Nguoi viet xau xi Soi gương Socrates - triết gia người Hy Lạp là người đầu tiên trên thế giới khuyên con người phải luôn "soi gương": Hãy tự biết mình! Socrates còn đi xa hơn nữa khi cho rằng: Hạnh phúc lớn nhất của con người là hàng ngày ngẫm mình và ngẫm người; nếu không làm được như thế, cuộc sống sẽ không phải là cuộc sống. Lúc sinh thời, GS Trần Quốc Vượng có nói là học lịch sử để soi lại hiện tại; học lịch sử thế giới để biết Việt Nam chúng ta kém những gì, nên thay đổi như thế nào... Chân lý dung dị đó lúc nào cũng vậy. Thất bại ở Việt Nam là thất bại đầu tiên và cho đến nay là duy nhất của Hoa Kỳ sau 230 năm thành lập nước, thế nhưng họ vẫn dám xây đài kỷ niệm để "biết" về cuộc chiến tranh bi thảm và đau đớn ấy ngay giữa thủ đô! Lỗ Tấn là người đã dám nói đến những thói xấu của người Trung Quốc. Vậy, chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự thật: Người Việt Nam có những đức tính thật tuyệt vời, nhưng cũng có những yếu kém phải gạt bỏ. Nhìn thẳng vào sự thật đó một cách toàn diện và sâu sắc, bắt đầu chính từ chỗ chúng ta biết cách soi gương. Chúng ta đã và đang tạo ra (chưa bao giờ nhiều đến thế) các loại bằng cấp thật, chất lượng rởm. Nhìn các tiến sĩ xung quanh, hàng ngày mà chúng ta gặp không thể không có ít người làm chúng ta đau đầu. Nhìn những cặp sách nặng nề, to đùng mà con em chúng ta ngày ngày phải tha lặc lè trên vai cho đến mức xệ cánh, chúng ta biết rõ nền giáo dục hiện nay sai ngay từ triết lý của nó: Học để "biết", để thi chứ không phải là học để hiểu(!). Người Việt Nam sẽ "lùn" mãi nếu những cái cặp sách nặng nhọc và sai lầm kia vẫn tiếp tục níu kéo và trì đậm sức lực của tuổi thơ ngay cả khi chưa kịp bước vào đời. Và rồi, chúng ta có cả một bộ máy công quyền như vậy, nhưng trên báo chí thường xuyên đăng chuyện bắt ông tham nhũng ở tỉnh A, sai phạm ở tỉnh B, hành dân ở tỉnh C, khuất tất ở tỉnh D, mập mờ và bất hợp lý ở tỉnh E... Bởi vậy, người dân cần các vị quan chức "soi gương". Việc làm của tân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu cho thôi chức một thiếu tướng công an, chấp nhận đơn từ chức của một phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ là một tín hiệu cho thấy thái độ dứt khoát: Mọi công chức phải "soi gương", ngay bây giờ! Có thể "soi gương" trong thoáng chốc hình ảnh của mình sau mỗi ngày. Có thể khi soi mình vào đó, ta bỗng chợt nhận ra những người và cuộc sống chung quanh ta. Một dân tộc biết cách "soi gương" một cách nghiêm túc và thường xuyên, chắc hẳn dân tộc đó có thể tự hào và đĩnh đạc bước đi về phía trước. Có nên viết về khuyết tật của người mình không? Phỏng vấn Giáo sư Cao Xuân Hạo - Cách đây nhiều năm, nhiều bạn đọc đã có được một ấn tượng khá mạnh sau khi đọc bài của ông đăng trên Tuổi Trẻ Cười. Trước khi viết bài này, ông có đọc cuốn “Người Trung Quốc xấu xí”… không? - Rất tiếc là mãi mấy năm sau tôi mới được đọc. Tôi rất thích cuốn đó. Tôi nghĩ rằng nhưng cuốn sách như thế rất có ích cho người đọc, nhất là những người thực sự có quan tâm đến dân tộc, và nhất là trong thời kỳ hiện nay. - Ông có nói “Những cuốn sách như thế rất có ích cho người đọc, nhất là trong thời kỳ hiện nay”. Phần cuối câu này nên hiểu như thế nào? - Bấy lâu các tác giả viết về tính dân tộc và “bản sắc” của dân tộc ta, dù là những chuyên gia về dân tộc học hay là những tác giả nghiệp dư, không trừ một tác giả nào, đều đã hết lời ca ngợi những cái hay cái đẹp của dân tộc ta. Những cuốn sách và những bài vở tự ca ngợi như thế rất cần cho chúng ta, ít nhất là để nâng cao niềm tự hào dân tộc và khắc phục tâm lý tự ti vốn thường thấy ở những dân tộc nhỏ yếu đã từng lệ thuộc ngoại bang trong những thời gian dài. Tự ca ngợi là việc rất cần làm trong những thời kỳ mà ta phải đương đầu với những kẻ thù mạnh hơn ta gấp bội. Nhưng có một điều quan trọng không thể quên: người Việt Nam cũng là người chứ không phải là thần thánh. “Con rồng cháu tiên” chẳng qua là một huyền thoại, chứ thật ra chúng ta cũng chỉ là con cháu của cha ông ta, vốn là những con Người, không hơn không kém, dù cái danh hiệu này có viết hoa hay viết chữ thường. Trong khi say sưa tự ca ngợi, khá nhiều tác giả quên mất một sự thật quan trọng: mình không phải là người theo chủ nghĩa đế quốc hay chủ nghĩa vị chủng. Chỉ có người theo chủ nghĩa vị chủng mới cho rằng dân tộc mình là “ưu tú nhất”, là sinh ra để dìu dắt các dân tộc khác, để khai hóa cho họ trở thành văn minh và ưu tú như mình, vì các dân tộc khác còn man rợ và kém cỏi, không thể thiếu sự hướng dẫn và ban ơn của mình, một dân tộc thượng đẳng có quyền và có sứ mệnh dìu dắt họ thoát khỏi tình trạng mông muội. Ta đã biết rõ cái tâm lý tự hào dân tộc kiểu đó đã đưa đến những cuộc chiến tranh tàn khốc như thế nào, và đã làm cho những dân tộc “thượng đẳng” thảm bại một cách nhục nhã ra sao. Một nhà hiền triết cổ đại có nói rằng, một trong những nhân tố quan trọng nhất khiến cho một dân tộc, một triều đại, một nhà vua, một tướng lĩnh sa đọa nhanh nhất chính là một trận đại thắng lẫy lừng khiến cho người ta có ảo giác là mình bất khả chiến bại, mình là tinh hoa của nhân loại, mình là tuyệt đối hoàn hảo. Đó chính là dấu hiệu chắc chắn nhất của sự suy đốn và đồi bại. Cho nên, sau một thắng lợi lớn, nguy cơ suy vong của một dân tộc không những không mất đi, mà còn tăng gấp bội. - Vậy làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn giữa niềm tự hào dân tộc và chủ nghĩa vị chủng? - Có lẽ cách đặt vấn đề như thế không thật ổn, vì ở đây vấn đề không phải là một sự lựa chọn giữa hai cực. Nếu có khác nhau chăng thì đó là khác nhau giữa tự hào và tự mãn mới đúng. Dĩ nhiên ta có quyền tự hào đúng mức về những thắng lợi vẻ vang mà ta đã giành được trong dĩ vãng và đang giành được trong hiện tại. Tôi nói “tự hào đúng mức” là vì nếu vượt quá một mức độ nào đó ta rất dễ trở thành lố bịch. Có những dân tộc không có thành tích vẻ vang bằng ta trong lịch sử chống xâm lược chỉ vì trong lịch sử họ chưa từng bị xâm lược chỉ vì trong lịch sử họ chưa từng bị xâm lược kể từ khi lập quốc. Và sở dĩ như vậy cũng có thể vì họ quá hùng cường, và dĩ nhiên họ cũng có quyền tự hào về sự hùng cường ấy. Tự hào quá mức rất dễ đưa đến tự mãn. Mà tự mãn thì bao giờ cũng có cái hại. Điều đó xưa nay không có ai không thừa nhận. Sống có nghĩa là tiến lên, là cải thiện, là phát triển, là khắc phục, là sửa chữa. Vậy nếu thấy mình không cần tiến lên, không cần cải thiện, không cần sửa chữa gì hết, thì kết quả chắc chắn mười phần là tiến thẳng đến cái chết. Muốn sống tiếp, không thể nào tự mãn được. Mà muốn không rơi vào tự mãn, phải biết rất rõ bản thân có những nhược điểm gì. Điều đó cũng cần thiết như niềm tự hào dân tộc. Không những phải nêu rõ những nhược điểm, mà còn phải làm cho mỗi người Việt thấy xấu hổ những nhược điểm ấy một cách sâu xa. Cho nên viết về cái xấu cần có một ngòi bút thật sắc bén thiện chí và tài hoa. Đó chính là vấn đề khó khăn nhất được đặt ra trước những người có ý định viết về những thói hư tật xấu của dân tộc. Và những người có vai trò cầm cân nảy mực cho các tác giả phải phóng tay phát động lòng dũng cảm của họ lên, dẹp lòng tự ái dân tộc đến tối đa. Hễ tác giả nào nêu lên được một sự thật đáng buồn đến đâu chăng nữa, bằng một giọng điệu giễu cợt cay độc đến đâu chăng nữa, thì cũng không gặp phải bất cứ sự phản ứng nào. Và dù những lời chê bai của họ chỉ đúng với một thiểu số “không đáng kể” chăng nữa, thì việc họ làm vẫn hết sức có ích không những cho những người “đương sự”, mà cả cho những người còn lại nữa. Cho nên tôi có thể hoan nghênh những cuốn sách và những bài báo viết về những nhược điểm tiêu biểu nhất và có tác dụng cản trở lớn nhất cho sự phát triển và đổi mới của dân tộc. - Ông là người tâm huyết với giáo dục, vậy thưa ông, giáo dục thời nay – nhất là trong cải cách có những “sai lầm” về chữ viết, sách giáo khoa… Những cải cách này có ảnh hưởng gì…? - Thật ra khi các tác giả thực hiện cuốn sách Giáo khoa Tiếng Việt tập 1, tôi và một số đồng nghiệp đã có góp ý. Nhưng dường như các tác giả không chịu tiếp nhận và như anh đã thấy, hậu quả của nó mà báo chí dư luận đang phê bình. Nhưng có lẽ việc đã lỡ nên… vậy thôi. Theo chúng tôi thì chúng tá không nên đưa con người ra “thí nghiệm”, nhất là lại đem giáo dục “thử” thì thật là nguy hại. Riêng cuốn sách “Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng” NXB Khoa học xã hội và Công ty văn hóa Phương Nam (quý II-2006) đã xuất hiện lần đầu vào năm 1991, quyển sách này được các nhà ngôn ngữ học xem là "đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử nghiên cứu tiếng Việt" và đây là lần tái bản thứ 3. Sách gồm có 2 phần: Phần Dẫn luận chủ yếu cung cấp những tư liệu về tình hình chung của các trào lưu ngữ pháp chức năng hiện nay. Phần thứ 2 nói về cấu trúc và nghĩa của Câu trong tiếng Việt. Theo tác giả thì đây là sự "cố gắng miêu tả trung thành những đặc trưng ngữ pháp của tiếng Việt đúng như nó được người Việt hiểu và sử dụng hằng ngày". Giáo sư cho biết thêm việc ra đời công trình này là nhằm “bổ cứu cho những thiếu sót này là công việc của tương lai". - Xin cảm ơn Giáo sư về cuộc trò chuyện này và kính chúc Thầy hoàn thành tâm nguyện. Bức xúc nhức nhối Đổi mới đã đưa ra được một khẩu hiệu đẹp, đó là "nhìn thẳng vào sự thật". Trong một thời gian dài trước đây, mọi người vẫn rón rén như đi trên thảm, luôn sợ vấy bẩn mất thành tích, nay bắt đầu nói đến chuyện nhìn thẳng vào sự thật... Vậy là từ chỗ chỉ "vạch lá tìm hoa thơm" hay tưởng tượng ra hoa thơm, người ta bắt đầu phải đối đầu và một việc vô vãn khó khăn và ẩn náu nhiều hệ luỵ (có thể chết người), là tìm kiếm sự thật. Và không ít mỹ từ mới bắt đấu xuất hiện. Nhà báo viết "nhức nhối, bức xúc", lãnh đạo cũng nói "nhức nhối, bức xúc", kể cả dân thường cũng luôn than "nhức nhối, bức xúc”… Không phải trên báo mà cả trên diễn đàn Quốc Hội, ta cũng thường nghe nhiều vị đại biểu nói "nhức nhối, bức xúc". Nói được là mình đang "nhức nhối", đang "bức xúc” chắc là vẫn tốt hơn không nói. Điều đó cho thấy người nói đã nhận ra vấn đề cấp bách của đất nước, của nhân quần và đang đau đáu muốn những vấn đề đó được giải quyết theo chiều hướng tốt đẹp. Nhưng con đường từ “nói lên bức xúc" đến chỗ "giải quyết những bức xúc" vẫn còn xa. Tham nhũng vẫn mỗi ngây một to, một lớn. Giáo dục, quả là nhức nhối, quả là bức xúc vì nó đụng đến tất cả mọi người, tương lai của đất nước. Giáo dục mà tồi tệ thì còn nguy hại hơn tham nhũng. Có thể thu lại tiền của bọn tham nhũng hay bỏ tù chúng. Nhưng lỡ đào tạo ra những thế hệ con em kém chất lượng trí tuệ, có vấn đề nhân cách đạo đức thì như đổ nước xuống cát, không còn gì để vớt vát được nữa. Mong rằng đại biểu Quốc Hội trong nhiều kỳ họp khác nhau không phải chất vấn lại những câu hỏi giống nhau liên quan tới vấn đề nào đó "chưa được giải quyết" vì người ta quan tâm nhiêu hơn đến chuyện giải quyết dứt điểm những bức xúc hơn là nói bức xúc rồi để đó, đi ngủ ngon lành trong chăn ấm, nệm êm. Lỗ hổng Dạo này, thỉnh thoảng, tôi nghe thấy trên ti vi từ lỗ hổng, lỗ hổng trong quản lý (từ này xuất hiện với tần số cao nhất), rồi tới lỗ hổng trong kiến thức, khi nói về giáo dục, lỗ hổng trong nhận thức, khi nói về pháp luật... Nói chung, nhiều lĩnh vực có lỗ hổng! Những lỗ hổng nho nhỏ, đầu tiên là nho nhỏ, rồi nứt dần ra, lớn dần lên và trống hoác đến phát sợ, kiểu như những vết nứt trên cầu Văn Thánh... Đấy là ví dụ thôi. Đầu tiên người ta không quan tâm lắm đến vết nứt, cho đến khi vết nứt trở nên trống hoác. An nguy của nhiều người bị đe dọa, lúc ấy những hồi chuông báo động mới gióng lên khẩn cấp. Đường sá, cầu cống, nhà cửa, xây bằng bê tông, gạch ngói, xi măng sắt thép, những lỗ hổng ở đó là dễ nhìn thấy nhất, nhũng lỗ hổng hữu hình. Những lỗ hổng vô hình, biết là hổng mà hổng biết to hay bé, xử lý thế nào, mới là những lỗ hổng đáng sợ. Có khi chỉ rất bé thôi cũng đáng sợ, vì nó mang tính báo hiệu, nó lây lan rồi nó kéo sập cả một công trình. Thì đấy, bao nhiêu chuyện đã xảy ra, một vài cầu thủ nghi bán độ, rồi đến một đường dây bán độ, rồi PMU, rồi nữa… lỗ hổng nhỏ thành lỗi của hệ thống, các cụ ngày xưa gọi như thế là "cái sảy nảy cái ung”, chữa những cái ung nhiều khi đau đớn lắm". Hai trang sổ điểm bị xé, một cột điểm để trống từ năm ngoái, được phát hiện trong ngày xét điểm thi tuyển vào lớp 10 cho một lớp cuối cấp ở trường THCS nọ là một lỗ hổng nhỏ, một vết nứt có thể che đậy và lấp liếm, nếu không có một cô giáo cương quyết không chấp nhận vết nứt ấy và nếu báo chí không coi đấy là chuyện nhỏ. Sửa điểm thì sao chứ? Các giáo viên đâu có ngạc nhiên chuyện ấy. Đâu hiếm gì chuyện giáo viên gọi điện thoại đến nhà cho cha mẹ học sinh, báo rằng môn ấy, điểm ấy… thấp đấy không được giỏi đâu, không được tiên tiến đâu, thậm chí không được thi đâu? Cha mẹ định thế nào? Thế là cuống lên, con dại cái mang, trăm sự nhờ cô... Điểm số cần đến đâu sửa đến đây, miễn là cha mẹ biết điều. Lỗ hồng trong một cuốn sổ điểm không phải chuyện lạ nhưng nó có tính dự báo, trong một thời điểm mà nhiều lỗ hổng được phát hiện và bị xử lý kiên quyết. Sẽ có nhiều sổ điểm nữa lên tiếng. Cứ chờ mà xem! Hội chứng ễnh ương “Hội chứng ễnh ương” có ở rất nhiều lĩnh vực, nhiều loại người. Nào là tiếm phong, tiếm xưng. Nào là tạo dựng mặt bằng giả, uy tín giả. Kẻ mắc bệnh “ễnh ương” giống như chiếc thùng rỗng kêu to. Lắm khi lại như quả bóng bay nếu có thêm người ngoài tiếp hơi. Một lần, trong một cuộc họp lớn của thành phố, người giới thiệu chương trình giới thiệu một tiến sĩ thuộc viện nghiên cứu... lên nói chuyện. Đối tượng nghe là các nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ. Người nói chuyện hôm ấy cũng thật hóm hỉnh khi vui vẻ nói: - Thưa các anh, các chị... Tôi là... là... thế này... Có chuyện không thực nhưng cũng là chuyện thực là sau một đêm ngủ dậy mình được chuyển đời từ Phó tiến sĩ sang Tiến sĩ. Cả hội trường cười thoải mái. Cái hóm hỉnh của người nói xua đi cái mặc cảm về học vị anh đang mang. Cũng là chuyện về học hàm, học vị. Một phó giáo sư, tiến sĩ nói với bạn cùng lứa với mình, cũng là người cùng ngành nữa nhưng chưa có bằng nọ cấp kia vì anh mới chỉ có "vỡ ruột" một tấm bằng đại học rằng: - Tôi thì ông lạ gì. So trình độ có khi ông còn hơn tôi về khoản ngoại ngữ. Tôi phải cố chạy chỗ nọ chỗ kia mới lọt đấy. Viện tôi ai cũng phải tìm cách lo cho có được cái ấy để vào diện quy hoạch. Bây giờ thì yên tâm rồi. Người tâm sự với bạn là người chân thành không biết giấu cái đáng giấu của mình. Mà có giấu cũng chẳng giấu được bởi bây giờ những chuyện học giả bằng thật cũng đang là điều khá phổ biến... Nước mình hôm nay nhiều người thực học, thực tài. Cũng không thiếu người học ảo, tài ảo. Người thực học, thực tài thường làm nhiều nói ít. Người học ảo, tài ảo thường làm ít nói nhiều. Kẻ đại ngôn, ngoa ngôn không bị ai đóng thuế, không phạm vào luật trật tự xã hội nên nhiều khi hành tung, hành tác ngôn ngữ như một thứ nhiễu tinh thần. Việc không nguy hiểm đến tính mạng ai nhưng lại gây khó chịu cho người được chứng kiến. Bệnh này, các nhà chuyên môn đang tìm tên gọi nhưng dân gian hiện đại thì đã chỉ danh từ lâu: Đó là “hội chứng ễnh ương”. “Hội chứng ễnh ương” này có ở rất nhiều lĩnh vực, nhiều loại người. Nào là tiếm phong, tiếm xưng. Nào là tạo dựng mặt bằng giả, uy tín giả. Kẻ mắc bệnh “ễnh ương” giống như chiếc thùng rỗng kêu to. Lắm khi lại như quả bóng bay nếu có thêm người ngoài tiếp hơi. Họ “ễnh ương” mình bằng mọi cách. Đòn bẩy tốt nhất của cách ấy là tiền. Cố đại ca tội đồ Năm Cam từng nói: "Cái gì không mua được bằng tiền sẽ mua bằng nhiều tiền". Và trong trường hợp này tiền cũng luôn luôn là cách thứ nhất để thực thi hiệu nghiệm nhất ý đồ của kẻ “ễnh ương”. Một buổi biểu diễn ca nhạc vào loại nhàng nhàng vậy mà những M.C được coi là xinh gái đẹp trai, duyên dáng và hoạt ngôn nhất đã sử dụng rất nhiều, rất nhiều những từ bóng bẩy: "Thật là tuyệt vời, rất thích, khá đặc biệt, thật là xuất sắc, hát rất hay... Rồi thì quá hoàn hảo, xứng đáng cái nọ cái kia...". Quả tình không có từ nào hay hơn các từ này nữa. Chỉ tiếc là người hát mới độ thanh sắc bậc thường thường nhưng người giới thiệu đã "ễnh ương" họ lên mức siêu này siêu nọ. Trong nhóa nhòa của màu sắc đêm nhạc họ tụng ca nhau hết lời mà không một lần thấy ngượng. Chỉ có người nghe và người xem lắm lúc chỉ muốn bịt tai lại vì có quá nhiều những câu xưng tụng nhau như thế. Một số cây bút trong một đôi năm đôn đáo in hết tập nọ, tập kia với giấy đẹp cùng bìa lụa, bìa cứng. Đầu quyển sách thường có lời giới thiệu rất chung chung của một vài tên tuổi. Cuối quyển sách thường là các lời nhận xét này nọ của cánh hẩu. Ai cũng biết, để có những cuốn sách loại này, trước đó là những cuộc gặp gỡ, những bữa nhậu, những phong bì đựng kim ngân lót tay. Từ đây “hội chứng ễnh ương” xuất hiện. Rượu vào lời ra. Nào họ sẽ là những tác giả này kia của đất nước. Nào là họ sánh với ông ấy, bà ấy của nhân loại. Cảm tưởng như quanh bàn bia hơi hội tụ toàn những vĩ nhân. Tiền nhập túi chữ lên giấy. Ngôn ngữ lúc ấy có cánh. Lời khen nhau cứ choang choang. Nào là điệu nghệ, giàu xúc cảm. Nào là tài hoa trong tu từ. Rồi thì thành thạo trong ngôn ngữ dân tộc nhưng cũng rất hiện đại và nhiều ý vị sâu xa tầm nhân loại. Họ xung phong tình nguyện tổ chức các cuộc giao lưu, đi lại. Bạn bè quen mặt thì nhiều, quen văn chương thì ít. Rồi chễm chệ một ngày nào đó, người ấy thành một nhà… có chứng chỉ. Và sau đó nhiều người kể, đi đâu cũng vậy, anh ta hay mặc một cái áo trắng, có túi ngực, trong túi lấp ló "tấm thẻ nhà" của mình. Dạng này thuộc diện mua danh. Anh ta tự "ễnh ương" mình. Thật buồn là lại có những "ễnh ương" đồng đội hùa theo, tâng lên để thành một nhóm "ễnh ương" siêu hạng. Xưa, ta có nơi thi nói phét, nói khoác. Có hẳn những làng cười hẳn hoi. Tục này là tục dân gian nhằm giải trí thư giãn của người nông dân sau lúc vất vả ruộng đồng. Nói phét, nói khoác cho vui mà chẳng chết ai. Làm gì có chuyện quả bí to bằng cái đình, vậy mà vẫn có người hả hê nghe. Làm gì có con cá quả chắn ngang đường làng khiến cái xe cút kít chạy qua bị đổ, vậy mà vẫn có người khúc khích cười… Bây giờ, một số người có vẻ như hơn hẳn ông bà. Nói phét có mục đích. Nói khoác có cộng hưởng. Mọi cái đều bài bản hẳn hoi chứ không dân dã cười cho vui như các cụ ngày xưa. Đã có những tiến sĩ giấy ra tòa, về vườn. Có những siêu sao sập tiệm và lộ chân tướng. Cái thực dụng của không thực tài đã bị thực tế phơi trắng bụng như đô yếu trên sàn vật. Trời mưa rào, trên các ao bèo, ruộng muống thường vang tiếng ễnh ương, ếch nhái. Mọi con đều kêu. Mỗi ễnh ương là kêu to nhất. Nhưng cũng chính nó là con vật xương xẩu, ít thịt và kém chất nhất. Cái đứng đằng sau luật pháp ... Ở cái chỗ luật pháp dừng lại, người ta vẫn luôn luôn có thể suy nghĩ dưới góc độ đạo đức hoặc văn hóa để trước tiên là hiểu hiện tượng, sau nữa là tìm cách khắc phục nó... Luật pháp thường được định nghĩa