp". Vì thế mình cũng nghĩ bụng: "Có lẽ ông sư đoàn trưởng của chúng mình đang hú hí với người yêu, vì thế lánh mặt không muốn gặp chúng mình chứ?". Grigori cau mặt. Chàng không thích câu nói đùa của Kudinov. - Anh bớt nghe những chuyện bậy bạ thì hơn, còn bọn liên lạc thì nên chọn những thằng ngắn lưỡi một chút? Nếu anh còn cho một thằng quá dài lưỡi đến gặp tôi thì tôi sẽ lấy gươm cắt bớt lưỡi nó trước để khỏi nói ra những điều tầm bậy. Kudinov phá lên cười, vỗ vai Grigori: - Nhưng có khi cậu cũng nghe được những lời nói đùa cơ mà! Thôi bông phèng như thế đủ rồi! Mình còn có một câu chuyện đứng đắn phải nói với cậu đây. Chúng ta cần tóm lấy một "cái lưỡi"[291], đó là một việc, còn việc thứ hai là một đêm nào đó, sẽ đưa chừng hai đại đội kỵ binh sang bên kia sông, tới một chỗ nào đó, nhưng không quá địa giới trấn Vosenskaia, để quần cho bọn Đỏ một trận. Thậm chí có thể vượt sông ở ngay Gromoc, làm chúng nó cuống cuồng lên một mẻ, có được không? Cậu thấy thế nào? Grigori nín lặng một lát rồi trả lời: - Như vậy cũng hay đấy. - Thế cậu thân chinh - Kudinov dằn mạnh hai tiếng nầy, - chỉ huy mấy đại đội ấy chứ? - Sao lại mình thân chinh? - Cần phải có một người chỉ huy thiện chiến, đó là vì sao đấy! Phải có một tay hết sức thiện chiến, vì đây không phải là một trò đùa. Nếu không cuộc vượt sông có thể sẽ fhất bại đến không về được mống nào chửa biết chừng! Grigori được nịnh phổng mũi, không đắn đo gì cả, nhận lời luôn: - Mình sẽ chỉ huy, tất nhiên rồi! - Chúng mình ở đây đã đặt kế hoạch và dự định sẽ làm như thế nầy. - Kudinov đang ngồi trên chiếc ghế đẩu ở phòng trong bỗng đứng dậy đi đi lại lại trên những tấm ván sàn ọp ẹp và nói sôi nổi - Không cần phải thọc sâu vào hậu phương, nhưng ở ngay ven sông, phải tràn qua hai ba thôn, lắc cho chúng nó một trận, làm chúng nó choáng váng đến buồn nôn, kiếm lấy một ít đạn súng trường và đạn pháo, bắt vài thằng tù binh rồi lại theo đường cũ đánh nước mã hồi. Tất cả các việc ấy phải làm xong hết trong một đêm để vừa tảng sáng đã về đến chỗ lội. Như thế có đúng không? Thế nầy nhé, cậu hãy suy nghĩ thêm, sáng mai sẽ xem trong số anh em Cô-dắc, muốn chọn những cậu nào thì chọn, rồi bắt tay vào việc ngay. Chúng mình còn quyết định như thế nầy nữa: ngoài Melekhov ra sẽ chẳng tay nào làm nổi việc nầy đâu? Mà nếu cậu làm xong thì Quân khu sông Đông sẽ không quên công nầy của cậu. Hễ hợp nhất được về với quân ta, mình sẽ viết ngay báo cáo lên chính ataman nhiệm lệnh. Mình sẽ ghi tất cả các công lao của cậu, và thăng chức… Kudinov đưa mắt nhìn Grigori và bỗng nhiên hắn tắc họng giữa lúc chưa nói hết câu: khuôn mặt Grigori từ nãy vẫn bình tĩnh bỗng xạm đen, méo hẳn đi vì phẫn nộ: - Anh coi tôi là thế nào hử? - Grigori đưa thoắt hai tay ra sau lưng, đứng phắt dậy. - Chẳng nhẽ tôi chiến đấu chỉ vì muốn thăng quan tiến chức hay sao? Anh đem tiền ra thuê tôi có phải không? Anh hứa thăng chức à? Tôi thì… - Nhưng cậu hãy hượm đã nào? - Nhổ vào các chức tước của anh? - Hượm đã nào! Cậu không hiểu đúng ý mình… -… Tôi nhổ vào! - Cậu hiểu nhầm rồi, Melekhov! - Tôi đã hiểu tất cả rồi! - Grigori bất thần thở phào rồi lại ngồi xuống chiếc ghế đẩu. - Anh tìm người khác đi, tôi không chỉ huy bọn Cô-dắc vượt sông Đông đâu! - Cậu nổi nóng như thế thật là sai. - Tôi sẽ không chỉ huy đâu! Không cần nói gì thêm về việc nầy nữa. - Thế thì mình cũng chẳng ép và chẳng van xin cậu đâu. Nếu cậu muốn thì chỉ, huy trận nầy, không muốn cũng tuỳ ý. Tình hình của chúng ta hiện nay quá ư nghiêm trong, vì thế mới quyết định làm chúng nó hoảng lên một mẻ, không cho chúng nó chuẩn bị vượt sông. Còn cái chuyện thăng chức thì mình chỉ nói đùa thôi! Sao cậu lại không hiểu một câu nói đùa? Cả cái chuyện người đẹp lúc nãy mình cũng chỉ nhắc cho vui, nhưng sau mình thấy cậu nổi khùng lên không hiểu vì duyên cớ gì, mình bèn nghĩ bụng, đã thế sẽ làm cho hắn nổ lên một trận nữa xem sao! Cậu phải hiểu rằng mình cũng biết cậu là một thằng Bolsevich dở dang và không thích cấp bậc gì cả. Thế mà cậu tưởng rằng mình nói thật hay sao? Kudinov bào chữa khéo quá, hắn phá lên cười cũng tự nhiên quá, đến nỗi trong khoảnh khắc Grigori thậm chí thoáng có ý nghĩ: "Hay thật quả hắn chỉ nói đùa?" - Chà thế mà cậu, hô-hô-hô! phát khùng ngay lên. Người anh em ạ! Thật đấy, mình chỉ nói đùa thôi mà? Mình chỉ muốn chọc tức cậu… - Nhưng dù sao tôi cũng từ chối không sang bên kia sông Đông nữa, tôi đã nghĩ lại rồi. Kudinov thản nhiên nghịch nghịch đầu chiếc dây lưng, nín lặng giờ lâu rồi lại nói: - Thôi được, cũng chẳng sao, nghĩ lại hay sợ thì cũng chẳng phải là chuyện quan trọng. Điều quan trọng là kế hoạch của chúng ta bị phá vỡ! Đương nhiên bọn mình sẽ cử một cậu khác đi thay. Vì tạm thời cậu còn chưa nhìn thấy rõ ràng… Nhưng tình hình của chúng ta hiện nay quá ư nghiêm trọng, tự cậu thử ngẫm mà xem. Hôm nọ, Koldrat Medvedev ở Sumilinskaia có gửi tới cho bọn mình một mệnh lệnh mới của bọn Đỏ. Chúng nó đang điều quân tới đánh chúng ta… Cậu tự đọc lấy mà xem không cậu lại không tin… - Kudinov rút trong chiếc túi dết dã chiến ra một tờ giấy màu vàng, chung quanh đầy những vết máu khô nâu xịt, rồi chìa cho chàng. - Tìm thấy ở chính uỷ của một đại đội Quốc tế nào đó. Thằng chính uỷ nầy người Ladvia. Thằng khốn kiếp, nó bắn lại tới viên đạn cuối cùng rồi cầm ngang khẩu súng trường xông thẳng tới cả trung đội Cô-dắc… Trong số chúng nó, trong số những thằng có tư tưởng ấy, cũng thường thấy… Chính Koldrat đã hạ thằng chính uỷ ấy. Hắn đã tìm thấy trong túi ngực của thằng ấy có bản mệnh lệnh nầy. Trên tờ giấy màu vàng vấy máu thấy in những chữ rất nhỏ bằng mực đen: MỆNH LỆNH Gửi Quân đội Tiễu phạt 8 số 100 Bogutra, 25 tháng 5 năm 1919 Đọc lại tất cả các đại đội bộ binh, kỵ binh, pháo binh và súng máy. Hãy dập tắt cuộc phiến loạn đê tiện ở vùng sông Đông! Giờ tận số của nó đã điểm! Mọi việc chuẩn bị cần thiết đều đã làm xong. Đã tập trung được những lực lượng đầy đủ để đập vào đầu bè lũ phản bội và thù nghịch… Đã điểm giờ đền tội của những tên Cain[292], những tên hơn hai tháng nay đã giáng những đòn vào lưng các đạo quân của chúng ta đang hoạt động trên Mặt trận miền Nam. Toàn thể công - nông Nga đang kinh tởm và căm hờn nhìn vào các bầy thổ phỉ ở các trấn Migulinskaia, Vosenskaia, Elanskaia, Sumilinskaia, bọn nầy đã giương lá cờ đỏ giả hiệu để tiếp tay cho hai tên địa chủ trong "Đội trăm đen[293]: Denikin và Koltrak. Hỡi các chiến sĩ, các cấp chỉ huy, chính uỷ của quân đội tiễu phạt! Công tác chuẩn bị đã hoàn thành. Tất cả các lực lượng và phương tiện đã được tập trung. Hàng ngũ của các đồng chí đã tề chỉnh. Bây giờ chỉ còn chờ lệnh là tiến lên! Phải phá tan sào huyệt của bọn phản bội và nghịch thù vô hêm sỉ Phải diệt cho hết bọn Canh. Đối với các trân chống cự lại thì cứ thẳng tay không thương tiếc gì cả. Chỉ khoan hồng đối với những kẻ tự nguyện nộp vũ khí và đi theo chúng ta. Đối với những thằng tay chân của Koltrak và Denikin thì chỉ có chì, thép và lửa! Các đồng chí chiến sĩ, nước Nga Xô viết đặt hy vọng vào các đồng chí. Trong vòng vài ngày chúng ta sẽ phải quét sạch sông Đông khỏi vết nhơ của sự phản bội. Giờ tận số của chúng đã điểm. Ngàn vạn người như một, tiến lên! 65. Ngày mười chín tháng năm, Miska Kosevoi được Gumanovsky, trưởng ban tham mưu lữ đoàn tiễu phạt thuộc Tập đoàn quân số 9 phái đi tìm ban chỉ huy của trung đoàn 32 để trao một công văn hoả tốc. Theo những tin tức mà Gumanovsky nắm được thì trung đoàn nầy đang đóng ở thôn Gorbanovsky. Ngay hôm ấy, lúc trời đã về chiều, Miska phóng ngựa tới thôn Gorbanovsky, nhưng ban chỉ huy trung đoàn 32 không có ở đấy. Trong thôn rộn lên vô số những xe cộ của đoàn vận tải tuyến hai của sư đoàn 23. Các xe nầy đang từ sông Dones chạy về hướng Ust-Medvedicha, có hai đại đội bộ binh yểm hộ. Miska lang thang trong thôn vài tiếng đồng hồ, cố hỏi dò xem trung đoàn bộ kia đang đóng ở đâu. Cuối cùng có một chiến sĩ kỵ binh Hồng quân cho anh biết rằng hôm qua ban chỉ huy trung đoàn 32 đã ở thôn Elanchevsky, gần thị trấn Bokovskaia. Miska cho ngựa ăn rồi ngay đêm ấy tới Elanchevsky, nhưng cả ở đấy anh cũng không gặp trung đoàn bộ. Lúc đã nửa đêm, Miska đang trên đường trở về Gorbanovsky thì gặp một đội trinh sát của Hồng quân trên đồng cỏ. - Ai? - Từ xa họ đã hỏi Miska. - Người mình đây. - Nhưng anh là người mình như thế nào mới được chứ? - Người đội trưởng cho ngựa tiến tới gần, khẽ hỏi giọng trầm như phải cảm, anh ta đội chiếc mũ lông trắng kiểu Kuban và mặc một cái áo kiểu trec-ket màu lam - Đơn vị nào? - Lữ đoàn tiễu phạt thuộc Tập đoàn quân số Chín. - Có giấy tờ của đơn vị không? Miska đưa trình giấy tờ chứng minh. Người đội trưởng trinh sát xem giấy tờ dưới ánh trăng rồi hỏi vặn vẻ không tin: - Thế ai là lữ đoàn trưởng của các anh? - Đồng chí Lozovsky. - Lữ đoàn ấy bây giờ ở đâu? - Bên kia sông Đông. Nhưng còn đồng chí, đồng chí thuộc đơn vị nào? Có phải trung đoàn Ba mươi hai không? - Không. Chúng tôi thuộc sư đoàn Ba mươi ba Kubanskaia. - Thế anh ở đâu đến đây? - Ở Elanchevsky. - Thế đi đâu? - Đi Gorbanovsky. - Hừ! Hiện nay bọn Cô-dắc đã ở thôn Gorbanovsky rồi. - Không thể được! - Miska kinh ngạc. - Tôi bảo cho anh biết rằng ở đấy đã có những thằng Cô-dắc phiến loạn rồi. Chúng tôi vừa trông thấy chúng nó đấy. - Thế thì tôi đi Bobrovsky bằng cách nào bây giờ? - Miska hốt hoảng nói. - Ai làm thế nào biết được. Người đội trưởng trinh sát thúc con ngựa huyền mông xuôi bỏ đi, nhưng rồi anh ta quay lại nửa người trên yên, khuyên Miska: - Đi với chúng tôi thôi, nếu không anh sẽ bị chúng nó "béng cái đầu" đi đấy! Miska sẵn lòng đi theo đội trinh sát. Ngay đêm ấy, anh đã cùng các chiến sĩ Hồng quân tới thôn Krugilin, nơi trung đoàn 294 Taranrocsky đóng quân. Anh trao bức công văn cho trung đoàn trưởng, trình bày rõ lý do vì sao mình không đem được công văn tới địa điểm rồi xin phép ở lại trung đoàn, gia nhập đội trinh sát kỵ binh. Sư đoàn 33 Kubanskaia mới được biên chế gần đây gồm một số đơn vị thuộc Tập đoàn quân Tamanskaia và những chiến sĩ tình nguyện vùng Kuban. Sư đoàn nầy đã được điều từ Astrakhan về khu vực Voronez - Lisky. Một lữ của sư đoàn nầy, gồm ba trung đoàn Taranrocsky, Derbensky và Vaxinkovsky, đã được điều đi đánh quân phiến loạn. Chính nó đã tấn công và đánh bật sư đoàn của Grigori Melekhov sang bên kia sông Đông. Lữ đoàn vừa chiến đấu vừa hành quân cấp tốc tiến theo bờ bên phải sông Đông từ khu du mục của trấn Kazanskaia đến những thôn đầu tiên về phía tây của trấn Ust-Khopesky. Mãi sau khi cánh bên phải của nó chiếm được những thôn ven sông Tria, lữ đoàn mới lộn trở về, sau khi nán lại chừng hai tuần ở vùng ven sông Đông. Miska tham gia các trận chiến đấu đánh chiếm thị trấn Karginskaia là một loạt thôn trên sông Tria. Sáng ngày 27, đại đội trưởng trung đoàn 294 Taranrocsky tập hợp các chiến sĩ Hồng quân bên cạnh đường, ngay trên đồng cỏ, ở gần thôn Hạ Grusinsky, để đọc bản mệnh lệnh vừa nhận được. Và Miska Kosevoi đã ghi sâu vào trong lòng mấy câu: "… Phải phá tan sào huyệt của bọn phản bội và nghịch thù vô liêm sỉ. Phải diệt cho hết bọn Cain…" và "Đối với những thằng tay chân của Koltrak và Denikin thì chỉ có chì, thép và lửa!". Sau khi Stokman bị giết, sau khi Miska được nghe tin về cái chết của Kotliarov cùng các đồng chí đảng viên cộng sản trấn Elanskaia thì niềm căm hờn đối với bọn Cô-dắc luôn luôn thiêu đốt trái tim Miska. Mỗi khi có tên tù binh là quân phiến loạn Cô-dắc rơi vào tay anh, Miska không còn đắn đo gì nữa, không còn lắng nghe tiếng nói mơ hồ của lòng thương nữa. Từ ngày ấy anh không hề đối xử khoan dung đối với một tên nào trong số đó. Anh cứ đưa cặp mắt xanh biếc và lạnh buốt như băng nhìn những tên đồng hương và hỏi: "Mày chống lại Chính quyền Xô viết à?", rồi không chờ trả lời, không nhìn vào khuôn mặt biến sắc như mặt người chết của tên tù binh, vung gươm chém luôn. Chém không thương tiếc? Và anh không những chỉ chém mà còn thả "con gà trống đỏ"[294] cho nó bay lên mái những ngôi nhà trong các thôn mà quân phiến loạn đã rút bỏ. Rồi khi những con bò đực, bò cái hoảng sợ đến phát điên phá hàng rào các sân nhà cháy, kêu rống lên chạy ra ngõ, thì Miska dùng súng trường nhằm thẳng vào chúng mà bắn. Miska tiến hành một cuộc chiến tranh không thoả hiệp, một cuộc chiến tranh tàn khốc chống lại tầng lớp Cô-dắc sung sướng phè phỡn, chống lại sự bội tín tráo trở của dân Cô-dắc, chống lại các nếp sống thủ cựu, th trệ, chưa gì phá vỡ được, nó đã mọc rễ sâu sắc bao nhiêu thế kỷ nay dưới các mái ngôi nhà sung túc. Cái chết của Stokman và Kotliarov đã nuôi dưỡng chí căm thù của Miska, và những lời trong bản mệnh lệnh chỉ diễn đạt rành rọt đến cùng cực các tình cảm mà anh chưa biết cách nói ra. Ngay hôm ấy anh đã cùng ba đồng chí đốt chừng trăm rưởi ngôi nhà ở trấn Karginskaia. Không biết ở chỗ nào anh thấy trong nhà kho một tiệm buôn có một thùng dầu hoả, bèn đem ra quảng trường. Bàn tay đen sì của anh đã đánh hết một bao diêm và chân anh bước đến đâu là khói hắc và lửa hồng trùm lên các ngôi nhà ốp ván, sơn vẽ, trang trí đẹp đẽ của bọn lái buôn, cố đạo, của những tên Cô-dắc giàu có, những kẻ "đã có những hành vi quỷ quyệt xô đẩy đám quần chúng Cô-dắc tối tăm ngu dốt nổi lên bạo động". Đội trinh sát kỵ binh thường là những chiến sĩ đầu tiên tiến vào các thôn mà quân địch rút bỏ. Bộ binh kéo tới thì Miska đã cho gió lửa hoành hành trên các ngôi nhà có của nhất. Anh muốn rằng dù sao cũng phải về thôn Tatarsky một lần để trả thù những người đồng hương của mình về cái chết của Kotliarov cùng các đảng viên người trấn Elanskaia, để đốt cháy nửa thôn. Anh đã lập sẵn trong óc danh sách các ngôi nhà cần phải đốt, và đã quyết định rằng nếu đơn vị anh tiến quân từ vùng sông Tria qua bên trái trấn Vosenskaia, anh sẽ nhân lúc đêm tối tự ý rời đơn vị để tạt về thôn nhà cho kỳ được. Nhưng cũng còn một nguyên nhân nữa thúc đẩy Miska phải về thôn Tatarsky… Hai năm gần đây, qua những lần anh cùng Dunhiaska nhà Melekhov thỉnh thoảng gặp nhau, một tình cảm chưa nói ra lời đã gắn bó hai người. Chính những ngón tay ngăm ngăm của Dunhiaska đã dùng những sợi len tươi thắm thêu cái túi đựng thuốc tặng Miska. Chính Dunhiaska đã giấu mọi người trong gia đình đem đến cho Miska một đôi găng làm bằng lòng dê màu xám khói vào một ngày mùa đông. Và chiếc khăn thêu mà Miska trân trọng giữ trong túi áo ngực quân phục binh sĩ của anh trước kia vốn là của Dunhiaska. Và Miska cảm thấy không có gì quý bằng chiếc khăn thêu nhỏ xíu ba tháng nay vẫn còn lưu trong các nếp nhăn của nó mùi hương của thân hình người con gái, thoang thoảng như hương cỏ khô! Mỗi khi anh ngồi một mình, lấy chiếc khăn ra thì những hồi ức rạo rực tự nhiên ập tới: cây tiêu huyền đầy sương muối bên bờ giếng, cơn bão tuyết đổ xuống như trút từ màn trời tối đen, cặp môi mọng chắc run run của Dunhiaska và những cái ánh tinh thể lóng lánh trong những miếng tuyết nhỏ đang tan trên hai hàng mi cong của cô gái. Miska đã sửa soạn rất chu đáo cho chuyến về nhà. Trên bức tường trong ngôi nhà của một lão lái buôn ở trấn Karginskaia, anh đã giật xuống một tấm thảm hoa nhỏ để dùng làm áo ngựa, và anh đã có một cái áo ngựa đẹp là lùng từ những màu sắc tươi thắm, những đường hoa rất đẹp, nhìn từ xa đã thấy vui mắt. Anh lục trong một chiếc hòm Cô-dắc, lấy được một chiếc quần đi ngựa có nẹp gần như còn mới và nửa tá khăn bịt đầu của đàn bà có thể dùng làm ba đôi vải bọc chân. Còn đôi găng tay đan bằng sợi của đàn bà thì anh cất vào trong túi yên, vì anh không đeo ngay bây giờ, trong những ngày chiến tranh rầu rĩ, mà sẽ chờ đến lúc lên đến ngọn gò, sắp sửa cho ngựa tiến vào thôn Tatarsky mới dùng đến. Từ cổ tới nay, đã có tập quán là anh lính Cô-dắc trở về thôn nhà bao giờ cũng phải ăn vận thật diện. Vì thế dù đã tham gia Hồng quân, một anh chàng chưa được giải phóng khỏi các truyền thống Cô-dắc cũ như Miska vẫn gìn giữ thiêng liêng tập quán cổ truyền đó. Miska cưỡi một con ngựa rất khá lông mầu hạt dẻ sẫm, mũi trắng. Chủ cũ của nó là một gã Cô-dắc trấn Ust-Khopeskaia, đã bị Miska chém chết trong một trận xung phong. Ngoài chuyện là một chiến lợi phẩm, con ngựa nầy còn có những điểm khác có thể đem ra khoe: cơ thể nó đẹp, nước chạy hăng nhanh, dáng vẻ hiên ngang, nom đúng là một con ngựa chiến. Nhưng cái yên Kosevoi cưỡi lại nhỏ bé, tầm thường. Đệm yên đã mòn, có những chỗ vá, đai bụng phía sau làm bằng da dầu, bàn đạp cũ kỹ, bị rỉ bám dầy cốc không biết từ bao giờ, mài cọ thế nào cũng không sạch. Cả hàm thiếc cũng rất tầm thường, không có một đồ trang sức nào cả. Vì thế cần phải làm một việc gì đó, dù chỉ trang hoàng cho bộ hàm thiếc thôi cũng được. Miska đã đau khổ nặn óc không biết bao nhiêu ngày để tìm cách giải quyết vấn đề nầy, và cuối cùng anh chàng đã có được một giải pháp hết sức tài tình. Cạnh nhà một tên lái buôn, ngay trước quảng trưởng, có một chiếc giường mạ kền trắng loá mà những người làm công của lão đã lôi ra khỏi ngôi nhà cháy. Bốn góc giường có bốn quả cầu trắng, nắng chiếu vào nhấp nhoáng đến loá mắt. Chỉ cần tháo hay bẻ mấy quả cầu ấy, đeo vào dây hàm thiếc là bộ hàm giá thiếc nom sẽ hoàn toàn khác hẳn trước đây. Miska đã làm đúng như thế, anh vặn vít, lấy ra bốn quả cầu rỗng trên bốn góc giường, rồi dùng dây tơ đeo hai quả vào vòng hàm thiếc, hai quả hai bên dây mõm, thế là trên đầu con ngựa có bốn quả cầu sáng rực như mặt trời giữa trưa. Những khi phản chiếu ánh nắng thì lại càng choáng lộn không thể nào nhìn được. Ánh kền loá lên đến nỗi hễ con ngựa đi về hướng mặt trời là mắt nó nhíu lại, chân chốc chốc lại vấp, bước đi chẳng vững vàng chút nào. Mặc cho con ngựa nhìn không rõ vì mấy quả cầu, mặc cho nó chảy nước mắt do ánh sáng phản chiếu, Miska vẫn không tháo một quả cầu nào khỏi bộ hàm thiếc. Nhưng chẳng bao lâu đã đến ngày Miska phải rời bỏ cái trấn Karginskaia cháy dở, nồng nặc mùi tro và gạch hun. Trung đoàn có nhiệm vụ tiến về sông Đông, về hướng Vosenskaia. Vì thế Miska không khó khăn gì lắm cũng xin được đội trưởng trinh sát cho mình một ngày nghỉ phép để về thăm gia đình. Đồng chí đội trưởng không những cho anh nghỉ phép mà còn giúp đỡ thêm: - Cậu đã lấy vợ chưa? - Anh hỏi Miska. - Chưa. - Nhưng có lẽ cũng có mẻng rồi chứ gì? - Cái gì? Mẻng là cái gì? - Miska ngạc nhiên hỏi. - Chà nhân tình ấy mà! - À à à. Cái chuyện ấy thì không có. Nhưng có một người yêu con nhà tử tế. - Thế là cậu đã có đồng hồ và dây đeo chưa? - Chưa có đồng chí ạ. - Chà cái cậu nầy! - Đội trưởng trinh sát, người Xinvrovol, trước kia vốn là một hạ sĩ tái đăng. Hồi ở quân đội cũ, bản thân anh ta cũng nhiều lần nghỉ phép, vì thế kinh nghiệm đã cho anh ta biết rằng ở đơn vị về mà rách rưới lam lũ thì cực như thế nào. Anh ta bèn tháo trên bộ ngực nở nang một chiếc đồng hồ có sợi dây đeo to không thể tưởng tượng được và nói - Cậu là một chiến sĩ tốt! Nầy, cậu hãy đeo mà về nhà, cho bọn con gái chúng nó hoa mắt, và cậu hãy nhớ tới mình ở trung đội ba. Chính mình cũng đã sống qua thời trai trẻ, phá đời của bọn con gái cũng có, bòn của bọn đàn bà cũng có mình biết lắm… Cái dây nầy làm bằng vàng Mỹ mới đấy. Nếu có thằng nào hỏi thì cứ trả lời như thế. Nhưng nếu gặp thằng nào hỗn xược muốn hỏi dấu hiệu[295] ở đâu thì cậu cứ quạng thẳng vào mõm nó! Thường vẫn có những thằng mặt dày vô sỉ như thế, đối với chúng nó thì không cần nói năng gì cả, cứ nện vào mõm chúng nó là xong. Trước kia đã có lần, không nhớ là trong một tiệm ăn hay ở một nơi công cộng nào đó, có một thằng văn sĩ nào đó xuất thân không biết là quản lý hay thơ lại, tự nhiên vác mẹ nó mặt đến định làm nhục mình ngay trước công chúng: "Ngài phô cái dây đồng hồ trên bụng, làm cứ như bằng vàng thật… Nhưng dấu hiệu của nó ở chỗ nào, xin ngài làm ơn cho biết?" Hôm ấy mình đã không để cho nó kịp hoàn hồn: "Dấu hiệu ấy à? Nầy thì dấu hiệu!" Rồi người đội trưởng tốt bụng của Miska nắm bàn tay nâu xịt, to bằng đầu đứa con nít, đấm ra với một sức mạnh khủng khiếp. Miska đeo chiếc đồng hồ, rồi ngay đêm ấy anh cạo râu dưới ánh lửa và thắng ngựa ra đi. Đến khi trời rạng anh vào thôn Tatarsky. Thôn xóm vẫn hoàn toàn như xưa. Cái gác chuông không cao lắm của toà nhà thờ xây bằng gạch vẫn vươn lên bầu trời xanh ngắt cây thánh giá mạ vàng bạc phếch. Những ngôi nhà kiên cố của bọn cố đạo và lái buôn vẫn nằm sát sin sít quanh bãi thôn. Cây tiêu huyền che bóng cho căn nhà nhỏ gần đổ dụi của Miska vẫn rì rầm với cái giọng thân thiết như xưa… Chỉ có một điều lạ lùng chưa từng thấy trong thôn, làm Miska kinh ngạc nhất là bầu không khí chết lặng bát ngát trùm lên khắp các ngõ như một cái mạng nhện. Các phố vắng tanh không một bóng người. Cửa chớp của tất cả các nhà đều đóng im ỉm. Thỉnh thoảng mới thấy vài nhà có chiếc khoá lủng lẳng trước cửa ra vào, nhưng phần lớn cửa ngõ đều mở toang. Ôn dịch tựa như đã lê những cái chân đen sịt của nó qua khắp thôn, làm cho các sân gia súc cũng như ngoài phố đều vắng tanh vắng ngắt. Các nhà trước kia có người ở bây giờ đều trống rỗng, quạnh hiu. Không nghe thấy một tiếng người nói, một tiếng gia súc kêu hay một tiếng gà gáy. Chỉ có bầy sẻ vẫn ríu rít kêu chim chíp dưới các mái nhà hiên nhà kho và trên những đống củi chất cho khô dần, cứ như lúc trời sắp mưa. Miska bước vào sân gia súc nhà anh. Không một ai trong số những người thân thuộc ra đón. Cửa vào phòng ngoài mở thông thống. Bên ngưỡng cửa còn thấy vứt bừa bãi một cái xà cạp rách nát của Hồng quân, một đoạn băng nhăn nhúm, đen sì những máu và vài cái đầu gà thối rữa, ruồi bám đầy chung quanh, và những đám lông gà. Đúng là vài ngày trước đây một số chiến sĩ Hồng quân đã đến ăn trong căn nhà nhỏ nầy: trên sàn vẫn còn vung vãi những mảnh bát đĩa vỡ, những miếng xương gà đã gặm, những mẩu thuốc lá, những mảnh báo bị dẫm nát… Miska cố nén tiếng thở dài, bước vào phòng trong. Trong đó tất cả vẫn như xưa, chỉ một trong hai tấm ván nắp trên cái hầm thường cất dưa hấu về mùa thu hình như có bị nậy lên. Bà mẹ của Miska có thói quen đem táo khô giấu xuống dưới đó, để trẻ con khỏi lấy ăn. Miska nhớ lại chuyện ấy bèn bước tới chỗ tấm ván, bụng bảo dạ: "Chẳng nhẽ mẹ đã không chờ mình? Có lẽ mẹ có giấu cái gì xuống ấy cũng chưa biết chừng?" Rồi anh rút gươm, lấy mũi gươm nạy tấm ván. Tấm ván rít lên, bật ra. Mùi ẩm mốc dưới hầm xông lên. Miska quỳ xuống nhìn. Mắt anh còn chưa quen với bóng tối nên một lúc lâu chẳng nhận được ra một vật gì. Cuối cùng anh nhìn thấy một tấm khăn bàn cũ bên trên đặt nửa chai rượu, một cái xoong trong có một miếng trứng tráng mốc meo, mẩu bánh mì đã bị chuột gặm mất nửa, một cái hũ bịt kín bằng một cái chén gỗ… Bà mẹ già đã chờ con trai về. Bà đã chờ con như chờ một người khách quý nhất! Trong lúc Miska lần xuống hầm, lòng anh run lên vì yêu thương và sung sướng. Mới vài ngày trước đây, hai bàn tay ân cần chăm chút của bà mẹ đã chạm vào tất cả các vật xếp trên chiếc khăn bàn cũ sạch sẽ nầy? Ngay cạnh đấy có một cái túi bằng vải đay trắng treo trên một cái khấc. Miska vội lấy ngay cái túi xuống, thấy trong đó có một đôi quần áo lót của mình, đã cũ, nhưng được vá víu cẩn thận, giặt sạch và là phẳng phiu bằng chầy. Thức ăn bị chuột vấy hỏng cả. Chỉ có rượu và sữa còn chưa bị đụng đến. Miska uống hết chỗ rượu và sữa mát lạnh rất ngon vì đế lâu dưới hầm, lấy đôi quần áo lót rồi leo lên trên. Có lẽ bà mẹ đã sang bên kia sông Đông. "Mẹ sợ không dám ở lại, mà như thế còn hơn, nếu không đã bị bọn Cô-dắc giết chết cũng chưa biết chừng. Chỉ sợ mẹ đã vì mình mà bị chúng nó rung như cây lê mất thôi…" - anh vừa nghĩ thầm vừa từ từ bước ra ngoài. Anh tháo ngựa nhưng không quyết định sang nhà Melekhov ngay: nhà họ ở ngay bên bờ sông Đông, và từ bên kia sông, một tên thiện xạ nào đó có thể dễ dàng bắn Miska bằng một viên đạn chì không có vỏ của quân phiến loạn. Vì thế Miska quyết định tạt sang nhà Korsunov, chờ đến lúc trời nhá nhem sẽ quay ra bãi và dựa vào bóng tối để đốt nhà Mokhov cùng những ngôi nhà khác của những tên lái buôn và cố đạo. Anh cho ngựa đi qua các sân sau, tới đám nhà phụ rộng thênh thang của nhà Korsunov, rồi qua cái cổng mở toang, đến buộc ngựa ở bên thềm. Anh vừa định bước vào trong nhà thì thấy cụ Grisaka đi ra thềm. Cái đầu cụ lắc lư