Bút ký Tên sách: Ký ức đường Trường Sơn Tác giả: Lưu Trọng Lân Nhà xuất bản Trẻ + Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân Năm xuất bản: 2004 Khổ: 14x20 cm ------------------------------ Đánh máy: Ptlinh – Trái tim Việt Nam online Tạo ebook: Cotyba Ngày hoàn thành: 19/01/2007 MỤC LỤC Nhớ mãi một người anh Người cán bộ công binh Trường Sơn Những bông hoa Trường Sơn Tình đồng đội Có một ngã ba Đồng Lộc như thế Đôi bạn trên tàu Dưới đáy ba lô người chiến sĩ Dặm đường Trường Sơn Trong hang đá Trường Sơn Khẩu pháo 100 li “độc thân” giữa rừng Trường Sơn Khẩu đội trưởng của tôi Đại đội trưởng… giả Đêm Trường Sơn chúng con nhớ Bác! Đường Hồ Chí Minh trên đất Quảng Bình Từ đường Trường Sơn chúng tôi đi vào chiến dịch Hồ Chí Minh Anh lái xe Trường Sơn Nhớ mãi một người anh Một buổi sáng tháng 8 năm 1965, tôi nhận được điện lên ngay Quân chủng Phòng không-Không quân nhận lệnh. Chưa biết sẽ nhận nhiệm vụ gì, nhưng lòng tôi cứ thấy lo lo. Đơn vị tôi là một tiểu đoàn độc lập, trực thuộc quân chủng, vừa mới hình thành, chưa có nền nếp. Cán bộ từ tiểu đoàn đến khẩu đội đều là sĩ quan, hạ sĩ quan. Nhưng tát cả chiến sĩ thì đều là lính mới. Họ mới được tuyển chọn từ các trường đại học và trung cấp ở Hà Nội. Anh em đa phần là sinh viên năm thứ nhất và thứ hai, chưa qua một ngày huấn luyện kỹ thuật bắn máy bay, mặc dầu trước đó, khi còn ở nhà trường, học đã được học qua về quân sự. Vào phòng làm việc của Bộ Tư lệnh, thấy đồng chí Phùng Thế Tài, tôi liền dập gót đứng nghiêm: -Báo cáo Tư lệnh, tôi, Lưu Trọng Lân, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 có mặt. -Tốt! Cậu đến rất đúng giờ.-Và không để cho tôi nói thêm, đồng chí Tài bảo tôi lấy sổ tay ra ghi lệnh: -Tối nay, 11 tháng 8, tiểu đoàn 6 đi nhận vũ khí. -Ngày mai, 12 tháng 8, tổng lau toàn bộ pháo, đạn. -Hai ngày tiếp theo 13 và 14 tháng 8, huấn luyện bộ đội. Ngay tối 14 tháng 8 ra quân chiến đấu. Kế hoạch hành quân và nhiệm vụ phối thuộc tác chiến thế nào, Bộ Tham mưu sẽ có lệnh sau. Bây giờ cậu sang Phòng Quân lực để nghe hướng dẫn kế hoạch nhận vũ khí, rồi về đơn vị tổ chức thực hiện ngay. Mặc dầu trong bụng tối như tơ vò, vì nhiệm vụ cấp bách quá, nhưng tôi vẫn đứng lên: -Báo cáo Tư lệnh, rõ! Xin nghiêm chỉnh chấp hành! Được cơ quan quân lực lượng hướng xong, tôi vội vàng lên xe ra về. Ngồi trên xe, tôi tự nhủ: phải vắt chân lên cổ mà chạy, nhưng đừng cuống. Hãy bình tâm suy nghĩ, dự kiến ngay việc phân công cán bộ và kế hoạch thời gian để lát nữa sẽ bàn với anh Thành, chính trị viên. Vừa chui vào lều, tôi thấy anh Thành đang tiếp khách. Tranh tối tranh sáng, chưa kịp nhận ra ai, thì tôi đã nghe anh Thành nói: -Anh Lân! Chính uỷ Đặng Tính xuống thăm… Tôi vội đưa tay lên vành mũ: -Xin chào thủ trưởng! -Ngồi xuống đây! Chính uỷ bảo tôi ngồi, rồi tự tay bưng ly nước chanh mà anh Thành vừa pha mời chính uỷ, ấn vào tay tôi: -Tiểu đoàn đi xa về, chắc đang khát. Uống đi! Tôi sẽ uống sau. Nhìn nét mặt ân cần của chính uỷ, cảm động quá, tôi cảm ơn, rồi bưng ly nước chanh, uống vài hơi hết sạch. -Gặp anh Tài rồi phải không?? Nhiệm vụ khẩn cấp lắm phải không? Tôi thưa ngay: -Báo cáo chính uỷ, đúng là quá gấp ạ! Không có thời gian chuẩn bị huấn luyện. Thời gian huấn luyện lại chỉ có hai ngày… Anh Đặng Tính cười độ lượng: -Quân chủng rất hiểu nỗi băn khoăn của các đồng chí. Nhưng các đồng chí thấy đấy, không quân Mỹ đã vượt vĩ tuyến 20. Chúng đang mon men đến gần Hà Nội. Chúng ta phải chạy đua với địch, chạy đua với thời gian. Cụm Tiền phương I của quân chủng đang chờ sự có mặt của tiểu đoàn 6. Thời gian ngắn thì ta huấn luyện theo kiểu ứng dụng, cần gì học nấy. Không được bắn đạn thật trên trường bắn thì các đồng chí sẽ bắn đạn thật ngay trong trận nổ súng đầu tiên vào máy bay Mỹ. Hiểu được như thế, các đồng chí sẽ có đầy đủ quyết tâm khắc phục khó khăn về thời gian để hoàn thành nhiệm vụ. Đôi mắt hiền từ của anh nhìn tôi ánh lên niềm vui. Anh lại cười, hỏi: -Thế nào? Được chứ! -Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi đã hiểu và xin chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của Bộ Tư lệnh. Anh Đặng Tính đứng lên, cùng mấy cán bộ đi cùng, vui vẻ bắt tay chúng tôi ra về. Mà cũng không biết anh về nhà, về cơ quan hay là anh lại tiếp tục đến với đơn vị nào đó đang chờ sự có mặt của anh. Đợi xe anh Đặng Tính đi khuất, chúng tôi quay vào lều hội ý Đảng uỷ và Ban Chỉ huy tiểu đoàn. Chúng tôi phân công nhau: anh Thành, anh Thường chính trị viên tiểu đoàn cùng các chính trị viên đại đội lo phần công tác chính trị, lãnh đạo tư tưởng. Tôi với anh Tý tham mưu trưởng, cùng các đại đội trưởng lo khâu huấn luyện. Anh Bằng tiểu đoàn phó cùng các đồng chí đại đội phó lo việc tiếp nhận và bảo quản vũ khí. Trong khi bộ đội tiến hành lau pháo, đạn, thì hệ thống cán bộ quân sự cấp trưởng tập trung bồi dưỡng giáo viên. Nội dung huấn luyện lấy thực hành là chính. Ngày đầu huấn luyện pháo thủ. Ngày thứ hai, huấn luyện hiệp đồng khẩu đội, trung đội và đại đội. Thế rồi ba ngày ngắn ngủi qua trong sự cập rập, vội vã nhưng cũng ăn khớp, nhịp nhàng. Chấp hành mệnh lệnh, ngay đêm 14 tháng 8, tiểu đoàn chúng tôi “xe pháo hành quân" lên hướng Phú Thọ, để cùng với cụm Tiền phương I của quân chủng dàn trận phục kích đánh địch, bảo vệ nhà máy phốt phát Lâm Thao. Trưa 16 tháng 8, trận đánh diễn ra thắng lợi. Riêng lực lượng pháo cao xạ, trong đó có tiểu đoàn 6, hiệp đồng bắn rơi ba chiếc F105. Vậy là tiểu đoàn 6 chúng tôi, trong bước đi chập chững ban đầu đã hoàn thành nhiệm vụ. Vui mừng trước sự trưởng thành của đơn vị, lòng toi nhớ về anh Đặng Tính. Trong những tháng năm diễn ra cuộc chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc, là một cán bộ ở dưới trung đoàn, tôi ít được gặp anh Đặng Tính, nhưng nghe kể về anh thì lại rất nhiều. Là tư lệnh kiêm chính uỷ Quân chủng Phòng không-Không quân (Tháng 8 năm 1967, đồng chí Phùng Thế Tài lên làm Phó tổng Tham mưu trưởng,đồng chí Đặng Tính kiêm luôn Tư lệnh Quân chủng) anh thực sự là linh hồn của toàn quân chủng. Mỗi lần có dịp lên thăm Bác Hồ trở về, anh đều kể lại cho cán bộ nghe về niềm vui của Bác mỗi khi nhận được tin các đơn vị phòng không hoặc các chiến sĩ lái máy bay của ta lập công bắn rơi máy bay giặc; về sự quan tâm của Bác theo dõi từng bước hành quân của trung đoàn tên lửa 238 vào giới tuyến tìm cách bắn rơi B52, hoặc về mối băn khoăn của Bác đối với sức khoẻ của chiến sĩ trên trận địa trong mùa nắng nóng, đối với mỗi nhịp cầu, mỗi góc phố bị bom Mỹ đánh sập, cả đến mỗi trường hợp đạn tên lửa của ta, do bị mất điều khiển, rơi trúng nhà dân… Từng lời, từng lời, anh truyền đến cho mỗi cán bộ niềm kính yêu vô hạn đối với Bác Hồ. Càng leo thang, giặc Mỹ càng điên cuồng, tàn bạo, cường độ ném bom càng dữ dội, quyết liệt. Là Tư lệnh kiêm Chính uỷ quân chủng, nhưng bất chấp đạn bom, anh Đặng Tính có mặt ở mợi nơi nóng bỏng nhất: Hà Nội, Hải Phòng, đường 5, đường 1 Nam, đường 1 Bắc. Rồi anh đi vào tuyến lửa Quân khu 4, vượt qua nhiều trọng điểm ác liệt để đến với các chiến sĩ phòng không giữa chiến trường. Trên các trận địa pháo cao xạ bốn bề bom đạn, với chiếc mũ sắt trên đầu, anh đứng thẳng người theo dõi cuộc chiến đấu, quan sát máy bay quân thù đang lao xuống và luồng đạn của pháo ta bắn lên, để góp ý với cán bộ chỉ huy về thời cơ bắt đầu bắn. Trong đài điều khiển chật hẹp của tiểu đoàn tên lửa, nơi mà bất kể lúc nào cũng có nguy cơ bị những quả tên lửa không đối đất (Shrike) của địch phóng trúng, anh Đặng Tính không nề hiểm nguy, đứng sau lưng các trắc thủ, sĩ quan điều khiển, quan sát diễn biến trận đánh trên màn hiện sóng, để từ đó có cơ sở thống nhất những ý kiến về phương pháp đánh của bộ đội tên lửa trong điều kiện bị địch gây nhiễu nặng. Đến với các đơn vị ra-đa được trang bị những bộ khí tài cũ kỹ từ thời chiến tranh thế giới lần thứ II, anh dặn dò các trắc thủ: “Máy cũ nhưng tinh thần chúng ta mới. Khí tài thô sơ, nhưng chúng ta có những bộ óc sáng tạo của trắc thủ ra-đa Việt Nam. Nhất định chúng ta sẽ hoàn thành nhiệm vụ". Bám sát cuộc sống chiến đấu của bộ đội Phòng không-Không quân, anh Đặng Tính lắng nghe từng hơi thở, từng tiếng lòng của chiến sĩ. Anh vui nỗi vui của chiến sĩ khi quật ngã được máy bay thù, anh đau nỗi đau của chiến sĩ khi xảy ra tổn thất, hy sinh. Có lúc cả hội trường quân chủng lặng đi khi nghe anh kể về những tấm gương chiến đấu kiên cường của các pháo thủ bảo vệ Thủ đô, hoặc nhộn nhịp hẳn lên khi nghe anh đọc những lời thơ hùng tráng của các pháo thủ bảo vệ đường 5. Anh đọc thơ chiến sĩ, anh đọc cả thơ anh. Hồn thơ anh hoà quyện cùng hồn thơ chiến sĩ. Sau những ”chuyến đi thực tế” của anh Đặng Tính trở về, người ta thấy trong nghị quyết của Đảng uỷ, trong chủ trương của Bộ Tư lệnh Quân chủng có thêm những điều mới, những chất xúc tác mới, tạo nên những sự chuyển mình mới trong toàn quân chủng. Mùa khô 1971-1972, trung đoàn 227 của tôi làm nhiệm vụ bảo vệ đường 12, từ Khe Ve đến Ka Vát. Là trung đoàn phó chỉ huy cụm tác chiến tiền phương, vào một ngày tháng 11 năm 1971, tôi được lệnh lên sở chỉ huy Đoàn 559 dự hội nghị. Ở đây, tôi may mắn gặp lại anh Đặng Tính, lúc này đã là Chính uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Tôi chào anh. Anh nhìn tôi ngờ ngợ, rồi như chợt nhận ra, anh bắt tay tôi thật chặt, và với nụ cười rộng mở, anh hỏi: -Lưu Trọng Lân phải không? Cậu vào Trường Sơn từ bao giờ? -Thưa anh từ năm ngoái. Anh em ngoài quân chủng vẫn thường nhắc tới anh. -Mình cũng nhớ anh em ngoài đó lắm! Thôi! Vào đây uống nước đã! Anh dẫn tôi vào phòng của anh, đưa tôi mấy thỏi lương khô màu nâu và phối hợp cho tôi một ca nước sâm rừng. Sáng hôm sau, tại hội nghị có đông đủ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp ở các binh trạm, các trung đoàn, chúng tôi nghe Bộ Tư lệnh phổ biến tình hình, nhiệm vụ mới. Cho mãi tới bây giờ tôi vẫn không quên hình ảnh của anh Đặng Tính, tiếng nói của anh trong cuộc họp hôm đó. Anh nói: -Không quân địch quyết ngăn chặn chiến dịch vận chuyển mùa khô 1971-1972 của ta. Trong khi xe ta vẫn chạy ban đêm trên những đoạn đường hở, thì những máy bay AC130 của Mỹ, được lắp máy ngắm bằng tia hồng ngoại, đã tiến hành săn đuổi đội hình xe của ta rất gắt gao, gây cho ta nhiều tổn thất. Muốn hoàn thành kế hoạch vận chuyển, chúng ta phải khẩn trương mở những con đường kín, như kinh nghiệm ở binh trạm 32 đã làm, chuyển số lớn đội hình xe từ chạy đêm sang chạy ngày. Lực lượng pháo cao xạ sẽ được tập trung ở các khu vực trọng điểm trên tuyến đường hở còn lại, để trị “bọn“ AC130. Mắt anh Đặng Tính hướng về các cán bộ trung đoàn pháo cao xạ, như để nhắc nhở. Rồi anh lại nói tiếp: -Trước đây ta chỉ có đường H (hở). Nay phải có thêm đường K (kín). Anh em ta sẽ vừa “ca” vừa “hát” suốt dọc Trường Sơn. Nhất định chúng ta sẽ giành thắng lợi trong mùa khô 71-72 này. Anh Đặng Tính lại cười, nụ cười luôn rạng rỡ của anh. Cả hội trường cùng cười theo. Riêng tôi thầm nghĩ: anh Đặng Tính quả là con người có sức thuyết phục lớn. Bằng lời lẽ giản dị, dí dỏm, những nội dung phức tạp đã được anh chuyển hoá thành những điều đơn giản, dễ hiểu, lôi cuốn lòng người. Sau hội nghị đó, lực lượng pháo cao xạ chúng tôi (37 ly, 57 ly, 100 ly) dồn cả về các trọng điểm trên tuyến đường hở, để sống mái với bọn AC130, bảo vệ đoàn xe (Trung đoàn tôi dồn phần lớn lực lượng về trọng điểm nổi tiếng ác liệt: Xóm Péng). Kế hoạch mở đường kín được tiến hành hết sức khẩn trương. Chỉ trong một thời gian ngắn đường lớn đã trở thành hệ thống đường chủ lực, có hiệu quả cao, phục vụ đắc lực cho chiến dịch vận chuyển mùa khô. Sau Hiệp định Pari, tôi về cơ quan Quân chủng Phòng không-Không quân, công tác ở Bộ tham mưu. Tôi thầm mong có dịp được gặp lại anh Đặng Tính. Nhưng rồi một tin đau xót đã đến: “Ngày 4 tháng 4 năm 1973, đồng chí Đặng Tính, Chính uỷ Binh đoàn Trường Sơn, đã hy sinh trên đường công tác”. Mắt tôi nhoà lệ và lòng tôi quặn đau. Tôi đã vĩnh viễn mất một người đồng chí, một người anh. Người cán bộ công binh Trường Sơn Đêm hôm ấy, tôi đi nhờ xe tiểu đoàn 65, thuộc binh trạm 12, xuất phát từ tây bắc Khôn Kèn, để vào Tà Lom công tác. Vì trong cabin chật chội, để không làm vướng tay lái, tôi đề nghị với Hùng lái xe, cho tôi được ngồi trên thùng. Thùng xe không mui, chở toàn là gạo, những bao gạo của hậu phương gửi vào chiến trường. Lên xe, tôi sắp xếp lại mấy bao, tạo chỗ dựa để ngồi cho thoải mái. Đoàn xe chuyển bánh. Tất cả đều đi đèn gầm. Chiếc đèn nhỏ lắp dưới gầm xe chỉ đủi soi sáng một vùng nho nhỏ, vàng nhạt. Xa xa phía trước đã thấy lơ lửng những ngọn đèn dù cho máy bay Mỹ thả xuống, giăng hàng. Đoàn xe cứ chạy. Khi sắp đến ngầm U trên một nhánh sông Xê Băng Phai, các xe tạm ngừng, chờ cho những chiếc đèn dù tắt hẳn. Lợi dụng thời cơ khi đèn dù tắt, mấy chiếc xe đi đầu tranh thủ lao xuống suối, chiếc nọ nối chiếc kia, lội qua ngầm (Ngầm: đường chìm vượt qua suối, lát bằng đá, sâu khoảng 50, 60 cm). Mỗi chiếc xe qua, nước bắn tung toé làm ướt cả quần áo của các chiến sĩ công binh đứng bên đường làm lộ tiêu. Sắp đến lượt xe tôi, thì trên không bỗng “bụp”, “bụp”… hai chiếc, rồi bốn chiếc, tám chiếc đèn dù bật sáng, chói loà. Xe nào đã lỡ xuống, lập tức tăng ga, lao nhanh lên bờ. Xe nào chưa qua thì dừng ngay tại chỗ, lái xe tìm chỗ ẩn nấp. Tôi cũng nhảy xuống xe, tìm ngay được một hố cá nhân đào sẵn bên đường. Tiếng máy bay phản lực gầm lên như xé không khí. Tiếp theo những loạt bom phá rung chuyển trời đất là những loạt bom bị nổ ran ran. Sau khi bọn “chó ngao” cút đi, hình như không có ai việc gì. Máy bay Mỹ ném bom chệch mục tiêu cùng là chuyện bình thường. Các chiến sĩ lái, cả tôi nữa, lại trèo lên xe tiếp tục cuộc hành quân. Xe tôi vừa chớm mép nước thì đã thấy các anh công binh làm lộ tiêu đứng cả dưới nước rồi. -Anh Cư ơi! Thằng Ngoan đâu không thấy?-Một chiến sĩ hỏi anh cán bộ. -Ngoan ơi! Ngoan ơi!-Tiếng gọi của người tên là Cư ấy ngân dài trong đêm. Bỗng một bóng người lao vút từ trên bờ xuống. -Ngoan đây! Ngoan đây! Trung đội trưởng cứ yên trí! Hà hà! Chiếc dẹp tụt quai, em phải ngồi xâu lại một chút thôi mà. Hình như Cư là trung đội trưởng, trực tiếp làm nhiệm vụ với các chiến sĩ công binh ở ngầm U này. Ngồi trên thùng xe, tôi đưa tay vẫy chào Cư và các chiến sĩ công binh mà cảm thấy có cái gì nghèn nghẹn ở cổ. Giữa cái nơi bom đạn liên miên ấy, cái sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc mà sao các anh lại bình thản đến lạ lùng. Nhiệm vụ của các anh là bám ngầm, làm “lộ tiêu sống”, cho xe qua trong đêm tối. Khi ngầm bị bom đánh trúng, các anh liền ra tay sửa chữa. Bằng những thỏi mìn, bằng cuốc xẻng và cả bằng tay không, các anh hối hả chuyển hàng chục mét khối đá, san lấp hố bom, cái công việc mà các anh thường gọi là “vá ngầm”, để bảo đảm ngầm thông với thời gian nhanh nhất. Khi đoàn xe qua hết, họ kéo nhau xuống mấy căn hầm chữ A nào đó, rít vài hơi thuốc lào, nhấm nháp mấy thỏi lương khô, dốc bi-đông nước tu một hơi, rồi lăn ra ngủ, chờ một đoàn xe khác lại đi qua. Tôi là con nhà pháo, pháo cao xạ bảo vệ Trường Sơn, gắn bó với từng con đường, với mỗi bánh xe lăn. Vì vậy tôi hiểu khá rõ về các anh, những chiến sĩ lái xe can trường, những chiến sĩ công binh và thanh niên xung phong dũng cảm, thấu hiểu công sức và tâm hồn cao đẹp của các anh, chị em, những con người quên mình, ngày đêm bám trụ con đường chiến lược chi viện cho miền Nam. Để bảo đảm an toàn, trong khi xe vẫn chạy, tôi kéo bao gạo chất cao lên, tạo thành một cái “hầm” nhỏ, đủ lọt mình nằm xuống. Tôi định đánh một giấc, nhưng làm sao ngủ được khi chiếc xe cứ xóc liên hồi, có khi còn chồm lên như ngựa. Xe qua hết trọng điểm này sang trọng điểm khác. Lại những chùm đèn dù, khi gần, khi xa, khi ngay giữa đỉnh đầu. Có lần một loạt bom thả phía sau, theo quán tính Hùng vội lái xe vươn nhanh về phía trước. Hết đường xóc đến đoạn đường bằng, hai bên trống trải. Hơi sương lạnh buốt, tôi ôm sát chiếc ba lô vào ngực và chợt nghĩ: giá giờ đây được ngồi trong cabin xe thì ấm biết bao! Đêm không trăng nhưng trời trong veo, sao trời dày đặc. Nằm ngửa trên xe, tôi chợt nhớ tới kỷ niệm thời thơ ấu được cậu ruột tôi là Thiềm (đã hy sinh hồi Nam tiến 1946) chỉ dẫn những chòm sao: phía bắc là sao Bắc Đẩu nằm trong chòm Đại Hùng tinh và Tiểu Hùnh tinh; phía nam là sao Nam Tào. Kia là chòm sao Chiến Sĩ, sao Tua Rua, sao Thần Nông… Vắt ngang trời là dải Ngân Hà bàng bạc, mờ ảo. Đây thực sự là những giây phút thư giãn quý hiếm. Tôi như thả hồn vào trời sao. Trong tiếng ì ầm đều đều của xe, tôi hứng chỉ ngâm nga mấy câu thơ của Lưu Trọng Lư (Nhà thơ Lưu Trọng Lư-tác giả gọi là chú ruột). “Đây là dải Ngân Hà Anh là chim ô thước Sẽ bắc cầu, nguyện ước Một đêm một lần qua”. Dõi về phương bắc, tôi nhớ da diết Hà Nội, nơi có vợ con tôi đang sống trong nỗi ước mơ từng ngày, mong sao nước nhà mau hoà bình, thống nhất, hết cảnh đạn bom, để cho tôi sớm được trở về đoàn tụ. Đang bồi hồi nhớ đến vợ con, tôi chợt phát hiện một ngôi sao đang bay. Bóng thám không chăng? Nhưng làm gì có bóng thám không thăm dò khí tượng ở giữa Trường Sơn trùng điệp này! Vệ tinh nhân tạo chăng? Có lẽ thế! Mà không phải! Không chỉ có một, mà là hai ngôi sang đang bay, cùng một hướng, di chuyển khá nhanh, lại còn chớp tắt nữa. Thôi đúng rồi, đúng là máy bay rồi! Máy bay Mỹ ném bom ban đêm, bằng phương pháp toạ độ (Do đài Loran của Mỹ đặt ở Đã Nẵng dẫn đường). Người tôi như nổi gai ốc. Chúng lại đi gieo rắc tội ác xuống một nơi nào đó trên đường trg. Mắt tôi nhìn theo mãi hai đốm sao bay cho đến khi mất hút. Bỗng hai ánh chớp loé lên ở phía xa, không nghe tiếng nổ. Có một cảm giác vừa căm giận, vừa xót thương xen lẫn trong lòng tôi. Không biết anh chị em mình ở nơi xa ấy có ai việc gì không? Mấy vệt sao băng nữa lại vạch trời đêm. Tôi tự hỏi: có chăng một mối quan hệ nào đó giữa những ngôi sao băng trên trời với số mệnh con người trên trái đất? Sao băng nhiều quá! -Cán bộ ơi! Đến nơi rồi! Tiếng gọi của Hùng, lái xe, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi, đưa tôi về với thực tế. Tôi vội vàng xách ba lô, nhảy xuống, đến bên buồng lái, xiết chặt tay Hùng và người lái phụ, nói lời cám ơn và từ biệt. Mấy hôm sau, tôi gặp anh Lập, binh trạm phó binh trạm 12. -Đêm 9 tháng 1 năm 1972 vừa rồi, nó cướp mất của mình một trung đội trưởng công binh - Anh Lập nói. -Có phải Cư, trung đội trưởng công binh ở ngầm U không anh? Trời ơi! Tôi lặng người đi và sau giây phút bàng hoàng, tôi thuật lại cho anh Lập nghe chuyến đi của tôi qua ngầm U. Anh Lập cho tôi biết: Phan Đình Cư quê ở Thạch Hà, Hà Tĩnh, đã 5 năm gắn bó với Trường Sơn, chưa vợ. Cư có yêu một cô gái thanh niên xung phong cùng quê nhưng chưa đặt vấn đề chính thức. Ban chỉ huy binh trạm đã có dự kiến đề nghị đề bạt Cư lên làm đại đội phó. Nhưng tất cả giờ đây đều đang dang dở. Cậu ấy đã vĩnh viễn ra đi rồi! Trầm ngâm giây lát, mắt như nhìn vào cõi không, tôi nói qua hơi thở: -Không! Anh Lập ạ! Phan Đình Cư của chúng mình, đứa con của Trường Sơn không chết! Những con người như thế sẽ sống mãi với Trường Sơn. Những bông hoa Trường Sơn Trường Sơn xẻ dọc, rọc ngang Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng Tố Hữu Sở chỉ huy tiểu đoàn pháo cao xạ 124 đặt trên một mỏm núi đá cao. Từ đây có thể phóng tầm mắt bao quát cả một vùng khá rộng. Theo đường 128 từ Nậm Hơ đi vào, ngoài trục chính qua Seng Phan, còn có một con đường phụ đi ngả Na Tông, để tránh trọng điểm Seng Phan khi bị tắc đường. Hướng về phía nam là ngã tư Săng Lẻ, nói đúng hơn là ngã năm, nếu tính thêm một nhánh phụ từ Khôn Kèn đi tới. Tuy vậy, ngã năm Săng Lẻ không quan trọng bằng Seng Phan, vì Seng Phan ở một vị thế vô cùng hiểm trở. Từ trạm điều chỉnh Z21 vào, các đoàn xe ta phải đi qua một đoạn đường, ven một con sông nhỏ, mà hai bên vách núi đá dựng đứng, anh em ta gọi là “Eo Chẹt”. Eo là thắt lại, chẹt là ép sát vào, rất hẹp, hoàn toàn độc đạo. Seng Phan một thời nổi tiếng với lời hô bất tử “Nhằm thẳng quân thù mà bắn” của người anh hùng Nguyễn Viết Xuân trong một ngày đáng ghi nhớ 18 tháng 11 năm 1964. Trải qua năm tháng, Seng Phan trở thành một địa danh mà cả địch và ta cùng quan tâm đặc biệt. Giặc Mỹ coi đây là một trong những yết hầu của “Đường mòn Hồ Chí Minh", phải ra tay bóp nghẹt bằng mọi giá. Chúng ta thì coi đây là một đoạn đường sinh tử mà các chiến sĩ lái xe phải liều mình vượt qua, cácpháo thủ phòng không phải hết lòng bảo vệ, các chiến sĩ công binh và thanh niên xung phong phải ra sức sửa chữa để nhanh chóng thông đường. Máy bay Mỹ đủ loại, kể cả pháo đài bay B52, đã liên tục giội bom, cho núi phải lở ra, cho từng mảng đá lớn đổ ập xuống lấp kín mặt đường. Xưa kia núi non nơi đây mang một màu xanh thẫm của cỏ cây và rêu phong. Bây giờ vách núi trở thành trắng bạc. Khối lượng đá lở xuống đường mỗi lần bị bom như vậy thường rất lớn. Muốn thông đường, phải dọn sạch đá đi, ít nhất cũng phải tạo được một lối nhỏ, cho xe đi một chiều. Tôi không biết lực lượng công binh và thanh niên xung phong ở đây có bao nhiêu người? Từ sở chỉ huy tiểu đoàn 124 nhìn xuống qua ống nhòm, tôi thấy khoảng vài chục người, phần đông là nữ, đang “tác nghiệp”. Vì quá xa, tôi không nghe được tiếng cười, tiếng nói của họ. Nhưng tôi hình dung những người con trai, con gái ấy, trong gian khổ, vẫn đang nói, đang cười, tiếng cười rộn rã lạc quan mà tôi đã từng nghe nhiều lần trên những nẻo đường ra trận. Với tay không, họ không thể nào di chuyển nổi những đống đá đồ sộ. Vũ khí của họ là bộc phá, là mìn. Tiếng mìn nổ kèm theo những ánh lửa và cụm khói, làm các khối đá bị hất tung phần lớn. Số đá còn lại được dọn tiếp bằng đôi tay với những công cụ thô sơ như cuốc, xẻng, choòng, cùng với nghị lực và lòng dũng cảm vô song. Nhìn họ, niềm xúc cảm bỗng trào lên, tràn ngập cả lòng tôi. -Báo cáo! Hướng 32, một tốp B52 đang bay vào! Tiếng hô của chiến sĩ trinh sát đột ngột vang lên. Ở dưới đường, các chiến sĩ công binh, thanh niên xung phong vẫn mải mê công việc. Tôi nói với Chương, tiểu đoàn trưởng: -Anh cho bắn báo động B52! Mấy giây sau, năm phát đạn pháo 37 ly của đơn vị phía trước nổ đanh, từng phát một. -Các đại đội được lệnh ẩn nấp tránh B52 chưa? - Tôi hỏi. -Tình huống này đã có sẵn trong phương án. Khicó B52, các đại đội được phép tự động cho chiến sĩ vào vị trí ẩn nấp. Xin thủ trưởng yên tâm!