trong các từ điển như là những quy định mọi người nhất thiết phải tôn trọng trong khi đạo lý suy cho cùng chỉ có nghĩa là những ước lệ hợp với lương tâm cho con người lại được xã hội thừa nhận và khuyến khích nên theo, ai theo được có nghĩa đấy là người tốt. Một hành động bị coi là phạm pháp, khi nó xâm phạm đến quyền lợi hoặc của cả cộng đồng hoặc của các thành viên trong cộng đồng, do đó, phải bị trừng phạt. Còn một hành vi bị coi là thiếu đạo đức tức là đã bị cộng đồng lên án. Có thể bảo sự lên án này chỉ dừng lại ở phạm vi một dư luận, song đối với người có lương tâm trong sáng, đã là một cái gì rất nặng nề. Lẽ tự nhiên là trong việc phân biệt một hành vi đạo đức và một hành vi phi đạo đức, một cộng đồng đã tự nói về mình rất nhiều. Sau hết, cũng nên ghi nhận rằng mặc dù những tiêu chuẩn đạo đức thường có tính nhân bản, nghĩa là chung cho mọi dân tộc, nhưng đi vào cụ thể ở mỗi dân tộc nó lại mang những sắc thái riêng. Đến đây, bắt đầu thấy xuất hiện vai trò của văn hóa, nó là lối sống, lối nghĩ, các quan hệ giữa con người với thiên nhiên và con người với con người, tất cả đã trở thành nền nếp ở từng dân tộc và làm nên sự khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác. ... Thỉnh thoảng, tôi cứ phải giở sách ra để ôn lại những ý tưởng trên, nhất là gần đây, đọc báo chí, nghe đài, được biết thêm nhiều hành động mà chúng ta quen gọi là hiện tượng tiêu cực. Nhiều người nông dân hám lợi, mang bán thứ rau quả phun thuốc trừ sâu, săn vào gây ra độc hại. Các lò mổ bò mổ lợn thường là kém cỏi về mặt vệ sinh nghĩa là ủ sẵn bệnh tật hại người. Nhà máy, bệnh viện hàng ngày tống ra đủ thứ chất thải làm ô nhiễm môi trường. Rồi hàng hóa thì làm ẩu, cốt bán rẻ để cạnh tranh giá kể người mua mang về có không dùng được, thì cũng không quản ngại. Cho đến gần đây lại xảy ra những vụ tham nhũng ghê gớm, tham nhũng đến mức người ta tin rằng các đương sự phải mất hết lương tâm thì mới bảo nhau vét sạch tiền của nhà nước đến như vậy! Có biết bao hành động ngang tai trái mắt đang xảy ra chung quanh, và có cơ ngày một phát triển. Mà lấy luật pháp để trị nhau thì không phải dễ. Tội lỗi ở đây như cái cây, gieo mầm hôm nay, hôm sau mới “kết quả”, lúc bấy giờ người có lỗi đã cao chạy xa bay, ai làm gì nổi! Vả chăng, trong tình trạng xã hội hỗn hào, mọi người chen chúc nhau để sống, muốn lần ra đầu mới của cái ác sẽ gặp muôn vàn rắc rối, dễ gì bắt tận tay day tận trán để luận tội? Nhưng ở cái chỗ luật pháp dừng lại, người ta vẫn luôn luôn có thể suy nghĩ dưới góc độ đạo đức hoặc văn hóa để trước tiên là hiểu hiện tượng, sau nữa là tìm cách khắc phục nó. Chắc chắn là không có gì khiên cưỡng khi gắn một số hiện tượng tiêu cực nói trên và các hành động tương tự với lối làm ăn (kèm theo là lối sống nếp nghĩ) có tự ngày xưa, khi người ta sống theo kiểu khôn vặt (ăn cỗ đi trước lội nước đi sau) và vô trách nhiệm (sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi) chỉ biết đến quyền lợi của gia đình mình (đèn nhà ai nhà nấy rạng), chỉ biết đến cái làng của mình là cùng (trống làng nào thì làng ấy đánh, thánh làng nào thì làng ấy thờ), ngoài ra, bỏ qua mọi chuyện, bởi “có chết thì cả làng cùng chết”. Tóm lại, đồng thời với việc truy cứu về mặt pháp luật, cần xem xét ngay cội rễ của các hiện tượng nói trên về mặt đạo đức – văn hóa, để bắt mạch cho trúng. Đến lượt nó, mỗi tội lỗi, và phản ứng trước tội lỗi – kể cả những tội lỗi nhỏ, hoặc quá tinh tế, pháp luật không kết luận nổi – lại cũng nói lên một điều gì đó về tình trạng tâm lý xã hội nói chung. Nếu như ở đây có sự dửng dưng, tức thờ ơ, mặc kệ kẻ có tội và không sao hình thành nổi dư luận cũng như không cắt nghĩa được nguyên nhân sâu xa dẫn đến tội lỗi, thì đó chính là một bằng chứng cho thấy sức khỏa tinh thần nói chung của xã hội đang có vấn đề, và sự chữa chạy cho mỗi cá nhân không thể kết quả, nếu không có sự chữa chạy cho cả cộng đồng nói chung. Đang nghĩ vân vi như vậy thì gần đây, qua báo Nông thôn ngày nay, số ra 12.6.99, tôi lại được biết thêm về một hiện tượng phải nói là kỳ cục giữa công ty X và công ty Y có sự tranh chấp. Để trả thù, bên Y liên tiếp gửi tới bên X những chiếc quan tài và các vòng hoa tang, trong đó đề rõ tên tuổi kẻ thù của mình. Như một phóng viên Nông thôn ngày nay nhận xét, đây quả là kiểu khủng bố chưa từng có ở Việt Nam. Sự việc “độc đáo” đến mức các nhà chức trách đang phải theo dõi để tìm cách luận tội cho chính xác. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, nhiều bạn dọc của chúng ta, khi nghe chuyện, hẳn không khỏi nhớ tới những cách trả thù vốn có từ xưa, và còn lưu truyền lại qua lời đồn đại của dân gian; căm giận ai thì đi dò hỏi mồ mả ông cha người ta rồi đào lên để hạ nhục. Hoặc làm hình nhân thế mạng, viết tên kẻ thù của mình lên đóm rồi lấy kim châm vào chỗ hiểm và thuê thầy địa lý về yểm vào đất độc. Hoặc như trong truyện Tấm Cám, cái đầu của Cám sau khi chết được Tấm mang ra làm mắm để gửi về cho người mà Tấm vẫn gọi là mẹ ghẻ (cũng tức là mẹ đẻ của Cám). Thì ra, cái hành động kia không hẳn đã đơn độc như chúng ta tưởng tượng. Trong khi lên án nó và đồng tình với mọi sự trừng trị đích đáng, đồng thời phải thấy nó thuộc về một cái gì di truyền trong tâm lý xã hội, do đó, có khi hoạt động ngoài ý muốn từng con người cụ thể. Nói cách khác, trong cái hành động kỳ cục kia thấy có cả những căn nguyên văn hóa sâu xa (văn hóa ở đây không chỉ bao gồm tinh hoa mà như các nhà nghiên cứu khoa học xác định, còn bao gồm cả những cặn bã cần vứt bỏ). Và như vậy là trên đường suy nghĩ về hiện tượng tiêu cực, chúng ta có thể phần nào yên tâm vì đã lần đến đầu mối cuốic ùng, còn như việc lo chữa chạy thì sao, đấy lại là chuyện khác. Chắc chắn, mỗi khi đứng trước một hiện trượng tiêu cực, lại còn lo lần ra căn nguyên đạo lý văn hóa của nó, công việc phải làm sẽ trở nên vô cùng bề bộn. Chẳng phải là lâu nay nhiều người chúng ta có thói quen suy nghĩ một cách đơn giản “truyền thống căn bản là tốt”, “đạo lý nhìn chung là lành mạnh”, để xuê xoa mọi chuyện. Nhưng chính bởi thế, nay lại chính là lúc xã hội phải lo nhận thức cho thấu đáo hơn. Bề bộn mấy thì bề bộn, để giải quyết đến cùng mọi chuyện tiêu cực, không thể có cách nào khác. Bởi các vấn đề đạo lý văn hóa không chỉ liên quan đến pháp luật mà còn liên quan đến mọi mắt xích khác trong guồn máy xã hội. Nói như một viện sĩ người Nga, ông D. Likhachev: Không có văn hóa, xã hội không thể trở thành xã hội có đạo lý. Và nếu không có cả văn hóa lẫn đạo lý, thì mọi cải cách trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học đều trở nên vô nghĩa, tức không thể thực hiện. Lẫn lộn và ngộ nhận Tôi đã về nước được 8 năm. Điều đó thể nói, tự đáy lòng, là tôi chưa bao giờ cảm thấy hối tiếc về quyết định trở về của mình dù tôi đã không thể thực hiện đúng mong muốn các dự án, kế hoạch mà tôi đã ấp ủ với nhiều tâm huyết trong thời gian học tập ở nước ngoài và dù những khó khăn, trở ngại phải đương đầu phức tạp hơn tôi từng nghĩ. Tôi quý trọng những niềm vui và cả những nỗi buồn trong cuộc sống. Trở về nước: sự lựa chọn sòng phẳng chứ không phải sự hy sinh. Trong hầu hết trường hợp, người tốt nghiệp ở nước ngoài, dù với thứ hạng cao, không được người ta trải thảm đế mời ở lại. Một số người thực sự giỏi, nếu có nguyện vọng ở lại, sẽ được nhà chức trách nước sỏ tại tạo điều kiện thuận lợi để định cư, nhưng họ cũng phải thỉnh cầu, phải xếp hàng, phải trông cậy vào các cơ hội, như bao nhiêu người. Ở lại nước ngoài, họ cũng phải đương đầu với sự ghen tị, đố kỵ của các đồng nghiệp và cũng phải nỗ lực để vươn lên trong khó khăn, chưa kể những khó khăn riêng dành cho một công dân có nguồn gốc nhập cư. Không phải không có trường hợp một người dù được mời đích danh, đã từ bỏ cuộc sống ổn định, sung túc ở nước ngoài để trở về phục vụ đất nước và chấp nhận cuộc sống vật chất thiếu thốn. Nhung đại đa số người quyết định trở về là do thực sự có nhu cầu làm việc để kiếm sống và xây dựng sự nghiệp ở quê nhà. Nếu một người có khả năng định cư ở nước ngoài quyết định trở về, thì đó là vì họ có nhu cầu làm việc ở quê nhà, cũng như họ có nhu cầu làm việc ở xứ người và, thay vì chọn xứ người, họ đã chọn quê nhà. Nói như thế không phải để tầm thường hoá việc trở về phục vụ đất nước của người Việt Nam học tập ở nước ngoài hoặc người nước ngoài gốc Việt. Đơn giản, họ đã lựa chọn giữa các con đường có những khó khăn và thuận lợi không khác nhau và phải tự chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Khó khăn trong giao tiếp giữa đồng bào: tâm lý vọng ngoại Một tờ báo kể rằng có một Việt kiều khá thành đạt ở nước ngoài, trở về nước để tìm kiếm cơ hội đầu tư, chỉ nhận được sự đón tiếp lạnh nhạt lẫn thái độ ngờ vực của người trong nước. Anh trở ra nước ngoài, thành lập một Công ty, giữ chức Chủ tịch hội đồng quản trị và thuê một người nước Sở tại làm giám đốc, rồi cùng với người này trở lại Việt Nam. Lần này, đoàn đại biểu của Công ty được đón tiếp rất trọng thị. Nếu đúng là có một vụ phân biệt đối xử như mô tả trong bài báo, thì tôi không hề ngạc nhiên. Tôi đã chứng kiến việc đó ở nhiều nơi: trên máy bay, trong nhà hàng, khách sạn, tại các khu du lịch... Nói chung, trong nhiều trường họp mà một người Việt và một người nước ngoài cùng thực hiện một giao dịch, thì người nước ngoài thường được phía đối tác Việt dành cho sự chăm sóc tận tình, chu đáo hơn. Thái độ coi thường của người Việt đối với người Việt là một trong những nguyên nhân chính khiến cho người Việt, khi giao tiếp với nhau trong điều kiện không quen biết trước, thường không có thái độ chinh phục, chan hoà, cởi mở, mà chỉ có thái độ phòng ngự, đối phó, dè chừng. Những cú va đập: hậu quả của sự nông cạn. Trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày, người trở về cố chú ý thể hiện các quy tắc, lề thói của cuộc sống văn minh trước mặt người trong nước, từ cách đi đứng, ăn mặc, nói chuyện... Mỗi khi thấy điều gì không hài lòng, người trở về phê phán bằng cách tiến hành so sánh giữa cuộc sống ở nước ngoài và cuộc sống ở trong nước, tất nhiên, trong sự so sánh ấy, cuộc sống trong nước giữ vai trò mặt phản diện. Với thái độ ấy, người trở vè dễ bị coi là kẻ lai căng, hợm hĩnh. Trong công việc, người trở về nước mong muốn thay đổi nhũng cái đang có trong nước bằng cách giới thiệu và áp dụng những điều mình biết được, học được ở nước ngoài, đề xây đựng cái mới. Người trở về sẽ bị coi là kẻ cấp tiến và vô ơn một khi tỏ thái độ coi thường những cái đang có và thể hiện nỗi khao khát đổi mới một cách quá mức cần thiết. Vật cản đối với sự tiến bộ: kém về kỷ luật và tính tự giác Chúng ta chưa có thói quen sống theo các chuẩn mực của xã hội công dân. Trong một xã hội được tổ chức tốt, các quan hệ giao tiếp, xử sự giữa người và người đều dựa trên ý thức về quyền chủ thể. Trong cuộc sống dân sự tồn tai nhiều loại lợi ích vật chất và phi vật chất, khi một lợi ích nào đó thuộc về một người, thì nó không thể thuộc về một người khác. Xã hội chỉ có trật tự, nếu trong điều kiện một lợi ích thuộc về một người, tất cả những người khác phải tôn trọng việc người đó thụ hưởng lợi ích thuộc về mình. Việc một người”có" trong khi những người khác “không có" tạo ra một tình trạng mà thoạt trông có vẻ không công bằng. Song, tính công bằng của giải pháp thể hiện ở chỗ người có lợi ích, đến lượt mình, phải tôn trọng việc một người khác thụ hưởng một lợi ích khác thuộc về người đó. Một người có quyền ưu tiên vượt ngã tư khi đèn xanh, bởi vì chính người này phải dừng lại ở ngay ngã tư đó khi đèn đỏ, để nhường quyền ưu tiên vượt ngã tư cho người khác. Khi có nhiều người cùng xếp hàng mua vé xem đá bóng, thì người đến sau phải nhường quyền ưu tiên mua vé cho người đến trước bằng cách xếp hàng chờ đến lượt mình, nếu chính người này đến trước thì quyền ưu tiên đó thuộc về họ. Xuất phát từ suy nghĩ ấy, người ta nói rằng người vượt đèn đỏ coi như đã có hành vi ăn cắp quyền sử dụng đèn xanh của người khác, người không chịu xếp hàng mà chen lấn giành mua trước là người có hành vi ăn cắp lượt ưu tiên của người đến trước. Ở Việt Nam, nhà trường và gia đình thường không dạy như thế. Điều đó giải thích sự phổ biến của các hành vi ứng xử rất kém văn minh diễn ra công khai và vô tư: điều khiển xe vượt đèn đỏ hoặc chạy ngược chiều quy định, chen lấn, giành lượt ở các quầy vé, xả rác, tiều tiện, khạc nhổ ở nơi công cộng. Vật cản đối với sự tiến bộ: mặc cảm tự ti. Người việt thường nói về mình như một giống người rất thông minh, nhưng lại cư xử, hành động dưới sự điều khiển của những suy nghĩ nội tâm đầy mặc cảm tự ti. Mặc cảm ấy luôn khiến cho người Việt, khi giao tiếp với người nước ngoài, không có được sự tự tin, đĩnh đạc cần thiết và thường nhanh chóng ổn định vị trí của một kẻ thua thiệt. Sau một trận đấu bóng đá với Hàn Quốc trong khuôn khổ vòng loại World Cup 2006, trận đấu mà Việt Nam thua 1-2 trên sân nhà, một tờ báo chạy tít "Hả dạ!" khi đăng một bài bình luận đầy hoa về trận đấu này. Tôi cảm thấy xót xa khi đọc dòng tip đó và bài bình luận kèm theo. Chúng ta có thể bớt buồn khi thấy người Việt không còn bị hành hạ trong những trận đấu thể thao đối kháng, nhung hồ hởi, hả dạ với một trận thua thì đúng là quá nhược tiểu. Ở nước ngoài, đại đa số người Việt chỉ có những mơ ước nho nhỏ, chứ không có tham vọng lớn. Người Việt ở nước ngoài thường dễ dàng tự bằng lòng với vị trí của một người làm công ăn lương hoặc của một tiểu chủ, nói chung là của một người thuộc tầng lớp trung lưu hoặc trung lưu cấp thấp trong xã hội của nước sở tại. Mặc cảm tự ti cùng với sự thiếu gắn bó giữa các thành viên của cộng đồng người Việt xa xứ và nhiều yếu tố khác đã khiến đa số người Việt chỉ đạt được thành công trung bình ở các nước khác, bên cạnh những người Việt không thành công. Cho đến nay, chưa có cộng đồng người Việt nào tạo được ảnh hưởng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của nước sở tại, như các cộng đồng người Hoa. Bệnh khó chữa trị: hoang tưởng về phẩm chất trí tuệ và năng lực Trí thông minh của người Việt không đến nỗi nào, nhưng không hẳn vượt trội so với các dân tộc khác. Vấn đề là, như đã nói, người Việt thường tự nói về mình như một giống người có phẩm chất trí tuệ vượt trội. Có thời gian , một tờ báo nọ mở một chiến dịch động viên thế hệ trẻ hăng hái lao động, sáng tạo để xây dựng, phát triển đất nước. Phấn khích với ý tưởng đầy tâm huyết của nhà báo, tôi theo dõi rất sát chiến dịch đó. Trong suốt một thời gian dài, tôi thấy báo liên tục đăng những bài viết cổ vũ cho việc phát huy tinh thần Đại Việt. Thậm chí, có bài viết còn kêu gọi lớp trẻ phải biết hổ thẹn về việc chưa phát huy được tinh thần Đại Việt và gọi đó là nỗi hồ thẹn cao cả. Tôi cảm thấy rất ái ngại khi đọc những bài viết như thế, đặc biệt ái ngại về tác dựng tạo ra sự ngộ nhận nguy hiểm của nó. Đúng là lớp trẻ phải biết hổ thẹn về việc đất nước cho đến bây giờ vẫn nằm trong nhóm các nước nghèo và phải tích cực học tập, làm việc để góp phần đưa đất nước ra khỏi cảnh nghèo đói. Thế còn phát huy tinh thần "Đại Việt"? Suy cho cùng, tinh thần đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, cũng như sự tưởng tượng về các nguồn lực tự nhiên dồi dào của đất nước. Chúng ta không có những phát minh khoa học có tác dụng đánh dấu như các điểm mốc phát triển trong lịch sử văn minh nhân loại, cũng không có những siêu tác phẩm văn hoá, nghệ thuật có ảnh hưởng sâu rộng đối với sự phát triển văn hoá, nghệ thuật của thế giới. Đáng lý ra, người Việt chỉ nên kêu gọi lên nhau cùng nhau đoàn kết chung tay xây dựng đất nước, lao động theo khả năng về trí tuệ và sức vóc của mình. Người Việt (và nói chung một dân tộc không có những ưu điểm vượt trội về trí lực, thế lực) có quyền tự hào về những thành tích trung bình của mình, nếu đó thực sự là điều họ đã có thể làm được bằng tất cả sức lực, trí tuệ và bằng thái độ lao động nghiêm túc, có kỷ luật. Con người vẫn có thể trở nên vĩ đại từ việc chấp nhận những điều bình thường, làm những việc bình thường để thu được những kết quả bình thường. Nhưng chắc chắn người ta không bao giờ trở nên vĩ đại từ sự hoang tưởng và nhất là từ việc gán cho mình những tính cách vĩ đại hoặc phẩm chất ưu việt không có thật, nếu không muốn nói là chỉ có thể trở nên lố bịch với những thứ đó. Tính tự phán của người mình Gần đây, chứng kiến những bước tiến mạnh mẽ của Trung Hoa trên trường quốc tế, lại thấy dư luận hâm nóng một cuốn sách được xuất bản cách đây hai thập kỷ. Đó là cuốn Người Trung Hoa xấu xí của Bá Dương. Dường như có sự liên tưởng giữa sự dũng cảm nhận ra những yếu kém sẽ mang lại sức vươn lên mạnh mẽ cho một dân tộc. Trước cuốn sách của Trung Hoa, thì nước Pháp, nước Mỹ, nước Nhật Bản đều từng có những cuốn sách tương tự, nhận mình là xấu xí... Còn người Việt, một “Người Việt xấu xí”- tại sao chúng ta không bàn đến? Chúng tôi mời nhà sử học Dương Trung Quốc, nhà phê bình Vương Trí Nhàn và tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng cùng bàn về vấn đề này. Phóng viên: Vì sao chúng ta đã có một “Người Việt cao quý” mà mãi gần đây mới đề cập đến khía cạnh ngược lại? - Ông Dương Trung Quốc: Một công bố gần đây của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn lục tìm trong sách báo cũ cho thấy, người Việt Nam ta đâu phải không biết tự phán. Ngay trong thời cận đại cũng từng có hai nhà chính trị, cũng đáng là hai nhân vật lịch sử quan trọng đã tự tay viết sách tự phê bình đường lối chính trị của mình. Tác giả Tự phán là nhà ái quốc nổi tiếng Phan Bội Châu, còn Tự chỉ trích là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương Nguyễn Văn Cừ... Nhưng tự phán và tự trào tính cách của dân tộc thì phải nói đến một nhân vật nổi danh trên trường văn học và báo chí là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) ở đầu thế kỷ 20 mà năm nay chúng ta sẽ kỷ niệm 70 năm ngày mất của ông. Như vậy là việc dám nhìn vào gương để tự soi mình, vạch ra những thói hư tật xấu để phê phán và khắc phục đâu phải là chưa từng có ở ta. Tự phê phán đã từng được coi là một vũ khí để tu thân... Vấn đề hình như ở chỗ khác! Khác ở chỗ nào, thưa nhà sử học Dương Trung Quốc? - Tôi nhớ đến một cách quảng cáo của một bà chủ cửa hàng tiên phong trong việc mở mỹ viện tại Hà Nội: “Không có người đàn bà xấu, chỉ có người đàn bà chưa biết cách làm đẹp”. Một con người đã vậy, với một dân tộc có vậy không? Khi nói về biểu tượng “con cá gỗ” gắn với một xứ sở nổi tiếng nghèo nhưng cũng nổi tiếng có học ở miền Trung, cái biểu tượng ấy có thể gắn với tính bủn xỉn, keo kiệt ở người này nhưng lại là tính hiếu học, ý chí phấn đấu vượt khó ở người khác... Vì vậy khi nói về một sự khác biệt trong tính cách của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, ta có thể nói về một số tính trội hay những tiềm năng mang các khuynh hướng khác nhau chứ không nên hiểu như những hằng số phản ánh một tính cách tuyệt đối, bất di bất dịch. Trong sách du ký Hành trình Xứ Đàng Trong năm 1621 của cố đạo Alexandre de Rhodes có thuật lại trải nghiệm của một thương nhân Bồ Đào Nha. Ông ta đến Đàng Trong (vùng Hội An) và được nhiều người nước ngoài khác cảnh báo về một thói xấu của người bản địa là hay xin xỏ. Rằng người Đàng Trong rất chuộng của lạ, thấy ai có cái gì cũng ngỏ lời “Xin một cái”, do vậy ai có gì thì chớ để lộ ra kẻo họ lại xin. Sự việc diễn ra đúng như vậy. Nhưng một lần, ông thương gia này quyết định thử xem có đúng hoàn toàn như vậy không, bèn đến một gia đình thuyền chài nghèo và để tay lên cái rổ đầy cá rồi nói bằng tiếng bản địa “Xin một cái!”