với bộ tóc trắng như tuyết, hai con mắt loà già quá đến hết cả màu sắc nheo nheo. Chiếc áo quân phục Cô-dắc màu xám mặc còn chưa rách cài tất cả các khuy, trên cổ áo bẩn thỉu đính hai cái lon đỏ loé, nhưng cái quần đi ngựa rộng thùng thình chạy xệ chỉ muốn tụt xuống làm ông cụ cứ phải giữ bằng cả hai tay. - Chào cụ? Miska đứng bên thềm, vung roi chào. Cụ Grisaka nín thinh. Trong cặp mắt nghiêm khắc của cụ hiện rõ cả một vẻ vừa thù ghét vừa kinh tởm. - Chào cụ, tôi chào cụ đấy! - Miska nói giật giọng. - Lạy Chúa tôi! - Ông già miễn cưỡng trả lời. Nhưng cụ vẫn nhìn Miska với một vẻ chú ý đầy phẫn nộ. Còn Miska thì cứ đưa một chân sang bên, đứng rất thung dung. Anh ngoáy ngoáy cái roi ngựa, cau mày, mím chặt cặp môi mọng như môi con gái. - Cụ Grisaka, sao cụ không rút sang bên kia sông Đông? - Anh làm thế nào mà biết tên tôi hử? - Tôi chôn rau cắt rốn ở đây, làm gì mà chẳng biết? - Thế anh là con cái nhà ai? - Kosevoi. - Con thằng Akim à? Cái thằng trước kia làm công cho nhà tôi ấy à? - Đúng đấy. Như thế đúng là anh đấy à, anh Akim con? Hôm làm lễ rửa tội sơ sinh, người ta đã đặt tên cho anh là Miska chứ gì? Hay lắm? Thật cha nào con nấy? Cái thằng ấy cũng đã ăn cháo đái bát, qua sông đấm buồi vào sóng, còn anh thì có lẽ cũng thế chứ gì? Miska tháo chiếc găng khỏi một bên tay, hai hàng lông mày anh càng cau lại. - Người ta gọi tôi là gì và tôi như thế nào thì không can gì đến cụ. Tôi chỉ muốn hỏi tại sao cụ không sang bên kia sông Đông? - Không muốn đi thì không đi. Còn anh thì làm gì hử? Đi làm chó săn cho quân phản Chúa phải không? Đã đính ngôi sao đỏ lên mũ rồi phải không? Đồ chó đẻ, đồ khốn nạn, thế là mày chống lại người Cô-dắc chúng tao à? Chống lại đồng bào cùng thôn với mầy à? Cụ Grisaka chập chững bước trên thềm xuống. Sau khi cả nhà Korsunov đều bỏ sang bên kia sông Đông, xem ra cụ ăn uống chẳng ra thế nào. Bị con cháu bỏ lại, cụ gầy yếu xiêu vẹo, càng thêm già xọm, quần áo lôi thôi lếch thếch. Cụ đứng lại trước mặt Miska, nhìn anh với một vẻ vừa ngạc nhiên vừa căm phẫn. - Tôi chống lại đấy, - Miska trả lời. - Và đã sắp tiêu diệt chúng nó rồi đấy? - Nhưng trong Kinh Thánh đã nói như thế nào mày có biết không? Các người muốn người ta làm cho mình thế nào, hãy làm cho người ta thế ấy[296]! Có phải thế không? - Thôi cụ cụ đừng đem những điều viết trong Kinh Thánh ra làm mê muội đầu óc tôi. Tôi đến đây không phải để nghe những chuyện ấy đâu Bây giờ cụ hãy lập tức ra khỏi nhà ngay… - Giọng Miska nghiêm lại. - Sao lại như thế được? - Thế mà vẫn phải thế đấy. - Nhưng mày muốn giở trò gì hử? - Chẳng có chuyện gì quan trọng đâu! Cụ đi chỗ khác ngay, tôi bảo kìa? - Tao không đi khỏi nhà tao. Tao đã biết có chuyện gì và để làm gì rồi… Mầy làm đầy tớ cho quân phản Chúa, cái dấu của chúng nó đã đóng lên cái mũ của mầy kia kìa? Đấng tiên tri Gieremi đã nói về chúng mày như thế nầy nầy: "Ta sẽ cho dân nầy ăn ngải cứu và uống mật đắng, và làm cho chúng nó bị ô nhục trên khắp mặt đất[297]". Bây giờ thật đến lúc con phản lại cha, em phải lại anh rồi… - Nầy cụ đừng có làm rối óc tôi! Đây không phải là chuyện anh em gì cả. Cái việc tính toán nầy cũng rất giản đơn: cha tôi đã làm việc cho nhà cụ đến chết, và cả tôi nữa, hồi trước chiến tranh tôi cũng đã phải đập thóc cho nhà cụ, cái sườn của tôi còn non yếu như thế mà đã bị những túi thóc nhà cụ làm vẹo đi rồi. Bây giờ đã đến lúc phải tính sổ rồi dây. Ra khỏi nhà đi, tôi sẽ lập tức đốt nhà nầy ngay! Chúng mầy đã sống mãi trong nhà cao cửa rộng, bây giờ đi mà sống như chúng tao đã sống: ra lều đất mà ở. Đã hiểu chưa, lão già nầy? - Đấy - đấy! Thật đã đến lúc đúng như thế rồi! Trong sách của đấng tiên tri éxai đã viết: "Khi dân sự ra ngoài, sẽ trông thấy xác của những kẻ nghịch cùng ta. Ròi bọ trên xác chúng nó không bao giờ hết, lửa thiêu chúng nó không bao giờ tắt, và chúng nó sẽ làm sự gớm ghiếc cho mọi xác thịt"…[298] - Thôi tao không có thì giờ mà đấu khẩu với mày nữa rồi? - Miska nói bằng một giọng phẫn nộ lạnh như tiền. - Có ra khỏi nhà không? - Không! Mày cút đi, đồ quân thù quân hằn? - Chính vì những thằng ngoan cố như mày nên mới có chiến tranh đấy? Chính chúng mày đã khuấy động dân chúng, xui dân chúng phản lại cách mạng… - Miska hấp tấp hạ khẩu súng trường kỵ binh trên vai xuống. Phát súng nổ, cụ Grisaka ngã ngửa ra. Cụ nói rất rành rọt: - Tựa như… không phải là lòng ta muốn… mà là ý của Đức Chúa lời ta muốn thế… Lạy Chúa tôi, xin Người hãy thu nạp kẻ nô lệ của Người… trong bình yên… - Rồi cụ rên rỉ, máu rỉ ra dưới chòm râu trắng loá. - Rồi Chúa sẽ thu nạp! Cái con quỷ già nầy, mày thì đáng bị tống cổ về đấy từ lâu rồi! Kosevoi đi vòng tránh chỗ ông cụ đang nằm sóng sượt với vẻ mặt kinh tởm rồi chạy lên thềm. Vỏ bào khô bị gió thổi bay vào phòng ngoài cháy bùng lên với những ngọn lửa hồng hồng. Cái vách bằng ván ghép ngăn căn để đồ với phòng ngoài bén lửa rất nhanh. Khói bốc lên đến trần, bị một làn gió thổi thông thống lùa vào phòng. Miska bước ra ngoài và trong khi anh đốt nhà kho, nhà thóc, những ngọn lửa ở nhà trên đã cháy ra đến ngoài, rào rào thè lưỡi liếm một cách thèm khát các khung cửa sổ bằng gỗ thông và vươn những cánh tay dài nghêu leo lên mái nhà… Miska vào cánh rừng bên cạnh thôn đánh một giấc cho đến khi trời hoàng hôn, dưới những cây mận dại có những dây hốt bố leo quấn quít. Ngay cạnh đấy, con ngựa của anh lười nhác bứt những sợi cỏ thê mục mọng nước. Nó đã được tháo yên, hai chân sau bị chằng vào nhau. Đến tối, con ngựa khát không chịu được nữa đã hí lên đánh thức chủ. Miska đứng lên buộc cái áo ca-pốt vào dây yên, cho con ngựa uống nước ở cái giếng ngay trong rừng, rồi đóng yên, cưỡi ngựa vào trong ngõ. Những cái cọc cháy thành than đen xì vẫn còn bốc khói quanh sân trước nhà Korsunov, những làn khói khét lẹt lan ra mù mịt. Cả ngôi nhà chính rộng thênh thang chỉ còn lại cái nền đá rất cao và cái bếp lò gần đổ dụi với cột ống khói đen ngòm vươn lên trời. Miska đi thẳng tới sân gia súc của nhà Melekhov. Bà Ilinhitna đang ở dưới nhà kho đùm ít gỗ vụn vào tạp dề để nhóm bếp trong lúc Miska vẫn chễm chệ trên yên, mở cửa xép cho ngựa đi thẳng vào trong sân. - Chào bác ạ! - Anh chào bà già, giọng âu yếm. Nhưng bà Ilinhitna đã sợ hết hồn hết vía, bà buông thõng hai tay, không nói được câu nào để trả lời, những mảnh củi vụn rơi lả tả từ chiếc tạp dề… - Bác có khoẻ không bác? - Ơn… ơn Chúa, - bà Ilinhitna ngập ngừng trả lời. - Bác vẫn còn sống, vẫn khoẻ chứ? - Sống thì còn sống, nhưng chuyện sức khoẻ thì chớ có hỏi. - Các ông Cô-dắc nhà bác đâu cả rồi? - Miska xuống ngựa, bước tới nhà kho. - Ở bên kia sông Đông… - Bác ở lại chờ bọn "Kadet" à? - Tôi chỉ lo công việc của đàn bà… Các chuyện kia thì tôi không biết… - Thế cô Evdokaia Pantelevna[299] có nhà không? - Cả nó cũng sang bên kia sông Đông rồi. - Ma quái đã đưa họ sang bên ấy? - Cơn tức tối làm giọng Miska run lên, trở nên cứng rắn hơn. - Bác ạ, tôi nói với bác thế nầy nhé: thằng Grigori, thằng con trai bác ấy, nó là một kẻ thù hung ác nhất của Chính quyền Xô viết đấy. Chúng tôi mà sang tới bờ bên kia thì sẽ lồng cái dây thòng lọng đầu tiên vào cổ nó. Còn bác Panteley Prokofievich mà bỏ chạy thì thật là không cần thiết. Con người vừa già vừa thọt như bác ấy thì cứ ngồi ở nhà là tốt nhất… - Để chờ chết à? - Bà Ilinhitna hỏi bằng một giọng nghiêm khắc rồi lại bắt đầu nhặt những mảnh gỗ vụn bỏ vào trong tạp dề. - Chà chết thì không đến nỗi phải chết đâu. Có thể cũng phải ăn roi chút ít, nhưng giết người thì người ta không giết bác ấy đâu. Nhưng tất nhiên tôi đến thăm bác không phải là vì chuyện ấy. - Miska sửa lại cái dây đồng hồ trên ngực, đưa mắt nhìn xuống. - Tôi đến là để thăm cô Evdokaia Pantelevna. Tôi hết sức lấy làm tiếc vì cô ấy cũng đi theo đám rút lui, nhưng bác là mẹ đẻ cô ấy nên tôi xin thưa với bác. Tôi xin thưa với bác như thế nầy: tôi đã đau khổ vì cô ấy từ lâu rồi, nhưng bây giờ thì chúng tôi chẳng làm gì có thì giờ để đau khổ vì các cô gái. Chúng tôi đang chiến đấu chống bọn "phản" và sẽ tiêu diệt chúng nó một cách không thương tiếc. Nhưng hễ hoàn toàn tiêu diệt được chúng nó, thành lập được Chính quyền Xô viết hoà bình trên toàn thế giới là bác ạ, tôi sẽ nhờ ông mối đến xin bác cô Evdokaia đấy. - Bây giờ không phải là lúc nói chuyện ấy! - Không, đúng lúc lắm! - Miska cau mày giữa hai hàng lộng mày của anh hằn lên một vết nhăn rất bướng bỉnh. - Mối manh thì chưa phải lúc, nhưng nói về chuyện ấy thì có thể được. Mà tôi cũng không chọn một lúc nào khác để nói đâu. Hôm nay tôi còn ở đây, nhưng đến mai chưa biết chừng đã bị điều sang bên kia sông Dones rồi. Vì thế tôi muốn báo để cho bác biết: cô Evdokaia, bác chớ có gả bừa gả bậy cho ai, nếu không nhà bác sẽ gặp chuyện chẳng hay gì đâu. Chỉ sau khi đơn vị tôi gửi tới bức thư báo tin tôi đã bị giết, bác hãy để cho người khác đến mối manh, còn bây giờ thì không được. Vì tôi và cô ấy đã yêu thương nhau rồi. Quà tặng cô ấy tôi chẳng đem gì về cả, vì quà biếu thì chẳng kiếm đâu ra. Nhưng nếu bác cần đến thứ gì trong số tài sản của những thằng tư sản, lái buôn, bác cứ bảo, tôi sẽ đi lôi về ngay. - Cầu Chúa cứu vớt? Tôi vốn dĩ không lấy cái gì của người khác bao giờ. - Thôi được nếu thế thì tuỳ ý bác. Nếu bác được gặp cô Evdokaia trước tôi thì nhờ bác chuyển giúp cho lời tôi tha thiết hỏi thăm. Thôi chào bác và xin bác chớ quên những lời tôi nói. Bà Ilinhitna không trả lời, bỏ vào trong nhà, còn Miska thì lên ngựa, ra bãi thôn. Đến đêm, các chiến sĩ Hồng quân từ trên núi kéo xuống thôn. Tiếng họ chuyện trò nhộn vang lên trong các ngõ. Ba người mang một khẩu trung liên ra đặt vọng tiêu ở bờ sông Đông. Họ hỏi Miska, đòi kiểm tra giấy tờ. Anh đi đến trước căn nhà nhỏ của gã Semion "Đầu gang" thì gặp thêm bốn người nữa, hai người chở lúa yến mạch trên một chiếc xe có mui, còn hai người kia cùng mụ vợ nhỏ bé ho hen của gã "Đầu gang" khiêng một chiếc máy khâu đạp chân và một túi bột. Mụ vợ gã "Đầu ngang" nhận ra Miska, chào hỏi anh: - Thím kéo cái gì đấy thím? - Miska tò mò hỏi. - Chúng tôi đang giúp một chị thuộc giai cấp bần nông xây dựng cơ nghiệp đây. Chúng tôi đem đến cho chị ấy một chiếc máy khâu của bọn tư sản và bột mì. - Một chiến sĩ Hồng quân trả lời liến thoắng, giọng rất hoạt bát. Miska đốt liền một lúc bảy ngôi nhà của mấy tên đã rút sang vùng sông Dones: hai tên lái buôn Mokhov và Atepin "Cha - cha" tên cố đạo Visarion, lão cha tư tế Pankrati và ba tên Cô-dắc giàu có khác. Xong đâu đó anh mới ra khỏi thôn. Anh lên đến gò thì quay ngựa nhìn lại. Bên dưới, trong thôn Tatarsky, những đám lửa đỏ rực cháy bùng bùng với những ngọn lửa vươn dài như đuôi cáo trên nền trời đen như đá lợp nhà. Lửa lúc thì vụt cao, ánh cả xuống mặt sông Đông chảy cuồn cuộn lăn tăn như những mắt lưới, lúc thì hạ thấp xuống, ngả về phía tây, đốt ngấu nghiến nhưng ngôi nhà. Từ phía đông, một luồng gió hiu hiu thổi từ đồng cỏ tới, càng làm lửa cháy to thêm và đưa những đám khói đen lấp loáng như than của đám cháy đi rất xa… Phần 7 1. Cuộc phiến loạn ở vùng Đông Thượng đã thu hút từ mặt trận miền nam một lực lượng khá lớn của Hồng quân, vì thế nó đã cho phép Bộ tư lệnh Quân đội sông Đông không những có thể tự do điều động lại lực lượng của chúng trên mặt trận yểm hộ Novocherkask, mà còn tập trung được trong khu vực hai trấn Kamenskaia và Ust-Belokalitvenskaia một binh đoàn đột kích rất mạnh gồm những trung đoàn đã qua thử thách, kiên cường nhất, phần lớn là dân miền dưới và dân Kalmys. Nhiệm vụ của binh đoàn nầy là chờ thời cơ thích đáng, phối hợp với các đơn vị của tướng Fitkhelaurov, đánh bật sư đoàn 12 thuộc Tập đoàn quân Hồng quân số 8, rồi hoạt dộng bên sườn và trong hậu phương hai sư đoàn 13 và Ukrainskaia, đột phá về phía Bắc để hợp nhất với quân phiến loạn vùng Đông Thượng. Tướng Denisov tư lệnh Quân đội sông Đông cùng với trưởng ban tham mưu là tướng Poliakov đã kịp thời vạch ra kế hoạch tập trung binh đoàn đột kích, và đến cuối tháng Năm, toàn bộ kế hoạch nầy hầu như đã được thực hiện. Gần 16.000 tay súng và tay gươm đã được điều về hướng Kamenskaia tập cùng với 36 khẩu pháo và 140 cỗ súng máy. Chúng còn tập trung cả những đơn vị kỵ binh cuối cùng và những trung đoàn tinh nhuệ của cái gọi là "quân đội trẻ" biên chế trong mùa hè năm 1918, gồm những gã Cô-dắc vừa đủ tuổi đi lính. Trong khi đó, quân phiến loạn bị bao vây bốn phía, vẫn tiếp tục đánh bật những cuộc tấn công của các đơn vị tiễu phạt Hồng quân. Về phía Nam, dọc theo bên trái sông Đông, hai sư đoàn quân phiến loạn ngoan cố nằm lỳ trong các chiến hào, không cho quân địch vượt sông, tuy vô số những đại đội pháo của Hồng quân bố trí trên suốt chiều dài mặt trận hầu như không lúc nào ngớt dội lên đầu chúng một hoả lực ác liệt. Còn ba sư đoàn nữa thì yểm hộ khu vực phiến loạn về phía tây, phía bắc và phía đông. Ba sư đoàn nầy đã phải chịu những thiệt hại hết sức nặng nề, nhất là trong khu vực đông bắc, nhưng vẫn không rút lui, vẫn cứ trụ lại trên các địa giới của khu Khopesky. Đại đội của bọn Cô-dắc thôn Tatarsky bố trí ngay trước mặt thôn nhà. Cuộc sống vô công rồi nghề bất đắc dĩ đã làm chúng chán ngấy vì thế một lần chúng đã làm Hồng quân phải nổi lệnh báo động. Ngay trong đêm tối mù, vài gã Cô-dắc cảm tử lặng lẽ chèo thuyền sang bờ bên phải, bất thần tập kích một vọng tiêu của Hồng quân, giết bốn chiến sĩ Hồng quân và cướp được một khẩu súng máy. Ngay hôm sau Hồng quân điều một đại đội pháo ở khu vực Vosenskaia đến nơi và đại đội nầy đã dội lên các chiến hào của quân Cô-dắc một màn hoả lực di động. Một phát đạn ghém vừa nổ trên khu rừng, đại đội Cô-dắc đã vội rời bỏ chiến hào, lùi xa bờ sông, rút sâu vào trong rừng. Sau một ngày một đêm, đại đội pháo bị điều đi chỗ khác, bọn Cô-dắc thôn Tatarsky lại trở về chiếm lĩnh khoảng trận địa vừa rút bỏ. Đợt bắn phá của pháo binh đã gây tổn thất cho đại đội: những mảnh đại bác đã giết hai tên còn trẻ trong số mới bổ sung và làm bị thương gã liên lạc của tên đại đội trưởng, vừa mới ở Vosenskaia về. Sau đó tình hình lại tương đối yên tĩnh và cuộc sống trong chiến hào lại trôi theo nhịp cũ. Bọn đàn bà thường đến thăm. Cứ đến đêm họ lại mang tới bánh mì và rượu nhà nấu lấy. Song bọn Cô-dắc cũng chẳng thiếu gì thức ăn: chúng đã chọc tiết hai con bò non bị lạc và ngày nào cũng ra các hồ nước đánh bắt cá. Khristonhia được coi như chủ nhiệm ngành cá. Thuộc phạm vi phụ trách của hắn có một cái lưới đánh cá dài mười xa-gien không biết ai đã bỏ lại trên bờ sông trong khi rút lui. Đại đội Cô-dắc đã bắt được cái lưới ấy và khi đánh cá Khristonhia bao giờ cũng ra những chỗ sâu, vì thế hắn thường khoe rằng trên bãi cỏ ven sông không có cái hồ nào mà hắn không lội qua được. Sau một tuần đánh cá liên miên, cái áo sơ-mi và chiếc quần đi ngựa của hắn nồng nặc một mùi cá ướt tanh lợm không sao bay qua hết, đến nỗi cuối cùng gã Anikey, dứt khoát không chịu nằm cùng hầm với hắn nữa. Gã bảo: - Người cậu khắm, hệt như một con cá nheo thối ấy? Nếu ở lại đây với cậu thêm một ngày nữa thì sẽ suốt đời tởm lợm không bao giờ dám ăn cá nữa… Từ hôm ấy, dù nhiều muỗi, Anikey cứ ngủ bên ngoài hầm. Trước khi đi ngủ, gã nhăn mặt đầy vẻ kinh tởm, cầm chổi quét những đám vẩy cá và ruột cá hôi thối bỏ bừa bãi trên mặt cát. Nhưng sáng hôm sau Khristonhia đi đánh cá về lại đàng hoàng ngồi chễm chệ ngay trước cửa hầm, đánh vẩy và bỏ ruột những con cá giếc vừa đánh được. Chung quanh hắn, hàng đàn nhặng xanh bay rùng rùng, những con kiến vàng bò tới lúc nhúc như đám mây. Rồi gã Anikey lại hổn hển chạy tới, từ xa đã réo lên: - Cậu không kiếm được chỗ nào khác hay sao? Đồ quỷ dữ, sao cậu không hóc xương cá mà chết đi cho rảnh? Thôi xéo đi, cậu hãy vì Chúa cứu thế mà cút ra chỗ khác! Mình ngủ ở ngay đây mà cậu cứ ném đầy ruột cá ra, làm cho kiến trong toàn khu đều mò tới? tanh thối cứ như Astrakhan ấy? Khristonhia chùi con dao đánh vẩy vào quần, trầm ngâm nhìn rất lâu khuôn mặt phẫn nộ, nhẵn thín chẳng có sợi râu nào của Anikey rồi bình thản nói: - Anikey ạ, đúng là trong bụng cậụ có giun nên cậu mới không chịu được mùi cá đấy. Cậu thử chờ lúc đói ăn ít tỏi xem thế nào? Anikey nhổ toẹt bãi nước bọt, văng tục một thôi một hồi rồi bỏ Những cuộc cãi cọ giữa hai gã kéo dài từ ngày nầy qua ngày khác. Nhưng nói chung, toàn đại đội sống với nhau rất êm thấm. Được ăn uống no nê, tất cả bọn Cô-dắc đều vui vẻ, chỉ trừ Stepan Astakhov. Không biết vì Stepan được biết qua bọn Cô-dắc trong thôn hay linh tính báo cho anh ta biết rằng Acxinhia vẫn đi lại với Grigori ở Vosenskaia mà tự nhiên anh ta buồn rũ ra. Một hôm anh ta vô duyên vô cớ chửi nhau với gã trung đội trưởng rồi dứt khoát từ chối không làm công việc canh gác nữa. Anh ta cứ nằm lì trong hầm trên một tấm thảm đen có đóng dấu, chỉ thở dài và hút liên miên thứ thuốc lá nhà trồng lấy. Nhưng đến khi anh ta được biết rằng viên đại đội trưởng phái Anikey đi Vosenskaia lĩnh đạn, anh ta mới ra khỏi hầm lần đầu sau hai ngày đêm nằm lì trong đó, Stepan nheo hai con mắt sưng háp, luôn luôn chảy nước mắt vì mất ngủ, nhìn với một vẻ đầy nghi ngờ những đám lá lồm xồm, sáng loá trên những cái cây ngật ngưỡng trước gió, những đám mây bị gió thổi dựng đứng lên như một đàn ngựa bờm trắng, lắng nghe tiếng rừng rì rầm rồi bước qua những cái hầm tìm Anikey. Anh ta không muốn nói trước mặt bọn Cô-dắc, bèn kéo Anikey ra chỗ khác, khẩn khoản nhờ gã. - Nhờ cậu tới Vosenskaia thì tìm hộ Acxinhia, nói lại lời mình bảo Acxinhia cố đến thăm mình. Cậu nói hộ rằng hiện giờ mình chấy rận như sung, quần áo lót chưa giặt, ngoài ra cậu nói giúp thêm rằng… - Stepan nín lặng một giây, giấu nụ cười ngượng nghịu dưới hàng ria rồi nói nốt - Cậu bảo giúp là mình nhớ lắm, mong Acxinhia đến ngay. Đêm hôm ấy Anikey đến Vosenskaia, tìm được nhà Acxinhia ở. Sau lần giận nhau với Grigori, nàng vẫn ở nhà bà cô như cũ. Những lời Stepan nói với gã, Anikey đều lận tình nói lại hết, nhưng để cho lời nói của mình có thêm hiệu lực, gã đã tự ý bịa thêm rằng Stepan doạ sẽ đến Vosenskaia nếu Acxinhia không tới đại đội. Nàng nghe xong lời Stepan nhắn bèn sửa soạn đi ngay. Bà cô vội vã nhào bột, nướng ít bánh sữa và hai giờ sau, Acxinhia đã đóng vai một người vợ ngoan ngoãn, cùng Anikey đến chỗ đại đội của thôn Tatarsky bố trí. Stepan đón vợ với cả nỗi lòng bồi hồi nhưng anh ta cố giấu không để lộ. Anh ta ngắm khuôn mặt gầy rộc của nàng có ý thăm dò, hỏi han nàng chuyện nọ chuyện kia một cách dè dặt, nhưng không hé răng hỏi nửa lời về chuyện nàng có gặp Grigori hay không. Suốt buổi nói chuyện, chỉ có một lần anh ta quay đi chỗ khác, đưa mắt nhìn xuống và hỏi Acxinhia: - Thế sao Acxinhia lại tới Vosenskaia theo bờ bên kia? Tại sao không qua sông ngay phía trước thôn? Acxinhia trả lời một cách khô khan rằng nàng không thể qua sông cùng với những người không quen biết, mà nhờ nhà Melekhov giúp thì nàng không muốn. Sau khi trả lời xong, nàng cảm thấy như nếu thế thì nhà Melekhov đối với mình không phải là những người xa lạ, mà là họ hàng thôn thuộc. Và nàng luống cuống sợ Stepan cũng có thể hiểu như mình. Mà chắc hẳn anh ta cũng đã hiểu như thế. Có cái gì run run dưới hai hàng lông mày Stepan và tựa như có một bóng đen lướt qua mặt anh ta. Anh ta ngước mắt lên nhìn Acxinhia có ý dò hỏi. Nàng cũng hiểu câu hỏi không nói ra lời ấy, nên rất bất thần ngượng quá, đỏ bừng mặt, tự mình lại bực bội với mình. Stepan thương hại Acxinhia nên làm vẻ như không nhận thấy gì cả, và chuyển câu chuyện sang các việc trong nhà. Anh ta bắt đầu hỏi xem trước khi ở nhà ra đi nàng đã cất giấu được những gì và cất giấu có cẩn thận không. Trong thâm tâm Acxinhia cũng nhận thấy sự đại lượng của chồng, vì thế trong khi trả lời nàng cứ luôn luôn cảm thấy trong lòng ngượng ngùng bứt rứt và để làm Stepan tin rằng tất cả những điều xảy ra giữa hai người đều không có gì đáng kể, để giấu sự xao xuyến trong lòng mình, nàng cố ý kéo dài câu chuyện và nói giọng dè dặt, khô khan, hoàn toàn chuyên chú vào công việc làm ăn. Hai vợ chồng ngồi trong hầm nói chuyện với nhau. Nhưng họ luôn luôn bị bọn Cô-dắc đến quấy rầy. Chốc chốc lại có một tên bước vào. Khristonhia vào hầm rồi sửa soạn đi ngủ ngay ở đấy. Stepan thấy mình không có cách nào chuyện trò riêng với vợ bèn miễn cưỡng ngừng câu chuyện. Acxinhia sung sướng đứng dậy, vội vã cởi khăn gói, lấy cho chồng ăn những cái bánh sữa mang từ thị trấn về rồi lục trong chiếc túi dết dã chiến của Stepan và đem những đồ lót bẩn đi giặt ở cái đầm gần đấy. Khu rừng chìm trong bầu không khí lặng lờ trước lúc bình minh và làn sương mù xanh xanh. Cỏ trĩu sương đêm gục đầu xuống đất. Ếch nhái đua nhau kêu ồm ộp trong các mảnh đầm và ở một chỗ ngay bên cạnh cái hầm, có con chim cuốc kêu rin rít trong một bụi phong rất rậm. Acxinhia đi qua trước bụi cây. Mạng nhện phủ đầy bụi cây từ trên ngọn xuống tới những cái gốc mọc ngập trong lớp cỏ hết sức rậm rạp. Những giọt sương nhỏ li ti bám trên những sợi tơ nhện sáng loá lên như ngọc trai. Con cuốc cuốc lặng đi một phút, song những đám cỏ bị cặp chân đất của Acxinhia dẫm bẹp xuống còn chưa kịp ngỏng lên thì nó lại cất tiếng kêu. Một con dẽ mào bay vụt dưới đầm lên trả lời nó bằng giọng thảm thương. Acxinhia cởi cái áo ngắn mặc ngoài và cái nịt vú làm nàng vướng víu không cử động được dễ dàng, lội đến đầu gối trong nước đầm bốc hơi ấm ấm rồi bắt đầu giặt. Trên đầu nàng, những con mòng bay nhung nhúc, tiếng muỗi rùng rùng. Nàng cong một cánh tay đầy đặn, ngăm ngăm, xua những con muỗi trước mặt, đầu óc luôn luôn bị ám ảnh bởi những ý nghĩ về Grigori, về chuyện hai người giận nhau lần vừa qua, trước khi chàng xuống đại đội. "Chưa biết chừng trong lúc nầy anh chàng đang đi tìm mình đây? Ngay đêm nay mình sẽ quay về thị trấn?" Acxinhia quyết định như đinh đóng cột rồi mỉm cười nghĩ rằng mình sắp được gặp Grigori như thế nào và hai người sẽ làm lành với nhau lẹ như thế nào. Mà kể cũng lạ thật: thời gian gần đây, mỗi khi nghĩ tới Grigori, không hiểu sao nàng không hình dung chàng với cái hình dáng dung mạo đúng như của chàng hiện nay. Trước mắt nàng bao giờ cũng hiện ra một Grigori không phải như bây giờ, không phải là anh chàng Cô-dắc cao lớn, hùng dũng, giàu kinh nghiệm trường đời, với hai con mắt nheo nheo mệt mỏi, bộ ria đen mà hai đầu đã đỏ hoe, những sợi tóc bạc quá sớm hai bên thái dương và những vết nhăn thô bạo trên trán, tất cả những dấu vết không thể phai nhoà của mọi thiếu thốn mà chàng đã phải chịu đựng qua bao năm chiến tranh. Trái lại đó là chàng Griska Melekhov ngày xưa, thô bạo và vụng về trong yêu đương như mọi gã thanh niên khác, với cái cổ tròn tròn thon thon rất trẻ và cặp môi luôn nở một nụ cười vô tư lự. Chính vì thế Acxinhia càng cảm thấy yêu chàng gấp bội tình yêu kèm theo một sự trìu mến gần như của người mẹ. Ngay trong lúc nầy cũng thế: nàng hồi tưởng trong trí nhớ một cách hết sức rành rọt những nél trên khuôn mặt vô vàn thân thương. Nàng thở hổn hển, mỉm cười đứng thẳng dậy, ném chiếc sơ-mi chưa giặt sạch của chồng xuống chân và bỗng nhiên cảm thấy trong họng có tiếng nức nở ngọt ngào dồn lên như một hòn gì vừa tròn vừa nóng. Nàng khẽ lẩm bẩm: Anh thật đáng nguyền rủa, anh đã chiếm hẳn cõi lòng em đến hết đời rồi! Nước mắt đã làm nàng cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm, nhưng sau đó toàn bộ cái thế giới xanh ngát của buổi sớm mai chung quanh tựa như mất hết màu sắc. Nàng đưa mu bàn tay lên chùi má, hất tóc khỏi vừng trán ẩm ướt rồi nhìn theo rất lâu một con bói cá bằng cặp mắt mờ đục, vô tư lực. Con chim lông xám nhỏ xíu lướt trên mặt nước một lát rồi biến mất trong lớp sương mù sủi bọt dưới làn gió, nom như một đám đăng-ten hồng hồng. Giặt xong quần áo, Acxinhia phơi lên mấy bụi cây rồi vào trong hầm. Khristonhia đã ngủ dậy. Hắn ngồi bên cạnh cửa hầm, ngọ nguật những ngón chân méo mó sần sùi, nói lải nhải với Stepan, nhưng anh ta cứ nằm lì trên cái đệm, nín thinh hút thuốc, nhất định không trả lời những câu Khristonhia hỏi. - Có lẽ cậu cho rằng bọn Đỏ sẽ không vượt sông sang bờ bên nầy có phải không? Cậu giả câm giả điếc à? Được, giả câm thì cứ giả câm. Nhưng mình thì nghĩ rằng nhất định chúng nó sẽ vượt sông cho kỳ được ở những chỗ có thể lội qua cho mà