Cậu Bé Cưỡi Rồng Tác giả: Christopher Paolini Dịch giả: Đặng Phi Bằng Nguồn: Việt Nam Thư Quán Convert by: tuanvietvn@gmail.com 0912246642 0f http://sl4x.com Tà thần của mối hãi hùng Gió gào thét suốt đêm, mang theo mùi hương sẽ làm đổi thay thế giới. Một Tà Thần cao lớn vươn đầu đánh hơi không khí. Trông hắn giống người, ngọai trừ mái tóc đỏ rực và đôi mắt màu hạt dẻ. Hắn chớp mắt ngạc nhiên. Tin chính xác: tụi kia đã có mặt tại nơi này. Hay đây chỉ là cạm bẫy? Hắn suy tính rồi lạnh lùng ra lệnh: "Phân tán ra. Tìm gốc cây, bụi rậm mà ẩn núp. Ngăn chặn ngay bất kỳ kẻ nào tiến tới...nếu không các ngươi sẽ chết." Lố nhố quanh hắn là mười hai con quái thú Urgals, vũ trang kiếm ngắn và những tấm khiên tròn bằng sắt, có sơn những dấu hiệu màu đen. Chúng cũng tương tự con người, với đôi chân khuỳnh khuỳnh và đôi tay lực lưỡng của loài thú dữ dùng để bóp nát địch thủ. Trên đôi tai nhỏ xíu của chúng là cặp sừng xoắn vặn. Nghe lệnh chủ nhân, bầy quái thú kêu ụt ịt, vội vàng tìm chỗ núp. Ngay khi tiếng xào xạc im ắng, khu rừng trở lại yên lặng như tờ. Tà Thần đảo mắt quan sát quanh một thân cây lớn, rồi ngước nhìn lên con đường mòn. Trời tối đen như mực, mắt người thường không thể thấy gì, nhưng với ánh nhìn sắc sảo của hắn, chỉ cần chút ánh trăng lu, mọi chi tiết đều rõ ràng như nắng ban ngày. Hắn lặng lẽ đứng, tay cầm thanh kiếm dài. Trên lưỡi kiếm sáng ánh thép xanh, có một vết xước hằn sâu. Lưỡi kiếm mỏng tang, đủ để xuyên ngọt xớt giữa hai xương sườn, nhưng cũng đủ mạnh để chặt đứt một bộ giáp sắt cứng rắn nhất. Thị lực của lũ Urgals không mạnh như Tà Thần, chúng ôm vũ khí lần mò như bầy ăn mày mù. Một con cú rúc xé tan bầu yên lặng. Tất cả hốt hoảng cho đến khi con chim khuất dạng. Bầy quái thú run cầm cập trong đêm lạnh buốt, một tên lúng túng đạp đôi ủng nặng chịch lên một cành khô. Tà Thần rít lên giận dữ, làm bầy quái thú rúm người lại, không dám nhúc nhích. Hắn quay đi, cố nén sự tởm lợm vì mùi hôi như thịt thối bốc ra từ lũ Urgals. Dù sao chúng chỉ là những dụng cụ, không hơn không kém. Mỗi phút trôi qua, Tà Thần phải cố khỏi bồn chồn. Hương thơm của những kẻ đang tiến tới đã thoang thoảng trong không khí. Hắn không cho phép lũ Urgals đứng dậy để khởi động cho ấm người, chính hắn cũng không cho phép mình được hưởng trò xa xỉ đó. Một cơn gió mạnh đem theo hương thơm ngào ngạt hơn. Hắn nóng nảy, nhếch mép gầm gừ. "Sẵn sàng." Hắn thì thầm ra lệnh, toàn thân run rẩy. Mũi kiếm hươ hươ thành một vòng tròn nhỏ. Phải mất bao nhiêu mưu đồ và đau đớn, hắn mới đạt được phút giây này, không thể mất bình tĩnh để hỏng việc được. Dưới đôi mày rậm rì, mắt tụi quái thú rực sáng. Chúng nắm chặt vũ khí trong tay. Phía trước chúng, tên Tà Thần nghe tiếng một vật chạm vào cục đá. Những bóng đen lờ mờ xuất hiện trong đêm tối và đang thả dốc con đường mòn. Ba kỵ sĩ trên lưng ba con ngựa trắng, thong dong đi nước kiệu về phía chúng đang phục kích. Trên con ngựa đi dầu là một vị thần tiên với hai tai nhọn và đôi lông mày thanh nhã. Thân hình ông ta mảnh khảnh nhưng rắn chắc như một thanh gươm. Cung trên lưng, một bên hông là cây kiếm và bên kia là ống đựng đầy những mũi tên gắn lông thiên nga. Kỵ sĩ đi sau cùng mặt mày, vóc dáng cũng thanh tú như vậy. Tay phải ông ta cầm một cây thương dài, thắt lưng gài một mũi dao găm, đầu đội một mũ sắt giát vàng và gắn hổ phách tuyệt đẹp. Cưỡi ngựa đi chính giữa là một nàng tiên tóc đen mun, nàng luôn nghiêm nghị quan sát chung quanh. Những lọn tóc đen bao quanh đôi mắt sâu, ngời sáng. Trang phục đơn giản nhưng không làm giảm nhan sắc của nàng. Một thanh kiếm đeo bên mình và sau lưng là ống đựng tên, nàng luôn nhìn cái túi đeo phía trước, như để yên tâm là nó vẫn còn đó. Một kỵ sĩ nói nho nhỏ, Tà Thần không nghe rõ, nhưng hắn thấy nàng tiên trả lời với vẻ đầy quyền uy và hai vệ sĩ hoán đổi vị trí