. Điều bất ngờ là người thuyền chài chẳng nói chẳng rằng đưa luôn cả cái rổ cá cho người ngỏ lời xin mặc dùcó thể đó là cả bữa ăn của gia đình mình. Thế là ông thương gia người Bồ lại phát hiện một tính cách đối lập với những thiên kiến về người Đàng Trong... Còn hiện nay thì sao? - Ông Vương Trí Nhàn: Về chuyện ngại ngùng thì không phải nói nhiều. Sự thực là khi bắt tay vào công việc tìm hiểu người Việt xấu xí, bọn tôi nhìn chung quanh đã thấy nản lòng. Có người bảo thiếu gì việc cần làm sao lại đi vào bới lông tìm vết thế này. Có cả những người rất tốt cũng nói rằng không nên làm. Nói chung mọi người nhìn mình hình như không được thiện cảm lắm. Đôi lúc chúng tôi cảm thấy hình như mình có lỗi. Tuy nhiên, gần đây tình hình có khá hơn, dân tình thông cảm hơn và đề tài càng ngày càng được mọi người cho là cần thiết. Tôi nghĩ đây là mình làm một việc không người này làm thì người khác phải làm. Tại sao lại nảy sinh cái tâm lý ngại ngùng này và nó bắt rễ sâu vào lòng người như vậy? - Ông Vương Trí Nhàn: Có thể có nhiều lý do. Trước tiên phải thông cảm với nhau, đây kể ra cũng là một nét tâm lý thông thường của con người. Nhà văn Triệu Bôn có lần kể với tôi: Nguyễn Minh Châu viết một truyện hơi yếu, Triệu Bôn viết bài chê và nhận ra ngay là ông Châu giận, không muốn nhìn mặt người phê mình nữa. Tới buổi hai người gặp nhau trong nhà tắm (trước năm 1975, tòa soạn Văn Nghệ Quân Đội chỉ có một căn phòng tắm chung, đặt bên cạnh cái bể to). Triệu Bôn bảo: “Chẳng nhẽ tôi nói thế không đúng sao?”. Nguyễn Minh Châu mới thủng thẳng trả lời: “Đúng, nhưng người bị đòn đau bỏ mẹ, ai mà chịu nổi!”. Đấy, với một cá nhân là thế, với cả xã hội lại càng như thế. Tản Đà từng đúc kết: “Dân hăm lăm triệu ai người lớn – Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”. - Ông Dương Trung Quốc: Từ những câu chuyện về bà chủ thẩm mỹ viện và thương nhân Bồ Đào Nha, suy cho rộng ra thì phải trở về cái nguyên lý “nhân chi sơ, tính bản thiện”. Những cái xấu,những cái đi ngược lại với thiện tính của con người không thuộc về tính cách của một dân tộc mà chủ yếu chỉ là biểu hiện của những con người trong những hoàn cảnh cụ thể đã để mất cái thiện căn của mình. Biết nhận thức cái xấu, biết tự phê phán là thái độ khôn ngoan không chỉ với một cá nhân, một cộng đồng hay một dân tộc. Và đó cũng là ý niệm cốt lõi của hai chữ “giáo dục” như bài thơ Nửa đêm (Dạ bán) của Cụ Hồ: “Ngủ thời ai cũng hiền lương Tỉnh ra mới rạch hai phương dữ lành Dữ lành bá tánh trời sanh Thường do giáo dục mà thành thói quen” (Bản dịch của Quách Tấn) Đâu là thói xấu đáng sợ nhất? - Ông Vương Trí Nhàn: Xét trong lịch sử, sự ngần ngại nói trên là một tâm lý hình thành từ lâu. Dân gian ai cũng thuộc cái câu: Tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại. Trong thâm tâm ta thừa biết mình không thiếu gì thói xấu. Song ta nhát, không muốn nhìn thẳng vào bản thân. Cái gì bê bối chỉ tính chuyện giấu nhẹm chứ không muốn giải quyết. Bởi bận bịu, mệt mỏi. Bởi quen dễ dãi với mình, không có nhu cầu hướng thượng, không cần đạt tới trình độ hoàn hảo. Sau hết bởi cảm thấy hình như không bao giờ giải quyết nổi. Tức là có phần tự ti nằm rất sâu trong ta mà ta không biết. Tự ti trong lòng, tự tôn ngoài miệng, cả hai đều thâm căn cố đế! - Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Có ai đó trong số những người ngoại quốc đã từng nhận xét: “Một người Việt thì hơn một người Nhật. Hai người Việt thì khó lòng hơn hai người Nhật. Ba người Việt thì chắc chắn thua ba người Nhật”. Đây có lẽ là một lời khen để chê cho dễ. Bởi vì rằng có bao giờ người Việt chúng ta sống riêng rẽ từng người một như Rôbinxơn Cruzô trên hoang đảo đâu. Hơn thế nữa, chúng ta lại rất chuộng tinh thần tập thể. Mà tập thể thì ba người chỉ là con số tối thiểu. Và nghĩa là, chúng ta chẳng có mấy cơ hội để cạnh tranh với người Nhật cả. Việc một người Việt có hơn một người Nhật hay không là chuyện còn phải bàn. Thế nhưng, việc “tam nhân bất đồng hành” giữa ba người Việt thì không khéo là chuyện có thật. Điều này xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả những đặc tính nằm trong “gien” di truyền văn hóa của người Việt chúng ta. Tuy nhiên, “tự ti trong lòng, tự tôn ngoài miệng” cũng đã từng phát huy tác dụng trong quá khứ? - Ông Vương Trí Nhàn: Vả chăng, đối với một dân tộc, khả năng biết nói về mình một cách chính xác phụ thuộc rất nhiều vào khâu tiếp xúc với nước ngoài. Mà ở ta thì lịch sử đối ngoại quá nặng nề. Sống với những người hàng xóm mạnh, việc giữ nước đặt ra cái nhu cầu tâm lý phải khẳng định mình, phải khẳng định cái sự có quyền tồn tại của mình. Nói quá nhiều đến cái dở của mình có khi không còn sức mà đánh giặc. Ngay cả sau chiến tranh, bước vào làm ăn kinh tế và thực thà muốn làm bạn với mọi nước trên thế giới, như những ngày này, thì cũng không dễ để sòng phẳng ngay được. Ta ở vào thế xuất phát quá kém. Thậm chí có người nghĩ mình không bao giờ đuổi kịp người. Vậy phải động viên nhau, nhấn mạnh cái phần thuận lợi vốn có cùng nhau. Sự lảng tránh khuyết tật giống như một nhu cầu tự vệ. - Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Trước hết, đó là cái tâm lý “Trúc xinh trúc mọc đầu đình. Em xinh em đứng một mình cũng xinh”. Kiểu gì thì kiểu, cứ đứng một mình mới xinh. Như những cây “trúc” riêng rẽ, người Việt chúng ta thật sự có những phẩm chất trí tuệ khá cao siêu. Cứ nhìn vào những giải thưởng quốc tế mà người Việt giành được trong các kỳ thi olympic quốc tế về toán, lý, hóa... thì chúng ta sẽ rõ. Thế nhưng cứ gom những cây “trúc xinh” này lại với nhau thì chúng ta sẽ có cả một khóm trúc mịt mùng, rối rắm: Mọi lý lẽ,mọi cố gắng đều bị vô hiệu hóa trong sự bùng nhùng của các mối quan hệ. Cha ông ta đã từng dạy “Xấu đều hơn tốt lỏi”. Khổ nỗi không hợp tác được với nhau thì “xấu” cũng rất khó mà đều. Thực ra, nói người Việt chúng ta không hợp tác được với nhau là chưa thật hoàn toàn chính xác. Chúng ta đã từng hợp tác được với nhau rất chặt chẽ trong chiến tranh. Càng bom rơi, đạn nổ, người Việt càng cố kết chặt chẽ với nhau hơn. Rất tiếc, sự hợp tác như vậy chưa chuyển giao được cho sự nghiệp xây dựng hòa bình. Thói xấu đáng sợ nhất vẫn là sợ không dám nhìn thẳng vào những thói xấu có thực của mình. Nó là thói xấu mẹ có khả năng đẻ và nuôi dưỡng mọi thói xấu kinh khủng khác? - Ông Vương Trí Nhàn: Người Trung Quốc xấu xí được nói nhiều nơi chứ không chỉ trong sách Bá Dương. Có lần qua tiếng Nga tôi thấy nói một nhà xuất bản ở London có chủ trương cả một xê-ri sách người mỗi dân tộc tự viết về thói xấu của mình, riêng hai bản tiếng Anh và tiếng Nga cuốn Những người Nga kỳ cục cùng lúc được phát hành ở London và Moskva. Sách người Anh người Mỹ tự nói về tật xấu của mình càng nhiều. Vậy thì tại sao ta không tìm để dịch? Nghĩ kỹ thì thấy chính nhu cầu chung sống với mọi người, bạn bè với mọi dân tộc trên thế giới lại đang đòi hỏi chúng ta tỉnh táo nhìn lại mình. Xưa các cụ có thể theo chính sách “nội đế ngoại vương”, đưa vua giả đi triều cống. Thời đại hiện nay không thể tính chuyện khôn vặt như trước được nữa. Làm ăn muốn lâu dài phải sòng phẳng. Ngay đối với quá khứ cũng phải sòng phẳng. Do kém nên phải học, không có gì là ngượng nếu ham học hỏi. Chỉ không chịu học không biết học và chưa học đã lên mặt thành thạo mới đáng xấu hổ. - Ông Dương Trung Quốc: Khi còn bỉnh bút cho tờ báo quốc ngữ ra đời sớm nhất ở Bắc Kỳ Đăng cổ tùng báo, Nguyễn Văn Vĩnh dưới bút danh giả nữ là Đào Thị Loan, ông đã viết những bài phê phán về tục đốt vàng mã, thói hư danh, nạn cờ bạc... Đến khi trở thành chủ bút tờ Đông Dương Tạp chí trong 2 năm 1913 và 1914, ông mở một chuyên mục lấy tên là “Xét tật mình” lấy cảm hứng từ một câu của văn hào Pháp Emile Zola: “Nói hết, để biết hết, để chữa hết” (Tout dire pour tout connaitre, pour tout guérir) và giải thích thêm rằng: “Các nết xấu, các hủ tục của người Việt Nam ta, cần nói hết ra, đừng có giấu giếm, ai cũng biết thì mới sửa được. Luân lý là phải dạy người ta biết gốc rễ điều ác để tự nguyện tránh, mầm mống điều thiện để tự giác làm điều thiện”. Người Việt có “văn hoá đọc” ? Unesco lấy ngày 23/4 hàng năm làm ngày sách và bản quyền thế giới để khuyến khích sự đọc sách. Nhìn lại tình hình sách in quá khiêm tốn của chúng ta hiện nay, người thì cho là lỗi của xã hội thờ ơ với sách, người thì gán tội cho người viết không thể sáng tạo ra những đứa con tinh thần xinh đẹp để người đọc phải đổ xô đi tìm, người thì đổ lỗi cho sự bành trướng của báo trí, truyền hình, Internet… Dù Nho giáo không con nữa nhưng “ảnh hưởng của Nho giáo ở phương diện tư duy, ở phương pháp tư tưởng thì còn lâu mới gột hết được, không chỉ bởi Nho giáo không được cùng sinh với chế độ phong kiến nên không cùng chết với nó mà kiểu tư duy Nho giáo đã đi vào vô thức” người Việt. Quả thật với dân số hơn 80 triệu đã được xoá nạn mù chữ, đang tiến tới phổ cập PTTH mà mỗi đầu sách chỉ in từ 1.000 – 1.500 cuốn mà bán lẹt đẹt mãi không hết thì chúng ta phải đặt câu hỏi. Nhưng nói rằng tại sách không hay nên bán không chạy thì e rằng không thoả đáng, vì thực tế trong những năm qua có những cuốn sách viết tương đối được, hay những truyện dịch từng nổi tiếng ở nước ngoài mà bán vẫn ì xèo thì đâu phải tại tác giả hay tại sách, nói rằng do truyền hình, Intemet… thì tại sao các nước phát triển những thứ đó họ có trước ta tới ¼ thế kỷ mà số lượng sách trung bình xuất bản vẫn hàng vạn. Theo tôi để trả lời một cách thấu đáo thì có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ quá khứ, từ lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. 1. Người Việt trải qua hơn ngàn năm sống dưới chế độ quân chủ, nơi mà tất cả quyền lực đều tập trung vào tay nhà vua, nhà vua chỉ trao quyền cai trị dân chúng cho một số ít quan lại hay số người thi đậu ít ỏi qua các kỳ thi hương, thi hội, thi đình vốn là những kỳ thi năm thì mười hoạ hay vài ba năm mới diễn ra một lần. Và sự đọc sách thánh hiền thời đó của tầng lớp học trò, sĩ tử không chú trọng vào việc mở mang trí thức, mà cốt để thi đậu làm quan bởi quan niệm "một người làm quan cả họ được nhờ”. Bởi vậy, học trò chỉ học cái thi cử cần. Dạy cũng chỉ dạy cái cần cho thi cử. Người học chỉ đọc những sách tóm tắt gọi là đại cương hoặc tất yếu chứ chưa bao giờ đọc chính văn hoặc toàn văn, học trò học thi theo các "bộ đề" thi (cũng được soạn thành sách) theo nội dung tối thiểu là thi thiên, phú bách, văn sách năm mươi (nghìn bài thơ, trăm bài phú và 50 bài văn sách). Bởi vậy người học trò Nho giáo nhớ nhiều mà nghe ít, không có sáng kiến, không có óc sáng tác (thuật nhi bất tác), họ sống lệ thuộc vào các khuôn mẫu tư tưởng, khuôn mẫu lý tưởng của người xưa. Chính từ "triết lý giáo dục" đó mà dù Nho giáo tồn tại hơn nghìn năm mà lớp lớp các sĩ tử người Việt không thể sản sinh những nhà tư tưởng, những nhà bác học hay các trường phái học thuật - bởi tất cả cái đó cần sự sáng tạo, phá cách, thoát ra khỏi cái khuôn mẫu như cái vòng kim cô chụp lên cái đầu học trò, sĩ tử người Việt. Mặt khác, tầng lớp học trò trong xã hội Việt cổ truyền không nhiều, hơn nữa vài ba năm mới có một kỳ thi và việc thi đậu làm quan là rất khó khăn. Hàng nghìn sĩ tử lều chõng lên kinh chỉ vài ba người trong số đó chiếm được bảng vàng, nên việc gửi con đến trường, mong có ngày con thi đậu làm quan trong nhiều trường hợp đã trở nên thiếu thực tế giữa lúc nhu cầu ăn mặc thúc bách hàng ngày. Vì thế có một kẻ sĩ đọc sách trong nhà nhiều khi không phải là một vinh dự mà là gánh nặng, họ là kẻ "dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm" hoặc bị mang ra giễu cợt: "nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Có thể nói "triết lý giáo dục" Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn tới “văn hoá đọc" của người Việt ngày nay. Vì nói như Ts. Đỗ Lai Thúy thì dù Nho giáo không còn nữa nhưng “ảnh hưởng của Nho giao ở phương diện tư duy, ở phương pháp tư tưởng thì còn lâu mới gột hết được, không chỉ bởi Nho giáo không cùng sinh với chế độ phong kiến nên không cùng chết với nó, mà kiểu tư duy Nho giáo đã đi vào vô thức, người Việt. 2. Không ai có thể phủ nhận tác động to lớn của nghề in đối với sự phát triển của nhân loại. Ở Trung Quốc vào thời cổ đại, sự xuất hiện của nghề làm giấy, nghề in được coi là bốn phát minh lớn. Ở Châu Âu vào thế kỷ XV, với phát minh ra máy in (1434) và một thứ mực cho phép in cả hai mặt giấy (1441), đặc biệt sự cải tiến của Gutenberg (1400 - 1468) từ con chữ in bằng gỗ sang con chữ in bằng kim loại đã tạo ra một cuộc cách mạng: xuất hiện ngành công nghiệp in. Và không phải ngẫu nhiên khi thế giới tôn vinh, coi Gutenberg là một trong mười nhân vật vĩ đại nhất của nhân loại từ xưa đến nay, còn phát minh của ông cũng là một trong những phát minh vĩ đại nhất trong sự phát triển của nhân loại. Tôi nói dông dài từ Á sang Âu để thấy vai trò và tác động của nghề in ấn tới sự phát triển của xã hội nói chung và sự đọc của con người nói riêng như thế nào. ở Việt Nam, sử chép: vào khoảng thế kỷ I đến thế kỷ III đã khắc in kinh Phật. Như vậy nghề in của ta đã có từ khá sớm. Trong thời kỳ phong kiến, các cơ sở ấn loát của Nhà nước phong kiến chủ yếu in sách giáo dục (Tứ thư, Ngũ kinh), kinh Phật. Các sách về y học, các khoa học khác không được in nhiều nếu không muốn nói là rất ít Sang thế kỷ XVII, với sự hưng khởi của đô thị Việt Nam, kinh tế hàng hoá manh nha hình thành thì nghề in cũng xuất hiện những cơ sở tư nhân, ban đầu là một số quan lại, trí thức bỏ tiền ra khắc ván in sách như Lê Quý Đôn, Nguyễn Văn Siêu, Bùi Huy Bích, Cao Xuân Dục… song tiêu biểu nhất là phường in Liễu Chàng (Hải Dương có tuổi thọ 211 tuổi (1683 – 1904). Phường in này đã cho khắc in nhiều bộ sách quan trọng và có giá trị: năm 1967 khắc in Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1972 khắc in Truyền kỳ mạn lục, năm 1714 khắc in Nam được thần hiệu của Tuệ Tĩnh… không nghi ngờ gì nữa, chính sự ra đời của nghề khắc mộc bản in sách (tương truyền ông tổ là Lương Như Hộc) và sự phát triển của các cơ sở in tư nhân đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá tri thức và thúc đẩy “văn hóa đọc” của dân tộc. Đến nay tất cả những sách Hán Nôm chúng ta có được đều được in vào giai đoạn này. Tuy nhiên,do việc in ấn phức tạp, hơn nữa triều đình lại phong toả nghiêm ngặt (ví dụ, năm 1718 Trịnh Cương cấm nhân dân chứa các ván in sách và sách in) nên nghề in của nước ta kém phát triển. Do vậy mà lượng sách Hán Nôm được lưu hành chưa đầy 30% mà chủ yếu ở tầng lớp quan lại, học trò, thầy đồ - một bộ phận rất nhỏ trong xã hội Việt truyền thống. Còn 70% số sách còn lại là chép tay của ai người nấy giữ. Số liệu trên không nói ai cũng rõ, tỷ lệ người biết chữ trong xã hội phong kiến rất ít và trong số ít của ít đó ai có điều kiện đọc được 30% số sách lưu hành kia? Cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp, Ngành in Châu Âu cũng được du nhập vào Việt Nam, khai tử nghề in, nghề làm giấy cổ truyền. Và để cai trị được bền vững, thực dân Pháp ra sức áp dụng chính sách ngu dân. Trường học chỉ dành cho một số nhỏ con cái Pháp kiều và những người trung thành với chế độ. Việt ngữ bị giới hạn, Pháp ngữ được dùng làm ngôn ngữ chính thống trong chương trình giảng dạy. Người đi học thời kỳ này thường nhằm vào mục đích làm việc cho Pháp để vinh thân phì gia. Đối với người Pháp, chúng ta không thể phủ nhận một phần công lao quan trọng của họ trong việc tạo dựng chữ quốc ngữ, nhưng phải hiểu sự tạo dựng này không phải nhắm vào việc nâng cao dân trí mà với mục đích truyền giáo, thâm độc hơn là nâng cao chữ quốc ngữ để chữ nho mai một dần, giảm bớt sự chống đối của người Việt với chính quyền thực dân. Bởi sách chữ nho dạy con người ta biết trung, hiếu, tiết, nghĩa, trong đó chữ trưng gợi lên lòng yêu nước. Vì lẽ đó năm 1900 thực dân Pháp sửa chương trình thi cử, bên cạnh chữ Pháp, tăng chữ quốc ngữ, bỏ bớt chữ nho khiến nhà thơ Trần Tế Xương phải than trong bài "Than đạo học": Đạo học ngày nay đã hỏng rồi Mười người đi học, chín người thôi Cô hàng bán sách lim dim ngủ Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi… Sản phẩm của chế độ thực dân, phong kiến là đến năm 1945 dân ta hơn 95% mù chữ, vậy văn hoá đọc lấy đất đâu để phát triển. Sau hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, với suốt đời của một hệ thống ngành xuất bản, nhưng văn hoá đọc của người Việt có thay đổi hay không? Tôi nghĩ câu trả lời không khó. Cứ nhìn vào tầng lớp sinh viên, học sinh hiện nay thì có câu trả lời khá chuẩn xác: Họ đọc không gì ngoài mấy cuốn giáo trình từ những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, rất ít người chịu khó đọc thêm sách tham khảo, mở rộng kiến thức. Họ vẫn chỉ học những gì họ thi và người dạy vẫn dạy những gì có trong giáo trình. Dông dài, lang thang trong lịch sử tôi chỉ muốn nhìn thấy cái nguyên nhân bắt rễ từ truyền thống hiếu học chứ không hiếu đọc của nhân dân chúng ta, để có một giải pháp mang tính chiều sâu gây dựng nhu cầu đọc, nâng cao dân trí của người Việt. Nạn chờ cấp trên Bạn đã bao giờ đến dự những cuộc họp, hội thảo, tổng kết, mít tinh... mà nhìn thấy Ban tổ chức đầy vẻ căng thẳng, lo âu? Không phải họ lo vì người đến dự ít mà lo vì chờ mãi mà cấp trên chưa thấy ló mặt. Hầu hết các “cuộc, cuộc” như vậy đều khiến những người tổ chức đau đầu: Nếu “Sếp” không đến thì coi như công toi. Thực tế thì việc chờ cấp trên đến dự hội thảo, tổng kết đang trở thành một vấn nạn không nhỏ hiện nay, bởi vì “sếp” thì có ít mà hội thảo, hội nghị, mít tinh, tổng kết lại quá nhiều, mà cuộc nào cũng phải mời cho kỳ được “sếp” tới dự. Chờ VIP (nhân vật quan trọng đặc biệt) Cách đây một thời gian (giữa tháng 11/2005) tại khách sạn Sofitel Plaza Hà Nội, Hãng xe máy Sufat, tổ chức giới thiệu một mẫu xe máy mới. Tất nhiên là họ tổ chức rất rầm rộ. Nhưng BTC thì cứ chạy như đèn cù, mồ hôi mồ kê chảy dài trên má, chỉ vì mỗi một việc: Không biết vị thứ trưởng Bộ X. có đến dự không. Mà đó là quan chức VIP được coi là không thể thiếu vì ông này phải lên phát biểu. Khá nhiều khách tỏ vẻ rất bực bội vì nạn phải ngồi chờ vị quan chức kia và họ đã bỏ về khá nhiều dù buổi lễ chưa khai mạc. Sau hơn nửa tiếng đồng hồ thì vị thứ trưởng kia cũng xuất hiện. BTC thở phào nhẹ nhõm. Phát biểu của ông thứ trưởng cũng chẳng có gì to tát, quanh đi quẩn lại cũng chỉ là những lời sáo rỗng, chung chung “chúc mừng, sẽ tạo điều kiện...” này nọ. Một công ty chuyên về may mặc khá nổi tiếng cũng rơi vào tình trạng tương tự: BTC cứ hết đứng lại ngồi, rồi lại chạy ra ngoài cổng, gọi điện thoại cứ loạn lên để nghe ngóng thông tin xem vị lãnh đạo kia có đến được không?. 