xem… Dứt khoát là ở những chỗ lội! Ngoài ra sẽ không ở chỗ nào khác đâu. Hay cậu lại cho rằng chúng nó có thể cho kỵ binh bơi qua? Nhưng sao cậu cứ câm như hến thế, Stepan? Xem ra tình hình đã đi tới chỗ kết thúc rồi, thế mà cậu cứ nằm thưỡn ra như khúc gỗ ấy? Stepan thậm chí nhảy chồm dậy, trả lời bằng một giọng tức tối: - Nhưng tại sao cậu cứ bám dai như đỉa thế hử? Người với ngợm gì mà kỳ quặc? Người ta có vợ đến thăm mà chúng nó cũng chẳng tha cho… Cứ kéo đến ám với những chuyện ngớ ngẩn đâu đâu, không để cho nói được với vợ một lời nào nữa? Vớ được một thằng như thế nầy để mà trao đổi… - Khristonhia bực mình đứng dậy, lồng hai bàn chân đất vào đôi ủng ngắn đi đã mòn vẹt. Lúc bước ra ngoài hắn va đầu một cái rất đau vào xà ngang cửa. - Ở đây chúng nó sẽ không đề yên cho chúng mình nói chuyện với nhau đâu, ta ra ngoài rừng đi, - Stepan bảo vợ. Rồi không chờ nàng trả lời có thuận như thế hay không, anh ta bước ngay ra cửa, Acxinhia ngoan ngoãn ra theo. Hai vợ chồng quay về căn hầm thì trời đã giữa trưa. Bọn Cô-dắc trung đội hai đang nằm nghỉ trong bóng mát dưới một bụi xích dương. Nhìn thấy hai người, chúng buông những quân bài xuống, ngừng câu chuyện, gã thì nháy mắt với nhau tỏ ý "thông cảm", gã thì cười nhạo, gã thì vờ thở dài. Trong khi bước qua trước mặt bọn chúng, Acxinhia bĩu môi một cách khinh bỉ, vừa đi vừa sửa lại chiếc khăn trắng viền đăng-ten nhàu nát chít trên đầu. Bọn Cô-dắc nín thinh để cho nàng bước qua, nhưng khi Stepan đi sau vừa tới ngang chỗ bọn chúng thì Anikey đứng dậy, rời khỏi những gã đang nằm, rồi vờ ra vẻ cung kính, cúi rạp người xuống chào Stepan và nói thật to: - Xin chúc mừng hai vị… thế là hết tuần chay rồi! Stepan mỉm cười thích thú. Anh ta lấy làm sung sướng vì bọn Cô-dắc đã trông thấy mình ở ngoài rừng về cùng với vợ. Đến chừng mực nào đó, chuyện nầy đã giúp anh ta ngăn chặn mọi điều ra tiếng vào quanh chuyện vợ chồng ăn ở với nhau chẳng ra gì… Anh ta thậm chí còn nhún nhún vai một cách ngang tàng, phơi ra trước mắt bọn kia cái lưng áo sơ-mi còn chưa ráo mồ hôi, coi bộ dương dương tự đắc. Mãi khi được khuyến khích như thế, bọn Cô-dắc kia mới cười nói nhao nhao: - Các cậu ạ đàn bà thật có mấy tay? Cái áo sơ-mi của thằng Stepan vắt được ra nước… Dính chặt lấy hai cái xương bả vai? - Nó cưỡi thằng cha đến sủi cả mồ hôi… Một gã còn trẻ măng nhìn theo Acxinhia đến tận cửa hầm, hai con mắt đờ đẫn đầy vẻ thán phục, rồi gã nói như mất hồn: - Khắp gầm trời nầy không thể kiếm đâu ra một chị chàng đẹp như thế nầy đâu, nói sai có Chúa phạt! Anikey nghe thấy thế bèn lý sự lại: - Thế chú nó đã thử đi tìm chưa? Nghe thấy những lời nói sỗ sàng thô bỉ như thế, Acxinhia hơi tái mặt. Nàng bước vào trong hầm, mặt cau lại một cách kinh tởm, vì nhớ lại sự đi lại vừa nãy với chồng và cũng vì những lời nhận xét tục tĩu của các bạn chồng. Stepan nhìn qua thấy rõ tâm trạng của vợ, anh chàng bèn dàn hoà: - Acxinhia ạ, em đừng bực mình với bọn ngựa giống ấy làm gì. Chúng nó đang buồn nên mới thế đấy. - Cũng chẳng bực mình với ai cả, - Acxinhia vừa trả lời bằng giọng âm thầm, vừa lục lọi trong cái túi bằng vải lanh thô mang theo, vội vã lấy ra tất cả những thứ đem đến cho chồng. Rồi nàng nói khẽ hơn - Chỉ đáng bực với chính mình thôi, nhưng còn lòng dạ nào mà bực nữa… Không hiểu sao câu chuyện giữa hai người rất là chuệch choạc. Chừng mươi phút sau, Acxinhia đứng dậy. "Bây giờ mình sẽ bảo ngay hắn rằng mình đi Vosenskaia", - Nàng nghĩ thế nhưng lại nhớ ngay rằng mình còn chưa cất các đồ lót đã phơi cho Stepan. Nàng ngồi ở cửa hầm, vá víu rất lâu những chiếc sơ-mi và đồ lót của chồng đã mục vì mồ hôi, chốc chốc lại nhìn vầng mặt trời ngả dần về tây. Tuy vậy hôm ấy nàng vẫn chưa bỏ đi ngay. Vì không có đủ quyết tâm. Nhưng sáng hôm sau, mặt trời vừa ló, nàng đã bắt đầu sửa soạn. Stepan cố giữ nàng lại, van nàng ở thêm dù chỉ một ngày, nhưng nàng khăng khăng không nghe, vì thế anh ta không cố nài nữa. Mãi đến lúc sắp chia tay, Stepan mới hỏi: - Acxinhia định ở Vosenskaia à? - Tạm thời hãy ở Vosenskaia đã. - Có lẽ ở lại đây với anh thì hơn? - Em ở đây cũng không tiện… còn có bọn Cô-dắc. - Ừ mà phải… - Stepan đồng ý như thế, và chỉ chia tay một cách lạnh nhạt. Gió đông-nam thổi rất mạnh. Làn gió bay tới từ một nơi rất xa, ban đêm có yếu đi một chút, nhưng đến sáng lại mang đến hơi nóng hừng hực của vùng đồng hoang bên kia biển Caxpiên, đổ ào ào tới những bãi bồi mọc đầy cỏ trên bờ bên trái sông Đông, hút cạn sương mai, xua tan mây mù, phủ kín các nhánh núi đá phấn vùng ven sông một làn hơi ngột ngạt màu hồng nhạt. Acxinhia tháo đôi ủng ngắn, rồi đưa tay trái nhấc gấu váy (trong rừng, sương vẫn còn đọng trên cỏ), nhẹ nhàng bước trên con đường rừng hoang vắng. Hai bàn chân không của nàng cảm thấy mát mát rất dễ chịu trên chất đất ẩm, trong khi những cặp môi nóng hổi của làn gió hanh cứ sục sạo hôn hai bắp chân để trần đầy đặn, hôn cổ nàng. Tới một khoảng rừng thưa rất thoáng, nàng ngồi xuống nghỉ bên cạnh bụi tầm xuân đang nở hoa. Không biết chỗ nào gần đấy có vài con vịt trời cái sục sạo trong đám lau sậy bên một cái hồ nhỏ chưa cạn hết nước, một con vịt đực gọi mái bằng một giọng khàn khàn. Những khẩu súng máy bên kia sông Đông nổ một nhịp không nhanh lắm, nhưng hầu như không nghỉ lúc nào, lâu lâu lại bùng lên vài phát đạn pháo. Bên nầy sông, những phát đạn pháo nổ rất rền, nghe như những hồi âm. Rồi những tiếng súng lắng đi một lát và muôn vật lại mở ra cho Acxinhia thấy cái thế giới âm thanh thầm kín của nó: Những đám lá bạch lạp, mặt phải xanh mướt, mặt trái trắng bệch, những tán lá sồi chạm hoa tinh vi như đúc bằng kim khí xào xạc rung lên dưới gió. Những tiếng rì rầm đều đặn chập chờn vẳng tới từ khoảng liễu hoàn diệp còn non. Ở một chỗ rất xa, có con chim cu bập bẹ đếm hộ cho người nào đó biết những năm anh ta còn được sống thêm bằng một giọng rầu rĩ. Một con chim dẽ cáo cái mào dài bay trên mặt hồ và hỏi luôn miệng: "Anh là con nhà ai, anh là con nhà ai?". Cách Acxinhia chỉ hai bước, có con chim nhỏ xíu uống nước trong vết bánh trên đường, nó uống xong ngửa cổ ra sau, dim mắt khoái trá. Vài con ong đất lông mượt như nhung, mình đầy phấn hoa, kêu vo vo. Những con ong rừng nâu đen đung đưa trên cánh những bông hoa của cỏ nội rồi mang những "chiến lợi phẩm" thơm phức lẩn vào những hốc cây râm mát. Nhựa nhỏ xuống từng giọt từ các cành tiêu huyền. Trong khi đó, từ dưới gốc bụi sơn trà luôn luôn đưa lên cái mùi ngây ngất hắc hắc của lớp lá năm ngoái đang thối mục. Acxinhia ngồi yên không động đậy để thở hít không biết chán muôn vàn thứ mùi khác nhau trong rừng. Khu rừng tràn ngập những âm thanh tuyệt diệu, muôn hình muôn vẻ đang hưởng cuộc sống nguyên thuỷ mãnh liệt của nó. Chất đất bồi của bãi cỏ thấm đẫm nước lũ mùa xuân đã làm sinh sôi nảy nở cơ man nào loại cỏ, đến nỗi con mắt của Acxinhia như bị lạc trên tấm gấm tuyệt diệu dệt bằng mọi thứ hoa cỏ. Nàng mỉm cười, môi hơi động đậy nhưng không thành tiếng và nhẹ nhàng lựa đi lựa lại vài nhánh của một thứ hoa xanh xanh không tên tuổi nom rất bình thường và đã bắt đầu cúi cái lưng ong bắt đầu đẫy ra để ngửi hoa, nhưng bỗng nhiên nàng cảm thấy thoang thoảng mùi hương ngọt lịm và lả lướt của hoa linh lan. Nàng đưa lay sờ sờ chung quanh và đã tìm thấy bông hoa. Nó mọc ngay đấy, dưới một bụi cây rất đậm. Những cái lá rộng trước kia có thời xanh mướt cố hết sức che cho cái cuống hoa ngắn ngắn cong cong khỏi bị nắng chiếu vào. Trên đầu cuống hoa thấy rũ xuống vài đài hoa trắng như sữa. Những cái lá đầy sương mai và rỉ vàng đã sống gần hết cuộc đời của nó, và cái mục nát của chết chóc đã lan tới những bông hoa. Hai đài hoa bên dưới đã nhăn nhúm, đen lại, chỉ đài hoa trên cùng đầy những giọt nước mắt lấp loáng của sương mai bỗng nhiên sáng bừng lên dưới ánh mặt trời với màu trắng loá mê người. Và không hiểu sao trong khoảng khắc ngắn ngủi ấy, trong lúc ngắm đoá hoa nhỏ nhoi và ngửi mùi hương rầu rĩ của nó, Acxinhia chợt nhớ lại tuổi thanh xuân và toàn bộ cuộc đời đã khá dài của mình, trong đó ngọt bùi thì ít mà đắng cay thì nhiều. Còn gì nữa, đúng là Acxinhia đã bắt đầu già rồi… Một người đàn bà còn trẻ đâu có khóc khi một hồi ức ngẫu nhiên ập tới trong lòng? Nàng úp khuôn mặt đẫm lệ vào lòng bàn tay, vùi bên má sưng mọng, ướt đẫm vào chiếc khăn vò nát và cứ nằm sấp như thế mà ngủ thiếp đi với hai hàng nước mắt ròng ròng. Gió bỗng thổi mạnh hơn, uốn rạp những ngọn tiêu huyền và dương liễu về phía tây. Một cây bạch lạp nghiêng ngả với thân cây trắng nhợt và tán lá đập lồng lộn như một cơn lốc trắng vẩn. Gió xuống thấp dần rồi thổi tới bụi tầm xuân đã nở hết hoa, chỗ Acxinhia đang ngủ. Như bầy chim xanh trong thần thoại bị cái gì làm hoảng sợ lá tầm xuân bay thốc lên với những tiếng rào rào đầy lo lắng. Như những lông chim, cánh hoa rơi xuống lả tả, hồng hồng. Acxinhia vẫn ngủ với lớp cánh hoa tầm xuân héo rắc đầy người. Nàng không nghe thấy tiếng rì rầm bực bội của khu rừng, không nghe thấy tiếng hoả lực lại bắt đầu dội lên bên kia sông, cũng không cảm thấy rằng vừng mặt trời lên tới đỉnh đang thiêu đốt trên cái đầu trần của mình. Đến khi nghe thấy ngay phía trên có tiếng người nói và tiếng ngựa hí, nàng mới tỉnh dậy và vội vã nhồm lên. Một gã Cô-dắc còn trẻ dắt dây cương một con ngựa có đóng yên, đứng ngay cạnh nàng. Với bộ ria trắng bệch và hai hàm răng sáng loá, gã toét miệng cười, nhún nhún vai, vừa đi vài bước khiêu vũ vừa ca những lời của một bài hát vui bằng một giọng nam cao khàn khàn nhưng rất dễ nghe: Em ngã sóng soài, Quay bốn phía, em tìm mòn con mắt, Tìm đây, tìm kia, Phải, trái, trước sau, chung quanh tìm khắp, Nhưng chẳng ai đỡ hộ em lên! Ngoái nhìn lại, Thấy sau lưng có chàng Cô-dắc… - Tôi thì tôi tự đứng dậy đấy! - Acxinhia mỉm cười, đứng phắt lên rất lẹ rồi vuốt lại cái váy nhàu nát. - Chào cô, cô nàng yêu quý của tôi! Hai chân không chịu đi nữa hay là lười không muốn đi thế? - Gã Cô-dắc vui tính chào nàng. - Buồn ngủ quá thiếp đi một lát, - Acxinhia ngượng ngùng trả lời. - Cô đi Vosenskaia à? - Đi Vosenskaia. - Cô có muốn tôi chở đi hộ không? - Chở bằng gì bây giờ? - Cô sẽ ngồi trên yên, còn tôi đi bộ. Vấn đề là có đi có lại. - Gã Cô-dắc nháy mắt pha trò, cái nháy mắt đầy ý nghĩa. - Không cần, đường anh anh cứ đi, còn tôi thì tự tôi khắc đi khắc đến. Nhưng gã Cô-dắc kia tỏ ra lão luyện về các trò trăng hoa, đồng thời bám dai như đỉa. Nhân lúc Acxinhia bận chít cái khăn lên đầu, gã vươn một cánh tay ngắn nhưng rất khỏe ra ôm chầm lấy nàng, kéo giật nàng vào sát mình, và định hôn nàng. - Đừng giở trò! - Acxinhia kêu lên rồi đưa luôn khuỷu tay đánh rất mạnh vào chỗ tinh mũi gã. - Cái tay cái cẳng yêu dấu của anh, đừng có đánh! Hãy xem kìa. Chung quanh toàn là những cảnh yêu đương hạnh phúc… Muôn loài đều có đôi có lứa… Hai chúng mình cũng nên gánh lấy một phần tội lỗi chứ? Gã Cô-dắc nheo cặp mắt tươi cười, ghé hàng ria cù vào cổ Acxinhia và rỉ tai nàng. Acxinhia duỗi thẳng tay, tì hai bàn tay vào khuôn mặt nâu nâu đẫm mồ hôi của gã, đẩy ra rất mạnh, nhưng trong lòng không thấy tức giận chút nào. Nàng định trườn ra, nhưng gã kia ôm nàng rất chặt. - Đồ ngu xuẩn, tôi mắc cái bệnh thổ tả ấy đấy… Buông tôi ra! - Nàng chợt nghĩ ra cái mẹo ngây thơ đó để tìm cách thoát khỏi sự gạ gẫm của gã, bèn vừa thở hổn hển vừa van gã. - Chà… chúng mình hãy thử xem ai mắc bệnh trước ai? - Gã Cô-dắc nói rít qua kẽ răng rồi bất thình lình bế bổng Acxinhia lên một cách dễ dàng. Chỉ trong nháy mắt, Acxinhia đã hiểu rằng bây giờ không còn là trò đùa nữa và sự việc đã chuyển sang một hướng tai hại, vì thế nàng đem hết sức đấm vào cái mũi dãi nắng đến rám nâu của gã và vùng ra khỏi hai cánh tay đang ôm chặt lấy nàng. - Tôi là vợ của Grigori Melekhov đấy! Cứ thử lại gần lần nữa xem, đồ đó đẻ! Tôi sẽ kể lại, rồi anh ấy sẽ cho anh… Còn chưa tin vào hiệu quả lời mình nói, Acxinhia còn nắm chắc trong lay một cành cây khô rất to. Nhưng ngọn lửa trong lòng gã Cô-dắc đã lập tức tắt ngấm. Gã đưa một bên tay áo sơ-mi màu cứt ngựa lên chùi đám máu chảy ròng ròng từ hai lỗ mũi xuống ria rồi kêu lên, giọng đau khổ: - Thật là dại dột? Chà, đàn bà đâu mà dại dột như thế! Sao cô không nói sớm một chút! Xem máu tuôn ra như suối thế nầy… Chúng tôi đánh nhau với địch còn đổ ít máu hay sao mà còn phải có các bà phụ nữ trôn trấn nhà làm đổ máu thêm… Mặt gã bất thần trở nên buồn rầu và lãnh đạm. Trong lúc gã vốc nước dưới cái vũng ven đường lên lau rửa; Acxinhia vội vã rời khỏi con đường, bước nhanh qua khỏi khoảng rừng trống. Chừng năm phút sau gã Cô-dắc kia đuổi kịp nàng. Gã liếc nhìn nàng, lặng lẽ mỉm cười và đưa tay sửa lại đoạn dây đeo súng trên ngực một cách thành thạo rồi thúc con ngựa chạy một nước kiệu rất nhanh. 2. Đêm ấy, một trung đoàn Hồng quân dùng những chiếc bè đóng bằng gỗ ván và gỗ tròn vượt sông Đông ở gần thôn Tiểu Gromtronok. Đại đội của tiểu thôn Gromtronok bị đánh úp bất ngờ vì đêm ấy phần lớn bọn Cô-dắc đang chè chén vui chơi. Từ buổi chiều, những ả vợ lính kéo đến thăm khu vực bố trí của đại đội. Họ mang theo những thức ăn và rượu nhà nấu lấy đựng trong hũ hay trong thùng. Đến nửa đêm tên nào tên nấy say bí tỉ. Các căn hầm đều ầm ầm tiếng ca hát, tiếng đàn bà say rượu kêu the thé, tiếng đàn ông cười khồ khồ, tiếng huýt sáo… Hai mươi gã Cô-dắc phụ trách vọng tiêu cũng về dự cuộc nhậu nhẹt, chỉ để lại bên cạnh khẩu súng máy hai gã xạ thủ và một hũ rượu. Những chiếc bè chở Hồng quân hết sức lặng lẽ rời khỏi bờ bên phải. Sau khi qua sông các chiến sĩ Hồng quân tản khai thành đội hình chiến đấu, ngậm tăm tiến tới dẫy hầm đào cách bờ sông Đông chừng năm mươi xa-gien. Các chiến sĩ công binh đóng bè chéo rất nhanh trở về đón bộ phận đang chờ được chở qua tiếp. Trong chừng năm phút, trên bờ bên trái không nghe thấy gì khác ngoài những tiếng hát không đầu không đũa của bọn Cô-dắc, rồi lựu đạn ném tay bắt đầu nổ đùng đùng, súng máy lên tiếng ầm ầm, súng trường cũng đồng thời nhả đạn loạn lên một hồi và những tiếng hô ngắt quãng vang rất xa: "Hu-ra-a-a! Hu-ra-a-a! Hu-ra-a-a!". Đại đội của thôn Tiểu Gromtronok đã bị đánh bật và không bị hoàn toàn tiêu diệt cũng chỉ vì đêm tối mù mịt nên quân địch không thể nào truy kích. Chúng bị thiệt hại không đáng kể nhưng đã hốt hoảng đưa vợ chạy vừa qua bãi cỏ ven sông về hướng thị trấn Vosenskaia. Trong khi đó những chiếc bè đã chở một loạt chiến sĩ Hồng quân nữa từ bờ bên phải sang, thế là một nửa đại đội của tiểu đoàn 111 cùng với hai khẩu trung liên đã hoạt động bên sườn đại đội phiến loạn của thôn Batsky. Lực lượng tăng viện vừa sang tới nơi đã xông ngay vào đột phá khẩu mới mở. Nhưng sự tiến triển của họ đã gặp những khó khăn hết sức lớn vì trong đám chiến sĩ Hồng quân không ai thuộc địa hình, mà các đơn vị lại không có người dẫn đường, cứ phải tiến mò mẫm trong bóng tối như bưng, chốc chốc họ lại đâm vào một cái hồ hoặc một cái khe sâu đầy nước lũ không thể nào lội qua. Lữ đoàn trưởng chỉ huy trận tấn công bèn quyết định ngừng truy kích chờ trời rạng để sáng hôm sau điều lực lượng dự bị lên cùng tập trung cửa ngõ Vosenskaia và sau đợt chuẩn bị của hoả lực pháo binh[300] sẽ tiếp tục tấn công. Nhưng ở Vosenskaia quân địch đã thi hành những biện pháp khẩn cấp đề bịt đột phá khẩu. Gã liên lạc vừa phi ngựa tới báo tin Hồng quân vượt sông, tên trực ban ở bộ tư lệnh đã cho đi tìm Kudinov và Grigori. Các đại đội kỵ binh thuộc trung đoàn Karghinsky đã được điều về từ các thôn Cher, Gorokhovka và Dubrovka. Grigori Melekhov nắm quyền chỉ huy toàn bộ chiến dịch. Chàng tung về thôn Erinsky ba trăm tay gươm, trù tính rằng số quân nầy sẽ củng cố sườn bên trái và giúp hai đại đội của thôn Tatarsky và thôn Lebirginsky ghìm bớt sức tấn công của địch trong trường hợp họ xông lên bao vây Vosenskaia từ phía đông. Từ phía tây, chàng điều đội nghĩa dũng của dân ngụ cư trấn Vosenskaia và một trong các đại đội bộ binh vùng sông Tria tới giúp đại đội Batsky. Chàng bố trí tám khẩu súng máy trong các khu vực bị uy hiếp, và tự mình đem hai đại đội kỵ binh tới bố trí ven rừng Gorelyi lúc khoảng hai giờ đêm chờ trời rạng, dự định sẽ tấn công Hồng quân theo đội hình kỵ binh. Trong lúc các chòm sao Đại Tiểu hùng tinh còn chưa mờ, đội nghĩa dũng của dân ngụ cư trấn Vosenskaia len lỏi qua rừng định tiến tới khuỷu sông ở thôn Batsky đã chạm trán với đại đội Cô-dắc thôn Batsky đang rút lui. Chúng tưởng lầm là đã gặp địch nên đã bỏ chạy sau khi hai bên bắn nhau vài phát súng. Bọn lính nghĩa dũng bơi qua cái hồ lớn nằm giữa thị trấn Vosenskaia và khuỷu sông. Trong khi hốt hoảng, chúng đã bỏ lại trên bờ cả giày ủng lẫn quần áo. Chẳng mấy chốc sự hiểu lầm đã được phát hiện, song cái tin Hồng quân đang tiến gần tới Vosenskaia đã lan ra nhanh khủng khiếp. Những người dân chạy loạn sống chen chúc trong các hầm nhà đã từ Vosenskaia đổ xô về phía bắc, đến đâu cũng loan tin Hồng quân đã vượt sông Đông, chọc thủng mặt trận và đang tấn công vào Vosenskaia… Trời vừa hửng, Grigori nhận được báo cáo về việc đội nghĩa dũng của dân ngụ cư bỏ chạy. Chàng bèn phi ngựa ra bờ sông. Bọn lính nghĩa dũng biết mình nhầm đã quay trở về chiến hào, vừa đi vừa chuyện trò ầm ĩ. Grigori cho ngựa chạy tới gần một đám và hỏi, giọng châm biếm: - Trong lúc bơi qua hồ bị chết đuối có nhiều không? Một gã khinh binh ướt như chuột vừa đi vừa vắt cái áo sơ-mi. Gã trả lời ngượng nghịu: - Bơi như những con cá măng ấy? Làm gì có chuyện chết đuối… - Ai mà chẳng có lần gặp chuyện mắc cỡ như thế nầy - Một gã thứ hai còn lý sự thêm, trên mình gã chỉ còn có quần áo lót. - Nhưng ông trung đội trưởng của chúng tôi thì quả thật chỉ thiếu chút nữa là chết đuối. Ông ấy không cởi giầy, vì sợ tháo xà cạp mất nhiều thì giờ. Rồi cứ thế mà bơi nhưng xà cạp tuột ra dưới nước, quấn vào hai chân… Đúng là gào như thế mới là gào? Có lẽ ở vùng Elanskaia cũng nghe thấy? Sau khi tìm thấy tên Kramxkov đội trưởng đội nghĩa dũng, Grigori ra lệnh cho hắn đưa bọn khinh binh đến ven rừng, bố trí chúng thế nào khi cần thiết có thể bắn vào sườn các đội hình chiến đấu của Hồng quân. Sau đó chàng trở về các đại đội của mình. Về đến giữa đường, chàng gặp tên sĩ quan liên lạc của bộ tư lệnh. Tên kia ghìm con ngựa thở hồng hộc, hai bên sườn đưa lên đưa xuống nặng nề. Hắn thở dài nhẹ nhõm: - Mất bao nhiêu hơi sức mới tìm thấy ngài! - Có gì thế? - Bộ tư lệnh truyền đạt với ngài rằng đại đội thôn Tatarsky đã rời bỏ chiến hào. Chúng nó sợ bị bao vây nên đã rút về bãi cát… Kudinov dùng mệnh lệnh bằng lời ra lệnh cho ngài lập tức tới ngay đằng ấy. Grigori bèn đem theo nửa trung đội gồm những tên Cô-dắc có những con ngựa chạy nhanh nhất phóng xuyên qua rừng ra đường cái. Hai mươi phút sau cả toán tới gần hồ Golyi Yamen. Bên trái chúng, bọn Cô-dắc thôn Tatarsky đang hốt hoảng chạy bán sống bán chết trên bãi cỏ. Những tên cựu chiến binh và những tên chiến đấu dày dạn đều len lỏi không vội vã sát ven hồ, cố lẩn vào các bụi rậm ở bờ hồ. Nhưng phần lớn chẳng chú ý gì đến tiếng súng máy nổ thưa thớt, cứ cắm đầu cắm cổ chạy thẳng một mạch, xem ra chúng chỉ bị thúc đẩy bở một mong muốn là mau chóng chạy tới khu rừng. - Đuổi theo chúng nó! Lấy roi mà quất? - Grigori quát to. Chàng tức điên lên, mắt lác hẳn đi, và là người đầu tiên phóng ngựa đuổi theo bà con cùng thôn. Khristonhia khập khiễng chạy tế lên sau cùng, hai chân cứ như khiêu vũ, nom rất lạ. Hôm qua hắn đi đánh cá, bị lau sậy cứa rách gót chân rất đau, vì thế không thể chạy được với tất cả cái tốc độ đặc biệt của cặp chân dài nghêu. Grigori đuổi kịp hắn với ngọn roi ngựa giơ cao trên đầu. Nghe tiếng vó ngựa rầm rập sau lưng, Khristonhia ngoái nhìn lại và càng chạy nhanh hơn. - Chạy đi đâu?! Đứng lại! Đứng lại… Có nghe thấy không - Grigori quát lên nhưng chẳng có kết quả gì. Khristonhia đâu có nghĩ tới chuyện đứng lại. Hắn vẫn tăng thêm tốc độ và đã chuyển sang thứ nước đại của một con lạc đà chạy thục mạng. Lúc nầy Grigori đã như điên như ngộ, chàng rít lên tiếng chửi tục tĩu ghê ghớm, quát to, thúc ngựa. Khi lên đến ngang Khristonhia, chàng khoái trá quất luôn cho hắn một roi vào cái lưng đẫm mồ hôi. Bị đánh, Khristonhia dướn thẳng người lên, nhảy một bước rất kỳ quặc sang bên cạnh, nom đại khái như bước nhảy ngang của một con thỏ, rồi hắn ngồi xuống đất, từ từ sờ nắn trên lưng rất cẩn thận. Những tên Cô-dắc cùng đi với Grigori cho ngựa phi vượt lên trước bọn chạy trốn, ngăn chúng lại, nhưng không dùng đến roi. - Quật chúng nó đi! Quật đi! - Grigori vung cái roi ngựa rất đẹp của chàng, quát lên, giọng khàn hẳn đi. Con ngựa chàng cưỡi quay tròn tại chỗ, đứng chồm lên, nhất định không chạy thêm nữa. Grigori phải mất không biết bao nhiêu hơi sức mới điều khiển được nó, rồi lại đuổi theo những tên đang chạy trên cùng. Chàng vừa cho ngựa phi, vừa liếc nhanh mắt nhìn thấy Stepan Astakhov đang đứng bên một bụi cây, lặng lẽ mỉm cười. Chàng cũng trông thấy Anikey cười đến khuỵu cả đầu gối xuống. Gã khum hai bàn tay đưa lên miệng làm loa, rít lên the thé như giọng đàn bà: - Anh em ơi! Ai còn chạy được thì trốn cho mau? Bọn Đỏ kia kìa! Bắt lấy chúng nó? Tóm cổ chúng nó đi...! Grigori lại đuổi theo một tên đồng hương khác. Hắn mặc chiếc áo bông ngắn và chạy không biết mệt, chạy rất nhanh. Cái thân hình gù gù của hắn nom quen thuộc lạ lùng, nhưng chàng làm gì có thì giờ mà nhìn kỹ xem là ai. Từ xa Grigori đã gầm lên: - Đứng lại, đồ chó đẻ! Đứng lại ngay, tao chém bây giờ! Tên mặc áo bông ngắn bất thần chạy chậm dần rồi dừng lại. Đến khi người ấy quay lại với một cử chỉ đặc biệt, cái cử chỉ cho thấy cả một sự phẫn nỗ đến cực độ mà chàng đã nhìn quen từ thời thơ ấu thì Grigori hoảng lên. Chàng chưa nhìn thấy mặt đã nhận ra bố. Hai bên má ông Panteley Prokofievich giật giật như bị chuột rút. - Bố đẻ ra mày mà là đồ chó đẻ à? Bố mày mà mày doạ chém à? - Ông quát lên, giọng lạc đi, phá ra. Cặp mắt ông long lên với cái vẻ hung dữ quen thuộc, nom ghê ghớm đến nỗi tức tối của Grigori lập tức nguội hẳn. Chàng hết sức ghìm con ngựa, kêu lên: - Con nhìn sau lưng không nhận ra? Cha làm gì mà kêu toáng lên thế? - Sao lại không nhận được ra? Bố mày mà mày không nhận ra à? Cái tính dễ phát bẳn của ông lão đã biểu hiện một cách vô nghĩa lý và không đúng lúc đến nỗi Grigori cũng phải bật cười. Chàng cho con ngựa lên tới chỗ bố, nói làm lành: - Thôi cha đừng bực mình nữa? Cái áo đại lễ mà cha mặc con đã trông thấy bao giờ đâu. Hơn nữa cha lại phi lên như con ngựa thi được thưởng ấy, cả đến hai chân cũng không còn khập khiễng nữa! Như thế thì làm sao mà nhận ra được? Rồi cũng như trước kia, như bao giờ cũng vậy trong đời sống gia đình, lần nầy ông Panteley Prokofievich lại nhịn. Tuy vẫn còn thở hổn hển, nhưng ông đã đấu dịu, đồng ý: - Mầy nói đúng đấy, cái áo đại lễ phục nầy tao mới mặc đấy, tao đã đổi cái áo choàng bằng dạ đi, vì mặc nó nặng quá. Còn chuyện khập khiễng thì bây giờ làm gì có thì giờ mà khập khiễng nữa? Người anh em ạ, ở đây không còn nghĩ được tới chuyện khập khiễng nữa đâu! Cái chết nó lù lù trước mắt mà mày còn nói chuyện chân cẳng. - Không đâu, cái chết nó còn xa lắm. Quay lại đi cha? Chưa vứt hết đạn chứ? - Quay lại đâu bây giờ hử? - Ông già nổi nóng. Nhưng bây giờ lại đến lượt Grigori giật giọng. Chàng dằn từng tiếng, ra lệnh. - Tôi ra lệnh quay trở lại! Trong hoàn cảnh chiến đấu mà không tuân lệnh chỉ huy, cha có biết điều lệnh quy định như thế nào không? Lời nói của chàng đã có tác dụng ngay. Ông Panteley Prokofievich sửa lại cây súng trường trên lưng, miễn cưỡng lê chân quay trở lại. Khi lên đến ngang một lão già còn đi chậm hơn cả ông, ông thở dài nói: - Con cái chúng nó như thế đấy! Chẳng biết kính trọng bố chút nào, cũng chẳng giúp cho bố, chẳng hạn khỏi xông pha chiến trận. Trái lại nó còn tìm cách… tống ngay bố nó tới đấy… Pha-a-ải… Không, mồ ma thằng Petro, cầu cho nó hưởng phúc nơi thiên đường thằng ấy thì khá hơn nhiều! Tính tình nó còn ôn hoà dễ dãi, chứ cái thằng điên thằng ngộ, cái thằng Griska nầy, thì tuy nó là một sư đoàn trưởng, có nhiều công trạng và gì gì đi nữa, nhưng nó cũng chẳng được như thằng kia đâu. Tính nết cứ nóng như lửa ấy, chớ có động vào nó. Thằng nầy thì đến lúc tôi già nua nó sẽ chỉ cầm cái dùi thúc