-Tiểu đoàn trưởng Chương đáp. Mắt tôi vẫn không rời mặt đường, bồn chồn lo lắng. Nhưng hình như đã quá quen, sau khi nghe năm tiếng pháo cao xạ bắn báo hiệu quy ước, các chiến sĩ công binh và thanh niên xung phong vẫn rất bình tĩnh. Họ dừng tay làm việc, không tỏ vẻ cuống quít, vác xẻng quốc lên vai, rồi kéo nhau chạy về hang. Nghe nói ở đó có một hang sâu khá lớn, chứa được hàng trung đội. Một cô gái vấp ngã. Hai cô khác dừng lại, đỡ lên, rồi dìu nhau chạy tiếp. Mỗi bước chạy của họ là một phấp phỏng trong tôi. B52 sắp rải bom rồi. Liệu các cô các cậu có vào kịp trong hang? Nhìn lên trời hướng tây nam, tôi thấy 24 luồng khói trắng, toả đuôi dài. Mỗi chiếc B52 gắn tám động cơ phản lực. 24 luồng khói tức là có ba chiếc B52. Seng Phan sắp phải chịu đựng chín tấn bom của giặc Mỹ. Lúc đầu tôi chỉ thấy những luồng khói. Mãi mấy phút sau, qua ống kính nhìn xa, tôi mới bắt đầu thấy máy bay, nhỏ xíu. Hình thù ba chiếc B52 to dần. Rồi từ trong bụng của chúng tuôn ra hàng chục, hàng trăm quả bom, ào ào rơi xuống. Những cột khói bùng lên nối tiếp nhau, thành một chuỗi dài, cuồn cuộn như một đám mây bông xám xịt khổng lồ. Tiếng bom rền lâu như sấm động. Chắc ở trong hang đá Seng Phan, anh chị em ta đang phải trải qua những giây phút căng thẳng bởi vì phải chịu đựng những tiếng nổ lộng óc cùng với cơn chấn động cực mạnh. Trên trời cao, những chiếc máy bay đến gieo tội ác đã vòng ra, bay về hướng đông nam. Chúng đang trở về căn cứ Guam hoặc sân bay Utapao bên Thái Lan, để rồi ngày lại ngày, có thể vài giờ sau, những chiếc khác lại mò đến, “rải thảm” lên đầu chúng ta những chùm bom độc ác. Không biết ở bên kia Thái Bình Dương, liệu nhân dân Mỹ có biết được những tội ác man rợ này không? Tiểu đoàn trưởng Chương ra lệnh báo yên. Ba phát đạn pháo 37 ly hai loạt nối tiếp nhau. Ở phía dưới kia, trong đổ nát tan hoang và trong đám khói bụi còn đang mờ mịt, tôi thấy thấp thoáng mấy bóng người, có lẽ là cán bộ trung đội, ra trước quan sát hiện trường và bàn biện pháp khắc phục. Một lát sau nhiều người nữa kéo đến. Họ lại tiếp tục “tác nghiệp” cái công việc nặng nề trước mắt. Giờ thông đường cho các đoàn xe sẽ đi qua đêm nay như đang thúc giục họ nhanh tay hơn nữa. Trên vách đá Seng Phan không có khẩu hiệu “vì miền Nam”, nhưng hai tiếng “miền Nam" thân yêu đã khắc sâu trong trái tim họ từ lâu rồi. Không phải chỉ ở Seng Phan, mà cả trên tuyến đường Trường Sơn này, tất cả đều mang nặng tình cảm thiêng liêng đó. Tuy chỉ được một lần chứng kiến, từ bên ngoài và cũng chỉ là một phần nhỏ của thực tế thôi, nhưng ấn tượng về những con người ở giữa cái trọng điểm cực kỳ ác liệt kia, thật là sâu đậm: tâm hồn và hành động của tuổi trẻ nơi đây thật là đẹp đẽ, quá đỗi anh hùng! Tầm cao khí phách của họ hơn hẳn sức mạnh ghê gớm của pháo đài bay B52 Mỹ. Giữa cái vĩ đại vô cùng của Trường Sơn, các chàng trai cô gái Seng Phan giống như những bông hoa rực rỡ. Tình đồng đội Hôm ấy đoàn cán bộ chúng tôi đi công tác từ Na Pang ra Tà Mí. Mỗi người một ba lô con cóc trên vai và với chiếc gậy Trường Sơn trong tay. Chúng tôi không hành quân bằng đường giao liên mà đi bộ dọc theo trục đường 128. Nhiệm vụ của chúng tôi là đi nghiên cứu địa hình, tìm nơi đặt các trận địa pháo cao xạ để bảo vệ hệ thống ngầm vượt sông Sê-băng-phai, ở khu vực Nha Vai. Vào những ngày đầu thực hành vận chuyển bằng xe cơ giới, để vượt khúc sông này, xe ôtô ta chỉ đi qua những đoạn ngầm, trên một trục đường chính. Nhưng rồi sự khống chế quyết liệt ngày càng tăng của không quân Mỹ, bộ đội ta đã phải làm thêm nhiều đường tránh. Số lượng những chiếc cầu, ngầm qua sông cũng theo đó mà mỗi ngày một tăng thêm. Từ trạm điều chỉnh Z25 đến trạm Z26, quãng đường không xa, nhưng có tới hơn chục chiếc ngầm, được đặt tên bằng những âm chữ cái: A-B-C-D-A’-B’-C’-D’-U1-U2… Trên đường Hồ Chí Minh trong những năm tháng đánh Mỹ, hệ thống đường tránh và đường ngầm đã phát huy tác dụng diệu kỳ: Nếu máy bay đánh hỏng đường này thì xe ta vòng tránh sang đường khác. Khi chúng khống chế ngầm A thì xe ta “bẻ ghi” sang ngầm B. Nếu đoàn xe từ Bắc vào vượt ngầm C thì đoàn xe từ Nam ra chạy hướng ngầm D, v.v… Với tinh thần “Địch phá ta sửa ta đi”, “Địch đánh ta tránh ta đi”, bộ đội ta trên Trường Sơn ngày đêm vật lộn với bom đạn Mỹ, với từng chiếc ngầm, từng đoạn đường tránh, để bảo đảm cho các đoàn xe ta đi về Nam không một ngày bị tắc. Theo sự chỉ dẫn của trạm điều chỉnh giao thông, hôm nay đoàn chúng tôi chọn hướng vượt sông qua lối ngầm C. Khi còn cách ngầm vài trăm mét, chúng tôi dừng lại. Trước mắt chúng tôi là một vùng đồi núi dày đặc những hố bom, loang lổ. Hai bên bờ sông tất cả đều trơ trụi, không còn một bóng cỏ cây. Chỉ có một con đường ôtô, rộng chừng 4 mét, ngoằn ngoèo lượn vòng trên bờ những hố bom. Dưới sông là một đoạn ngầm lát đá, trên đó dòng sông Sê-băng-phai chảy qua, băng băng như thác đổ. Anh em công binh làm nhiệm vụ ở ba-ri-e này cho biết: máy bay Mỹ đến ném bom không theo quy luật thời gian gì cả, nay đánh giờ này, mai đánh giờ khác. Muốn vượt qua, phải tranh thủ đi thật nhanh, hoặc lội thẳng qua ngầm, hoặc đi ngược ven bờ sông, lên phía thượng nguồn cách đây nửa cây số, rồi làm phao bơi qua sông. Các bạn trong đoàn đều chọn cách thứ hai, tuy xa một chút, nhưng an toàn. Riêng tôi, vì sức yếu do bị một đợt sốt rét mấy ngày qua, nên tôi quyết định đi theo hướng ngắn nhất. Tiểu đội trưởng quản lý ngầm C cử một chiến sĩ trẻ tên là Tấn giúp tôi mang ba lô và hướng dẫn tôi qua ngầm. Tôi hẹn các bạn trong đoàn sẽ gặp lại nhau ở trạm ba-ri-e bên kia bờ bắc. Trời trong xanh không một gợn mây. Nắng mùa khô bắt đầu đổ lửa. Tôi lao theo cậu Tấn băng qua bãi trống, vừa chạy vừa lắng nghe tiếng máy bay trinh sát OV.10. Chạy trên đất đá gập ghềnh, có lần vấp ngã, tôi suýt lăn nhào xuống một hố bom sâu. Ra đến bờ, nhìn sông rộng với dòng nước cuồn cuộn qua ngầm, tôi bỗng cảm thấy ngần ngại. Nhưng, rồi ngó sang cậu Tấn, thấy anh chàng đang nhoẻn miệng cười, tôi lại thấy yên tâm. -Ta đi thôi, Tấn! Người bạn trẻ đồng hành, trần trùng trục với chiếc quần đùi bộ đội, nước da ngắm đen, trông chắc nịch như một pho tượng đồng. Anh xốc lại quai đeo ba lô rồi dặn tôi: -Thủ trưởng đi theo em nhé! Đừng bước chệch! Nước hôm nay không sâu lắm đâu. Cứ chầm chậm mà đi. Xắn ống quần cao lên quá gối, tay chống gậy Trường Sơn, tôi bước theo chan người chiến sĩ. Mới đầu đi dễ, vì nước còn nông. Nhưng ra được chừng mươi mét, tôi đã thấy bước đi không vững. Dòng nước tuôn tràn qua mặt ngầm cứ như muốn đẩy tôi về một phía. Người tôi lảo đảo. Nhiều lúc tôi phải cố hết sức mới gượng lại được. Cậu Tấn đi trước, thỉnh thoảng ngoái lại trông chừng tôi, nhưng do tôi đi chậm nên khoảng cách giữa hai người cứ xa dần. Khi tôi chỉ còn cách bờ khoảng chục mét thì bỗng một hòn đá dưới chân làm tôi trật dép. Chiếc gậy nghiêng đi, không còn giữ cho tôi được thăng bằng nữa. Tôi gọi to: Tấn ơi! Tấn xoay người, thấy tôi đang chới với, liền gỡ ngay chiếc ba lô, ném mạnh lên bờ, rồi vội vàng quay lại, đúng lúc tôi ngã nhào xuống nước. Người tôi lăn qua bờ thác của ngầm, rồi bị dòng nước cuốn đi. Mặc dầu tôi biết bơi, nhưng khốn nỗi tất cả quần áo, dép mũ, ống nhòm, bi đông, súng ngắn lỉnh kỉnh giờ đây trở thành những quả tạ níu kéo, đè nặng lên người, khiến tôi dường như bất lực. Bằng bản năng của mình, tôi cố gắng vùng vẫy, ngoi lên để bơi vào bờ, nhưng dòng nước chảy mạnh cứ đẩy tôi đi và dìm đầu tôi xuống. Vai tôi đập vào một tảng đá giữa dòng. Mồm tôi đã bắt đầu uống nước. Chợt nhớ đến Vinh, người bạn đã hy sinh giữa dòng nước lũ trong mùa mưa trước, tôi cảm thấy bắt đầu hoang mang. Vừa lúc đó một bàn tay túm lấy áo tôi. Đúng là cậu Tấn rồi, cái thân hình trùng trục khoẻ mạnh ấy. Giống như một con rái cá, Tấn vừa bơi vừa kéo tôi trôi theo dòng một quãng, rồi lựa chiều sang ngang, cuối cùng Tấn đưa được tôi lên bờ. Người tôi lạnh cóng. Tấn nhìn tôi ái ngại: -Lỗi tại em quá chủ quan, không đi sát bên thủ trưởng… -Cậu không có lỗi gì đâu. Chỉ tại mình sức yếu và không quen lội ngầm đó thôi. Tấn giúp tôi gỡ mọi cái trên mình, rồi chạy trở lại đầu ngầm lấy chiếc ba lô cho tôi. Sau khi tôi thay xong quần áo, Tấn dìu tôi vượt bãi trống để đến trạm ba-ri-e. Các cán bộ trong đoàn lúc đến chỗ hẹn, lâu không thấy tôi, vội bổ đi tìm. Chúng tôi gặp nhau giữa bãi hố bom hoang vắng, dở khóc dở cười. Mấy bạn giúp tôi mỗi người đeo một thứ, kể cả bọc quần áo ướt vừa thay. Chia tay Tấn, tôi thấy trong mắt cậu ta như có chút gì ân hận. Nhưng rồi lại nhoẻn miệng cười, cái cười thật dễ mến và hồn nhiên quá đỗi. -Cám ơn cậu Tấn nhiều lắm! Hẹn gặp lại lần sau. -Tạm biệt chú! Chúc chú chóng khoẻ! Em chào các anh! Tấn vụt chạy đi. Bóng anh nổi bật lên trên một vùng đất trắng. Tôi bỗng thần người vì sực nghĩ ra: mình đã quên không kịp hỏi quê hương của anh. Đoàn chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình đi tìm nơi đặt trận địa pháo. Khoảng một giờ sau có tiếng động cơ phản lực ào tới. Bốn chiếc máy bay A7 lượn một vòng trên không rồi bổ nhào ném bom xuống ngầm C. Tiếng bom nổ, rung chuyển núi rừng. Từ xa nhìn lại, tôi thấy những cột khói và bụi đất cuồn cuộn bùng lên. Nghĩ đến Tấn và anh em công binh đang làm nhiệm vụ ở ngầm, lòng tôi cảm tháy xốn xang. Hôm sau, đoàn chúng tôi trở về đơn vị bằng con đường khác. Hỏi các anh bên binh trạm, tôi được biết hôm ấy ngầm C không bị trúng một quả bom nào. Nhưng có một chiến sĩ bị thương nặng vào đầu và anh đã hy sinh. Người chiến sĩ ấy tên là Tấn. Tôi bàng hoàng cả người. Lẽ nào người chiến sĩ trẻ măng, dễ thương dễ mến và gan dạ kia, lẽ nào người bạn đường đã cứu tôi thoát chết giữa dòng nước chảy xiết ấy, lại có thể ra đi giữa tuổi đời còn quá trẻ như vậy sao? Nỗi xót xa khôn cùng cứ làm tôi day dứt mãi. Và trong ký ức sâu thẳm của mình, hình ảnh của Tấn mãi mãi là một ấn tượng sâu sắc không bao giờ mờ phai. Năm tháng trôi đi, thấm thoắt đã hơn một phần tư thế kỷ. Tháng 7 năm 1998, từ thành phố Hồ Chí Minh, tôi theo đoàn du lịch Lửa Việt làm một chuyến hành hương ra miền Trung. Sau khi xem lăng tẩm Huế, dịp may hiếm có, chúng tôi được ra thăm Thành cổ Quảng Trị, rồi lên xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh thăm Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Nghĩa trang nằm trên 9 ngọn đồi quần tụ bên nhau, với diện tích hơn trăm ngàn mét vuông, ôm ấp trong mình hàng vạn người con đã hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc. Bên trong cổng chính, sừng sững tượng dài bốn chữ vàng “Tổ quốc ghi công”. Phía sau và bên trái tượng đài hình thành năm khu vực, ở đó yên nghỉ 10.327 liệt sĩ Trường Sơn, là con em của 42 tỉnh thành trong cả nước. Không ai không xúc động khi nhìn thấy hàng vạn ngôi mộ, hàng hàng lớp lớp nối tiếp nhau, kéo dài. Tôi đến khu vực Bình Trị Thiên và tìm được mộ người em họ tên là Lưu Trọng Vấn. Sang khu Hải Hưng-Thái Bình-Hà Bắc tôi cũng tìm thấy mộ của Nguyễn Văn Tài, người chiến sĩ thân thiết của tôi đã ngã xuống trên trận địa Bãi Dinh năm xưa. Từ khu này sang khu khác, mắt tôi lướt nhanh trên những hàng bia, với hy vọng tìm được một cái tên đã bao năm hằn sâu trong trái tim tôi: đó là Tấn, chiến sĩ công binh, người mà tôi mãi mãi mang ơn. Tôi đã tìm thấy bốn tấm bia có ghi tên liệt sĩ Tấn. Nhưng Tấn mà tôi muốn tìm là ai đây? Tấn Nghệ An hay Tấn Hà Nội? Tấn Sơn La hay Tấn Hoà Bình? Tôi cứ tự trách mình trong cái hôm chia tay Tấn ở ngầm C năm ấy, đã quên không hỏi họ và quê anh. Giờ đây làm thế nào để phân biệt được Tấn của tôi trong bốn ngôi mộ này? Dẫu sao, các anh mang tên Tấn nằm đây đều là đồng đội của tôi. Tôi quỳ xuống cắm lên ngôi mộ một nén hương trầm ngào ngạt-nén hương của lòng tôi. Vào một ngày gần đây, tình cờ tôi gặp một bà cụ ngoài 70 tuổi, đang đứng ngắm hoa, cây cảnh ở góc công việc Hoàng Văn Thụ. Nhìn dáng vẻ và nghe giọng nói, tôi đoán bà cụ ở Bắc vào. -Cụ vào Sài Gòn lâu chưa? Tôi gợi chuyện làm quen. -Đã được nửa năm rồi ông ạ. Vào ở với con gái. Mà tôi cũng sắp phải trở ra-Bà cụ đáp, giọng buồn buồn. -Tại sao cụ không ở trong này với con cháu nữa? -Con gái và con rể của tôi đều rất tốt. Tôi rất thương các cháu ngoại. Nhưng, chẳng giấu gì ông, tôi phải về quê để hàng ngày còn lo hương khói cho thằng Tấn và bố nó. Bà cụ nâng tay áo chấm nước mắt. Nghe nói đến Tấn, tôi sốt ruột hỏi dồn: -Anh ấy hy sinh năm nào và ở đâu, thưa cụ? Có phải Tấn nước da ngăm đen và giỏi bơi lội không? -Thằng Tấn nhà tôi nước da trắng trẻo cơ! Má nó lúc nào cũng trắng hồng như con gái. Mà làm gì nó biết bơi với lội. Quê tôi đâu có gần sông nước. Nó hy sinh tháng 10 năm 68, ở mặt trận phía Nam. Còn bố nó thì hy sinh hồi 54 ở Điện Biên Phủ. -Xin lỗi cụ… Bởi vì tôi có người cùng đơn vị cũng tên là Tấn, cũng hy sinh nhưng chưa tìm ra địa chỉ… Một lần nữa tôi lại thất vọng trong việc tìm kiếm bóng hình của Tấn. Tấn ơi! Em nằm ở đâu? Em đã được đưa về nghĩa trang cùng đồng đội, hay em vẫn còn nằm lại ở một nơi nào đó trên dãy Trường Sơn quanh năm lồng lộng gió ngàn? Có một ngã ba Đồng Lộc như thế Tôi đã từng xúc động đến nao lòng khi được xem những thước phim quanh cảnh nữ dân quân La Thị Tám ở Đồng Lộc, nâng ống nhòm đến từng quả bom rơi, cảnh chị chạy như bay từ trên đồi cao xuống, cắm những lá cờ đỏ đuôi nheo, đánh dấu vị trí từng quả bom nổ chậm, bất chấp máy bay địch có thể bất ngờ quay trở lại. Tôi cũng đã từng đứng lặng trước tấm hình cỡ lớn trong nhà truyền thống Sư đoàn phòng không 367, chụp cảnh mười cô gái thanh niên xung phong nhỏ nhắn, do tiểu đội trưởng Võ Thị Tần chỉ huy, đang hối hả đẩy những chiếc xe hai bánh, san lấp hố bom. Dưới tấm ảnh có ghi dòng chữ: “Mười cô gái Đồng Lộc đã anh dũng hy sinh trong một đợt bom thù ngày 24-7-1968”. Và mỗi lần có dịp trở lại quá khứ như vậy, đều gợi nhớ trong tôi kỷ niệm cùng đồng đội vượt qua Đồng Lộc trong một đêm đi vào chiến trường. Hôm ấy, xe tôi đi trong màn đêm, sau luồng sáng mờ nhạt của chiếc đèn gầm. Trước và sau chúng tôi là những đoàn xe vận tải chở nặng hàng, đang ngoằn ngoèo nối đuôi nhau, rầm rì lăn bánh. Máy bay Mỹ ập đến. Những chùm đèn dù toả sáng, tiếp theo là những loạt bom nổ, những loạt đạn cao xạ bắn lên… như tôi đã từng chứng kiến trên nhiều trọng điểm dọc Trường Sơn. Có những chiếc xe bốc cháy và những dòng máu đổ. Ở hai bên đường bỗng ào lên hàng chục nam nữ thanh niên xung phong trèo lên xe, dập lửa cứu hàng, băng bó cho những lái xe bị thương. Màn đêm trở lại,đoàn xe lại tiếp tục lượn vòng trên bờ những hố bom rồi chạy đi, lầm lũi, trong sự chịu đựng can trường. Có lẽ cũng như tôi,ai đã từng đi qua đây đều hiểu rõ, Đồng Lộc không chỉ của một La Thị Tám anh hùng, một tiểu đội Võ Thị Tần gang thép, Đồng Lộc còn là nơi đọ sức, đọ trí, nơi biểu hiện rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của hàng ngàn chiến sĩ phòng không, công binh, công an giao thông, dân quân và nam nữ thanh niên xung phong từ mọi miền đất nước, đã có mặt ở nơi đây trong những ngày ác liệt của cuộc chiến tranh. Là một trong những trọng điểm ác liệt nhất của tuyến giao thông chi viện cho miền Nam, Đồng Lộc không chỉ là một ngã ba (nơi cuối đường của tỉnh lộ 2 gặp đường chiến lược 15) mà còn là một vùng đồi núi rộng chừng ba kilômét vuông, với địa thế vô cùng hiểm trở. Nơi con đường độc đạo đi qua, một bên là vách đồi, một bên là đồng nước, người ta không thể mở được một con đường tránh nào khác. Quốc lộ 1 đã bị tắc từ lâu, cho nên tất cả các đoàn xe chi viện cho chiến trường đều phải đại đội qua đoạn đường 15 “yết hầu” ấy. Biết rõ khó khăn của ta, không quân địch đã ra sức khống chế Đồng Lộc, quyết chặn đứt con đường 15 của ta ở ngay tại ngã ba này. Tính từ 1 tháng 4 đến 31 tháng 10 năm 1968, Đồng Lộc và một số trọng điểm lân cận (Lạc Thiện, Cầu Bàng, Tùng Cốc, Khe Giao…) đã hứng chịu hàng ngàn tấn bom của hàng ngàn lượt máy bay Mỹ đến bắn phá. Đồng Lộc nhiều phen tơi bời, nát vụn. Mùa khô, Đồng Lộc chìm trong màu đỏ quạch của bụi đất. Mùa mưa, Đồng Lộc ngập trong sình lầy, đặc quánh. Cuộc sống lao động, chiến đấu ở đây vô cùng nhọc nhằn, quyết liệt. Nhưng “Tất cả vì miền Nam", Đồng Lộc không thể một ngày bị tắc. Một lực lượng lớn đã được đưa về đây để thường trực sửa chữa bảo vệ đoạn đường. Lực lượng ứng cứu sửa đường và thông đường có: -Một tiểu đoàn công binh. -Một tiểu đội cảnh sát giao thông của Ty Công an Hà Tĩnh. -Một đơn vị dân quân của ba xã Thượng Lộc, Trung Lộc, Mỹ Lộc. -12.000 nam nữ thanh niên xung phong của hai tổng đội 553 và 555. Lực lượng đánh máy bay địch bảo vệ đường có: -Một tiểu đội súng phòng không 12,7 ly của dân quân xã. -Một tiểu đoàn pháo phòng không 37 ly của Quân khu 4. -Một trung đoàn pháo phòng không 57 ly của Sư đoàn 368, thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân. Tất cả ngần ấy lực lượng ngày đêm bám chặt con đường, quyết tâm giải toả bằng được Đồng Lộc. Kết quả, Đồng Lộc luôn được khai thông, số ngày đường bị tắc bớt lại. Có đợt số lượng xe chở hàng vượt qua Đồng Lộc tăng gấp ba lần so với mức bình thường, như trong ba đêm 15, 16, 17 tháng 6 năm 1968. Trên mảnh đất nhỏ hẹp và đầy bom đạn ấy, các lực lượng phòng không, công binh, công an giao thông, dân quân và thanh niên xung phong, giống như những người anh em ruột thịt, luôn gắn bó bên nhau, cùng sống chết để bảo vệ con đường, bảo vệ những đoàn xe. Quyết liệt nhất là lực lượng súng pháo phòng không. Bố trí trên những ngọn đồi gần như trọc, giữa những công sự lộ thiên, dưới những trận mưa bom, họ đã chiến đấu như những người anh hùng. Trung đoàn 210 có năm đại đội pháo 57 ly, luôn là mục tiêu, đối tượng đánh phá chủ yếu của không quân Mỹ. Kẻ địch muốn nhổ bật các chốt thép ấy. Có ngày cả năm đại đội đều bị đánh bom, có đến bốn đại đội pháo bị mất sức chiến đấu. Riêng trận địa Ngô Đồng, ở ngay cạnh ngã ba, chỉ trong ngày 25 tháng 8, đã có tới 24 lần chiếc A6 thay nhau dội bom vào trận địa, với đủ loại bom bi, bom sát thương, bom phát quang. Hai khẩu pháo bị bom vẹo nòng, nhiều cán bộ chiến sĩ thương vong. Đại đội đã nhanh chóng giải quyết thương binh, tử sĩ và dồn ghép số pháo thủ còn lại về hai khẩu đội cuối cùng, tiếp tục nổ súng. “Có tiếng súng” để công binh, thanh niên xung phong vững tin lên mặt đường. “Có tiếng súng” cho những đoàn xe yên tâm vượt qua trọng điểm. Trong cuộc chiến đấu sinh tử ở đây, có những con số làm phấn chấn lòng người như hàng chục máy bay Mỹ đã bị bắn hạ trên bầu trời Đồng Lộc, hàng vạn tấn hàng đã được vận chuyển trót lọt qua trọng điểm, đi tiếp về phương Nam. Nhưng cũng có những con số làm tim ta đau nhói, xót xa như mười cô gái thanh niên xung phong dễ mến, dễ thương đã bị một đợt bom thù sát hại; 122 cán bộ chiến sĩ trung đoàn pháo 210 đã hy sinh cùng 259 người khác bị thương, trong vòng 147 ngày đêm chiến đấu tại khu vực Đồng Lộc. Và còn biết bao những chàng trai cô gái đã vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất kiên cường này. Các anh, các chị đã cùng Đồng Lộc góp phần buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc và góp phần cho công cuộc giải phóng miền Nam. Giờ đây cuộc chiến đã đi qua. Đất nước đã được thanh bình và đang trên đà phát triển. Mỗi người đang sống và đang được hưởng độc lập, hoà bình hôm nay, xin hãy đừng quên những người con thân yêu của Tổ quốc đã ngã xuống trong chiến tranh. Và xin hãy nhớ trong cuộc chiến tranh ấy, ở một vùng đồi núi phía tây tỉnh Hà Tĩnh trên con đường chi viện cho sự nghiệp giải phóng miền Nam đã từng có một Đồng Lộc, mang tên “Ngã ba Đồng Lộc” như thế. Đôi bạn trên tàu Tháng tám năm 1966, tôi về thăm quê Quảng Bình trên một chuyến tàu đêm Nam-Bắc. Ngồi bên tôi là một người đàn ông, cụt tạy, trạc ngoài 40 tuổi. Anh lên tàu sau tôi, từ ga Đà Nẵng. Qua những phút đầu yên lặng, tôi làm quen: -Hình như anh là thương binh? -Vâng! Sao bác biết? -Tôi đoán thế, vì ngoài cánh tay không lành lặn của anh, tôi còn nhìn qua phong cách, cùng chiếc áo quân phục cũ mà anh đang mặc. À! Tôi cũng là bộ đội, là cựu chiến binh đây. -Ồ! Vậy anh em ta là đồng đội! Không khí giữa hai chúng tôi trở nên thân tình. Tôi hỏi: -Cậu bị thương trong trận nào? Ở đâu? -Dạ! Trong chiến dịch Đường 9-Nam Lào, ở bắc Bản Đông. Hồi đó em là lính “ép ba linh tám” (Sư đoàn 308). -Lúc ấy mình cũng ở bắc Bản Đông, nhưng ở cánh pháo cao xạ, bảo vệ đèo 500-Mường Trương, trên đường 16 (Đường 16, một trong những tuyến vượt cửa khẩu quan trọng của đường Hồ Chí Minh từ Thạch Bàn, Quảng Bình sang tận Bản Đông). -Thế à! Em có một kỷ niệm khó quên ở ngay căn cứ hậu cần của một trung đoàn pháo cao xạ gần đó, bác ạ! Anh trả lời rồi bắt đầu kể: “Hôm ấy đơn vị em bị dính dom Mỹ. Hai đứa hy sinh, ba đứa bị thương. Em bị nặng nhất nên được nằm cáng. Còn cậu bạn thì tự chống gậy đi về trạm phẫu thuật tiền phương. Đến trạm ba-ri-e ở kilômét 80, trời vừa tối. Trạm quân y còn quá xa, lại ở sâu trong rừng, đi đêm rất dễ lạc. Anh Vận, tổ trưởng cáng thương quyết định tìm đơn vị bạn quanh đây, xin nghỉ nhờ. Không lâu, em nghe tiếng hô: -Ai đó! Đứng lại! -Chúng tôi là thương binh mặt trận, qua đây trời tối, xin được giúp đỡ. Lát sau, trong tiếng lao xao phía trước, em lõm bõm nghe được đôi câu: -Báo cáo trung đoàn phó! Hậu cứ mình làm gì còn hầm để chứa số anh em này ạ? -Ừ, khó đấy nhỉ! Nhưng thôi được! Vẫn còn mấy cái hầm cũ ọp ẹp, chúng ta chuyển bớt sang bên đó, nhường hầm chữ A cho thương binh. Đầu tiên, chúng em được đưa xuống một căn hầm nửa chìm nửa nổi, có nắp làm bằng những bó nứa, được che kín ánh sáng bằng những tấm bạt, để thay băng. Các anh quân y rửa và băng lại vết thương cho em dưới ánh sáng mờ nhạt của chiếc đèn pin và trong tiếng u u đều đều rất khó chịu của chiếc máy bay trinh sát Mỹ 02-A bay lượn trong trời đêm. Bỗng một tiếng rít xé không khí. Tiếp theo là một loạt bom nổ. Mọi người nằm rạp xuống và chui tọt vào những ngách hàm ếch xung quanh. Riêng em, em vẫn nằm yên trong cáng, trải sát đất, bất động. Trong đêm tối mờ mịt, em bỗng có cảm giác như ai đó đang chồm tới nằm lên người mình. Lại một tiếng rít dữ dội nữa. Loạt bom thứ hai nổ, chao đảo cả căn hầm. Người nằm trên em càng áp chặt vào người em thêm, dường như để che chở cho em được an toàn hơn. Một lúc sau, hết tiếng máy bay. Người vừa ôm em đó, đứng lên, cất tiếng gọi: -Chúng nó cút rồi! Ra thôi các đồng chí ơi! Từ các ngách hầm ếch, các anh quân y lần lượt trở lại công việc. May quá, chúng ném bom chệch, nghe nói đơn vị không ai việc gì. Thay băng xong, bọn em được anh công vụ của trung đoàn cho uống sữa. Riêng em được đưa xuống một căn hầm chữ A, nghe nói là của trung đoàn phó. Nằm trong căn hầm vững chãi, em cứ suy nghĩ không biết giờ đây ông trung đoàn phó nằm ở đâu? Sáng dậy, em được đưa lên mặt đất. Một cán bộ dáng cao gầy và một cán bộ nữa hơi thấp, nhỏ, đến động viên, chia tay bọn em và cử thêm người giúp đỡ dẫn đường. Anh Vận cầm tay các thủ trưởng, nói lời cám ơn. Trên đường đi tiếp đến trạm phẫu thuật tiền phương, em hỏi anh dẫn đường: -Hai ông cán bộ lúc nãy là ai vậy, hở anh? -À! Đó là ông Lân, trung đoàn phó và ông Long, phó chính uỷ của bọn mình đấy! Chuyện xảy ra đã 25 năm mà em còn nhớ rõ như mới hôm qua. Hồi đó bác ở đơn vị pháo cao xạ bảo vệ đèo 500, bác có quen ông Lân và ông Long không? Từ nãy đến giờ nghe kể, trong tôi dần sống lại một kỷ niệm. Với nỗi xúc động khôn cùng, tôi quay sang nắm chặt tay anh: -Thì ra anh thương binh ngày ấy là cậu à? Lân là minh đây, người đã nằm che chở cho cậu hôm ấy. Còn ông Long, mình mới gặp năm ngoái, bây giờ về hưu ở một xã ngoại thành Nam Định. -Trời ơi! Bác là thủ trưởng Lân, ân nhân cũ của em. Em là Nguyễn Văn Toản quê ở Thanh Hà, Hải Hưng. Thật không ngờ em được gặp lại thủ trưởng trong hoàn cảnh này. Anh quàng cánh tay lên người, xiết chặt. Rồi anh cho tôi địa chỉ và mong được đón tôi về thăm quê anh. Hai hành khách dường như xa lạ trên chuyến tàu hôm ấy bỗng trở thành đôi bạn thân thiết như đã lâu ngày. Khi chia tay nhau, tôi choàng ôm người anh, còn anh, một cánh tay, ghì chặt lấy vai tôi. Qua ánh đèn trên sân ga Đồng Hới, ngoái đầu nhìn lại, tôi thấy đôi mắt của Toản đang ngấn nước, ướt nhoà… Dưới đáy ba lô người chiến sĩ Nguyễn Văn Tài là chiến sĩ trinh sát đại đội 837 pháo cao xạ, trực thuộc trung đoàn tôi lúc còn ở Hải Phòng, những năm 1966-1967. Tuy mới quen nhau, nhưng ở Tài có một cái gì đó làm tôi hết sức quý mến: tác phong nhanh nhẹn, giọng nói chân tình, đặc biệt là đôi mắt sáng, rất thông minh. Tài không còn cha mẹ, từ nhỏ Tài ở với cậu, được cậu mợ thương, cho đi học đến lớp sáu. Hùng, đại đội trưởng 837, vẫn thường khen Tài là một chiến sĩ gan dạ. Mỗi lần máy bay Mỹ đến bao giờ Tài cũng là người phát hiện sớm nhất. Tôi coi Tài như em ruột của mình. Thỉnh thoảng gặp nhau, anh em chúng tôi vẫn dành thời gian tâm sự. Tôi nhắc nhở Tài hãy luôn xứng đáng với danh hiệu đoàn viên và hãy cố gắng phấn đấu trở thành đảng viên. Sau Tết Mậu Thân (1968), đại đội 837 được cấp trên chọn đi tăng cường cho mặt trận phía Nam. Tuy xa nhau, nhưng chúng tôi vẫn liên lạc được với nhau qua địa chỉ hòm thư quân đội. Trong một lá thư, tài cho tôi biết đơn vị em đang dừng chân chiến đấu bảo vệ tuyến vượt khẩu Trường Sơn, đoạn đường từ Khe Ve đến Cổng Trời. Em đã thực hiện được lời tôi dặn, được kết nạp vào Đảng, sau một trận chiến đấu quyết liệt với không quân Mỹ. Thế rồi bẵng đi một dạo, tôi không còn nhận được thư của Tài nữa. Nghe tin em đã hy sinh vào một ngày tháng chạp năm 1970 trên trận địa Bãi Dinh. Nhớ đến Tài, tim tôi quặn thắt lại vì thương xót. Em đã ra đi giữa tuổi đời đẹp nhất. Núi rừng Trường Sơn lại có thêm một đứa con của miền Bắc ngã xuống vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thân yêu. Cuối năm 1971, tôi đã tìm đến thăm đại đội 837 trong một chuyến đi công tác ở Trường Sơn. Một số cán bộ đại đội cũ đã lên tiểu đoàn, chỉ còn lại Lê Hoài trước là đại đội phó, nay trở thành chính trị viên. Gặp lại nhau, anh em mừng rỡ. Hoài kể cho tôi nghe tình hình đơn vị kể từ khi rời xa thành phố Cảng. Sau