8 giờ, rồi 8h30 phút, BTC toát mồ hôi hột vì lo lắng thì bỗng nhiên đoàn xe của lãnh đạo xuất hiện. BTC mừng còn hơn bắt được vàng. Vị lãnh đạo cũng chỉ phát biểu ít phút rồi lại phải bận và rời khỏi cuộc tổng kết ngay, nhưng với BTC thế là quá thành công bởi chỉ cần có mặt của lãnh đạo là đủ. Tại Khách sạn Mélia Hà Nội, trong một hội thảo về đào tạo nguồn nhân lực cũng vừa mới tổ chức gần đây, nhiều vị khách cũng trong tình trạng không biết nên nằm hay nên ngồi vì cả hội nghị đều dài cổ chờ một lãnh đạo trên Bộ xuống. Trễ đến hơn nửa giờ thì cả hội nghị chưng hửng vì vị này do bận nên không thể xuống được. Cuối cùng thì hội nghị diễn ra như cơm nguội, tẻ ngắt vì... không có cấp trên xuống dự. Hàng trăm vị khách mời trong một cuộc hội thảo của bậc tiểu học thuộc Bộ GD&ĐT, diễn ra tại khách sạn Bảo Sơn đã phải trải qua một cuộc chờ đợi dai dẳng. Theo lịch đã được ấn định, cuộc hội thảo sẽ bắt đầu vào 8h nhưng đến 8h15 vẫn chưa thấy ai chịu đứng vào cây micro ở bàn điều khiển hội thảo. Khi tiếng của người dự hội thảo đã làm râm ran cả hội trường, đại diện của ban tổ chức mới chịu đứng lên lí giải rằng, phải chờ đợi Thứ trưởng của Bộ đến phát biểu khai mạc. Không hề có một tiết mục ca nhạc, không hề có một hình thức tiêu khiển nào để “câu giờ”, BTC chỉ còn biết để khách dài cổ ngóng đợi. Phải đến 9h, vị lãnh đạo mới xuất hiện. Thực ra, vị lãnh đạo này đã phải chạy sô hội nghị, trước đó bà đã phải khai mạc một hội nghị khác cũng của ngành giáo dục, có nội dung về giáo viên, diễn ra tại khách sạn Kim Liên. Thực tế, lời xin lỗi nhẹ nhàng của vị lãnh đạo không đủ để làm cho không khí hội thảo trở nên hứng khởi sau quãng thời gian gián đoạn quá lâu. Nếu làm một phép tính, những người dự hội thảo đã bị tước đi hàng trăm tiếng đồng hồ, cho dù có không biết bao việc đang chờ họ ở cơ quan. Trên đây chỉ là một trong hàng trăm ví dụ về các cuộc họp, hội thảo mà phóng viên KH&DT chứng kiến. Kịch bản hội nghị, tổng kết: lãnh đạo là nhất Trong bất cứ giấy mời nào mà bạn nhận được đều có một “mô- típ” rất giống nhau: “Đón khách, tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu, giới thiệu lãnh đạo cấp trên, diễn ra hội nghị, tổng kết... rồi sau đó bao giờ cũng có phần: Lãnh đạo cấp trên phát biểu (hoặc chỉ đạo)”. Khi đến hội nghị, khách đến dự đều nhận thấy là dãy bàn đầu tiên bao giờ cũng được phủ khăn trắng, trang trọng, trên có cắm hoa, nước rót, đó là bàn dành cho khách VIP. Đôi khi chẳng có mấy khách cấp trên dự nên dãy bàn này có khi gần như trống trơn. BTC cuối cùng đành “kính thưa” mấy vị be bé để thế vào. Hầu hết khách dự đều ngồi ngủ gật, thỉnh thoảng vỗ tay chiếu lệ và liếc đồng hồ chờ cho hết giờ. Ngay cả phường, xã... cũng có kịch bản như vậy Nạn chờ cấp trên đến dự hội nghị, tổng kết đã trở thành một nỗi ám ảnh hiện nay với rất nhiều người. Ngay cả ở cấp phường, xã, huyện, thị... thì các cuộc họp, tổng kết cũng rơi vào cái nạn chờ cấp trên. Một phường của Quận Thanh Xuân, Hà Nội có một hội nghị về văn minh khối phố, nhưng cũng phải chờ đến gần nửa tiếng đồng hồ để đợi một vị phó phòng phụ trách văn xã của quận xuống dự và phát biểu. Tại cuộc gặp gỡ mới đây để phát động quỹ học bổng giáo dục do Cty TH (Hà Nội) tổ chức nhân ngày 20/11 tại một phường của quận Ba Đình, khoảng hơn hai chục khách mời cứ lang thang hết góc này sang góc khác của hội trường vì BTC đang cố gắng chờ khách VIP. Cuối cùng thì khách VIP không đến (do bận đột xuất), thế là BTC tiếp tục mời “quý khách” chờ thêm ít phút nữa (ít phút này cũng khoảng nửa tiếng). Cuối cùng thì lễ phát động diễn ra trong không khí buồn tẻ vì không có VIP nào ngồi dự. Khu phố, thôn, làng, tổ chức cái gì bao giờ cũng cố mời được lãnh đạo xã, phường, tới dự. Phường thì cố gắng làm sao để lãnh đạo quận tới dự. Còn quận thì chờ lãnh đạo tỉnh, thành phố. Các cuộc của Bộ, ngành cũng đều như vậy. Cứ như thế dắt dây nhau. Thực ra nhiều vị lãnh đạo cấp trên cũng không hề muốn tỏ ra quan trọng khi không đến hoặc đến trễ các cuộc hội họp, tổng kết, nhưng lãnh đạo thì ít mà hội họp, tổng kết thì quá nhiều làm sao mà đi cho xuể được. Vượt đèn đỏ Tôi đã lẩn mẩn phỏng vấn những người đi nước ngoài mà tôi biết với một câu hỏi duy nhất trong vòng một năm nay: "Ông (bà) đã bao giờ thấy người nước ngoài vượt đèn đỏ chưa ?". Cho đến bây giờ, tất cả những người được hỏi đều trả lời: “Chưa thấy bao giờ". Nhưng ngay sau đó có những người ghé tai tôi hỏi: "ông có hâm không mà hỏi thế?". Tất nhiên là tôi không hâm. Tôi hỏi thế để khẳng định một nhận định mà tôi không có cở sở nhưng bằng những gì hiểu biết tôi rất tin người nước ngoài không vượt đèn đỏ trừ những kẻ cướp nhà hàng hay một loại tội phạm nào đó trên đường chạy trốn sự truy đuổi của cơ quan pháp luật. Tôi hỏi thế để cố gắng lý giải vì sao người Việt Nam lại thường xuyên vượt đèn đỏ. Chúng ta thử đi một ngày qua các ngã ba, ngã tư của một trong những nơi “văn minh văn hóa nhất” của đất nước. Nơi có tỷ lệ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ cùng sinh viên và công chức cao nhất. Nơi ấy là Hà Nội. Nhưng chính ở nơi “văn minh, văn hóa nhất” ấy, số người vượt đèn đỏ lại nhiều hơn cả. Tôi thường xuyên nhìn thấy những thanh niên vụt qua đám đông đang dừng xe khi có đèn đỏ và phóng như bay qua ngã ba, ngã tư. Lúc đầu, tôi nghĩ chỉ có những thanh niên lêu lổng, ngang tàng, không chịu học hành gì mới vượt đèn đỏ như vậy. Nghĩa là chỉ những người ấy mới sống một cách không có ý thức trong cộng đồng của mình. Nhưng không phải thế mà cả những công chức áo cổ cồn, giày dađen bóng. Nhưng chưa hết mà có cả những người tóc đã hoa dâm. Nhưng chưa hết mà cả những cô gái ăn mặc rất mốt đến những bà đầy phong cách của một bà chủ. Tất cả đều vượt đèn đỏ. Cũng lại lúc đầu tôi nghĩ họ chỉ vượt đèn đỏ buổi sáng vì vội đến trường, đến công sở cho đúng giờ, kịp đưa con tới lớp, kịp tàu kịp xe đi công tác. Nhưng không! Bảy giờ sáng họ vượt đèn đỏ. Mười giờ sáng họ vẫn vượt đèn đỏ. Giữa trưa họ vẫn vượt. Ba giờ chiều vẫn thế. Bảy giờ tối vẫn không có chiều hướng giảm. Nửa đêm vẫn cứ vượt đèn đỏ. Nghĩa là lúc nào có thể vượt đèn đỏ là họ vượt và không chỉ người trẻ mà người già cũng vượt. Không chỉ đàn ông mà đàn bà cũng vượt. Vượt đèn đỏ đã trở thành một bệnh dịch của người Việt Nam mất rồi. Nếu chúng ta nhìn từ trên cao xuống toàn bộ thành phố, chúng ta sẽ thấy một sự náo loạn trên các tuyến giao thông. Chúng ta thường xuyên bị tắc đường. Tất nhiên đường chúng ta quá hẹp mà lưu tượng người và xe cộ đi lại quá đông. Nhưng một phần chẳng kém quan trọng tí nào là ý thức của người dân. Một người thấy đèn đỏ cứ thản nhiên vượt lên. Thế là gặp người ở chiều đường đang đèn xanh. Không ai chịu nhường ai. Thế là ùn tắc. Đã ùn tắc rồi nhưng ai cũng tìm cách chen lên phía trước. Tất cả không ai bảo ai cứ thấy kẽ hở là nhích lên. Được tí nào hay tí ấy. Được tí nào là thỏa mãn tí ấy. Cái thói ích kỷ này hiển hiện ở mọi nơi. Trong việc xây dựng tôi thấy rất rõ. Mặt tiền nhà mình 3m nhưng cứ muốn nhích sang đất nhà khác chưa xây dù chỉ 3cm đến 5cm. Nhà hàng xóm xây nền nhà cao 60cm thì mình phải xây 65cm. Phải cao hơn nó chứ! Tầng nhà hàng xóm 3,1m thì nhà mình phải 3,2m. Sao mình lại thấp hơn nó? Trên đường đi sao mình lại chậm làm nó? Thế là vượt nhau không có một trật tự nào cả. Mặt mày đỏ phừng phừng. Chen vai hích cánh. Cãi cọ chửi bới nhau. Rất nhiều khi chỉ vì một cái xe đạp ngang tàng, vô lối mà tắc đường đến cả tiếng đồng hồ. Rất lạ là, khi họ thủng thẳng đạp xe đạp vượt đèn đỏ thì chẳng thấy gương mặt nào tỏ một chút ngượng ngùng hay lấm lét nhìn xem có công an không? Họ cứ đi như đang đi trong sân nhà họ vậy. Họ cứ nghĩ ông đi xe đạp thì ông cần cái quái gì. Ông cứ đi như thế đấy làm gì được ông. Lúc này tôi hiểu thêm một lý do vì sao mà cái anh Chí Phèo của ông Nam Cao lại sống lâu như thế trong đời sống xã hội Việt Nam. Nhiều đoạn đường hình như không có lý do gì để ùn tắc mà vẫn bị ùn tắc làm tôi cứ phải hỏi mãi: Vì sao lại có thể ùn tắc được nhỉ? Xin thưa ngài: chỉ vì người này muốn nhanh hơn người kia có vài ba giây đồng hồ mà thôi. Có khi chỉ vì hai cái xe khẽ chạm nhau một tí thôi thế là dựng ngay xe giữa đường, rồi cúi rạp xuống nhìn xem cái xe có bị xước một tí gì không, rồi sừng sừng sộ sộ, hận thù dâng cao. Thế là người này dừng lại ngó một tí, người kia ngó một tí. Vui quá nhỉ. Đánh nhau thử xem nào. Cứ thế và cứ thế, chỉ trong vài phút ngã ba hay ngã tư ấy đã đông nghẹt người và không tài nào có thể giải tỏa được. Những lúc như thế, công an có “ba đầu sáu tay” cũng chịu. Cho đến bây giờ tôi vẫn thường tự hỏi: Tại sao người ta luôn luôn muốn nhanh hơn người khác chỉ một vài giây hay một gang tay đường. Mặc dù có nhanh hơn cả tiếng đồng hố thì rất nhiều người có dùng một tiếng đồng hồ nhanh hơn ấy để làm việc đâu. Tranh giành để nhanh hơn nhau vài ba giây để rồi ngồi quán hai ba tiếng tán gẫu những chuyện không đâu. Thực ra, nếu người này nhường người kia một gang tay đường hay một vài giây đồng hồ thì đám đông đặc quánh mùi khói xe và mỏ hôi người sẽ nhanh chóng được giải tỏa. Bạn tôi nói rằng ông đã nhìn thấy ở một ngã tư phố nhỏ ở Singapore khi đèn đỏ chỉ đúng có một người đi bộ. Nhưng người đó đã dừng lại một cách tự giác. Việc dừng lại đó là ý thức sống đầy trách nhiệm và tôn trọng cộng đồng. Người Singapore có tranh giành để nhanh hơn nhau vài ba giây đồng hồ như người Việt Nam đâu. Thế mà sự phát triển của họ lại nhanh hơn chúng ta cả một thế kỷ. Chắc nhiều người còn nhớ cách đây dăm sáu năm gì đấy, có một cán bộ của chúng ta đi công tác nước ngoài, mà hình như là Singapore, đã vượt qua đường cao tốc và bị xe cán chết. Theo luật pháp của nước đó, thì người cán bộ Việt Nam kia phải đền bù thiệt hại cho nước họ vì tai nạn giao thông đó người cán bộ Việt Nam kia gây nên. Ở nước ngoài luôn luôn có những lối đi riêng an toàn cho người đi bộ khi qua đường đặc biệt là qua đường cao tốc. Ông cán bộ của chúng ta đã mang cái lối ăn sổi ở thì bước vào một xã hội luật pháp nghiêm minh và khoa học. Đương nhiên lối sống như thế trong thời đại văn minh sẽ bị bật ra và đôi khi còn bị nghiền nát. Tôi có đọc một bài báo viết về sự đi bộ của người Việt Nam trên đường phố. Họ đi tự do và không coi luật lệ là gì cả. Họ thủng thẳng bưng một bát phở từ bên này đường sang bên kia đường bất chấp mọi luật lệ giao thông. Có người còn quần đùi áo lót vừa đi qua đường vừa xỉa răng vô tư giống hình ảnh lão Nghị Quế ngày xưa xúc miệng ằng ặc rồi nhổ toẹt ra nền nhà. Chẳng lẽ từng ấy năm ý thức về một lối sống văn minh của người Việt mình không nhích thêm được một chút nào ư? Một câu hỏi được đặt ra mà tôi tin tất cả đều phải đồng ý với tôi là vì sao chúng ta lại sống luộm thuộm và vô kỷ luật đến như thế. Hãy nhìn các quán ăn lê lết vỉa hè. Hãy nhìn các quán bia hơi ngập tràn xương xẩu, cuống rau, giấy ăn, mẩu thuốc phủ quanh những đôi giày da đắt tiền. Hãy nhìn chợ búa bẩn thỉu với thịt cá và ruồi xanh bày ra mọi nơi bên lề đường có thể. Hãy nhìn những người vô tư đến kinh hãi dựng xe bên hồ Thiền Quang hay một công viên hay một hè phố nào đó và bước đến một gốc cây để ung dung “tè”. Hãy nhìn các cô các cậu thanh thiếu niên da thịt béo tốt, quần áo sang trọng ăn kem và thoải mái vứt bọc giấy và que kem ra hè phố. Có người ngồi trong những chiếc xe đẹp mở cửa vứt ra ngoài vỏ bánh kẹo hoặc vỏ trái cây. Có người còn ném cả cái túi nilon đựng những thứ mà họ vừa nôn trong xe ra ngoài. Có người ngồi trên xe máy thoải mái khạc vung ra khi xe đang chạy làm nước bọt bay tứ tung vào mặt người đi sau. Tôi nói vậy sẽ có người bực bội kêu lên “khổ lắm biết rối nói mãi”. Vâng đúng thế. Chúng ta nói mãi rồi nhưng chẳng thay đổi là bao. Vậy thì chúng ta phải nói nữa, nói mãi, nói đến khi không còn khả năng nói nữa thì mới thôi. Chúng ta phải bắt đầu lại từ việc đi như thế nào cho đúng. Một đội quân mạnh và thiện chiến lúc nào cũng bắt đầu bằng bài tập đi cho đúng đội ngũ. Nếu chúng ta cứ sống một cách “tự do chủ nghĩa” như đang sống thì làm sao chúng ta xây dựng được một xã hội văn minh. Một xã hội văn minh đâu cứ thật nhiều xe máy và xe hơi đắt tiền. Xã hội văn minh đã xuất hiện trên thế giới từ khi chưa có Boeing và Computer cơ mà. Đời sống vật chất của chúng ta được cải thiện rất nhiều. Nhưng chúng ta đang sống với lối sống của những anh trọc phú. Chẳng lẽ những con mối và những con ong có kỷ luật còn chúng ta mang danh con người lại không? Có thể có những người khi đọc xong bài này thì bĩu môi: "Nói gì không nói lại đi nói toàn chuyện vặt vãnh”. Xin thưa các quí bà và các quí ông của tôi, những chuyện vặt vãnh đó đang làm cho các thành phố của chúng ta lộn xộn trong giao thông (và gây ra chết người không ít), bẩn thỉu trong môi trường và vô nguyên tắc trong lối sống. Nhưng tệ hại vô cùng là nó sinh ra một xã hội ít tính luật pháp. Nó cản trở chúng ta xây dụng một cuộc sống hiện đại và văn minh. Nếu bây giờ. chúng ta thử đặt cuộc sống hiện đại văn minh thuần tuý với nghĩa đích thực của nó như của Singapore hay Nhật Bản vào xã hội ta thì có nguy cơ chúng ta sẽ chối từ chính cái mục đích mà chúng ta đang phấn đấu. Vì như thế, chúng ta đâu được thoải mải vượt qua ngã ba, ngã tư đang có đèn đỏ. Chúng ta không được thoải mái vừa xỉa răng vừa khệnh khạng qua đường không thèm để ý đến ai. Chúng ta đâu còn vừa được ăn vừa được ném rác ra đường... Tất cả những hành động trên chính là thói ích kỷ và lối sống thiếu ý thức của chúng ta. Chúng ta nên xem lại lòng yêu nước của mình. Đọc xong bài báo này ở công sở hay trong quán cà phê, các quí bà quí ông sẽ lên xe về nhà. Tôi tin 100% là các quí bà, quí ông sẽ thấy những gì "vặt vãnh” tôi vừa nói ở trên đang diễn ra ở quanh mình. Chắc chắn lúc đó các quí ông, quí bà sẽ kêu lên đầy bực bội: Này, sao họ lại đi đứng như thế nhỉ! Buôn dưa lê ở công sở Thói quen thích ngao du, tụ tập, tán gẫu... trong dân gian, ở đâu cũng có sở thích đó ngày xưa thường hay xuất hiện ở các làng quê, lúc nông nhàn, hay dân buôn bán. Bây giờ, nhất là nơi công sở, trong giờ "Nhà nước” lại có rất nhiều viên chức suốt ngày mê mải với chuyện “buôn dưa lê" mà sao nhãng việc cần làm. Các nhà làm từ điển tiếng Việt đã không ngần ngại bổ sung từ buôn dưa lê vào kho từ mới đang khảo sát của mình. Giống như cơm bụi, quán cóc, chặt hèo, gà tóc nâu... thì buôn dưa lê cũng là một tổ hợp từ mang tính khẩu ngữ, nói về một hiện tượng thường thấy hiện nay. Từ một lẽ thường tình Đó là chuyện ai đó có sở thích gặp gỡ, tụ tập để nghe ngóng, rồi trò chuyện, bàn tán cho thỏa tính tò mò. Chuyện người này qua tai người khác một biến thành hai, bé xé ra to. Lời nói ném đi thì nhẹ, ném lại thì nặng. Chuyện thiên hạ "bên Tây Trúc” đến chuyện “uých nhau” vừa xảy ra ngay ngõ nhà mình. Nhưng thật lạ và thú vị là sao dân "sành điệu” lại gọi hiện tượng đó là "buôn dưa lê" từ bao giờ ấy nhỉ? Đây có lẽ là cách ghép từ mộc mạc theo lối từ nguyên học dân gian. Buôn, tức buôn chuyện (đem chuyện người này nói với người khác cốt chỉ mua vui) còn lê vốn là một thành tố trong tổ hợp ngồi lê đôi mách (lê la, tiêu phí thời gian để tán gẫu những chuyện riêng tư của ai đó để đàm tiếu, tiêu khiển). Chữ dưa đặt ở giữa nghe chừng vô lý, nhưng lại có lý ở chó nó vừa kết hợp được với buôn (buôn dưa) vừa kết hợp được với lê (dưa lê). Hay hơn nữa là cả ba thành tố này làm nên một "đội hình" từ quá đẹp: buôn dưa lê. Nó cũng có vai trò hòa kết ngữ nghĩa của cả hai từ (buôn chuyện + ngồi lê đôi mách) đề hình thành nên một tổ hợp từ ngắn gọn, nghe vừa lạ tai, vừa dí dỏm, vừa hàm ý mô tả một thói quen đang khá phổ biến hiện nay. Như một điều hiển nhiên, chị em nhà ta luôn được coi là những người đóng vai chính trong các phi vụ đặc biệt này. Người ta thường nói, một người phụ nữ vơi một con vịt đã có thể làm thành cái chợ "rôm rả". Vậy, hai người phụ nữ ngồi với nhau có khi đủ làm nên một “hãng thông tấn" tầm cỡ, sẵn sàng nhận và đưa tin bất cứ lúc nào, 24/24 giờ trong ngày. Mà tin không chỉ theo một "kênh" đâu nhé! Người dưới đất, chuyện trên trời. Kể ra một ngày có 24 giờ, chứ l0 x 24 giờ với họ vẫn chưa đủ. … đến "buôn dưa lê" thời hiện đại Lạ một nỗi, hội chứng buôn dưa lê giờ đây tràn vào các cơ quan, công sở với phạm vi và mức độ đa dạng "tân kỳ" hơn nhiều. Mấy anh, mấy ả nhà nọ rỗi việc kéo nhau ra quán buôn bia chai, buôn cà phê và buôn chuyện đã đành. Đây đường đường là các nam thanh, nữ tú sơ mi đồng phục, nom rất nghiêm chỉnh cùng sẵn sàng lấy qũy thời gian của công để "tán phễu”. 8 giờ vào bãi gửi xe, 9 giờ vẫn thấy ngồi lê uống trà. Nhiều người chấp hành việc đến cơ quan rất đúng giờ. Họ bật đèn, bật máy lạnh, bật máy vi tính và... đi điểm tâm. Nửa tiếng sau, với chiếc tăm trên miệng, họ khề khà đun nước, pha trà. Nhân viên cấp dưới lục tục đến. Thế là, cả hội "buôn dưa" vào cuộc. Từ khủng bố ở Irắc đến xe lửa lật sáng nay. Chuyện giá đất lên, giá vàng xuống. Chuyện cái Đào phòng bên lại sinh "Thị Mẹt", đến lão Trung "mốc" phố kia đánh vợ thế nào mà bể cả tivi. Ca sĩ H chụp ảnh nude, diễn viên điện ảnh ăn khách Y đóng phim sex... Tiện máy bên cạnh, cả hội vào mạng xem, gửi cho nhau, "lốt" (download) về đĩa CD làm của riêng... Bây giờ, chẳng riêng tiểu thư, mà nam nhi trai tráng cũng trổ tài "buôn bán" chẳng kém. Thậm chí, còn cao thủ hơn vì các chàng có nhiều "võ" bẻ khóa siêu hạng. Có trang web nào các chàng không tìm được “mật lệnh" để vào tận "thâm cung bí sử". Buôn tại chỗ chưa đủ, các anh chị "nối mạng" khắp nơi để buôn đường dài. Họ dùng Internet, điện thoại di động đời mới... bấm cho bạn bè. Lấy từ bên Tây về cung cấp cho bên ta, lại từ bên ta phát tán sang bên Tây. Người này gọi cho người kia, rôm rả lắm. Khổ nỗi, cả phòng có một máy điện thoại cố định mà nàng cứ ngồi nỉ non mãi không chịu rời. Mà việc có ngồi chờ ai đâu. Có những chuyện cần giải quyết ngay. Đành rút mô-bai ra xài vậy. Vừa xót của mà lại không nói hết được, tốn lắm. Quanh đi quắn lại 8 giờ vàng ngọc đá trôi qua từ lúc nào. Ở nhiều cơ quan hiện nay, rất nhiều công chức toàn làm công việc cá nhân trong giờ hành chính. Họ dùng thời gian có mặt đề đọc báo, gọi điện thoại, vào mạng và buôn dưa "hội đồng". Việc không chạy, lương vẫn chi. Lãng phí này ai chịu? Nhưng, vấn đề không chỉ là lãng phí thời gian và tiền bạc. Điều đáng nói là thái độ thiếu nghiêm túc trong việc thực thi công việc mà một cán bộ, công chức phái tuân thủ. Nó cùng hình thành một thói quen xấu về chuyện ngồi lê, tán gẫu mất thời gian vô bổ chỉ vì những chuyện không đâu. Có khi chỉ là trò đưa chuyện rẻ tiền, ganh ghét nhau (Sao cái con Bích dạo này lắm tiền sắm xe thế? Mụ Hường già "khú” còn làm đỏm), hoặc khích bác "đâm bị thóc, chọc bị gạo" (Cái Lan chỉ được giỏi "hót" mà sếp cho lên lương. Mình cứ è cổ ra làm để nó hưởng ư?). Đã có không ít những mâu thuẫn, xô xát, xung đột đến tan đàn xẻ nghé ở các gia đình từ các phi vụ tầm phào như thế. Dẹp chuyện cá nhân, làm tròn bổn phận công chức, đó vừa là nghĩa vụ, vừa là đạo đức nghề nghiệp cần có với mỗi cán bộ khi đến công sở, làm công ăn lương. Tiêu chuẩn của mọi công chức ngày xưa đã thế, thời buổi văn minh hiện dại bây giờ lại càng phải hơn thế. Đến công sở không phải ở nhà mình mà muốn làm gì cũng được. Ca tụng sự khôn khéo thay vì trí tuệ Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nên văn hoá của ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật. Ở một số dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là một trường phái triết học, một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội hoạ… phát triển rất cao ảnh hưởng phổ biến và lâu dài đến toàn bộ văn hoá thành đặc sắc văn hoá của dân tộc đó. Ở ta thần thoại không phong phú - hay là có nhưng một thời gian nào đó đã mất hứng thú lưu truyền? Tôn giáo hay triết học cũng đều không phát triển. Người Việt Nam không có tâm lý kiền thành, cuồng tín tôn giáo, mà cũng không say mê tranh biện triết học. Các tôn giáo đều có mặt, nhưng thường là biến thành một lối thờ cúng, ít ai quan tâm đến giáo lý. Không có một ngành khoa học, kỹ thuật, giả khoa học nào phát triển đến thành có truyền thống. Âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc đều không phát triển tuyện kĩ. Trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể, cũng có dịp làm dăm ba câu thơ. Nhưng số nhà thơ để lại nhiều tác phẩm thì lại không có. Xã hội có trọng văn chương, nhưng cũng chưa bao giờ tôn ai là thi bá, và bản thân các nhà thơ cũng không ai nghĩ cuộc đời, sự nghiệp của mình là ở thi ca. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, một ngành văn hoá nào đó trở thành đài danh dự, thu hút, quy tụ cả nền văn hoá. Người Việt Nam có thể coi là ít tinh thần tôn giáo. Họ coi trọng hiện thế trần tục hơn thế giới bên kia. Không phải người Việt Nam không mê tín, họ tin có linh hồn, có ma quỷ, Thần Phật. Nhiều người thực hành cầu cúng. Nhưng về tương lai, họ lo cho con cháu hơn là cho linh hồn của mình. Tuy là coi trọng hiện thế nhưng cũng không bám lấy hiện thế, không quá sợ hãi cái chết (sống gửi thác về). Trong cuộc sống, ý thức về cá nhân và sở hữu không phát triển cao. Của cải vẫn được quan niệm là của chung, giàu sang chỉ là tạm thời, tham lam giành giật cho nhiều cũng không giữ mãi mà hưởng được. Người ta mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn no đủ, sống thanh nhàn, thong thả, có đông con nhiều cháu, ước mong về hạnh phúc nói chung là thiết thực, yêu phận thủ thương không mong gì cao xa, khác thường hơn người. Con người được ưa chuộng là con người hiền lành, tình nghĩa. Không chuộng trí mà cũng không chuộng dũng. Dân tộc chống ngoại xâm liên tục nhưng không thượng võ. Đâu đâu cũng có đền thờ những người có công đức - chủ yếu là có công chống ngoại xâm - nhưng không một anh hùng xuất chúng, một võ sỹ cao cường nào được lưu danh. Trong tâm trí nhân dân thường có Thần và Bụt mà không có Tiên Thần uy linh bảo quốc hộ dân và Bụt hay cứu giúp mọi người; còn Tiên nhiều phép lạ. ngao du ngoài thế giới thì xa lạ. Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết thủ thể, giữ mình, gỡ tình thế khó khăn. Đối với cái dị kỉ, cái mới, không dễ hoà hợp nhưng cũng không cự tuyệt đến cùng, chấp nhận cái gì vừa phải, hợp với mình nhưng cũng chần chừ, dè dặt, giữ mình. Hãy tự xét mình Mấy năm gần đây người ta hay nhắc đến cuốn sách "Người Trung Quốc xấu xí" của Bá Dương (bản dịch Nguyễn Hồi Thủ), nói việc người láng giềng phương Bắc tự soi gương để nhận diện "cái xấu xí" của mình, "tự sỉ" mong sửa chữa để vươn lên. Bá Dương cũng nêu tấm gương của những người ở Mỹ và Nhật đi trước ông, viết sách tự phê phán "cái xấu xí" của mình. Ở nước ta, trước ông Bá Dương 60 năm, trước cả cụ Lỗ Tấn, đã có ông Nguyễn Văn Vĩnh từng làm việc đó, trong chuyên mục "Xét tật mình" (Đông Dương Tạp chí), theo tinh thần của Emile Zola: "Nói hết, để biết hết, để chữa hết". Chúng tôi lại nhớ đến tác phẩm nổi tiếng "Trai nước Nam làm gì" của nhà văn hoá nổi tiếng Hoàng Đạo Thuý (NXB Thời Đại-1943, NXB Lao Động tái bản 1995). (Còn trước cả ông, Đào Duy Anh đã dành một số dòng trong "Việt Nam Văn hoá Sử cương" (1938) để nhận xét về cái tật của người Việt). Trong tác phẩm này, sau khi nhắc đến những tấm gương của tổ tiên như Triệu Vua Bà, Lê Phán Quan, Lê Thái Tổ, Vua tôi nhà Trần, Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Võ Tánh, Lê Trực, Roãn Chi, Phạm Tử Nghi, Lê Như Học, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Nguyễn Công Trứ..., Hoàng Đạo Thuý viết: "Xem qua từ nay về trước ta có thể tự hào là người Nam, những tình huống lúc này ta nên tự ngẫm nghĩ mà tự sỉ "Biết xấu hổ đã là gần bậc mạnh". "Mình ta Ta hãy xét mình ta. Biết mình, biết người mới làm được việc. Mình có cái hay gì? Trí tuệ thì sáng nhanh. Học tài lắm, sáng dạ ham học, trọng học thức. Khéo tay chân. Bắt chước khéo. Nhớ lâu. Lễ phép. Trọng đạo đức. Giữ được liêm sỉ ở khu vực mình. Khí dân mạnh. Yêu gia đình. Quấn quýt làng mạc. Dám làm. Hay nhớ ơn. Biết thương người. Ưa hoà bình. Trên chiến trường có can đảm, kỷ luật. Cả giống nòi một tiếng nói (một ý chí - HT). Đàn bà đảm đang, tiết nghĩa, cần kiệm. Bền chí. "Nhưng, Cũng nhiều thói xấu lắm: Trốn tránh trách nhiệm. Hay quên nước (quên việc chung - HT). Ra ngoài khu vực mình thì hay quên liêm sỉ. Khoe khoang. Dối trá quỷ quyệt. Cờ bạc. Không đúng giờ, đúng phân tấc. Không rõ ràng. Đến đâu hay đó, xong thì thôi. Làm việc thì ham mê, ít vì chí muốn. Bướng mà không quả quyết. Không lương tâm. Hay ghen ghét, không đồng lòng. Rượu. Thuốc phiện. Không giữ mình. Bài bác chế nhạo. Xa hoa. Thanh sắc. Tham. "Phần hỏng cơ hồ lấn phần được. Xem kỹ hai tấm sổ trên này, thì đức - công có nhiều, đức - tư có ít, khi thường thì tình thường thắng, khi biến thì những tính mạnh mẽ di truyền vẫn phát ra được. Cái cốt vẫn có, nếu chịu chữa chạy bỏ những cái ham muốn một lúc thì có thể mong mỏi (trông mong - HT) được". Đó là những nhận xét vào thời điểm 1941-1943, nhưng nhiều điểm đến bây giờ vẫn còn ý nghĩa. Ô, ta tự đóng cửa ngắm mình ! "Việt Nam không biết tự quảng bá, không biết tự dán nhãn hiệu cho mình" - Đại sứ Canada tại Việt Nam Richard Lecoq nói. Từ trước đến nay, chúng ta luôn tự khen Việt Nam rừng vàng biển bạc, tự khen... chính chúng ta thân thiện. Nhưng tại sao khách du lịch vẫn ùn ùn đổ về Thái Lan, Malaysia, Indonesia... mà không hào hứng ghé thăm quốc gia Việt Nam nằm cận kề ngay đó - nơi vẫn được người Việt tự hào là "hòn ngọc Viễn Đông"? Một Việt Nam còn xa lạ 1. Có lần, một chị phóng viên người Singapore gặp ở nước ngoài, bất ngờ hỏi: "Ô, thế Việt Nam có tiếng nói và chữ viết riêng à? Tôi tưởng các bạn nói tiếng Anh hoặc tiếng Pháp?", và chị đề nghị tôi nói thử vài câu tiếng Việt để chị hình dung như thế nào. Tôi đứng lặng. Không ngờ, một nhà báo, lại chỉ cách Việt Nam có vài giờ bay, lại trong thời đại thông tin này, mà hỏi một câu như vậy. 2. Một nghiên cứu sinh đang làm tiến sĩ kinh tế ở Italia kể: "Hơn 2 năm nay, từ khi tôi sang Italia, hầu như gặp ai họ cũng chỉ biết Việt Nam là đất nước của chiến tranh. Nhắc đến Việt Nam, bao giờ họ cũng hỏi: Anh ở Bắc hay Nam? Dường như trong tâm trí họ, Việt Nam vẫn là một đất nước bị chia cắt. Những người này phần lớn đều đã lớn tuổi và những gì họ biết được về Việt Nam là kiến thức lịch sử học từ hồi phổ thông". Đó chỉ là một vài trong vô vàn những thí dụ có thể dẫn ra để biết người nước ngoài nghĩ gì về Việt Nam. Càng đặt câu hỏi này, càng nhận được nhiều câu trả lời tương tự: "Gần như là số không" - như lời một tiến sĩ hoá học tương lai đang làm việc ở Áo. Thậm chí ngay cả tại Đức, Ba Lan, những nơi có cộng đồng người Việt khá lớn cũng vậy. Người Việt Nam ra đường, họ nghĩ đó là người Trung Quốc. Tất nhiên có rất nhiều người yêu mến Việt Nam. Báo chí vẫn đăng những phát biểu của họ ca ngợi Việt Nam. Đừng vì vậy mà nghĩ rằng tất cả người nước ngoài đều biết về một Việt Nam đang cố gắng tạo môi trường ổn định cho đầu tư kinh doanh và người Việt Nam thật thân thiện dễ mến. Chúng ta ngắm hình ảnh mới của mình trong gương và tưởng rằng người khác cũng nhìn chúng ta như thế. Nhưng nếu chúng ta không lên tiếng, không tự tiếp thị mình, thì hoá ra chỉ là chúng ta đóng cửa tự ngắm mình. Khỏi phải nói điều đó sẽ thiệt thòi cho Việt Nam thế nào. Xét riêng trong du lịch, 2,3 triệu du khách đến Việt Nam năm nay, nhưng Thái Lan ở ngay cạnh, đón 9,7 triệu du khách. Nước mắm, gạo, bánh đa nem... rất nhiều sản phẩm thế mạnh của Việt Nam bị tưởng lầm là của Trung Quốc, Thái Lan. Chưa nói đến những nhìn nhận sai lệch, định kiến của người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về những vấn đề như dân chủ, nhân quyền, tôn giáo... Lỗi phần nào ở chính chúng ta Xem CNN - kênh truyền hình tin tức lớn nhất của Mỹ và phổ biến nhất trên thế giới, có thể thấy các nước láng giềng của Việt Nam sôi động trong việc tự quảng bá đến thế nào. Trong vòng 2 tiếng buổi tối giờ Việt Nam, ít nhất 3 lần các đoạn phim ngắn giới thiệu về Malaysia được phát trong thời gian quảng cáo giữa các chương trình tin tức. Đoạn nhạc phim đầy chất Á đông và khẩu hiệu "Malaysia - Truly Asia" (Malaysia - Châu Á đích thực) đã trở thành một điệp khúc trong đầu khán giả. Tương tự là Thái Lan với khẩu hiệu "A beautiful reason to smile" (Một lý do đẹp để mỉm cười), là Indonesia với "The colour of life" (Sắc màu cuộc sống). Kết thúc đoạn phim của Indonesia ghi rõ: "Bộ Văn hoá" - vâng, chính Bộ Văn hoá Indonesia là cơ quan đứng ra quảng cáo đất nước của mình. Xem những đoạn phim đó, người ta có thể quên mất hình ảnh của xung đột chính trị, tôn giáo, của sự nghèo đói còn tương đối phổ biến, mà chỉ muốn khám phá. Chưa nói đến những nền văn hoá lớn, những khu du lịch nổi tiếng của Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Độ, Maldives, Hồng Kông, Hawaii... cũng tự quảng cáo trên CNN. Tại sao họ có tiếng, họ có lượng khách du lịch khổng lồ, họ là những nền kinh tế năng động, mà họ vẫn tự "dán nhãn" cho mình như vậy? Câu trả lời chỉ có thể là: Họ không muốn dừng lại! Phó Thủ tướng Vũ Khoan, sau chuyến đi Mỹ đầu tháng 12 vừa qua, đã nói: Người Mỹ đi du lịch rất nhiều nhưng đến nước ta ít. Khách du lịch vào Việt Nam phần lớn là từ Pháp, Nhật, Trung Quốc. Về chủ quan, có lẽ công tác quảng bá của ta chưa có gì, mới quảng bá được phần nào ở các nước xung quanh. Tiềm năng còn rất lớn mà ta chưa khai thác hết". Phó Thủ tướng nhấn mạnh một ý buộc chúng ta phải suy nghĩ: "Tại sao người Pháp đi thăm Việt Nam nhiều như vậy? Trong tâm lý của người Pháp, hoài niệm Việt Nam còn trong tâm trí họ. Những bộ phim như "Đông Dương" tạo cho người ta mối quan tâm. Còn những phim về Việt Nam chiếu ở Mỹ, rất nhiều phim đưa ra những hình ảnh Việt Nam rất tệ hại". Người Mỹ hẳn cũng có một ký ức về Việt Nam. Chắc chắn không chỉ là thế hệ người Mỹ lớn lên trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam muốn trở lại đất nước này, mà cả thế hệ trẻ cũng muốn tìm hiểu Việt Nam - một đất nước có quan hệ rất đặc biệt với Mỹ. Tiếp thị hai tiếng "Việt Nam" Có một công ty lớn đã làm được việc quảng bá hình ảnh Việt Nam và tự quảng bá hình ảnh của mình ở nước ngoài - đó là Vietnam Airlines với cách làm mà ông Đại sứ Canada tại Việt Nam Richard Lecoq đặc biệt khen ngợi. Những đoạn phim của Vietnam Airlines phát trên CNN có thể nói là một câu chuyện cổ tích bằng hình về Việt Nam được quay rất đẹp. "Đưa văn hoá Việt Nam đến với thế giới" - đó là một triết lý kinh doanh rất ý nghĩa và khôn ngoan của Vietnam Airlines. "Hiệu quả của việc quảng bá này rất tốt. Người nước ngoài họ mường tượng Việt Nam là nước nghèo nàn lạc hậu, nhưng khi xem phim, họ thấy một Việt Nam ở tầm cỡ khác hẳn. Chúng tôi nhận được rất nhiều lời khen, nhất là trong những chuyến đi làm việc ở nước ngoài" - một quan chức của Vietnam Airlines, cho biết. Vietnam Airlines đã làm gần 10 phim quảng cáo từ khoảng những năm 1994, 1995 đến nay và đã phát hết trên những kênh truyền hình lớn của thế giới và của nhiều nước như Mỹ, Pháp, Nhật: Discovery, CNN, LCI, ODYSEE, CNBC Nickee... "Mọi người tưởng rằng chúng tôi phải đổ tiền vào việc này. Thực ra chi phí không ít nhưng không phải là quá lớn"- nguồn tin từ Vietnam Airlines nói. Mỗi bộ phim làm hết chừng 20 nghìn USD và hoàn toàn có thể do các công ty quảng cáo của Việt Nam thực hiện dựa trên một triết lý kinh doanh mạch lạc như Vietnam Airlines đã làm. Chi phí đăng quảng cáo cũng không hề đắt: 30 giây quảng cáo trong chương trình "Chiếc nón kỳ diệu" ở VTV3 hết khoảng 26 đến 30 triệu đồng, trong khi 30 giây trên CNN hết 300 - 500 USD (tất nhiên đây là giá dành cho khách hàng trung thành), mà vào những giờ phát rất thuận lợi. Một số nước, ngay ở cấp chính phủ, đã làm rất tốt việc quảng bá hình ảnh, mà Indonesia đã nhắc đến là một ví dụ. Hay Thái Lan với chiến dịch "Amazing Thailand" rất quy mô, khởi đầu từ thời kỳ khủng hoảng tài chính Châu Á cuối thập kỷ 1990 và tiếp nối liên tục một cách sáng tạo cho đến bây giờ. Có thể thấy những cam kết ở cấp cao là rất cần thiết. Đại sứ R. Lecoq gợi ý: "Việt Nam cần có một website của Chính phủ, bằng tiếng Anh, để giới thiệu Việt Nam ra nước ngoài". Các nước khác đều có những website chính thức để giới thiệu đất nước họ. Thử làm một trắc nghiệm nhỏ: Vào website tìm kiếm Google và gõ keyword Vietnam. Kết quả là hàng nghìn trang web, phổ biến nhất là website của các tổ chức cựu chiến binh Mỹ từ chiến tranh Việt Nam, website du lịch Việt Nam do các hãng nước ngoài thực hiện. Trong khi đó, website của chính Việt Nam làm mới là con số rất ít. Báo chí Việt Nam gần đây nhắc tới "cơn sốt Việt Nam" ở Nhật khi lượng khách du lịch Nhật đổ vào Việt Nam ngày càng đông. Nhưng như lời Đại sứ Nhật Nori Hattori nhận xét: "Báo chí Nhật mới là người tạo ra cơn sốt này chứ không phải Việt Nam. Đại sứ quán Việt Nam ở Nhật chưa cố gắng hết mức để truyền bá rộng rãi hơn nữa hình ảnh của Việt Nam thân thiện". Việt Nam thời chiến tranh - đó là ảnh đen trắng. Việt Nam đổi mới - đó là ảnh màu. Đại sứ Lecoq nói một cách hình ảnh. Vốn là một chuyên gia về truyền thông, ông Lecoq cho rằng việc vận dụng những công nghệ mới để quảng bá hình ảnh Việt Nam là rất cần thiết: Thay vì ảnh đen trắng, hãy dùng ảnh màu. Thay vì chụp ảnh, hãy dùng phim động - ông nói, với cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Không ai có thể phủ nhận là vị thế của Việt Nam đã được nâng lên đáng kể trong năm qua. Hãy làm thế nào để hình ảnh Việt Nam trong mắt các chính trị gia, các doanh nhân hàng đầu thế giới trở thành Việt Nam của tất cả mọi người. Phó Thủ tướng Vũ Khoan kể một câu chuyện nhỏ: "Tại Houston, tôi có gặp cựu Tổng thống Bush (Bush cha). Câu đầu tiên ông ấy nói với tôi là "Tôi rất ấn tượng với Việt Nam. Năm 1995, tôi đến thăm Việt Nam và không nghĩ người dân Việt Nam lại thân thiện đến thế". Năm qua, không ai là không ca tụng Việt Nam phát triển nhanh, xoá đói giảm nghèo nhanh, thành công chống SARS, duy trì ổn định xã hội và vị trí của Việt Nam trong khu vực tăng dần. Đó chính là hình ảnh Việt Nam" - hình ảnh mà chúng ta muốn tất cả mọi người đều biết. “Du” nhiều “học” ít Thời gian gần đây vấn đề du học đang sôi động, đầy bức xúc. Những thông tin tuyển sinh hội thảo, những suất học, những suất học bổng hấp dẫn tràn ngập trên các báo, tạp chí Tuy nhiên, liệu có phải sinh viên nước ta đi du học chỉ vì mục đích nâng cao trình độ, mở mang trí thức, hiểu biết bằng việc tiếp xúc với các nền giáo dục phát triển hay còn có những nguyên nhân khác Bằng ngoại vẫn hơn Ở nước ta, dường như mọi người luôn cảm thấy rằng hàng ngoại bao giờ cũng xịn hơn hàng nội. Ôtô, xe máy, đồ dùng sinh hoạt dùng của ngoại và bây giờ cả những tấm bằng dán mác Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Úc... cũng rất được ưa chuộng. Nhiều ông giám đốc cơ quan này, xí nghiệp kia khi tuyển dụng nhân viên hễ cứ thấy bằng ngoại là ưu tiên, dành cho những vị trí đẹp mà chẳng cần biết trình độ thực sự ra sao, chuyên môn phù hợp với công việc gì. Vì vậy, một số gia đình dù chưa thực sự giầu có cũng cắn răng cho con đi học ở nước ngoài để sau này có tương lai tươi sáng. Mong ước là như thế, nhưng từ mong ước đến thực tế là cả một khoảng thời gian dài và không phải bao giờ cũng suôn sẻ. Ông bà Thanh ở Ngọc Khánh, năm nay đã gần 60 tuổi đã bán cả căn nhà mặt phố để lên sống trên tầng 5 của một khu chung cư chỉ để dành tiền cho cậu con út đi học. Cậu út lên đường xuất ngoại mang theo niềm tin của bố mẹ để rồi gần một năm sau, cậu trở về trong tư thế một kẻ thất trận, bởi chương trình học ở bên đó quá cao so với khả năng của cậu. Vậy là tiền mất mà bằng ngoại cũng chẳng thấy đâu. Vẫn biết rằng, sau khi tốt nghiệp những khoá hoc ở các nước có nền giáo dục phát triển thì cơ hội việc làm sẽ mở rộng hơn. Thời đại của nền kinh tế toàn cầu và bùng nổ thông tin, những kinh nghiệm du học ở nước ngoài sẽ làm tăng sức nặng cho lá đơn xin việc của bạn. Hơn nữa, học ở những trường Quốc tế danh tiếng sẽ cung cấp cho bạn bằng cấp có giá trị toàn cầu tuy vậy còn phải tuỳ thuộc vào trình độ và điều kiện kinh tế của mỗi người. Đi một ngày đàng học một sàng hư Xu hướng của thế giới là toàn cầu hoá quốc tế hoá. Các tổ chức dù hoạt động trên lĩnh vực nào cũng đều phát triển theo chuẩn mực này và với tư cách là một cá thể bạn không nên tách rời khỏi sự phát triển đó. Du học có thể sẽ mang đến cho bạn tầm nhìn và sự hiểu biết, tư duy sẽ có bước đột phá. Hơn nữa, sống trên một đất nước khác sẽ giúp bạn có cái nhìn phong phú, đa dạng về nền văn hoá thế giới góp phần giúp bạn hiểu sâu hơn về nền văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên có quyền, có tiền, để trở thành những người "sành điệu”. Một anh bạn của tôi vừa ở Đức về tâm sự: "Nhiều sinh viên của ta sang học mà một chữ tiếng Đức bẻ đôi cũng không biết, trong khi những bài giảng toàn bằng tiếng Đức. Chẳng hiểu họ sẽ học như thế nào". Có lẽ là sinh viên của ta sang học kiểu này là để la cà trong những hộp đêm những quán bar, tiếp xúc với đủ mọi thứ nhuộm nhoạm, mập mờ. Với họ đó là tiếp thu cái mới cái tiến tiến. Cuộc sống với những người "sành điệu” này chỉ thực sự có trong những sàn nhảy, vũ trường cặp kè hết người này đến người khác. Những giá trị cao quý của văn hoá dân tộc trong mắt họ trở nên lạc hậu, cổ hủ. Bạn thử tưởng tượng xem tương lai của đất nước ta liệu có thể trông đợi vào những con người như vậy? Phải chăng chỉ để "vênh váo với đời"? Hiện nay có hai hình thức du hoc phổ biến ở nước ta là du học có học bổng và du học tự túc. Để du học có học bổng phải dành được xuất hoc bổng từ chính phủ Việt Nam. Muốn đi theo con đường này rất khó bởi nó chỉ dành cho một số sinh