vào lưng để giúp lôi leo lên ngủ trên bếp lò thôi? Không cần phải đặc biệt vất vả lắm Grigori cũng đã làm bọn lính thôn Tatarsky phải làm theo ý mình… Chỉ một lát sau chàng đã tập hợp toàn đại đội, đưa tới một nơi có địa hình che khuất. Chàng không xuống ngựa, giải thích ngắn gọn: - Bọn Đỏ đã vượt sông và đang cố hết sức chiếm Vosenskaia. Hiện giờ chiến đấu đã bắt đầu diễn ra ở gần sông Đông. Không phải chuyện đùa đâu, và nếu tôi khuyên anh em đừng bỏ chạy thì đó không phải là điều vô ích. Nếu anh em còn bỏ chạy lần nữa, tôi sẽ ra lệnh cho bọn kỵ binh đang đóng ở Erinsk chém chết anh em như chém những kẻ phản bội? - Grigori đưa mắt nhìn một lượt đám bà con cùng thôn đứng trong đủ mọi kiểu áo quần, rồi nói nốt với một vẻ khinh bỉ không chút giấu giếm - Trong đại đội của anh em có quá nhiều những thằng khốn nạn, chính chúng nó đã gây hoang mang dao động. Anh em đã quàng chân lên cổ chạy, bĩnh cả ra quần, lính với tráng gì như thế? Đã đi chiến đấu thì bây giờ chớ có rúc đầu vào giữa hai đầu gối mà lẩn trốn! Ngay lập tức từng trung đội sẽ chạy từ đây tới đường gờ đằng kia, rồi từ các bụi cây ra sông Đông. Sau đó dọc theo bờ sông tới chỗ đại đội thôn Xemenovsky: Anh em sẽ cùng với họ đánh vào sứờn bọn Đỏ. Tiến! Nhanh lên! Bọn lính thôn Tatarsky nín thinh đứng nghe chàng nói rồi lại lặng lẽ như thế tiến ra chỗ những bụi cây. Bọn bô lão buồn bực nhìn theo Grigori cùng đám lính Cô-dắc đi theo chàng phóng ngựa bỏ đi như bay. Lão già Obnizov đi bên cạnh ông Panteley Prokofievich trầm trồ: - Chúa đã ban cho ông một cậu con trai quả là anh hùng! Đúng là một con đại bàng? Xem hắn quật cho thằng Khristonhia một roi dài suốt lưng có khiếp không! Chỉ loáng cái đã lấy lại được trật tự cho tất cả. Câu nói đã phỉnh đúng vào cái tình cảm của một người cha. Ông Panteley Prokofievich vui vẻ đồng ý ngay: - Còn phải nói! Khắp gầm trời nầy kiếm đâu ra một thằng con như thế? Đầy một ngực huân chương, đó là chuyện đùa đấy phỏng? Cứ xem thằng Petro nhà tôi vừa mồ yên mả đẹp đấy, cầu cho nó hưởng phúc nơi thiên đường. Tuy nó cũng là con đẻ của tôi, mà lại là thằng cả, nhưng hoàn toàn không được như thằng nầy đâu? Tính nó quá hiền lành, ôn dịch nào biết được vì sao nó lại không được hẳn hoi ra con người như thế? Nhưng thằng nầy lại giống hệt như tôi! Mà còn dũng cảm ngang tàng hơn cả tôi nữa ấy! Grigori cùng với nửa trung đội của chàng kín đáo tiến tới chỗ lội Kanmytki. Sau khi tới khu rừng, cả bọn cứ tưởng đã được an toàn, song điểm quan sát ở bờ bên kia sông Đông đã phát hiện ra chúng. Một trung đội pháo bắt đầu nổ súng. Quả đạn pháo đầu tiên bay qua những ngọn liễu, rơi đánh thút xuống khoảng rừng rậm lầy lội nhưng không nổ. Quả thứ hai rơi trúng vào cái gốc trơ cả rễ của một cây hắc dương già ở ngay gần con đường, phụt lửa lên rồi dội xuống đầu bọn Cô-dắc một tiếng nổ long trời cùng với những nắm đất màu mỡ và những mảnh cây mục. Hai tai ù đi, Grigori theo linh tính đưa một tay lên mắt cúi rạp xuống mũi yên sau khi cảm thấy một tiếng đập trầm trầm ướt ướt, nghe như ở ngay mông ngựa. Tiếng nổ rung chuyển mặt đất làm những con ngựa của bọn Cô-dắc đều khuỵu chân sau như theo một hiệu lệnh rồi phi vụt lên. Con ngựa Grigori cưỡi nặng nề đứng chồm lên, lùi vài bước rồi từ từ ngã lăn ra. Grigori vội nhảy ra khỏi yên và nắm lấy dây mõm ngựa. Lại thêm hai quả đạn pháo nữa bay quay và sau đó chỗ cửa rừng bắt đầu lặng đi một cách rất thú vị. Làn khói nhẹ của thuốc nổ từ từ sà xuống cỏ. Nồng nặc mùi đất mới bị xới tung, mùi những mảnh cây và gỗ mục. Xa xa có tiếng vài con ác là kêu lo lắng trong khoảng rừng rậm. Con ngựa của Grigori thở phì phì, hai chân sau của nó run lên, co lại hai hàm răng vàng vàng nhe ra đau khổ, cổ nó vươn ra. Một đám bọt hồng hồng sùi ra xung quanh hai lỗ mũi xám mượt như nhung. Toàn thân nó run lên rất mạnh, những đợt giật giật lan ra dưới lớp lông màu hạt dẻ như làn sóng. - Con ngựa có nghĩa nầy sắp chết rồi à?[301] - Một gã Cô-dắc phi ngựa qua hỏi to. Grigori cứ nhìn hai con mắt mỗi lúc một đục của con ngựa, không trả lời. Thậm chí chàng cũng không nhìn kỹ vết thương và chỉ hơi lánh ra khi con ngựa gắng gượng chập chững đứng lên rồi bất thần khuỵu đầu gối, gục hẳn đầu xuống như xin chủ tha lỗi cho điều gì Nó nằm nghiêng, rên những tiếng trầm trầm, cố ngẩng đầu lên, nhưng xem ra nó đang mất đi nốt chút sức lực còn lại: những cơn run của nó mỗi lúc một thưa thớt hơn mắt nó đờ đẫn, mồ hôi đổ ra đầm đìa trên cổ. Chỉ ở những đám lông non như những cái bàn chải ở ngay sát móng là còn thấy mạch máu giật giật mấy cái cuối cùng. Chỗ vành má yên mòn cũ chỉ hơi run run. Grigori liếc nhìn chỗ bẹn bên trái của con ngựa, thấy một vết thương mở hoác rất sâu, máu đen ấm chảy ra phùn phụt như nước nguồn. Chàng không chùi nước mắt, nghẹn ngào bảo gã Cô-dắc vừa xuống ngựa. - Bắn cho nó một viên đạn! - Rồi chàng trao cho gã kia khẩu Mauser của mình. Chàng cưỡi lên con ngựa của gã Cô-dắc, phi tới chỗ lúc nãy chàng đã để các đại đội của chàng ở lại. Ở đấy cuộc chiến đấu đã nổ ra. Từ lúc trời rạng, các chiến sĩ Hồng quân bắt đầu tấn công. Các đội hình chiến đấu của họ xuất phát trong làn sương mù phủ lớp nọ lên lớp kia, lặng lẽ tiến về hướng Vosenskaia. Ở cánh bên phải, họ dừng lại một lát ở gần khoảng đất trũng đầy nước, rồi lội xuống nước đến ngực, túi đạn và súng giơ cao trên đầu. Một lát sau, bốn đại đội pháo bắt đầu gầm lên rất ăn nhịp, rất hùng tráng từ bên ngọn núi ven sông Đông. Những quả đạn pháo vừa bắt đầu rơi thành hình giẻ quạt xuống khu rừng thì quân phiến loạn bắt đầu nổ súng. Các chiến sĩ Hồng quân không đi bình thường nữa, họ cầm ngang súng trường chạy xông lên. Phía trước họ nửa vec-xta, đạn ghém nổ khô khan trên khu rừng, những cái cây bị đạn trái phá chẻ ra đổ vật xuống, khói bốc lên từng đám trăng trắng. Hai khẩu súng máy của quân Cô-dắc bắn từng loạt ngắn. Bắt đầu có những chiến sĩ Hồng quân gục xuống trong tuyến tản khai đầu tiên. Khi thì chỗ nầy, khi thì chỗ khác, mỗi lúc một thấy nhiều những con người đeo ca-pốt cuộn tròn trên lưng trong đội hình chiến đấu bị đạn bắn ngã. Có người ngã ngửa, có người ngã sấp, song những người khác không nằm xuống, khoảng cách giữa họ và khu rừng mỗi lúc một ngắn. Tiến phía trước đội hình tản khai thứ hai là một người chỉ huy cao lớn, mặc áo ca-pốt vén tà, đầu trần. Anh ta hơi khom mình, nhẹ nhàng chạy những bước rất dài. Tuyến tản khai chạy chậm lại trong một giây, song người chỉ huy vừa chạy vừa quay lại hô lên không biết những gì. Thế là các chiến sĩ lại chuyển sang bước chạy và những tiếng "Hu-ra-a!" khàn khàn, khủng khiếp lại vang to thêm mỗi lúc một hung dữ. Đến lúc đó tất cả các khẩu súng máy của quân Cô-dắc đều lên tiếng. Ở cửa rừng, những phát súng trường nổ ran, dội lên không lúc nào ngớt… ở một chỗ nào đó sau lưng Grigori lúc nầy đang đứng cùng các đại đội của chàng ở cửa rừng, khẩu trọng liên của đại đội thôn Batsky bắt đầu bắn từng tràng dài. Các tuyến tản khai của Hồng quân xáo động, nằm xuống, bắt đầu bắn trả. Trận chiến đấu đã kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ, nhưng sau khi bắn điều chỉnh, hoả lực của quân phiến loạn quét rất sát mặt đất làm cho tuyến tản khai thứ hai không chịu được nữa, phải chồm dậy, chạy lẫn vào tuyến tản khai thứ ba đang tiến vọt từng chặng… Chẳng mấy chốc bãi cỏ đã đầy những chiến sĩ Hồng quân rút lui hỗn loạn. Khi đó Grigori mới dẫn các đại đội của chàng cho ngựa chạy nước kiệu ra khỏi khu rừng, dàn thành đội hình rồi tung ra truy kích. Còn đường trở về các bè gỗ của các chiến sĩ Hồng quân rút lui đã bị chặn bởi một đại đội vùng sông Tria vừa mới hết sức thúc ngựa chạy tới. Một cuộc chiến đấu giáp lá cà diễn ra cạnh khu rừng ven sông, ở ngay sát bờ sông. Chỉ một số chiến sĩ Hồng quân chọc thủng được vòng vây để tới chỗ để bè. Những người còn lại bị dồn tới sát bờ sông, tiếp tục chiến đấu. Grigori cho các đại đội của chàng xuống ngựa, dặn bọn giữ ngựa không được ra khỏi rừng, rồi đưa bọn Cô-dắc ra bờ sông. Bọn Cô-dắc tiến vọt từ cây nọ đến cây kia, mỗi lúc một ra tới gần bờ sông. Chừng một trăm rưởi chiến sĩ Hồng quân đang dùng lựu đạn và hoả lực súng máy đánh bật đám bộ binh phiến loạn xông tới. Những cái bè đã lại được đưa sang bờ bên trái, song những tên Cô-dắc thôn Batsky đã dùng súng trường hạ gần hết các chiến sĩ chở bè. Thế là số phận của những người ở lại bờ bên nầy đã được định đoạt. Những người yếu tinh thần vút súng đi, tìm cách bơi qua sông. Những tên phiến loạn nằm bố trí ở gần đột phá khâu nhằm bắn vào họ. Nhiều chiến sĩ Hồng quân bị chết đuối vì không đủ sức vượt sông Đông ở chỗ dòng nước chảy siết. Chỉ có hai người qua sông được yên ổn. Một người mặc chiếc áo lót lằn vằn của thuỷ binh, có lẽ là một tay bơi giỏi. Anh ta đứng trên một chỗ bờ dốc đứng nhảy nhào đầu xuống nước, bơi ngầm một quãng dưới nước rồi mãi khi ra gần tới giữa sông Đông mới ngoi lên. Nấp sau một cây liễu có những cái cành vươn ra rất xa, Grigori thấy chàng thuỷ binh vội vã bơi những sải rất dài sang bờ bên kia. Còn một người nữa cũng qua sông được thuận lợi. Anh ta đứng dưới sông, nước ngập đến ngực, bắn kỳ hết đạn, mới giơ nắm tay doạ bọn Cô-dắc, kêu lên không biết những gì rồi bơi chéo ngược dòng nước. Đạn bắn tới thun thút chung quanh anh ta nhưng không viên đạn nào trúng vào con người may mắn ấy. Bơi tới một chỗ trước kia là chuồng nuôi gia súc, anh ta ngoi lên, giũ nước trên mình, rồi từ từ leo lên khoảng dốc đứng, vễ chỗ có nhà ở. Những người còn lại bờ bên trái nằm trên một ngọn gò cát. Khẩu súng máy của họ nhả đạn không lúc nào ngừng cho đến khi nước trong bình tán nhiệt sôi lên. - Theo tôi! - Khẩu súng máy vừa im tiếng, Grigori đã rút gươm khỏi vỏ, khẽ ra lệnh, rồi tiến lên gò. Bọn Cô-dắc thở nặng nề, rầm rập chạy theo sau. Chỉ còn không tới năm chục xa-gien là đến chỗ các chiến sĩ Hồng quân. Sau ba loạt súng trường, từ sau ngọn gò cát, người chỉ huy ria đen, da ngăm ngăm đứng thẳng lên. Một người đàn bà mặc áo da ngắn đỡ tay anh ta. Người chỉ huy đã bị thương. Anh ta kéo lê cái chân bị bắn trúng đi từ trên gò xuống, sửa lại khẩu súng trường có mắc lưỡi lê đang cầm trong tay, rồi ra lệnh bằng một giọng khê đặc: - Các đồng chí! Tiến lên! Giết bọn Trắng đi! Với bài "Quốc tế ca" trên môi, nhóm người dũng cảm đã xông lên phản công. Xông tới cái chết. Một trăm mười sáu người cuối cùng gục xuống bên bờ sông Đông đều là những đảng viên cộng sản trong Đại hội quốc tế. 3. Đêm đã khuya Grigori từ bộ tư lệnh trở về chỗ chàng ở. Prokho Zykov chờ chàng cạnh cửa xép. - Có tin gì về Acxinhia không? - Giọng Grigori cố làm vẻ thản nhiên. - Không. Không biết biến đi đâu rồi, - Prokho ngáp dài trả lời, nhưng hắn lập tức hoảng lên, bụng bảo dạ: "Cầu Chúa đừng cho hắn bắt mình đi tìm nó lần nữa… Hai đứa quỷ dữ nầy, chúng nó lại đổ tai vạ lên đầu mình thôi!". - Lấy nước cho mình lau rửa cái. Mồ hôi như lắm ấy. Nào, mau lên! - Giọng Grigori trở nên bực bội. Prokho vào trong nhà lấy nước rồi cầm một cái ca đổ nước rất nhiều lần vào hai lòng bàn tay khùm khum của Grigori. Grigori lau rửa với một vẻ khoái trá hiện ra nét mặt. Chàng cởi chiếc áo quân phục cổ chui chua loét vì mồ hôi rồi bảo: - Đổ lên lưng đi. Nước lạnh đổ xuống như làm cháy bỏng cái lưng đẫm mồ hôi. Grigori "a hà" một tiếng, thở phì phì, rồi cọ sát rất lâu, rất mạnh vào hai bên vai bị dây da cọ đau ê ẩm và bộ ngực lông lá lồm xồm. Chàng lau người bằng tấm áo ngựa sạch rồi ra lệnh cho Prokho, giọng đã vui hơn: - Sáng mai chúng nó sẽ mang đến cho mình một con ngựa. Cậu nhận lấy, tắm chải sạch sẽ và kiếm lấy ít thóc. Nếu mình chưa tự mình thức dậy thì chớ có gọi. Trừ phi trên bộ tư lệnh phái đứa nào đến thì hãy đánh thức. Hiểu chưa? Chàng xuống dưới hiên nhà kho, leo lên nằm trên chiếc xe tải và lập tức đánh luôn một giấc mê mệt. Đến lúc trời hửng, chàng bỗng thấy lạnh, bèn co chân, kéo chiếc áo ca-pốt đẫm sương đêm đắp lên mình. Sau khi mặt trời ló ra, chàng lại thiếp đi và mãi tới gần bảy giờ mới có một phát đạn nổ rất to làm chàng tỉnh dậy. Một chiếc máy bay nhấp nhoáng những ánh bềnh bệch lượn tròn trên thị trấn, trên bầu trời xanh ngắt, sạch bong. Những khẩu pháo và súng máy ở bên kia sông nhằm bắn vào nó. - Nhưng chúng nó cũng có thể bắn trúng được đấy! - Prokho cầm chiếc bàn chải ra sức chải lông một con ngựa giống cao lớn lông màu hồng ở chỗ buộc ngựa - Anh Panteleevich xem nầy, chúng nó mang tới cho anh một con quỷ dữ như thế nầy đây! Grigori nhìn qua con ngựa rồi hỏi có vẻ vừa ý: - Mình còn chưa xem nó mấy tuổi. Có thể đến sáu tuổi rồi đấy nhỉ? - Sáu tuổi đấy - Chà đẹp lắm! Bốn chân rất thon, và đều có khúc trắng như đi bít tất ấy. Quả là một con ngựa đẹp… Nào, cậu thử đóng yên, cho mình cưỡi ra xem thằng nào vừa đi máy bay đến đấy. - Về chuyện đẹp thì chẳng cần phải nói. Nhưng còn chưa biết nước chạy như thế nào? Song nhìn tất cả các mặt thì có lẽ nó chạy hăng lắm đấy. - Prokho kéo chặt cái đai bụng của con ngựa lẩm bẩm. Lại một phát đạn ghém nổ bên cạnh chiếc máy bay, làm bốc lên một đám mây nhỏ màu trắng khói. Sau khi chọn được chỗ hạ cánh, tên lái cho chiếc máy bay xuống thấp hẳn. Grigori cho con ngựa ra khỏi cửa xép, phi tới chỗ chuồng ngựa của trấn. Chiếc máy bay đỗ sau lưng chuồng ngựa. Chuồng nuôi ngựa giống của trấn là ngôi nhà dài xây bằng đá ở ngoài lề trấn. Hơn tám trăm tù binh Hồng quân bị nhốt chen chúc trong đó. Bọn coi tù không cho họ ra ngoài đi giải đi đồng, trong nhà lại không có thùng phân. Vì thế chung quanh chuồng ngựa luôn nồng nặc mùi phân và nước dãi của người. Những dòng nước dãi khai thối tuôn ra bên dưới các kẽ cửa. Đàn nhặng xanh như ngọc bích bay mù mịt trên các dòng nước giải ấy như những đám mây. Tiếng rên la âm thầm vang lên suốt đêm ngày trong cái nhà tù nhốt những con người chỉ còn con đường chết. Hàng trăm tù binh chết dần vì kiệt sức, vì thương hàn và kiết lỵ, hai thứ bệnh đang hoành hành trong nhà lù. Người chết có khi nằm lại một đêm một ngày không được đem đi. Grigori đã cưỡi ngựa đi quá chuồng ngựa. Chàng vừa định xuống ngựa thì từ bên kia sông lại vẳng sang tiếng nổ trầm trầm của một khẩu pháo. Quả đạn bay tới mỗi lúc một gần, tiếng rít của nó cứ to mãi lên, cuối cùng biến thành một tiếng nổ rất lớn. Gã lái máy bay và tên sĩ quan cùng bay đến với gã đã ra khỏi buồng lái. Bọn Cô-dắc xúm đông xúm đỏ chung quanh chúng. Tất cả các khẩu đội của đại đội pháo trên núi lập tức lên tiếng. Những quả đạn pháo bắt đầu rơi đều đặn quanh chuồng ngựa. Gã lái máy bay leo rất nhanh lên buồng lái, nhưng động cơ không nổ. - Bắt tay vào mà đẩy? - Tên sĩ quan vừa từ bên kia sông Dones tới ra lệnh, giọng oang oang và là tên đầu tiên đặt tay vào cánh máy bay. Chiếc máy bay ngật ngưỡng nhẹ nhàng chạy về phía những cây thông. Đại đội pháo bèn bắn liên tục đuổi theo. Một quả pháo rơi trúng cái chuồng ngựa đầy ních tù binh. Một góc nhà đổ sập trong những làn khói dày đặc và những đám bụi vôi bốc mù mịt. Tiếng các chiến sĩ Hồng quân kinh hoảng gào rú như thú vật làm chuồng ngựa rung chuyển. Ba người tù binh nhảy ra khỏi lỗ hổng vừa hình thành. Những tên Cô-dắc chạy tới nhắm thẳng vào họ nhả đạn, làm người họ thủng lỗ chỗ như những cái rây. Grigori cho con ngựa chạy ra chỗ khác. - Chúng nó bắn chết bây giờ? Hãy ra chỗ đám thông kia đi - Một gã Cô-dắc chạy qua kêu lên. Mặt gã đầy vẻ hốt hoảng, mắt gã trợn lên trắng dã. - Chúng nó có thể bắn trúng thật đấy. Có trò gì mà quỷ dữ không giở ra được, - Grigori nghĩ thầm như thế rồi lừng khừng quay về nhà. Hôm ấy Kudinov triệu tập ở bộ tư lệnh một cuộc hội nghị tuyệt đối bí mật nhưng không rời Grigori Melekhov. Tên sĩ quan của Quân đội sông Đông vừa lái máy bay tới thông báo vắn tắt rằng chỉ ngày một ngày mai những đơn vị thuộc binh đoàn xung kích tập trung ở gần thị trấn Kamenskaia sẽ chọc thủng mặt trận của Hồng quân và sư đoàn kỵ binh của Quân đội sông Đông dưới quyền chỉ huy của tên tướng Sekrechev sẽ tiến quân tới hợp nhất với quân phiến loạn. Tên sĩ quan đề nghị lập tức chuẩn bị ngay những phương tiện vượt sông để ngay sau khi hợp nhất với sư đoàn Sekrechev có thể lập tức tung những trung đoàn kỵ binh của quân phiến loạn sang bờ bên phải sông Đông. Hắn lại khuyên nên điều các lực lượng dự bị về thật gần sông Đông và đến lúc hội nghị sắp kết thúc, sau khi đã vạch xong kế hoạch vượt sông và điều động các đơn vị truy kích, hắn mới hỏi: - Nhưng tại sao, các ngài lại để tù binh ở Vosenskaia? - Chẳng còn chỗ nào khác để giữ chúng nó, trong các thôn không có chỗ. - Một tên trong đám sĩ quan tham mưu trả lời. Tên sĩ quan kia lấy khăn tay ra lau rất cẩn thận cái đầu cạo nhẵn thín đẫm mồ hôi, mở phanh cổ áo quân phục màu cút ngựa rồi thở dài và nói: - Các ngài hãy giải chúng nó đi Kazanskaia. Kudinov ngạc nhiên giương cao hai hàng lông mày. - Rồi sau đó sẽ làm gì? - Rồi từ đó lại giả về Vosenskaia… - Tên sĩ quan nheo hai con mắt xanh lam lạnh như tiền, giải thích giọng kẻ cả. Rồi hắn mím chặt môi, nói thêm một cách tàn nhẫn - Thưa các ngài, tôi không hiểu vì sao các ngài lại khách khí với chúng nó như thế? Hình như thời thế lúc nầy không phải là lúc làm như vậy đâu. Quân khốn nạn ấy là nhân tố gieo rắc mọi thứ bệnh của thể xác con người, cũng như của xã hội. Cần phải tiêu diệt chúng nó đi. Không cần chăm sóc nuôi nấng chúng nó làm gì. Nếu ở cương vị các ngài tôi sẽ làm như thế đấy. Ngay hôm sau, một toán tù binh thứ nhất gồm hai trăm người đã bị đưa ra vùng cảc bãi cát những chiến sĩ Hồng quân sức lực kiệt quệ, xanh trong xanh bóng lê bước hết sức khó khăn, cứ đi như những cái bóng. Đội áp giải cưỡi ngựa vây chặt lấy đám người chẳng có hàng ngũ gì cả… Sau khi bị xua đi một chặng đường mười véc-xta từ Vosenskaia đến Dubrov, hai trăm con người ấy đã bị chém chết hết, không một ai sống sót. Toán thứ hai bị giải đi trước khi trời hoàng hôn. Đội áp giải đã nhận được nghiêm lệnh: chém chết những người đi chậm, chỉ nổ súng trong trường hợp hết sức cần thiết. Trong số một trăm năm mươi người, chỉ có mười tám người tới được Kazanskaia… Trên đường đi, một chiến sĩ Hồng quân còn trẻ, mặt hao hao như dân Di-gan, đã phát điên. Anh ta rứt một nắm hương bồ thơm phức áp lên chỗ tim đập, và suốt chặng đường cứ hết ca hát, nhảy múa lại khóc lóc. Chốc chốc anh ta lại ngã úp mặt xuống lớp cát nóng bỏng. Gió thổi phần phật những mảnh giẻ rách bẩn thỉu trên chiếc sơ-mi bằng vải thô. Những lúc ấy bọn lính áp giải lại nhìn thấy cái lưng gầy guộc chỉ còn da bọc xương và hai gan bàn chân đen xì nứt nẻ của cặp chân dạng rộng. Những anh em khác xốc anh ta dậy, lấy nước trong bình toong rải vào mặt anh ta. Thế là anh ta mở to cặp mắt đen long lanh một ánh điên dại, cười khe khẽ và lại lảo đảo cất bước, Khi đi qua một thôn, những người đàn bà ở đấy thấy thương hại bèn đến vây quanh những tên áp giải. Một bà già to béo, vẻ người oai vệ, nói với tên đội trưởng giọng nghiêm khắc: - Anh hãy thả thằng tóc đen nầy đi. Nó đã mất trí khôn, sắp về chầu Chúa rồi còn gì. Nếu làm chết một con người như thế thì tội của các anh sẽ to lắm đấy. Đội trưởng áp giải là một thằng chuẩn uý ria đỏ dáng điệu ngang tàng. Hắn nhếch mép cười: - Bà cụ ạ, chúng tôi không sợ mang thêm cho linh hồn một tội nữa đâu. Dù sao chúng tôi cũng không còn có thể trở thành những con người chính trực được nữa rồi. - Nhưng anh cứ thả nó ra đi, đừng từ chối chúng tôi, - Bà già cố van. - Thần chết đang vẫy cánh trên đầu từng người trong đám các anh rồi đấy… Những người đàn bà khác đồng thanh ủng hộ bà cụ và cuối cùng thằng chuẩn uý đã đồng ý. - Tôi cũng chẳng tiếc làm gì, các bà nhận lấy nó cũng được. Bây giờ thì nó không còn có thể gây chuyện tai hại gì nữa rồi. Nhưng chúng tôi đã có lòng tốt như thế thì các bà cũng cho mỗi anh em được một lon sữa chưa hớt kem chứ? Bà già đưa anh chàng hoá điên về nhà, cho ăn uống và trải giường cho nằm ở phòng trong. Anh ta đánh một giấc li bì một ngày một đêm liền, rồi khi tỉnh dậy, cứ đứng tựa lưng vào khung cửa sổ nhỏ, rì rầm khẽ hát. Bà già vào trong phòng, ngồi lên nắp cái rương, đưa bàn tay lên đỡ má, nhìn chằm chằm rất lâu vào bộ mặt gầy dộc của chàng thanh niên, rồi cụ nói giọng trầm trầm: - Nghe nói bạn các anh ở cách đây không xa đâu… Anh chàng hoá điên nín lặng chừng một giây rồi lại hát tiếp ngay, nhưng khẽ hơn. Bà già bèn nói, giọng nghiêm khắc: - Nầy anh chàng thân mến kia ơi, thôi đừng hát hỏng gì nữa, bỏ cái trò giả vờ giả tảng ấy đi và đừng hòng làm mê mẩn đầu óc tôi. Tôi đã sống nhiều, anh không lừa nổi tôi đâu và tôi đâu phải là một mụ già ngu xuẩn? Đầu óc anh vẫn còn sáng suốt, tôi biết lắm… Tôi đã nghe thấy anh nói trong khi ngủ mê rất là mạch lạc! Chàng chiến sĩ Hồng quân vẫn còn hát, nhưng mỗi lúc một khẽ. Bà già nói tiếp: - Anh đừng sợ tôi. Tôi không muốn làm điều gì ác với anh đâu. Hai thằng con tôi đã bị giết trong cuộc chiến tranh chống quân Đức, còn thằng út cũng đã chết trong trận chiến tranh nầy, ở Chersk. Cả ba đứa tôi đều mang nặng đẻ đau. Cho chúng nó bú, cho chúng nó ăn, từ trẻ đến già có đêm nào tôi được ngủ yên đâu. Vì thế tôi thương tất cả những thằng trẻ trai phải đi lính, phải đánh nhau ngoài mặt trận… Nói đến đây bà già nín lặng một lát. Nngười chiến sĩ Hồng quân cũng không hát nữa. Anh ta nhắm mắt lại và hai gò má sạm đen bỗng hơi ửng lên một ánh hồng hồng, một mạch máu xanh giật giật rất mạnh trên cái cổ gầy ngoẵng. Anh ta đứng yên một phút, vẫn nín thinh đầy vẻ chờ đợi. Rồi anh hé cặp mắt đen, hai con mắt rất thông minh lộ rõ một tâm trạng sốt ruột, làm bà già hơi mỉm cười. - Anh có biết đường đi Sumilinskaia không? - Cháu không biết đâu, cụ ạ, - Anh chiến sĩ Hồng quân hơi động môi trả lời. - Nếu vậy thì anh sẽ đi như thế nào bây giờ - Cháu cũng chẳng biết nữa. - Chà ra vậy! Tôi sẽ làm gì cho anh bây giờ? Bà già chờ câu trả lời giờ lâu rồi lại hỏi: - Thế anh có thể đi được chứ? - Đại khái cháu cũng có thể đi được - Ngay bây giờ thì anh không thể nào đi được đâu. Phải đi vào ban đêm và đi cho nhanh, chà, phải hết sức nhanh mới được! Anh hãy nghỉ ngơi thêm một ngày nữa, rồi tôi sẽ cho anh các thứ ăn đường và thằng cháu nhỏ sẽ đưa anh đi, nó sẽ chỉ đường cho anh, và Chúa sẽ che chở cho anh đi được bình an! Bọn các anh, bọn Đỏ ấy, đang đóng ở quá Sumilinskaia, tôi biết đúng là như thế. Anh sẽ tìm đến chúng nó mà kể khổ. Nhưng không thể đi trên đường cái, phải đi qua đồng cỏ, qua các khe núi, qua rừng, phải chọn những chỗ không có đường sá mà đi, nếu không bị bọn Cô-dắc tóm cổ thì sẽ tai vạ đấy Có thế thôi, anh bạn thân mến ạ! Ngày hôm sau, lúc trời vừa sẩm tối, thằng bé cháu mười hai tuổi của bà cụ và anh chiến sĩ Hồng quân sắp sửa lên đường. Anh chiến sĩ đã khoác thêm một chiếc áo choàng bằng nỉ thô của dân Cô-dắc. Bà cụ làm dấu phép chúc phước cho cả hai và nói bằng một giọng nghiêm nghị. - Thôi đi đi Chúa sẽ che chở cho! Nhưng cẩn thận đấy, đừng có chạm trán với bọn lính tráng bên chúng tôi! Chẳng có gì đâu, anh chàng yêu quý ạ, chẳng có gì đâu? Đừng cúi chào tôi, anh hãy cúi chào Đức Chúa Trời ấy! Không phải chỉ một mình tôi như thế nầy đâu tất cả chúng tôi, tất cả những người làm mẹ, đều tốt bụng cả… Chúng tôi hết sức thương những thằng tội lỗi như các anh? Thôi, thôi, đi đi, cầu Chúa che chở cho cả hai chú cháu! - Rồi cụ đóng đánh sầm cái cửa trát đất sét vàng đã nghiêng vẹo của căn nhà nhỏ. 4. Ngày nào bà Ilinhitna cũng dậy từ lúc trời mới hửng để vắt sữa bò và bắt tay vào công việc bếp núc. Bà không nhóm lò trong nhà mà lại đốt lửa trong căn bếp dùng về mùa hè, sửa soạn xong bữa ăn rồi lại lên nhà trên với hai đứa trẻ. Sau khi mắc bệnh thương hàn, Natalia dần dần lấy lại sức khỏe. Lễ Thánh thần giáng lâm đến lần thứ hai thì lần đầu tiên nàng không phải nằm lì trên giường bệnh nữa. Nàng lê rất vất vả hai cái chân gầy khô đi một lượt qua các phòng, hí húi bới tóc bắt chấy rất lâu cho hai con, thậm chí còn thử ngồi trên chiếc ghế đẩu, giặt mấy chiếc quần áo nhỏ xíu của trẻ con. Nhưng nụ cười không lúc nào tắt trên khuôn mặt gầy tọp của nàng, hai cái má hóp đã thoáng ánh hồng hồng, và cặp mắt nàng trở nên mênh mông sau những ngày bị bệnh, cứ phát ra những tia sáng ngời rung rinh ấm áp, hệt như sau một thời kỳ sinh nở. - Poliuska, con đẹp con xinh của mẹ! Những hôm mẹ ốm, Misatka có bắt nạt con không? - Nàng đưa tay vuốt bộ tóc đen nhanh trên đầu con gái, hỏi giọng yếu ớt, thều thào kéo dài từng tiếng. - Không đâu, mẹ ạ! Misatka chỉ đánh con có một lần thôi, còn thì hai chúng con chơi với nhau vui lắm. - Đứa con gái nhỏ rủ rỉ trả lời và cứ áp mặt thật chặt vào đầu gối mẹ. - Thế bà có thương các con không? - Natalia mỉm cười hỏi thêm. - Bà thương lắm? - Thế những người lạ, bọn lính Đỏ ấy, họ có làm gì các con không? - Chúng nó làm thịt mất một con bò non của nhà ta đấy, cái bọn đáng nguyền rủa ấy!