một thời gian lạ lẫm trên mặt trận bảo vệ giao thông, dần dà tích lũy kinh nghiệm, đơn vị đã đánh tốt, góp phần cùng tiểu đoàn bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bảo vệ tốt đoạn đường được giao và những đoàn xe nối nhau ra phía trước. Thành tích nhiều, nhưng cũng có mấy lần đại đội bị bom đánh vào trận địa, có tổn thất, thương vong. Lê Hoài đọc tên những cán bộ, chiến sĩ trong đó có Nguyễn Văn Tài đã dũng cảm hy sinh trên mảnh đất Bãi Dinh này, rồi anh kể tiếp: Hôm ấy, theo tay chỉ của Tài, đại đội đã sớm bắt mục tiêu, tung lưới lửa, bắn rơi một chiếc A6. Những chiếc còn lại lao xuống ném bom. Hoả lực mạnh của tiểu đoàn đã làm cho những tên phi công loạng choạng, ném bom chệch ra ngoài gần hết. Chỉ còn một quả trúng vào trận địa. Tài bị một mảnh bom vào đầu, khi đang đứng cao người trên công sự để cùng tiểu đội quan sát máy bay. Chiếc ống nhòm nhuộm máu rời khởi bàn tay người tiểu đội trưởng trinh sát. Tài gục xuống trong vòng tay thân thương của đồng đội. Sau khi hoàn tất thủ tục mai táng, chúng tôi tiến hành kiểm kê di vật của liệt sĩ. Trong ba lô của Tài có hai bộ quần áo, chăn màn, tấm áo mưa, chiếc võng bạt với một chiếc hộp thiếc đựng đường, một hộp nữa đựng bàn chải, thuốc đánh răng và một cái lược làm bằng mảnh xác máy bay Mỹ. Tìm kỹ ở ba lô còn thấy một gói ni lông bọc cẩn thận. Mở bọc ra, chúng tôi nhìn thấy những lá thư anh Lân gửi cho Tài, còn nguyên phong bì, xếp ngay ngắn ở trên cùng. Phía dưới là một cuốn sổ tay ghi những bài thơ chọn lọc của Tố Hữu, Giang Nam, Chính Hữu, Phạm Tiến Duật... Có cả những bài thơ thiếu nhi của Trần Đăng Khoa, như bài “Bên bờ Kinh Thầy”, “Trăng sáng sân nhà em”... Ở trang ghi bài thơ “Con bướm vàng”, cũng của Trần Đăng Khoa, có ép một cánh bướm Trường Sơn. Nửa sau cuốn sổ tay là những trang nhật ký, ghi chép ngắt quãng, năm thì mười họa mới có mươi dòng. Chắc không phải vì Tài không muốn viết, mà là do hoàn cảnh chiến đấu, xây dựng trận địa, hành quân cơ động liên miên, nên Tài đã không có thời gian để viết đều đặn. Dưới cuốn sổ tay là năm chiếc phong bì đề tên người gởi: “Em gái phương xa”, được gói trong một chiếc khăn, thêu dòng chữ “Yêu nhau mãi mãi” cùng đôi chim bồ câu tung cánh bay. Qua những trang nhật ký ít ỏi của Tài và những dòng thư của người em gái phương xa mà chúng tôi “trộm” đọc, đơn vị mới biết hóa ra Tài đã có người yêu lúc còn ở Hải Phòng. Cô tên là Thu Hương, dân quân xã T, huyện Thủy Nguyên. Họ quen nhau trong những lần dân quân xã đến giúp bộ đội đào đắp công sự và phối hợp chiến đấu. Hai người đã trao tặng phẩm cho nhau, của Tài là một chiếc bút máy có khắc hai chữ T và H lồng vào nhau, còn của Hương có chiếc khăn thêu. Không hiểu sao mà không có tấm ảnh nào của Hương cả. Lặng im một chút, chính trị viên Lê Hoài tiếp tục câu chuyện, giọng anh trầm xuống như để nói với riêng mình: trong cái đêm đơn vị lên đường đi B, chắc sau khi chia tay với Tài, Thu Hương trở về nhà không khỏi xúc động một mình. Trong nỗi nhớ người yêu, Hương còn mong gì hơn là nhanh đến ngày chiến thắng để được gặp lại Tài trên thành phố Cảng. Đọc thư Thu Hương, cuối mỗi lá thư thường là những câu cháy bỏng yêu thương: “Đừng quên em nghe anh!” hoặc: “ở phương trời xa, em yêu anh và nhớ anh vô cùng; Gửi đến anh nghìn vạn cái hôn…”. Lúc còn sống, mỗi lần nhận được thư “em gái phương xa”, nếu ai hỏi, Tài chỉ trả lời qua quít “ồ, thư của cô bạn gái ở quê ấy mà”. Cứ như vậy và mối tình thầm kín ấy chỉ được “tiết lộ” sau khi Tài đã vĩnh viễn ra đi… Theo chân người cán bộ dẫn đường, tôi đến thăm những ngôi mộ liệt sĩ đặt trên một ngọn đồi ven suối. Không có hương, tôi đặt lên mộ các anh những nhánh hoa rừng. Quỳ xuống trước mộ Tài, hình dung lại khuôn mặt sáng sủa và đôi mắt thông minh của em, nghĩ đến câu chuyện tình dang dở của em và Thu Hương do đồng đội kể lại cùng với những kỷ vật còn lại trong ba lô người chiến sĩ, lòng tôi trào dâng nỗi xót thương. Mắt tôi mờ đi và những giọt nước mắt nóng lăn dài trên má… Hôm nay, giữa nhộn nhịp phố phường, giữa mùa xuân phương Nam, mùa xuân trên Thành phố Hồ Chí Minh ngập tràn ánh nắng, nhìn những “xe hoa”, những bạn trẻ hạnh phúc bên nhau trong ngày cưới, chuyện tình của Tài và Hương trong nghiệt ngã của chiến tranh lại tái hiện trong tôi. Đã có bao nhiêu cuộc tình duyên như vậy trong 30 năm chiến tranh? Chỉ biết rằng sự hy sinh của những người như Tài và của cả những người còn sống như Thu Hương đã góp phần làm cho cây đời hôm nay nở hoa kết trái. Tôi thầm nghĩ như vậy. Dặm đường Trường Sơn “Nếu hy sinh, em muốn nằm kề trọng điểm, Để ngày ngày em được nghe tiếng xe qua…” Trọng Khoát Buổi trưa hôm ấy, tôi lim dim mắt nằm nghe cậu Tám hát bài “Miền Nam nhớ mãi ơn Người” của nhạc sĩ Lưu Cầu. Tâm là một chiến sĩ thông tin, có giọng hát rất hay và cũng rất hay hát. Những lúc rảnh rỗi, trong khung cảnh kỳ vĩ của Trường Sơn, chúng tôi vẫn thường nghe Tâm hát như thế: “Mây trắng Trường Sơn quanh năm thương nhớ Người. Sông nước Cửu Long không phút giây nào nguôi niềm thương nhớ Bác đến muôn đời…” Giọng hát ngọt ngào và sâu lắng của người chiến sĩ trẻ làm tôi bồi hồi nhớ lại bao kỷ niệm đẹp về những lần tôi may mắn được gặp Bác Hồ trước đây. Chợt có tiếng cậu Ngàn, nhân viên cơ yếu, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi: -Báo cáo thủ trưởng, có điện khẩn! Cầm lấy quyển sổ, tôi đưa mắt lướt nhanh: “Anh Lân thu xếp tối nay lên Bộ Tư lệnh Đoàn 559 nhận chỉ thị. Xong, về ngay Sở chỉ huy cơ bản họp. Ký điện: Chi”. Tôi vội gọi anh Khâm, tham mưu phó trung đoàn, lên thay tôi trực chỉ huy, để tôi tranh thủ đi tắm một lát. Suốt tuần qua tôi chẳng được tắm giặt gì cả. Áo quần ẩm mồ hôi rất khó chịu. Chẳng phải vì lười, mà là do quá bận, hơn nữa việc đi tắm ở đây không phải chuyện dễ dàng. Mỗi lần đi tắm, chúng tôi phải đi lẻ từng một, hai người, vượt qua bãi trống khá rộng chi chít những hố bom, rồi phải đi thêm chừng một cây số đường rừng nữa mới ra đến bờ suối. Giữa mùa khô Trường Sơn, nước trong các hố bom hầu như cạn kiệt, Duy chỉ còn một hố bom lớn nhất là có nước, nhưng cũng đã nỏi váng màu vàng. Vì không còn nhiều thời gian, tôi quyết định ra tắm ngay tại hố bom kia, mặc dầu biết rằng ở trên trời luôn luôn có máy bay trinh sát Mỹ hay lượn lờ, soi mói. Đến đầu bãi trống, không nghe tiếng động cơ, tôi đi nhanh ra bố bom, đặt quần áo lên đó, tôi bắt đầu tắm. Đang mải mê kỳ cọ, tôi chợt nghe tiêng vo vo… từ xa vọng lại. Vừa ngửa mặt nhìn lên, đã thấy ngay một chiếc OV10 đang lao tới. Vội khom người xuống, đưa tấm lưng trần lên trên-cho giống hòn đá bên cạnh-tôi ngồi yên không nhúc nhích. Chỉ có cái đầu nghiêng nhẹ để theo dõi đường bay của tên do thám. Ở đường Trường Sơn, lính ta rất ghét tên giặc chỉ điểm lợi hại này. Nó bay dai như đỉa đói, hết vòng trái sang vòng phải, hết quành số 8 sang lượn vòng tròn. Hễ thấy mục tiêu là nó phóng ngay pháo khói. Một cột khói trắng bùng lên và lập tức bọn cường kích địch ào tới quẳng bom liền. Trời nắng chang chang, da tôi nóng bỏng, nhưng tôi vẫn phải khom lưng chịu trận. Mỗi lần nó lượn ra xa, tôi tranh thủ tắm giặt. Khí nó vòng lại gần, tôi liền thu mình ngồi yên. Trò chơi ú tim ấy cứ lặp đi lặp lại đến năm, sáu lần mới kết thúc. Đợi chiếc OV10 bay xa về phía nam tôi tranh thủ mặc quần áo đứng dậy ra về. Tính ra, tôi đã mất với nó hơn một tiếng đồng hồ. Vì xe con của đơn vị bị hỏng máy, tôi quyết định cuốc bộ ra ba-ri-e Z27 đón xe binh trạm đi nhờ. Trạm Z27 ở kilômét 53 đường 128, nằm ngay giữa ngã ba Xóm Péng, một trong những trọng điểm ác liệt của đường Hồ Chí Minh. Từ ngã ba ấy đi ngược trở ra là về lại Lằng Khằng, Mụ Giạ, Cổng Trời, Khe Ve. Hướng đi vào chia làm hai nhánh. Nhánh một: theo trục chính là đường 128, qua dốc Tha Pha Chon vào Lùm Bùm. Nhánh hai: theo đường 129, qua Dốc Nứa, Tha Khô Khèn vào Na Nhom… Là một ngã ba nằm giữa trọng điểm, Z27 bị máy bay Mỹ đánh phá rất ác liệt. Chúng đã biến cả một khu rừng già bạt ngàn cây săng lẻ cao vút, có rất nhiều hoa phong lan, trước kia tươi tốt, xanh um, bây giờ trở thành một vùng đất hoang tàn, trơ trọi những thân cây cháy sém, ngổn ngang những cành khô đổ gục, cùng những đống tro tàn. Tôi đứng cạnh Tuấn, tiểu đội trưởng công binh, phụ trách điều chỉnh, để đợi xe. Tuấn cho biết Z27 vừa bị một trận bom lúc chiều. Trong hoàng hôn, trước mắt tôi hiện ra hàng trăm ngọn lửa bám quanh những thây cây đơn độc, đang leo lét cháy. Những cục than hồng đây đó thỉnh thoảng lại rực sáng lên mỗi khi có luồng gió mạnh thổi qua. Tuấn nói: -Nó đánh dữ dội lắm! Nhưng nhờ có hầm chữ A kiên cố, nên bọn em vẫn an toàn. Có một lần bom đánh sập cửa hầm. Bọn em chỉ bị sức ép thôi. À! Xe sắp tới rồi! Trong tiếng động cơ ì ì ngày một to, một chiếc xe Zin ba cầu, “dàn mướp” kín lá nguỵ trang, lù lù đi tới. Chiếc đèn nhỏ dưới gầm xe toả ra một vầng sáng mờ nhạt. Tuấn, đeo băng đỏ trên cánh tay và chiếc còi treo ở cổ, ra hiệu cho xe dừng lại, rồi đứng lên bậc xe, nói với người lái cho tôi đi nhờ. Chiếc xe thứ hai cũng vừa đến phía sau, “phá” lên một tiếng, tiếng “phà” quen thuộc của loại phanh hơi. Chờ cho tôi ngồi lọt vào cabin, Tuấn phất tay cho xe đi tiếp, theo lối đường 128-Tuấn chào tôi. Tôi vẫy chà lại người tiểu đội trưởng của ngã ba nổi tiếng kiên cường này. Đêm ấy, đoàn xe chúng tôi đ trót lọt, mặc dầu cũng có đôi lần bị khống chế bởi những chùm pháo sáng và mất loạt bom. Đến trạm cuối cùng, tôi xuống xe. Đoàn xe chạy tiếp vào khu kho để xuống hàng, còn tôi tìm đường đến cơ quan Bộ Tư lệnh. Cuộc họp sáng nay diễn ra ngắn gọn. Phó chính uỷ Đoàn 559 Lê Si phổ biến nghị quyết của Đảng uỷ và chỉ thị của Bộ tư lệnh Binh đoàn về tình hình, nhiệm vụ, kế hoạch, chỉ tiêu của đợt vận chuyển lớn sắp tới. Riêng với chúng tôi, đồng chí nhắc nhở. Nhiệm vụ số một của lực lượng cao xạ là phải kiên cường đánh địch, đánh mạnh, để bảo vệ đội hình xe tiến công, nhất là trên các trọng điểm. Sau cuộc họp, các thủ trưởng binh trạm còn phải ở lại thêm một ngày để làm việc với cq. Riêng tôi, phải về gấp cho kịp cuộc họp mà anh Chi, trung đoàn trưởng, đã triệu tập. Tôi chọn hướng đi về theo đường 20, bằng xe vận tải của binh trạm 14. Nhẹ nhàng với chiếc ba lô con cóc, tôi tìm đến bãi xe của tiểu đoàn vận tải 102. Khoảng 18 giờ, đội hình xe đã có mặt đầy đủ ở tuyến xuất phát. Trước mắt tôi, đội ngũ các chiến sĩ lái xe trẻ, khoẻ trong bộ áo giáp và chiếc mũ sắt trên đầu, trông thật hùng dũng. Tôi hình dung các anh giống như những chàng kỵ sĩ trước giờ ra trận. Một cán bộ đứng ra phổ biến tình hình đường sá. Vì đứng xa, tôi chỉ nghe được mấy câu, đại ý: -Ngầm Ta Lê bị trúng một quả bom; kilômét 78 cua chữa A còn bom nổ chậm; Ngầm Cà Roòng mực nước cao 60 phân… Công binh đang nỗ lực khắc phục hố bom. Anh em hạ quyết tấm đến 18 giờ 30 thông đường. -Đội hình xe đi ra chia làm hai mũi. Từ Kà Tốc, mũi thứ nhất gồm phân đội 1 và 2 đi theo đường E và C; mũi thứ hai gồm phân đội 3 và 4 đi theo hướng A và B. Chú ý các ngầm vì hôm nay mực nước lên hơi cao. Cẩn thận khi qua đèo Ba Thang, đường trơn, vì mới có trận mưa lúc chiều. Tôi được giới thiệu đến phân đôi 3, lên một chiếc xe Zin bị bẹp tai và một bên cửa đã mất kính. Anh lái xe rất trẻ, khoảng 18-19 tuổi. Còn anh lái phụ, ngồi trong, tuổi khoảng 22-23. Mấy phút sau, binh trạm thông báo: “Toàn tuyến đã thông đường!”. Xe bắt đầu lăn bánh. Tôi cũng bắt đầu làm quen với anh lái phụ. Anh ta gọi tôi bằng thủ trưởng và tự xưng bằng em. Được biết anh tên là Độ, 22 tuổi, quê Đức Thọ, Hà Tĩnh. Tôi hỏi: -Nhà Độ có gần Linh Cảm không? Độ trả lời: -Em quê Châu Phong, cách bến phà Linh Cảm chừng dăm cây số về phía thị trấn. -Châu Phong, một làng khoa bảng nổi tiếng! Thế cậu học văn hoá lớp mấy trước khi đi bộ đội? -Tốt nghiệp lớp 10! Nhưng em không thi vào đại học… -Theo tiếng gọi của miền Nam? Khá lắm! Cậu làm lái phụ đã được bao lâu? -Dạ… Em lái xe trên Trường Sơn đã được 5 năm rồi ạ! Tôi đang tròn mắt ngạc nhiên thì cậu Hoàn, người đang cầm lái, nói chõ sang: -“Bê” trưởng của chúng em đấy, thủ trưởng ạ! À lên một tiếng, tôi quay sang vỗ vai Độ: -Thế mà mình cứ ngỡ cậu là phụ lái. Xin lỗi trung đội trưởng nhé! Tuấn nhũn nhặn: -Có gì đâu thủ trưởng! Tôi bỗng cảm thấy mến anh cán bộ trẻ này. Chuyện trò dăm ba câu, phút chốc Độ trở thành người thuyết minh cho tôi nghe những câu chuyện về đường 20, nơi mà anh đã từng nhiều năm gắn bó. Độ nói năng lưu loát. Tôi chú ý lắng nghe, quên cả bụi đường và sương lạnh lùa qua ô cửa không kính. Từ Lùm Bùm, qua ba-ri-e Kà Tốc, xe chúng tôi chạy thẳng theo đường A. -Chúng ta đang đi vào trọng điểm A.T.P đấy!-Độ nói với tôi. A.T.P, với cua chữa A, ngầm Tà Lê, đèo Phu-la-nhích, là cụm trọng điểm bị không quân Mỹ đánh phá quyết liệt nhất của toàn tuyến Trường Sơn. Xe qua đây coi như đi vào “cửa tử”. Biết bao nhiêu chiến sĩ lái xe, cao xạ, công binh, thanh niên xung phong đã ngã xuống nơi này. Là cán bộ của tiểu đoàn vận tải 102 anh hùng, nhưng Độ ít kể về lái xe, trái lại anh nói nhiều về lực lượng công binh và thanh niên xung phong. -Công binh và thanh niên xung phong ở đây dũng cảm lắm! Độ kể cho tôi nghe về Nguyễn Thị Liệu, một nữ thanh niên xung phong xinh đẹp mà gan góc, hát rất hay phá bom nổ chậm cũng rất cừ! “Trước ngày hội bắn” là bài hát tủ của Liệu. Với trang phục cô gái dân tộc Mèo, Liệu đã làm say đắm bao chàng trai. Giữa đại ngàn Trường Sơn, Nguyễn Thị Liệu như một đoá hoa rực rỡ. Vậy mà cô đã vĩnh viễn nằm xuống, trong một buổi chiều, giữa độ tuổi hai mươi. Còn cô Vũ Tiến Đè, một thanh niên cao lớn, khoẻ mạnh và rất dũng cảm. Đề là người đầu tiên đưa xe ủi C.100 lên cua chữ A, lên tận đỉnh đèo Phu-la-nhích. Tại những cua tay áo, cua A mẹ, A con… Đề đã san bằng hàng vạn mét khối đất đá, gạt luôn cả hàng trăm quả bom nổ chậm và hàng ngàn quả bom bi lăn xuống vực sâu, mở lối an toàn cho những đoàn xe cơ giới đi vào chiến trường. Thành tích của Vũ Tiến Đề đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi. Cậu Hoàn đang lái xe vượt đèo Phu-la-nhích, bỗng lên tiếng, cố tình nói to cho tôi nghe: -Anh Độ có một cô bạn gái đồng hương rất xinh, công tác ở C5… -Cái cậu này! Ai hỏi ma khai. Đừng tin nó thủ trưởng ạ! -Ơ hay! Em nói sự thật mà. Dạo ấy, một lần xe anh Độ bị AC130 bắn cháy ở đây. Các cô thanh niên xung phong của đ 5 lao ra dập lửa, cứu hàng. Có một cô tên là Lan, lọt vào mắt của anh Độ. Thế là… Ối! Sao anh lại véo em?-Cậu Hoàn nói tiếp-Nhưng gần đây cô Lan đã chuyển đi nơi khác rồi. Cô nàng vẫn gửi thư cho anh Độ đều đều đấy ạ! Tôi nắm chặt tay Độ. Độ mắng vào tai Hoàn: -Mày chỉ được cái lẻo mép!-Hoàn ta khoái chí, cười hề hề. Chúng tôi qua ngầm Tà Lê. Giữa dòng suối, khoảng 10 cô gái khoác vải dù trắng đang đứng làm cọc tiêu. Khi xe qua, các cô giơ tay vẫy chào, nhưng Hoàn không chào lại. Cậu ta đang tập trung tư tưởng cao độ. Dòng nước chảy xiết, ngầm vừa bị bom mới được sửa chữa một lần, nên còn lổn nhổn, khó đi. Độ nhắc Hoàn: -Tăng ga lên một chút, giữ vô-lăng thật chắc vào! Vượt qua ngầm, xe tiếp tục lên dốc, đi vào những vòng cua. Cua chữa A, bên đèo, bên suối, bên vách núi dựng đứng, bên vực sâu thăm thẳm đến ghê người. Rải rác hai cạnh đường, mấy xác xe bị bom đánh hỏng, chỏng chơ. Xe đang xuống dốc thì bỗng một chùm đèn dù bật sáng, chếch về phía sau chúng tôi một ít. “Nó sắp ném bom đấy! Tăng ga, vọt lên, Hoàn!”. Chiếc xe lao nhanh, ngoặt trái, ngoặt phải theo những vòng cua ngoằn ngoèo lượn quanh bờ những hố bom. Nhìn ra hai bên, cả phía trước và phía sau, tôi thấy từng loạt lưới lửa cao xạ tung lên, đầy trời. Tiếng theo là động cơ phản lực vút qua. Mấy loạt bom bi nổ ran phía sau. Mặc! Xe chúng tôi vẫn chạy. Những luồng đạn vạch đường tiếp tục nối nhau vút lên. Tiếng máy bay gầm rú lẫn trong tiếng bom nổ ầm ầm. Cuối cùng rồi chúng nó cũng cút. Độ nói với tôi: -Mỗi lần qua trọng điểm, thấy các trận địa cao xạ bắn mãnh liệt, bọn em yên tâm lắm! Bom nó ném chệch ra ngoài hết. Rất ít khi bị dính bom. Chỉ ngại thằng AC130 bắn 40 ly thôi! Đến kilômét 74, Độ bảo Hoàn nép xe sang bên lề đường, để anh xuống nắm tình hình. Từng chiếc, từng chiếc một, các xe của phân đội 3 lần lượt đi qua. Các chiến sĩ lái xe tươi cười, trao đổi với trung đội trưởng của mình những câu gì đó. Tôi đoán là phân đội đã vượt qua trọng điểm an toàn. Đến đây, Độ bảo Hoàn ngồi sang phải cho tôi ngồi vào giữa, rồi trèo lên, ngồi trước vành tay lái, cài số cho xe lao đi. Đi được một quãng, chúng tôi gặp một đoàn xe đi ngược chiều. Theo nguyên tắc, xe đi ra phải ưu tiên nhường đường cho xe đi vào. Gặp nhau kẻ xuôi người ngược, cánh lái xe lại rộn lên những câu chào tiếng hỏi, ấm tình đồng đội, ấm cả cung đường. Một loạt bom toạ độ ném xuống ngầm Cà Roòng trước khi chúng tôi đến. Rất may là bom ném trượt ra ngoài khoảng năm chục mét. Ở đây cũng vẫn có những cô gái thanh niên xung phong khoác vải dù trắng làm cọc tiêu giữa sương khuya và trong làn nước giá lạnh. Ngồi trên xe nhìn xuống, tôi cảm thấy thương các em vô cùng. Tiếp theo, chúng tôi vượt dốc Ba Thang. Nghe nói trước khi có đường ôtô, các đồng chí bộ binh ta phải trèo hết ba cái thang mới qua được một quãng dốc dựng đứng này. Đường rất trơn, nhưng Độ vẫn vững vàng tay lái cho xe đi qua không mấy khó khắn. Đến khoảng kilômét 25, đoàn xe bị ùn lại. Thỉnh thoảng có tiếng rồ máy vang lên, kéo dài, rồi im bặt. Chắc là có xe nào đó đang bị “pa-ti-ê” (trượt bánh xe, sa lầy). Tôi theo Độ đi nhanh ra phía trước. Anh lái phụ đang ôm mấy cây gỗ nhỏ, nhét thêm vào chỗ đất lún. Chiếc xe lại rồ ga, nhưng bánh xe vẫn cứ quay tròn tại chỗ. Đó là do hố bom lấp vội để kịp thông đường, gặp trận mưa ban chiều, nên đất bị nhão ra. Bánh xe càng quay tít, chiếc xe càng lún xuống sâu hơn. Nhìn thấy chiếc xe nghiêng về phía vực như sắp đổ, tôi rất lo. Đồng chí lái xe vẫn ngồi trong buồng lái. Anh định nhấn ga thêm lần nữa. Bỗng có tiếng Độ ra lệnh: -Xe đồng chí vượt lên trước, kéo xe đồng chí Xuân! Sau tiếng “rõ” đáp lại, người lái tên là Dậu cho xe từ từ chuyển bánh, chầm chậm đi sát vào ta-luy (vách đứng cạnh đường) theo bàn tay đánh xi-nhan (tín hiệu) của Độ. Giây phút thật căng thẳng! Tôi chỉ lo xe của Dậu đụng vào chiếc xe đang bị sa lầy. Nhưng may quá! Xe đi vừa khít, lọt qua an toàn. Một sợi dây cáp được móc vào hai xe. Sau đó, việc kéo chiếc xe bị lún thoát khỏi chỗ lầy đã kết thúc trôi chảy trong tiếng reo vui của mọi người. Đoàn xe được lệnh đi tiếp, hết xuống đèo lại lên đèo. Đến một cái dốc khá cao gọi là dốc Đồng Tiền, Độ kể: cách đây sáu năm, vào dịp kỷ niệm 21 năm ngày thành lập quân đội, để thực hiện quyết tấm mở đường 20 thông sang nước bạn, bộ đội Đoàn 559 đã tiến hành một “đợt nổ súng Him Lan”. Tôi chưa kịp hỏi tại sao, thì Đội đã tiếp: “Các chú các anh hồi đó ví đợt tiến công hạ dốc Đông Tiền giống như trận đánh hạ cứ điểm Him Lam năm xưa. Trận Him Lam mở đầu đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ thì trận nổ mìn bạt dốc Đồng Tiền mở đầu cho cuộc chinh phục đỉnh Trường Sơn". Độ tỏ ra có nhiều hiểu biết. Tôi thầm phục anh cán bộ trẻ thông minh và dễ mến này. -Năm 1954 mình cũng được dự trận Him Lam đấy! Tôi khoe. Đại đội pháo cao xạ của mình hồi ấy trực tiếp bảo vệ Sư đoàn bộ binh 312 trong đợt xuất phát tiến công… -Ôi! Vinh dự quá nhỉ! Sau khi qua ngầm Chà Ang, Độ kể cho tôi nghe về tám cô gái thanh niên xung phong (về sau xác minh lại là có 13 người hy sinh, gồm 4 nữ, 4 nam thanh niên xung phong và 5 anh bộ đội), tất cả đều ở lứa tuổi đôi mươi, đã cùng hy sinh ở một hang đá, gần kilômét 16, trong một đợt bom của kẻ thù. Tôi thầm nghĩ: không biết mai sau con cháu chúng ta có hiểu được rằng mỗi ngọn đèo, mỗi con suối của Trường Sơn, trong cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do của dân tộc, đã từng ghi sâu tội ác man rợ của giặc Mỹ như thế nào không? Gần sáng, đoàn xe chúng tôi về đến kilômét “không” đường Quyết Thắng. Đó là Phong Nha. Tôi lưu luyến chia tay hai người bạn đường. Nhìn thẳng vào khuôn mặt trẻ trung và cương nghị của Độ, tôi xiết chặt bàn tay anh. Phong Nha thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, quê hương tôi. Hồi kháng chiến 9 năm tôi đã từng hoạt động ở vùng này. Chính tại làng Phong Nha, nơi ở của cơ quan Huyện uỷ Bố Trạch, năm 1948 tôi đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Đêm nay, bến nước sông Son còn đấy, hang động Phong Nha còn kia. Nhẩm tính mới đó mà đã hơn hai mươi năm. Đêm sau, tôi theo xe Cục Vận tải vượt phà Xuân Sơn đúng lúc máy bay Mỹ đến dội bom. Những cột nước vọt lên, thẳng đứng giữa dòng sông, được soi rõ bởi những chùm pháo sáng. Đến bờ, xe chúng tôi tranh thủ vọt lên, rồi theo đường 15, lần lượt qua các trọng điểm đèo Đá Đẽo, ngầm Khe Rinh, đến ngã ba Khe Ve. Từ Khe Ve, tôi nhảy sang xe binh trạm 12, ngược đường qua La Trọng, Bãi Dinh, lên tới Cổng Trời (Địa danh). Về đến Sở chỉ huy cơ bản-cách Cổng Trời vài kilômét đường rừng-tôi được nghỉ một buổi sáng. Ngay chiều hôm đó, tôi dự luôn cuộc hội nghị Đảng uỷ và Ban chỉ huy trung đoàn. Họp xong, vì nhiệm vụ khẩn trương, tôi cùng anh Khôi, chính uỷ trung đoàn phải đi ngay vào sở chỉ huy tiền phương. Lại vượt qua đèo Mụ Giạ, “eo chẹt” Seng Phan, những trọng điểm nổi tiếng ác liệt của đường 12 và đường 128, tôi lại về Xóm Péng. Thếlà chỉ trong bốn đêm, tôi đã đi một lượt giáp vòng hai đoạn đường Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây (đường 15 và đường 128), qua hai tuyến cửa khẩu quan trọng (đường 12 và đường 20). Từ Xóm Péng ra đi, hôm nay tôi trở về nơi xuất phát (Trong những năm tháng ở Trường Sơn, tôi đã từng đi qua các trục đường chính chạy dọc Đông, Tây Trường Sơn: đường 15, đường 128, đường 129, đường 14 (từ Hướng Hoá vào tận Lộc Ninh) và trục ngang vượt khẩu: đường 12, đường 20, đường 10, đường 16). Biết bao khó khăn gian khổ trên đường đã giúp mình thêm kinh nghiệm. Nhưng điều quan trọng hơn có lẽ là những điều tai nghe mắt thấy qua chuyến đi, đã giúp tôi mở rộng thêm tâm hồn. Từ tháng 11 năm 1946, trên trận địa Seng Phan đã vang lên lời hô nổi tiếng của Nguyễn Viết Xuân: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn!”. Rồi những năm sau đó, trên khắp tuyến đường Trường Sơn lần lượt xuất hiện những khẩu hiệu, mà tôi đã thuộc lòng: “Mở đường mà tiến! Đánh địch mà đi!” “Địch đánh, ta sửa ta đi!” “Địch đánh, ta cứ đi!”. Nhưng xin thú thật, phải qua chuyến đi xuyên Trường Sơn lần này, tôi mới hiểu hết được ý nghĩa lớn lao của nó. “Mở đường mà tiến! Địch đánh, ta sửa ta đi!” là hành động kiên cường của các chiến sĩ công binh và thanh niên xung phong ngày đêm lấy mặt đường làm trận địa. “Đánh địch mà đi!” là ý chí gang thép của các xạ thủ, pháo cao xạ, nối tiếp truyền thống của Nguyễn Viết Xuân. ”Địch đánh, ta cứ đi” là khí phách ngàn lần dũng cảm của các chiến sĩ lái xe khi vượt qua các trọng điểm, dưới những chùm pháo sáng và những loạt bom của Mỹ. Thêm nữa, những khẩu hiệu đó không chỉ thấy trong hành động của lực lượng công binh, cao xạ, lái xe mà còn thể hiện ở những lực lượng khác, cũng không kém phần anh hùng, như các chiến sĩ đường giao liên, gùi thồ, đường dây thông tin, đường sông vận chuyển, đường ống xăng dầu, các chiến sĩ quân y, chiến sĩ hậu cần… Tất cả các lực lượng trên, trong bão đạn mưa bom, trong mưa ngàn suối lũ, với muôn vàn gian khổ hy sinh, hàng chục năm qua đã theo những tiếng gọi ấy, để làm nên sự nghiệp phi thường: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Những khẩu hiệu nói trên trở thành bất tử cùng với đường Trường Sơn, con đường vĩ đại mang tên Bác kính yêu, mà đối với tôi, mãi mãi là tình cảm thiêng liêng trong suốt cuộc đời. Trong hang đá Trường Sơn Đêm nay trăng sáng quá! Núi rừng Trường Sơn hiện ra trước mắt tôi điệp trùng, mờ ảo. Mấy giò phong lan treo ở cửa hang, dưới ánh trăng, vẫn hiện rõ những cánh hoa vàng. Gió đêm lành lạnh thổi. Tôi đưa tay cài khuy cổ áo, mắt nhìn xuống đường ô tô, nơi có những đoàn xe vận chuyển của binh trạm sắp đi qua. Tôi quay vào hang, lòng cảm thấy trống trải. Mọi hôm ở đây có bốn người. Nhưng đêm nay, anh Khôi chính uỷ trung đoàn đã lên họp ở Bộ Tư lệnh Đoang 559. Anh Khâm, tham mưu phó, đi đốc chiến. Cậu Nam, chiến sĩ thông tin thì vừa xin phép xuống “hang lớn”, nơi hậu cứ của trung đoàn, để đổi mấy bình ắc quy. Còn lại mình tôi với cây đèn dầu ma-dút cuộn khói, một điện thoại và một máy bộ đàm P105. Nhắc ống nói, tôi gọi Nam, dặn dò: “Cứ ở dưới đó, chớ vội lên! Hãy chờ cho qua đợt hoạt động của chúng, đợi thật yên, hẵng về!”