viên xuất sắc, thủ khoa trong các kỳ thi Đại học và phải vượt qua kỳ kiểm tra Anh ngữ quốc tế TOEFL hay IELTS với số điểm đạt yêu cầu. Bạn cũng có thể du học tự túc nhưng vấn đề tài chính lại rất nan giải (tiền học phí 1 năm học ở Mỹ khoảng 15.0000 USD, ở Úc là từ 7.500 đến 10.000 USD... ngoài ra còn một dãy dài các chi phí sinh hoạt phòng ở, bảo hiểm sức khoẻ, sách vở, chi tiêu cá nhân với số tiền cũng xấp xỉ tiền hoc phí). Ấy vậy mà vẫn còn có không ít ông bố bà mẹ sẵn sảng bỏ ra khoản tiền lớn đó không chút đắn đo với mong muốn con cái thành đạt nhưng không ít trường hợp chỉ để chứng tỏ khả năng tài chính của gia đình mình không thua kém thiên hạ hoặc đơn giản chỉ để tự hào với đồng nghiệp với cấp dưới. Ông N vừa nhận chức Giám đốc công ty X nhưng ông vẫn canh cánh trong lòng nỗi buồn khó được chia sẻ. Mỗi lần nghe tay trưởng phòng vật tư kể chuyện con hắn đang học ở Mỹ là ông lại tức phát điên lên. Ông chỉ mong đứa con lớn đang học lớp 8 của ông chóng lớn đến tuổi đi du học. Thật buồn cười khi nhiều người có suy nghĩ lạ lùng đến vậy. Họ coi chuyện đưa con cái đi học ở nước ngoài chỉ là để tạo ra vầng hào quang giả tạo cho chiếc ghế họ đang ngồi, cho gia đinh họ đang sống. Phải chăng chỉ là để vênh váo với đời? Du học để cai nghiện Bấy lâu nay mọi người chỉ quen với việc đưa con vào trại hay trung tâm cai nghiện chứ ít ai nghe đến việc cho con đi du học để cai nghiện. Phương pháp này dù nghe có vẻ không hợp lý cho lắm nhưng hiện nay có nhiều gia đình đã và đang làm như vậy. Theo họ, khi xa nước ngoài con cái họ sẽ xa được lũ bạn xấu và sẽ không biết chỗ để mà mua cái thứ chất chết người ấy. Thậm chí biết đâu sau này trở về nó lại chẳng mang theo cái bằng ngoại. Trên thực tế có không ít trường hợp cai nghiện bằng phương pháp này đã mang lại hiệu quả như ý, nhưng cũng có khi lại nghiện nặng hơn hoặc do túng quẫn còn dẫn tới nhiều hậu quả nghiêm trọng khácnhư trộm cắp, cướp giật . Nhiều gia đình con cho cai nghiện theo kiểu này để rồi sau đó nhận về một bình tro vô tri, vô giác, thậm chí chỉ là một cái tin báo tử. Con cái xa ngã, nghiện ngập thì việc bố mẹ tìm cách lo cho con cũng là lẽ thường nhưng điều cốt yếu vẫn là ý chí, nghị lực của chính con cái họ chứ đâu hoàn toàn do cai ở ta hay ở tây. Đất nước đang cần những người có trình đô, có khả năng tiếp thu cái mới cái tiên tiến. \/ì vậy việc đưa sinh viên đi du học là điều nên khuyến khích nhưng phải là du học đúng nghĩa chứ không phải là vì những lý do không chính đáng. Không nên để lãng phí thời gian, ngoại tệ môt cách vô ích làm ảnh hưởng tới cả xã hội Việt Nam trong tương lai. Xin lỗi thôi đã thành người tử tế Để nói được câu “Xin lỗi”, tập mãi cũng thành quen. Nhưng để trở thành người tử tế thì câu xin lỗi ấy vẫn chưa đủ. “Còn cần gì nữa?” Hoá ra, “Xin lỗi, cảm ơn” chưa đủ sức mạnh để “lăng xê” một con người lên hào quang văn hóa. Ra đến tận ngoài chợ rồi mà người vẫn đông như nêm, nên tôi dắt xe thêm một đoạn nữa và cẩn thận hơn, tôi đi sát vào phía bên phải đường. Bỗng tôi thấy chân mình như bị một bánh xe lăn qua và ngay lúc ấy bên tai tôi vẳng câu: "Xin lỗi". Theo phản xạ, tôi ngoái nhìn thì thấy một cô bé xinh xẻo, mắt nhìn thẳng về phía trước, mặt lạnh tanh như không có chuyện gì xảy ra, rồi cô cùng chiếc xe của mình lao thẳng. Được một đoạn, tôi lại thấy cô gái phanh kít xe kèm theo câu: "Xin lỗi". Giọng vẫn vô cảm như lúc cô xin lỗi tôi (chắc lúc này mắt cô cũng vẫn nhìn thẳng và mặt vẫn lạnh tanh như không có chuyện gì xảy ra). Nhưng tiếp ngay sau đó là giọng một bà cụ đầy vẻ khó chịu: "Cô đứng lại đã, cô tưởng cứ xin lỗi xong là thôi hẳn?". Vừa nói bà cụ vừa níu xe cô gái lại... Tiếng cô gái đầy vẻ tự tin: "Thế bà còn muốn gì?". Và đấy không phải là lần đầu tiên tôi "được" nghe những câu "xin lỗi" kiểu như vậy. Trước đây, bạn bè tôi thường than thở với nhau rằng nhiều lần họ bị đổ nước vào người (lúc thì từ trên gác xuống, lúc thì từ trong nhà ai đó hắt ra...) mà không hề có câu xin lỗi nào và rằng hình như càng ngày càng có nhiều người làm mất đi những khái niệm như: Sự xấu hổ, lòng tự trọng, nỗi băn khoăn... Còn bây giờ, không biết các bạn tôi sẽ nói gì khi nghe tôi kể câu chuyện "xin lỗi" này? Hay cô gái xinh đẹp kia cho rằng khi nói câu "xin lỗi", cô đã nghiễm nhiên là người lịch sự, để rồi sau đó cô có quyền bình thản, nhẹ nhõm tiếp tục làm những việc lại phải đi kèm với một câu "xin lỗi" khác ("còn muốn gì nữa"?). Thế mới biết để có được cái vỏ không khó, nhưng thành người tử tế thật, hình như chưa bao giờ là dễ... Gặp Tây ! Ta ứng xử như thế nào Trong một cuộc họp lớn, một nữ tiến sĩ luật của ta còn rất trẻ, đến muộn và không có chỗ. Một chuyên gia nước ngoài đứng lên để nhường chỗ cho cô ngồi cạnh nam đồng nghiệp người Đan Mạch. Thay vì cảm ơn, nữ tiến sĩ lại đỏng đảnh cười: "Thôi không ngồi cạnh tây đâu, hôi lắm. Sống ở tây mãi rồi còn lạ gì!"... Văn hoá và ứng xử luôn luôn có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống, không chỉ giữa người mình với nhau mà còn giữa người Việt với người nước ngoài khi đất nước ngày càng mở rộng cửa để hội nhập với thế giới.. 1. Tại cuộc họp ở cơ quan lớn nọ, nữ chuyên gia người Hà Lan, tư vấn của một tổ chức phát triển thế giới được mời tới để giúp cơ quan này cải cách bộ máy và tăng cường chất lượng nhân sự. Các quan chức chủ nhà ngẩn người ra một lúc như để lục lọi trí nhớ những kiến thức của mình về đất nước của khách. Rồi vị lãnh đạo cao nhất của cơ quan thốt lên như tìm ra phát minh mới bằng một tràng tiếng Anh ngọng nghịu nhưng nhấn trọng âm của câu rất đúng chỗ: "A, Hà Lan hả? Tôi rất thích uống "sữa" cô gái Hà Lan!" Các vị chủ nhà khác hùa theo: "Chúng tôi ở đây vẫn luôn đố nhau tìm xem cô gái nào mà lại có "sữa" đấy!". Thế rồi tất cả cùng rộ lên cười. Xa hơn nữa, một vị còn mạnh dạn hơn khen cô xinh đẹp và hoạ bằng một câu ca dao: "Em giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn...", rồi nhất quyết muốn người phiên dịch chuyển lại câu pha trò đó, đặc biệt là nghĩa ám chỉ của cụm từ "cái tỉnh tình tinh", cho khách mặc dù người phiên dịch đã có ý từ chối bằng cách im lặng. 2. Vẫn một phái đoàn của tổ chức phát triển nọ, nhưng lần này gồm những thành viên khác và tới làm việc với đoàn gồm các cán bộ từ nhiều cơ quan khác nhau. Đó là một buổi Hà Nội trời nóng gắt, lại mất điện, hai bên phải ra ngoài sân ngồi chen chúc một chút để có thể vẫn tiếp tục làm việc theo lịch trình. Một nữ tiến sĩ luật của ta còn rất trẻ, đến muộn và không có chỗ. Một chuyên gia nước ngoài đứng lên để nhường chỗ cho cô ngồi cạnh nam đồng nghiệp người Đan Mạch. Thay vì cảm ơn, nữ tiến sĩ lại đỏng đảnh cười: "Thôi không ngồi cạnh tây đâu, hôi lắm. Sống ở tây mãi rồi còn lạ gì!". Chẳng biết cô định khoe với mọi người xung quanh về lai lịch đã từng học tập ở Liên Xô trước đây hay cô đùa vậy để tránh khỏi phải ngồi cạnh người lạ, khó bề tâm sự vặt trong thời gian họp. Chỉ buồn cho cô là anh chuyên gia Đan Mạch nọ vẫn dành tuần hai buổi học thêm tiếng Việt trong hơn hai năm qua nên có biết tiếng mẹ đẻ của cô! 3. Vẫn lại là một cơ quan phát triển, nhưng lần này là của một nước hàng đầu trong châu lục, chuyên tài trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho VN. Đại diện của cơ quan này tổ chức buổi tiệc chúc mừng quan chức của một bộ trong lĩnh vực nhận vốn nước ngoài. Vậy mà, sau khi được nghe giới thiệu tên của vị quan khách nước bạn, một quan chức của ta đã không ngại ngần: "Ồ cái tên ông giống tên cái xe máy của tôi quá...". Và thế là một tràng cười hưởng ứng từ phái đoàn ta, kèm theo những lời tán thưởng rất rôm rả... Một sự trùng hợp thú vị, trong buổi họp về cải cách nhân sự ở câu chuyện thứ nhất, tôi học được từ chuyên gia tư vấn rằng một trong ba phẩm chất cần thiết của nhà lãnh đạo là tính hài hước để biết cách giảm bớt căng thẳng trong công việc. Song hài hước như các vị quan chức, các vị tiến sĩ của ta trong những mẩu chuyện đã kể trên đây thì thật đáng xấu hổ! Nếu tất cả người Việt đều ứng xử như thế này thì... Thiếu tính hợp tác Nhiều người lớn từ lâu vẫn đùa chơi với một phép tính như thế này: ba người Nga thì bằng một người Do Thái, ba người Do Thái thì bằng một người Việt Nam, nhưng ba người Việt Nam thì... cái phép tính cuối cùng này mỗi người tính một cách, chỉ có chữ "nhưng" là vẫn giữ nguyên ý nghĩa cho phép người tiếp nhận dù không thể cân đo vẫn hiểu được thâm ý của phép so sánh. Lại còn một hình ảnh ví von khác, cũng chẳng biết là từ đâu ra: một người Việt Nam rớt xuống hồ thì tự leo lên được, nhưng ba người thì không, vì người này lên thì người kia kéo xuống... ...Những câu chuyện truyền miệng có tính phóng đại, ai cũng biết thế nhưng giải thích nguyên nhân thì thật khó khăn và thật khó hiểu nổi vì sao. Cái tính thiếu hợp tác và manh mún, nhiều người còn nói nặng lời là tính đố kỵ nhau, rõ ràng đã là mâu thuẫn với tinh thần đoàn kết, nhất là tình đoàn kết chống ngoại xâm mà dân tộc Việt Nam đã có truyền thống từ bao đời. Hay là để sống cho hoà bình, trong xây dựng và ổn định, mình sống có khó khăn hơn? Đoàn kết là một truyền thống của dân tộc Việt Nam, truyền thống tốt đẹp ấy không bao giờ mất. Nên cái băn khoăn mà câu hỏi vừa nêu ra tôi giới hạn câu trả lời của mình trong suy nghĩ về người trí thức, không nên suy diễn ra xa hơn nữa. Tôi xin bắt đầu bằng một kỷ niệm. Năm 1970, tại một hội nghị quốc tế về giáo dục ở Tokyo, một đồng nghiệp Nhật Bản đã nói với tôi trong một cuộc trò chuyện thân mật: "Các ông trí thức Việt Nam giống như những viên kim cương, còn chúng tôi là một bãi cát...". Là một người Việt Nam, tôi nhạy cảm với mọi lời nhận xét của người nước ngoài về nước mình, nhưng lúc đó tôi chỉ nghĩ đó là một lối nói khiêm tốn đặc trưng của người Nhật Bản, và sau đó không ngừng nhắc lại câu nói ấy với các đồng nghiệp trong nước để cùng nhau hởi lòng hởi dạ. Chúng mình là kim cương cơ mà! Nhưng rồi khi lòng mình lắng lại, dần dần cùng với thực tế, nghĩ thêm và đọc thêm, tôi mới nhận ra hết được ý nghĩa thâm thuý của câu nói ấy. Thì ra ông bạn Nhật Bản muốn nhắc một câu nói của Tôn Dật Tiên, từng ví dân tộc Trung Hoa trước cách mạng là "một bãi cát lỏng lẻo", nhưng cách mạng đã biến họ thành "một tảng đá cứng được hình thành bằng cát trộn với xi măng". Từ đó tôi luôn đặt câu hỏi trí thức Việt Nam có thật, và có nên nghĩ rằng mình là những viên kim cương hay không? Kim cương thì quý, vì hiếm nên quí chứ không hẳn do công dụng thực tiễn của nó. Nhưng kim cương thì khó đẽo gọt, lại khó có thứ gì như xi măng để có thể kết hợp chúng lại thành "một tảng đá cứng". Mà ai cũng biết tự cho mình là viên kim cương cả nên muốn dùng ánh sáng của riêng mình để tự phát sáng, hay tự phô trương... Nguyên nhân của sự "khó ngồi với nhau" còn đó, nên khi chưa được sử dụng đúng với vai trò của mình nên hiều khi kim cương lại bị coi là cát. Thời bình cần trí thức nhiều hơn và một trong những điều kiện bắt buộc là họ cũng "ngồi với nhau", là phải cũng hướng đến lợi ích chung, phải quên bớt bản thân mình đi. Nhiều khi trí thức Nhật Bản mà tôi thấy, khi đứng riêng lẻ ai cũng là người giỏi nhất, nhưng khi họ biết cách làm việc cùng nhau, họ đã làm được những công trình thật sự lớn lao. Quá trình hiện đại hóa càng phát triển lại càng đòi hỏi nơi mỗi cá nhân một sự hợp tác chặt chẽ và đó là một đòi hỏi tất yếu. Lỗi của dân trí Xả rác, phóng uế bừa bãi nơi công cộng, đi lại lộn xộn trên đường phố, đeo bám quấy nhiễu du khách, mở nhạc to hết cỡ làm náo động cả xóm trong đêm... Lý giải những thói xấu đó nhiều người cho là tại dân trí còn thấp, cần nhắc nhở giáo dục. Nhưng ở đây, có thật là do dân trí thấp? Một người ít học, thậm chí mù chữ, nhưng tâm trí bình thường liệu có xả rác, phóng uế bừa bãi trong nhà của họ không? Một cậu thiếu niên học lớp 5 chẳng hạn, không thể không biết rằng ra đường phải đi lề bên phải, thấy đèn đỏ ở ngã tư phải dừng xe và rằng đêm khuya người ta cũng cần... đi ngủ. Đó là những phép tắc rất sơ đẳng mà họ hoàn toàn biết rõ – nói chữ nghĩa một chút, họ hoàn toàn nhận thức được sự đúng-sai, được phép hay không được phép và hậu quả tốt hay xấu của hành vi đó. Thế nhưng họ vẫn cứ làm những việc gây ảnh hưởng xấu cho người khác, cho xã hội. Nếu hiểu dân trí là trình độ nhận thức về hành vi, cách ứng xử đối với người chung quanh, rộng ra là xã hội của người bình thường thì những vi phạm phép tắc sơ đẳng đó hoàn toàn không do trình độ dân trí thấp. Một vụ án hình sự trên địa bàn Hà Nội gây xôn xao dư luận gần đây càng cho thấy rằng dân trí không phải là nguyên nhân của nhiều hành vi phạm pháp. Những ông tiến sĩ (chủ mưu vụ tạt axit hàng xóm), thạc sĩ (chủ mưu vụ thuê côn đồ chém người giành bạn gái) hoàn toàn có dư kiến thức chuyên môn, và cả sự hiểu biết về luật pháp nói chung để dạy dỗ những người dân bình thường. Thậm chí trong đó có cả một quan chức có cỡ của ngành thanh tra - một ngành bảo vệ pháp luật. Thế nhưng họ vẫn hành xử như thể Nhà nước không có pháp luật, giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn riêng theo kiểm đâm chém “giang hồ”. Rõ ràng không thể đổ lỗi cho “dân trí”. Hẳn nhiên, khách quan mà nói, về nhiều phương diện, chẳng hạn kiến thức khoa học, lịch sử, địa lý, kinh tế..., sự hiểu biết về tổ chức xã hội và nội dung chính của các bộ luật..., trình độ người dân bình thường nói chung còn thấp. Nhưng chuyện xả rác bừa bãi nơi công cộng như thuê côn đồ hành hung, tạt axit người khác... thì dứt khoát không dính dáng gì đến dân trí. Vậy, nguyên nhân sâu xa nào khiến những người có hiểu biết nhất định, thậm chí có học vị cao, lại hành động như vậy? Câu trả lời xin dành cho các cơ quan điều tra và các nhà xã hội học, luật học, tâm lý học, tội phạm học... Ở đây chỉ xin ghi nhận đôi điều: tình trạng phạm pháp đã nghiêm trọng, tính răn đe của luật pháp đã quá yếu ớt, đã bị “lờn”. Thứ đến, cần quan niệm đúng hơn, đầy đủ hơn về dân trí: xác định rõ đâu là cái cần nhắc nhở, cần trang bị và nâng cao đối với công dân nói chung và đâu là cái cần áp dụng nghiêm luật lệ, chấn chỉnh cứng rắn. Không nên nghĩ rằng, giáo dục luật pháp chỉ là công việc phổ biến, tuyên truyền về pháp luật mà chính việc thực thi pháp luật đúng đắn, nghiêm minh - từ pháp lệnh về xử lý hành chính (lâu nay hiếm khi nghe nói đến việc phạt vi cảnh), luật dân sự, luật kinh tế cho đến luật hình sự - là một cách giáo dục tốt nhất, hiệu quả nhất. Không lý do gì cứ đi “nhắc nhở, giáo dục” những người biết sai mà vẫn cứ làm. Qua các vụ án này, một lần nữa, dư luật lại báo động về tình trạng “xuống cấp” đạo đức trong xã hội hiện nay. Phải chăng, trong nhiều thứ mà ta gọi là giáo dục đạo đức từ nhà trường, gia đình và xã hội lâu nay, còn thiếu hoặc là xem nhẹ nội dung giáo dục con người biết cách xử sự kiềm chế, tôn trọng và thân thiện với người khác, kể cả thân thiện với loài vật và thiên nhiên, sống sao cho khỏi thẹn với lương tâm, cho “có đức” như ông bà đã dạy? “Bê tráp theo thầy” và làm “khoa học rỏm”! Xưa nay, chuyện học trò tự hào vì được theo học thầy giỏi, thầy tự hào vì đào tạo được học trò tài cao cũng là chuyện thường tình. Nhưng dẫu sao thì không phải học trò yêu nào cũng được thầy trao cho “ấn tín” để có thể nối nghiệp. Những trường hợp như thế thường xảy ra với những ông thầy vốn là người có thực tài, là người khởi xướng một trường phái học thuật, là người nung nấu một (nhiều) ý tưởng khoa học nhưng quỹ thời gian ngắn ngủi của cuộc đời không cho phép họ hoàn thành, hoặc ít ra cũng là một học giả uyên thâm... Tương tự như vậy, học trò phải là người có tư chất trí thức, yêu nghề, hiểu thầy, dám xả thân cho sự nghiệp thầy hằng theo đuổi... Hơn nửa thế kỷ qua ở Việt Nam, học trò của GS Cao Xuân Huy như Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Hồng Phong; học trò của GS Trần Đình Hượu như Trần Ngọc Vương, Nguyễn Kim Sơn, rồi học trò của GS Đặng Thai Mai, GS Nguyễn Từ Chi... quả đã không làm hổ danh những người thầy của họ. Từ sự tin cậy gửi gắm của thầy, từ sự nỗ lực của chính bản thân mình, họ đã đạt được không ít thành tựu đáng để đồng nghiệp nể trọng. Không có điều kiện quan sát thời họ theo thầy học hành, song tôi tin họ không phải là những đệ tử “bê tráp theo thầy” kiếm chút thơm lây, cầu danh cầu lợi, như không ít vị “tiến sĩ, thạc sĩ tương lai” mà tôi đã gặp. Thời còn cặm cụi học hành mong kiếm được chiếc bằng cử nhân, tôi thật sự ngưỡng mộ những anh chàng được thầy ưu ái cưng chiều, được thầy cho xách cặp tháp tùng đi đây đi đó. Liên tưởng tới những học trò tài danh của Khổng Tử, Platon..., tôi càng ngưỡng mộ. Mỗi lần thấy họ khoa chân múa tay trò chuyện bình đẳng với thầy, tôi không khỏi chạnh lòng tủi thân vì sự kém cỏi của mình đã không đủ sức làm cho thầy để mắt. Một lần, tới dự buổi thuyết trình của một giáo sư nổi tiếng tổ chức tại Viện Văn hoá - Nghệ thuật Việt Nam, tôi may mắn được ngồi cạnh một anh mà trước giờ lên lớp vị giáo sư giới thiệu là một “nghiên cứu sinh nhiều triển vọng”. Thấy anh chăm chú nghe như nuốt lấy từng lời, thi thoảng lại ậm ừ hoặc ầm ĩ thốt lên đôi ba hư từ hàm chứa tinh thần thán phục rồi hí húi ghi chép, tôi đâm ngại không dám thì thào bắt chuyện làm quen. Rồi do muốn học hỏi phương pháp học tập, tôi ghé mắt nhìn sang thì thấy trang vở của anh loằng ngoằng những nét dọc nét ngang giống đồ hình một mê lộ. Tôi cố đoán xem đó là cái gì mà không đoán ra, đành tự giải thích: người tài năng có cách thức ghi chép riêng, người bình thường không thể theo được. Tới giờ giải lao, anh mới dành cho tôi chút ít thời gian, không phải để làm quen mà để giảng giải cho tôi đôi điều sâu sắc. Tôi chỉ biết tròn mắt “kính nhi viễn chi”, lòng càng củng cố niềm tin về trí tuệ hơn người của những tài năng lớn. Năm tháng qua đi, tôi còn vinh dự được nghe vị giáo sư này giảng bài thêm vài lần nữa. Không kể mỗi lần giảng là một lần “bổn cũ soạn lại”, chỉ kể tới những “tài năng trẻ” được ông giới thiệu, tôi cũng đã được tiếp xúc với năm bảy vị. Song tiếc thay, theo dõi vài chục năm nay, tôi vẫn chưa thấy họ “phát tiết tinh hoa” như ông thầy của họ quảng bá! Như một sự trùng hợp, những anh chàng xăng xái “bê tráp theo thầy” bao giờ cũng áo quần bảnh bao, tóc râu nhẵn nhụi, và luôn sẵn sàng nổ máy mô tô, móc điện thoại di động gọi taxi để cùng thầy vi vu. Săn đón bên thầy, họ luôn cố gắng chứng tỏ mình là người gần gũi, thân thiết. Mà kể cũng lạ, nhiều ông thầy coi cái sự quan tâm chăm sóc này như một trách nhiệm hiển nhiên. Nghĩa là ông thầy không nỡ lòng từ chối tấm lòng hiếu thảo của các học trò. Sau mấy năm sôi kinh nấu sử, nghiền ngẫm tư duy, luận án hoàn thành, phần lớn các tiến sĩ, thạc sĩ tân khoa liền ca bài goodbye, chuyển giao sứ mạng chăm sóc ông thầy cho một học trò khác đặng giúp cho quá trình bảo dưỡng khỏi bị đứt đoạn. Tuy nhiên, khi thấy ông thầy bị người ta phê phán thì có vị cũng muốn chứng tỏ lòng thành hăng hái ra trò. Năm 2002, để chứng minh cuốn sách của thầy là một cống hiến cho khoa học nước nhà, ông thạc sĩ HM đưa ra một tuyên bố xanh rờn rằng có thể đọc “nó” - cuốn sách, bằng nhiều cách khác nhau. Than ôi! đưa ra tuyên bố này ông HM đã bộc lộ một sự non kém không xứng đáng với tầm cỡ một thạc sĩ, đó là: người ta chỉ có thể đọc một tác phẩm văn học với nhiều cách khác nhau, chứ với một công trình khoa học thì chỉ có một cách đọc và đó cũng là một trong những sự khác nhau cơ bản giữa đánh giá một tác phẩm văn chương với đánh giá một công trình khoa học! Đối với những tiến sĩ, thạc sĩ kiểu này, thường thì sự nghiệp khoa học của họ chỉ dừng lại ở chính cái luận án mà chỉ có cao thủ về “toán tập mờ” may ra mới có khả năng phân định đâu là kết quả nghiên cứu của tác giả, đâu là kết quả nghiên cứu của... người ta. Chẳng thế mà mấy năm trước đọc luận án về văn hoá của ông HXL, tôi ngớ người vì thấy tác giả “thuổng” nguyên văn mấy trang từ một bài tiểu luận tôi đã đăng. Nghe tôi phàn nàn, ông bạn của vị thạc sĩ không tin, liền hỏi: “Tại sao ông lại bảo người ta lấy của ông?”, tôi trả lời: “Văn tôi mùi thum thủm, ngửi là thấy ngay”! Trong văn chương, câu chuyện cũng không kém phần lý thú nếu xem xét tính “đa hiệu quả” của một số tác phẩm lý luận - phê bình. Nhìn từ góc độ văn học, một công trình lý luận - phê bình khi được in thành sách là có đủ tư cách tác phẩm và người ta có thể nuôi khát vọng hướng nó tới một giải thưởng văn chương. Nhìn từ góc độ khoa học, vẫn công trình ấy lại có đủ tư cách xếp vào chủng loại sản phẩm thuộc khoa học xã hội và nhân văn. Nên mới có chuyện khôi hài là chỉ một công trình nhưng lại có thể nhận hai giải thưởng thuộc hai lĩnh vực khác nhau! Nên khi một vài ông thầy với một vài cuốn sách cũng có thể xơi liền hai giải thưởng cỡ quốc gia, thì đôi ba học trò cũng nhanh chóng tận dụng ưu thế để trở thành nhà lý luận - phê bình, bằng cách: bê luận án ra in thành một cuốn sách và nghiễm nhiên đủ tiêu chuẩn nộp đơn xin vào Hội Nhà văn. Lợi cả đôi đường. Thế là bản luận án còn có khả năng biến một vị mới hôm nào còn “bê tráp theo thầy” bỗng trở thành một “học giả” vừa có học vị cao, vừa là nhà lý luận - phê bình chuyên làm sách sưu tầm, tuyển chọn, hoặc xuân thu nhị kỳ viết một bài đọc sách! Hơn thế nữa, bên hiện tượng số luận án văn học thật sự có chất lượng chỉ đếm được trên đầu ngón tay, còn lại là khá nhiều luận án xếp loại xuất sắc nhưng không một tiếng vang, tôi còn thấy một tỷ lệ không nhỏ số luận án tập trung nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 (chủ yếu là các tác giả Thơ mới, cùng các cụ Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nam Cao...) và hầu như không đưa ra được kiến giải gì mới mẻ. Có vị như không thoát khỏi cái bóng của Hoài Thanh, cứ nghiên cứu Nguyễn Bính là chú mục vào hai chữ “chân quê”, cứ nghiên cứu Xuân Diệu là tán tụng “say đắm, tha thiết, nồng nàn”... Dường như người ta tìm thấy hứng thú trong khi cố gắng cày thêm một đường cày trên cái cánh đồng đã được cày bừa tan nát! Phải chăng đây là cách thức để không phải tốn công khám phá, phát hiện và cũng là cách thức để dễ bề “huy động” kết quả nghiên cứu của các bạn nghề? Phải chăng đây cũng là lý do tạo ra nghịch lý: “khoa bảng văn chương” thì nhiều nhưng thành tựu khoa học thì ít? Xét cho cùng, nguồn cơn của tình trạng làm khoa học “nửa mùa” không hoàn toàn là lỗi của nghiên cứu sinh. Các ông thầy (không rõ là “cây đại thụ” hay “cây lưu niên”?) cũng có lỗi phần nào nếu không nói là lỗi lớn nhất. Thầy có thực tài và làm việc nghiêm cẩn thì làm sao học trò có thể qua mặt để “úm ba la”. Như câu chuyện giáo sư QV cùng mấy “đệ tử” cho ra một cuốn giáo trình về văn hoá Việt Nam để giảng dạy trong các trường đại học chẳng hạn. Sau khi ông giáo sư cho ra mắt giáo trình rồi rầm rộ tập huấn ngoài Bắc trong Nam thì người ta phát hiện ra một hai “đệ tử” của vị giáo sư đã viết lách linh tinh và “đạo văn” vô tội vạ. Mà các vị này lại toàn là những tiến sĩ, thạc sĩ mới quả là gay go. Cực chẳng đã, thầy trò bảo nhau tu bổ lại cuốn giáo trình, sửa sang những chỗ đã trót “cầm nhầm”, thêm vài lời cảm ơn những người phê phán và nhanh chóng tái bản. Bằng động thái này, thầy trò vị giáo sư đã làm được hai việc: một là lờ tịt số phận trôi nổi của 1.000 cuốn giáo trình “đạo văn” đáng lẽ phải bị thu hồi, hai là học hàm học vị không bị sứt mẻ chút nào lại được thêm tiếng thơm là người cầu thị. Khôn thật! Từ sự kiện này tôi đặt ra câu hỏi: viết có mấy chương giáo trình còn phải đi “đạo văn” thì liệu cái luận án tiến sĩ, thạc sĩ của mấy “đệ tử” có cùng chung cảnh ngộ hay không? Nhưng hỏi thì hỏi vậy thôi, chứ câu trả lời có lẽ chỉ ông trời mới biết! Đọc công trình, tiếp xúc với luận điểm, nghe bài giảng của một số ông thầy, đôi lúc tôi thích làm khổ mình bằng câu tự vấn “những thành tựu đó liệu có khả năng sống được với thời gian?”, chỉ vì lẽ tính phát hiện của chúng quá mờ nhạt. Đó là chưa nói việc tôi còn được thưởng thức những phát kiến có khả năng biến khoa học thành sàn diễn “đời cười”. Không biết các ông giáo sư, tiến sĩ mà tôi dẫn lại dưới đây đã tham gia đào tạo nghiên cứu sinh nào chưa, nếu có thì thật lòng tôi rất nghi ngờ kết quả đào tạo của các ông. Chẳng là vài năm trước, ông tiến sĩ Triết học VT - Chủ nhiệm Khoa Triết của một trường đại học đã viết trên một tạp chí: “Đầu Công nguyên, tầng lớp thượng lưu, quan lại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết lý Nho gia với việc tu thân để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, nếu tiến thì vi quan, còn thoái thì vi sư”. Tiến sĩ VT quả là đã có một nhận định động trời: vào thời Bà Trưng, Bà Triệu chưa cất tiếng khóc chào đời mà nước Nam ta đã có “tầng lớp thượng lưu, quan lại”, không những thế, họ còn “chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết lý Nho gia”! Chỉ riêng với phát hiện này, theo tôi chí ít ông tiến sĩ VT cũng xứng đáng được trao giải “Mâm xôi Vàng”. Nghiên cứu thì như thế, còn tri thức thì ra sao, xin kể câu chuyện về PGS TS Triết học HQ - người được học trò chơi chữ gọi là “PGS thất học” vì ông giảng dạy hẳn bảy bộ môn khoa học khác nhau! Lên lớp cho nghiên cứu sinh về Kitô giáo, thấy ông nhiều lần nhắc tới tín điều “tam vị nhất thê”, học trò hơi bị lạ tai liền đề nghị ông cho biết “tam vị nhất thê” là cái món gì. Ông tỉnh queo giải thích: “Tam vị là ba người gồm Đức chúa cha, Đức chúa con và Thánh thần, nhất thê là chỉ bà Maria. Tam vị nhất thê tức là ba ông lấy chung một vợ”. Người học khiếp quá, nhưng cũng chỉ biết nhấn chìm trận cười vào trong bao tử. Dù sao thì cũng phải nghĩ tới kỳ thi hết môn nữa chứ! Nghe tôi bàn luận về tình trạng làm khoa học “nửa mùa” của một số ông thầy và một số tiến sĩ, thạc sĩ đương thời, sau khi đồng cảm chia sẻ một anh bạn tôi lại dịu dàng khuyên nhủ: “Thời nào mà chẳng có học thật học giả, ông để ý làm gì!”. Nghe anh nói tôi cũng thấy xuôi xuôi. Nhưng vẫn cứ băn khoăn: trong số hàng vạn ông bà có học vị trên đại học kia liệu có bao nhiêu người thật sự có tài năng, có tâm huyết, và liệu có bao nhiêu người đang tồn tại một cách “hữu danh vô thực” trên chính cái mảnh đất khoa học đã khai sinh ra họ. Ngày nay, khi tri thức đang trở thành một bộ phận của lực lượng sản xuất xã hội thì nó cần tới sự học hành và đào tạo nghiêm chỉnh. Nó không dung nạp những trí thức “nửa mùa” mà sự tồn tại chỉ gắn liền với bằng cấp, không gắn liền với năng lực. Chính vì thế, lẽ nào một xã hội muốn phát triển lại không cần nghiêm khắc với vấn đề nói trên? Tật huyền hồ lý tưởng Xét trong văn chương nước Nam, điều gì cũng toàn huyền hồ giả dối hết cả, không có cái gì là thực tình. Người làm thơ thì ngâm những cảnh núi Thái Sơn, sông Hoàng Hà, giời cao, bể rộng. Núi Tản Viên, sông Nhị Hà sờ sờ trước mắt, thì cảnh không ứng bao giờ. Có cao hứng mà vịnh đến thì cũng phải viện đến cái gì ở đâu xa, chưa biết, chưa trông thấy. Thời tiết nước mình thì không biết một chút chi chi, tả đến tứ thời thì xuân phải phương thảo địa, hạ phải lục hà trì, thu phải hoàng hoa tửu, đông phải bạch tuyết thi. Họa may có điều gì cảnh mình hợp với cảnh Tàu thì có ra hay, nhưng thỉnh thoảng đưa những ngô đồng với bạch tuyết, lá rụng, hoa rơi, đều là hão huyền cả. Chớ mùa thu ta nào thấy lá rụng, mùa đông ta nào thấy tuyết sa. Thành ra câu hát cũng hát cho người, cảnh nhà mình thì như mù mắt điếc tai. Mượn chữ người, mượn đến cả phong cảnh, tính tình, chớ không biết dùng cái vật liệu mượn ấy mà gây dựng lấy văn chương riêng, cho nó có cái lý tưởng đặc biệt. Anh thợ vẽ kia, thì sao khéo bôi xoa “Tiều phu Lã Vọng”, “tòng lộc”, “liên áp”, “trúc tước”, “mai điểu” quanh quẩn chỉ có thế, mà nay lại mai đề, không biết chán ngọn bút. Con cò nó lặn lội bờ sông, con trâu nó kéo cày dưới ruộng, là những cảnh ngày nào cũng trông thấy, thì ra chú khách không cho kiểu, cho nên chịu không sao ngâm được, không sao vẽ được. Bác thợ chạm khéo đục “dây nho con sóc” mà chẳng biết cây nho ở đâu, con sóc nơi nào. Thế ra xưa nay cứ thấy làm sao bào hao làm vậy. Xem tranh vẽ chim, vẽ cây, chẳng hiểu người ta ngụ ý gì mà vẽ nên tranh, thấy nó cũng đỏ đỏ, cũng xanh xanh, thì tựu đắc ngồi rung đùi mà thú cho lấy được. Còn về đạo cương thường, cứ nói rằng ta thâm nhiễm của Tàu nhiều lắm rồi, nhưng xét ra thì người An Nam chưa có điều gì gọi là thâm nhiễm. Trong hết cả số người theo Nho học, thì họa có mấy ông vào bậc học giỏi, hiểu biết được đạo Khổng Mạnh. Còn những bậc làng nhàng thì thường cứ thấy người ta học cũng học, học cho thuộc sách mà thôi, chớ không có định bụng rằng theo những điều nào, trong đạo Nho cốt tử ở trên, kháp đạo ấy vào tính tình riêng người nước mình nó ra làm sao, chắc hỏi những câu ấy không có mấy thầy đồ cắt cho gẫy gọn được. Tôn giáo thì đã nói rồi, xem ra cũng một cách huyền hồ như vậy mà thôi. Đến như việc chính trị, thì vua Gia Long bỏ luật Hồng Đức đi mà làm cả một pho luật mới, chép tuốt cả của Tàu, cả từ điều nước mình có cho đến những điều mình không có, cũng bắt chước. Thành ra luật phép cũng hồ đồ cứ thi hành được đường nào hay đường ấy. Xét ra thì cương thường đạo lý, phong tục chính trị, toàn là giả dối hết cả, không có điều gì là có kinh có điển. Thế mà ngày nay có cải lương cái gì, sợ rằng trái đạo lý cũ của mình. Đạo lý cũ của mình là thế nào, có ai biết đâu? Con khóc cha mà cũng phải tìm trong “Thọ mai gia lễ” hay là “Văn công gia lễ”, xem ngày xưa ở bên Tàu các ông ấy khóc cha mẹ ra làm sao, thì cứ thế mà khóc. Giản hoặc trong hai cách có điều gì khác nhau, thì cũng biết vậy, lúc túng việc thì vớ quyển nào theo quyển ấy. Gọi cho nó theo một lệ nào đó, thì là nhà văn phép. Xét ra trong các trò chơi, như hát tuồng, hát chèo, cũng hay bắt chước những cách vô lý, tỏ ra rằng người An Nam không có lý tưởng nhất định về chuyện gì, cứ gặp sao nên vậy. Tấn tuồng thì hay lấy sự tích của Tàu mà lúc ra hát thì quên cả dến thời đến xứ. Cứ nhân được chỗ nào có dịp hát mấy câu nam, thì nam cho mấy câu. Chỗ nào có dịp khôi hài thì khôi hài. Thấy người xem có mấy người dễ cười thì làm mãi. Chẳng có kinh điển nào cả. Đến như cái lý tưởng đẹp thì người An Nam lý hội điều đẹp cũng có một cách lạ. Sách Tàu tả người đẹp, môi son, mắt phượng, mày ngài. Khuôn giăng minh liễu, thì bao giờ tả người đẹp cứ thế mà tả. Có người nói thấy cái xe, ngồi lên thì nhanh mà đỡ mỏi, không sợ mưa nắng, đi đâu ba bốn người rủ nhau đi thuê một cái, xếp hàng họ, rổ rá, gồng gánh lên đó, rồi hai người ngồi trên, có khi ba người ngồi chồng lên nhau, đau lưng, mỏi cổ, sái chân, méo xương sườn, nắng chiều chiếu xiên khoai vào mặt, lệch đà lệch đệch, đi bước một, giá đi chân nhanh bằng hai. Nhưng mà đã thấy nói rằng đi xe nhanh mà tiện, thì ngồi xe dầu có cực đến thế nào cũng cho là nhanh lắm, tiện lắm. Đó là những việc thường, mới trông ra thì tưởng nhàm, nhưng xét cho kĩ thì là những tật của trí khôn người An Nam ta, làm cho khó bảo, khó khiến được cho vào đường văn minh, cho chịu nghe những nghĩa lý phải. Lấy hoà làm quý Một người Việt Nam lớn lên vẫn không quen với rất nhiều lời răn dạy về cách sống, cách cư xử ở đời... thôi thì chịu chín bỏ làm mười, một sự nhịn chín sự lành, thôi thì đóng cửa bảo nhau, thôi thì dĩ hoà vi quý... tất thảy đều mang một tấm lòng khoan nhượng. Nhưng những tính tốt ấy có phải lúc nào cũng là một cách sống tích cực? Nếu nhìn vấn đề ở góc độ lịch sử, những cái đang trở thành nhược điểm của người Việt Nam hiện nay chủ yếu được hình thành trong thế kỷ 20. Một thế kỷ đầy biến động, chúng ta kế thừa một thứ chủ nghĩa phong kiến để chống chủ nghĩa thực dân và đế quốc, và quy luật chiến tranh đè bẹp, lấn át mọi quy luật kinh tế xã hội. Ở miền Bắc hình thành cơ chế bao cấp - không có cơ chế đó chúng ta không thắng Mỹ được. Nhưng bao cấp, nhất là bao cấp kéo dài sau năm 1975 lại làm nảy sinh hai đứa con tệ hại là thói đạo đức giả và thói vô trách nhiệm. Báo “Ong đất” của Bungari nhìn lại thời kì này của chính họ, đã tổng kết nên 6 nghịch lý mà ta có thể tham khảo : - Ai cũng có việc làm nhưng không ai làm việc. - Ai cũng không làm việc nhưng ai cũng có lương. - Ai cũng có lương nhưng không ai đủ sống. - Ai cũng không đủ sống nhưng ai cũng sống. - Ai cũng sống nhưng không ai hài lòng. - Ai cũng không hài lòng nhưng ai cũng giơ tay "đồng ý". Bây giờ cơ chế thị trường lại sinh ra hai đứa con là nóng ruột kiếm tiền và cắm đầu hưởng thụ. Mọi nhược điểm chỉ phát huy tác dụng trong môi trường của bốn thói xấu này. Một câu nhịn, tốt quá. Nhưng nếu tôi vô trách nhiệm, đó là sự biện hộ cho thói vô trách nhiệm của tôi. Chữ tín không quan trọng Người Việt Nam mạnh về nghĩa mà yếu về tín.Lời ấy dễ khiến người nghe giật mình vì sự nặng lời. Ai cũng cảm thấy mình như là bị "sốc", mặc dù vẫn lờ mờ hiểu rằng điều đó không phải là không có lý. Nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh: Để trả lời trước hết cần đặt thêm một câu hỏi, chữ tín cần cho ai? Kinh tế nông nghiệp không cần. Trong nông nghiệp, lao động không phải sản xuất, lao động chỉ tác động lên quá trình sinh học của vật nuôi và cây trồng. Người lao động trong nông nghiệp không làm chủ được kết quả lao động, nhiều khi công sức bỏ ra rất nhiều nhưng thiên tai một cái là trắng tay... Còn trong công nghiệp, tôi bỏ từng này sắt, từng này thời gian, nhiệt độ, tôi biết sản phẩm của tôi thu được sẽ như thế nào. Đó chỉ là một ví dụ. Do tính chất không đồng bộ của lao động và sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp nên tư duy co dãn, tính toán co dãn hình thành. Từ đó đẻ ra một tập quán du di, mười cũng như chín, xấu một chút cũng được, hôm nay cũng được mà mai cũng được, hôm nay không làm cỏ thì mai sẽ làm... Chữ tín ở đó không quan trọng. Một nền kinh tế hàng hóa thật sự thì hoàn toàn khác. Yêu cầu của kinh tế thương nghiệp là sự chính xác về số lượng, chất lượng và thời gian. Trong bối cảnh mà quan hệ giữa các cá nhân đòi hỏi chữ tín tới cái mức chữ tín có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh tế hay lợi ích vật chất của họ, thì chữ tín đặc biệt sẽ nổi lên như một chuẩn mực. Người Việt Nam trong chiến tranh rất "tín" - chữ tín đó được quy định bởi kỷ luật quân đội. Nhưng kỷ luật quân sự tự nó cũng là một chuẩn mực xuất phát từ một thực tế là hoạt động của nhiều người với nhau, đòi hỏi một sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cá nhân, các nhóm người và điều đó ảnh hưởng tới sự thành bại, sống chết... Nhà văn Sơn Nam: Vì sao người ta thất tín, vì tham cái vụn vặt, chỉ thấy cơ hội trước mắt, không thấy cơ hội lâu dài. Tôi đã từng thấy nhiều người, trẻ không lo học hỏi, đương chức đương quyền không lo làm hết trách nhiệm, đến lúc về già hết quyền hết chức mới nói đến trách nhiệm, mới lo đến dân đến nước thì còn lợi ích cho ai, mà biết là vì ai. Nói được mà không làm được khi có thể làm cũng là một sự bội tín. Sự chụp giựt, lý luận mỗi lúc một khác, thiếu một chính sách một cách lâu dài (ngay từ những việc nhỏ như chuyện đặt tên đường, chuyện giải toả...) cũng là một cách đối xử không đúng với chữ tín. Ai dám nhận mình xấu xí Nếu coi mỗi dân tộc gần như cá tính một con người: anh Pháp hào hoa làm thơ hay, anh Trung Quốc buôn bán giỏi và mưu lược, anh Lào hiền lành... thì nếu chỉ nhìn vào chuyện giữ gìn vốn cổ không thôi, tôi vẫn nghĩ, anh Việt Nam là người hay nói dối. Dối mình và dối người. Họ quyết tâm giữ gìn bản sắc dân tộc cho đậm đà bằng cái cách cho phép xây nhà hộp tràn lan và nói đơn giản là "thí điểm"? Bằng nhập xe máy Trung Quốc ồ ạt? Bằng cho phép đập biệt thự xưa để xây nhà kính? Bằng xóa sổ cái nhúm di tích vốn đã rất mỏng mảnh của nước ta với lý do để thuận tiện cho hiện đại hóa? Và vẫn không quên kêu gọi giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. 