- Thằng Misatka trả lời bằng một giọng trầm trầm. Nó giống bố một cách lạ lùng. - Không được chửi bậy, Misatka? Xem kìa, con ra dáng ông chủ nhà lắm rồi đấy! Không được dùng những tiếng thô lỗ để nói về người lớn nhé! - Natalia cố ghìm nụ cười để dạy con. - Bà vẫn hỏi họ như thế đấy, mẹ cứ hỏi Poliuska mà xem. - Thằng bé Melekhov cố chống chế với vẻ mặt âm thầm. - Đúng thế đấy mẹ ạ, gà nhà ta họ giết thịt sạch, chẳng còn con nào nữa. Con Poliuska sôi nổi hẳn lên, nó long lanh hai con mắt đen láy, bắt đầu kể chuyện các chiến sĩ Hồng quân mò vào sân gia súc như thế nào, và bà Ilinhitna đã van nài họ như thế nào để họ dành lại cho một con gà trống lông màu vàng có cái mào đã bị hỏng vì rét cóng để làm giống, và người chiến sĩ Hồng quân vui tính đã vung con gà lên như thế nào để trả lời bà già. Anh ta nói: "Bà cụ ạ, con gà trống nầy đã gáy chống lại Chính quyền Xô viết, vì thế chúng tôi đã tuyên án xử tử nó rồi! Cụ van xin thế nào thì van xin, nhưng chúng tôi vẫn phải giết thịt nó để nấu mì sợi, rồi chúng tôi sẽ để lại đền cụ một đôi ủng dạ cũ. Rồi con Poliuska dang hai tay ra hiệu: - Người ta đã để lại một đôi ủng dạ như thế nầy nầy! To ơi là to, và thủng rách bươm! Natalia hết cười lại khóc, nàng âu yếm vuốt ve hai con, cặp mắt hân hoan cứ dính chặt vào đứa con gái. Nàng sung sướng khẽ nói: Chà cô bé Grigorievna[302] của mẹ! Con đúng là con gái của bố Grigori! Chân lông kẽ tóc, chỗ nào cũng hệt như bố của con. - Thế con có giống không? - Thằng Misatka hơi có ý ghen tị và rụt rè nép vào người mẹ. - Cả con cũng giống. Nhưng con phải nhớ nhé: bao giờ lớn lên, con chớ có bừa bãi như cha con đấy… - Thế cha bừa bãi à? Cha bừa bãi như thế nào hả mẹ? - Con Poliuska tò mò hỏi. Một vẻ âu sầu phủ lên mặt Natalia như cái bóng đen. Nàng nín lặng một lát rồi nặng nề đứng lên khỏi chiếc ghế dài. Bà Ilinhitna đang có mặt ở đấy bực mình quay đi. Còn Natalia thì không nghe hai con ríu rít nữa. Nàng ra đứng bên cửa sổ nhìn rất lâu những cái cửa chớp đóng kín mít của nhà Astakhov, chốc chốc lại thở dài, tay mân mê chỗ viền đăng-ten trên chiếc áo ngắn cũ đã bạc màu, vẻ mặt xao xuyến. Hôm sau, trời vừa tảng sáng nàng đã thức giấc, rón rén ra khỏi giường để hai đứa con khỏi tỉnh dậy. Rồi nàng lau rửa và lấy trong chiếc rương ra cái váy sạch, chiếc áo ngắn mặc ngoài và cái khăn che nắng màu trắng. Nàng có vẻ rất xúc động, và cứ nhìn cách ăn vận cùng vẻ trầm lặng âu sầu và trang nghiêm của con dâu, bà Ilinhitna cũng đoán được rằng Natalia sắp đi thăm mộ cụ Grisaka. - Mày định đi đâu đấy hả con? - Bà Ilinhitna hỏi thử xem mình đoán có đúng không. - Con ra thăm ông con một cái. - Natalia trả lời, nhưng chỉ sợ mình sẽ oà lên khóc nên không dám ngửng đầu lên. Nàng đã được biết về cái chết của cụ Grisaka và chuyện Miska Kosevoi đốt hết nhà trên sân dưới của gia đình mình. - Mày còn yếu lắm, không đi được đến nơi đâu. - Con sẽ vừa đi vừa nghỉ rồi cũng sẽ tới. Mẹ ạ, mẹ cho hai cháu ăn nhé, kẻo chưa biết chừng con sẽ nán lại ở đấy lâu đấy. - Nhưng ai mà biết được có chuyện gì xảy ra không, mà mầy ở lại ngoài ấy lâu làm gì? Cầu Chúa che chở cho mầy khỏi gặp phải bọn quỷ sứ ấy vào giờ dữ. Thôi đừng đi nữa thì hơn, con Natalia yêu quý của mẹ? - Không, con phải đi mới được. - Nalalia cau mày, nắm lấy quả đấm cửa. - Nhưng hượm đã nào, sao mày chưa ăn gì mà đã đi thế? Mẹ lấy ít sữa chua cho mầy ăn đã nhé! - Thôi mẹ ạ, lạy Chúa tôi, con không muốn ăn đâu… Con về rồi sẽ ăn. Thấy con dâu nhất quyết đi cho kỳ được, bà Ilinhitna đành khuyên: - Tốt nhất là mầy cứ ven sông mà đi, len qua các vườn rau ấy. Đi như thế đỡ bị chúng nó trông thấy. Mây phủ kín mặt sông Đông như cái áo gối. Mặt trời còn chưa ló nhưng về phía đông khoảng trời bị che một phần bởi dây tiêu huyền đã rực lên một màu đỏ tía và làn gió lành lạnh trước lúc mặt trời mọc đã hiu hiu thổi tới từ dưới những đám mây. Natalia bước qua một đoạn hàng rào đổ dụi phủ đầy thổ ti, đi vào trong vườn nhà mình. Nàng áp tay lên chỗ tim đập, đứng lại trước một nấm đất mới. Những dải gai và cỏ dại mọc um tùm trong vườn. Nồng nặc mùi hoa ngưu bàng đẫm sương đêm, mùi đất ẩm và mùi sương mù. Một con sáo đã xù lông đậu trên cây táo già chết khô sau đám cháy, đất đắp trên nấm mồ đã lún. Chỗ chỗ đã thấy những lá cỏ nhú lên giữa những miếng đất sét khô, nom như những lưỡi dao xanh mướt. Những hồi ức bất thần ập tới làm đầu óc Natalia choáng váng. Nàng lặng lẽ quỳ xuống, áp mặt lên chất đất khắc nghiệt, mãi mãi còn bốc lên mùi thối rữa của chết chóc. Một giờ sau, nàng rón rén bước ra khỏi khu vườn lòng đau thắt lại, nàng ngoái nhìn lần cuối nơi tuổi thanh xuân của mình đã nở hoa: cái sân trống hoác với những dãy cột nhà kho đã biến thành than, những đống hoang tàn của bếp lò và nền nhà cháy rụi, tất cả âm thầm hiện lên thành một đám đen ngòm. Rồi nàng lặng lẽ bước ra ngõ. *** Mỗi ngày Natalia một lại sức. Chân nàng đi đứng đã vững vàng, cặp vai lại trở nên tròn trặn, toàn thân nây ra, nom có vẻ khỏe khoắn. Chẳng bao lâu nàng lại bắt đầu giúp đỡ mẹ chồng trong công việc bếp núc. Hai mẹ con vừa hí húi trong bếp, vừa rủ rỉ với nhau rất lâu. Một buổi sáng Natalia nói đầy vẻ bực tức: - Mà không biết bao giờ mới chấm dứt những chuyện nầy đây? Lòng dạ con ê ẩm cả rồi! - Rồi mầy xem, chẳng bao lâu nữa quân ta sẽ lại từ bên kia sông trở về thôi, - bà Ilinhitna nói đầy tin tưởng. - Nhưng mẹ làm thế nào mà biết được hả mẹ? - Trái tim của tao nó cảm thấy như thế rồi. - Chỉ mong sao cho hai ông Cô-dắc nhà ta được bình an vô sự. Cầu chúa cho đừng có ai bị giết hay bị thương. Anh Griska con, anh ấy liều mạng lắm. - Natalia thở dài. - Có lẽ cả hai sẽ chẳng gặp phải chuyện gì đâu, Chúa không phải không có lòng thương. Ông già nhà ta đã hứa sẽ lại qua sông về thăm chúng ta, nhưng có lẽ ông ấy cũng sợ. Nếu ông về thì tốt nhất là mày cùng qua sông với ông ấy, về với bên phía chúng ta, đỡ gặp phải chuyện gì. Đám Cô-dắc của chúng ta, bọn trong thôn nhà ấy, họ đang bố trí ngay trước mặt thôn, đang chống lại bọn địch đấy. Hôm nọ, trong lúc mày còn nằm mê man, mẹ ra sông lấy nước lúc tảng sáng có nghe thấy thằng Anikey ở bên kia sông kêu rầm lên: "Chào bà lão? Ông lão gửi lời hỏi thăm đấy!". - Thế anh Griska con ở đâu? - Natalia hỏi giọng dè dặt. - Nó đang ở một chỗ xa, chỉ huy tất cả bọn họ mà lại, - bà Ilinhitna trả lời chất phác. - Thế anh ấy chỉ huy từ chỗ nào? - Có lẽ từ Vosenskaia. Cũng chẳng còn nơi nào khác đâu. Natalia nín lặng giờ lâu. Bà Ilinhitna đưa mắt nhìn nàng rồi hốt hoảng hỏi: - Nhưng mầy làm sao thế? Sao mày lại khóc. Natalia không trả lời, chỉ úp mặt xuống chiếc tạp dề nhem nhuốc, khẽ nức nở. - Thôi đừng khóc nữa Natalia, con yêu của mẹ. Trong việc nầy nước mắt chẳng giúp được gì đâu. Được Chúa chở che thì mẹ con ta sẽ lại thấy hai bố con nó còn sống, còn khỏe. Còn mày thì phải tự lo lấy thân, không có việc gì cần thì đừng lần mò ra sân, nếu không cái bọn phản Chúa ấy chúng nó trông thấy, lại nhòm ngó… Trong bếp bỗng tối đi. Có một hình người, không biết là ai, che cửa sổ từ bên ngoài. Bà Ilinhitna nhìn ra ngoài cửa sổ, ái chà một tiếng: - Chúng nó đấy! Bọn Đỏ đấy! Natalia! Mầy vào ngay trong giường, nằm xuống giả vờ ốm đi… lạy Chúa đừng để xảy ra chuyện gì chẳng lành… Lấy tấm vải đay nầy đắp lên người đi! Natalia sợ run bần bật. Nàng vừa nằm xuống giường đã nghe thấy tiếng then cửa lách cách, rồi một chiến sĩ Hồng quân cao lớn khom người bước vào căn bếp. Bà Ilinhitna tái mặt đi. Hai đứa trẻ bám chặt gấu váy bà. Bà đang đứng bên cạnh bếp lò, cứ thế ngồi phịch xuống chiếc ghế dài, đánh đổ cả lon sữa vừa hâm lại. Người chiến sĩ Hồng quân đưa nhanh mắt nhìn khắp căn bếp rồi nói oang oang: - Đừng có sợ. Chúng tôi không ăn thịt đâu mà sợ. Chào cả nhà! Natalia kéo tấm vải đay lên trùm đầu, giả vờ rên, còn thằng Misatka thì gườm gườm nhìn người khách. Bỗng nó nói giọng sung sướng: - Bà ơi bà! Chính người nầy đã giết con gà trống nhà ta đấy! Bà còn nhớ không? Chiến sĩ Hồng quân bỏ chiếc mũ cát-két màu cứt ngựa xuống, tặc lưỡi, mỉm cười. - Nó còn nhận được ra đấy, cái thằng bé cứng đầu cứng cổ nầy! Nhưng nó còn để bụng cái chuyện con gà trống ấy làm gì nữa? Song cụ chủ nhà thân mến ạ, đang có một việc như thế nầy nầy: cụ có thề giúp chúng tôi nướng ít bánh mì được không? Chúng tôi có bột. - Được thôi… Có sao đâu… Tôi sẽ nướng… - Bà Ilinhitna không nhìn người khách, vừa lau chỗ sữa đổ trên chiếc ghế dài, vừa vội vã trả lời. Người chiến sĩ Hồng quân ngồi xuống bên cạnh cửa, lấy gói thuốc trong túi ra, rồi cuốn điếu thuốc bắt đầu câu chuyện: - Đến tối cụ sẽ nướng xong được chứ? - Nếu các bác cần có ngay thì đến tối cũng xong. - Bà cụ ạ, trong chiến tranh thì bao giờ cũng vội. Còn chuyện con gà trống thì cụ đừng giận nhé. - Nhưng chúng tôi có nghĩ gì đâu? - Bà Ilinhitna hoảng lên - Chỉ có thằng bé ngu ngốc nầy… Nó cứ nhớ những chuyện không đáng nhớ! - Mà chú cũng vắt cổ chày ra nước đấy, chú nhỏ ạ… - Người khách vui chuyện nở nụ cười hồn hậu, nói với thằng Misatka. - Nhưng làm gì mà chú cứ nhìn như con sói con thế? Lại đây nào, chúng ta sẽ nói chuyện với nhau cho thoả về con gà của chú. - Lại đi, cháu yêu của bà? bà Ilinhitna lấy đầu gối đẩy thằng cháu, khẽ bảo. Nhưng thằng bé rời khỏi vạt váy bà nó, né né người len qua cửa, định chuồn ra khỏi căn bếp. Người chiến sĩ Hồng quân đưa cánh tay dài ngoẵng kéo nó về với mình và hỏi: - Chú bé giận tôi có phải không? - Không, - thằng Misatka khẽ trả lời. - Được, thế thì tốt lắm. Hạnh phúc không phải là ở con gà đâu. - Thế bố chú ở đâu. Ở bên kia sông Đông à? - Bên kia sông. - Như thế có nghĩa là đánh nhau với chúng tôi à? Thái độ ân cần dịu dàng của người chiến sĩ đã mua chuộc được thằng Misatka. Nó sẵn lòng cho biết. - Bố chỉ huy tất cả mọi người Cô-dắc đấy! - Ồ, chỉ nói khoác, chú nhỏ nầy! - Bác cứ hỏi bà mà xem. Nhưng bà cụ chỉ rên rỉ vỗ hai tay đen đét, trong lòng hết sức đau khổ vì những lời bép xép của thằng cháu. - Chỉ huy tất cả à? - Người chiến sĩ Hồng quân hỏi có vẻ phân vân. - Nhưng cũng có thể là không phải tất cả đâu… - Thằng Misatka bối rối trước cặp mắt tuyệt vọng của bà nó, trả lời bằng một giọng đã bớt tin tưởng. Chiến sĩ Hồng quân nín lặng một lát rồi đưa mắt chỉ Natalia và hỏi: - Nhà chị nầy đang ốm đấy à? Bị thương hàn đấy, - bà Ilinhitna miễn cưỡng trả lời. Hai chiến sĩ Hồng quân khác khiêng vào trong bếp một túi bột, đặt ngay bên ngưỡng cửa. - Nhóm lò đi cụ chủ nhà; - Một người nói. - Sẩm tối chúng tôi sẽ trở lại lấy bánh. Nhưng cụ liệu liệu đấy, phải nướng cho cẩn thẩn, nếu không sẽ không hay gì cho cụ đâu! - Tôi biết nướng đến đâu thì sẽ nướng đến đấy. - Bà Ilinhitna trả lời, trong lòng mừng khôn xiết vì hai người vừa bước vào đã cắt đứt câu chuyện nguy hiểm và thằng Misatka đã chạy ra khỏi căn bếp. Một người hất đầu về phía Natalia hỏi: - Bị thương hàn à? - Phải. Ba chiến sĩ Hồng quân thì thầm nói với nhau không biết những gì rồi ra khỏi bếp. Người cuối cùng chưa rẽ qua chỗ góc nhà thì từ bên kia sông Đông đã vang vang tiếng súng trường đì đẹt. Mấy chiến sĩ Hồng quân lom khom chạy tới một bức tường bao bằng đá đã gần đổ dụi, rồi cùng lách cách kéo khoá hậu, bắt đầu bắn lại. Bà Ilinhitna hốt hoảng chạy bổ ra sân tìm thằng Misatka. Từ sau bức tường có tiếng gọi cụ: - Nầy, bà cụ! Vào trong nhà đi! Chúng nó bắn chết bây giờ! - Thằng bé nhà tôi đang ở ngoài sân? Misatka! Cháu yêu của bà! Bà già gọi cháu, giọng đầy nước mắt. Bà chạy ra tới giữa sân, và những tiếng súng bên kia sông lập tức lắng bặt. Đúng là bọn Cô-dắc ở bên kia sông đã nhìn thấy bà. Bà vừa ôm được thằng Misatka vừa chạy tới với bà và cùng nó chạy vào trong nhà bếp thì tiếng súng lại vang lên và còn nổ tiếp cho đến khi các chiến sĩ Hồng quân rời khỏi sân nhà Melekhov. Bà Ilinhitna thì thào trao đổi với Natalia vài câu rồi bắt đầu nhào bột, nhưng bà đã không kịp nướng những chiếc bánh. Đến giữa trưa các chiến sĩ Hồng quân của mấy vọng tiêu súng máy bố trí trong thôn bỗng hấp tấp rời bỏ các nhà, rút theo những khe lên núi, kéo theo những khẩu súng máy. Đại đội bố trí trong các chiến hào trên núi cũng tập họp rồi hành quân cấp tốc ra con đường của các vị Ghet-man… Không hiểu sao một bầu không khí trầm lặng uy nghiêm bỗng nhiên trải rộng khắp vùng ven sông Đông. Pháo binh cũng như các khẩu súng máy đều câm tiếng. Những chiếc xe vận tải, những đại đội pháo nối đuôi vô tận trên những đường cái và những con đường đất dùng về mùa hè cỏ mọc um tùm, kéo từ các thôn ra con đường của các vị Ghet-man. Bộ binh và kỵ binh hành quân với đội hình hàng dọc. Bà Ilinhitna đứng trong cửa sổ nhìn ra, thấy những chiến sĩ Hồng quân tụt lại phía sau đang leo theo những mũi đá phấn để lên núi. Bà chùi tay vào tạp dề, làm dấu phép với một vẻ rất là cảm động. - Natalia, con yêu của mẹ, thật là Chúa run rủi! Bọn Đỏ đang xéo đi rồi đấy. - Ồ, mẹ ạ, đấy là họ rút từ trong thôn lên núi, về các chiến hào, rồi đến chiều lại quay về thôi. - Nếu thế thì tại sao chúng nó lại cuống quít kéo nhau chạy thế kia! Quân ta đã nện chúng nó nhừ tử rồi đấy! Cái bọn khốn kiếp đang rút đi rồi! Chúng nó xéo rồi, cái quân phản Chúa! - Bà Ilinhitna mừng rơn, nhưng vẫn lại bắt tay vào nhào bột. Natalia bước ra khỏi phòng ngoài, tới đứng ở ngưỡng cửa, đưa tay lên che mắt nhìn rất lâu trái núi đá phấn tràn trề ánh nắng và những nhánh núi cháy nâu. Trong bầu không khí trầm mặc hùng vĩ của thiên nhiên trước giông bão, đỉnh của những đám mây trắng cuồn cuộn ló ra sau ngọn núi. Vừng mặt trời giữa trưa hun nóng bỏng mặt đất. Chuột đồng kêu chi chí trên bãi chăn nuôi, song những tiếng kêu khẹ khẽ và rầu rĩ ấy lại hoà hợp một cách lạ lùng với tiếng hót yêu đời của mấy con sơn ca. Sau những phát đạn pháo nổ ầm ầm, Natalia cảm thấy mê thích cái cảnh tĩnh mịch nầy đến nỗi nàng cứ đứng yên không động đậy lắng nghe không biết chán tiếng hót ngây thơ của những con sơn ca, tiếng cọt kẹt của cái cần kéo nước giếng, cùng tiếng rì rào của làn gió đầy mùi ngải cứu đắng đắng, vừa hắc lại vừa thơm, làn gió đông trên đồng cỏ thổi rất tự do phóng khoáng. Trong gió có thể ngửi thấy mùi đất đen bị thiêu đốt dưới nắng, mùi hương ngây ngất của tất cả các thứ cỏ héo rũ dưới, nhưng đã thoang thoảng cái mùi của trận mưa sắp ập tới, từ ngoài sông đưa vào một làn hơi ẩm nhạt thếch, vài con én gần là sát đôi cánh nhọn xuống mặt đất, rạch ngang rạch dọc không khí, và trên lưng chừng trời xanh ngắt, ở nơi xa lắc có con chim ưng nhỏ, giống chuyên sống trên đồng cỏ, đang bay liệng, lảng tránh cơn giông tố đã ập tới gần. Natalia đi khắp cái sân một lượt. Những đống vỏ đạn súng trường vàng óng còn rải rác trên lớp cỏ rối nál sau dãy tường bao bằng đá. Những vết đạn còn in lỗ chỗ trên những khung kính và những bức tường quét vôi trắng của ngôi nhà. Nhìn thấy Natalia, một vài con gà mái còn sống sót kêu quang quác bay lên mái nhà thóc. Nhưng thôn xóm được hưởng bầu không khí tịch mịch ve vuốt nầy chẳng mấy chốc. Gió bỗng ập tới, những cánh cửa chớp và cửa ra vào đập rầm rầm trên tường những căn nhà bỏ hoang. Một đám mây mang mưa đá trắng như tuyết ngang ngạnh che hẳn mặt trời rồi từ từ trôi về phía tây. Natalia giữ món tóc bị gió thổi bay tán loạn, bước tới căn bếp dùng về mùa hè và lại nhìn lên núi. Những chiếc xe hai bánh và những người cưỡi ngựa lẻ tẻ đang phóng nhanh trên đường chân trời bị che phủ bởi một làn bụi tim tím mung lung như khói. Thế là họ rút lui thật rồi? - Natalia nghĩ thầm, trong lòng nhẹ nhõm hẳn đi. Nàng còn chưa kịp bước vào phòng ngoài thì từ một nơi nào đó rất xa, sau ngọn núi bỗng vang lên những tiếng hoả lực pháo binh rền trầm trầm như sấm, và tựa như làm hồi âm cho những phát đạn phá, ba hồi chuông hân hoan của hai toà nhà thờ ở Vosenskaia lập lờ truyền tới theo mặt sông Đông. Bên kia sông, những tên Cô-dắc ùn ùn kéo nhau trong rừng ra. Chúng đem thuyền ra sông, đám thì kéo, đám thì khiêng rồi thả xuống nước. Những tay chèo đứng ở đuôi thuyền bơi rất nhanh. Chừng ba chục chiếc thuyền con đưa nhau đổ về thôn. - Natalia yêu quý? Con yêu của mẹ? Bên ta đang về kia kìa? - Bà Ilinhitna đang chạy bổ trong bếp ra, khóc nức nở, nói líu nhíu. Natalia ôm chầm lấy thằng Misatka, bế bổng nó lên. Mắt long lanh cháy rực, giọng hổn hển không ra hơi, nàng nói với nó: - Con nhìn đi, con yêu của mẹ, con nhìn kỹ mà xem, mắt con tinh hơn mắt mẹ… Chưa biết chừng có cả cha con trong đám Cô-dắc đấy Con không nhận ra à? Không phải là cha con đang đứng trên chiếc thuyền đầu tiên à? Ô con nhìn không đúng chỗ rồi…? Trên bến đò mấy mẹ con bà cháu chỉ đón được một mình ông Panteley Prokofievich gầy gò hốc hác. Trước tiên ông già hỏi xem mấy con bò, thóc lúa và các thứ tài sản khác có còn nguyên vẹn hay không, rồi ông khóc thút thít ôm hôn hai đứa cháu. Nhưng đến khi ông hấp tấp khập khiễng bước vào trong sân ngôi nhà thân yêu thì ông tái mặt quỳ sụp xuống, đưa rộng tay làm dấu phép, rồi rạp đầu về phía đông làm lễ, cái đầu bạc phơ mãi không ngửng lên khỏi mặt đất bị hun bỏng. 5. Ngày mồng mười tháng Sáu, dưới quyền chỉ huy của tên tướng Sekrechev, binh đoàn kỵ binh của Quân đội sông Đông gồm ba ngàn quân đi ngựa, phối thuộc có sáu khẩu đội pháo ngựa kéo và mười tám khẩu súng máy ngựa thồ, đã giáng một đòn ác liệt, chọc thủng mặt trận ở gần thị trấn Ust-Belokalitvenskaia, rồi tiến dọc theo đường sắt về hướng trấn Kazanskaia. Sau đó hai ngày, vào lúc sáng sớm, một đội trinh sát gồm toàn sĩ quan của trung đoàn sông Đông số 9 đã tiếp xúc với vọng tiêu dã chiến của quân phiến loạn ở gần sông Đông. Bọn Cô-dắc trông thấy kỵ binh bèn bỏ chạy xuống khe núi, song tên đại uý Cô-dắc chỉ huy đội trinh sát nhìn cách ăn mặc đã nhận ra quân phiến loạn. Hắn bèn lấy chiếc khăn tay buộc vào mũi gươm vung lên và gào lên oạng oang: - Người mình đấy! Đừng chạy nữa, bà con đồng hương ơi! Đội trinh sát mạnh dạn cho ngựa phi thẳng tới cái vách đứng. Tên đội trưởng vọng tiêu của quân phiến loạn, một lão quản già râu tóc bạc phơ bước ra, vừa đi vừa cài khuy chiếc áo ca-pốt đẫm sương mai. Tám tên sĩ quan xuống ngựa. Tên đại uý bước tới trước mặt lão quản, ngả chiếc mũ cát-két màu cứt ngựa, vành mũ đính một cái quân hiệu của sĩ quan đã bạc trắng. Hắn mỉm cười nói: - Chà, chào bà con đồng hương! Nào, chúng ta hãy theo tập quán Cô-dắc cổ truyền hôn nhau cái đã. - Hắn hôn chéo miệng lão quản, lấy khăn tay chùi môi chùi ria, rồi cảm thấy những tên cùng đi đang nhìn mìn có vẻ chờ đợi, bèn mỉm một nụ cười đầy ý nghĩa, hỏi tách bạch từng tiếng: - Thế nào, các anh tỉnh ngộ rồi à? Người mình với nhau thì vẫn tốt hơn bọn Bolsevich chứ? - Bẩm quan lớn, đúng thế đấy ạ! Chúng tôi đã lấy công chuộc tội. Chiến đấu ba tháng ròng, không ngờ vẫn còn được trông thấy các ngài! - Tốt lắm, có chậm một chút, nhưng dù sao các anh cũng đã thông minh ra rồi. Thôi không nói chuyện đã qua nữa. Kẻ nào nhớ hờn cũ đui hai con mắt. Các anh là dân trấn nào thế? - Bẩm quan lớn, trấn Kazanskaia! - Đơn vị của các anh ở bên kia sông Đông à? - Đúng thế đấy ạ! - Bọn Đỏ bỏ sông Đông đã rút về đâu rồi? - Chúng nó chạy ngược dòng sông, có lẽ tới làng Doneskaia. - Kỵ binh của các anh vượt sông chưa? - Bẩm chưa ạ! - Tại sao thế? - Bẩm quan lớn, tôi không thể biết được. Chúng tôi là những người đầu tiên sang bờ bên nầy. - Ở đây trước kia chúng nó có pháo binh không? - Trước kia có hai đại đội pháo. - Chúng nó rút từ bao giờ? - Đêm qua. - Đáng lẽ phải truy kích ngay mới đúng. Chà, anh em thật là những thằng chảy thây! - Tên đại uý nói giọng trách móc rồi quay về với con ngựa của hắn, lấy trong túi dết dã chiến ra một quyển sổ tay và tấm bản đồ. Lão quản vẫn đứng cứng người, hai tay áp trên đường chỉ quần. Bọn Cô-dắc đứng túm tụm sau lưng lão, cách lão hai bước. Chúng nhìn những tên sĩ quan, những cái yên, những con ngựa thuộc giống rất tốt nhưng chạy đã mệt nhoài sau chặng đường, trong lòng rạo rực vì một cảm giác hỗn hợp, kể ra cũng có phần sung sướng, nhưng không hiểu sao vẫn canh cánh không yên. Mấy tên sĩ quan mặc áo quân phục cổ bẻ kiểu Anh may rất vừa người, có đeo lon và quần đi ngựa rộng thùng thình. Chúng làm những động tác cho đỡ tê chân, đi đi lại lại bên những con ngựa, thỉnh thoảng lại liếc nhìn bọn Cô-dắc. Không còn tên nào đeo những cái lon làm lấy, vẽ bằng bút chì hoá học như mùa thu năm 1918 nữa. Giầy ủng, yên ngựa, bao đạn, ống nhòm, những khẩu súng kỵ binh mắc vào yên, tất cả đều mới toanh và không phải là đồ làm ở nước Nga. Chỉ một tên sĩ quan coi vẻ nhiều tuổi nhất mặc chiếc áo Trec-ket may bằng một thứ dạ rất mịn màu lam, đầu đội mũ Kuban bằng lông cừu non Bukhara màu vàng óng, chân đi ủng cao ống không có đế, kiểu miền núi. Hắn là tên đầu tiên lại gần bọn Cô-dắc. Hắn nhẹ nhàng bước tới, lấy trong túi đựng bản đồ ra một bao thuốc lá rất đẹp in chân dung của tên Anbe, vua nước Bỉ, mời bọn Cô-dắc. - Hút đi, anh em! Bọn Cô-dắc nhao nhao đến lấy thuốc một cách thèm khát. Mấy tên sĩ quan kia cũng bước tới: - Thế nào, dưới chế dộ của bọn Bolsevich các anh đã sống ra sao? - Một tên thiếu uý đầu to vai rộng hỏi. - Cũng chẳng dễ chịu lắm đâu… - Một gã Cô-dắc mặc chiếc áo choàng cũ bằng dạ thô trả lời dè dặt. Gã đưa điếu thuốc lên miệng hút lấy hút để, hai con mắt cứ dán vào đôi ghệt cao chằng dây đến đầu gối, bó chặt hai bắp chân to đần đẫn của tên thiếu uý. Gã Cô-dắc nầy đi một đôi ủng ngắn vừa mòn vừa rách vất vả lắm mới giữ cho khỏi bung ra. Đôi bít tất len trắng mạng rất nhiều chỗ lồng ra ngoài hai ống quần cũng rách bươm. Vì thế cặp mắt như mất hồn của gã không lúc nào rời đôi giày da kiểu Anh, đế rất dày, loại đi không mòn được, ô-dê bằng đồng sáng nhoáng. Gã không nhịn được nữa, bèn thật thà nói lên lòng khâm phục của mình. - Giầy ủng của các ngài tốt thật! Nhưng tên thiếu uý kia đâu muốn chuyện trò hoà nhã. Hắn nói giọng khiêu khích cay độc: - Các anh đã đem những đồ trang bị của nước ngoài đổi lấy thứ dép làm bằng vỏ cây của Moskva, vì thế bây giờ đừng thèm khát những thứ của người khác nữa! - Chúng tôi đã phạm lầm lỗi. Chúng tôi đã có tội… - Gã Cô-dắc luống cuống trả lời, đưa mắt nhìn những tên cùng bọn, mong có sự ủng hộ của bọn kia. Tên thiếu uý vẫn tiếp tục trách mắng, giọng móc mói: - Đầu óc các anh thật là đầu óc con bò. Cái loài bò, bao giờ nó cũng như thế cả: đầu tiên đi một bước, rồi đứng lại ngẫm nghĩ. Thế là nhầm mất rồi! Nhưng dạo mùa thu, hồi các anh mở toang mặt trận cho chúng nó vào thì các anh nghĩ ngợi những gì hử? Muốn làm chính uỷ à? Chà, những thằng bảo vệ Tổ quốc như các anh! Thấy tên thiếu uý nói năng đã quá mức, một tên trung uý còn trẻ khẽ rỉ tai hắn. "Thôi đi, cậu nói thế đủ rồi đấy!" Tên kia đưa chân di điếu thuốc, nhố toẹt một bãi rồi ngật ngưỡng đi tới chỗ những con ngựa. Tên đại uý trao cho hắn một mẩu giấy và khẽ nói không biết những gì. Tên thiếu uý nhảy phắt lên ngựa, cái thân hình khá nặng nề của hắn bỗng trở nên nhẹ nhàng rất là bất ngời, rồi hắn quay ngoắt con ngựa, cho nó phi về phía tây. Mấy tên Cô-dắc lúng túng đứng đực như phỗng. Tên đại uý bước tới, trầm cái giọng nam trung sang sảng của hắn, vui vẻ hỏi: Từ đây đến thôn Varvarinsky còn bảo nhiêu vec-xta anh em nhỉ? - Ba mươi nhăm, - Vài gã Cô-dắc đồng thanh trả lời. - Tốt lắm. Bây giờ thế nầy nhé, anh em đồng hương ạ. Anh em hãy về truyền đạt ngay với các thủ trưởng của anh em, bảo phải lập tức cho các đơn vị kỵ binh vượt sông sang ngay bên nầy, không được chậm trễ một phút nào. Một sĩ quan của chúng tôi sẽ cùng anh em ra tới chỗ vượt sông và sẽ dẫn đường cho kỵ binh. Còn bộ binh thì sẽ tiến về hướng Kazanskaia theo đội hình hành quân. Đã rõ chưa? Nào thôi, cứ như người ta thường nói là vòng bên trái và cầu Chúa che chở, đi đều… bước! Bọn Cô-dắc đi túm tụm thành một đám xuống núi. Chúng ngậm tăm đi chừng một trăm xa-gien như theo một lời ước định từ trước rồi bỗng nhiên gã Cô-dắc nhỏ bé xấu xí mặc chiếc áo choàng nông dân, chính cái gã vừa bị tên thiếu uý nóng tính nói móc; lắc đầu thở dài một cách đau khổ. - Thế là hai bên hợp nhất với nhau rồi, anh em nhỉ… Một tên khác nói thêm ngay, giọng sôi nổi: - Nhưng củ cải đen cũng chẳng ngọt gì hơn củ cải trắng đâu? Nói xong gã văng tục một tiếng đầy ý nghĩa. 