. Chả là cái “hang nhỏ” của chúng tôi ở lưng chừng núi, nếu đang đi lên mà gặp máy bay Mỹ ập đến thì thật không an toàn. Tiếp đó, tôi gọi điện nhắc các đơn vị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đoàn xe sắp đi qua trọng điểm. Tôi miên man suy nghĩ về nhiệm vụ nặng nề của trung đoàn trong chiến dịch vận chuyển mùa khô. Bỗng trên không trung pháo sáng địch chói loà. Tiếng động cơ phản lực của máy bay gầm rú. Những tràng đạn pháo cao xạ của ta bắn lên. Tiếp theo là bom, những loạt bom rung chuyển núi rừng. Ngọn đèn dầu tắt phụt. Quả bom nổ gần, làm sạt mất một góc hang. Một tảng đá lớn sập xuống ngay cạnh chỗ tôi ngồi. Sức ép của bom khiến ngực tôi đau nhói và tức đến nghẹn thở. Gắng đứng dậy, tôi bỗng giật thót mình, vì bàn tay vừa đặt lên một mảnh bom nóng bỏng. Tôi rụt tay lại. Mảnh bom rơi ra, bóc theo một mảng da bàn tay tôi. Rát quá! Tôi phải gỡ băng cá nhân, băng lại vết thương. Lo cho cậu Nam và cũng không biết anh em mình ở dưới có việc gì không, tôi quay máy gọi. Nhẹ tênh! Dây ăng ten cũng không còn. Mất liên lạc với dưới, nhưng tôi vẫn yên tâm, vì các đơn vị đều đã có kế hoạch tác chiến theo phương án có sẵn. Loay hoay không biết làm vì trong cái hang tối om và không mấy vững chắc này, tôi tìm chiếc đèn pin, rọi ra xung quanh. Một ý nghĩa chợt đến: “Phải rời khỏi nơi đây!”. Phía trong hang có một cửa thông gió. Biết đâu qua đấy, tôi tìm đến được với anh em ở hang dưới. Rồi giống như một “nhà thám hiểm hang động”, tôi siết chặt dây giày vải, quàng dây đeo đèn pin lên vai và không quên đút vào túi quần một cặp pin mới. Tôi vừa bấm đèn vừa đi. Lúc đầu khom mình còn đi được, nhưng sau đó, tôi phải toài người chui qua một lỗ nhỏ mới vào được bên trong. Có lối rẽ trái, tôi bò tiếp. Bò khoảng vài chục mét thì hết đường. Tôi quờ quạng xung quanh, bốn phía đều kín như bưng. Không lẽ? Rọi đèn lên trần, thấy một khoảng trống, tôi vội leo lên. Nhưng vách đá trơn quá, phải mấy lần trèo lên, tụt xuống, lại trèo lên nữa, tôi mới tới được đoạn hang phía trên. Nhìn xuống chỗ vừa trèo, thấy sâu thăm thẳm đến ớn lạnh. Nếu phải quay trở lại thì không biết sẽ làm sao đây? Đèn pin mờ dần. Trong khi dừng lại nghĩ, tôi tạm thời đẩy công tắc đèn, để tiết kiệm pin. Ngồi một mình trong bóng tối, giữa lòng hang sâu, tôi cảm thấy rờn rợn và lo lắng vô cùng. Trở về lối cũ ư! Làm sao tôi có thể tìm được chỗ đặt bàn chân khi tụt xuống những vách đá cao và trơn tuột lúc này? Tay đâu rọi đèn pin, tay đâu bám vách đá để đu mình xuống? Tiến lên nữa ư? Liệu tôi có thể tìm ra được lối thoát trước khi nguồn năng lượng của đôi pin bé nhỏ chưa cạn kiệt? Một giả thiết xấu: nếu không thoát được mà bị kẹt giữa chừng, chết ở đây, ai biết tôi ở đâu mà tìm? Trong thâm tâm, tôi đã bắt đầu nghĩ đến vợ con ở nhà. Một luồng gió nhẹ lướt qua, cộng thêm nỗi sợ hãi, khiến tôi rùng mình. Nhưng chính luồng gió ấy đã giúp tôi một tia hy vọng: có gió tức là có đường thông. Tôi lại tiếp tục bò, trườn, trèo lên, tụt xuống với sự gắng sức tối đa. Ánh sáng đèn pin mờ hẳn, đúng lúc tay tôi vừa chạm phải một vật gì giống trăn. Giật mình lùi lại, đầu tôi đập vào vách đá, đau điếng. Luống cuống một lúc tôi mới thay được cặp pin. Soi kỹ thì hoá ra đó là một rễ cây to mập, thòng từ trên cao xuống, chui sâu vào một kẽ đá. Một phen hết hồn. Đến một hang rộng chừng vài mét vuông, ngửa mặt nhìn lên, tôi thấy một lỗ tròn, cao tít, trên đó thấp thoáng mấy vì sao. Thì ra đó là lỗ thông lên “trời”, nhưng quá cao, chẳng giúp ích gì cho tôi cả. Hình như máy bay địch lại đến. Nghe tiếng bom nổ và cảm nhận sự chuyển động của núi, tôi đoán ngoài kia địch đang thả bom đợt hai. Phần tôi trong này, lại tiếp tục chui nữa, một mình mò mẫm trong vắng lặng tột cùng. Trời lạnh mà người tôi ướt đầm mồ hôi. Bỗng tôi mơ hồ nghe như có tiếng người nói từ xa xăm vọng lại. Đúng rồi! Tiếng nói xen lẫn tiếng cười, rất nhỏ. Như được tiếp thêm sức mạnh, tôi phấn khởi luồn, lách và giờ đây là theo hướng đi xuống. Tiếng nói cười vọng đến càng lâu càng rõ. Lại có cả tiếng con gái. Lạ thật? Đơn vị tôi làm gì có nữ chiến sĩ? Hay đây không phải là hang hậu cứ của mình? Nhưng thôi! Mọi chuyện thắc mắc dẹp sang một bên! Hãy “đi” nữa đi! Đến nơi sẽ biết. Cuối cùng, sau cơn hiểm nghèo, tôi đã đặt được bàn chân mình xuống nền đất “hang lớn”. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Ngoài kia, không ai hay biết gì về sự có mặt của tôi tại nơi này. Đứng trong góc nhìn ra, tôi bắt đầu quan sát: một đám đông chừng ba mươi người, cả nam lẫn nữ đang ngồi quây tròn quanh một đống lửa. Tiếng cười nói râm ran, giọng Bắc pha lẫn giọng miền Trung. Nhìn kỹ số con trai, tôi nhận thấy đúng là anh em mình. Có cả cậu Nam, chiến sĩ thông tin của tôi nữa. Còn những người con gái thì tôi chưa hề biết mặt. Các cô đều mặc trang phục thanh niên xung phong. Để tìm hiểu tình hình, tôi nhẹ nhàng tiến đến gần hơn, lắng nghe những lời đối thoại: -Quê em ở đâu? -Em quê Kỳ Anh. -Ồ! Thế thi em là đồng hương Hà Tĩnh với anh rồi! Anh quê Hương Sơn. -Còn em quê Can Lộc. -Vậy có gần Ngã ba Đồng Lộc không? -Cũng gần! Chỉ cách chừng dăm cây số thôi! Còn anh?-Quê anh xa lắm! Tít tận Thái Bình cơ! -À! Hình như quê anh có “nhà máy cháo”? Mọi người cười rộ. Tôi tự hỏi: mấy cô thanh niên xung phong này ở đâu mà lại lọt vào đây, giờ này? Tại sao các cô, các cậu lại thân thiết với nhau đến thế? Họ ngồi xổm, nam nữ xen nhau. Một số các cô, các cậu tay quàng vai, quàng lưng, một số nghiêng đầu vào như đang tình tự. -Bây giờ các em đi đâu? -Bọn em đi vào, tăng cường cho binh trạm 31 phía trong. -Vào đó ác liệt lắm! Các em có ngại không? -Ôi! Chúng em đã từng làm bạn với tuyến đường trên hai năm, ở đoạn Khe Ve-Mụ Giạ đường 12. Bom đạn chúng em chẳng sợ. Khó khăn gian khổ mấy cũng chịu được. Chỉ buồn vì thiếu tình cảm thôi. Cả đại đội chúng em chỉ có một người đàn ông làm đại đội trưởng. Bộ đội, lái xe, đêm đêm hành quân qua, chỉ vui với nhau trong ánh mắt, tiếng cười, sau đó bọn em lại trở về với “con cháu Hai Bà Trưng”. Không khí quanh bếp lửa hơi chùng xuống. -Thế lúc nãy nó ném bom ngoài kia, sao các em biết ở đây mà chạy vào? -À! Cả bọn em ngồi chung một xe. Loạt bom bi nổ chệch bên kia đường. Nhìn sang bên này thấy cửa hang, bọn em liền hô nhau nhảy xuống, chạy thục mạng vào đây. Nhờ trăng sáng, chúng em bám nhau chạy, đầy đủ, không thiếu đứa nào. Hai anh lái xe chắc đang ẩn ở hố cá nhân nào đó cạnh đường. Cả bọn lại cười vui, như không có chuyện gì xả ra. Có những bàn tay xoè ra phía trước, hơ lửa. Nhưng cũng có những bàn tay đan nhau, nắm chặt lấy nhau, phía sau lưng. Bỗng từ ngoài xa vang lên tiếng gọi dài, chắc là chú lái xe: -Các cô đâu rô-ô-ồi! Ra xe đi thô-ô-ôi! Tất cả bừng tỉnh như sau giấc mơ. Nhiều người đứng dậy. Vài cặp ngồi nán thêm một chút. Họ chia tay nhau trong bịn rịn, dùng dằng. Tay trong tay, họ tiến ra cửa hang nói với nhau lời tạm biệt. Những bàn tay vẫy vẫy. Có một cô gái bỗng quay trở lại, ôm chầm lấy cậu Hải, đẹp trai nhất trong số lính của tôi, áp mặt vào má anh chàng, hít một hơi thật dài, rồi vụt chạy theo đồng đội. Thú thật trong đời tôi chưa từng chứng kiến một cảnh nào như thế. Từ đầu đến cuối, tôi “mải mê” đứng nhìn, quên mất hẳn những gì nguy hiểm vừa xảy ra với tôi trước đó. Các cô, các cậu ấy đúng hay sai nhỉ? Nhớ lại, lúc đó tôi đã phân vân tự hỏi như vậy, nhưng rồi tình thương và sự cảm thông đã khiến tôi xao lòng, chọn phương án “im lặng”. Đã từng qua những chặng đường ác liệt của Quân khu 4, đã sống qua những tháng năm đầy bom đạn ở Trường Sơn, tôi thấu hiểu một điều: bên cạnh bộ đội (công binh, lái xe, phòng không…), lực lượng thanh niên xung phong đã chiến đấu cực kỳ dũng cảm, nhất là các nữ thanh niên xung phong. Trong cuộc chiến khốc liệt, các em đã chịu đựng những thiệt thòi, hy sinh quá lớn: sức khoẻ, tuổi thanh xuân, gia đình, tình yêu đôi lứa… Tôi lùi lại hang sâu, nấp kín, vẫn còn trong tâm trạng vương vấn một cảm xúc bồi hồi khó tả. Chờ anh em chuẩn bị đi ngủ, vờ như không biết chuyện gì, tôi bấm đèn pin, xuất đầu lộ diện trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người. Trong vòng vây của anh em, tôi kể lại vắn tắt cuộc “hành trình” bất đắc dĩ của tôi vừa qua. Cậu Nam cầm tay tôi láu lỉnh nói: “Ở dưới này bọn em cũng lo cho thủ trưởng trên đó lắm!”. Tôi tủm tỉm cười thầm và nghĩ bụng: “Ngồi giữa các cô gái, chắc gì cậu đã nghĩ đến tôi!”. Câu chuyện mới đó mà đã mấy chục năm. Hình ảnh các em gái thanh niên xung phong với mấy chàng lính trẻ trong hang đá Trường Sơn năm nào luôn đọng mãi trong tôi như một dấu ấn không thể nào quên. Sau 30 năm, hôm nay, nhân kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Binh đoàn Trường Sơn, tôi xin được “tiết lộ” câu chuyện cảm động này với quý độc giả. Khẩu pháo 100 li “độc thân” giữa rừng Trường Sơn Không biết khi giúp ta trang bị những trung đoàn pháo cao xạ 100 li với những bộ khí tài hiện đại, các bạn Liên Xô có bao giờ nghĩ rằng vào một lúc nào đó, tại một nơi nào đó, có một khẩu pháo 100 li, đơn độc một mình, đêm đêm nhả từng quả đạn, tham gia đánh máy bay AC130 của Mỹ trên Trường Sơn? Nghe thì lạ, khó tin, nhưng đó lại là chuyện có thật một trăm phần trăm. Trước tiên, xin nói về máy bay AC130-, “con quái vật 5 đầu”, “con cú vọ độc ác”, “thằng cướp đêm”… kẻ thù đặc biệt nguy hiểm của bộ đội lái xe trên Trường Sơn. Bom sát thương, bom bi, thậm chí cả bom B52 rải thảm, anh em cũng không ngại (vì đã nắm được quy luật của B52). Chỉ ngán nhất cái thằng “sập thùng” này. Cứ mỗi điểm xạ “pập-pùng!“, “pập-pùng!” là một xe ta ăn đạn cối 40 li của AC130. Tôi đã nhiều đêm trèo lên đỉnh núi Xóm Péng để nghiên cứu về loại máy bay hiểm độc đó. Những đêm đầu tôi thỉ thấy, qua ánh trăng, chiếc máy bay hai thân AC119, loại máy bay mà tôi đã từng thấy khi nó thả dù tiếp tế cho lính Pháp ở thung lũng Điện Biên năm xưa. Sau một tiếng “Rẹ-ẹ-ẹt” dài giống như chiếc xe Zin sang số, là một loạt đạn 20 li cày xuống đường AC119 bắn 20 li cũng khá chính xác, nhưng ở đâu có pháo ta bắn mạnh là nó chuồn ngay. Đêm 18 tháng 1 năm 1972, tôi lại trèo lên đỉnh núi. Khoảng 18 giờ, tiếng động cơ ầm ì từ xa vọng lại, nhưng nghe nặng nề hơn những đêm trước. Khi tiếng ầm ì đến gần, tôi ngửa mặt nhìn lên, căng mắt theo dõi. Trong ánh trăng vằng vặc, tôi chợt nhìn thấy lờ mờ bóng dáng chiếc máy bay, với cái bụng to bè, lướt qua rất nhanh. Chỉ mấy giây thôi, rồi nó mất hút trong màn đêm, nhưng tôi khẳng định đó là AC130! Nghe tiếng động cơ thay đổi, tôi đoán nó đã bắt đầu lượn vòng trên trọng điểm. Bên dưới đường kia, đoàn xe ta đang đi qua. Bỗng “pập-pùng!”, “pập-pùng!”, những tiếng nổ của đạn cối 40 li làm tim tôi đau nhói. Thế nào cũng có một chiếc xe dính đạn của nó rồi. Không biết đồng chí lái của ta có kịp xuống hầm ẩn nấp? Từng cụm lưới lửa cao xạ vọt lên, bắn chặn đầu máy bay. Lập tức bọn cường kích F4 nhào tới ném bom phản ứng trận địa. Tuy thế, đạn cao xạ vẫn tiếp tục từng đợt, từng đợt nổ rền trên trọng điểm Xóm Péng. Tôi hy vọng nó sẽ chuồn. Nhưng không! Những tiếng “pập-pùng!”, “pập-pùng!” vẫn cứ như một điệp khúc quái ác kéo dài, dai dẳng. Tôi bỗng hiểu ra rằng: thế là độ cao bay của AC130, hơn hẳn AC119, đã ở ngoài tầm bắn của pháo cao xạ 37 li của ta. Ở đây, chúng tôi có một đại đội pháo 57 li, nhưng cũng không uy hiếp nổi nó. Chỉ sau vài loạt bắn, trận địa pháo 57 đã bị bọn F4, A7 lao đến ném bom: bom phá, bom sát thương, bom bi, cả bom lân tinh nữa. Hai pháo thủ của đại đội hy sinh ngay trên mâm pháo. Với phương tiện quan sát bằng “máy khuếch đại ánh sáng mờ”, đặc biệt có thêm phương tiện mới, quan sát bằng “tia hồng ngoại”, phát hiện mục tiêu nhờ ở “bức xạ nhiệt” toát ra từ máy nổ của xe, tên cú vọ đã dễ dàng nhằm trúng xe ta. Đêm nay, mười xe cháy trên đường. Một xe xích của trung đoàn tôi kéo một khẩu pháo 100 li của đại đội 3, trên đường vào Tà Lộng, đi qua đó, cũng bị AC130 đánh hỏng. Đại đội 3 chỉ còn lại ba khẩu pháo, với bộ khí tài vừa mới được sửa chữa, do hư hỏng sau một chặng đường dài vượt đỉnh Trường Sơn. Trung đoàn quyết định: sử dụng pháo 100 li, có khí tài, tham gia đánh AC130. Từ hôm đó, hiệu quả bảo vệ đoàn xe tăng lên rõ rệt. AC130 đã phải tránh xa khu vực trọng điểm, mỗi khi xuất hiện những chùm đạn nổ lấp loé quanh mình nó. Đội hình xe ta nhiều đêm vượt trọng điểm an toàn. Nhưng rồi đến một hôm khi ra-đa của đại đội 3 phát sóng, dò tìm mục tiêu, thì một quả đạn tên lửa không đối đất (Shrike) từ máy bay địch phóng xuống nổ ngay cạnh đài. Đài hỏng. Trung đội trưởng Ngọc, đài trưởng Như, cùng ba trắc thủ Điều, Chiếu, Thúc đều bị thương. Thế là hết hy vọng vào phương pháp đánh ưu việt nhất: phương pháp đánh bằn phần tử ra-đa. Vài phút sau, một loạt bom nữa làm hỏng hoàn toàn hệ thống vận hành của một khẩu pháo. Đại đội 3 được lệnh di chuyển ngay trong đêm. Riêng khẩu pháo bị hỏng bánh xe kia đành phải nằm lại. Đó là khẩu đội 4. Nó chính là khẩu pháo 100 li “độc thân” giữa rừng Trường Sơn mà tôi đã nói ở phần trên. Suốt nửa mùa khô năm ấy nó không thay đổi vị trí, chịu trận với biết bao bom đạn, để tham gia đánh AC130 bằng phương pháp đơn sơ nhất: phương pháp bắn bằng phần tử lắp sẵn. Cán bộ tham mưu trung đoàn giúp đại đội tính toán, xác định các phần tử bắn: góc hướng, góc tầm, ngòi nổ đầu đạn. Lệnh bắn sẽ được phát đi từ một đài quan sát đặt trên đỉnh núi, gần trọng điểm Xóm Péng. Khi AC130 đến một điểm nào đó trên vùng trời, người chỉ huy đài quan sát sẽ phát lệnh cho khẩu đôi 100 li bắn. Ban ngày, đơn vị cho khẩu đội 4 bắn thử. Đêm đến cho bắn thật. Khi AC130 mò tới, từng viên đạn xé màn đêm bay đi và nổ ngay trên đường bay dự kiến. Những ánh chớp nhỏ loè lên, khi xa, tuy không trúng, nhưng cũng làm cho những tên phi công hết vía, có lúc phải chuồn thẳng. Có nhiều đêm, binh trạm gọi điện sang biểu dương cao xạ đã tích cực đánh địch bảo vệ đoàn xe. Không những đánh đêm, khẩu đội 4 còn tham gia đánh máy bay OV10 ban ngày, tên giặc chỉ điểm lợi hại, rất đáng ghét, cứ kêu vo vo và bay lượn suốt ngày trên đầu chúng tôi. Nguỵ trang không kín mà nó phát hiện thấy là lập tức: “bụp”, nó phóng đạn khói. Chỉ mấy giây sau, bọn “chó ngao” lao đến liền. Cũng bằng phương pháp lắp sẵn phần tử ấy, khẩu đội 4 đã bao lần làm cho lũ OV10 hốt hoảng phải bay đi, không dám quay đầu trở lại. Một hôm tôi cùng Khoa, đại đội trưởng đại đội 3, ghé thăm khẩu đội 4. Tôi hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy khối lượng thùng đạn và vỏ đạn khổng lồ chất đầy xung quanh hầm pháo. Đại đội trưởng Khoa cho biết: anh em bắn rất nhiều đạn, hơn nữa vì nằm một chỗ, nên số vỏ đạn cứ ùn mãi lên. Khẩu đội trưởng Phương cùng mất pháo thủ, trông có vẻ già dặn vì tuổi uân khá cao, tiếp chúng tôi trong một hầm chữ A. Tôi thay mặt trung đoàn biểu dương thành tích của khẩu đội. Thay mặt khẩu đội, Phương hứa sẽ cố gắng khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Trong câu chuyện tâm tình vui vẻ, Phương, pháo thủ lớn tuổi nhất đưa ra một ý kiến: “ Xa nhà lâu rồi! Chỉ mong mùa khô này, đơn vị ra Bắc nhận vũ khí mới, trung đoàn cho bọn em về phép mấy ngày. Nhớ vợ quá, thủ trưởng ạ!”. Lời nói chân thành của Phương làm tôi hết sức xúc động. Trong cuộc chiến đấu sinh tử, triền miên với giặc Mỹ, chúng ta đã phải chịu đựng quá nhiều hy sinh, trong đó có sự hy sinh về tình cảm, về hạnh phúc gia đình. Tôi hứa sẽ chuyển lời đề nghị này lên cấp trên. Có chú gà rừng vừa bẫy được, anh em nấu một nồi cháo gà thết đãi chúng tôi. Từ đó đến nay đã hơn một phần tư thế kỷ. Những đồng đội của tôi ngày ấy, giờ đây ai còn ai mất? Hy vọng nếu có ai trong số đồng đội cũ của tôi đọc được bài này, hãy cho tôi một dòng tìn và địa chỉ. Khẩu đội trưởng của tôi Đêm nay tôi quyết định xuống với đại đội pháo cao xạ 825 đang bố trí ở Na Pang. Việc chỉ huy cụm tiền phương của trung đoàn, tôi giao cho anh Khâm, tham mưu phó. Sau khi ăn cơm chiều xong, rời sở chỉ huy, tôi cùng với Bình, chiến sĩ thông tin, đi bộ theo đường ôtô hướng về phía trận địa. Đang giữa mùa khô, con đường phủ kín một lớp đất bột dày. Chúng tôi phải né sát vào ven đường cho dễ bước. Đang cắm cúi đi, tôi chợt nghe tiếng động cơ phản lực ào tới. Một chiếc F4 lướt qua đầu chúng tôi kèm theo một tiếng “xoẹt” dài như xé vải. -Thủ trưởng ơi! Thằng F4 phóng cây nhiệt đới đấy! Thủ trưởng cho em đi tìm nhé! Nghĩ rằng trời còn sớm, tôi gật đầu đồng ý và dặn Bình hãy nhanh len. Có vẻ như cậu ta đã có kinh nghiệm qua những lần đi chữa đường dây trước. Bình chạy theo hướng của tiếng “xoẹt” lúc nãy, rồi mất hút trong cây rừng. Tôi chậm chạp bước đi, chờ đợi. Bỗng nghe tiếng Bình gọi giật: -Nó đây rồi thủ trưởng ơi! Tôi “ờ” một tiếng rồi vội vàng rẽ lá chạy vào, thấy Bình đang đứng cạnh cây nhiệt đới của thằng Mỹ vừa phóng xuống. -Em đã “khoá mõm” nó lại rồi! Bình cười đắc chí. Cây nhiệt đới, nói đúng hơn là “cây thu phát nhiệt đới”, tên gọi của một thiết bị điện tử dò tìm tiếng động khá tối tân của Mỹ. Tôi đã có lần nhìn thấy nó ở xó nhà ban hậu cần trung đoàn. Hình thù của nó tựa như một cái cây bằng kim loại, sơn màu loang lổ. “Rễ” nó nhọn, để dễ dàng cắm sâu xuống đất. Thân nó cao chừng một mét, hình trụ có đường kính khoảng 15 phân, chứa đựng bên trong toàn máy móc điện tử. Đây cũng chính là món quà hấp dẫn nhất đối với lính ta. Họ tháo rời những tấm linh kiện hình tròn, lựa chọn ra những thứ cần thiết để lắp đài thu thanh bán dẫn. Đơn giản thôi, nhưng nghe đài Hà Nội rất tốt. Trên đầu ống, bốn chiếc cành vươn dài, không lá. Đó là bộ dây trời của thiết bị. Ba cành nằm ngang xoè ra, để thu tiếng động, như tiếng chân người, tiếng động cơ ô tô. Một cành thẳng đứng, cao hơn một mét, dùng để phát sóng, truyền những chấn động ghi nhận được lên một máy bay thường xuyên bay lượn trên bầu trời. Chiếc máy bay này lại tự động chuyển tiếp các tín hiệu về một trung tâm, gọi là “Trung tâm theo dõi sự thâm nhập của Bắc Việt”, đặt ở bên Thái Lan (Ở Na-khon Pha-nom, trên đất Thái). Sau khi xử lý các thông tin bằng máy tính, trung tâm này liền phát lệnh cho các máy bay ở các “vùng chờ” bay đến bắn phá, ném bom. Tôi buồn cười về hai chữ “khoá mõm” của cậu Bình. Anh chàng đã lấy được sợi dây nhỏ, buộc túm cả bốn cành ăng tên thu phát ấy lại với nhau, coi như vô hiệu hoá hoàn toàn tác dụng của tên nghe trộm. Đương nhiên đây mới chỉ là một tên, còn những tên khác chưa được phát hiện, vẫn tiếp tục gây phiền hà cho ta. Sau khi nhổ được cây nhiệt đới, Bình vội vác nó đi sâu vào phía trong. Lát sau quay trở ra, cậu ta hí hửng: -Em phải giấu nó vào chỗ kín, không lỡ có đứa nào nhìn thấy, nó phỗng mất của em. Hì hì! Em sẽ lắp cho thủ trưởng một cái đài bán dẫn thật tốt. Hì hì! Tôi cũng cười, vui lây cái vui hồn nhiên của chàng lính trẻ. Vào đến đại đội 825, tôi nghe đại đội trưởng Nguyễn Văn Yến báo cáo: toàn đơn vị đã chuẩn bị chiến đấu xong. Đại đội bố trí thành hàng dọc theo tuyến đường ôtô, khẩu cách khẩu hơn 100 mét. Từng khẩu pháo để góc bắn 60 độ. Nòng pháo quay về hướng dự kiến máy bay sẽ bay vào. Đạn lắp hai băng-Các pháo thủ ngồi trực trên mâm pháo. Khi phát hiện máy bay, khẩu đội trưởng cứ theo phương án mà bắn, không chờ lệnh đại đội trưởng. Tôi gật đầu hài lòng với những điều Yến vừa báo cáo. Cho cậu Bình ở lại sở chỉ huy đại đội-ở đây Bình có mấy chiến sĩ thông tin đồng hương-còn tôi một mình đi xuống khẩu đội 3. Thấy tôi đến, khẩu đội trưởng Vận báo cáo: -Khẩu đội 3 đang trực ban sẵn sàng chiến đấu. Từ 18 giờ đến nửa đêm, tôi cùng ba pháo hủ trực chiến. Nửa đêm về sáng, đồng chí Báu, khẩu đội phó, cùng ba pháo thủ khác lên thay. Tôi lần lượt bắt tay từng chiến sĩ, rồi đề nghị với Vận: -Khẩu đội trưởng cho mình làm pháo thủ số 2 nhé! -Không được đâu! Trung đoàn phó làm phó thủ thế nào được ạ! -Cậu không biết đấy chứ, ngày xưa tớ đã từng làm pháo thủ số 2 bắn đạn thật trúng mục tiêu, trước khi về dự chiến dịch Điện Biên Phủ đấy! -Nhưng em sợ đại đội phê bình. -Thôi được! Đồng chí Bảo bước xuống để trung đoàn phó lên thay! Tôi mượn chiếc mũ sắt chụp lên đầu, rồi ngồi vào ghế pháo thủ, bàn chân phải đặt lên bàn đạp cò. -Thủ trưởng bình tĩnh nhé! Khi nào tôi hô bắn, thủ trưởng đạp ngay cho em một điểm xạ dài! -Rõ!-Tôi đáp. Hai pháo thủ Bảo và Sơn ở bên cạnh bụm miệng cười. -Điều quan trọng là sau khi bắn xong một điểm xạ, thủ trưởng phải nhảy ngay xuống, chui vào hầm ngay. Không kịp là ăn bom bi đấy! Nó phản ứng tức thì đấy thủ trưởng ạ! Hết bom bi, lại nhảy lên đánh tiếp, chi viện đoàn xe. Bên ngoài đường, những chiếc xe vận tải bắt đầu chạy ra, từng chiếc từng chiếc một, tiếng động cơ rầm rì. Khoảng 30 phút sau, trời đất bỗng sáng trưng lên vì những chiếc đèn dù do máy bay O2A vừa thả xuống. -Kiểu này là không có thằng AC130 rồi! Bọn F sắp đến đấy! Vận nói với các pháo thủ, mà cũng là nói với tôi. Tôi cầm chặt tay lái tầm, chân nhứ nhứ vào bàn đạp. Đột nhiên, Vận hét to: “Bắn!”. Theo phản xạ tự nhiên, tôi đạp mạnh bàn chân phải. Mười viên đạn rời khỏi nòng pháo, vút lên không trung, cùng một lúc với tiếng rít xé tai của chiếc máy bay phản lực Mỹ. Một loạt bom nổ phía bên kia đường. -Xuống hầm, thủ trưởng ơi! Sực nhớ lời dặn của Vận lúc nãy, tôi co chân rời mâm pháo, nhưng vì không quen, nên có phần chậm chạp. Các pháo thủ đã xuống hầm hết. Riêng Vận vẫn đứng đó chờ tôi, nhường tôi xuống trước. Khi tôi vừa lọt vào miệng hầm, một bàn tay ấn mạnh vào lưng tôi, đẩy tôi chui lọt vào trong. Vận chưa kịp vào thì một loạt bom bi nổ trùm lên trận địa, chớp giật nhằng nhằng. Tôi thầm nghĩ: nó phản ứng nhanh ghê! Rồi chợt nghĩ đến Vận, tôi vội hỏi: -Vận ơi! Có việc gì không?Vận ngồi bệt xuống đất, bàn tay phải nắm chặt cánh tay trái. Một loạt bom bi nữa nổ rền. -Em bị vào tay. Nhẹ thôi! Ánh sáng đèn dù từ ngoài hắt vào, giúp cậu Sơn thấy rõ để tháo cuộn băng và quấn vết thương cho Vận. -Có đau lắm không? Còn chỗ nào nữa không? -Không sao đâu thủ trưởng! Chắc viên bi chỉ vào phần mềm thôi! Vận co duỗi cánh tay, từ từ, mặt hơi nhăn. Nhìn khắp đầu và mặt của Vận một lượt, không thấy vệt máu nào khác, tôi yên tâm, nhưng vẫn cứ áy náy trong lòng: -Mình chậm chân một chút mà làm khổ cậu. -Có gì đâu ạ! Sáng mai em sẽ sang trạm phẫu thuật của binh trạm đặt ở hang núi bên kia, nhờ bác sĩ gắp viên bi ra là xong ngay thôi mà! Suốt đêm hôm đó, máy bay Mỹ còn đến quấy phá thêm ba lần nữa. Vận chỉ huy một đợt, mặc dù tay trái đã bị thương. Hai lần sau do Báu chỉ huy. Còn tôi, đương nhiên là không được trèo lên mâm pháo nữa. Đứng quan sát những luồng đạn bắn lên như pháo hoa tung lên trời, tôi xác định các khẩu đội của đại đội 825 đã chiến đấu tốt, bắn mạnh từng loạt, tích cực chi viện cho đội hình xe đi qua. Sáng hôm sau, trở về sở chỉ huy cụm tiền phương trung đoàn, tôi được biết ngoài khẩu đội trưởng Vận, đơn vị chúng tôi không ai bị thương. Chỉ có một kính ngắm pháo của đại đội 813 bị vỡ, đã được nhân viên kỹ thuật thay thế. Hỏi sang binh trạm, các anh cho biết chỉ có một lái xe bị thương và một xe chở đạn bị thủng lốp. Tất cả được giải quyết kịp thời. Đoàn xe vẫn đến đích đúng kế hoạch. Tôi thầm nghĩ: nếu không ở Trường Sơn, người ta không thể hình dung nổi cuộc chiến đấu ở đây như thế nào. Có những biện pháp chiến đấu ở trên chiến trường miền Bắc-chống cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ-là điều cấm kỵ, thì ở đây lại là điều cho phép. Ví như việc có lúc phải bố trí trận địa thành hàng dọc, pháo cách pháo hàng trăm mét, việc cho pháo thủ vào hầm ẩn nấp sau một loạt bắn là điều không thể có ở Hà Nội, Hải Phòng, Quân khu Bốn. Nhưng ở đây là đường Trường Sơn, là tuyến vận chuyển chiến lược, mỗi đếm có hàng trăm xe đi qua theo đội hình lớn, đòi hỏi phải linh hoạt. Thắng lợi của đoàn xe an toàn vượt qua các cung, chặng, là mục tiêu số một của bộ đội trên toàn tuyến 559, mà cũng là mục tiêu số một của bộ đội pháo cao xạ chúng tôi. Bắn mạnh, bắn mãnh liệt để các anh lái xe an lòng khi vượt trọng điểm, để cho những tên phi công Mỹ hoảng hồn ném chệch những chùm bom, để cho đường ta không hỏng, ngầm ta không tắc, xe ta không cháy-hoặc nếu có thì cũng chỉ ở mức thấp nhất. “Máy bay rơi nhiều, càng tốt, nhưng không quý bằng những chuyến hàng an toàn đi tới đích phục vụ đắc lực cho cuộc chiến đấu ở miền Nam". Đó là mệnh lệnh của Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên, của Bộ Tư lệnh Trường Sơn đối với bộ đội phòng không trên toàn mặt trận. Vượt qua ngàn trùng gian khổ, sẵn sàng chấp nhận mọi tổn thất hy sinh, các chiến sĩ pháo cao xạ trên đường Trường Sơn đã thực hiện tốt yêu cầu cơ bản đó. Riêng tôi, suốt đời tôi nhớ mãi cái đêm xuống làm pháo thủ ở khẩu đội 3, để cho khẩu đội trưởng Vận vì tôi mà bị một vết thương (Trong một trận chiến đấu sau, ngày 21-3-1972, khẩu đội 3 bị tổn thất lớn vì một loạt bom bi. Vận, Báu bị thương nặng. Các pháo thủ Phi, Xuân, bảo anh dũng hy sinh). Đại đội trưởng… giả Tháng 3 năm 1972, trung đoàn 227 chúng tôi lật cánh từ tây Trường Sơn sang đông Trường Sơn để nhận nhiệm vụ mới: tham gia bảo vệ giao thông chiến dịch Trị Thiên. Đêm hôm ấy, trên đường 15, chúng tôi chờ phà vượt sông Long Đại trong sự khống chế từng đợt của máy bay Mỹ. Xe pháo trùm kín lá nguỵ trang, đậu thành hàng bên bờ bắc. Nhân lúc yên tĩnh, tôi tranh thủ đi bộ lên phía trước xem xét tình hình. Đêm nay vào khoảng rằm tháng 2 âm lịch. Trời nhiều mây, nhưng ánh trăng vẫn soi tỏ mặt người. Len lỏi qua các tốp bộ đội đứng ngồi bên xe pháo, tôi bỗng thấy hai chiến sĩ trẻ đang đối diện nhau. Một người đứng nghiêm giơ tay chào: -Báo cáo đại đội trưởng! Người kia, sau một thoáng ngỡ ngàng, kêu lên: -Ôi! Thằng Luận!