1. Bạn đã đi Đà Lạt chưa? Đã đến Sài Gòn chưa? Đã về những làng Bắc bộ chưa? Nếu chưa, thì bạn nên đi. Bạn nên đi sớm. Đi trước khi những biệt thự bị bỏ hoang đến tàn lụi. Đi trước khi rêu trên tường chùa bị cạo và tượng bị sơn son thếp vàng. Đi trước khi thành phố lớn muốn tạo những dấu chân hiện đại khổng lồ, dẫm lên chính những khẩu hiệu bảo tồn vốn cổ mà mình đã hô hào trước đó. 2. Cách đây mới ba năm thôi, thành phố Hồ Chí Minh của tôi linh đình tổ chức kỷ niệm Sài Gòn 300 năm. Những ảnh cũ được đem ra, món ăn khẩn hoang nấu lại, nhà nhà nghe tên ông Nguyễn Hữu Cảnh, người người nghe lại những địa danh xưa: Gò Cây Mai, đình Thông Tây Hội, kinh Tàu Hủ với bến Bình Đông... Bến Bình Đông, thì năm nay, người ta sắp dẹp nó, để mà làm đại lộ Đông Tây. Cụ Nguyễn Đình Đầu đã phải kêu lên trên báo Tuổi Trẻ: "Xin giữ lấy cảnh quan của Sài Gòn sông nước trên bến dưới thuyền". Bạn phải đi qua khu vực này, thấy được vẻ đẹp (bị bỏ phí của nó) bạn mới hiểu được tiếng kêu của cụ. Thật chẳng khác nào lời kêu cứu và khẩn nài; không biết ví thế này có quá không, nhưng như tiếng kêu của cụ bà Sài Gòn, sau lễ thượng thọ phải nài xin con cháu đừng ném đi cơi trầu cũ với di ảnh cụ ông... Bến Bình Đông, với hai bên bờ là nhà cổ, xưởng xay lúa, là những thứ mà cái túi "vốn cổ" của chúng ta chẳng có nhiều, nhất đây lại là cái thứ hữu hình, bằng nước, bằng gạch, bằng kiểu nhà, cách sinh sống; chứ không phải những thứ lù mù truyền thống, phục hồi lại mỗi nơi một màu cờ phướn và một kiểu đuôi nheo. Thế nhưng, nếu đại lộ Đông Tây đi qua, số phận cảnh trên bến dưới thuyền rất Nam Bộ xưa của bến Bình Đông sẽ chẳng khác gì số phận rêu trăm tuổi của tháp Rùa. Giải tán một khu vực thật chẳng khó, cũng như việc dọn rêu thôi, nhưng cái nỗi ám ảnh rằng mình đã phá tan chỗ trú ngụ của hàng trăm năm lịch sử có đeo đuổi được những người ký quyết định không? Và những người đó là ai? Họ nghĩ gì trong đầu nhỉ? Họ quyết tâm giữ gìn bản sắc dân tộc cho đậm đà bằng cái cách gì đây? Bằng cho phép xây nhà hộp tràn lan và nói đơn giản là "thí điểm"? Bằng nhập xe máy Trung Quốc ồ ạt? Bằng cho phép đập biệt thự xưa để xây nhà kính? Bằng xóa sổ cái nhúm di tích vốn đã rất mỏng mảnh của nước ta với lý do để thuận tiện cho hiện đại hóa? Thử tưởng tượng hai mươi năm sau thôi, những khu nhà cổ (chưa bị đập) ngày hôm nay lên bưu ảnh. Và sẽ có những người chỉ cho con cái mình mà nói: "Chỗ này ngày xưa bố (mẹ) có đi qua, đẹp lắm." Và có những người sẽ không dám chỉ tay vào ảnh mà nói: "Cái khu này chính bố đã ký quyết định đập đi." 3. Tôi lại đọc báo Tia Sáng, có bài của tác giả Vũ Khánh về tiếp thị một hình ảnh Việt Nam. Vậy đấy, cứ rành mạch liệt kê cái vốn ít ỏi của mình ra rồi khai thác triệt để thì khéo lại thành giàu có. Tác giả kể ra, chúng ta có áo dài, có nón, có phở, có nem. Nghe dễ chịu như nghe một người nói đơn giản: "Tôi là thợ may. Lương tôi đủ sống. Tôi thích mặc áo xanh." Một người như vậy cũng hấp dẫn lắm chứ! Cái mộc mạc của họ, cái nghề của họ, sở thích của họ không giống anh, không giống tôi. Việc gì cứ phải thổi phồng lên những gì mình không có, để rồi phá bỏ những cái (tuy ít mà) quý giá của mình? Nếu coi mỗi dân tộc gần như cá tính một con người: anh Pháp hào hoa làm thơ hay, anh Trung Quốc buôn bán giỏi và mưu lược, anh Lào hiền lành... thì nếu chỉ nhìn vào chuyện giữ gìn vốn cổ không thôi, tôi vẫn nghĩ, anh Việt Nam là người hay nói dối. Dối mình và dối người. Chúng ta nói dối nhiều quá. Dối ở chỗ có nhiều việc chúng ta nói một đằng và làm một nẻo. Chúng ta nói, tôi là người có văn hóa và thích chơi đồ cổ, nhưng có con chuột chạy qua là chúng ta (quyết) ném chuột đến vỡ cả bình quý. Chúng ta cung kính ào ạt cho một lễ hội 300 năm Sài Gòn, rồi sau đó thì sẵn sàng thực thi một dự án có phá bỏ những phần cổ kính của Sài Gòn 303 tuổi. Chúng ta không tiếc cả kho tính từ mỹ miều cho cái Chùa Một Cột, nhưng lại tiếc một cái cột bằng gỗ cho nó, khiến bao nhiêu khách phương xa phải chưng hửng. Chúng ta biết mình nghèo mà cứ huênh hoang là mình giàu. Mà trong khi đó, có đứa con nào dám trách mẹ nghèo! Ừ, nước của tôi là thế đấy, nhưng mà chúng tôi tự hào, để tôi cho anh thấy: Cha ông để lại có một chút của (cẩn thận mở gói ra), chúng tôi gìn giữ còn được thế này đây (thấy vẫn còn nguyên), và chúng tôi sẽ giữ cho con cháu (cẩn thận gói lại). Anh cười thì mặc anh! 4. Ông Bá Dương, tác giả người Trung Quốc, có viết một đoạn thế này: "Đã nhiều năm nay, tôi muốn viết một quyển sách dưới tên gọi: 'Người Trung Quốc Xấu Xí'. Tôi nhớ quyển sách 'Người Mỹ Xấu Xí' sau khi viết xong đã được Quốc vụ viện Mỹ dùng làm tài liệu tham khảo cho sách lược của mình. Người Nhật cũng có một quyển sách 'Người Nhật Xấu Xí". Tác giả là Đại sứ Nhật tại Ác-hen-ti-na. Ngài đại sứ này (sau khi viết cuốn sách đó) liền bị cách chức. Đấy có lẽ là cái khác nhau giữa Đông phương và Tây phương..." Nhưng ở Trung Quốc, người ta đã in "Người Trung Quốc Xấu Xí" của ông Bá Dương. Và không phải vì thế mà người Trung Quốc bị nhìn là xấu hơn. Trái lại. “Sợ” những vật lạ Nếu bỗng nhặt được vật thể lạ, người Việt ta sẽ về gọi mọi người cùng ra xem, sau đó cãi nhau như mổ bò mỗi người một ý, tiếp đó mỗi anh tự về bắt chước làm một cái vật na ná với cái vật lạ mà họ chưa biết gọi tên kia. Còn cái tên gọi thật, bản chất thật của cái vật đó, là việc cần biết nhất thì vẫn không ai biết... Khuê Văn: "Để tìm hiểu tính cách của các quốc gia trên trái đất, người vũ trụ mà toàn thể người trên trái đất chưa bao giờ nhìn thấy, thả một vật thể xuống giữa đường rồi ngồi trên đĩa bay chờ xem phản ứng của người trái đất ra sao nếu người đó nhặt vật thể ấy lên. Sau khi nhặt vật lên, nếu chăm chú nhìn vật đó từ mọi góc độ có lẽ đó là người Pháp. Ngược lại, nếu người đó nhặt lên rồi ghé vào tai lắc lắc thì đó là người Đức. Người Pháp là dân tộc có năng khiếu hội hoạ nên họ sẽ cố gắng lý giải đồ vật dưới góc độ thị giác, còn người Đức lại có năng khiếu âm nhạc, dân tộc đã sản sinh ra Beethoven sẽ cố gắng nhận thức vật đó bằng thính giác. Thế nhưng, nếu là người Tây Ban Nha, đất nước của trò đấu bò tót, khi nhặt vật đó lên, để thoả trí tò mò họ sẽ đập vỡ nó ngay chứ không xem xét bằng tai hay bằng mắt gì cả. Người Anh không giống với người Tây Ban Nha là hành động trước rồi mới suy nghĩ. Là người Anh, họ sẽ nhặt vật đó lên, kiên trì sử dụng nó vào việc này hay việc khác và sau khi rút ra kinh nghiệm mọi người sẽ tập trung lại rút ra kết luận đó là vật gì. Còn Người Trung quốc, một dân tộc già dặn và kiên nhẫn hơn người Anh rất nhiều, nên trước khi nhặt vật đó lên người ta sẽ nhìn xung quanh rất kỹ, sau khi xác định là không có ai nhìn thấy thì "người quân tử" đó nhặt nó lên thận trọng đút vào tay áo. Với anh ta, vấn đề không phải đó là cái gì mà là việc vật đó tồn tại mới quan trọng, bởi vì rồi cũng có lúc anh ta biết đó là vật gì. Với người Hàn Quốc, một dân tộc từng bị đói khổ trong trong thời kỳ Nhật thống trị trước kia, phản ứng trước tiên là phải thử bằng lưỡi. Trong cuộc thể nghiệm này tất nhiên không thể thiếu được người Mỹ và người Nga, hai đại diện của phía Tây và Đông, có lẽ trái với sự chờ đợi của chúng ta, họ không có phản ứng gì đặc biệt, không phải đau đầu suy nghĩ! Vậy thái độ của người Nhật sẽ như thế nào? Với người Nhật, họ không cầm lên ngắm nghía hay lắc thử, cũng không đập vỡ hay lặng lẽ cho vào tay áo. Họ không nhờ sự trợ giúp của máy tính hay đảng phái nào bởi vì là những con người rất hiếu kỳ. Quả là như vậy, sau khi nhặt lên, người Nhật sẽ làm thử một cái giống như thế và chắc chắn không chỉ để chế tạo ra một vật hoàn toàn đúng kích thước của vật thật mà còn thu nhỏ lại một cách tinh xảo, gọn tới mức có thể cho vào lòng bàn tay. Sau đó, họ sẽ ngắm nghía một cách kỹ càng và nói: "Nasudoho!" (à, ra thế!) và vỗ đùi sung sướng. Bạn thử nghĩ xem, nếu người Việt chúng ta nhặt được vật đó, thái độ sẽ thế nào?" Tôi cảm thấy nóng gáy. Tất nhiên không chỉ để tìm ra câu trả lời về phản ứng của người Việt chúng ta. Trong các liệt kê ở đây không có người Việt, có nghĩa là chúng ta vẫn bị xem như một xứ nhược tiểu. Tính cách dân tộc của chúng ta không đủ mạnh cũng như tầm vóc của chúng ta chưa đủ lớn để có thể liệt kê với các dân tộc khác trên thế giới. Song, dù thế nào chúng ta cũng phải có một phản ứng trước vật thể lạ kia nếu chẳng may trên đường đi chúng ta bắt gặp chứ! Vậy thì người Việt sẽ làm gì? Đây là suy đoán của tôi: Khi nhìn thấy vật đó, người Việt sẽ chạy đi tìm nhiều người khác cùng đến xem. Sau khi phỏng đoán xem vật đó là gì, một cuộc tranh cãi khủng khiếp đã diễn ra, chỉ vì không ai chịu công nhận tuyên bố của kẻ khác. Ai cũng cho rằng mình đúng. Rồi mệt mỏi, bất phân thắng bại, mỗi người về tự làm một vật giống với vật mà họ đã trông thấy theo trí tưởng tượng của riêng mình. Kết quả là có rất nhiều vật trông có vẻ giống với vật lạ mà họ thấy nhưng vật kia là gì thì họ vẫn không thể biết được. Đối với người Việt thì "vật kia là gì?" có vẻ không quan trọng bằng việc ai đoán đúng. Nếu vật kia là vật chất, trên thị trường sẽ có rất nhiều hàng giả, giống như thật nhưng không dùng được. Nếu vật kia là siêu hình, một học thuyết hoặc một tư tưởng, một chủ trương nó sẽ được áp dụng rất thô bạo và sai lệch bởi vì điều quan trọng nhất: "Nó là cái gì?" thì người Việt Nam thường tỏ ra kém năng khiếu khi giải thích bản chất sự vật. Chúng ta đã có bao nhiêu bài học vì sự sai lệch này? Và điều mà chúng tôi vẫn muốn quan tâm là: theo bạn, người Việt Nam chúng ta sẽ làm gì? Thảo Hảo: Ở nước ta, bản thân việc nhặt được vật lạ chưa phải là tốt hay xấu, mà phải đợi cho có kết luận của cơ quan chức năng sau khi xem xét mới biết là rủi hay may. Chính điều này nhiều khi làm ta lưỡng lự khi bất chợt thấy một vật lạ trên đường. "Có nên mang về không? Có nên hét lên cho mọi người biết là nó "lạ" không?" Ta tự hỏi. Bởi vì ta đã biết bố mẹ chúng ta hình như hơi sợ những cái gì là "lạ", họ cho rằng hệ tiêu hóa của chúng ta còn non nớt. Nếu chúng ta hét lên, họ giấu béng vào tủ, và chúng ta cũng mất luôn cả cái cơ hội gọi bạn bè đến mà thảo luận về bản chất cũng như tên gọi của cái vật lạ kia. Nếu bạn thường xuyên sống trong tâm trạng "không-để-bố-biết-mình-nhặt-được-vật-lạ", thì lâu dần, bạn sẽ mất thói quen ngắm nghía vật lạ ngay cả khi nó nằm hẳn trong lòng bàn tay. Trong khi con cái nhà người ta, được bố mẹ khuyến khích đi tìm cái lạ, sẽ băng rừng, vào núi, mang về những thứ lóng lánh để mà tự hào. Cũng có khi mang về, bố mẹ nó sẽ cho nó biết, vật này thường lắm, chẳng lạ đâu con, khiến nó thất vọng vứt đi, thì ít nhất cái cuộc hành trình đi tìm cái lạ của nó cũng đã là một phần thưởng. Thế đấy, người Việt Nam ta là con nhà lành, bố mẹ cẩn thận (có lý do). Cẩn thận dạy con tránh vật lạ ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, với những bài văn không được đi chệch lối, sách đọc tham khảo thì chỉ nên đọc tác giả này (tức là thầy) mà đừng đọc tác giả kia, không thì điểm kém. Cẩn thận tránh ngắm những triển lãm nhìn-mãi-không-hiểu-ý; tránh cho nhau đọc những từ ngữ mạnh bạo, tình tính dục gì đó - những cái có thể đề cập đến tận đáy sâu con người; Ở tầng nông, lửng lơ thôi, vì đáy sâu là đáy lạ, không ai xuống tận nơi thẩm tra được. Chúng ta đã được giáo dục để tránh xa cái lạ, đến mức gán cho cái lạ đến 70% là nguy hiểm. Trước những vật thể lạ, chúng ta không dại mà cầm lên ngay, dí sát vào mắt tìm tương quan thị giác như người Pháp, càng không mạo hiểm lắc lắc bên tai tìm tiếng nhạc như người Đức, càng quyết không đập vỡ xem cái bản chất, cái tận cùng của nó là gì, như chú Tây Ban Nha...(những cái này tôi lấy ở đọan trích trong bài của Khuê Văn, chứ "lạ" thế, tự tôi không nghĩ ra.) Không, chúng ta không liều mạng thế. Việc trước nhất, ta phải ghi nhớ: đã lạ là nhiều phần nguy hiểm. Nên nếu thấy vật lạ, chúng ta cần rủ vài người cùng đến xem cho có nhiều kẻ cùng phạm tội. Ta đứng từ xa, và quyết không đưa ra ý kiến rõ ràng. Bởi vì, nếu ý kiến của ta hay, anh bên cạnh sẽ ăn cắp mất (và đăng trên báo khác), nếu ý kiến của ta nhỡ đâu không đúng, thế thì mất mặt ta. Mà thật ra, ta không phát biểu bởi vì ta cũng không chắc được lời ta nói ra là đúng hay là sai, là hay hay là dở. Về vật lạ, ta cần có một cơ quan thẩm định, với những nhân vật ta biết thẩm định còn dở hơn ta, họ hẹn 2h nhưng 6h vẫn chưa thấy tới. Nhưng ta phải đợi họ đến, vì không thì ai là người chịu trách nhiệm trước cái vật lạ khốn kiếp tự nhiên rơi xuống cuộc đời đều đặn và an nhàn này. Thế rồi ta oán vật lạ... Lạ làm gì không biết cơ chứ! Cơ quan thẩm định rồi cũng tới, khi tất cả đều đã mòn mỏi. Và vì họ cũng là người Việt Nam, cho nên họ cũng sẽ im lặng, vì họ cũng hoang mang như ta... Tất cả sẽ đợi như thế. Trăng sẽ lên. Trong ánh trăng bàng bạc mà cô độc ấy, vật thể lạ trên mặt đường tan dần, tan dần. Nó teo tóp lại, lộ rõ vẻ vô hại, bợt bạt dần đi, mang theo cả cái bí mật trong lòng, trôi đi mất cả xuất xứ. Và chúng ta ra về, hội đồng giám định về trước vì có xe con. Chúng ta ra về sau, lòng hơi buồn buồn, vì mãi vẫn không có ai sờ được đến vật lạ đó, ngửi tới nó, thậm chí đá vào nó một cái. Và nhất là, trong lòng ta lại tiếc rẻ, nếu biết nó không hại như thế này, thì lúc nãy mình đã liều khen một câu, rồi mang về, bán. Lòng ganh tỵ của các nhà khoa học Lòng ganh tị của một nhà khoa học Đức đối với một bạn đồng nghiệp được thể hiện bằng cách bỏ ra 5 năm học hết lý thuyết của người ấy và bỏ thêm 5 năm nữa để nâng lên thành một lý thuyết cao hơn.Lòng ganh tị của một nhà khoa học Việt Nam đối với bạn đồng nghiệp được thể hiện bằng việc tìm cách chuyển sang ngạch hành chính tổ chức để ngăn chặn việc công bố và ứng dụng lý thuyết của hắn ta. Sở dĩ như vậy là vì trong phần lớn các cơ quan của ta, kể cả cơ quan khoa học, dân chuyên môn thường lép vế một cách tuyệt đối nếu đồng thời không phải là cán bộ hành chính hay tổ chức. Ngay cả về phương diện chuyên môn, cán bộ hành chính hay tổ chức, dù không phải là dân chuyên môn, cũng có quyền quyết định khi xét duyệt các công trình chuyên môn (quyết định đưa vào kế hoạch, quyết định cho phép công bố hay thi công, quyết định cách đánh giá khi xét “lao động tiên tiến” hay “chiến sĩ thi đua” ). Điều này hoàn toàn hợp lý, vì mỗi công trình khoa học hay nghệ thuật đều là một đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân. Hơn nữa, ta thấy có những người nhường quyền tác giả công trình nếu liệu chừng công trình sẽ khó được khen thưởng do tác giả có sai phạm gì đó về đạo đức hay thuộc một thành phần có vấn đề, để “dồn” thành tích lại cho một người khác có những ưu thế khiến cho họ dễ được chấp nhận thành tích hơn. Vì vậy, các chuyên gia lần lượt thôi làm khoa học kỹ thuật và chuyển sang ngạch hành chính tổ chức để có thực quyền về khoa học kỹ thuật. Gì cũng cười Dân tộc nào cũng có những thói xấu riêng.Người Việt ta có nhiều phẩm chất đẹp nhưng cũng không ít tật dở. Mời các bạn cùng xem những bài khảo luận của các học giả Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 về những tật xấu của dân tộc mình. Chỉ có điều, người Việt trẻ ngày nay hẳn sẽ khác với bà con làng xóm của anh Chí ngày xưa: “Nói vậy chắc nó trừ mình ra !” An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang. Có kẻ bảo cười hết cả, cũng là một cách của người hiền. Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thảy không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày mà nghĩ ngợi. Ví dù được y như vậy, thì ra nước An Nam ta cả dân là người hiền. Nếu thế tôi đâu dám đem lời phường chèo mà nhủ người nhếch mép bỏ tính tự nhiên mà làm bộ đứng đắn lại, nghiêm nhìn những cuộc trẻ chơi. Nhưng mà xét ra cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác; có cái láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên trí không phải nghe hết lời người ta mà gièm trước ý tưởng người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc người ta. Thực không có tức gì bằng cái tức phải đối đáp với những kẻ nghe mình nói chỉ lấy tiếng cười hì hì mà đáp. Phản đối không tức, kẻ bịt tai chẳng thèm nghe cũng không tức đến thế... Ừ, mà gì bực mình bằng rát cổ bỏng họng, mỏi lưỡi, tê môi, để mà hỏi ý một người, mà người ấy chỉ đáp bằng một tiếng thì khen chẳng ơn, mắng chẳng cãi, hỏi chẳng thưa, trước sau chỉ có miệng cười hì hì, thì ai không phải phát tức. Ta phải biết rằng, khi người ta nói với ta, là để hỏi tình ý ta thế nào. Ai nói với mình thì mình phải đáp. Tuỳ ý mình muốn tỏ tình ý cho người ta biết thì nói thực; không hiểu thì hỏi lại; mà không muốn nói tình ý cho người ta biết, thì khéo lấy lời lịch sự mà tỏ cho người ta hiểu rằng câu hỏi khi phạm đến một điều kín của mình. Hoặc là có khôn thì lựa lời mà tỏ cho người ta biết những điều mình muốn cho biết mà thôi, và khiến câu chuyện cho người ta không khỏi căn vặn được mình nữa. Nhưng phàm người ta hỏi, mình đã lắng tai nghe, là mình nợ người ta câu đáp. Thích buộc mình vào mảnh đất… trời Tây Người Do Thái bị Trời đày lưu lạc ở nước ngoài cố tích luỹ lấy một tài sản lớn rồi tìm hết cách để trở về Cõi Đất Hứa khô cằn của mình. Người Việt Nam được Trời đãi một cõi rừng vàng bể bạc mà vẫn cố phát mãi tài sản đi để tìm hết cách ra sống ở nước ngoài. Sự gắn bó của người dân Việt Nam với mảnh đất quê hương từ rất lâu đã trở thành huyền thoại. Người Pháp thường nói rằng: “Đời người nông dân Việt Nam bị buộc chặt vào mảnh đất”. Nhưng ngày nay, cái truyền thống đó không còn như cũ nữa. Một xu hướng mới đang thay thế dần cho tinh thần bám gốc bám rễ quê hương của người nông dân Việt Nam. Đó là xu hướng tha phương cầu thực khá mạnh, có thể là chỉ vì muốn kiếm một số vốn đủ để xây một toà “vin-na” khang trang có thể bì với các “vin-na” khác trong làng. Nhưng muốn thế, trong nhà nhất thiết phải có người đi làm ăn ở nước ngoài. Trước đây, nghe một thanh niên Thuỵ Điển nói rằng anh ta “chỉ ước sao một buổi sáng tỉnh dậy bỗng thấy mình là người Việt Nam” quả cũng rất sướng tai, nhưng thiết tưởng cũng chẳng bổ ích là bao. Bổ ích hơn nhiều là biết nhận ra rằng bên cạnh những cái tuyệt vời, và hơn nữa, phải trừ khử đi mới mong nhích gần đến chỗ tuyệt vời. Người có cơ tiến xa là người biết nghe người khác chế giễu mình mà không giận, và nhất là biết tự chế giễu mình, vì khi đã tự thấy mình lố lăng thì khó lòng có thể tiếp tục lố lăng mãi. Những tính cách trì níu dân tộc Việt Chúng ta hay thắc mắc về dân tộc mình. Tính cách nào mang lại cho dân tộc Việt Nam một sức sống mãnh liệt đến thế, để vẫn tồn tại, vẫn chiến đấu và chiến thắng mọi cuộc xâm lăng bạo tàn? Để mình vẫn là mình - Một dân tộc biết cách sống còn bên một dân tộc lớn, ngay cả trong 1000 năm Bắc thuộc...Nhưng sau những chiến công hiển hách ấy, những tính cách nào đã có "trong ta", để trở thành một lực cản, một sự níu kéo, làm ta bước khó khăn hơn trên con đường mới? Câu hỏi ấy đang là câu hỏi thôi thúc hôm nay. Cứ lấy bạn bè và cuộc sống xung quanh cùng bao câu chuyện kể truyền miệng làm ví dụ. Và thử đặt ra vài câu hỏi thô sơ mà hỏi nhiều người. Trang trải nỗi niềm của riêng mình và không chỉ của riêng mình, mà của cả một lớp trẻ còn có một chặng đường dài ở phía trước để đi lên, nên rất mong nhận lại một sự bày tỏ đầy thiện ý, dù là nghiêm khắc hay khắt khe. Nhược điểm thứ nhất: sự thiếu hụt đạo đức. Người Việt Nam thừa trí tuệ. Người Việt Nam cũng rất khéo tay. Nhưng nhiều người Việt Nam ngày nay không coi đạo đức là điều kiện tiên quyết của cuộc sống. Chúng ta có nhiều ví dụ nhỏ về việc này... Nên tôi chỉ lo rằng nếu thiếu đạo đức, người nào cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi vật chất trước mắt của mình, không nghĩ tới người khác, không nghĩ tới gia đình, không nghĩ tới xã hội, không hiểu nổi rằng ở đời có những giá trị cao hơn tiền bạc và quyền lợi của mình nằm trong quyền lợi xã hội. Tham nhũng bắt nguồn từ đó, và kẻ tham nhũng không hiểu nổi rằng: "mình không thể hạnh phúc khi, trừ mình, mọi người đều khổ sở" (Jean Paul Satre). Nhược điểm thứ hai: trong kinh doanh người Việt Nam hay bắt chước nhưng thiếu sáng tạo. Thấy người khác bán phở thành công ta cũng mở hàng phở ngay bên cạnh, từ đó hình thành một phố "phở" cạnh tranh lẫn nhau rồi làm suy yếu lẫn nhau. Ở nhiều khu vực kinh doanh ăn uống của người Hoa, bên cạnh xe hủ tiếu là xe mì, rồi bột chiên, cháo gà, rồi sâm bổ lượng. Người Nhật đã từng bắt chước công nghệ nước ngoài, nhưng không sao chép máy móc. Nắm được bí quyết, họ liền sáng tạo, thêm tính năng, tác dụng, tiện nghi; cải tiến không ngừng để biến cái cũ thành cái mới, biến công nghệ nước ngoài thành công nghệ Nhật. Nhược điểm thứ ba: người Việt Nam thiếu sự trì chí trong sự nghiệp làm giàu. Ta từng nghe những nhà tư sản người Hoa khi mới sang Việt Nam chỉ có chiếc quần "xà lỏn" và gánh ve chai. Vậy mà ba chục năm sau, nhờ trì chí và cần kiệm, họ lập nên cơ nghiệp lớn. Ta khó tìm thấy tấm gương tương tự ở Việt Nam. Trái lại, có những điền chủ giàu "nứt đố đổ vách" nhưng chỉ biết tiêu xài phung phí từ đời cha đến đời con, dẫn đến tiêu tan sản nghiệp. Hoặc có những kẻ muốn làm giàu thật nhanh bằng phương cánh bất chính, để rồi "bạo quát, bạo tàn". Họ không biết rằng gây dựng một sản nghiệp cũng giống như trồng một vườn cây lâu năm, không thể "ăn xổi ở thì".