6. Ngay sau khi những tên ở Vosenskaia được tin về cuộc rút lui hấp tấp của các đơn vị Hồng quân, Grigori Melekhov đem hai trung đoàn kỵ binh bơi qua sông Đông. Rồi chàng phái những đội trinh sát mạnh sục sạo phía trước và tiến về phía nam. Chiến đấu đang diễn ra sau ngọn gò ven sông. Tiếng hoả lực pháo binh rền như sấm hoà lẫn vào nhau, nghe cứ như âm từ dưới đất lên. - Xem ra bọn Kadet nầy không cần phải dè sẻn đạn pháo! Chúng nó tổ chức cả một màn hoả lực di động! - Một tên chỉ huy cho ngựa tới gần Grigori, nói đầy vẻ thán phục. Grigori chỉ nín thinh. Chàng cưỡi ngựa tiến trên đầu đội hình hành quân hàng dọc, và luôn luôn chú ý quan sát chung quanh. Từ bờ sông Đông tới thôn Batsky, suốt trên chặng đường dài ba vec-xta, dân phiến loạn đã để lại hàng ngàn chiếc xe vận tải lớn nhỏ. Khắp khu rừng, chỗ nào cũng có những đồ đạc vứt bỏ ngổn ngang: hòm xiểng, ghế dựa gãy nát, quần áo, đồ thắng ngựa, máy khâu, những túi thóc, tất cả những gì lòng tham lam tiếc của của các chủ hộ đã bắt họ phải vơ vét và mang theo trong khi rút lui ra sông Đông. Có những chỗ trên đường cái, thóc vàng bị đổ tung tóe ngập đến đầu gối. Ngay đấy còn còng queo những xác bò ngựa thối hoăng, trương phềnh, rữa ra không còn hình thù gì nữa. - Làm ăn thế nầy thì khá thật đấy! - Grigori sửng sốt kêu lên. Chàng bỏ mũ, cố nín thở, cho con ngựa đi rất cẩn thận vòng qua một đống thóc kết thành bánh như một nấm kurgan nhỏ, bên trên có một lão già nằm dang chân dang tay với cái mũ cát két Cô-dắc và chiếc áo choàng bằng dạ thô đẫm máu. Lão già đã giữ của đến cùng! Ma nào dẫn lối, quỷ nào đưa đường lão đến bỏ xác nơi đây? - Một tên trong đám Cô-dắc nói giọng thương hại. - Có lẽ tiếc quá không muốn bỏ lúa mạch lại… - Nào thôi, cho chuyển sang nước kiệu đi! Lão khắm lên không chịu được nữa rồi. Nào! Đi đi kìa! Những hàng phía sau có giọng phẫn nộ kêu lên. Thế là đại đội chuyển sang nước kiệu. Không ai chuyện trò gì nữa. Trong rừng chỉ còn nghe thấy tiếng rầm rập của hàng ngàn vó ngựa vang lên rất hoà hợp với tiếng đồ trang bị gọn ghẽ của lính Cô-dắc đập vào nhau lách cách. Trận đánh đang diễn ra rất gần trang trại nhà Litnhitki. Những người lính Hồng quân chen nhau chạy theo cái khe khô cạnh Yagonyoe. Đạn ghém nổ tung tóe trên đầu họ, súng máy nhả đạn sau lưng họ. Trong khi đó làn sóng xung phong của trung đoàn kỵ binh Kalmys toả ra trên ngọn gò, chặn đường rút lui của họ. Grigori cùng hai trung đoàn của chàng tới nơi thì trận chiến đấu đã kết thúc. Hai đại đội Hồng quân yểm hộ cho những đơn vị rời rạc và đoàn xe vận tải của sư đoàn 14 rút lui theo đèo Vosenskaia đã bị trung đoàn Kalmys số 3 đánh tan và tiêu diệt toàn bộ. Từ trên gò Grigori đã trao quyền chỉ huy cho Ermakov. Chàng bảo hắn: - Ở đây không có chúng ta họ cũng đã làm xong việc rồi. Cậu cứ đến chỗ tập kết. Để mình tạt vào trang trại một lát. - Anh có việc gì mà cần thế? - Ermakov ngạc nhiên. - Chà, nói thế nào với cậu bây giờ. Hồi còn trẻ mình có sống ở đây đã làm công cho nhà chúng nó, vì thế cũng muốn nhìn qua nơi cũ một cái. Grigori gọi Prokho rồi rẽ ngựa về hướng Yagonyoe. Sau khi đi được nửa vec-xta, chàng nhìn thấy bên trên đại đội đi đầu có một lá cờ trắng giơ rất cao đập phần phật trước gió. Không biết có gã Cô-dắc nào lo xa đã kéo nó lên. "Cứ như đi đầu hàng để làm tù binh?" - Grigori nhìn đội hình kỵ binh hàng dọc trườn xuống cái khe khô chậm chạp như miễn cưỡng, bất giác nghĩ thầm với cả một tâm trạng lo lắng, và không hiểu sao cảm thấy khổ não. Trong khi đó binh đoàn kỵ binh của tên tướng Sekrechev đang cho ngựa chạy nước kiệu qua đồng cỏ tiến thẳng từ phía trước lại. Một cảm giác âu sầu và trống rỗng tràn ngậm tâm hồn Grigori khi chàng cho ngựa đi qua cái cổng đổ nát tiến vào sân trang trại cỏ dại um tùm. Yagonyoe đã khác hẳn xưa, không thể nhận ra được nữa. Bất cứ chỗ nào cũng in rõ dấu vết khủng khiếp của tình trạng thiếu người trông nom và sự tàn phá. Ngôi nhà xưa kia đẹp đẽ nhường nào bây giờ nom ảm đạm hẳn đi và như thấp xuống. Cái mái nhà lâu lắm không sơn lại hiện lên vàng vàng với những đám hoen rỉ, vài đoạn máng nước gãy rơi xuống nằm lăn lóc bên thềm nhà, những cánh cửa chớp tuột bản lề thõng xuống xiêu vẹo, gió rú vù vù lùa vào những khung kính vỡ trên các cửa sổ và từ bên trong đã xông ra cái mùi mốc meo hăng hắc của một nơi không có người ở. Góc nhà phía đông và thềm nhà đã bị một quả đạn pháo ba điu-im phá nát. Ngọn cây phong bị pháo bắn đổ chui qua một khung cửa sổ kiểu Vơnidơ trên dãy hành lang. Người ta vẫn để cái cây nằm như thế, gốc cây bị vùi dưới một đống gạch lở từ trên nền nhà xuống. Một cây hốt bố dại mọc nhanh như thổi đã bò lan quanh những cành khô của cây phong, bám lên những miếng kính cửa sổ còn nguyên thành những hình kỳ lạ và đã men tới đường gờ trang trí dưới mái nhà. Thời gian và mưa nắng đã cho thấy kết quả công việc của nó. Các căn nhà quanh sân xiêu vẹo hẳn đi, nom cứ như nhiều năm rồi không có bàn tay con người chăm sóc. Bức tường đá trong tàu ngựa bị nước mưa xuân xối vào đã đổ, một cơn bão đã tốc mái nhà để xe, chỉ vài chỗ còn vương những đám rơm lợp nhà mục nát trên những vi kèo và những cái dầm trắng bệch như mặt người chết. Ba con chó săn đã mất thói quen sống với người, nằm ngoài nhà đầy tới Vừa thấy có người, cả ba nhẩy chồm dậy, khẽ gầm gừ lẩn vào phòng ngoài. Grigori cho ngựa đi tới khung cửa sổ mở toang ở đầu chái nhà. Chàng khom người trên yên, hỏi to: - Trong nhà có ai còn sống không? Trong chái nhà lặng thinh giờ lâu, rồi một giọng đàn bà khê đặc: - Chờ một chút nhé, lạy Chúa tôi! Tôi ra ngay đây. Mụ Lukeria già sọm lệt sệt kéo lê hai bàn chân đất, bước ra hàng hiên. Bị chói nắng, mụ nheo nheo hai con mắt, nhìn Grigori rất lâu. - Thím không nhận ra tôi nữa à, thím Lukeria? - Grigori xuống ngựa hỏi. Mãi lúc ấy khuôn mặt rỗ nhằng rỗ nhịt của mụ Lukeria mới có cái gì run run động đậy, và một vẻ hết sức xúc động đã thay thế cái thẫn thờ đần độn vừa nãy. Mụ khóc oà lên, mãi chẳng nói được nên Grigori buộc ngựa, kiên nhẫn đứng chờ. - Tôi thật chẳng còn hồn vía gì nữa. Cầu Chúa đừng cho chúng nó dẫn xác tới đây… - Mụ Lukeria đưa chiếc tạp dề bẩn thỉu bằng vải thô lên lau nước mắt trên má, kể lể - Tôi cứ ngỡ chúng nó lại kéo đến… Chao ôi, anh Griska yêu quý, những chuyện xảy ra ở đây… kể thế nào cho hết được! Chỉ còn một mình tôi ở lại… - Thế cụ Xaska đâu? Rút lui theo nhà chủ rồi à? - Nếu rút lui thì may ra đã còn sống… - Chẳng nhẽ cụ chết rồi sao? - Chúng nó đã giết ông cụ… Nằm dưới hầm nhà đến nay đã được ba ngày… Đáng là phải đem ông cụ đi chôn, nhưng tôi lại đang ốm… Phải cố lắm mới đứng dậy được… Mà xuống dưới ấy, xuống chỗ người chết thì tôi sợ chết đi được… - Vì sao mà chúng nó giết? - Grigori hỏi giọng âm thầm, mắt cứ dán xuống đất. - Chúng nó đã giết ông cụ vì con ngựa cái… Cụ chủ và ông bà chủ của chúng ta đã cuống cuồng rút chạy. Chỉ mang theo tiền nong, còn bao nhiêu của cải đều để lại gần hết cho tôi giữ - Giọng mụ Lukeria chuyển sang thầm thì - Tôi đã giữ cẩn thận từng cái kim sợi chỉ? Các thứ chôn dưới đất đến bây giờ vẫn còn nguyên đấy… Ngựa thì chỉ mang theo con ngựa giống giống Orlovsky, các con khác đều trao cho cụ Xaska. Cuộc phiến loạn vừa nổ ra thì cả bọn Cô-dắc lẫn bọn Đỏ đều đến lấy ngựa. Con Vikho, con ngựa giống lông màu huyền ấy, có lẽ anh còn nhớ chứ gì? Nó đã bị bọn Đỏ lấy đi mất hồi đầu mùa xuân. Chúng nó hì hục mãi mới đóng được yên. Vì từ lúc lọt lòng nó có bị đóng yên bao giờ đâu. Nhưng bọn kia cũng chẳng được cưỡi nó, chẳng được nhởn nhơ nghênh ngáo trên lưng nó bao lâu Một tuần sau anh em Cô-dắc trấn Karginskaia có qua đây kể chuyện lại. Họ đã chạm trán với bọn Đỏ trên một ngọn gò, hai bên bắt đầu bắn nhau. Bên Cô-dắc có một con ngựa cái nhỏ, cũng thường thôi, giữa lúc đó con ngựa cái tự nhiên hí lên. Thế là anh có biết không con Vikho đã đưa luôn thằng Hồng quân sang chỗ đám Cô-dắc! Nó cứ chạy lao tới với con ngựa cái, còn cái thằng cưỡi trên lưng nó thì chẳng làm thế nào ghìm lại được. Đến khi thằng ấy thấy rằng nó không làm thế nào trị nổi con ngựa giống, nó bèn nhảy xuống giữa lúc con Vikho đang phi như bay. Nhảy thì cũng có nhảy, nhưng một chân lại không rút được khỏi bàn đạp. Thế là con Vikho đã lôi nó tới nộp cho anh em Cô-dắc. - Cừ thật! - Prokho thích thú kêu lên. - Bây giờ một ông "chủng (chuẩn) uý" ở Karginskaia đang cưỡi con ngựa giống ấy đấy. - Mụ Lukeria chậm rãi kể tiếp. - Ông ấy hứa rằng hễ cụ chủ trở về là sẽ đem con Vikho trả về tàu ngựa. Thế là có bao nhiêu ngựa đều bị lấy đi sạch, chỉ còn độc một con ngựa cái chạy nước kiệu Strelka, con của con Xugienaia lấy giống con Prime ấy mà. Nó đang có mang, vì thế chưa bị đứa nào động tới. Nó vừa đẻ con chưa được bao lâu. Cụ Xaska thương con ngựa con lắm, thương ơi là thương, không thể nào nói được cụ thương nó như thế nào đâu! Ông cụ nâng niu nó trên tay, dùng bình sữa cho nó bú sữa và một thứ thuốc sắc bằng một thứ cỏ gì ấy, cho bốn chân nó thêm cứng cỏi. Nhưng rồi tai hoạ ập tới… Con ngựa vừa sinh được ba ngày thì có ba thằng cưỡi ngựa tới lúc trời vừa sẩm tối. Ông cụ đang cắt cỏ trong vườn. Chúng nó quát rầm lên gọi cụ: "Nầy cái lão kia, lại đây?". Ông cụ quẳng cái hái đấy, bước tới chào chúng nó. Nhưng chúng nó chẳng thèm ngó qua cụ một cái, vẫn cứ uống sữa và hỏi: "Có ngựa không?". Ông cụ trả lời: "Cũng có một con nhưng đối với công việc chiến trận của các bác nó chẳng được tích sự gì đâu. Nó là ngựa cái, vừa sinh nở còn cho con bú. Thằng hung hãn nhất trong bọn quát rầm lên: "Việc nầy không cần đến đầu óc của lão! Dắt con ngựa cái ra đây, thằng quỷ già nầy! Con ngựa của tôi bị loét cả lưng rồi, phải thay con khác ngay đây? Đáng lẽ ông cụ phải nghe theo chúng nó và đừng cố giữ lấy con ngựa cái, nhưng chính anh cũng biết tính khí ông cụ như thế nào rồi chứ gì… Ngay đối với cụ chủ, ông cụ cũng thường chẳng chịu lép nữa là. Chắc hẳn anh còn nhớ đấy chứ? - Thế ông cụ nhất quyết không cho à? - Prokho hỏi xen vào câu chuyện. - Chà, trong chuyện nầy thì không cho thế nào được? Ông cụ chỉ nói với chúng nó: "Trước các bác, đã có nhiều tay kỵ binh tới đây, dắt đi hết cả ngựa, nhưng họ đều biết thương con ngựa nầy, còn như các bác…". Bọn kia đều đứng cả dậy và làm ầm lên: "À mày làm tay sai cho thằng địa chủ, mầy cố giữ nó cho thằng địa chủ phải không? Thế rồi chúng nó lôi ông cụ ra chỗ khác… Một thằng dắt con ngựa cái ra, bắt đầu đóng yên, nhưng con ngựa con cứ sán tới vú mẹ. Ông cụ bèn van chúng nó: "Các bác làm ơn làm phúc, đừng có lấy đi! Còn con ngựa con thì làm thế nào bây giờ?" "Làm thế nầy nầy?" - một thằng khác nói xong đuổi luôn con ngựa con ra khỏi con ngựa mẹ, rồi hạ khẩu súng trường trên vai xuống, bắn nó một phát. Ngay đến tôi cũng chảy cả nước mắt… Tôi bèn chạy đến van xin chúng nó và nắm lấy ông cụ, định kéo cụ ra chỗ khác để khỏi xảy ra việc gì chẳng lành. Nhưng cụ cứ nhìn con ngựa con, nom thật đáng sợ: râu cụ rung lên, mặt trắng bệch như bức tường. Cụ bảo: "Nếu thế thì mầy bắn cả tao nữa đi, đồ chó đẻ!"; Rồi cụ xông đến chỗ thằng kia, bám chặt lấy nó, không để cho nó đóng yên. Thế là chúng phát khùng, gìết mất ông cụ trong cơn tức giận. Thấy chúng bắn chết ông cụ, tôi hoá điên hoá ngộ… Đến lúc nầy tôi vẫn còn chưa biết nên làm thế nào với ông cụ bây giờ. Đáng là phải đóng cho cụ một cái quan tài hẳn hoi, nhưng việc ấy đâu phải là đàn bà làm được? - Lấy cho tôi hai cái xẻng và một tấm vải thô. - Grigori nói: - Anh định đem ông cụ đi chôn à? Prokho hỏi. - Phải. - Đúng là anh cứ tự mình làm nhọc thân mình, anh Grigori Panteleevich! - Cứ để tôi đi kiếm ngay mấy thằng Cô-dắc. Chúng nó sẽ vừa đóng quan tài vừa đào hố chôn ông cụ cho thật chu đáo… Xem ra Prokho không muốn bận tay đi chôn cất một ông già mà hắn cũng chẳng biết là ai, nhưng Grigori kiên quyết gạt phắt ý kiến của hắn. - Chúng mình sẽ tự tay đào huyệt chôn ông cụ. Cụ già nầy là một người rất tốt. Cậu cứ ra vườn, chờ mình bên bờ ao, để mình vào thăm ông cụ vừa mất… Cụ Xaska đã kiếm được nơi yên nghỉ cuối cùng ngay dưới cây tiêu huyền cành đâm ngang dọc, bên cái ao mọc đầy súng, nơi trước kia cụ đã chôn đứa con gái nhỏ của Grigori và Acxinhia. Hai người liệm cái thân hình khô quắt của cụ trong một tấm vải thô sạch sẽ nặc mùi hốt bố, đặt cụ xuống huyệt rồi lấp đất lên. Bên cạnh nấm mồ nhỏ xíu đã thấy mọc thêm một nấm mồ nữa, chất đất sét ẩm mới đào lên được nện chắc bằng đế ủng sáng nhấp nhoáng nom rất vui mắt. Trong lòng bị đè nặng bởi những hồi ức, Grigori nằm lên lớp cỏ, ngay gần cái nghĩa địa nhỏ xiết bao thân thương và ngắm giờ lâu bầu trời xanh ngắt trải rộng một cách hùng vĩ bên trên. Gió lang thang ở một chỗ nào đó trên khoảng không mênh mông, cao ngất, những đám mây lạnh giá thấp thoáng dưới ánh mặt trời đang chập trờn trôi đi Nhưng sự sống vẫn diễn ra sôi sục trên mảnh đất và tiếp nhận con người yêu đời, yêu ngựa và yêu rượu là cụ Xaska: trên cánh đồng cỏ lan tới sát khu vườn như làn nước lũ xanh mướt, trong những bụi gai mọc um tùm bên dãy cọc hàng rào đóng quanh cái sân đập lúa cũ, luôn luôn vang lên tiếng những con cun cút đánh nhau loạt xoạt, tiếng chuột đồng kêu chi chí, tiếng ong đực bay rùng rùng, tiếng cỏ xào xạc dưới làn gió ve vuốt, tiếng sơn ca hót ngân trong lớp sương mù tuôn cuồn cuộn, và ở một nơi rất xa có một khẩu súng máy nổ trầm trầm, dai dẳng và hung hãn để khẳng định cái vĩ đại của con người trong thiên nhiên. 7. Tên tướng Sekrechev đã đến Vosenskaia cùng bọn sĩ quan tham mưu và một đại đội vệ binh Cô-dắc hộ tống của riêng hắn. Hắn đã được đón tiếp bằng bánh mì và muối trong tiếng chuông nhà thờ gióng dả. Cả hai toà nhà thờ đều kéo chuông suốt ngày như trong lễ Phục sinh. Những tên Cô-dắc vùng hạ du qua lại trong các phố trên những con ngựa sông Đông thon đẹp nhưng gầy nhom sau chặng đường dài. Trên vai chúng đều đính những chiếc lon xanh lè đầy vẻ khiêu khích. Bọn liên lạc đứng túm tụm trên cái bãi cạnh ngôi nhà của một lão lái buôn, nơi tên tướng Sekrechev ở. Chúng cắn hạt dưa tán tỉnh những cô gái thị trấn lượn qua với quần lành áo tốt. Đến giữa trưa có ba tên lính Kalmys cưỡi ngựa giải chừng mười lăm tù binh Hồng quân đến nhà tên tướng đang ở. Phía sau có một chiếc xe vận tải chở đầy kèn. Cách ăn vận của các chiến sĩ Hồng quân nầy rất khác thường: quần vải bông xám, áo vét cũng vải bông xám, cổ tay áo "lơvê" viền đỏ. Một tên Kalmys có tuổi cho ngựa tới trước mặt mấy gã liên lạc đang đứng vô công rồi nghề trước cổng nhà. Hắn xuống ngựa, đút cái tẩu bằng đất nung vào túi. - Đám tao giải tới một lũ thổi kèn đồng của bọn Đỏ. Mày hiểu chứ? - Chuyện ấy thì có gì mà hiểu với không hiểu? - Một gã liên lạc mặt hổ phù vừa trả lời bằng một giọng lười nhác vùa nhổ những vỏ hướng dương vào ủng của tên Kalmys. - Có gì hay không có gì cũng mặc, mày nhận tù binh đi đã. Hốc lắm vào, mặt phị ra đến thế kia, chớ có thừa lời? - Thôi thôi! mày quá lắm mồm rồi đấy, cứ như cái đuôi con cừu đực! - Gã liên lạc nổi giận nhưng vẫn vào báo cáo về chuyện tù binh. Từ trong cổng bước rà một tên đại uý béo phục phịch mặc áo bông màu nâu kiểu Tarta bó chặt lấy người. Hắn dạng hai chân to đần đẫn, chống nạnh như người trong tranh, đưa mắt nhìn tốp chiến sĩ Hồng quân đang đứng túm tụm với nhau, rồi trầm giọng hỏi: - Chúng mày thổi kèn đánh trống mua vui cho bọn chính uỷ có phải không, bọn lưu manh ở Tambob nầy? Mò đâu ra những bộ quân phục màu xám nầy hử? Lột được của quân Đức phải không? - Không đâu ạ, - Chiến sĩ Hồng quân đứng trước cả đám vừa trả lời vừa nháy mắt lia lịa. Rồi anh ta liến thoắng nói rõ thêm - Ngay từ thời Kerensky đội quân nhạc của chúng tôi đã mặc bộ đồng phục nầy rồi, từ trước cuộc tấn công tháng Sáu… Và chúng tôi cứ thế mặc cho đến bây giờ… - Mày sẽ còn mặc cho tao xem! Mày cứ mặc đi! Chúng mày cứ mặc đi cho tao xem? - Tên đại uý hất chiếc mũ lông kiểu Kuban may rất thấp ra sau gáy, để lộ vết sẹo đỏ tía chưa lành hẳn trên cái đầu trọc lốc, rồi hắn xoay người trên đôi ủng cao gót đã mòn vẹt, quay mặt về phía tên Kalmys - Quân dị giáo khốn nạn, mày giải chúng nó đến đây làm gì hử? Trên đường đi mày không cho chúng nó về chầu tổ được hay sao? Mặt tên lính Kalmys tự nhiên trở nên căng thẳng, hắn kéo rất nhanh hai cái chân vòng kiềng vào với nhau rồi trả lời, tay vẫn không rời lưỡi trai của chiếc mũ cát-két màu cứt ngựa: - Đại đội trưởng đã ra lệnh cần phải giải tới đây. - "Cần phải giải tới đây!" - Tên đại uý ăn vận diêm dúa nhại lại rồi bĩu cặp môi mỏng dính đầy vẻ khinh bỉ, nặng nề dận hai cái chân phù, núng nính cặp mông to tầy dành, đi qua các chiến sĩ Hồng quân. Hắn nhìn họ rất lâu, rất cẩn thận, chẳng khác gì một tên lái ngựa xem ngựa. Bọn liên lạc khẽ cười khúc khích. Nhưng mặt của những tên lính Kalmys áp giải vẫn giữ nguyên cái vẻ phớt lạnh thường ngày. - Mở cổng ra! Đuổi chúng nó vào trong sân! - Tên đại uý ra lệnh. Đám chiến sĩ Hồng quân và chiếc xe bò chất bừa bộn các thứ kèn trống đứng lại bên thềm nhà. - Thằng nào là nhạc trưởng? - Tên đại uý châm thuốc hút rồi hỏi. - Không còn có nhạc trưởng nữa rồi. - Vài người đồng thanh trả lời. - Thế nó đâu? Chạy mất rồi à? - Không, bị chết rồi. - Như vậy cũng chẳng sao. Không có nó chúng mày vẫn chơi được! Nào, lấy kèn trống xuống đi! Các chiến sĩ Hồng quân đi tới bên chiếc xe bò. Xen lẫn những tiếng chuông kéo liên hồi luôn luôn ám ảnh bên tai, trong sân bắt đầu rụt rè vang lên vài tiếng kèn đồng tí toe, chẳng tiếng nào ăn với tiếng nào. - Chúng mày chuẩn bị đi! Nào làm một bài "Cầu Chúa che chở vua Nga"[303] Toán chiến sĩ quân nhạc nín thinh đưa mắt nhìn nhau. Không một ai bắt đầu thổi. Bầu không khí chết lặng nặng nề kéo dài đến một phút, rồi trong bọn có một người hai chân không giầy không ủng nhưng xà cạp cuốn rất cẩn thận, nhìn xuống đất nói: - Trong đám chúng tôi không có ai biết chơi quốc ca cũ… - Không đứa nào à? Hay thật… Nào, bay đâu? Nửa trung đội liên lạc mang súng trường ra đây! Tên đại uý đập mũi ủng đánh nhịp nhưng không thành tiếng. Từ trong hành lang vang ra tiếng lách cách của những khẩu súng trường kỵ binh. Bọn liên lạc tập hợp, một bầy se sẻ ríu rít trong đám dương hòe mọc um tùm sau mảnh vườn nhỏ. Trong sân nồng nặc cái mùi nóng hổi của những cái mái tôn trên các nhà kho và mùi mồ hôi người chua loét. Tên đại uý rời khỏi chỗ dãi nắng bước vào bóng rợp. Giữa lúc ấy người lính kèn chân đất âu sầu đưa mắt nhìn các bạn của anh và khẽ nói: - Bẩm quan lớn! Tất cả anh em chúng tôi đều là lính kèn mới. - Chúng tôi chưa có dịp được chơi những bài cũ… Phần nhiều chỉ dạo những bản hành khúc cách mạng… Thưa quan lớn! Tên đại uý lơ đãng quay quay đều cái dây da nhỏ rua hoa, không nói gì. Bọn liên lạc đã tập hợp bên thềm, sẵn sàng chờ lệnh. Bỗng từ những hàng sau có một người lính kèn có tuổi, mắt bị mộng trắng, vội vã len qua đám chiến sĩ Hồng quân bước ra. Anh ta húng hắng ho rồi hỏi: - Ngài cho phép chứ? Tôi có thể dạo được bài đó. - Rồi không chờ tên kia cho phép, anh ta ghé luôn cặp môi run run vào miệng chiếc bát xông bị nắng chiếu nóng bỏng. Những âm thanh sầu thảm ồm ồm giọng mũi chập chờn vang lên đơn điệu trong cái sân rộng thênh thang của nhà lão lái buôn làm tên đại uý phải giận dữ cau mày. Hắn khoát tay quát lên: - Thôi ngay! Quả là kéo cái… của thằng ăn mày? Như thế mà gọi là âm nhạc à? Trong các khung cửa sổ thấy ló ra những khuôn mặt cười nhăn nhở của những tên sĩ quan tham mưu và phó quan. - Ngài ra lệnh cho chúng nó chơi bài hành khúc tang lễ đi! - Một thằng trung uý còn rất trẻ nhô hẳn nửa người ra ngoài cửa sổ, kêu to bằng giọng nam cao như của một đứa con trai. Những tiếng chuông dồn dập và điên dại lắng đi một phút. Tên đại uý rung rung hai hàng lông mày, hỏi giọng ngọt xớt: - Bài "Quốc tế ca" thì tôi mong rằng các anh có thể dạo được. Nào! Đừng sợ gì cả? Tôi đã ra lệnh thì cứ chơi đi! Thế là trong bầu không khí bất thần chết lặng, trong cái oi ả ngột ngạt của lúc giữa trưa, hệt như một lời kêu gọi chiến đấu, những chiếc kèn đồng bỗng phát ra vang lừng những âm thanh đầy phẫn nộ của bài "Quốc tế ca", nhịp nhàng và uy nghiêm. Như con bò mộng trước một vật cản, tên đại uý cúi đầu đứng dạng chân. Hắn đứng yên lắng nghe. Cái cổ gân guốc của hắn ửng đỏ lên, hai cái lòng trắng xanh xanh của cặp mắt nheo nheo cũng ngầu máu. - Thôi ngay! - Hắn không chịu được nữa, phải gào lên, giọng phẫn nộ. Đội nhạc lập tức nín bặt. Riêng một tiếng kèn co không kịp im tiếng ngay và lời kêu gọi mê say chưa phát ra hết còn chập chờn rất lâu trong bầu không khí thiêu đốt. Những người chiến sĩ quân nhạc liếm những cặp môi khô nẻ, đưa tay áo và những bàn tay nhớp nhúa lên chùi miệng. Vẻ mặt mọi người đều mệt mỏi thẫn thờ. Chỉ có một người bất giác để lộ tình cảm của mình với một giọt nước mắt chảy xuống cái má đầy bụi, để lại một vệt ươn ướt… Trong khi đó tướng Sekrechev vừa ăn xong bữa trưa tại nhà một thằng đồng ngũ của hắn từ hồi chiến tranh Nga - Nhật. Một tên phó quan cũng say bí tỉ đỡ hắn đi ra quảng trường. Khí trời nồng nực và rượu nặng đã làm hắn đờ đẫn mê mẩn. Tới chỗ góc phố trước mặt ngôi nhà gạch của trường trung học, hắn quá yếu sức, vấp chân một cái ngã úp mặt xuống lớp cát nóng hổi. Tên phó quan hoảng hồn cố vực chủ tướng dậy, nhưng hoài công vô ích. Vài người trong đám đông đứng gần đấy vội chạy tới giúp. Hai lão Cô-dắc già lụ khụ hết sức cung kính đỡ tên tướng cho hắn nôn thốc nôn tháo ngay trước công chúng. Tuy vậy trong những phút ngừng nôn ọe, hắn vẫn còn hùng hổ vung hai nắm tay cố gào lên không biết những gì. Nhưng cuối cùng bọn kia vẫn khuyên dỗ được hắn, đưa hắn về nhà. Những tên Cô-dắc đứng xa một chút đưa mắt nhìn theo rất lâu và khẽ thì thào bảo nhau: - Chà, bà con xem đấy, con người thân mến của chúng ta đã có chuyện bừa bãi như thế đấy? Làm đến cấp tướng rồi mà chả biết giữ mình cho nghiêm chỉnh? - Men rượu nó có nhìn vào lon vai và huy chương mà tha cho ai đâu - Đáng là đừng nên tọng hết những thứ người ta đưa đến miệng mình. - Chà bác thông gia thân mến, không phải người nào cũng giữ được mình trước miếng ăn đâu! Có những anh chàng rượu vào làm đủ mọi trò nhục nhã rồi thề đến chết sẽ không uống nữa… Song như người ta thường nói: con lợn thề không ăn một thứ đó nữa nhưng chỉ chạy một lát, nó lại hốc vào gấp đôi. - Đúng thế đấy! Nhưng các bác hãy quát bọn ranh con kia bảo chúng nó ra chỗ khác đi. Cứ chạy theo sát bên cạnh mà giương mắt nhìn ông ấy, lũ khốn kiếp, làm như suốt đời chưa được trông thấy thằng say rượu bao giờ. Khắp thị trấn dóng chuông và rượu chè cho tới khi trời hoàng hôn. Nhưng đến tối, trong ngôi nhà dùng làm nơi hội họp của sĩ quan, bộ chỉ huy quân phiến loạn lại tổ chức một bữa tiệc mừng những tên mới đến. Thân hình cao lớn, cân đối ra đời tại một thôn của trấn Krasnokurskaia, Sekrechev là một thằng Cô-dắc chính cống. Hắn hết sức say mê ngựa cưỡi, cưỡi ngựa giỏi tuyệt vời và là một tên tướng kỵ binh rất ngang tàng. Nhưng hắn không là một nhà hùng biện. Lời phát biểu của hắn trong bữa tiệc đầy những câu huênh hoang của một thằng say rượu và đến đoạn kết hắn có những câu chê trách và hăm doạ không úp mở đối với dân Đông Thượng. Grigori cũng có mặt trong bữa tiệc. Chàng chăm chú lắng nghe những lời Sekrechev nói, tinh thần cẳng thẳng, trong lòng sôi sục phẫn nộ. Còn chưa kịp tỉnh rượu, tên tướng chóng mạnh mười ngón tay lên bàn làm cốc rượu thơm phức sánh ra, rồi hắn dằn từng câu, nói giọng cứng rắn chẳng cần thiết chút nào. - Không, không phải là chúng tôi cần phải cám ơn các ngài đã giúp đỡ chúng tôi, mà chính các ngài phải cám ơn chúng tôi. Chính các ngài mới phải cám ơn, cần phải nói dứt khoát như thế. Không có chúng tôi thì bọn Đỏ đã tiêu diệt các ngài rồi. Bản thân các ngài đã biết rất rõ là như thế. Còn chúng tôi không có các ngài, chúng tôi cũng vẫn dẫm chết được lũ súc sinh ấy như thường. Chúng tôi đang dẫm chết và sẽ tiếp tục dẫm chết chúng nó cho đến khi trên toàn nước Nga nầy không còn sót một tên nào nữa mới thôi. Các ngài cần phải thấy rõ như thế. Dạo mùa thu, các ngài đã bỏ mặt trận, để cho quân Bolsevich tiến vào đất đai Cô-dắc… Các ngài đã muốn chung sống hoà bình với chúng nó, nhưng nào có được? Và đến khi đó, các ngài mới bạo động để giữ lấy tài sản, tính mạng mình… Nói đơn giản là để cứu lấy cái thần xác của mình, gia súc của mình. Tôi nhắc lại chuyện trước kia không phải là để chê trách các ngài về tội cũ… Tôi nói như thế không phải là để xúc phạm các ngài đâu. Nhưng xác định cho rõ sự thật thì không bao giờ có hại. Chúng tôi đã tha thứ cho các ngài về cái tội thay lòng đổi dạ. Như những người anh em, chúng tôi đã đến với các ngài, đến giúp đỡ các ngài trong giờ phút các ngài gặp khó khăn nhất. Nhưng trong tương lai cái quá khứ nhục nhã của các ngài phải được rửa sạch mới được. Các ngài sĩ quan, các ngài đã rõ chưa? Các ngài sẽ phải chuộc cái tội ấy bằng những chiến công của mình, bằng cách tuyệt đối tận tụy phục vụ sông Đông êm đềm. Các ngài rõ chưa? - Nào thì uống mừng ngày chuộc tội! - Tên trung tá có tuổi ngồi trước mặt Grigori nói với một nụ cười chỉ hơi có thể nhận thấy, nhưng hắn không nói riêng với một ai, rồi không chờ những tên khác hắn uống cạn luôn một cốc. Hắn có khuôn mặt hơi rỗ hoa rất dũng cảm và hai con mắt màu nâu đầy vẻ châm biếm. Trong khi Sekrechev phát biểu ý kiến, trên môi hắn nhiều lần phảng phất một nét cười nhạt và những khi đó, mắt hắn tối sầm lại, nom gần như đen. Trong khi theo dõi tên trung tá Grigori chú ý một điều là hắn "anh anh tôi tôi" với Sekrechev và giữ một thái độ hết sức chững chạc đàng hoàng, song đối với những tên sĩ quan khác hắn lại rất dè dặt và lãnh đạm. Trong số tất cả những tên có mặt trong bữa tiệc, chỉ một mình hắn đeo lon vai màu ka-li đính trên áo quân phục cổ đứng cùng màu và những cái lon tay của quân đội Kornilov. "Một thằng cha có lý tưởng đây. Có lẽ nó là một thằng thuộc Quân đội Tình nguyện". Grigori nghĩ thầm. Tên trung tá nốc rượu như ngựa uống nước. Hắn không nhắm mà cũng không say, chỉ chốc chốc lại nới cái dây lưng to bản kiểu Anh. - Thằng cha rỗ hoa ngồi trước mặt mình là đứa nào thế? - Grigori khẽ hỏi tên Bogaturev ngồi bên cạnh. - Ma quỷ nào biết được nó. - Bogaturev xua tay. Hắn đã chuếnh choáng. Kudinov đãi khách không tiếc rượu. Không biết từ đâu vodka được mang ra đặt lên bàn. Sekrechev kết thúc lời phát biểu của hắn một cách vất vả rồi mở phanh cái áo lễ phục màu cứt ngựa, nặng nề ngồi phịch xuống ghế dựa. Một tên trung uý còn trẻ, mặt rõ ràng mang những nét của dòng Mông cổ, ngả người về phía hắn, rỉ tai hắn không biết những gì. - Mặc mẹ nó! - Sekrechev đỏ mặt trả lời rồi uống một hơi hết cốc rượu mà Kudinov vừa săn đón rót cho hắn. - Thế thằng mắt xích kia là đứa nào? Phó quan à? - Grigori hỏi Bogaturev. Gã kia đưa tay lên che miệng trả lời: - Không, thằng con nuôi của hắn đấy. Hồi chiến tranh với Nhật, hắn đã mang thằng nầy từ Mãn Châu về, lúc ấy thằng nầy còn nhỏ. Hắn đã nuôi nấng dạy dỗ nó và cho vào học trường Yunke. Thằng Chiệc oắt con đã trở thành một tên hết sức láu cá. Một thằng quỷ ngang tàng táo tợn! Hôm qua ở gần Makeevka nó đã cướp được của bọn Đỏ một hòm tiền. Quơ được hai triệu bạc. Cậu nhìn mà xem, bao nhiêu túi của nó đều cộm lên những tập giấy bạc? Cái thằng đáng nguyền rủa nầy thật gặp vận! Cả một kho của! Nhưng uống đi chứ, làm gì mà cậu cứ nhìn chúng nó chằm chằm thế? Kudinov phát biểu một bài đáp từ, nhưng hầu như chẳng còn tên nào nghe hắn nữa. Mức độ nhậu nhẹt mỗi lúc một trở nên đáng sợ. Sekrechev đã cởi bỏ áo lễ phục, chỉ còn chiếc sơ-mi lót. Cái đầu cạo nhẵn thín của hắn bóng nhoáng mồ hôi. Cái áo vải sạch bong càng làm nổi bật khuôn mặt đỏ tía và cái cổ rám nắng màu ô-liu. Kudinov khẽ nói với Sekrechev không biết những gì, nhưng tên nầy không buồn đưa mắt nhìn hắn, cứ lải nhải nhắc đi nhắc lại: - Khô-ô-ông, tôi xin lỗi. Chuyện nầy thì anh thứ lỗi cho tôi! Chúng tôi sẽ tin các anh, nhưng chỉ đến mức độ nào thôi… Sự phản bội của các anh, chúng tôi sẽ không chóng quên đâu. Tất cả những kẻ đã chạy sang phía bọn Đỏ trong mùa thu qua đều phải nhớ như in trong bụng điều đó… "Được thôi, cả chúng tao cũng sẽ phục vụ chúng mày đến mức độ nào đó?" - Grigori đã ngà ngà say, chàng nghĩ thầm với cả một niềm phẫn nộ sáng suốt rồi đứng dậy. Không đội mũ, chàng bước ra thềm hít làn không khí mát rượi của trời đêm vào đầy lồng ngực, trong lòng nhẹ nhõm hẳn đi. Bên bờ sông Đông, hệt như lúc trời sắp mưa, ếch nhái kêu ộp oạp, những con bọ hung nước bay vù vù nghe đến là âm thầm. Vài con dẽ giun gọi nhau rầu rĩ trên con bơn cát. Ở chỗ nào đó trên bãi cỏ hoang ven sông, một con ngựa non lạc mẹ hí dài một tràng, giọng rất thanh. "Chúng tao phải kết thông gia với chúng mày cũng chỉ do một sự bần cùng đầy cay đắng, nếu không cũng chẳng cần đến chúng mày làm gì, dù chỉ để xin một dúm thuốc lá. Quân khốn kiếp đáng nguyền rủa! Đã mong manh dễ vỡ như miếng bánh quế một xu mà còn lên mặt mắng người. Nhưng chỉ một tuần nữa là chúng nó sẽ thẳng tay bóp họng mình cho mà xem… Thôi một liều ba bảy cũng liều? Quay sang phía nào cũng đầy chông gai. Nhưng trước kia mình đã đoán được là sẽ như thế nầy rồi cơ mà… Kết quả tất nhiện là phải như thế nầy. Bây giờ thì bọn Cô-dắc tha hồ mà lê gối lấy lòng chúng nói. Nhưng đã mất cái thói quen đứng cứng người đưa tay lên chào các quan lớn rồi còn đâu". - Grigori vừa nghĩ thầm vừa bước trên thềm xuống rồi mò mẫm lần ra cửa xép. Cả đến chàng cũng đã chịu tác động của rượu mạnh. Đầu choáng váng, mọi cử động đều nặng nề, chập chững. Ra đến bên ngoài cửa xép chàng lảo đảo, chụp mạnh chiếc mũ cát két lên đầu rồi lê chân đi trên đường phố. Tới gần căn nhà nhỏ của bà cô Acxinhia, chàng dừng lại đắn đo một phút rồi kiên quyết bước lên thềm. Cửa vào phòng ngoài không đóng. Grigori không gõ cửa, bước thẳng vào phòng trong và nhìn thấy ngay trước mặt mình Stepan Astakhov đang ngồi ở bàn ăn. Bà cô của Acxinhia chạy đi chạy lại lăng xăng bên bếp lò. Trên bàn chải tấm khăn sạch có một chai rượu chưa uống hết, một con cá khô xắt thành nhiều khúc nằm hồng hồng trên cái đĩa. Stepan vừa uống cạn một cốc và có vẻ sắp sửa nhằm một miếng, nhưng sau khi nhìn thấy Grigori, anh ta đẩy cái đĩa ra, ngồi dựa lưng vào tường. Say thì có say, song Grigori vẫn nhận thấy rằng mặt Stepan nhợt ra như mặt người chết và hai con mắt anh ta sáng rực lên như mắt chó sói. Tuy sửng sốt trước cuộc gặp gỡ, nhưng Grigori vẫn tự chủ được để chào bằng một giọng khàn khàn. - Chào cả nhà! - Ơn Chúa. - Bà chủ nhà kinh hãi trả lời. Tất nhiên bà cũng được biết về chuyện Grigori đi lại với cháu gái mình nên bà chẳng chờ đợi điều gì tốt lành ở cuộc chạm trán bất ngờ giữa chồng và người tình của cháu. Stepan lừ lừ đưa tay trái lên vuốt ria, hai con mắt nảy lửa vẫn dán vào Grigori. Còn Grigori thì dạng rộng hai chân ở ngưỡng cửa, gượng cười và nói: - Tôi chỉ tạt vào thăm… Xin lỗi! Stepan vẫn nín thinh. Bầu không khí chết lặng hết sức khó chịu kéo dài đến lúc bà chủ nhà đánh liều mời Grigori: - Mời bác vào, mời bác ngồi xuống đây. Bây giờ thì Grigori chẳng còn gì phải giấu giếm nữa rồi. Việc chàng xuất hiện ở chỗ Acxinhia ở đã làm Stepan hiểu rõ tất cả. Grigori bèn hỏi độp luôn: - Thế vợ anh đâu? - Thế ra anh… đến thăm vợ tôi à? - Stepan hỏi rất khẽ nhưng giọng rất rành rọt rồi rung rung hai hàng mi, nhắm mắt lại. - Phải. - Grigori thở dài thú thật. Trong giây phút nầy, chàng sẵn sàng chờ đợi ở Stepan tất cả mọi điều và đầu óc đã tỉnh táo, chàng chuẩn bị tự vệ. Nhưng Stepan đã hơi mở mắt (trong đó không còn cái ánh rực lửa vừa nãy nữa) và nói: - Tôi vừa bảo đi mua rượu, sẽ về ngay đấy. Anh ngồi xuống đi, chờ một lát. Thậm chí anh ta còn đứng dậy, cao lớn và cân đối, rồi đẩy cho Grigori một chiếc ghế dựa. Anh ta hỏi nhưng không nhìn bà chủ nhà: - Cô ơi, xin cô cái cốc sạch. - Rồi hỏi Grigori - Anh uống chứ? - Có thể uống một ít. - Nào, anh ngồi xuống đi. Grigori ngồi vào bàn. Stepan rót chỗ rượu còn lại trong chai vào hai cái cốc thành hai phần đều nhau rồi ngước hai con mắt như phủ một làn khói nhìn Grigori. - Uống cho mọi điều đều tốt đẹp! - Uống vì sức khỏe của chúng ta! Hai bên chạm cốc. Cùng uống cạn. Rồi nín lặng một lát. Nhanh thoăn thoắt như một con chuột, bà chủ nhà đem lại cho khách một cái điã và một cái dĩa sứt cán. - Bác xơi cá đi? Không mặn đâu. - Xin cảm ơn. - Bác lấy cá vào đĩa đi, mời bác xơi đi chứ? - Bà chủ nhà đã vui lên, khẩn khoản cố nài. Bà sung sướng không nói sao cho xiết vì mọi việc đã được dàn xếp êm thấm, không đánh nhau, không đập bát điã, không quát tháo om sòm. Những lời nói không hứa hẹn điều gì tốt lành đã chấm dứt. Người chồng đã hiền hòa ngồi cùng một bàn ăn với nhân tình của vợ. Bấy giờ cả hai đã lặng lẽ ngồi ăn, chẳng ai nhìn ai. Bà chủ nhà chu đáo lấy trong chiếc rương ra một chiếc khăn tay sạch, và tựa như để bắc một cái cầu giữa Grigori và Stepan, bà đặt hai đầu khăn lên đầu gối hai người. - Tại sao anh không ở đại đội? - Grigori vừa gặm một miếng cá diếc vừa hỏi. - Tôi cũng đến đây để thăm thôi. - Stepan nín lặng một lát rồi trả lời. Nghe giọng nói thì không thể nào đoán được là anh ta nói thật hay có ý châm chọc. - Chắc đại đội đã về nhà rồi chứ gì? - Mọi người đều về ở chơi trong thôn cả. Nào, ta cạn chén chứ? - Nào. - Vì sức khỏe của chúng ta! - Vì mọi sự tốt lành. Phòng ngoài có tiếng then cửa lách cách. Grigori đã tỉnh hẳn. Chàng hơi ngước mắt nhìn Stepan, nhận thấy rằng cái nhợt nhạt lúc nãy lại tràn ngập khuôn mặt anh ta như làn sóng. Acxinhia quấn chiếc khăn len dày, không nhận được ra Grigori ngay nên cứ bước tới trước bàn. Nhưng đến khi nàng liếc nhìn sang bên thì cặp mắt đen láy của nàng bất thần đầy vẻ kinh hoàng. Nàng thở hổn hển, cố gắng mãi mới thốt ra được một câu: - Chào anh, anh Grigori Panteleyevich! Hai bàn tay sần sùi rất to của Stepan đang đặt trên bàn bỗng nhiên khẽ run run. Grigori nhìn thấy thế, chỉ lặng lẽ gật đầu chào Acxinhia, không nói một lời nào. Nàng đặt hai chai rượu lên bàn, đưa nhanh mắt nhìn Grigori lần nữa, ánh mắt đầy lo lắng nhưng vẫn thoáng có một nét sung sướng kín đáo. Rồi nàng quay đi, bước tới góc tối của căn phòng, ngồi lên nắp một chiếc rương, hai bàn tay run run sửa lại bộ tóc. Cố nén cơn xúc động, Stepan cởi khuy cổ chiếc áo sơ-mi làm anh ta tức thở, rót đầy rượu vào những cái cốc, rồi quay sang bảo vợ: - Lấy thêm một cái cốc và ngồi vào bàn đi. - Tôi không muốn. - Ngồi vào đây! - Tôi không uống đâu, anh Stepan? - Còn phải bảo đến mấy lần nữa hử? - Giọng Stepan run lên. - Ngồi vào đi, chị láng giềng? - Grigori mỉm cười khuyến khích. Nàng nhìn chàng bằng cặp mắt van lơn rồi bước nhanh tới cái tủ nhỏ. Một cái đĩa rơi từ trên cái giá xuống, vỡ loảng xoảng. - Chao ôi, thật là tai hoạ? - Bà chủ nhà vỗ hai tay vào nhau một cách đau khổ. Acxinhia lặng lẽ nhặt các mảnh vỡ. Stepan rót cho nàng một cốc rượu đầy đến miệng và hai con mắt anh ta lại sáng bừng lên một ánh phiền muộn và căm hờn. - Nào, chúng ta cạn chén… - Anh ta vừa bắt đầu nói đã lại nín bặt. Trong bầu không khí chết lặng có thể nghe rõ mồn một tiếng thở dồn dập của Acxinhia sau khi nàng ngồi vào bàn. - Nào, bà vợ của tôi, chúng ta hãy cạn chén vì một cuộc ly biệt lâu dài. Sao thế, không muốn à? Không uống à? - Chính anh cũng biết… - Bây giờ tôi đã biết hết rồi… Thôi được, không uống vì sự ly biệt nữa! Vì sức khỏe của ông khách quý Grigori Panteleevich vậy. - Vì sức khỏe của ông ấy thì tôi uống? - Acxinhia cất tiếng nói lanh lảnh rồi uống một hơi cạn cốc rượu. - Con bé nầy thật gan cóc tía! - Bà chủ nhà chạy vào trong bếp khẽ lẩm bẩm. Bà đứng nép vào một góc nhà, áp hai tay lên ngực, chờ nghe tiếng bàn ghế bị đạp đổ ầm ầm, tiếng súng nổ inh tai nhủc óc… Nhưng nhà trong vẫn chết lặng. Chỉ nghe thấy tiếng vài con ruồi bị ánh sáng làm cho mất ngủ vo vo trên trần và tiếng những con gà trống gáy vọng bên ngoài cửa sổ để chào đón lúc nửa đêm. 8. Một đêm tháng sáu vùng sông Đông, trời tối mịt. Trên bầu trời xám xịt như đá đen, vài ánh chớp vàng óng, bừng lên trong không khí trầm lặng nặng nề. Vài ngôi sao sa, in hình trên dòng sông Đông cuồn cuộn trôi xuôi. Từ ngoài đồng cỏ, ngọn gió hanh ấm ấm đem đến khu dân cư mùi bách lý hương nở hoa ngọt ngọt như mật ong. Trong khi đó trên bãi cỏ hoang ven sông vẫn nồng nặc cái mùi nhạt thếch của cỏ ẩm, bùn và ntrớc. Gà nước kêu không lúc nào ngớt. Như trong thần thoại, khắp cánh rừng ven sông đều phủ kín dưới tấm gấm ngân tuyến của sương mù. Đến nửa đêm Prokho tỉnh dậy. Hắn hỏi người chủ nhà: - Ông ấy còn chưa về à? - Chưa đâu. Còn đang nhậu nhẹt với các ông tướng. - Phải, đúng là ở đằng ấy người ta đang tu vodka đấy! - Prokho thở dài có vẻ ghen tỵ rồi vừa ngáp dài vừa mặc quần áo. - Bác đi đâu thế? - Tôi ra cho ngựa uống nước và lấy ít thóc. Ông Panteleevich có bảo là trời hửng thì sẽ cùng về thôn Tatarsky. Chúng tôi sẽ nghỉ lại ở đấy một ngày, rồi sẽ phải đuổi theo đơn vị. - Trời còn chán mới hửng. Cứ ngủ thêm một lát đã. Prokho trả lời có vẻ bực mình: - Bố già ạ, có thể lập tức thấy ngay là từ nhỏ bố chưa từng đi lính bao giờ! Trong cái công việc lính tráng của chúng tôi, nếu không cho ngựa nghẽo ăn uống chu đáo, không chăm nom nó cẩn thận thì cái mạng của mình có khi cũng không giữ được đâu. Cưỡi một con nghẽo hom hem thì làm thế nào có thể phi nhanh được? Con vật mình cưỡi càng tốt thì càng có thể nhanh chóng thoát khỏi tay địch. Tôi vốn là một thằng như thế nầy nầy: chẳng có gì bắt buộc mình đuổi theo chúng nó, và nếu gặp bước nguy khốn, nếu bị dồn vào thế bí thì tôi sẽ là thằng đầu tiên quàng chân lên cổ chuồn thẳng? Tôi đã phải giơ đầu ra chịu đạn bao nhiêu năm rồi, vì thế bây giờ chán ngấy đi được! Nhưng bố già à, nhờ bố nhóm hộ cái lửa, nếu không tôi chẳng tìm thấy xà cạp đâu cả. Cám ơn bố nhé! Pha-a-ải, cái ông Grigori Panteleevich của chúng tôi thì còn cố kiếm lấy những huân chương và cấp bậc, còn xông cáo vào nơi nước sôi lửa bỏng, chứ tôi thì không phải là một thằng ngu xuẩn như thế đâu, tôi chẳng cần đến các thứ ấy làm gì. Hừ, đúng là ma quỷ đã đưa anh chàng về rồi, và có lẽ say bí tỉ rồi còn gì. Ngoài cửa có tiếng gõ khe khẽ. - Xin mời vào? - Prokho nói to. Một gã Cô-dắc lạ mặt bước vào với những cái lon hạ sĩ quan trên bộ quân phục màu cứt ngựa và cái mũ cát-két có đính quân hiệu. - Tôi là liên lạc của bộ tư lệnh binh đoàn tướng quân Sekrechev. Tôi có thể gặp quan lớn Melekhov được không? - gã đưa tay lên vành mũ, đứng cứng người ở ngưỡng cửa hỏi. - Ông ấy không có nhà. - Prokho trả lời. Hắn rất đỗi sửng sốt trước tư thế và lối xưng hô của gã Cô-dắc được huấn luyện khuôn phép. - Nhưng, cậu chớ có đứng cứng người ra như thế. Hồi còn trẻ tôi cũng là một thằng ngu xuẩn như cậu đấy. Tôi là liên lạc của ông ấy đây. Cậu có việc gì thế? - Theo lệnh của tướng quân Sekrechev tôi đến tìm ngài Melekhov. Ngài Melekhov được mời đến nhà hội nghị sĩ quan ngay lập tức. - Ngay từ lúc chiều ông ấy đã láng cháng tới đấy rồi mà? - Cũng có ở đấy, nhưng sau lại bỏ về. Prokho huýt một tiếng sáo và nháy mắt với người chủ nhà đang ngồi trên giường. - Bố đã hiểu chưa, bố già? Như thế tức là đã chuồn đến với cô bạn yêu dấu rồi… Thôi được, thầy quyền cứ về đi, tôi sẽ đi kiếm ông ấy và sẽ đưa thẳng tới đấy ngay? Sau khi nhờ ông cụ cho ngựa uống nước và ăn thóc, Prokho đi tới nhà bà cô của Acxinhia. Thị trấn ngủ thiếp dưới một tấm màn đen mù mịt, những con hoạ mi thi nhau hót trong khu rừng bên kia sông Đông. Prokho lững thững đi tới căn nhà nhỏ mà hắn đã biết, bước vào phòng ngoài, nhưng vừa đặt tay lên nắm đấm cửa thị nghe thấy cái giọng trầm trầm của Stepan. "Thế là mình chạm trán ngay với nó? - Prokho nghĩ thầm - Nhỡ nó hỏi mình đến đây làm gì thì sao? Nếu thế mình sẽ chẳng còn đường nào mà trả lời nữa. Thôi được, dù sao cũng đành liều? Mình sẽ nói là tạt vào đây để mua rượu, sẽ bảo là các nhà láng giềng chỉ cho mình tới đây". Nhưng sau khi đã đánh liều bước vào nhà trong, hắn lại lập tức kinh ngạc há hốc miệng đứng đực ra như phỗng: Grigori đang ngồi cùng bàn với cả hai vợ chồng nhà Astakhov, và tựa như chẳng có chuyện gì xảy ra, chàng đang đưa cốc lên miệng uống một thứ rượu màu xanh đục. Stepan đưa mắt nhìn Prokho, gắng gượng mỉm cười và nói: - Làm gì mà cậu cứ há hốc miệng, chẳng chào hỏi gì thế? Hay cậu thấy có điều gì kỳ quặc lắm à? - Đại khái như thế đấy… - Prokho vẫn chưa hết sửng sốt, vừa giậm giậm hai chân vừa trả lời. - Thôi, đừng sợ, cứ vào đây, ngồi xuống đã, - Stepan mời. - Thì giờ nó không bảo tôi ngồi lại đâu… Tôi đến tìm anh đây, anh Grigori Panteleevich. Có lệnh anh lập tức đến gặp ngay tướng Sekrechev. Ngay trước khi Prokho tới đây. Grigori đã nhiều lần muốn bỏ về. Chàng gạt cái cốc ra, đứng dậy, nhưng lại ngồi ngay xuống vì sợ Stepan coi việc mình ra về là một biểu hiện của sự nhát gan. Lòng tự hào không cho phép chàng bỏ Acxinhia ở lại, nhường chỗ cho Stepan. Chàng vẫn uống, nhưng rượu không còn có tác dụng gì đối với chàng nữa. Grigori vừa đánh giá một cách tỉnh táo cái tình thế nửa dơi nửa chuột của mình, vừa chờ xem kết cục sẽ như thế nào. Trong khoảng khắc, lúc Acxinhia uống mừng sức khỏe của chàng, của Grigori, chàng đã tưởng như Stepan sắp đánh vợ đến nơi. Nhưng chàng đã lầm: "Stepan chỉ đưa tay sần sùi lên lau vừng trán rám nắng rồi sau một phút im lặng ngắn ngủi, anh ta nhìn Acxinhia một cách thán phục và nói: "Vợ tôi cừ lắm! Chỉ yêu cái to gan!". Rồi Prokho bước vào. Grigori suy nghĩ một lát rồi quyết định chưa đi vội đề Stepan có thể nói ra những điều trong lòng anh ta. - Cậu cứ lại đằng ấy và bảo rằng không tìm thấy mình. Hiểu chưa? - Chàng bảo Prokho. - Hiểu thì có hiểu đấy, nhưng anh Panteleevich ạ, tốt nhất là anh hãy tới đằng ấy đi. - Không can gì đến cậu! Đi đi. Prokho đã bước ra cửa. Nhưng giữa lúc ấy Acxinhia bất thần nói xen vào câu chuyện. Nàng không nhìn Grigori, nói giọng khô khan: - Không, không nên như thế, anh cùng về đi, anh Grigori Panteleevich! Xin cám ơn anh đã tới thăm chúng tôi, ngồi chơi với chúng tôi… Nhưng không còn sớm sủa gì nữa, gà đã gáy đợt hai rồi. Trời sắp sáng, mà trời hửng là tôi và anh Stepan còn phải lên đường về nhà… Hơn nữa hai anh uống đã nhiều. Thế là đủ rồi? Stepan cũng không giữ. Grigori bèn đứng dậy. Lúc chia tay, Stepan còn nắm một lát bàn tay Grigori trong bàn tay vừa lạnh vừa cứng của anh ta, tựa như muốn nói một điều gì lần cuối cùng. Nhưng anh ta không nói mà chỉ lặng lẽ đưa mắt nhìn theo Grigori đi ra cửa, rồi từ từ quay vào với chai rượu chưa uống hết… Grigori vừa ra tới ngoài phố thì cảm thấy mình bải hoải khủng khiếp. Chàng lê bước hết sức khó khăn tới được ngã tư gần nhất rồi bảo anh chàng Prokho luôn bám sát mình không rời nửa bước. - Cậu về thắng hai con ngựa rồi đem ra đây nhé. Mình không lê được tới nơi đâu… - Thế không báo cáo về chuyện anh sẽ đi à? - Không. - Thôi được anh cứ chờ đây, tôi sẽ chạy thật nhanh! Thế là cái anh chàng bao giờ cũng lề mà lề mề là Prokho lần nầy đã quàng chân lên cổ chạy tế về chỗ ở trọ. Grigori tới ngồi bên một dãy hàng rào, hút thuốc. Chàng hồi tưởng lại cuộc chạm trán với Stepan, lãnh đạm nghĩ thầm: "Chà, cũng chẳng sao, bây giờ thì nó biết rồi. Miễn là nó đừng có đánh Acxinhia". Rồi cái mệt mỏi và sự xúc động vừa trải qua đã bắt chàng phải ngả lưng xuống. Chàng thiu thiu ngủ. Chẳng mấy chốc Prokho đã cưỡi ngựa tới. Hai người sang bên kia sông Đông bằng phà rồi cho ngựa chạy nước kiệu nhanh. Trời bình minh thì tiến vào thôn Tatarsky. Grigori xuống ngựa bên cạnh cổng nhà mình, ném dây cương cho Prokho và bồi hồi bước vội vào trong nhà. Natalia còn ăn mặc phong phanh đang đi ra phòng ngoài không biết để làm gì. Vừa trông thấy Grigori, cặp mắt còn ngái ngủ của nàng đã sáng rực lên những tia hân hoan đến nỗi trái tim Grigori bỗng run lên và hai con mắt chàng bất thần ướt đẫm. Còn Natalia thì ôm lấy người yêu duy nhất của nàng, siết chặt toàn thân mình vào người Grigori. Grigori cảm thấy hai vai Natalia rung rung, biết rằng nàng đang khóc. Chàng bước vào nhà, lần lượt hôn hai ông bà già và hai đứa nhỏ ngủ ở nhà trong, rồi ra đứng giữa bếp. - Thế nào, nhà ta sống qua cái cơn vừa qua như thế nào? Mọi người bình anh vô sự cả chứ? - Grigori vừa hỏi vừa thở hổn hển vì cảm động. - Cũng nhờ ơn Chúa, con ạ. Ở nhà cũng sợ lắm, song cũng không bị chúng nó hà hiếp nhiều quá đâu. - Bà Ilinhitna vội trả lời, rồi liếc nhìn Natalia thấy nàng khóc thút thít bèn quát nàng giọng nghiêm khắc - Đang lúc phải vui thì mày lại khóc, con bé ngốc nghếch nầy! Thôi đừng đứng ườn ra đấy nữa? Ra lấy củi vào mà nhóm lò… Trong lúc bà và Natalia vội vã sửa soạn bữa sáng, ông Panteley Prokofievich đem vào cho con trai một chiếc khăn mặt sạch và bảo: - Mày lau rửa đi, để tao đổ nước vào tay cho. Như vậy đầu óc sẽ tỉnh táo hơn… Người mày nồng nặc mùi vodka. Có lẽ hôm qua vui quá uống rượu phải không? Cũng có uống đấy. Nhưng tạm thời vẫn còn chưa rõ uống vì vui hay vì đau khổ… - Sao lại thế? - Ông già rất ngạc nhiên. - Sekrechev còn căm chúng ta lắm. - Chà, như thế cũng chẳng có gì tai vạ. Nhưng chẳng nhẽ ông ấy mà uống rượu với mầy à? - Có mà. - Thật không ngờ! Mầy danh giá quá đấy. Griska ạ! Được ngồi cùng bàn với một ông tướng chính cống cơ à! Không thể nào ngờ được! - Rồi ông Panteley Prokofievich âu yếm nhìn con và cứ chặc chặc lưỡi đầy vẻ thán phục. Grigori mỉm cười. Dù sao chàng cũng không thể nào chia sẻ niềm hân hoan ngây thơ của ông già. Trong khi từ tốn hỏi han về những chuyện bò ngựa còn giữ được bao nhiêu con, đồ đạc còn lại những gì và bao nhiêu thóc lúc bị hư hỏng, Grigori nhận thấy rằng câu chuyện về công việc làm ăn không còn gây hứng thú cho bố như xưa nữa. Trong đầu óc ông lão hình như đang có điều gì quan trọng hơn, một điều gì làm ông phiền muộn. Và ông đã không chờ lâu mới nói ra: - Bây giờ sẽ như thế nào đây, Griska? Chẳng nhẽ vẫn còn phải đi lính hay sao? - Cha nói về ai kia chứ? - Nói về các cụ già ấy… Như tao chẳng hạn. - Bây giờ thì con chưa biết được. - Như vậy là lại phải ra đi à? - Cha thì có thể ở nhà cũng được. - Mày nói cái gì thế? - Ông Panteley Prokofievich sung sướng kêu lên, rồi ông cảm động quá cứ khập khiễng chạy lăng xăng trong bếp. - Có ngồi yên một chỗ đi không, cái con quỷ thọt kia! Đừng có lấy chân hất tung rác rưởi ra khắp nhà nữa! Có gì phởn mà chạy nhông như con chó đường thế? - bà Ilinhitna kêu lên, giọng nghiêm khắc Nhưng ông già cũng chẳng buồn để ý đến lời vợ gắt. Ông cứ tủm tỉm xoa xoa hai tay, khập khiễng đi đi lại lại vài lần từ cái bàn đến bếp lò. Nhưng bỗng nhiên ông có ý nghi ngờ: - Nhưng mày có thể cho tao về được chứ? - Tất nhiên là có thề rồi. - Mày sẽ viết cho tao một tờ giấy chứ? - Hẳn đi chứ lị! Ông già ngập ngừng một lát nhưng vẫn cứ hỏi: - Giấy như thế nào bây giờ? Giấy không có dấu ấy à? Hay là mày mang cả dấu đi theo? - Không có dấu cũng được! - Grigori mỉm cười. - Chà, nếu vậy thì chẳng cần phải nói gì thêm nữa? - Ông già lại vui lên. - Cầu chúa cho mầy được khỏe mạnh! Thế mày định bao giờ sẽ đi! - Ngày mai. - Các đơn vị của mày đã tiến trước rồi à? Đi Ust-Medvedicha à? - Vâng. Còn về cha, cha đừng có lo. Đằng nào các cụ già như cha chẳng bao lâu nữa cũng được cho về nhà thôi. Các cụ đã hết hạn lính rồi còn gì? - Cầu Chúa cứ thế cho! - Ông Panteley Prokofievich làm dấu phép và xem ra đã hoàn toàn yên lòng. Hai đứa nhỏ đã ngủ dậy. Grigori bế hai con, đặt ngồi lên đầu gối mình, rồi mỉm cười lần lượt hôn từng đứa và ngồi sát lâu để nghe hai đứa líu lo líu lô. Làn tóc của hai đứa nhỏ thơm lên biết bao thứ mùi: mùi nắng ấm, mùi cỏ, mùi gối ấm áp và còn một thứ mùi gì nữa vô vàn thân thiết. Và cả hai đứa đều là thịt da của thịt da chàng, nom cứ như hai con chim tí hon trên đồng cỏ. Hai cánh tay vừa to vừa đen của người cha ôm hai con trong lòng nom đến là lóng ngóng. Mà bản thân chàng, một kỵ sĩ tạm xa rời con ngựa chiến trong một ngày, trên mình còn nặc mùi lính tráng chua loét, mùi mồ hôi ngựa, mùi trường chinh và mùi đắng hắc của các đồ thắng