-Rồi hai người ôm lấy nhau, đấm lưng nhau, cười rộn rã. Tôi đâm thắc mắc: cái anh cán bộ đại đội kia sao trẻ quá vậy? Trạc khoảng hai mươi là cùng? Đại đội trưởng của đơn vị nào mà tôi không biết? Hay là tôi nghe nhầm? Không lẽ. Bước tới gần hơn, tôi hơi ngờ ngợ, chưa kịp hỏi thì anh chàng được gọi là đại đội trưởng ấy nhận ra tôi: -Báo cáo thủ trưởng! Em là Tuấn, đại đội 13 đây ạ! -Cậu là đại đội trưởng đại đội 13? -Dạ không phải đâu ạ! Sở dĩ lúc nãy cậu Luận, đồng hương của em đấy, pháo thủ đại đội 26, gọi đùa em là đại đội trưởng, vì có lần ở trên tuyến, em được phân công phụ trách chỉ huy trận địa nghi binh nổ giả của đại đội. -À! Tớ nhớ ra rồi!-Tôi dang rộng vòng tay ôm choàng vai hai chiến sĩ trẻ. Cậu Luận ghé vào tai tôi nói nhỏ: -Bạn Tuấn bây giờ là khẩu đội trưởng rồi đấy, thủ trưởng ạ! Tôi siết chặt vai Tuấn, trong lòng xao xuyến một niềm vui. Trở lại với mùa khô bên tây Trường Sơn. Dòng sông Sê-băng-phai ngày đêm cuồn cuộn chảy. Ở phía thượng nguồn, trên dãy Trường Sơn, con “đường mòn Hồ Chí Minh" không chỉ cắt qua mình nó ở một nơi, mà là nhiều nơi, chỗ có những nhánh của con đường đi qua. Những điểm giao nhau giữa các nhánh đường và các dòng sông, dòng suối ấy được gọi là “ngầm”. Dưới ngầm là một lớp đá trải phẳng, giống một đoạn đường, trên ngầm vẫn là dòng nước chảy ngang qua. Người ta đặt tên cho chúng những tên như: ngầm Khoai nước, ngầm Con rùa… Cũng có khi người ta gọi chúng bằng những âm chữ cái như ngầm A, ngầm A’, ngầm B, B’, C, C’ hoặc ngầm N1, N2, N3, U1, U2, U3… Chỉ riêng đoạn đường 128 từ Sa Ang đến Xóm Péng, dài không đến 20 kilômét, đã có hàng chục chiếc ngầm như thế vượt qua những khúc sông, khúc suối Sê-băng-phai. Tiểu đoàn 14 của trung đoàn chúng tôi được phân công bảo vệ đoạn đường nóng bỏng ấy, đoạn đường mà không quân Mỹ ngày đêm ra sức ngăn chặn. Máy bay của chúng đánh phác các ngầm liên tục: ban ngày, bổ nhào ném bom; ban đêm, bay bằng toạ độ, kết hợp dùng AC130 và lũ F4, A6, A7 khống chế các đoàn xe ta trên các đoạn đường trống trải. Ngoài việc đánh đường, đánh ngầm, đánh xe, chúng còn đánh các trận địa pháo cao xạ rất ác liệt. Do lực lượng có hạn, để hạn chế tổn thất thương vong, để che mắt không quân địch và đánh lạc hướng chúng, các đại đội pháo phải luôn luôn thay đổi vị trí, tăng cường nguỵ trang, phải xây dựng các trận địa nghi binh và thực hành những trận địa giả trên các trận địa vừa rút đi. Một bộ phận chuyên trách được thành lập để đảm trách công việc quan trọng này. Ở đại đội 13, đại đội trưởng Giang chỉ định một tổ hai người, đó là Tuấn và Nhân, hai chiến sĩ dũng cảm và lanh lợi, do Tuấn làm tổ trưởng. Nhiệm vụ của họ là phải thu hút được nhiều bom địch về phía mình. Dụng cụ của họ rất đơn giản: mấy chục thỏi mìn, kíp mìn, vài trăm mét dây điện và một máy phát điện xách tay. Với từng ấy thứ, họ sẽ tạo ra những ánh lửa, những cụm khói, gần giống như khi pháo ta đang bắn. Để nghe lệnh từ sở chỉ huy, họ còn được trang bị thêm một máy điện thoại. Tuy đánh trận giả nhưng yêu cầu phải có chiến thuật hẳn hoi. Thời cơ “bắn” phải đúng lúc. Khi địch đến, họ không được “đánh” sau các trận địa chính. Có nghĩa là họ phải “nổ súng” trước, nhưng chỉ sớm hơn một chút thôi, vừa đủ tạo ra sự chú ý của đám phi công Mỹ bay trên trời. Để đảm bảo an toàn, họ phải đào hai hố cá nhân, có nắp đậy bằng những bó trúc ghép lại, cách xa trận địa giả chừng vài trăm mét. Tuấn ngồi một hố với chiếc máy điện thoại, Nhân ngồi hố bên cạnh với chiếc máy phát điện cầm tay. Khi máy bay địch kéo đến, Tuấn cầm ống nghe, Nhân cầm tay quay. Chờ lệnh đại đội, Tuấn lập tức hô: Bắn! Nhân vội vàng quay máy phát điện. Giữa trận địa giả xuất hiện những ánh chớp và những cụm khói. Để san bằng “trận địa” đối phương, máy bay Mỹ liên tiếp ném bồi, ném nhồi, hết đợt này sang đợt khác. Máy bay trinh sát bay qua chụp ảnh một trận địa bị đánh tan tành, coi như đó là thành tích của chúng. Có khi bom phốt pho còn cháy sáng cả đêm không tắt. Chất lân tinh xanh lè ấy lại cuốn hút bọn giặc đêm lao vào ném bom nữa, bồi thêm nhiều loạt vào trận địa giả vừa bị đánh bom hồi chiều. Càng thu hút được nhiều bom địch, chiến công của các tổ làm nhiệm vụ nghi binh càng to. Trong khi đó, các trận địa thật của ta đàng hoàng tung lưới lửa bắn vào các tốp máy bay đánh phá ngầm. Tuy nói thế, nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Có nhiều khi kẻ địch bị mắc lừa, nhưng cũng có lúc chúng phát hiện ra trận địa thật. Ngày 26 tháng 11 năm 1972, chính đại đội 13 đã bị mấy tốp A6, A7 lao vào tấn công. Pháo ta bắn lên từng loạt, khiến chúng ném bom trượt ra ngoài hầu hết. Chỉ có một quả bom bi rơi trúng khẩu đội 2. Nông Văn Thắng, pháo thủ người dân tộc Tày, cần cù chịu khó nhất đơn vị, hy sinh trên mâm pháo. Hai chiến sĩ Thay và Sự bị thương. Một quả bom phát quang rơi vào vị trí giấu xe, làm ba xe hỏng. Đêm hôm đó, lái xe Lê Văn Phiếu đã một mình một xe, lần lượt kéo cả bốn khẩu pháo của đại đội 13 sang trận địa mới. Dầu sao, các trận địa nghi binh nổ giả của trung đoàn chúng tôi hồi đó vẫn phát huy hiệu quả cao. Tổng kết có tới 35 quả bom phá, 22 quả bom phát quang, bốn quả bom lân tinh, hai quả fusant (bom nổ trên không, chụp xuống rất nguy hiểm), sáu quả nổ chậm và 30 loạt bom bi đã trút xuống các trận địa giả. Tổ nghi binh của Tuấn và Nhân đạt thành tích cao nhất. Ác liệt đến thế mà các chiến sĩ của ta ở các trận địa ấy vẫn an toàn. Nói chung đều bị sức ép, riêng Tuấn bị một mảnh bom nhỏ sượt qua bả vai, lúc cậu ta nhô người lên quan sát. Được biết các anh bên binh trạm 12 cũng tổ chức nghi binh làm lạc hướng đánh phá của địch để bảo vệ đoàn xe. Có đêm, khi lực lượng xe ta chia làm hai mũi: mũi thứ nhất từ Săng Lẻ rẽ đi Nha Vai, qua ngầm C vào Xóm Péng; mũi thứ hai từ Kha Nhu qua ngầm 15A vào Pắc-pha-năng, thì ở nhánh Sa Ang đi Bản Sôi, các tổ nghi binh của công binh đã đặt những đèn rùa, đèn pin màu đỏ, màu trắng, giả đèn gầm của ô tô hoặc đốt những can dầu ma dút đặt trên những chiếc xe bị phá huỷ ven đường làm giả xe cháy, để thu hút máy bay địch đến đánh phá, tạo điều kiện cho các đoàn xe ta đi lối khác đến đích trót lọt, an toàn. Có những đêm, ba lực lượng Xe-Công-Pháo tác chiến hiệp đồng chặt chẽ. Tôi gặp Tuấn lần đầu khi cậu ta đang gánh trên vai nào mìn, nào dây điện vừa được ban tham mưu trung đoàn cấp phát bổ sung. Dịp may để hiểu thêm tình hình, tôi liền gọi người chiến sĩ có nét mặt sáng sủa và thông minh ấy lại hỏi chuyện. Tuấn trả lời tôi rất mạch lạc, lưu loát, với đầy vẻ tự tin, có phần dí dỏm, khi kể lại những trường hợp hai cậu đánh lừa được những tên phi công Mỹ. Hai “thầy trò” chúng tôi quen nhau từ dạo đó. Tháng 5 năm 1972, tôi rời trung đoàn 227, chuyển sang phụ trách đơn vị mới. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1974, tôi gặp lại Giang, đại đội trưởng đại đội 13 cũ, nay đã là tiểu đoàn trưởng, trong đoàn quân vào giải phóng thành phố Sài Gòn. Chúng tôi kể cho nhau nghe chuyện gia đình, tình hình đơn vị kể từ khi xa nhau. Nghe tôi hỏi về khẩu đội trưởng Tuấn, người chiến sĩ chỉ huy trận địa nổ giả năm xưa, Giang cho biết: -Đoàn Mạnh Tuấn sau này tiến bộ lắm! Chiến đấu rất dũng cảm. Năm 1972 được đề bạt vượt cấp lên trung đội trưởng và giờ đây cậu ta đã là đại đội trưởng… Tôi ngắt lời Giang: -Đại đội trưởng! Đại đội trưởng thực sự chứ không phải là đại đội trưởng giả như năm xưa nữa! Ôi! Cậu Tuấn thật tuyệt vời! Trong niềm vui chung to lớn của toàn dân tộc mừng ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chúng tôi còn có những niềm vui riêng, đặc biệt thú vị như thế đó. Đêm Trường Sơn chúng con nhớ Bác! Đêm nay là ngày Noel, không quân Mỹ ngừng hoạt động trên toàn tuyến. Cả một vùng Trường Sơn quanh năm không mấy lúc ngớt tiếng bom đạn, giờ đây yên ắng lạ! Trong hang đá nhỏ, quanh đống lửa bập bùng, mấy anh em chúng tôi vừa sưởi lửa, vừa ngồi nghe cậu Tâm, một chiến sĩ thông tin có giọng ca vàng hát những bài ca về Trường Sơn. Giống như một nghệ sĩ, Tâm hát say sưa, vừa đủ nghe, thong thả. Mắt cậu ta mơ màng, nhìn về xa xăm, như đang thả hồn mình bay bổng theo những lời ca: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm! Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây” Giữa chừng, tôi rời bếp lửa lên giường nằm, không phải vì buồn ngủ, mà là để trong tư thế thư giãn, được tiếp tục lắng nghe và thưởng thức tiếng hát đầy cảm xúc của Tâm: “Ôi! Đêm Trường Sơn! Nghe tiếng suối trong như tiếng hát xa. Mà ngỡ như từ Pác Bó, suối về đây ngân nga Âm vang Trường Sơn-Âm vang Trường Sơn…”. Bếp lửa tàn. Mọi người đã ngủ. Riêng tôi lòng dạ cứ thao thức, bâng khuâng. Bài “Đêm Trường Sơn nhớ Bác” mà Tâm hát lúc vừa rồi làm tôi vương vấn mãi. Nó gợi lại trong tôi hình ảnh của Bác, cùng với niềm thương nhớ Bác thiết tha. Từ trong ký ức sâu thẳm của mình, kỷ niệm vè những lần mà tôi may mắn được nghe kể về Bác, được gặp Bác kính yêu, lần lượt hiện về. Hồi chống Pháp, tôi có người bạn thân là Bùi Văn Phú. Trong những ngày chung sống ở Việt Bắc, đã có lần Phú tâm sự với tôi: “Ra trận sống chết là chuyện thường, nhưng nếu lỡ chết mà chưa được một lần gặp bác, ân hận lắm Lân ạ!”. Ước mơ của Phú cũng là niềm ước ao to lớn của tôi và của nhiều người. Ngược dòng thời gian, tôi nhớ lại ngày đầu Cách mạng tháng Tám ở quê tôi, khi nghe tin “Cụ Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà", anh tôi Lưu Trọng Thuỷ rất vui. Tôi đã được nghe anh kể những câu chuyện liên quan đến hoạt động của Người. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được biết về Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Tình cảm kính yêu Bác của tôi cũng bắt đầu từ đó, một tình cảm rất tự nhiên và trong sáng. Vào một ngày tháng 7 năm 1947, tôi cùng Soang, một chiến sĩ du kích, nằm trong vòng vây của 48 tên lính Pháp và lê dương. Tình thế thật nguy ngập! Tôi bàn với Soang: “Quyết không để giặc bắt! Phải hô khẩu hiệu (Các chiến sĩ du kích chúng tôi hồi đó luôn thuộc nằm lòng hai câu khẩu hiệu, để sẵn sàng hô, trường hợp phải hy sinh: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm! Việt Nam độc lập muôn năm!”) trước khi cho nổ lựu đạn để cùng chết với chúng”. Chúng tôi cắn răng rút chốt an toàn. Trong giây phút căng thẳng ấy, tôi dự định nếu tình huống xấu nhất xảy ra, bị giặc phát hiện, sẽ cùng Soang vụt đứng dậy, gọi to tên Bác Hồ, tên Tổ quốc (riêng tôi sẽ hô bằng tiếng Pháp: Vive le Président Ho Chi Minh! Vive le Vietnam Indépendant!) rồi cho hai trái lựu đạn cùng nổ tung… Nghĩ đến đó, hình ảnh Bác bỗng hiện lên trong trí óc, lòng tôi bỗng trở nên thanh thản lạ thường. Nhưng rồi bọn giặc đã không phát hiện ra chúng tôi. Chúng kéo nhau ra về. Thế là thoát nạn! Sau này, mỗi lần nhớ lại chuyện xưa, tôi cứ nghĩ, nếu hôm ấy bị giặc phát hiện, chắc chắn Soang và tôi đã hy sinh một cách xứng đáng. Ngày 4 tháng 9 năm 1948, sau một thời gian rèn luyện và thử thách trong hoạt động gây dựng cơ sở ở vùng địch hậu, tôi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Mai Trọng Nguyên, Bí thư Huyện uỷ huyện Bố Trạch lúc đó, trực tiếp kiểm tra nhận thức của tôi, với hai câu hỏi: -Mục tiêu của Đoàn thể (Hồi ấy, Đảng Cộng sản Đông Dương chuyển vào hoạt động bí mật, nên gọi Đảng là Đoàn thể) là gì?-Lãnh tụ của đoàn thể là ai? Đồng chí cảm nhận vì vè lãnh tụ? Sau một thoáng suy nghĩ, tôi trả lời: -Mục tiêu của Đoàn thể ta là: +Đấu tranh giải phóng dân tọc, tức là kháng chiến, giành độc lập cho Tổ quốc. +Đấu tranh giải phóng giai cấp, tức là làm cho Công Nông thoát khỏi ách áp bức bóc lột của tư sản, địa chủ. +Lãnh tụ của Đoàn thể là Bác Hồ. Bác Hồ suốt đời đấu tranh vì dân vì nước. Bác luôn ở trong trái tim tôi. Tôi xin nguyện noi gương Bác suốt đời phấn đấu vì nước vì dân. Đồng chí Nguyên khen tôi nhận thức tốt. Sau đó, đồng chí bí thư chi bộ tuyên bố: “Kết nạp đồng chí Lưu Trọng Lân vào Đoàn thể”. Tôi sung sướng được đứng trong Đoàn thể mà Bác Hồ là lãnh tụ! Hồi ấy, tôi chưa hề dám nghĩ tới việc được gặp Bác. Mãi đến cuối năm 1952, khi được ra Việt Bắc, trong tôi mới chớm nở ước mơ được gặp Bác Hồ. May mắn làm sao, sau khi cùng đơn vị chuyển về bảo vệ thành phố Hải Phòng, ước mơ đó của tôi đã trở thành hiện thực. Ngày 30 tháng 5 năm 1957, Bác Hồ đến thăm Quân y viện 12, Bệnh viện nằm kề bên trận địa pháo cao xạ của tiểu đoàn tôi, ngăn cách bởi một hàng rào dây thép gai. Là tham mưu trưởng tiểu đoàn, hôm ấy tôi xuống làm việc với cán bộ đại đội. Nhờ một người quen bên bệnh viện báo tin có Bác đến thăm, mừng quá chúng tôi quyết định tạm xếp công việc, chạy ngay đến sát hàng rào, nhìn sang. Bác kia rồi, trong bộ quần áo ka-ki màu bạc, khoác bên ngoài một chiếc bờ-lu, đang từ khoa điều trị thương bệnh binh đi ra, giữa một đoàn cán bộ nhân viên Quân y viện phục một màu trắng toát. Rồi Bác đứng nói chuyện với anh chị em, ngay giữa sân, bên cạnh chiếc ôtô của Người. Tôi say sưa nhìn Bác, nhưng không nghe Bác nói gì, vì xa quá! Dẫu sao, tôi đã là người hạnh phúc, hạnh phúc lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy Bác Hồ kính yêu. Năm 1964, tôi được tham gia phục vụ triển lãm “10 năm kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ". Một buổi sáng, tôi còn nhớ đó là hôm thứ ba, ngày 21 tháng 7 năm 1964, triển lãm đóng cửa. Lý do: đón Bác Hồ đến thắm. Tôi được phân công giới thiệu chính giữa, nhưng vì quá sốt ruột, tôi cứ chạy ra mé ngoài ngóng trông Bác đến. Ôi! Bác đã xuống xe, giản dị trong bộ quần áo nâu với đôi dép lốp, dáng đi rất nhanh nhẹn. Tôi vội chạy về vị trí, hồi hộp nhẩm đi nhẩm lại lời thuyết minh, để lát nữa giới thiệu với Bác cho được lưu loát. Bác xuất hiện từ cuối gian bên. Đi cạnh là Bộ trưởng Bộ Văn hoá Hoàng Minh Giám. Đi sau là giám đốc khu triển lãm trung ương Lê Minh Tuấn. Thấy tôi đứng đó, Bác liền hỏi: -Chú là chiến sĩ Điện Biên? (Có lẽ Bác nhìn thấy tôi đeo hu hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ). -Thưa Bác, vâng ạ! -Chú ở binh chủng nào? -Thưa Bác, cháu ở pháo cao xạ. -À! Hồi đó pháo cao xạ lần đầu ra trận, đánh tốt lắm! Thôi, chú giới thiệu đi! Vắn tắt thôi nhé! Bao nhiêu câu chữ mạch lạc trong đầu tôi bỗng chạy đi đâu mất. Tôi thuyết minh một cách lúng túng. Bác không nghe tôi giới thiệu nữa. Bác tự xem lấy, thỉnh thoảng quay lai trao đổi đôi điều với Bộ trưởng Hoàng Minh Giám. -Ảnh này khá đẹp, nhưng phải sửa lại đôi chút cho đẹp hơn! Chú hiểu chứ! Retoucher (là sửa, là chấm lại những nét hư trên ảnh). Bộ trưởng mỉm cười, gật đầu. -Mấy ảnh này sao không có lời chú thích? Phải ghi chú thích để cho đồng bào mình ai xem cũng hiểu được!-Ông bộ trưởng lại gật đầu, lĩnh ý của Bác. Đến chỗ trưng bày hàng sứ Hải Dương. Bác quay sang hỏi tôi: -Đồ sứ ta đẹp, nhưng còn dày và nặng. Có đúng không chú? Tôi ấp úng đáp: -Thưa Bác, đúng ạ! -Hồi ở Paris, Bác cũng đã từng làm thợ rơ-tút ảnh và thợ vẽ hoa trên gốm, sứ đấy! Tôi buột miệng: “dạ!” một cách chung chung. Phút chốc Bác đã đi qua gian trưng bày bên cạnh. Tôi đứng lặng nhìn theo, bâng khuâng như mất một cái gì. Sau khi xem xong toàn khu triển lãm, nhìn thấy anh chị em cán bộ, nhân viên, các cháu gái thuyết minh đứng ngấp nghé xa gần, Bác khoát tay nói với giám đốc khu triển lãm cho tập hợp anh chị em lại để chụp ảnh chung với Bác. Mừng quá, chúng tôi chạy ùa ra vây lấy Bác. Tôi nhanh chân đến gần. Bác bảo: -Nào! Chiến sĩ Điện Biên vào đây! Tôi vội vàng đứng ngay bên phải Bác, thầm ”cảm ơn” cái huy hiệu Điện Biên Phủ đeo trên ngực. -Kìa! Các cháu gái ngoài kia, vào gần hơn!-Bác đưa tay vẫy vẫy. -Các chú nhiếp ảnh! Thay nhau vào đứng chụp với Bác đi! Ai nấy đều vui. Chụp ảnh xong. Bác ra hiệu cho tất cả ngồi xuống. Bác cũng ngồi ngay trên thềm nhà. Đương nhiên là tôi cũng ngồi xuống ngay cạnh Bác. Đã bao nhiêu năm qua nhưng tôi không sao quên được những lời Bác dặn hôm ấy, đại ý: -Trước tiên, Bác khen các cháu, dù khách xem triển lãm đông, thời tiết nóng bức, thời gian kéo dài, các cháu vẫn phục vụ hết sức nhiệt tình. Bác rất vui! Nhưng Bác phê bình các cháu: vệ sinh chưa tốt, bụi bặm còn nhiều. Một số ảnh chưa đẹp và thiếu lời chú thích. Trời nắng nóng, nhưng còn thiếu thùng nước uống cho bà con, nhất là bà ở con nông thôn lên. -Triển lãm này giới thiệu thành tích mười năm xây dựng miền Bắc, nhưng cũng chính là vì miền Nam đó. Miền Bắc xây dựng tốt, thì đồng bào miền Nam mới tin tưởng, mới hăng hái đấu tranh, nước nhà mới mau thống nhất. Vậy các cô, các chú hãy vì miền Nam mà ra sức góp phần xây dựng miền Bắc tốt hơn. -Bác chúc các cô, chú mạnh khoẻ, tiếp tục phục vụ đồng bào đến xem triển lãm tốt hơn nữa. Rồi Bác ra về. Chúng tôi ngẩn ngơ nhìn theo. Trong tim mỗi người đều in đậm bóng hình và những lời chỉ dạy của Người. Điều cảm động nhất là lúc nào Bác cũng nhớ đến miền Nam. Tối 31 tháng 12 năm 1964, Cục Đối ngoại Chính phủ tổ chức chúc mừng năm mới, với sự có mặt của tất cả các vị đại sứ các nước và nhiều chuyên gia bạn, cùng nhiều khách mời về phía Việt Nam. Nghe tin có Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự, nhiều người chen nhau ra phía cổng chính, hy vọng được đón Bác ngay từ đầu. Không lọt được vào phía cổng, tôi đành tìm chỗ đứng ở gần khu trung tâm, nơi đã có các ông bà đại sứ đứng đợi. Đã đến giờ, không thấy ôtô Bác đến, những người đứng phía cổng chính bắt đầu sốt ruột. Không ngờ, chắc là do yêu cầu của công tác bảo vệ, xe chở Bác lại vào lối khác. Bác xuống xe, bất ngờ xuất hiện ngay sau lưng mọi người. Tôi quay lại, nhìn thấy Bác đi vào, gần quá, rõ quá! Hôm nay Bác mặc bộ đồ kaki màu nhạt, chỉ khác là chân đi giày da, tác phong của Người vẫn thật gần gũi, cởi mở. Bác lần lượt bắt tay các đại sứ, các chuyên gia và phu nhân. Bác tươi cười nói chuyện với người này, người khác (không qua phiên dịch). Tôi cảm nhận trên gương mặt các ông bà đại sứ, chuyên gia đều ánh lên nét hân hoan, vui sướng được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau lời chúc mừng năm mới của Bác, tiếng vỗ tay nổi lên, kéo dài. Rồi bác lại hoà vào đám đông, tiếp tục bắt tay, chúc mừng… Khi Bác lên xe ra về, nhiều người còn bâng khuâng, luyến tiếc vì không được gần Bác thêm nữa. Riêng tôi, mỗi lần được gặp Bác, nhìn thấy Bác, đều để lại một ấn tượng vô cùng sâu sắc. Và đó cũng là những giây phút hạnh phúc nhất trong đời tôi. Ngày 3 tháng 9 năm 1969, lúc đó đơn vị tôi đóng ở Hà Nội, được tin Bác mất, cán bộ. chiến sĩ trong đơn vị tôi ai nấy đều rưng lệ. Lắng nghe Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Hà Nội truyền đi những câu thơ rung động lòng người của Tố Hữu càng làm chúng tôi thương nhớ Bác khôn nguôi: “Bác đã đi rôi sao Bác ơi! Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời. Miền Nam đang thắng mơ ngày hội. Rước Bác vào thăm thấy Bác cười”. Ba ngày trước hôm làm lễ quốc tang truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoà trong dòng người bất tận và trong tiếng khóc nức nở xé lòng của các mẹ, các chị, các em, tôi bước vào hội trường Ba Đình viếng Bác. Trong chiếc quan tài bằng pha lê, bác nằm như đang ngủ, đôi dép lốp đơn sơ đặt dưới chân Người… Thấm thoắt đã hơn hai năm, đêm nay giữa núi rừng Trường Sơn, trên con đường mang tên Bác, những người lính chúng con đang nhớ đến Bác, hát về Bác với tất cả nỗi lòng kính yêu vô hạn. Cuộc chiến đấu đầy hy sinh gian khổ vẫn còn tiếp diễn, đang chờ chúng con. Nhưng, dù cho khó khăn quyết liệt đến mấy, chúng con cũng xin nguyện sinh tử cùng với con đường mang tên Bác để cho mạch máu nối liền Nam-Bắc không một ngày ngừng chảy, để cho miền Nam thân yêu mau được giải phóng hoàn toàn. Đường Hồ Chí Minh trên đất Quảng Bình Sau gần một đêm hành quân vất vả, tôi cùng một anh bạn đồng hành ngủ thiếp đi trên chiếc giường tre, trong căn nhà nhỏ “nửa chìm” của anh chị Thón, ở một xóm nhỏ ven đường 15, gần ngã ba Vạn Ninh, lối rẽ lên đường 10. Sáng ra, tôi bỗng giật mình thức giấc vì tiếng gọi thất thanh của một em bé: -Các chú bộ đội ơi! Xuống hầm đi! Máy bay! Tiếp theo là tiếng gầm rú của bầy máy bay phản lực Mỹ. Như một phản xạ tự nhiên, chúng tôi lăn người xuống đất, rồi lao vào một cửa hầm bên vách nhà. Hai loạt bom nổ. Mái nhà tranh trên đầu chúng tôi bị bóc một mảng lớn. Tiếp sau là hai loạt bom bi. Thôn xóm yên lành, với những căn nhà tranh nhỏ bé, phút chốc ngập chìm trong lửa cháy và khói bom mù mịt. Trong tiếng máy bay xa dần, tôi bỗng nghe từ chiếc hầm bên cạnh vang lên tiếng kêu đứt quãng: “Mạ ơi! Mẹ ơi!” Hai chúng tôi vọt lên khỏi nơi trú ẩn, chạy sang. Một cảnh tượng thương tâm bầy ra trước mắt: bé Trung, đứa con trai chừng tám tuổi của chị Thón, mình trần, đang quằn quại trong đau đớn. Xem qua một lượt, chúng tôi chợt cảm thấy vô cùng bối rối bởi vì không biết phải băng bó chỗ nào. Một quả bom bi rơi trúng miệng hầm. Những viên bi độc ác bắn thủng khắp người em. Từ hàng chục vết thương lỗ chỗ trên đầu, mặt và toàn thân em bé, những dòng máu tươi ứa ra, tràn lênh láng… Lòng tôi đau như cắt. Bé Trung đã cứu sống chúng tôi, nhưng chính em lại không thoát được bàn tay giết người của giặc Mỹ. Sáng sớm hôm nay, khi vác cuốc đi làm, có ý để chúng tôi ngủ thêm lấy sức hành quân tiếp, anh chị Thón đã để bé Trung ở nhà, với mấy củ khoai lang trong rổ, cùng lời dặn: “Khi mô có máy bay, phải chạy ngay xuống hầm và nhớ kêu mấy chú bộ đội, nghe con!”. Vậy mà… Đêm ấy theo kế hoạch, chúng tôi tiếp tục lên đường, nhưng với cõi lòng nặng trĩu. Tiếng gọi “Các chú bộ đội ơi! Xuống hầm đi!” và tiếng khóc xé lòng của người mẹ ôm xác con trên tay đã khắc sâu trong trái tim một nỗi xót đau không bao giờ nguôi. Tôi bắt đầu bằng câu chuyện có thật trên đây, để tiếp theo, xin được giới thiệu đôi nét về đường Hồ Chí Minh trên đất Quảng Bình, quê tôi. Ngày 16 tháng 12 năm 1963, khi vào thăm đồng bào Quảng Bình, Vĩnh Linh, Bác Hồ đã nói: “Nếu kẻ địch gây ra chiến tranh đối với miền Bắc, thì Quảng Bình, Vĩnh Linh là nơi đụng đầu trước hết; quân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh phải bảo đảm đánh thắng chúng trước hết”. (Tư liệu “Những sự kiện trong chiến tranh chống Mỹ trên đất Quảng Bình (1954-1975) của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình). Thực tế đã diễn ra như thế nào? Ngày 5-8-1964, khi đế quốc Mỹ bất ngờ cho 64 chiếc máy bay từ hai hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constellation vào ném bom nhiều nơi trên miền Bắc, thì chính Quảng Bình là nơi diễn ra trận đánh đầu tiên. Tám máy bay A4D ném bom Cảnh Gianh và Mũi Ròn (cùng đợt với 8 chiếc khác đánh Vinh-Bến Thuỷ), Quảng Bình cũng là nơi đầu tiên bắn rơi máy bay Mỹ. Một chiếc A4D cắm đầu xuống biển (cùng lúc với Vinh-Bến Thuỷ bắn rơi 2 chiếc khác). Sang đầu năm 1965, cùng với việc ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam nước ta, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Trong hai ngày 7 và 8 tháng 2 năm 1965, Mỹ đã mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại đẫm máu và kéo dài ấy bằng những cuộc giội bom xuống Đồng Hới và Vịt Thu Lu của Quảng Bình, Hồ Xá của Vĩnh Linh. Trong hai ngày đó, quân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh đánh giỏi thắng lớn, bắn rơi 8 máy bay Mỹ. Thế là đúng như lời Bác Hồ dự báo, trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ với miền Bắc: Quảng Bình, Vĩnh Linh đã là nơi đụng đầu trước hết, quân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh đã đánh thắng chúng trước hết. Quay lại thời điểm tháng 1 năm 1959. Từ máu lửa sục sôi của cách mạng miền Nam, Đảng ta đã cho ra đời một văn kiện lịch sử đó là Nghị quyết 15. Nghị quyết của Trung ương Đảng chỉ rõ phương pháp chiến lược mới của cách mạng miền Nam nước ta là: “Đấu tranh vũ trang kết hợp đấu tranh chính trị, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà”. Thực hiện chủ trương chiến lược nói trên, ngày 19 tháng 5 năm 1959, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã quyết định thành lập Đoàn 559, với nhiệm vụ: “Mở đường giao liên, mở đường vận tải quân sự, để chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam". Những cán bộ, chiến sĩ tiên phong của Đoàn 559 đã lấy Khe Hó thuộc huyện Vĩnh Linh làm căn cứ đầu tiên. Nhưng chỉ ít lâu sau, họ đã chuyển sang địa điểm mới. Đó là Làng Ho, thuộc huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình, một thung lũng rộng, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, để làm bàn đạp cho nhiệm vụ mở đường. Từ Khe Hó của Vĩnh Linh, Làng Ho của Quảng Bình, những chuyến gùi thồ đầu tiên mang gạo, muối, súng đạn tiếp tế cho Trị Thiên và Khu 5, cùng những chuyến giao liên đưa cán bộ, bộ đội ra vào và chuyển thương binh từ Nam ra Bắc, góp phần thúc đẩy cách mạng miền Nam đi lên. Cách mạng miền Nam càng phát triển, quân dân miền Nam càng cần có vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men… Không thẻ nhờ mãi vào đôi chân, đôi vai và những chiếc xe đạp thồ nhỏ bé. Đã đến lúc phải vận chuyển hàng bằng ôtô, phải cơ giới hoá đường chi viện chiến lược. Để có một tầm bao quát trên thực địa, hướng tới việc thiết lập một hệ thống giao thông vận tải quân sự trên tuyến 559, vào một ngày cuối tháng 2 năm 1960, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã cùng Bí thư Tỉnh uỷ và Trưởng ty Giao thông Quảng Bình, bằng máy bay lên thẳng, bay khảo sát một vòng, từ Đồng Hới lên Làng Ho, dọc theo Trường Sơn, ra tận Tuyên Hoá rồi quay trở lại Đồng Hới (Theo tư liệu đã dẫn). Từ đây, nhiệm vụ xây dựng hệ thống đường ôtô vận tải quân sự được tổ chức thực hiện hết sức khẩn trương. Bộ Giao thông cùng với tỉnh Quảng Bình và Đoàn 559 đã phối hợp thành lập hàng chục công trường, gồm hàng ngàn thanh niên nam nữ, con em của sáu huyện thuộc Quảng Bình, để gấp rút mở những đường lớn. Trước tiên là con đường từ Thạch Bàn qua Vịt Thu Lu lên Làng Ho (về sau gọi là đường 16). Tiếp theo là củng cố, sửa chữa, mở rộng đường 15, từ Khe Ve, Đá Đẽo vào đến Thác Cóc, Bến Quang. Tháng 5 năm ấy, cũng tại Quảng Bình, sau khi đến thăm và biểu dương các lực lượng làm đường. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói với đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ: “Để bảo đảm sự chi viện với mức độ ngày càng tăng cho miền Nam, chúng ta nhất thiết phải có đường ô tô vận tải quân sự phía bên kia Trường Sơn, nhất thiết phải có những con đường lớn vượt Trường Sơn qua phía tây”. Công trường 12A được thành lập để củng cố đoạn đường từ Khe Ve đến đèo Mụ Giạ. Sau đó, được sự chấp nhận của bạn Lào, thông qua một văn bản hiệp định, chúng ta thành lập thêm công trường 129, để làm tiếp con đường từ Mụ Giạ đến ngã ba Lằng Khằng. Không khí lao động trên các công trường làm đường rất sôi nổi. Đâu đâu cũng mọc lên những khẩu hiệu nói lên quyết tâm của nhân dân đến Quảng Bình, của các chiến sĩ công binh và thanh niên xung phong Đoàn 559: “Một người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả vì miền Nam thân yêu”. Do vị trí đặc biệt của mình, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với Vĩnh Linh, Quảng Bình đã trở thành hậu phương trực tiếp của miền Nam. Nếu tính riêng hai cuộc chiến tranh phá hoại thì Quảng Bình là tỉnh đi trước, về sau, cũng là tỉnh chịu đựng nhiều nhất sức nặng của cuộc “Chiến tranh ngăn chặn, huỷ diệt” hết sức tàn bạo của Mỹ, nhằm bóp nghẹt cái nơi mà chúng gọi là “yết hầu”, “cổ chai”, “cán soong”, chỗ hẹp nhất trên bản đồ đất nước. Sau khi Đoàn 559 thành lập, rồi Bộ Tư lệnh Trường Sơn ra đời, Quảng Bình trở thành căn cứ chủ yếu của tuyến chi viện chiến lược, là xuất phát điểm của hầu hết các con đường vượt khẩ từ đông sang tây. Từ những chuyến giao liên và giao hàng nhỏ lẻ của thời kỳ gùi thồ, cho đến những binh đoàn lớn, điệp trùng ra trận trong mùa xuân 1975, tất cả đều đến đây, qua đây, dừng chân ở đây và từ đây xuất phát. Nhìn lên tấm bản đồ tổng thể của đường Hồ Chí Minh chạy dài từ Hương Khê (Hà Tĩnh) đến Đồng Xoài (Sông Bé), ở khu vực Quảng Bình ta thấy chi chít những đường dọc, đường ngang. Các tuyến dọc có: -Quốc lộ 1A: từ Đèo Ngang đến Hạ Cờ. -Quốc lộ 15A: từ Khe Ve đến Thác Cốc. Đó là chưa kể các con đường tránh 22A, 22B ở huyện Quảng Trạch và rất nhiều đường nhánh khác ở phía nam sông Gianh. Các tuyến ngang trên địa bàn Quảng Bình (một phần tiếp qua Vĩnh Linh hoặc sang phía tây, bên đất bạn) có: -Đường 12A: từ Khe Ve đến đèo Mụ Giạ, xuôi xuống ngã ba Lằng Khằng (Tiếp theo là những con đường dọc: 128-129 đi về phía Nam). -Đường 20 (còn gọi là đường Quyết Thắng): từ Phong Nha đến ngã ba Lùm Bùm. -Đường 10: từ ngã ba Áng Sơn đến ngã ba Dân Chủ. -Đường 18: một nhánh tách ra từ kilômét 32 đường 20 vào đến Sêpôn. -Đường 16 (còn gọi là đường Thống Nhất): từ ngã ba Thạch Bàn, qua Làng Ho, qua ngã ba Dân Chủ vào tạn Bản Đông. Đây là tuyến đường vượt khẩu chủ yếu của toàn hệ thống đường Hồ Chí Minh. Ngoài đường bộ, trên đất Quảng Bình còn có đường vận tải trên biển, trên sông. Chính từ cảng Thanh Khê, một phân đội thuyền chở vũ khí của “Tập đoàn đánh cá sông Gianh”, đã rời bến vào Nam. Đó là đơn vị đầu tiên mở đường cho tuyến “đường Hồ Chí Minh trên biển”. Tiếc thay, giữa đường gặp bão lớn, chuyến đi không thành. Quảng Bình còn huy động hàng trăm tàu thuyền ngày đêm vượt đạn bom ngăn chặn, ngược xuôi các dòng sông Gianh, sông Son, sông Ròn, Nhật Lệ, Long Đại, Kiến Giang để vận chuyển hàng cho Đoàn 559. Về đường không: từ năm 1960, một cầu hàng không đã được thành lập, nối tiền Đồng Hới với Làng Ho, bằng những chiếc máy bay An-2 nhỏ bé, tạo chân hàng cho các đơn vị vận tải gùi thồ vượt tuyến. Đến tháng tư năm 1961, có thêm một cầu hàng không khác, từ Đồng Hới đến Thà Khống (Nam Lào), để phục vụ cho chiến dịch mở rộng vùng giải phóng của bạn Lào ở Tây Trường Sơn. Lại có cả những cánh bay MiG-17, xuất kích từ sân bay dã chiến Khe Gát ở huyện Bố Trạch, ngày 19 tháng 4 năm 1972 đã lập công đánh trọng thương tàu khu trục Mỹ. Ngoài đường bộ, đường thuỷ, đường không, đi qua Quảng Bình còn có một tuyến đường đặc biệt, cũng là đường thuỷ, nhưng: “Là nước mà không phải sông. Là đường mà có nước bên trong Đó là đường ống” (thơ Trịnh Quý) Quảng Bình được giao nhiệm vụ góp phần xây dựng và bảo vệ tuyến đường ống vận chuyển xăng dầu từ Bắc vào Nam, theo các trục đường 12A, đường 10, đường 18, vượt đỉnh Trường Sơn, toả đi các hướng chiến trường. Để góp phần bảo vệ tuyến chi viện chiến lược, phối hợp với lực lượng phòng không của Đoàn 559 và Quân chủng Phòng không-Không quân, Quảng Bình có những đơn vị súng, pháo cao xạ chiến đấu giỏi và kiên cường. Từ những trận đánh mở đầu thắng lợi đến cả quá trình chiến đấu quyết liệt chống lại hai cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và lần thứ hai của Mỹ, các lực lượng phòng không tại Quảng Bình, có cả bộ đội tên lửa, đã hiệp đồng chặt chẽ với nhau, vững vàng bám trụ trên hầu hết các trọng điểm nổi tiếng nhất. Họ đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bảo vệ từng chiếc cầu, phà, từng đoạn đường xung yếu, góp phần giữ vững mạch máu giao thông thông suốt, cho những dòng xe không ngừng chảy về Nam trong suốt 10 năm. Con số 704 máy bay Mỹ bị quân dân Quảng Bình bắn rơi trong hai cuộc chiến tranh phá hoại là một dẫn chứng thật hùng hồn. Cùng với mạng lưới đường sá giao thông và lực lượng bảo vệ giao thông như trên, còn có một hệ thống gồm những căn cứ, cơ quan đầu não, các chiến sĩ hậu cần, quân y kho tàng các binh trạm, của Đoàn 559, phần lớn được bố trí, cất giấu trên khắp các địa phương của Quảng Bình. Về căn cứ và cơ quan đầu não: có căn cứ Đoàn 559 ở Làng Ho, có sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Trường Sơn ở Hoà Tiến, ở Xuân Ninh, Hiền Ninh. Chính sở chỉ huy của Bộ chỉ huy chiến dịch Đường 9-Nam Lào, năm 1971, cũng đặt tại núi An Mã trong địa phận Quảng Bình. Về kho tàng: có những tổng kho lớn ở Hoá Tiến thuộc huyện Tuyên Hoá, Phong Nha thuộc huyện Bố Trạch, Xuân Bồ thuộc huyện Lệ Thuỷ. Còn có những kho trung chuyển ở Rào Đá, Rào Trù… cùng hàng trăm chân hàng trên các bến bãi, ven đồi ven núi, trong những rừng cao su, cạnh xác xóm làng. Lại thêm hàng ngàn khó nhỏ lẻ giấu trong các đền chùa hoặc gửi trong nhà dân, hoàn toàn ký thác cho dân. “Nhà dân là kho hàng, gia chủ là thủ kho”, nhưng hàng của nhà nước, của quân đôi không hề mất mát. Khẩu hiệu của dân Quảng Bình là: “Cho không lấy, thấy không xin, của công giữ gìn, của rơi trả lại”; “Hàng ta, ta quý ta yêu, hàng ra tiền tuyến, hàng tiêu diệt thù”. Nhân dân Quảng Bình coi việc bảo vệ tuyến đường chi viện cho miền Nam là nhiệm vụ đầu tiên, là tình cảm thiêng liêng của mỗi người. Phong trà “Xe chưa qua, nhà không tiếc” bắt nguồn từ xã Quảng Thuận, huyện Quảng Trạch. Để cứu một xe chở hàng bị sa lầy, đằng sau là cả đoàn xe đang ùn lại, mẹ Choàng đã cho dân quân xã phá dỡ ngôi nhà thân yêu của mình, để lấy gạch ngói, cột kèo lát đường cho xe qua. Khẩu hiệu “Đường chưa thông, không tiếc máu, tiếc xương” được nhân dân Quảng Bình thể hiện khắp nơi, trên mọi nẻo đường, trên mỗi dòng sông, bến nước, ở bất cứ xóm thôn nào, trong những cánh rừng và cả ngoài khơi biển rộng. Điển hình nhất là sự kiện xảy ra vào một đêm tháng 6 năm 1972. Đoạn đường ngầm ở Hói Hạ ở bờ nam sông Gianh bị bom phá hỏng. Nhân dân các xã lân cận đã được huy động, cùng thanh niên xung phong của Đoàn 559 ra sửa gấp. Máy bay Mỹ lại đến giội bom. 48 người dân quê tôi cùng 40 thanh niên xung phong nam nữ quê Hà Tây đã ngã xuống. Những hàng trăm người khác, ngay đêm sau lại xông ra, lấp bằng các hố bom, san phẳng mặt ngầm, rồi làm cọc tiêu hướng dẫn cho các đoàn xe vượt ngầm tiếp tục đi vào phục vụ chiến dịch Trị Thiên. Có thể nói nhân dân Quảng Bình đã chấp nhận một sự trả giả lớn lao về sinh mạng và của cải cho sự sống còn của con đường lịch sử. Biết bao tên người như: mẹ Suốt chèo đò qua sông Nhật Lệ, anh hùng Võ Xuân Khuể lái canô, kéo phà, anh hùng Nguyễn Văn Tương lái đò chở bộ đội, chở súng đạn, Nguyễn Viết Lân dũng sĩ phá bom nổ chậm ở Cà Tang, tiểu đội thanh niên xung phong Trần Thị Lý bám trụ kiên cường trên đèo Ba Trại, tiểu đôi Nguyễn Thị Kim Huế thuộc đại đội 759 anh hùng trên ngọn đồi 37, đường 12… đã đi vào huyền thoại, cùng với sự nghiệp hơn mười năm bảo vệ mạch máu Bắc-Nam. Biết bao tên đất, tên làng của Quảng Bình như: La Trọng, Bãi Dinh, Khe Ve ở đường 12; đèo Đá Đẽo, phà Xuân Sơn, phà Long Đại, phá Thác Cốc trên đường 15; phà Ròn, phà Gianh, phà Quán Hàu trên đường 1; cua 68, cua chữ A, ngầm Tà Lê, đèo Phu-la-nhích trên đường 20… đã trở thành những địa danh lịch sử cùng với đường Hồ Chí Minh. Trong những tháng năm đánh Mỹ, tôi đã cùng với đơn vị mấy lần vượt Trường Sơn vào Nam ra Bắc. Quảng Bình đã từng là chặng đường dừng chân của chúng tôi, trước lúc đi vào chiến trường hoặc sau khi ở chiến trường ra. Ở nơi đâu trên đất Quảng Bình, chúng tôi cũng được sống trong tình thương của các “bọ, mạ” (Bọ, mạ: bố mẹ) của các anh chị, các em. Tuy cuộc sống khó nghèo, nhưng tấm lòng của bà con luôn rộng mở. Làm sao quên được những đêm mưa gió, xe pháo chúng tôi bị sa lầy, bà con thôn xóm xung quanh đã đem những bó cây, gánh củi, có khi cả cột nhà, tấm phản, lát đường cho xe pháo vượt qua. Nhà nào cũng vậy, khi bộ đội qua làng, nửa đêm ghé lại, cả gia đình dồn xuống nhà dưới, nhường nhà trên cho bộ đội ở. Có giường ngủ giường, có nống ngủ nống (nống: cái nong phơi lúa). Có lần chính tôi đã được phép ngả lưng ngay trên chiếc “hòm” của cụ Hậu, thôn Cổ Giang, chiếc quan tài đóng sẵn cho cụ đợi ngày đi xa. Đồng bào Minh Hoá dọc đường 15, nghèo nhất tỉnh, phần lớn các tháng trong năm chỉ ăn sắn, ăn bồi (bồi: hạt bắp giã nhỏ, nấu thành cơm ăn) nhưng quanh năm không mất khi vắng mặt các anh bộ đội trú quân trong làng. Những đoàn quân nối tiếp nhau ra trận, hoặc từ mặt trận trở về, đơn vị này vừa đi, đơn vị khác lại đến, cứ thế ròng rã hàng chục năm. Tôi còn nhớ hình ảnh mẹ Bào, bà mẹ hiền từ chất phác ở thôn Đại Hữu, từ bếp bưng lên một rá khoai còn nóng hổi: “Khoai con Cẩn vừa mới bới trên nương. Các con ăn đi! Nhà mẹ nghèo nỏ có chi (không có gì) cho các con cả”. Ôi! Chỉ mấy củ khoai lang với một tấm lòng của bà mẹ già mà thân thiết bao nhiêu. Mấy ngày trú quân ở thôn Cổ Giang, sau khi đánh trận ở Quảng Trị trở ra, các thương bệnh binh đơn vị chúng tôi đã được các mẹ đưa về gia đình chăm sóc tận tình chu đáo. Thấy áo quần anh em bộ đội không lành lặn, các chị em đã đề nghị với cấp chỉ huy cho tập trung quần áo lại để chị em vá giúp. Thôn xóm vắng bóng những nam thanh niên, vì các anh đã lên đường chiến đấu. Các mẹ, các chị, các em dồn tình thương cho các anh bộ đội qua làng. Có những đêm, thấy các chị không ở nhà, chúng tôi hỏi, các mẹ cho biết: “Chúng nó tập trung đi sửa đường, san lấp hố bom”. Người dân Quảng Bình gắn bó với đường Trường Sơn, mạch máu chảy từ Bắc vào Nam như máu thịt, như ruộng đồng quê hương mình. Mỗi đoạn đường của tuyến chi viện chiến lược đi qua đều có đóng góp to lớn của quân dân Quảng Bình. Chiến tranh qua rồi. Quá khứ không bao giờ trở lại. Ghi chép những dòng hồi ức trên đây, tôi tự hào về Quảng Bình quê tôi một thời đánh Mỹ, đã có hơn ba ngàn ngày “sống chết” với đường Hồ Chí Minh. Từ đường Trường Sơn chúng tôi đi vào chiến dịch Hồ Chí Minh Sau chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” cuối tháng 12 năm 1972, từ cương vị một trung đoàn trưởng ở dưới đơn vị, tôi được điều lệ cơ quan Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không-Không quân, làm Phó phòng Cao xạ. Ngoài công việc bộn bề trong phạm vi quân chủng, tôi còn được giao thêm nhiệm vụ nắm và theo dõi các lực lượng phòng không ở chiến trường phía Nam. Qua liên hệ với Phòng Quân lực và Phòng Tác chiến, nhất là với các đoàn công tác ở trong Nam ra, dần dà tôi đã nắm được những điều cơ bản về tình hình lực lượng và hoạt động của các đơn vị cao xạ trên các Mặt trận Trị Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ và Đoàn 559. Việc có vẻ ít liên quan ấy không ngờ lại trở thành thuận lợi cho tôi, khi tôi được đi B công tác vào năm sau. Tháng 1 năm 1975, ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, quân ta đánh to thắng lớn. Báo đài đưa tin: ngày 6 tháng 1, quân giải phóng miền Nam đã làm chủ toàn tỉnh Phước Long. Tôi rất phấn khởi, nhưng thật ra, trong nhận thức khi đó, tôi chưa hiểu được gì nhiều về ý nghĩa của chiến thắng nói trên. Thế rồi tôi nhận được lệnh chuẩn bị đi B và may mắn làm sao, sáng 25 tháng 1 năm 1975, tại hội trường Quân chủng Phòng không-Không quân, chúng tôi được đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm và nói chuyện. Hôm ấy, Đại tướng nói không nhiều, nhưng phân tích tình hình rất sâu sắc. Tôi còn nhớ những ý chính: “Sau Hiệp định Paris, toàn bộ quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc đã rút khỏi nước ta. Nhưng chính quyền Mỹ và chính quyền Thiệu đã ngang nhiên xé bỏ hiệp định. Mỹ tuôn ồ ạt vũ khí vào miền Nam Việt nam. Thiệu thì hung hăng hò hét “tràn ngập lãnh thổ”, đưa quân tiến hành hàng loạt cuộc tiến công lấn chiếm các vùng do ta kiểm soát. “Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết 21 khẳng định: “Nhân dân ta không có con đường nào khác là phải tiếp tục con đường bạo lực cách mạng để giải phóng hoàn toàn miền Nam". Trung ương Đảng còn nhận định: “Một khi vì thất bại, buộc phải rút khỏi nước ta, đế quốc Mỹ khó có thể quay trở lại”. “Tháng 1 năm 1975, bằng chiến sĩ Phước Long, chỉ trong một tuần lễ, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống hơn 4.000 tên địch. Toàn tỉnh Phước Long được giải phóng. Nguyễn Văn Thiệu hốt hoảng cầu cứu Mỹ can thiệp, nhưng Mỹ làm ngơ. Tổng thống G.Ford tuyên bố: “Quân Mỹ không thể quay lại Việt Nam, vì Quốc hội Mỹ không cho phép”. Vậy là qua đòn Phước Long, ta đã nắm được gân cốt của Mỹ. Phải tranh thủ giải phóng miền Nam trong thời gian ngắn nhất. “Riêng đối với Quân chủng Phòng không-Không quân, một mặt phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc, mặt khác phải ra sức tăng cường lực lượng phòng không tối đa cho cách mạng miền Nam". Lắng nghe lời đồng chí Tổng tư lệnh, Bí thư Quân uỷ Trung ương lòng chúng tôi vô cùng phấn chấn. Tối hôm đó đến thăm anh Lê Văn Tri, Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, tại nhà riêng, tôi được anh nói rõ thêm tình hình và động viên: “Cậu biết không? Sau trận Phước Long, mặc cho “tổng” Thiệu gào thét, bọn Mỹ vẫn đánh bài lờ. Không quân Mỹ đã không trở lại ném bom miền Bắc nước ta như chúng từng hăm doạ. Sư đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ đóng tại Okinawa-Nhật Bản, vẫn án binh bất động tại chỗ. Tàu sân bay Enterprise được lệnh rời Subic tiến vào Biển Đông, nhưng sau đó đã ngoặt hướng, lặng lẽ chuồn sang Ấn Độ Dương. Bọn Mỹ đã bỏ cuộc. Tình hình ở miền Nam sắp tới sẽ phát triển rất nhanh. Cậu được đi B kỳ này là một vinh dự rất lớn, cũng giống như hồi 1954 cậu được đi được đi dự chiến dịch Điện Biên Phủ. Chắc chắn cậu sẽ được gặp lại mẹ và các em ở Sài Gòn (Bố mẹ tôi vào Sài Gòn làm ăn từ những năm 40. Năm 1974 bố tôi mất. Còn lại mẹ và 3 em. Anh Lê Văn Tri là anh rể tôi) trong một ngày không xa”. Anh giơ hai ngón tay, nói nhỏ: “Hai năm!”. Sáng 27 tháng 2 năm 1975, đoàn đi B chúng tôi, với đầy đủ thành phần của một sở chỉ huy tiền phương, gồm bốn cơ quan, do dat Trần Quang Hùng, Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân chỉ huy, lên đường. Riêng bộ phận tác chiến chúng tôi có khoảng 15 anh em, do trung tá Phạm Sơn làm trưởng phòng và tôi, thiếu tá, làmphó phòng, trực thuộc Bộ Tham mưu tiền phương quân chủng, do trung tá tham mưu phó Lê Thanh Cảnh phụ trách. Sau Tết Ất Mão khoảng nửa tháng, chúng tôi rời Hà Nội. Đoàn xe chúng tôi theo quốc lộ số 1 vào Quảng Bình. Khi qua phà Gianh, tôi bỗng nhớ về quê hương ở đây một thời bom đạn (Tôi quê xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, ở ngay phía nam bến phà Gianh). Cuộc chiến tranh kéo dài nhiều năm bằng không quân của Mỹ đã tàn phá quê tôi đến hoang tàn. Biết bao dân làng của hai bờ bắc-nam sông Gianh cùng các chiến sĩ phòng không, giao thông vận tải đã ngã xuống vì sự sống còn của bến phà, trước sự đánh phá quyết liệt ngày đêm của máy bay Mỹ. Nhìn lên phía tây, điệp trùng một dải Trường Sơn, mờ xa và huyền ảo trong ánh nắng chiều. Tôi hình dung con đường 15 quen thuộc, chạy dài dưới chân rặng Trường Sơn, giờ đây chắc đang thiếu vắng những đoàn xe vận tải tấp nập vào ra như vài ba năm trước. Qua Thanh Khê, chúng tôi vượt đèo Lý Hoà vào Đồng Hới, nghỉ đêm tai sân bay. Sáng hôm sau, chúng tôi đi tiếp vào Đông Hà, rồi rẽ phải, theo đường 9 lên hướng Khe Sanh. Khi trời lành lạnh. Xe chúng tôi đi trong gió thổi ngược chiều và trong khung cảnh nhộn nhịp của những đoàn xe ra trận. Những chiếc xe Hồng Hà chở quân, những chiếc xe Din kéo pháo, và những chiếc xe tăng tự hành… nối đuôi nhau, xen kẽ, tung bụi mịt mù. Qua Tân Lâm, Đầu Mầu, nơi khúc quanh của đường 9, nhớ lại trận đánh xuất sắc của trung đoàn pháo cao xạ 230, thuộc Sư đoàn 367 chúng tôi, hồi chiến dịch Trị Thiên, tại đây, bắn hạ bảy máy bay Mỹ. Sắp đến địa phận huyện Hướng Hoá. Những câu hát mà tôi rất thích: “Anh thắng trận miền tây Khe Sanh. Đồn Tà Cơn hôm nào bốc cháy, Đồi Động Tri xác Mỹ chất đầy. Tính! Tính…” trong bài “Tiếng đàn Ta Lư” của Huy Thục, bỗng rộng lên trong lòng tôi. Nó gợi lên hình ảnh những tên lính thuỷ đánh bộ Mỹ, 5 tháng trời bị giam chân trong cứ điểm Tà Cơn. Kiên trì vây hãm địch, tiến tới giải phóng toàn bộ thung lũng Khe Sanh là chiến công rất xuất sắc của quân giải phóng, để cho đường vận tải chiến lược của chúng ta liền mạch ở cả hai phía đông và tây Trường Sơn. Vùng giải phóng tỉnh Quảng Trị, đã từng là chiến trường ác liệt nhất năm 1972, hôm nay thanh bình quá đỗi. Các đơn vị pháo cao xạ, tên lửa của sư đoàn phòng không 673 và 377 vẫn luôn trực ban sẵn sàng chiến đấu, nhưng trên bầu trời kia không còn bóng dáng những pháo đài bay B52 của Mỹ đêm ngày đến “rải thảm”, cùng hàng đàn hàng lũ máy bay cường kích A6, A7, F4… thay nhau lồng lộn, bắn phá, ném bom… Đó đây, vẫn còn vết tích chiến tranh, còn những hố bom loang lổ, nhưng trước mắt tôi, những doanh trại bộ đội, nhà ở của đồng bào, của các cơ quan Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, các cửa hàng mậu dịch, trường học, trạm xá mọc lên san sát trên các ngọn đồi, ven những dòng sông, khúc suối. Đơn vị cơ quan nào cũng có cổng chào với dòng chữ in màu vàng trên nền đỏ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Trên một số bãi, đậu la liệt những máy bay, máy kéo “mới ra lò”, màu sơn còn đỏ chói. Lại còn nhiều máy ủi, máy xúc, sơn màu vàng rực của các đơn vị công binh Trường Sơn. Tuy nhiên, đó là dáng vẻ bề ngoài. Mấy hôm sau tôi được biết, bên trong khung cảnh bình yên ấy, vùng giải phóng Quảng Trị đang là một trong những điểm nóng tích cực chuẩn bị cho một trận quần chúng chiến lược kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài ba mươi năm của dân tộc. Khắp nơi dưới những tán rừng rậm, trong nông trường cà phê xanh ngát, là cơ man nhưng súng ống đạn dược của đủ loại binh chủng hiện đại, cũng những kho hậu cần đầy ắp hàng hoá, trùm kín ni lông, đang ẩn mình, đợi chờ đến lượt đi về phương Nam. Cơ quan Tiền phương Quân chủng chúng tôi tạm thời đặt bên cạnh cơ quan Sư đoàn Phòng không 377, thuộc Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Sau khi triển khai xong sở chỉ huy, trừ một bộ phận nhỏ trực ban, hầu hết cán bộ chúng tôi được tung đi xuống các đơn vị cao xạ, tên lửa, rada có mặt trong vùng, để nắm lại thực lực và công tác chuẩn bị hành quân. Đến trung đoàn 263, còn gọi là đoàn Quang Trung, đơn vị tên lửa phòng không duy nhất có mặt ở vùng giải phóng sau Hiệp định Paris, chúng tôi ngỡ ngàng trước những khu doanh trại khang trang, xen lẫn những vườn rau xanh tốt trên những thửa ruộng bậc thang, cùng những vườn hoa sắc màu rực rỡ quanh các lán trại. Bộ đội ta đi đến đâu cũng giữ nếp sống lạc quan. Ban chỉ huy trung đoàn chiêu đãi chúng tôi một bữa cơm thật ngon, bằng những món ăn ”rau nhà, gà vườn”. Trong phòng làm việc, anh Tích, trung đoàn trưởng, cho chúng tôi biết: “Vào một ngày cuối tháng 2 năm 1973, Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đã đến thăm trung đoàn. Tổng Tham mưu trưởng căn dặn bốn điều mà chúng tôi còn nhớ mãi: 1.Sẵn sàng chiến đấu cao để bảo vệ vững chắc vùng giải phóng. Đối tượng tác chiến là không quân nguỵ. 2.Ra sức huấn luyện để nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật và khả năng hành quân cơ động trên mọi địa hình phức tạp. 3.Sẵn sàng cơ động bất cứ lúc nào, đến bất cứ nơi đâu, trên toàn mặt trận phía Nam. 4.Chăm lo nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho chiến sĩ". Anh Tích nói tiếp: “Hôm qua chúng tôi đã nhận