ngựa bằng da, chàng cũng có vẻ xa lạc biết bao giữa cái cảnh điền viên êm ấm nầy… Vài giọt lệ phủ lên hai con mắt Grigori như một màn sương mù, môi chàng run run dưới hàng ria… Bố chàng hỏi hai ba lần chàng cũng không trả lời, và mãi khi Natalia đến kéo tay áo quân phục, chàng mới tới ngồi vào bàn ăn. Không, không, Grigori hoàn toàn không còn như xưa nữa rồi! Trước kia chàng có bao giờ dễ xúc động như bây giờ đâu, và ngay từ thời thơ ấu chàng cũng rất ít khi khóc. Nhưng bây giờ ở chàng lại thấy có những giọt nước mắt, tiếng tim đập dồn dập trầm trầm, và cái cảm giác như trong họng có một cái chuông nhỏ rung không thành tiếng… Tuy vậy, nguyên nhân của tất cả những điều đó có thể là vì chàng đã uống quá nhiều rượu và đêm qua chẳng được chợp mắt lúc nào… Daria đánh bò ra bãi chăn nuôi chung của thôn đã trở về. Đến khi ả chìa cặp môi tươi cười cho Grigori hôn, khi chàng đùa cợt đưa tay lên vuốt ria, ghé môi vào sát mặt ả thì ả lim dim mắt. Grigori thấy hai hàng mi ả rung rung, như dưới làn gió và trong khoảnh khắc ngửi thấy mùi pom-mát ngây ngất toả ra từ hai làn má chưa mất xuân sắc. Mà quả thật Daria vẫn hoàn toàn như xưa. Có cảm tưởng như không một điều buồn khổ nào có thể bẻ gãy được ả, thậm chí không có gì giúi được đầu ả ngả xuống, ả sống trên đời nầy như một nhành liễu đỏ: mềm mại, óng ả và tay ai cũng với tới được. - Vẫn nở hoa như thường chứ? Grigori hỏi. - Cũng như cây kỳ nham bên lề đường ấy thôi! - Daria nheo cặp mắt long lanh, cười nhe cả hai hàm răng trắng loá. Rồi ả lập tức bước tới trước cái gương sửa lại món tóc tuột khỏi chiếc khăn bịt đầu, làm dáng làm đỏm. Daria vỗn dĩ là như thế. Cái thói của ả thì có lẽ không sao thay đổi được. Cái chết của Petro tựa hồ cũng có giáng cho ả một đòn, nhưng sự khổ não vừa nguôi nguôi, ả đã thèm khát tận hưởng cuộc sống, càng chăm chút cho cái mã ngoài của mình hơn… Dunhiaska ngủ dưới nhà thóc đã được đánh thức dậy. Cả nhà cầu kinh xong đều quây quần chung quanh bàn ăn. - Chao ôi, anh yêu của em, anh già đi mất rồi! - Dunhiaska nói giọng thương hại. - Tóc anh xám cả như lông con sói độc ấy. Grigori ngồi bên kia bàn nín thinh nhìn em gái, trên môi không thoáng một nét cười. Một lát sau chàng mới nói: - Tao bây giờ như thế nầy thì cũng đúng thôi. Tao thì phải già đi, còn mày thì đã đến lúc kiếm lấy thằng chồng rồi đấy… Nhưng tao chỉ bảo cho một điều thế nầy nầy: từ hôm nay trở đi phải quên đi không được mơ tưởng gì tới thằng Miska Kosevoi nữa. Nếu sau nầy tao còn nghe nói là mày khô héo đi vì nó thì tao sẽ dận lên một chân mày và nắm lấy chân kia xé ra như xé con ếch ấy? Mày hiểu chưa? Mặt Dunhiaska đỏ rực lên như đoá hoa mào gà. Cô nhìn Grigori qua hai hàng nước mắt. Cặp mắt hung hãn của chàng vẫn nhìn chằm chằm cô em gái, và trong toàn bộ khuôn mặt trở nên tàn nhẫn của chàng, trong những cái răng nhe ra dưới hàng ria; trong cặp mắt nheo lại càng thấy hiện lên rõ hơn những nét man rợ như thú rừng của dòng họ Melekhov. Nhưng Dunhiaska thì cũng một nòi: khi đã trấn tĩnh được sau cơn bối rối và căm uất, cô gái nói khe khẽ, nhưng giọng rất kiên quyết. - Anh ạ, có lẽ anh cũng biết đấy chứ? Anh không ra lệnh cho trái tim được đâu! - Trái tim mà nô không nghe mày thì mày phải dứt nó ra mà quẳng đi. - Grigori khuyên em giọng lạnh như tiền. "Mày không phải là đứa nói được câu ấy đâu, con ạ…" - Bà Ilinhitna nghĩ thầm. Nhưng đến lúc nầy ông Panteley Prokofievich chen vào câu chuyện. Ông đấm mạnh tay xuống bàn, quát lên: - Mầy, đồ chó đẻ, câm ngay cái mồm! Nếu không tao sẽ cho mầy xem quả tim của mầy nó như thế nào; cho mầy không còn sợi tóc trên đầu mà búi nữa! Chà, đồ đĩ thoã! Để tao xuống ngay tàu ngựa lấy dây cương… - Nhưng cha ạ! Dây cương thì nhà ta chẳng còn sợi nào nữa đâu. Chúng nó lấy mất hết rồi còn gì? - Daria làm vẻ mặt ngoan ngoãn ngắt lời ông già. Ông Panteley Prokofievich tức điên lên trợn mắt nhìn ả, và vẫn không hạ thấp giọng, ông nói tiếp để trút hết những điều nhức nhối trong lòng: - Tao sẽ lấy cái đai bụng ngựa, cho mày được nhìn thấy quỷ dữ… - Cả đai bụng ngựa bọn Đỏ cũng lấy mất rồi còn đâu! - Daria lại nói xen vào, giọng đã to hơn, và vẫn nhìn bố chồng bằng cặp mắt ngây thơ. Đến lúc nầy ông Panteley Prokofievich không còn chịu được nữa. Ông trợn trừng trợn trạo nhìn con dâu trong một giây, mặt bừng bừng vì niềm căm tức không nói ra được, miệng cứ mở hoác ra, ngáp ngáp không thành tiếng (trong lúc nầy nom ông giống hệt như con cá vược vừa bị lôi lên khỏi mặt nước). Rồi ông quát lên, giọng khản hẳn đi: - Câm ngay, con khốn kiếp nầy, trăm con quỷ dữ lấy mất hồn mày đi! Không để cho người ta nói một lời nào nữa! Như thế nầy thì còn ra thể thống gì nữa! Còn mày, Dunhiaska, mày phải nhớ như in là như thế nầy: dứt khoát không thể có chuyện ấy được! Lời bố mày bảo mày như thế đấy? Thằng Grigori nó nói là đúng: nếu mày còn tưởng màng tới cái thằng khốn nạn ấy nữa thì giết mày đi vẫn còn là nhẹ! Kiếm được một thằng như thế mà yêu với đương! Một thằng đáng bị treo cổ đã làm mê mẩn đầu óc nó rồi! Một đứa như cái thằng ấy mà là một con người à? Một thằng bán Chúa như nó mà làm con rể của tao hay sao? Nếu bây giờ mà nó lọt vào tay tao thì tao sẽ tự tay cho nó về với ông bà ông vải! Nhưng mày cứ chờ đấy: tao sẽ lấy cái gậy, cho mày,… - Gậy với gộc cái gì, ban ngày ban mặt đốt đèn tìm khắp sân cũng chẳng có được cái nào đâu. - Bà Ilinhitna thở dài nói. - Đi từ đầu sân đến cuối sân cũng chẳng kiếm được một thanh củi để nhóm lò. Đã phải sống đến lúc như thế nầy rồi đấy! Mấy câu nhận xét chẳng có gì quanh co ấy, đã bị ông Panteley Prokofievich coi là những lời nhằm chọc tức ông. Ông nhìn chằm chằm bà lão một lát rồi nhảy chồm lên như một người hoá ngộ và chạy thẳng ra sân. Grigori buông cùi dìa, đưa khăn tay lên che mặt, toàn thân rung lên trong trận cười không thành tiếng. Cơn tức giận của chàng đã qua và chàng được một mẻ cười như đã lâu lắm chàng chưa được hưởng. Cả nhà đều cười, trừ Dunhiaska. Không khí quanh bàn ăn bỗng vui như tết. Nhưng vừa có tiếng bước chân ông Panteley Prokofievich dẫm bồm bộp trên thềm, mặt mọi người lập tức nghiêm hẳn lại. Ông già chạy ập vào trong phòng như một cơn lốc, lôi theo sau lưng một cái sào dài bằng gỗ liễu đỏ. - Đây rồi! Đây rồi! Đủ cho tất cả chúng mầy, cái lũ khốn kiếp, cái quân lắm mồm nầy đây rồi? Những con mụ phù thuỷ dài đuôi nầy? Không có gậy à? Thế cái gì đây hử? Tao sẽ cho tất cả chúng mầy được nếm mùi! Cái sào dài quá không mang được vào trong bếp. Ông già đánh đổ một cái nồi gang, đành ném cái sào rơi ầm ầm ra phòng ngoài rồi ngồi vào bàn và thở như kéo bễ. Rõ ràng tinh thần phấn khởi của ông đã bị hoàn toàn xua tan. Ông không nói gì nữa, cứ cắm cúi ăn và thở phì phì. Tất cả những người khác cũng nín lặng. Daria sợ mình phá lên cười, cứ dán mắt xuống mặt bàn. Bà Ilinhitna thì thở dài thườn thượt, và lẩm bẩm chỉ hơi có thể nghe thấy: "Chao ôi, lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi? Tội lỗi của chúng con lớn quá lắm?" Chỉ một mình Dunhiaska là chẳng còn lòng dạ nào mà cười. Cả Natalia cũng thế. Lúc ông già không có mặt trong phòng, nàng cũng có nụ cười miễn cưỡng, nhưng nét mặt lại lập tức trở lại đăm chiêu và âu sầu. - Đem muối ra đây! Bánh mì đâu? - Chốc chốc ông Panteley Prokofievich lại đưa cặp mắt long lanh nhìn mọi người trong nhà và gầm lên như hăm doạ. Cuộc đấu khẩu trong gia đình đã kết thúc một cách bất ngờ. Trong lúc tất cả mọi người đã nín lặng, thằng Misatka lại làm ông nó khùng lên một trận nữa. Những khi có chuyện điều qua tiếng lại nó đã nhiều lần nghe bà nó gọi ông nó bằng mọi cách chửi mắng và cái tâm hồn trẻ thơ của nó đã hết sức bị kích động khi nó thấy ông nó sắp sửa đánh cả nhà và quát tháo ầm ĩ trong bếp. Bất thình lình nó nói lanh lảnh, hai cánh mũi run run: - Làm gì mà quát lác như thế, con quỷ thọt nầy! Phải nện cho ông mấy gậy vào đầu thì mới hết doạ cả nhà và hết doạ bà? - Mầy nói với tao… với ông mầy… như thế à? - Với ông đấy! - Thằng Misatka can đảm nhận ngay. - Sao mầy lại nói với ông nội của mày… những lời như thế hử? - Nhưng tại sao ông lại quát tháo rầm lên như thế? - Cái thằng oắt con nầy hung hãn khiếp? - Ông Panteley Prokofievich vuốt râu, ngạc nhiên đưa mắt nhìn cả nhà. - Tất cả cũng chỉ tại mụ, mụ phù thuỷ già nầy thôi. Những lời như thế nó nghe ở mụ cả đấy? Mụ đã dạy dỗ nó như thế đấy? - Nhưng ai dạy nó như thế? Nó cũng chỉ liều lĩnh bậy bạ như ông nó và bố nó thôi? - Bà Ilinhitna tự bào chữa, giọng giận dữ. Natalia đứng dậy, bớp cho thằng Misatka vài cái và bảo: - Không được tập cái thói nói với ông như thế nhé! Không được tập tọng như thế nhé! Thằng Misatka rúc mặt vào đầu gối Grigori, gào lên. Vốn rất yêu cháu, ông Panteley Prokofievich chảy cả nước mắt, nhảy ra khỏi bàn ăn, và cũng chẳng buồn lau những giọt nước mắt chảy ròng ròng xuống chòm râu, ông sung sướng kêu toáng lên: - Griska! Con yêu của cha mẹ! Mẹ mầy chứ! Mụ già nói thế mà đúng đấy! Nó đúng là nòi nhà ta? Đúng là dòng máu Melekhov đấy? Cái huyết thống nó đã cho thấy rõ rồi đấy? Cái thằng bé nầy sẽ không chịu câm miệng trước mặt ai đâu? Cháu của ông? Thằng cháu yêu của ông? Chà, mầy hãy đánh thằng già ngu ngốc nầy đi, muốn đánh bao nhiêu cái cũng đánh đi! Mày rứt râu lão ấy đi! - Rồi ông già giằng lấy thằng Misatka trong tay Grigori, nâng cao nó lên trên đầu. Bữa sáng ăn đã xong, mọi người rời khỏi bàn ăn. Cánh đàn bà con gái bắt đầu rửa bát đĩa. Ông Panteley Prokofievich vừa châm thuốc hút vừa bảo Grigori: - Kể ra việc nầy mà nhờ mày làm thì cũng không tiện, vì mày đang là khách của nhà ta, nhưng chẳng còn làm thế nào khác được nữa… Mày hãy giúp tao dựng lại dãy hàng rào, quây lại cái sân phơi thóc, nếu không chỗ nào cũng đổ dụi, mà bây giờ nhờ người ngoài thì cũng không được. Nhà nào cũng đổ nát tan hoang như nhà nào. Grigori vui vẻ nhận lời ngay, và hai bố con cùng làm việc với nhau ngoài sân gia súc cho tới bữa trưa để chữa lại dãy hàng rào. Ông già vừa đóng một cái cọc hàng rào vừa hỏi: - Sắp phải cắt cỏ đến nơi rồi, nhưng tao cũng chưa biết có nên mua thêm ít cỏ hay không. Về công việc làm ăn thì mày bảo nên như thế nào bây giờ? Có đáng đổ công sức ra mà làm ăn hay không? Hay chưa biết chừng chỉ một tháng nữa bọn Đỏ lại kéo đến và mọi việc lại toi công phí sức mẹ nó cả? - Con cũng chẳng biết đâu cha ạ, - Grigori thành thật thú nhận. Con cũng chưa biết tình thế sẽ chuyển biến như thế nào và mèo nào sẽ cắn mỉu nào. Chúng ta cứ sống thế nào cho trong vựa thóc cũng như ngoài sân không có cái gì dư thừa là tốt nhất. Thời buổi nầy tất cả các thứ đó đều chẳng được tích sự gì đâu. Cha cứ xem ông bố vợ của con đấy: nai lưng ra kiếm tiền suốt một đời, chắt chiu dành dụm, làm kiệt cả máu mình lẫn máu người khác, nhưng rồi còn lại được gì? Cuối cùng chỉ còn lại vài cái cột nhà cháy! - Chính tao cũng nghĩ như thế đấy con ạ. - Ông già nén một tiếng thở dài, đồng ý với Grigori. Rồi ông không nói gì thêm về chuyện làm ăn nữa. Mãi đến chiều, khi thấy Grigori lắp quá cẩn thận cái cửa của sân đập lúa, ông mới bực mình nói, không giấu vẻ chua chát: - Qua loa thế nào cũng được thôi? Mày cố làm kỹ như thế làm gì? Cái cửa nầy có đứng vững được suốt đời đâu! Xem ra thì đến bây giờ ông già mới cảm thấy rằng mọi cố gắng của mình nhằm sắp xếp cuộc sống theo lối cũ đều hoàn toàn hoài công vô ích… Mặt trời sắp lặn thì Grigori bỏ công việc đấy quay vào trong nhà. Chỉ có một mình Natalia ở phòng trong. Áo xống của nàng chải chuốt như trong một ngày hội. Một chiếc váy len xanh lam và cái áo ngắn mặc ngoài bằng vải pô-pơ-lin màu xanh da trời mặc rất vừa vặn trên người nàng. Nàng vừa lau rửa bằng xà phòng nên mặt còn đỏ hồng và hơi bóng nhãy. Nàng đang lục lọi trong cái rương để tìm không biết cái gì, nhưng vừa thấy Grigori bước vào, nàng đậy ngay nắp rương rồi mỉm cười đứng thẳng dậy. Grigori ngồi xuống nắp rương và hỏi: - Em ngồi xuống đây một lát, kẻo mai anh đã đi rồi, không kịp nói chuyện gì với nhau nữa. Natalia ngoan ngoãn ngồi xuống bên cạnh chàng và liếc nhìn chàng, ánh mắt có phần sờ sợ. Nhưng Grigori bất thần nắm tay nàng, âu yếm nói: - Nom em tươi tắn, cứ như không phải vừa ốm dậy ấy. - Em khỏi hẳn rồi… Bọn đàn bà chúng em cũng dễ sống như loài mèo ấy. - Nàng nói với nụ cười ngượng nghịu, đầu hơi cúi xuống. Grigori nhìn thấy một bên dái tai mịn hồng phớt phớt lông tơ và chỗ da vàng vàng sau gáy, giữa hai món tóc, bèn hỏi: - Em bị rụng tóc đấy à? - Tóc rụng gần hết. Em sắp hói đến nơi rồi đấy. - Để anh cạo đầu cho em ngay bây giờ nhé! - Grigori bỗng nhiên bảo vợ. - Anh làm sao thế? - Natalia sợ hãi kêu lên. - Như thế thì nom em còn ra sao nữa? - Phải cạo đi, nếu không tóc sẽ không mọc lại được đâu. Nàng đang ngồi bên cạnh chàng, nàng là vợ chàng, cũng là mẹ của thằng Misatka và con Poliuska. Vì chàng, nàng đã mặc quần áo đẹp và đã rửa mặt sạch sẽ. Nàng đã vội vã chít chiếc khăn lên đầu để chàng khỏi nhìn thấy bộ tóc xác xơ của mình sau trận ốm và đang hơi nghiêng đầu sang bên, ngồi với một vẻ đến là đáng thương. Nom nàng có phần xấu đi nhưng vẫn đẹp với một cái đẹp bên trong, thuần khiết và rạng rỡ. Bao giờ nàng cũng mặc những chiếc áo cao cổ để chàng khỏi nhìn thấy vết sẹo xưa kia đã làm xấu hẳn cái cổ của nàng. Tất cả đều vì chàng… Một niềm trìu mến bỗng tràn ngập trong lòng Grigori như một làn sóng dạt dào. Chàng muốn nói với nàng một lời gì đó đầm ấm, âu yếm, nhưng chẳng biết nói như thế nào nên chỉ lặng lẽ kéo nàng vào với mình và hôn vừng trán trắng bệch xuôi xuôi cùng hai con mắt đau thương của nàng. Không, trước kia chàng có vuốt ve nựng nịu nàng bao giờ đâu. Acxinhia đã lấn át nàng suốt cuộc đời. Nàng xúc động run cả người trước sự biểu lộ tình cảm của chồng và mặt vẫn còn bừng bừng vì cảm động, nàng nắm lấy bàn tay chồng, đưa lên môi mình. Hai người nín lặng ngồi chừng một phút. Vừng mặt trời đang xuống núi rọi vào phòng trong những tia đỏ rực. Hai đứa trẻ nô đùa ầm ĩ ngoài thềm. Có tiếng Daria kéo những lon sữa hâm lại trong lò ra và bực bội nói với mẹ chồng: "Có lẽ mấy con bò không được mẹ vắt sữa đều hàng ngày. Xem con bò già càng ngày càng ít sữa rồi đấy, Đàn bò đi ăn rong đã từ ngoài bãi trở về thôn. Có tiếng những con bò rống ầm ĩ, tiếng quất đen đét của những ngọn roi tết bằng lông đuôi ngựa. Con bò giống của thôn rống lên từng đợt giọng khàn khàn. Mòng cắn đến chảy máu cái yếm trước ngực mượt như xa tanh và cái lưng xuôi chắc nịch của nó. Con bò mộng hung hãn lắc mạnh đầu: trong khi đi, hai cái sừng ngắn nhưng choãi rất rộng của nó bị mắc vào hàng rào nhà Astakhov. Con bò làm đổ một đoạn hàng rào rồi lại đi, Natalia nhìn qua cửa sổ nói: - Cả đến con bò mộng cũng rút lui sang bên kia sông đấy. Mẹ kể rằng trong thôn vừa bắt đầu có tiếng súng nổ là nó bơi thẳng từ chuồng bò qua sông và suốt thời gian qua nó đã trốn ở chỗ khuỷu sông. Grigori nín lặng suy nghĩ. Tại sao hai con mắt Natalia cứ rầu rĩ như thế? Và trong cặp mắt ấy lại có một cái gì thầm kín, khi ẩn khi hiện, rất khó nhận thấy. Ngay trong những phút sung sướng nàng vẫn có vẻ buồn buồn và có cái gì rất khó hiểu… Chưa biết chừng nàng đã được nghe nói về chuyện chàng có gặp Acxinhia ở Vosenskaia? Cuối cùng chàng hỏi: - Tại sao hôm nay em cứ buồn buồn thế nào ấy? Trong lòng em có chuyện gì thế, Natalia? Em thử nói xem nào? Và chàng chờ nhìn thấy những giọt nước mắt, nghe thấy những lời trách móc… Song Natalia kinh hãi trả lời: - Không, không, anh tưởng tượng ra như thế thôi, em chẳng sao cả. Thật ra thì em vẫn chưa khỏi hẳn. Đầu em vẫn choáng váng, hễ cúi xuống hay nhấc cái gì lên là mắt tối sầm lại. Grigori nhìn nàng, có ý thăm dò rồi lại hỏi: - Không có anh ở nhà, không có chuyện gì xảy ra với em chứ? Chúng nó không đụng đến em chứ? - Không đâu, anh nói gì vậy? Suốt thời gian qua em ốm liệt giường. - Nàng nhìn thẳng vào mắt Grigori, thậm chí còn khẽ mỉm cười. - Ngày mai anh đi từ sáng sớm? - Trời hửng đã đi rồi. - Thế không nghỉ thêm một ngày hay sao? - Trong giọng nói của Natalia có thể cảm thấy một ý hy vọng rụt rè mong manh. Nhưng Grigori lắc đầu ra ý không được. Natalia bèn thở dài nói: - Bây giờ thì sao,… anh phải đeo lon chứ? - Cũng phải đeo thôi. - Nào, thế thì anh cởi áo ra, để em khâu vào cho trong lúc trời còn sáng. Grigori è è trong họng, rút đầu ra khỏi cái áo quân phục cổ chui. Cái áo còn chưa ráo mồ hôi. Vài đám vải ướt đen lại trên lưng và trên vai, đó là những dải bị những dây da đeo vai sát vào bóng nhoáng. Natalia lấy trong chiếc rương ra những cái lon vai dãi nắng bạc cả màu rồi hỏi: - Những cái nầy phải không anh? - Đúng những cái ấy đấy. Em còn giữ được cơ à? - Ở nhà đã đem cái rương chôn xuống đất. - Natalia vừa xâu chỉ vào lỗ kim vừa nói lí nhí, rồi len lén đưa chiếc áo đầy bụi lên mặt, hít lấy hít để cái mùi mồ hôi mặn mặn thân thuộc. - Em làm gì thế? - Grigori ngạc nhiên hỏi. - Nó có cái mùi của anh… - Natalia nói, hai con mắt long lanh rồi nàng cúi đầu để giấu cặp má bất thần đỏ ửng và bắt đầu khâu thoăn thoắt. Grigori mặc chiếc áo quân phục rồi cau mày, ngọ nguậy hai vai. - Anh đeo lon vào nom đẹp hơn! - Natalia vừa nói vừa ngắm chồng với một vẻ trầm trồ không giấu diếm. Nhưng chàng liếc nhìn bên vai trái của mình rồi thở dài. - Chỉ mong sao suốt đời đừng phải trông thấy nó. Em thật chẳng hiểu gì cả! Hai người còn ngồi rất lâu trên chiếc rương ở nhà trong tay nắm lấy tay và đều nín thinh theo đuổi những ý nghĩ riêng của mình. Rồi đến khi trời hoàng hôn, khi những ngôi nhà đã trải dài những cái bóng tím sẫm xuống mảnh đất đang nguội dần, hai vợ chồng vào bếp ăn bữa tối. Rồi một đêm đã qua. Những ánh chớp cứ lóe lên nhoáng nhoàng trên trời cho đến lúc bình minh. Tới khi trời sáng bạch những con hoạ mi vẫn còn hót râm ràn trong vườn anh đào. Grigori đã tỉnh dậy, song chàng vẫn nhắm mắt nằm lại rất lâu, lắng nghe những tiếng hót ngọt ngào của những con hoạ mi, rồi cố không làm Natalia thức giấc, chàng nhẹ nhàng đứng lên, mặc quần áo, ra sân gia súc. Ông Panteley Prokofievich đang cho con ngựa chiến ăn thóc. Ông săn đón bảo Grigori: - Mầy hượm một chút, tao dắt nó đi tắm trước khi nó phải chạy chặng đường xa nhé! - Chẳng cần tắm cũng được. - Grigori rùng mình vì hơi ẩm ban mai. - Mày được ngủ ngon chứ? - Ông già hỏi. - Con ngủ kỹ lắm! Nhưng lại bị những con hoạ mi đánh thức dậy. Thật là tai hại, chúng nó léo nhéo suốt đêm… Ông Panteley Prokofievich tháo cái túi thóc trên đầu ngựa, mỉm cười - Chúng nó chỉ có cái việc ấy mà làm thôi con ạ. Có lúc mình cũng phát ghen với những con chim nhỏ ấy của Thượng đế… Chẳng phải chịu đựng chiến tranh mà cũng chẳng bị phá sản. Prokho đã cưỡi ngựa đến trước cổng. Hôm nay hắn râu ria nhẵn nhụi, vẫn vui tính và hay chuyện như bao giờ cũng vậy. Hắn buộc dây cương vào một cái cọc rồi bước tới trước mặt Grigori. Chiếc áo bằng vải buồn của hắn được là phẳng phiu, hai cái lon còn mới đính trên vai. - Cả anh cũng đeo lon rồi à, anh Grigori Panteleevich? - Hắn vừa bước tới vừa kêu lên. - Những cái của khốn khiếp nầy đã nằm đợi mãi rồi đây! Bây giờ thì chúng mình sẽ đeo nó đến trọn đời mãn kiếp! Cũng đủ để dùng đến chết đấy! Tôi đã bảo nhà tôi: "Ngốc vừa chứ, đừng có khâu chặt nó vào. Cứ đính qua loa một chút thôi, gió thổi khỏi bay là được? " Không làm như thế thì số phận của chúng ta rồi sẽ ra sao? Nếu mình bị bắt làm tù binh, chúng nó nhìn vào cái lon là sẽ nhận ra ngay. Tuy tôi không có hàm sĩ quan nhưng dù sao cũng là một ông thượng sĩ. Rồi chúng nó lại bảo: "À, đồ khốn nạn, mầy đã biết đi lính lập công thì cũng phải biết giơ đầu ra chịu đựng chứ!" Anh thử nghĩ xem, hai cái lon của tôi chỉ lắt lẻo trên vai như thế nầy thôi nầy? Thật chết cười. Quả thật hai cái lon của Prokho chỉ được đính qua quít vài mũi và chỉ hơi bám vào áo một chút. Ông Panteley Prokofievich cười khà khà. Hai hàm răng rất trắng của ông chưa hề chịu ảnh hưởng của tuổi tác cứ nhấp nhoáng sau chòm râu hoa râm. - Đây mới là một thầy quyền ra thầy quyền! Như thế tức là chỉ hơi có chuyện gì là đả đảo lon vai ngay có phải không? - Thế ông nghĩ như thế nào hả? - Prokho nhếch mép cười. Grigori mỉm cười nói với bố: - Cha thấy chưa, con đã kiếm được một tay liên lạc như thế nầy đấy? Với một anh chàng như thế nầy mà gặp chuyện chẳng may thì sẽ chẳng bao giờ mất mạng đâu! - Nhưng anh Grigori Panteleevich ạ, anh cũng biết rằng tục ngữ đã có câu: Anh hãy chết hôm nay đi, mai mới đến lượt tôi. - Prokho nói chữa lại rồi nhẹ nhàng rứt hai cái lon ra và nhét rất cẩn thận vào trong túi. - Chúng ta ra đến mặt trận rồi lại đính vào cũng được. Grigori vội vã ăn bữa sáng rồi từ biệt gia đình. - Cầu Nữ hoàng trên trời che chở cho con! - Bà Ilinhitna hôn con trai và lẩm bẩm với giọng cuồng nhiệt. - Cả nhà ta chỉ còn lại một mình con thôi đấy. - Thôi, tiễn đưa đường dài, chỉ hoài nước mắt. Tạm biệt cả nhà! - Grigori nói giọng run run rồi bước tới bên con ngựa. Natalia chít vội chiếc khăn đen hình tam giác của mẹ chồng lên đầu, chạy ra cổng. Hai đứa trẻ cứ bám lấy vạt váy mẹ. Con Poliuska khóc nức nở, không làm thế nào dỗ được. Nó van xin mẹ, giọng nghẹn ngào vì nước mắt. - Đừng để cho cha đi! Mẹ yêu của con, mẹ đừng để cho cha đi! Ra trận chúng nó sẽ giết mất cha thôi? Cha ơi cha, cha đừng ra ngoài ấy làm gì! Môi của thằng Misatka run run, nhưng nó không khóc. Nó can đảm cố trấn tĩnh rồi nói với em nó giọng giận dữ. - Đừng có nói bậy, đồ ngốc! Ở ngoài ấy đâu phải mọi người đều bị giết? Nó còn nhớ như in những lời ông nó nói; người Cô-dắc không bao giờ khóc, và đối với người Cô-dắc, khóc là một điều rất nhục nhã. Nhưng đến lúc cha nó ngồi trên mình ngựa bế nó lên cho nó ngồi trên yên và hôn nó thì nó hết sức ngạc nhiên thấy hai hàng lông mi của cha nó ướt đẫm. Đến lúc nầy thì thằng Misatka không chịu nổi sự thử thách nữa: nước mắt nó chảy xuống ròng ròng như những hạt mưa đá. Nó rúc mặt vào bộ ngực đeo lằng nhằng những đoạn dây da của cha nó và kêu lên: - Tốt nhất cứ để cho ông đi mà đánh nhau? Không cần ông ở nhà làm gì cả! Con không muốn để cha đi đâu? Grigori đặt cẩn thận thằng con trai nhỏ của chàng xuống đất, đưa mu bàn tay lên chùi nước mắt rồi lặng lẽ thúc con ngựa cất bước. Đã bao lần con ngựa chiến đã quay quắt mình, đạp móng xuống đất xới tung đất bên cạnh cái thềm nhà thân yêu, đưa chàng trên những con đường cái và những vùng đồng cỏ không đường không lối tiến ra mặt trận, nơi cái chết đen tối luôn luôn chờ đón những anh chàng Cô-dắc, nơi "từng ngày từng giờ chỉ có "kinh hoàng và đau khổ" như lời của một bài dân ca Cô-dắc đã nói, nhưng chưa bao giờ Grigori rời khỏi thôn xóm với nỗi lòng nặng nề như trong buổi sáng êm dịu nầy. Nhức nhối day dứt vì những dự ảm mơ hồ, vừa lo lắng vừa phiền muộn, chàng ném dây cương lên mũi yên, mặc cho con ngựa tự leo lên đỉnh gò, còn mình thì không ngoái đầu lại lần nào. Tới chỗ ngã tư nơi con đường lầm bụi rẽ về bên trái cái cối xay gió, chàng mới quay đầu nhìn lại. Bên cổng nhà chỉ còn một mình Natalia. Một ngọn gió mát rượi lúc trời sắp sáng giật chiếc khăn màu tang[304] khỏi tay nàng. Vài đám mây bị gió thổi sủi ngầu chập chờn, chập chờn trôi trên cái đáy xanh ngắt sâu thẳm của bầu trời. Một làn sương mù trườn theo đường viên gợn sóng của chân trời. Hai con ngựa đi lững thững bước một. Prokho mơ màng, ngật ngưỡng trên yên. Grigori nghiến chặt hai hàm răng, chốc chốc lại quay nhìn phía sau. Đầu tiên chàng nhìn thấy những đám liễu xanh rờn, dòng sông Đông đỏng đảnh trườn ngoằn ngoèo như một dải bạc, cái cối xay gió từ từ quay những cái cánh dài rộng. Rồi con đường chạy về phía nam. Dòng sông Đông và cái cối xay gió khuất dần sau những đám lúa bị dẫm nát ven sông… Grigori huýt sáo một bài gì đó, mắt cứ nhìn vào cái cổ hồng hồng óng óng của con ngựa đầy những giọt mồ hôi nhỏ lóng lánh như hạt cườm, và không còn xoay người nhìn lại nữa… Thôi mặc mẹ nó, mặc mẹ cái cuộc chiến tranh nầy! Các trận chiến đấu đã nổ ra trên sông Tria, đã tràn sang sông Đông, rồi sau đó sẽ làm mưa làm gió trên sông Khop, sông Medvedicha, sông Buduluc. Mà suy đến cùng thì một viên đạn địch quật chàng xuống đất ở nơi nào mà chẳng thế? Chàng nghĩ thầm như vậy. Chú thích: (1) Đối với người phương tây màu tang không phải là màu trắng mà là màu đen (ND)