được lệnh chuẩn bị hành quân vào Tây Nguyên. Đảng uỷ, Ban chỉ huy trung đoàn đã họp, ra nghị quyết lãnh đạo và lên kế hoạch tổ chức thực hiện. Hôm nay được cơ quan quân chủng đến, thật là dịp may cho chúng tôi. Anh Liễn, Chính uỷ, và tôi sẽ báo cáo mọi việc. Sau đó mời các đồng chí xuống các đơn vị để nắm tình hình cụ thể thêm. Rất mong được sự quan tâm chỉ đạo của các cơ quan quân chủng, tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ". Từ đấy, chúng tôi phân công nhau, kẻ xuống Làng Vây, người trở ra Động Toàn, Cam Lộ, người đi ngược lên Tà Cơn, Nguồn Rào để đến với các tiểu đoàn hoả lực và kỹ thuật tên lửa SAM2. Ở tiểu đoàn 43, chúng tôi gặp thượng uý Nguyễn Hải Đăng, một tiểu đoàn trẻ, đẹp trai. Đăng báo cáo: “Đơn vị hiện có 26 xe các loại, đủ để cơ động toàn tiểu đoàn. Nhưng chúng tôi lo nhất là thiếu phụ tùng thay thế, đặc biệt là lốp dự phòng và càng kéo. Tinh thần cán bộ chiến sĩ rất cao, sẵn sàng nhận nhiệm vụ bất cứ lúc nào. Có vài chiến sĩ bị sốt rét đang tiếp tục điều trị”. Chúng tôi còn đến với hai trung đoàn pháo cao xạ 221 và 226. Hai đơn vị này đã nhận được lệnh đi B3 và B2 (B3 là Tây Nguyên, B2 là Nam Bộ). Ở trung đoàn 226, tôi gặp trung đoàn trưởng Trần Bảo Lược, bạn chiến đấu cũ, tính tình cởi mở, dễ mến. Anh Lược báo cáo: “Tổng quân số: 1054 cán bộ chiến sĩ. Biên chế: ba tiểu đoàn pháo hỗn hợp 57 ly, 37 ly và 23 ly. Có thêm ba bộ khí tài máy chỉ huy và rada, 30 cơ cấu phóng tên lửa tầm thấp A72, cùng 250 quả đạn. Xe cộ: 115 chiếc, đủ bảo đảm hành quân, nhưng thiếu phụ tùng dự trữ và kinh nghiệm đi đường, móc kéo pháo hay bị gãy. Ngày 15 tháng 3, chúng tôi bắt đầu nhập tuyến Trường Sơn Tây”. Những ý kiến đề xuất của các đơn vị lập tức được báo cáo lên Phó Tư lệnh Quân chủng, Đại tá Quang Hùng đã chỉ đạo các cơ quan kịp thời giải quyết. Về công tác tham mưu, chúng tôi đã tìm đến cơ quan Bộ Tham mưu Đoàn 559 để nhờ giúp đỡ một số việc. Anh Trần Bút, bạn thân của tôi thời Điện Biên Phủ, đã giúp tôi sao chép một số sơ đồ các tuyến đường có liên quan, để cấp cho các đơn vị hành quân. Trong các sơ đồ đều ghi rõ địa chỉ từng cung chặng, khoảng cách mỗi đoạn đường, đặc điểm địa hình, đường sá, vị trí các điểm tiếp xăng dầu… rất tỉ mỉ. Bộ Tư lệnh Đoàn 559 còn cấp cho mỗi đơn vị hành quân chúng tôi một số giấy giới thiệu, để liên lạc dọc đường. Phòng thông tin do anh Hoàng Đình Quý phụ trách, hướng dẫn cho chúng tôi biết một số hệ thống đường dây, để khi đến các điểm dừng, nếu cần, chúng tôi có thể liên lạc được với nhau bằng điện thoại. Qua việc này, tôi vô cùng khâm phục việc tổ chức mạng thông tin liên lạc của Đoàn 559, hết sức chặt chẽ và có hiệu quả, trên cả một vùng rừng núi bao la, với phạm vi rất rộng, rất dài, vươn tới mọi chiến trường, trên khắp mọi hướng, mọi tuyến của đường mòn Hồ Chí Minh. Theo mệnh lệnh hành quân, lịch nhập tuyến của các đơn vị phòng không như sau: -Ngày 19 tháng 2, trung đoàn 221 pháo cao xạ xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Đông. -Ngày 7 tháng 3, trung đoàn 263 tên lửa xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Tây. -Ngày 25 tháng 3, trung đoàn 226 pháo cao xạ xuất phát đi theo hướng Trường Sơn Tây. -Ngày 31 tháng 3, tiểu đoàn 8 rada xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Đông. Sau khi tiểu đoàn 43, đơn vị hoả lực đầu tiên của trung đoàn tên lửa rời Làng Vây, hai hôm sau, sở chỉ huy tiền phương của chúng tôi cũng “nhổ neo” lên đường. Anh Phạm Sơn được phân công đi cùng trung đoàn tên lửa 263. Còn tôi, đi cùng xe với tham mưu phó Lê Thanh Cảnh, theo hướng đông. Lái xe tên là Chiến, chiến sĩ phục vụ tên là Cường. Xe chúng tôi qua Sa Trầm, Ly Tôn, ngã ba Lan Nam rồi tiến vào A Lưới. Một cảnh tượng nhức nhối đập vào mắt tôi. Lần đầu tiên tôi được hiểu thế nào là chất độ hoá học của Mỹ. Cả một cánh rừng bạt ngàn toàn những cây cao lớn, nhưng trụi lá trơ cành. Những hàng cây chết đứng cứ như chạy trốn về phía sau, khi xe chúng tôi tiến nhanh lên phía trước. Chiến khu A Lưới có nữ anh hùng Kan Lịch, người dân tộc Vân Kiều. Nghe nói vùng này xưa kia sầm uất lắm. Vậy mà dưới bàn tay tàn bạo của giặc Mỹ, cây cối ở đây đang lụi tàn, cảnh vật biến thành một màu đen xám. Đang miên mang suy nghĩ, tôi chợt nghe anh Cảnh quay lại nói như reo: “Ông Lân ơi! Buôn Ma Thuột giải phóng rồi!”. Anh vặn to âm thanh chiếc đài bán dẫn để chúng tôi cùng nghe rõ. Trừ cậu Chiến cầm vô lăng, cả ba chúng tôi cùng vỗ tay đôm đốp: “Trời ơi! Phấn khởi quá!”. Bài xã luận của Báo Quân đội Nhân dân về chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 11 tháng 3, được Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi trên làn sóng nghe sao rạo rực lòng người. Anh Cảnh nói: -Chúng mình vào, may ra còn kịp tham gia giải phóng Tây Nguyên. Sau Buôn Ma Thuột còn Kontum, Pleiku, thủ phủ của quân khu 2 và quân đoàn 2 nguỵ nữa. Chiếc xe com-măng-ca của chúng tôi còn mới, chạy rất khoẻ. Nó vượt hết mọi xe trên đường. Càng vào sâu, tôi càng thấy quang cảnh nhộn nhịp, tưng bừng của con đường ra trận. Núi rừng Trường Sơn có lẽ chưa bao giờ được chứng kiến cuộc ra quân hùng vĩ như ngày hôm nay. Tôi nhớ lại hồi mở chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ có một con đường 41, độc đạo, đưa 24 khẩu lựu pháo 105 ly và 24 khẩu pháo cao xạ 37 ly cùng khoảng 600 xe tải chờ gạo, đạn vào thung lũng Điện Biên. Còn năm nay, cả đông và tây Trường Sơn, cùng nhiều con đường khác nữa, đang cuồn cuộn những dòng xe, dòng tăng, dòng pháo, dòng tên lửa, hầu hết là những trang bị hiện đại. Còn nhiều xe chở bộ binh của những quân đoàn chủ lực, xe chở những khoang thuyền vượt sông của công binh, rồi những đoàn xe hậu cần chở lương thực, thuốc men, quân trang, quân dụng nối tiếp nhau, như thác đổ, chảy về Nam. Đường Trường Sơn năm nay mở rộng hơn trước nhiều. Để chuẩn bị đón thời cơ lớn, hàng vạn cán bộ chiến sĩ Trường Sơn đã gấp rút nâng cấp hàng ngàn kilômét đường ôtô đạt tiêu chuẩn cấp bốn. Cầu, cống, ngầm vượt sông đều được sửa chữa, tôn tạo. Những đoạn đường hiểm trở quanh co, đã được anh chị em công binh, thanh niên xung phong nắn lại cho thẳng hơn. Họ mở rộng vòng cua, hạ thấp triền dốc, bảo đảm cho mọi loại binh khí kỹ thuật nặng nề có thể hành quân. Phần lớn những con đường đều được gấp rải đá cấp phối. Có tới năm chục kilômét, từ đường 9 trở vào, đã được trải nhựa, xe chạy êm ru. Thắng lợi càng gân, ngoảnh lại, nhìn thấy công lao “xẻ dọc Trường Sơn" của bộ đội Trường Sơn thật vô cùng vĩ đại. Đến ngã ba đường 73, chúng tôi dừng xe. Một đoàn xe xích kéo những khẩu pháo nòng dài 122 ly đang chuẩn bị rẽ vào lối đi Nam Đông. Một vị chỉ huy pháo binh nhìn tôi ngờ ngợ: -Lưu Trọng Lân phải không? Tôi chợt nhận ra người bạn cũ hồi ở Việt Bắc năm 1952. -Hoàng Tuấn hả? Không ngờ gặp cậu ở đây!-Chúng tôi ôm chầm lấy nhau mừng rỡ. Tôi cho Tuấn biết hiện nay mình đang công tác ở Bộ Tham mưu Phòng không-Không quân và đang trên đường vào Tây Nguyên. Tuấn cười, vẫn chiếc răng khểnh dễ thương như ngày nào: -Đơn vị mình được lệnh hành quân gấp vào hướng Nam Đông, Mũi Trâu, chuẩn bị áp sát phía tây bắc Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột thất thủ. Tây Nguyên sắp giải phóng đến nơi rồi. Đà Nẵng chắc đang đợi bọn mình đấy, Lân ạ! Thôi chia tay nhé! Hẹn gặp lại nhau ở Sài Gòn. Chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình trên chặng đường Trường Sơn Đông. Những địa danh A Sầu, Bù Lạch, Xưởng Giầy, A Vương, Trao, Bung… lần lượt lùi lại phía sau. Xe đi xuyên rừng, núi tiếp núi, có đoạn đường bằng, có đoạn cheo leo, xe chúng tôi lượn chênh vênh trên lưng chừng núi, bên đèo cao, bên vực thẳm. Những lúc ấy tôi cảm thấy Trường Sơn kỳ vĩ lạ lùng. Thú rừng thường chạy vụt qua trước mũi xe của chúng tôi, khi con chồn, khi con nai. Còn nhữn chú chim cu, gà rừng thì bất ngờ vỗ cánh bay lên khi xe chúng tôi vừa lao tới. Anh Cảnh có khẩu súng săn mang theo. Nhiều hôm chúng tôi được ăn cơm với thịt gà rừng, chim cu gáy, nhờ tài thiện xạ của anh. Phát hiện một bầy chim đang mải mê mổ gạo rơi trên đường, cậu Chiến phanh xe thật nhẹ nhành. Anh Cảnh từ từ nghiêng người ra ngoài xe, giương súng: Tạch! Một chú chim lăn đùng. Thế là chúng tôi lại được bữa ăn tươi. Cậu Cường công vụ có bàn tay nấu nướng rất nghề. Khi sắp qua bến phà Giàng, chúng tôi gặp một đơn vị pháo cao xạ 37 ly đậu sát bên đường. Hỏi ra thì biết đó là tiểu đoàn 106, thuộc trung đoàn 545, Sư đoàn 377. Một cán bộ trạc tuổi bốn lăm, khuôn mặt trắng hồng, râu quai nón đang giơ tay chỉ trỏ. Thấy quen quen, tôi nhìn kỹ, hoá ra đó là Hà Văn Lực, người dân tộc Tày, đại đội trưởng cũ của tôi trong chiến dịch Điện Biên. Cuối chiến dịch, tôi là đại đội phó. Nghe tiếng gọi, anh quai lại, ngỡ ngàng: -Lân đấy à! Đã lâu lắm bây giờ mới gặp lại nhau. Lâu nay trung đoàn mình bảo vệ bến Giàng. Trung đoàn 227 của Nguyễn Văn Chí ở Bí Hiên, trung đoàn 528 của ông Tùng “Trố” ở A Lưới. Còn trung đoàn 594 của cậu Chính, trung đoàn 218 của cậu Toàn, hiện cũng đang di chuyển vào phía trong. Anh nắm tay tôi thật chặt: -Thôi! Cậu đi mạnh khoẻ! Đừng quên tớ nhé!-Tôi cười: -Quên sau được Hà Văn Lực, đại đội trưởng xuất sắc nhất của trung đoàn pháo cao xạ 367 trong chiến dịch Điện Biên năm xưa. Một buổi chiều, xe đang chạy ngon trớn, bỗng nhiên cậu Chiến nói to: -Sắp hết xăng rồi, thủ trưởng ơi! Còn chạy được vài chục cây số nữa! Anh Cảnh nói: -Yên tâm! Tớ đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Trạm tiếp xăng cũng gần đây thôi. Đi được một quãng, xa xa chúng tôi thấy có hai chiến sĩ đang đi tới. Một cô cầm chiếc cờ lê to. Một cô gánh trên vai toòng teng mấy chiếc ống nối, cái hình tròn, cái chữ T. Anh Cảnh bảo xe dừng lại: -Quân “đường ống” đây rồi! Các cô ơi! Cho chúng tôi hỏi… Hai nữ chiến sĩ gọn gàng trong bộ quân phục, đầu đội mũ tai bèo, nhoẻn miệng cười khi nhìn thấy chúng tôi. Cậu Chiến buột miệng: -Hai thím giải phóng quân xinh quá! Chuyện trò bỗng nở như ngô rang giữa chúng tôi và hai cô gái trẻ. Cuối cùng chúng tôi hỏi đường đi đến trạm xăng. Cô gái cầm chiếc cờ lê đưa tay chỉ: -Kìa! Chỗ có mấy chiếc xe Zin đang chờ “ăn” xăng đấy! Chúng tôi vui vẻ chia tay hai cô gái. Tại trạm tiếp nhiên liện, cậu Chiến trình giấy. Xe chúng tôi được nạp xăng đầy thùng, còn thêm mấy can dự trự. Xe lại bon bon trên đường. Tôi bỗng nhớ lại một ngày mưa ở gần Cổng Trời đường 12A.Hôm ấy chúng tôi đang nằm nghỉ trưa trong lán, bỗng nghe tiếng gõ “Koong! Koong!” Giật mình nhìn ra, thấy một nữ chiến sĩ “đường ống” khoác áo nilông, tay cầm cờ-lê, vừa đi vừa cúi mình, gõ gõ vào đoạn đường ống dẫn xăng chạy dài bên cạnh lán chúng tôi. Một chiến sĩ ló đầu ra, gắt: -Làm gì mà chẳng cho ai ngủ cả thế! Chẳng vừa, cô gái đáp lại: -Muộn rồi ông anh ơi! Em đi làm nhiệm vụ kiểm tra đường ống đây mà!-Bắt gặp nụ cười tươi của cô gái, biết cô ta trêu lính pháo, cậu chiến sĩ của tôi cười huề: -Bọn anh biết các em bên “đường ống” rồi, xin lỗi nhé! Mới đó mà đã ba năm. Giờ đây, tôi thật không ngờ khi được biết hàng chục vạn tấn xăng dầu, như những dòng suối nhỏ vô tận, ngày đêm âm thầm len lỏi trong những con đường ống có đường kính 200 ly ấy, đã vượt ngàn trùng sông núi, băng qua những đỉnh núi cao nhất ở đường 12, đường 10, đường 18, chạy dọc theo chiều dài của đông, tây Trường Sơn vươn tới chiến trường, vào mãi tận Bù Gia Mập, miền Đông Nam Bộ. Xe chạy đến đâu, có xăng dầu phục vụ đầy đủ ngay đến đó. Kẻ địch quyết tâm phá, nhưng đã không có cách gì ngăn chặn được nỗ lực của chúng ta. Thật khó tưởng tượng nổi chiến công kỳ diệu của đội quân “đường ống” Trường Sơn! Chúng tôi đến Khâm Đức trong một ngày đẹp trời. Tin giải phóng Phước An, Kon Tum, Pleiku dồn dập bay tới. Rồi tin hàng vạn tên địch kinh hoàng tháo chạy khỏi Tây Nguyên, đang bị quân ta đuổi và chặn đánh ở Cheo Reo, Phú Túc. Niềm hân hoang tràn ngập trên ánh mắt mỗi người. Đâu đâu cũng thấy xe ta đậu kín đường, kín bãi. Các quán ăn tấp nập người vào ra, cả bộ đội, cán bộ dân chính, cả đồng bào Kinh, Thượng, nhìn ai cũng vui như Tết. Trong đâm đông tôi chợt nhận ra có mấy người chống nạng. Đến bên một chiến sĩ, tuổi trạc hai mươi, băng trắng quấn quanh đầu gối, nạng cầm tay, tôi hỏi chuyện. Anh kể: -Bọn em bị thương trong trận đánh Buôn Ma Thuột. Đã được điều trị hơn một tuần ở trạm quân y tiền phương. Vì không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, chúng em phải theo những chiếc xe quay vòng này trở về hậu phương-Giọng anh đượm buồn-Quân mình đang thắng lớn, phải trở ra lúc này, thật tiếc quá! Tôi lựa lời an ủi anh thương binh rồi chia tay, trong lòng không khỏi xốn xang. Từ Khâm Đức, chúng tôi còn phải đi hơn một trăm kilômét nữa để đến Đắc Công, ở ngay kilômét “không” đường 14B. Lẽ ra phải đi theo hướng Sa Thầy, nhưng do bắc Tây Nguyên đã được giải phóng, chúng tôi chuyển hướng đi Kon Tum. Trên đường nhựa trơn láng của đường 14, xe chúng tôi lướt nhanh qua Đắc Tô, một địa danh nổi tiếng. Ở đó, trong chiến dịch mùa đông 1967, quân giải phóng đã diệt gọn hai tiểu đoàn bộ binh Mỹ. Bên đường, chúng tôi thấy một xe tải đổ kềnh, bốn bánh chổng lên trời, bẹp dúm. Được biết đó là xe từ Khâm Đức vào, đường xấu chuyển sang đường tốt, lái xe cho xe chạy quá nhanh nên mới xảy ra tai nạn. Đây là một kinh nghiệm mà sau đó chúng tôi đã phải phổ biến cho đội ngũ lái xe của mình. Thị xã Kon Tum vắng vẻ, đồng bào đang lục tục kéo về, rải rác trên các đường Hùng Vương, Trịnh Minh Thế. Anh Quang Hùng, Phó Tư lệnh Quân chủng chỉ thị cho chúng tôi phải liên lạc gấp với các đơn vị đi đầu của trung đoàn tên lửa 263 từ cánh tây Trường Sơn xuống. Được giao nhiệm vụ này, tôi lập tức tìm đường tắt sang thẳng Sa Thầy. Ở đây là khu vực ngã ba biên giới, đường sá chằng chịt. Đến nam Plây Khốc, khi đang lớ ngớ tìm đường, tôi gặp một cán bộ đứng cạnh một chiếc xe con. Đến gần, tôi đang định hỏi anh đường ra Xê Sụ, thì chợt nhớ ra, tôi mừng rỡ: -Anh Phan Biên! Chính uỷ binh trạm 31… Thấy anh còn phân vân, tôi nói tiếp: -Chắc anh quên tôi! Cách đây ba năm, đúng ngày mồng 5 Tết âm lịch,các anh đã chiêu đãi bọn tôi, đoàn cán bộ pháo cao xạ đi tìm trận địa bị lạc đường một bữa bánh chưng no nê ở nam Ka Vát. Anh còn nhớ không? Chính anh đã tặng riêng tôi một lạng Canh-ki-na nữa. -A! Nhớ ra rồi. Hồi đó anh là trung đoàn phó trung đoàn 227. Bây giờ anh đi đâu đấy? -Tôi đi ngược Trường Sơn, đón đơn vị tên lửa. -À! Mình vừa ở ngoài đó vào. Tiểu đoàn đi đầu của các ông có lẽ đang qua ngầm Xê Sụ, chuẩn bị vượt đèo Ăm Pun.-Nói rồi, anh Biên hướng dẫn đường đi cho tôi, tỉ mỉ. Được biết, nay anh là chính uỷ Sư đoàn xe 471, phụ trách quãng đường này, vào tận B2. Sư đoàn anh cũng đang chuẩn bị đưa sở chỉ huy vào đứng chân ở Buôn Ma Thuột để chuẩn bị cho chiến dịch mới. Tôi gặp anh Phạm Sơn và tiểu đoàn phó tiểu đoàn 43 Trần Đăng Trạm ở chân đèo Ăm Pun lầy lội, sau mấy trận mưa đầu mùa. Phạm Sơn kể cho tôi nghe cuộc hành trình vượt Trường Sơn khá gian nan của tên lửa ta. Đường nói chung tốt, nhưng do khí tài tên lửa vừa cao, vừa dài, vừa nặng, rất cồng kềnh, nên khi vào cua hoặc lên dốc, rất khó khăn. Càng kéo hỏng nhiều, thiếu đồ dự trữ thay thế, anh em đã nghĩ ra cách khắc phục để tiếp tục hành quân. Một số trường hợp hư hỏng khác đã được các trạm của Đoàn 559 giúp đỡ sửa chữa kịp thời. Việc đảm bảo hậu cần như: gạo, lương khô, cá hộp, thịt hộp, xăng dầu cho các đơn vị, cũng được các binh trạm dọc đường phục vụ chu đáo. Anh em quân nhu ta rất cám ơn hậu cần 559. Tôi nói với Phạm Sơn: -Anh Quang Hùng chỉ thị: ông về ngay Sở Chỉ huy tiền phương Quân chủng ở Pleiku để báo cáo tình hình. Trung đoàn 263 không dừng lại ở Tây Nguyên nữa mà vào thẳng B2 luôn. Đoàn nặng đi tiếp đường 14B. Đoàn nhẹ, gồm xe kéo đạn và cơ quan, rẽ Pleiku đi thẳng đường 14. Hai đoàn sẽ tập kết ở Đức Lập, chờ lệnh mới. Anh Phạm Sơn truyền đạt mệnh lệnh đó cho anh Tích, trung đoàn trưởng 263. Sẵn có sơ đồ đã chuẩn bị, tôi trao cho anh Tích một bản, rồi dặn them: bộ phận đi đường 14, qua vùng mới giải phóng, phải nhớ giữ vững kỷ luật về công tác dân vận và bảo đảm lái xe an toàn khi từ đường Trường Sơn sang đường nhựa. Bộ phận đi tiếp đường 14B cần hết sức chú ý khi qua các bến phà, như phà 10 ở kilômét 114, phà 4 ở Srê pốc, bảo đảm an toàn tuyệt đối. Tôi và anh Phạm Sơn lên xe vè Pleiku. Sau khi Sở Chỉ huy Tiền phương Quân chủng được đặt xong ở căn cứ sư đoàn không quân chiến thuật số 6 của nguỵ cũ, anh Lê Thanh Cảnh được phân công đi trước vào B2,để tranh thủ đặt sớm mối quan hệ với cơ quan Tiền phương Bộ ở địa điểm mới. Trong những ngày ở Pleiku, tôi xin phép dành một buổi dạo vòng quanh khu vực. Sân bay Cù hanh dài, rộng, bóng loáng dưới ánh mặt trời. Hai tấm ăngten viễn thông đồ sộ. Doanh trại của các căn cứ quân nguỵ như Nguyễn Huệ, Tây Sơn, Nỏ Thần, Thăng Long, trường thiếu sinh quân Cao Nguyên, cùng với khu vực bộ tư lệnh quân đoàn II, bố trí dày đặc, giờ đây vắng lặng, trống trơn. Ở căn cứ Nỏ Thần, tôi lượm được một mảnh giấy đặt trên bàn làm việc của viên chỉ huy, ghi nguệch ngoạc: “Bọn Việt Cộng chúng bay hãy coi chừng! Sẽ có ngày chúng tao trở lại!”. Tôi mỉm cười, xé vụn tờ giấy. Vào khu vực bộ tư lệnh quân đoàn II nguỵ, tôi chứng kiến moi thứ tan hoang, bề bộn. Bọn chúng đã rút chạy trong hoảng loạn, cuống cuồng. Trong các phòng làm việc, hồ sơ giấy tờ vứt tung toé, máy điện thoại, máy chữ lăn lóc, ngổn ngang. Nhiều quyển sách Playboy, tranh ảnh khoả thân vương vãi. Bước vào một gian phòng, tôi thấy cơ man nào là huân chương, huy chương còn nằm trong hộp, mới toanh, chất đầy trong các ngăn tủ. Anh chiến sĩ đi cùng tôi, tiện chân, đạp mạnh lên một đống huân chương đã bị ai vứt xuống đất từ trước. Tôi tiếp tục đi loanh quanh thế nào, lọt vào một gian phòng đầy ắp những bản đồ quân sự. Vui mừng quá đỗi, tôi vội vàng lôi ra từng tập, xem xét. Bản đồ khắp các vùng, với đủ loại tỉ lệ khác nhau. Chẳng đủ sức mang nhiều, tôi chọn ra được một bộ bản đồ đường sá toàn miền Nam, tỉ lệ 1/250.000, và một số bản đồ các thành phố lớn. Đối với tôi, một sĩ quan tham mưu, những tấm bản đồ này thật hết sức quí giá. Sà vào đây mất hơn một tiếng đồng hồ, tôi chẳng còn thời gian ghé thăm thị xã Pleiku được nữa. Tình hình chiến sự diễn biến mau lẹ. Quân ta thắng như chẻ te. Tin vui đến dồn dập: -26 tháng 3: giải phóng Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên. -28 tháng 3: giải phóng Quảng Nam. -29 tháng 3: giải phóng Đà Nẵng. Chiến dịch Huế-Đà Nẵng kết thúc thắng lợi với sự xoá sổ hoàn toàn quân khu I và quân đoàn I hùng mạnh của quân nguỵ. Đến ngày 3 và 4 tháng tư thì Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt cũng được giải phóng nốt. Anh Quang Hùng bảo tôi: -Thời cơ mở cuộc đại tiến công vào Sài Gòn sắp đến! Miền Nam sẽ được giải phóng sớm! Không phải kéo dài hai năm nữa đâu, Lân ạ! Anh Tuấn (bí danh của Thượng tướng Văn Tiến Dũng) đã có lệnh cho chúng ta chuẩn bị vào B2. Sáng ngày 9 tháng 4, đang đi trên đường Vạn Kiếp ở bắc thị trấn Pleiku, tôi gặp xe của tiểu đoàn 8 rada vừa tới. Tiểu đoàn trưởng Trần Quang Sáng, người cao to mạnh khoẻ, nước da ngắm đen, đang tìm đường đến Tiền phương Quân chủng. Tôi dẫn Sáng về Sở chỉ huy và nghe anh báo cáo với Phó Tư lệnh Quang Hùng. -Tiểu đoàn 8 gồm bốn đại đội rada trinh sát, xuất phát từ Khe Sanh ngày 31 tháng 3, đi theo tuyến Tây Trường Sơn. Ngày 4 tháng 4 đến Khâm Đức, ngày 9 tháng 4 đến đây, gồm 47 xe, máy, đầy đủ an toàn. Theo kế hoạch cũ, do anh Hứa Mạnh Tài phổ biến, thì tiểu đoàn 8 triển khai ở Tây Nguyên. Rồi hồn nhiên, anh hỏi: -Tây Nguyên giải phóng rồi! Chúng tôi đi đâu bây giờ thủ trưởng? Anh Quang Hùng nhìn Sáng, cười vui vẻ, nói: -Mệnh lệnh tám chữ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa truyền đi khắp toàn quân: “Thần tốc-Táo bạo-Bất ngờ-Chắc thắng!”. Trên tinh thần đó, con đường của tiểu đoàn 8 các cậu là hướng vào Sài Gòn đấy! Vắt chân lên cổ mà chạy! Hôm nay nghỉ ở Pleiku. Ngày mai đi tiếp, để có mặt ở B2 trước 15 tháng 4. Đằng sau chúng ta là Quân đoàn I, được sự giúp đỡ của các sư đoàn xe thuộc binh đoàn Trường Sơn, cũng đang tăng tốc độ hành quân. Phó tư lệnh mời chúng tôi hút thuốc lá và ăn đồ hộp Mỹ, chiến lợi phẩm. Sau đó, Trần Quang Sáng đứng lên, xin phép về đơn vị. Vài hôm sau, chúng tôi rời Pleiku. Qua các phố Lý Thái Tổ, Hoàng Diệu, chúng tôi trở lại đường 14, đi thẳng vào Buôn Ma Thuột. Đường xa dằng dặc! Tưởng gần, hoá ra đến cả 150 cây số. So với Kon Tum và Pleiku, Buôn Ma Thuột có vẻ trù phú, sầm uất hơn. Những rừng cây cà phê trái chín đỏ ối. Phố xá đông vui, cửa hàng tấp nập. Chúng tôi gặp bà con giáo dân đi lễ nhà thờ về, các em học sinh đi học. Lần đầu tiên tôi thấy nữ sinh mặc quần trắng, áo dài. Chúng tôi đi tiếp vào Đức Lập. Ở đây, anh Phạm Sơn cử một trợ lý tên lửa nằm lại chờ trung đoàn 263, còn tất cả tiếp tục cuộc hành trình. Đây là đoạn đường mà chúng tôi được phổ biến là còn nhiều mìn do địch để lại. Xe chỉ chạy được giữa đường. Đến Tuy Đức, chúng tôi bỏ đường 14, rẽ lối Bù Gia Mập-Bù Đốp về thẳng Lộc Ninh. Bù Đốp và Lộc Ninh bạt ngàn rừng cao su. Đồng bào, bộ đội đi lại đông vui, xe cộ ngược xuôi nhộn nhịp. Có khá nhiều xe con, xe Hon-da, loại xe mà lần đầu tiên tôi đã nhìn thấy ở Kon Tum tuần lễ trước. Đến trạm tiếp đón, chúng tôi được hướng dẫn về cơ quan tham mưu phòng không B2 và được bố trí nơi làm việc bên cạnh Sở Chỉ huy Sư đoàn pháo cao xạ 77. Thật là may mắn, vì chúng tôi được sử dụng mọi cơ sở và phương tiện cần thiết của sư đoàn, để thiết lập ngay một sở chỉ huy cho Tiền phương Quân chủng. Các anh Trần Trung Tín, Hai Sả, cán bộ chỉ huy sư đoàn, Thái Công Danh, Tham mưu trưởng đã hết sức nhiệt tình tạo điều kiện cho chúng tôi mọi thứ dễ dàng. Ở đây tôi còn được gặp lại Phạm Chiến Sĩ, Tôn Kỳ, hai trợ lý cũ của tôi hồi còn ở Quân chủng Phòng không-Không quân. Các anh được tăng cường cho B2 hồi đầu năm trước. Trong khi Phó Tư lệnh Quang Hùng, cùng Tham mưu phó Lê Thanh Cảnh và trưởng phòng tác chiến Phạm Sơn đi nhận nhiệm vụ trên Bộ Chỉ huy Chiến dịch, thì chúng tôi ở nhà triển khai công việc Sở Chỉ huy. Tối hôm ấy, chúng tôi được nghe phổ biến nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến chiến dịch. Anh Phạm Sơn cho tôi xem những ghi chép mà anh đã được cơ quan Cục Tác chiến hướng dẫn. Thời gian rất gấp rút. Chúng tôi phân công nhau xây dựng “Quyết tâm chiến đấu của lực lượng Phòng không trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định”. Riêng tôi, nhờ đã sơ bộ nắm được toàn bộ lực lượng phòng không phía Nam trước đây, nay được thông tin thêm về những bổ sung mới, những chuyển dịch mới, tôi có thể dễ dàng thể hiện lên sơ đồ tác chiến vị trí các đơn vị phòng không, trong đội hình tiến công của các quân đoàn chủ lực, từ năm hướng, xung quanh Sài Gòn. Nhớ lại hồi Điện Biên Phủ năm 1954, lực lượng phòng không chúng tôi tham gia chiến dịch chỉ có 1 trung đoàn pháo cao xạ 37 ly và năm tiểu đoàn súng máy 12 ly 7. Vậy mà hôm nay, trong trận đánh tổng lực vào sào huyệt cuối cùng của địch, lực lượng phòng không của chúng tôi-không tính gần ba chục trung đoàn cao xạ, tên lửa, rada đang làm nhiệm vụ bảo vệ hậu phương miền Bắc và các vùng mới giải phóng từ Cam Ranh trở ra-lên tới: bốn sư đoàn và một lữ đoàn pháo cao xạ hỗn hợp 57 ly và 37 ly trực tiếp nằm trong đội hình tiến công của các quân đoàn; một sư đoàn pháo cao xạ bảo vệ giao thông chiến dịch. Nếu tính cụ thể, tổng cộng tất cả có tới gần hai chục trung đoàn pháo cao xạ tham gia chiến dịch này. Đó là chưa kể ở mỗi sư đoàn bộ binh còn có trong biên chế những tiểu đoàn pháo 37 ly và nhiều đơn vị súng máy cao xạ 12 ly 7 riêng. Tên lửa có một trung đoàn SAM2 bố trí ở bắc Sông Bé và một tiểu đoàn tên lửa vác vai A72 được chia làm nhiều mũi, đi cùng bộ binh và đặc công trên các hướng. Rada có một tiểu đoàn, gồm bốn đại đội, bố trí từ bắc Sông Bé đến bắc Biên Hoà. Lực lượng Phòng không tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn quả thật hùng hậu, thật sung sức. Đúng như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị: “Quân chủng phải gấp rút tăng cường lực lượng tối đa cho miền Nam". Về phía không quân địch, tuy ta vẫn phải đề phòng khả năng Mỹ can thiệp bằng máy bay chiến lược B52, nhưng đối tượng tác chiến chủ yếu của bộ đội phòng không trong chiến dịch này là không quân chiến thuật nguỵ. Lực lượng chúng có ba sư đoàn với hơn 1.000 máy bay các loại. Số máy bay tiêm kích, cường kích F5, A37 có khoảng 300 chiếc, bố trí ở các sân bay Biên Hoà, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ. So với thời kỳ còn quân Mỹ ở Việt Nam, thật là một trời một vực, nhất là tinh thần của bọn phi công đã suy sụp, thì lực lượng so sánh ở “mặt trận trên cao” rõ ràng là có lợi cho ta rất nhiều. Tuy nhiên không thể chủ quan. Còn về nhiệm vụ của các đơn vị Phòng không-Không quân tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh được Bộ chỉ huy chiến dịch giao như sau: -Yểm hộ các binh đoàn làm nhiệm vụ bao vây, chia cắt, tiêu diệt địch ở ngoài thành phố. -Yểm hộ trực tiếp đội hình của các binh đoàn cơ giới thọc sâu. Bảo vệ cầu phà quan trọng, trên đường hành tiến, nhất là các cầu Bông, cầu Xáng, cầu Biên Hoà, cầu Sài Gòn và phà Cát Lái. -Bảo vệ hậu phương và giao thông chiến dịch trên các hướng, nhất là trên trục quốc lộ 1 và 13. -Phối hợp với pháo binh mặt đất khống chế sân bay Biên Hoà và Tân Sơn Nhất. -Sử dụng không quân tập kích những mục tiêu có ý nghĩa chiến dịch đạt yếu tố táo bạo, bất ngờ. Riêng nhiệm vụ sau cùng, chúng tôi chỉ biết vậy, còn tổ chức thực hiện ra sao thì không rõ. Tất cả những tình hình nhiệm vụ và số liệu trên đây đều được chúng tôi thể hiện tổng quát lên sơ đồ tác chiến chiến dịch. Những cơn mưa đầu mùa làm cho sinh hoạt của chúng tôi trong rừng cao su Lộc Ninh thêm ẩm ướt. Mỗi khi nghe gió thổi mạnh và nghe tiếng răng rắc của cây đổ, cành rơi tôi cứ thấy phấp phỏng trong lòng. Tuy nhiên, điều đáng lo hơn cả vẫn là khả năng hành quân tới đích của các đơn vị phía sau. Những con đường ba dan đất đỏ, mùa khô, nền cứng, đi lại dễ dàng. Nhưng nếu có một trận mưa là mặt đường trở nên đặc quánh, bánh xe cứ bị đất dính chặt lại. Xe kéo rada, tên lửa cồng kềnh, đi trên những đoạn đường xấu, gặp mưa, liệu có thể đảm bảo thời gian? Một buổi chiều, tôi cùng Phan Chiến Sĩ đang đi ven suối, bỗng gặp một cán bộ trẻ vóc dáng khoẻ mạnh, nét mặt rất tươi. Anh Sĩ giới thiệu với tôi: đây là Nguyễn Thành Trung, người của ta cài trong hàng ngũ không quân địch, sau khi lái chiếc F5E ném bom dinh Độc Lập, đã hạ cánh xuống sân bay Phước Long ngày 8 tháng 4 vừa qua. Tôi bắt tay Nguyễn Thành Trung, thầm phục người phi công quả cảm. Lúc đó, tôi đâu biết về một kế hoạch: đưa Nguyễn Thành Trung ra Đà Nẵng, huấn luyện cho các phi công lái MiG-17 từ miền Bắc vào, chuyển loại sang lái A37 của Mỹ để thực hiện chủ trương “Dùng máy bay địch đánh địch” do Thiếu tướng, Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân Lê Văn Tri trực tiếp chỉ đạo, trong chiến dịch lớn sắp tới. Xa nhà ai chẳng nhớ quê hương, gia đình, vợ con. Đêm nằm nhớ về Hà Nội, nhất là những ngày tháng này tôi chưa nghĩ ở ngoài kia chắc đồng bào Hà Nội và miền Bắc đang hướng cả về miền Nam. Dịp may đến với tôi thật bất ngờ. Một anh bạn từ Hà Nội vừa vào, trao cho tôi một lá thư nhà. Bóc vội phong thư, tôi đọc ngấu nghiến những dòng chữ thân thương của vợ “… Tình hình ở nhà bình yên. Cả tháng nay Hà Nội vui như Tết. Em mua cho hai con một tấm bản đồ toàn miền Nam, có in sẵn những lá cờ bé xíu ở phía dưới. Mỗi lần nghe tin miền Nam giải phóng đến đâu, là chúng tranh nhau cắt cờ, dán cờ. Quân Giải phóng tiến nhanh quá! Chúng dân cờ không kịp… Anh hiện nay đang ở đâu, làm sao em biết? Ngày thành phố Sài Gòn được giải phóng, chẳng phải là còn hai năm như anh dặn em trước khi ra đi, mà sắp đến nơi rồi phải không anh? Niềm vui được gặp lại mẹ và các em chắc chẳng còn xa, anh nhỉ! Chờ mong tin chiến thắng. Chờ mong tin anh mỗi ngày…”. Tôi đút lá thư vào túi áo mà lòng dạ nao nao, càng nhớ vợ con da diết, càng mong sao Sài Gòn sớm được giải phóng. Một buổi chiều trong căn lán nhỏ, khi tôi và anh Phạm Sơn đang cùng nhau hoàn chỉnh những chi tiết cuối cùng trên tấm sơ đồ “Quyết tâm chiến đấu”, thì anh Quang Hùng bước vào. Bằng một giọng nghiêm trang, anh nói: -Tôi vừa ở Bộ Tư lệnh Chiến dịch về. Báo các cậu một tin quan trọng: Bộ Chính trị vừa điện vào cho phép chiến dịch này mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Phạm Sơn và tôi đứng bật dậy, nói như reo: -Thật thế hả anh? Ôi! Thích quá!-Tôi còn nhớ rõ nụ cười rạng rỡ của Phạm Sơn lúc đó. -Chứ lại không thật à! Chính xác một trăm phần trăm! Đồng chí Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị ký tên đấy! Anh Tuấn trực tiếp phổ biến mà! Thôi! Cậu Lân nét chữ tốt, viết ngay tên bản đồ chiến dịch. Còn Phạm Sơn chuẩn bị cùng tôi sáng mai lên Bộ Tổng tham mưu thông quan kế hoạch tác chiến. Lòng mừng vui khấp khởi, tôi nắn nót kẻ lên tấm sơ đồ cỡ lớn, một dòng chữ đậm: Quyết tâm chiến đấu của bộ đội Phòng không-Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tay cầm bút mà lòng tôi như trào một niềm vui khó tả. Ôi! Chiến dịch được mang tên Bác. Thật là hạnh phúc cho những ai được tham gia chiến dịch này. Tôi nghĩ: đúng rồi! Còn gì hợp lý hơn việc lấy tên của Bác đặt cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Sài Gòn cách đây hơn 60 năm, từ bến Nhà Rồng. Bác của chúng ta đã ra đi tìm đường cứu nước. Sài Gòn, mùa thu 1945 đã cùng cả nước đứng lên tổng khởi nghĩa. Gần một triệu đồng bào Sài Gòn trong ngày 25 tháng 8 lịch sử đã hướng cả về Cụ Hồ Chí Minh. Sài Gòn, mảnh đất đại diện cho miền Nam “đi trước về sau” trong cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ suốt ba mươi năm chống lại kẻ thù xâm lược, luôn được Bác Hồ dành cho một tình cảm đặc biệt. Theo lời Bác gọi, đồng bào Sài Gòn đã lập nhiều thành tích, đặc biệt là những chiến công vang dội của lực lượng Biệt động Sài Gòn, đánh thẳng vào sào huyệt, hang ổ của Mỹ, nguỵ đã làm chúng vô cùng khiếp sợ. Tiêu biểu cho tinh thần đánh Mỹ, tình cảm dành cho Bác kính yêu là Anh hùng biệt động Nguyễn Văn Trỗi, trước lúc hy sinh, “phút giây thiêng liêng anh gọi Bác ba lần…”. Sài Gòn, trong những năm tháng dưới ách kìm kẹp của kẻ thù vẫn có những bà mẹ thầm kín cất giữ tấm hình của vị Cha già dân tộc. Vào những đêm giao thừa đón tết, vẫn có những cụ già, trước bàn thờ tổ tiên, lặng lẽ, kính cẩn thắp nén hướng, thầm khấn vái cầu mong cho Cụ Hồ ngoài ấy được luôn luôn mạnh khoẻ, bình an. Cụ Hồ Chí Minh đã trở thành hình ảnh thiêng liêng nhất đối với mỗi người dân Sài Gòn. Giờ đây thành phố thân yêu đang mong chờ đoàn quân tiến vào giải phóng. Các ba, các má, các anh chị em trong đó, giờ này chắc cũng đang chuẩn bị, sẵn sàng nổi dậy, phối hợp tác chiến với đại quân giành thắng lợi cuối cùng. Sáng 23 tháng 4, rời Lộc Ninh, Phạm Sơn và tôi mỗi người đi một hướng. Phạm Sơn đi đốc chiến ở trung đoàn 263 tên lửa. Còn tôi đi hướng Quân đoàn 3. Theo đường liên tỉnh 17, quẹo sang lộ Trắng, vượt lộ Đỏ, qua suối Bà Chiêm, cầu Võ Tùng, tôi đến núi Ông, nơi trú quân của Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Chủ nhiệm phòng không Quân đoàn 3 là trung tá Nguyễn Cần. Vừa thấy tôi, Nguyễn Cần hỏi ngay: -Phạm Sơn đâu? Tôi đáp: -Phạm Sơn xuống theo dõi trung đoàn tên lửa 263. Còn mình được phân công sang đây với cậu. -Ôi! Thế thì còn gì bằng! Mày với tao sẽ cùng vào Sài Gòn nhé! Nguyễn Cần, Phạm Sơn và tôi là bạn thân từ hồi 1952 ở chiến khu Việt Bắc, khi cùng là học viên dự khoá không quân, đoàn 33. Lúc đang ở Nam Ninh-Trung Quốc, chuẩn bị đi Thẩm Dương học lái máy bay MiG-15, thì đồng chí Nguyễn Chí Thanh, thay mặt Tổng Quân uỷ sang phổ biến chủ trương mới: “Chuyển tất cả cán bộ đoàn 33 sang học pháo cao xạ”. Thế là hết mộng “chiến công ngang trời”. Ba đứa chúng tôi cùng tuổi, rất thân nhau. Cần vẫn gọi tôi là “thằng bạn nối khố”. Từ khi còn là chàng trai cường tráng cách đây trên hai mươi năm, bây giờ tuy tuổi đã cao, nhưng Nguyễn Cần vẫn còn giữ được những nét đẹp trai như xưa. Đi vào công việc, Nguyễn Cần rút tấm sơ đồ trong cặp ra, giới thiệu cho tôi biết nhiệm vụ của pháo cao xạ, tên lửa tầm thấp A72 trong đội hình Quân đoàn 3. Cac trung đoàn 232, 234, 593 và một đại đội tên lửa vác vai đã sẵn sàng, đang bám sát các Sư đoàn bộ binh 316, 320 và Sư đoàn 10 ở vị trí tập kết. Nguyễn Cần nói thêm: tớ cũng vừa đi thực địa, xuống các trung đoàn về đây. Khí thế lắm! Nhìn ra, thấy anh Luân và anh Như, hai cán bộ của cơ quan tham mưu quân chủng được tăng cường cho quân đoàn tuần trước, đang đi vào. Chúng tôi bắt tay nhau, chuyện trò vui vẻ. Nguyễn Cần lấy chiếc đài bán dẫn, bật công tắc. Bỗng nhiên vang lên tiếng nói của đài phát thanh nguỵ quyền Sài Gòn, nghe oang oang: “… Mấy ông biểu tôi làm cái việc mà mấy ổng, với nửa triệu linh, binh hùng tướng mạnh, xài gần 300 tỷ đô la, trong bảy năm trời, nếu không nói là bị Cộng sản đánh bại thì có thể nói một cách khiêm nhường rằng mấy ổng không có thắng. Vậy mà bây giờ mấy ổng bắt tôi làm cái chuyện đội đá vá trời… Phi lý! Phi lý! Phi lý!... Việt Nam Cộng hoà yêu cầu Hoa Kỳ phải nhanh chóng can thiệp và chi viện cho chúng tôi vũ khí, đạn dược.-Tới tấp! Tới tấp! Tới tấp!...”. Thì ra là “tổng” Thiệu đang chửi quan thầy Mỹ. Bốn chúng tôi phá lên cười thích thú. Anh Luân bình luận: đúng là giọng điệu của một tên lính tẩy, một tên tay sai cùng đường, chết đến đít con cay. Sau đó, chúng tôi còn được nghe đài phát thanh nhắc lại bài phát biểu của Nguyễn Văn Thiệu thêm mấy lần nữa. Kiểu này thì nguỵ quyền Sài Gòn sắp sụp đổ đến nơi rồi. Chiều 26 tháng 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Năm cánh quân của các Quân đoàn chủ lực 1-2-3-4 và Binh đoàn 232 dồn dập tiến công quân địch từ năm hướng. Quân đoàn 3 phụ trách hướng tây bắc: Đồng Dù, Củ Chi, Trảng Bàng, Hóc Môn, đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất. Chiến sự trong hai ngày đầu chiến dịch, qua thông báo của quân đoàn, diễn ra trong thế thắng áp đảo của quân ta trên mọi hướng. Tuy nhiên ở một số nơi, quân nguỵ đã chống đỡ khá quyết liệt trước khi bị quân ta đè bẹp, như tại căn cứ Đồng Dù, căn cứ Nước Trong… Chiều 28 tháng 4, các quân đoàn chủ lực ta, cùng với bộ đội địa phương và lực lượng quần chúng nổi dậy đã bao vây chặt Sài Gòn. Tối hôm đó được tin thêm: một phi đội A37 do anh em ta lái đã ném bom khu để máy bay quân sự ở Tân Sơn Nhất. Tôi nghĩ ngay đến chàng phi công trẻ Nguyễn Thành Trung mà tôi mới gặp ở Lộc Ninh hôm nào. Sau đó là lệnh tổng công kích trên toàn mặt trận. Đúng lúc ấy, tôi nhận được điện của anh Quang Hùng từ sở chỉ huy chiến dịch bên Căm Xe gọi xuống. Anh chỉ thị cho tôi tìm mọi cách bám sát bộ binh, để vài Sài Gòn thật nhanh, tìm địa điểm lập sở chỉ huy mới của quân chủng tại Tân Sơn Nhất. Tôi chia tay Nguyễn Cần. Cần trao cho tôi một lạng cao ban long và một gói sâm Triều Tiên: -Hôm nào gặp lại bà cụ, mày nói đây là quà của thằng Cần, bạn của con, biếu mẹ! Thôi, hẹn gặp lại ở Sài Gòn nhé! Tôi cám ơn Cần, rồi lên xe. Xe chúng tôi chạy về Chơn Thành, rồi rẽ phải, theo quốc lộ 13 đi xuống Bến Cát. Vừa đi được một quãng, chúng tôi bị một cây ba-ri-e sơn màu trắng đỏ, chắn ngang: -Bến Cát còn địch. Đề nghị các đồng chí quay lại!-Đó là tiếng nói nghiêm túc của một chiến dịch đội mũ tai bèo, đeo băng cờ Mặt trận. Không lẽ ngồi chờ, tôi đành bảo lái xe quay lại, mở bản đồ tìm lối khác. Thôi! Quay sang Đồng Xoài, rồi sẽ liệu. Đồng Xoài, một ngã năm toàn màu đất đỏ. Cây cối hai bên đường phủ kín một lớp bụi dày, chẳng còn màu xanh nữa. Cạnh ngã năm có cắm một cột mốc to, treo chi chít những mũi tên chỉ đường. Xe nào qua đây không biết lối, cũng dừng lại để xem. Tôi đến gần, thấy một tấm biển hình mũi tên, ghi: “367 đi tiếp Chơn Thành”. Thế là Sư đoàn pháo cao xạ 367 đã đi qua đây, theo đội hình của Quân đoàn 1 rồi. Xe cộ của các đơn vị vẫn nối đuôi nhau đi về các ngả. Có một xe lạc hướng, vòng đi vòng lại. Tiếng người gọi nhau í ới. Đến bên một chiếc xe Jeep, tôi hỏi anh cán bộ ngồi trên xe. Anh là người của Quân đoàn 4, có việc trở ra Phước Long. Anh gợi ý tôi nên đi hướng Vĩnh An, gặp đường 20, về tây Xuân Lộc, rồi theo đường 1 về Biên Hoà. Tôi nghĩ bụng lối này xa quá, nhưng chẳng còn đường nào khác, đành quyết định đi theo hướng anh bạn vừa chỉ. Vừa đi vừa thắc thỏm, vì không có máy thu thanh nên tôi không biết các cánh quân đã vào đến đâu rồi? Xe qua Cầu Cây, đường trở nên xấu, vì là đường mới mở phục vụ chiến dịch. Bến phà Vĩnh An phía trước chật cứng hàng trăm xe chờ sang sông. Nhích mãi, nhích mãi, cố gắng len lỏi, xe tôi mới sang được bên kia phà. Bỗng nghe hàng loạt đạn tiểu liên nổ giòn phía sau, tiếp theo là những tiếng hô: “Sài Gòn giải phóng rồi! Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng rồi!:. Tiếng la hét, tiếng reo mừng vang dội. Đạn liên thanh các cỡ bắn chỉ thiên, nổ rầm trời. Chúng tôi cũng hò reo khản cổ. Những chiếc đài bán dẫn đâu đó vang vang tin chiến dịch toàn thắng. Chạy khoảng 10 kilômét, chúng tôi gặp đường 20. Thấy đường tốt, cậu lái xe mừng rơn: đi lối nào thủ trưởng? Tôi cười: nếu cậu muốn lên Đà Lạt nghỉ mát thì rẽ trái. Còn nếu muốn về Sài Gòn thì rẽ phải. -Thủ trưởng tuyệt quá! Đường lạ mà sao thủ trưởng thành thạo thế! -Cậu nên “khen” thằng Mỹ ấy. Đó là nhờ bản đồ của nó vẽ quá chính xác đấy thôi! Đường tốt, xe chúng tôi lại bon bon. Đến Dầu Giây, gặp đường số 1, tôi cho xe chạy thẳng đến sân bay Biên Hoà. Đại tá Hoàng Ngọc Diêu, Tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không-Không quân, Chủ nhiệm Phòng không-Không quân chiến dịch cũng vừa có mặt ở đây. Theo chỉ thị của anh Diêu, sáng hôm sau, ngày 1 tháng 5, tôi đi tiếp về Sài Gòn. Xa lộ Sài Gòn-Biên Hoà rộng thênh thang, có những đường vạch sơn phân tuyến. Thỉnh thoảng có những “con lươn” bằng bê tông chạy dài chính giữa. Xe từ phía ngoài vào vẫn không ngớt. Có nhiều xe chở cán bộ dân chính vào tiếp quản. Xe nào cũng cắm cờ Mặt trận nửa đỏ nửa xanh. Xe tôi cũng cắm cờ. Cánh tay tôi cũng đeo xanh đỏ. Cờ giải phóng phần phật tung bay trong gió. Ôi! Náo nức và phấn khởi vô cùng. Chiến sĩ ta trẻ măng, ngồi trên xe, vẻ mặt ai cũng hân hoan. Một chiếc xe khác, hình như chở đoàn văn công, chạy cùng chiều, cả nam lẫn nữ đều đội mũ tai bèo, nhưng hất tung về phía sau. Những cô văn công xinh đẹp, với mơ tóc dài bồng bềnh bay trong gió, đang hát vang bài cá: “Tiến về Sài Gòn". Cầu Đồng Nai, cầu Sài Gòn thật đẹp! Và cả cầu Rạch Chiếc, vẫn còn nguyên vẹn cả. Tôi thầm nghĩ không biết có bao nhiêu chiến sĩ đặc công của mình đã ngã xuống những nơi đây, để cho quân ta tiến vào thành phố nhanh như cơn lốc? Hai bên xa lộ vắng vẻ. Nhưng trên đường thì đầy dẫy những áo quần, giày mũ của các sắc lính nguỵ tháo chạy, vứt bỏ ngổn ngang. Có nhiều xe nhà binh vô chủ, đậu rải rác. Qua ngã tư Hàng Xanh (hồi đó, bà con ta gọi nơi đây là Ngã tư xa lộ), chúng tôi thấy người đông hẳn lên. Đồng bào thành phố, ăn mặc đủ kiểu, đứng chật ních trên vỉa hè, vẫy cờ, hoa chào các anh giải phóng. Trên các cổng nhà đều treo cờ, cả cờ Mặt trận và cờ đỏ sao vàng. Xen vào dòng xe ôtô của bộ đội là những chiếc xe gắn máy của người dân thành phố chạy ngược xuôi. Lúc ấy, tôi chẳng nghĩ đến đường ngược chiều hay thuận chiều gì cả. Cứ thẳng đường dự kiến mà đi. Lẽ ra xe tôi cứ thẳng đường Tân Sơn Nhất, nhưng thoáng nghĩ đến dinh Độc Lập, sào huyệt cuối cùng của nguỵ quyền Sài Gòn, nơi tổng thống Dương Văn Minh vừa tuyên bố đầu hàng quân cách mạng, tôi liền bảo lái xe rẽ sang cầu Thị Nghè, qua đường Hồng Thập Tự. Gặp đường Đinh Tiên Hoàng, xe ngoặt trái, rồi rẽ sang đại lộ Thống Nhất (Lê Duẩn ngày na). Đầu óc tôi bỗng bừng bừng khó tả khi trước mắt tôi hiện ra một toà nhà đồ sộ. Tôi đoán đó là dinh Độc Lập. Trên đỉnh cột cao, lá cờ giải phóng đang tung bay, uốn lượn theo chiều gió. Đẹp đẽ làm sao! Tôi hình dung giữa lá cờ như có hình bóng Bác thân yêu đang giơ tay vẫy vẫy. Nhớ đến Bác, tôi lại nhớ đến hai câu thơ của Tố Hữu: “Miền Nam đang thắng mơ ngày hội Rước bác vào thăm thấy Bác cười”. Bây giờ không còn mơ nữa. Cả miền Nam đang trong ngày hội lớn. Cả Sài Gòn như đang đón Bác trở về sau hơn sáu chục năm trời xa cách. Bến Nhà Rồng năm xưa tiễn Bác ra đi, hôm nay như đang được đón Bác trở về, giữa lòng mọi người, và trên đài vinh quang chói lọi. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài 30 năm đã kết thúc. Hẳn Bác rất vui lòng. Hai bên đại lộ và trong dinh Độc Lập, xe tăng, xe pháo đậu san sát. Bộ đội ta tràn ngập các vườn cây bãi cỏ bên ngoài và bên trong dinh. Rải rác có những bếp cơm của anh nuôi đang đỏ lửa.Thấy một đại đội bốn khẩu pháo cao xạ 37 ly đang ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, tôi đến bên thăm hỏi tình hình. Anh pháo thủ cho tôi biết đây là khẩu pháo của tiểu đoàn 7, thuộc trung đoàn 284. Tôi mừng quá, nói lớn: -Các cậu giỏi thật! Tiểu đoàn 7 cao xạ anh hùng của đường Trường Sơn, giờ đây đã có mặt giữa Sài Gòn. Các pháo thủ nhao nhao hỏi: -Sao thủ trưởng biết đơn vị bọn em? Đúng lúc đó, một cán bộ chỉ huy vừa đến. Nhìn thấy tôi, anh đưa tay chào rồi đến bắt tay rối rít: -Thủ trưởng Lân! Em là lính cũ của thủ trưởng hồi Điện Biên đây mà! -A! Mình đấy à! Không ngờ chúng mình gặp nhau tại dinh Độc Lập này. Minh kể cho tôi nghe chiến công của trung đoàn anh trong những ngày chiến dịch: -Trung đoàn 284 có nhiệm vụ bảo vệ đội hình thọc sâu của Quân đoàn 2. Dọc đường tiến quân, bọn em đánh tan tác máy bay địch đến ném bom, hạ thấp nòng pháo nã vào những lô cốt, những ụ súng ngầm hai bên đường, để yểm hộ bộ binh hành tiến. Có đơn vị còn chĩa súng bắn bị thương tàu chiến trên sông Đồng Nai nữa. Cũng ác liệt, nhưng thích lắm anh ạ! Tôi nắm chặt đôi bàn tay rắn chắc của Minh không muốn rời. -Thôi! Mình phải đi gấp. Hẹn ngày gặp lại! Tôi chào Minh và anh em pháo thủ, rồi lên xe hướng về Tân Sơn Nhất theo đường Lê Văn Duyệt (Đường Lê Văn Duyệt nay là đường Cách mạng tháng Tám). Đường Lê Văn Duyệt quá hẹp, người lại đông. Xe cứ nổ máy nhích lên từng bước, chậm rì. Mỗi khi xe đứng, tôi tranh thủ nói chuyện với những người ở gần. Ai cũng thích tiếp chuyện với chúng tôi. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc: Phải báo tin mẹ biết mình đã về. Tôi liền lấy sổ tay xé một mảnh giấy, ghi nhanh mấy chữ: “Thưa mẹ, con đã vào Sài Gòn. Sẽ về thăm mẹ và các em một ngày gần đây. Con: Lưu Trọng Lân”. (Ba ngày sau tôi đã được gặp lại mẹ và các em. Lá thư viết vội ấy đã đến gia đình chiều 1 tháng 5 năm 1975). Gấp bức thư lại, tôi nghiêng đầu ra ngoài xe, nói với anh thanh niên đang ngồi trên một chiếc Honda: -Anh có thể chuyển giúp lá thư này đến gia đình tôi được không? -Được thôi chú à!-Người thanh niên sốt sắng đáp.-Vậy nhà chú ở đâu? -Số nhà 212/92, xóm Chùa, đường Trần Quang Khải, quận Một (Sở dĩ tôi biết được địa chỉ này là do anh Bảy Trung, một cán bộ hoạt động nội thành ra Bắc chữa bệnh kể lại). -Ồ! Thế thì cháu sẽ đưa cho chú ngay chiều nay thôi. -Cám ơn cháu nhiều. Chào cháu! Tân Sơn Nhất trước mặt rồi, nhưng vào cổng nào đây? Sau một lúc hỏi thăm đường, chúng tôi rời ngã tư Bảy Hiền rẽ về Lăng Cha Cả (Lăng Cha Cả: nay là vòng xoáy nối các đường Hoàng Văn Thụ, Cộng Hoà, Lê Văn Sĩ, Bùi Thị Xuân) để vào sân bay bằng cổng số 5 mà bà con gọi là cổng Phi Long. Nhìn sang hai bên đường tôi thấy mấy chiếc xe tăng T.54 của quân ta bị bắn cháy. Tôi lặng người, chạnh nghĩ: cho đến những phút cuối cùng của cuộc chiến tranh, trước giờ toàn thắng, vẫn còn những đồng đội của tôi tiếp tục ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc! Trình giấy, qua ba-ri-e do các chiến sĩ ta đứng gác, chúng tôi đi thẳng vào căn cứ sư đoàn 5 không quân nguỵ. Doanh trại rộng thênh thang. Tôi đi vào gian sở chỉ huy của bộ tư lệnh sư đoàn này. Vào phòng, một tấm mica dày cộm, to cao sừng sững đập vào mắt tôi. Thì ra đó là tấm sơ đồ đánh dấu đường bay, có ánh điện toả sáng giữa những lớp mica trong suốt. Tôi đem so sánh nó với tấm mica đánh dấu đường bay của ta, mà chúng tôi thường gọi là bản đồ 9x9 và 5x5 ở các sư đoàn, thậm chí ở cả Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, nơi đã từng là cơ quan đối đầu với bộ chỉ huy tập đoàn không quân chiến lược Mỹ trong cuộc chiến 12 ngày đêm cuối năm 1972, thì thấy phương tiện chỉ huy của mình nhỏ bé, đơn sơ quá! Nhưng kỳ diệu thay, những cái bé nhỏ đơn sơ ấy đã lần lượt chiến thắng mọi phương tiện chiến tranh hiện đại bậc nhất của kẻ thù. Các anh trên Bộ Tư lệnh, sau khi đến xem xét, đã quyết định cho đặt sở chỉ huy tạm thời của Tiền phương Quân chủng tại đây. Mấy hôm sau tôi xin phép thủ trưởng bộ tham mưu cho về thăm gia đình. Chiếc xe con cắm cờ Mặt trận chầm chậm đi vào con hẻm nhỏ và dừng lại trước căn nhà số 212/92. Bà con lối xóm ùa ra. -Bà Lai ơi! Có chú giải phóng hỏi nhà bà đây nè! Cửa mở. Hai em gái tôi chạy ra trước tiên, ngỡ ngàng. Ngày xa nhau cách đây 27 năm, khi mẹ tôi dắt díu hai em về vùng tạm chiếm, rồi theo một số đồng bào chạy vào Sài Gòn tìm gặp cha tôi, thì hai em gái tôi đứa lên 12, đứa lên 7, còn tôi đã là chàng thanh niên 18 tuổi. Giờ đây, tôi đã ở tuổi 45, các em khó nhận ra tôi là phải. Tôi vội vàng lên tiếng: -Diệu Lan, Diệu Minh hả? Anh Lân đây! Cô em út miệng cười tươi như hoa: -Thư anh gửi, mạ (mạ: mẹ-tiếng địa phương miền Trung) và bọn em đã nhận được ngay chiều mồng 1 tháng 5. Ngày nào mạ và bọn em cũng mong anh về. Cô chị thì rối rít gọi vào trong: -Mạ ơi, anh Lân về. Mạ ơi, anh Lân về-và cô không quên ra đường mời chú lái xe vào chơi. Tôi bước vào nhà ôm chầm lấy mẹ tôi. Mẹ tôi đã quá già. Gần ba mươi năm rồi còn gì. Ngước mặt nhìn con, mẹ tôi nghẹn ngào nói: -Con ơi, ba con đã ra đi từ năm ngoái. Ba con đi quá sớm không đợi được ngày về của con. Lời của mẹ làm tim tôi thắt lại: -Thưa mạ! Con đã biết tin ba con mất, do một cán bộ làm việc ở phòng Lưu trữ ở Thư viện Quốc gia Hà Nội-đọc được lời cáo phó trong một tờ báo từ miền Nam chuyển ra, báo lại cho con. Mẹ tôi lau nước mắt, rồi hỏi han tình hình bà con mình ngoài bắc, tình hình con gái, con rể, con dâu, nhất là các cháu nội, cháu ngoại của bà. Tôi rút ví, lấy tấm ảnh hai vợ chồng tôi chụp với hai con, đưa cho mẹ tôi xem. Nét mặt mẹ hiện lên niềm vui rạng rỡ. -Ôi! Hai cháu Quang và Lan Phương của bà dễ thương quá! Chuyện trò đã lâu, tôi xin phép mẹ cho trở về đơn vị, hẹn hôm nào thư thả công việc, sẽ ở nhà với mẹ được lâu hơn. Tối hôm ấy, một mình tôi leo lên tầng thượng của toà nhà Sở chỉ uy. Đứng trên tầm cao, tôi phóng mắt nhìn quang cảnh Sài Gòn về đêm, ngập tràn ánh điện. Lòng tôi lâng lâng tự hào, vinh dự được có mặt trong đoàn quân tiến vào giải phóng thành phố. Hướng về phía tây bắc, xuyên qua màn đêm, tôi hình dung lại chặng đường hành quân vừa qua, dọc theo chiều dài đất nước, trên dãy Trường Sơn hùng vĩ. Đường Trường Sơn, con đường mang tên Bác kính yêu, đưa chúng con vào trận đánh cuối cùng của cuộc trường chinh ba mươi năm giành thắng lợi hoàn toàn, sẽ mãi mãi đi vào lịch sử quang vinh của dân tộc, mãi mãi là niềm tự hào của Tổ quốc Việt Nam. Anh lái xe Trường Sơn Xe các anh ra đi, Trong mênh mông Trường Sơn Giữa trập trùng núi biếc Giăng giăng bức màn sương Đoàn xe đi, cheo leo Giữa mông lung trời sao Mồ hôi đầm lưng áo Đèo mãi cao, còn cao Xe anh đi mùa khô Trong bụi mù đất đỏ Áo anh đầy bụi phủ Màu xanh thành màu nâu Xe anh đi mùa mưa Trong đất bùn lầy lội Cùng suối lũ, mưa rơi Làn da anh xanh tái Từ bên Trường Sơn Đông Anh qua Trường Sơn Tây “Miền Nam" trong trái tim Sống chết nào sá chi… Xe anh mê mải vượt suối đèo Trời khuya gió lạnh, giọt sương gieo Xe nối theo xe, đi lầm lũi Hàng nặng, băng qua những chặng đèo Dù “địch đánh, ta cứ đi” Qua nhiều trọng điểm vạn lần nguy Bom nổ trước sau trùm khói lửa Vẫn không ngăn được bánh xe quay… Anh biết giờ đây bên xe anh Bao chàng lính trẻ mắt long lanh Bao cô em gái hồng đôi má Tay vẫy, miệng cười, đôi mắt xanh. Đã mấy năm rồi không nghỉ ngơi Xư từng vỡ kính, bẹp bên tai Nguỵ trang giàn lá che mắt địch Anh vẫn vào ra những tháng ngày. Qua núi qua non, anh cùng xe Sớm tối bên nhau vượt dặm dài Trước vành tay lái, anh nhìn thẳng Với một niềm tin không chuyển lay Ơi anh! “Anh lái xe Trường Sơn" Bình dị tên anh giữa chiến trường Thương mến xiết bao người dũng sĩ Tên anh còn mãi với con đường Trường Sơn Tây, Xuân 1972