với nhau, người đội mũ sắt tiến lên dẫn đầu. Họ đi qua ổ phục kích của Tà Thần và lũ Urgals không chút nghi ngờ. Vừa lúc Tà Thần sẵn sàng hưởng men chiến thắng, thì gió đổi chiều, thốc mùi sú uế tanh tưởi của bầy quái thú về phía các thần tiên. Ba con ngựa ngửa cổ ra sau, khịt mũi cảnh giác. Các kỵ sĩ sững người, nhìn quanh, rồi quay đầu ngựa phóng nhanh. Nhưng con ngựa của nàng tiên lại lao về trước, tách xa khỏi hai vệ sĩ của nàng. Lũ Urgals ra khỏi chỗ núp, bắn như mưa những mũi tên đen. Từ sau thân cây, Tà Thần tiến ra, đưa cao tay phải, thén lên: "Garjzla!" Một tia chớp đỏ từ bàn tay hắn phóng về nàng tiên mau như tên bắn. Cây cối xung quanh rực sáng một màu đổ máu. Con ngựa rống to, quị xuống. Nàng tung mình khỏi lưng ngựa lanh lẹ phi thường, rồi nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất và ngoái nhìn hai vệ sĩ. Bầy Urgals xông tới hai vệ sĩ bị trúng tên nằm trên vũng máu, nhưng Tà Thần gào lên ra lệnh: "Đuổi theo ả. Ả mới là kẻ ta cần bắt." Bầy quái thú gừ gừ chạy gấp xuống đường mòn. Nàng bật lên tiếng kêu khi thấy hai kẻ đồng hành đã chết. Tiến lên một bước, nàng nguyền rủa kẻ thù, rồi nhảy vọt vào rừng. Trong khi bầy Urgals rầm rầm truy đuổi trong rừng, Tà Thần lên tảnh đá cao quan sát. Hắn giơ tay lẩm bẩm: "Boetq istalri!", một khoảng rừng bùng thành ngọn lửa. Lần lượt, hắn đốt từng mảng cho đến khi đám cháy kết thành một vòng tròn, thu hẹp vùng đám quái thú đang lục soát. Hắn hả hê đứng canh ngọn lửa. Thình lình hắn nghe những tiếng kêu la, gầm rú. Qua những ngọn cây, hắn thấy ba thủ hạ bị thương quằn quại, chất đống lên nhau và nàng tiên đang cố thoát chạy khỏi những tên Urgals còn lại. Nàng chạy như bay tới một tảng đá lớn. Tà Thần quan sát mặt đất chùng mười thước dưới kia, rồi nhẹ nhàng buông mình xuống trước mặt nàng. Nàng quay đầu, phóng người trở lại đường mòn. Máu Urgals đen ngòm còn nhỏ giọt trên lưỡi kiếm của nàng và lốm đốm trên chiếc túi nàng đang giữ rịt trong tay. Nhưng lũ quái đầu sừng đã từ trong rừng tiến ra, chặn ngang con đường độc đạo. Nàng nhìn quanh tìm đường tẩu thoát. Biết là vô vọng, nàng tiên đứng thẳng người, với vẻ đầy ngạo mạn của một vị vương giả. Tà Thần khoan khoái trước sự thất bại của kẻ thù, giơ cao tay tiến tới, ra lệnh cho bầy quái: "Bắt nó". Khi bầy quái xô tới, nàng mở túi, lấy một vật ra rồi ném túi xuống đất. Bây giờ, cùng ánh lửa bập bùng, trong tay nàng viên ngọc bích phản chiếu lại một tia sáng đầy giận dữ. Nàng đưa viên ngọc lên khỏi đầu, miệng lẩm nhẩm mấy câu thần chú. Trong cơn tuyệt vọng, Tà Thần thét lớn: "Garjzla!" Một quả bóng lửa đỏ rực phóng khỏi tay hắn, bay tới nàng. Nhưng quá muộn. Một tia chớp màu ngọc bích làm sáng cả khu rừng và viên ngọc vụt biến mất. Lúc đó ánh lửa đỏ mới xô nàng ngã ngất. Tà Thần gầm lên tức giận, phóng ngập nửa thanh kiếm vào một thân cây, chuôi kiếm rung len bần bật. Hắn điên cuồng tung liên tiếp chín chưởng giết sạch lũ quái đầu sừng, rồi mới rút kiếm khỏi thân cây tiến lại gần nàng. Hắn lèm bèm một tràng nguyền rủa bằng thứ ngôn ngữ xấu xa chỉ mình hắn hiểu, vì Tà Thần đoán trước sẽ có những trận phục thù. Hắn nắm tay, ngửa mặt nhìn trờ. Những vì sao, im tăm tắp, lạnh lùng nhìn lại hắn. Hắn ngạo mạn nhếch mép, rồi trở lại nàng tiên đang bị mê man. Sắc đẹp của nàng có thể làm say đắm bất cứ một người bình thường nào. Nhưng không thể làm mê hoặc được hắn. Biết chắc viên ngọc đã mất, hắn dắt ngựa khỏi nơi phục kích. Buộc nàng tiên lên yên xong, hắn nhảy lên con chiến mã, ra khỏi khu rừng. Hắn dập tắt lửa mở lối ra, nhưng tất cả đám cháy chung quanh vẫn để hừng hực lửa. Vật lạ giữa rừng hoang Eragon quì trên đám cỏ tranh bị dày xéo, quan sát những dấu vết bằng con mắt lành nghề. Những dấu vết chứng tỏ bầy nai mới qua đồng cỏ chừng nửa tiếng trước thôi. Mục tiêu của nó là con hoãng cái có một chân trái trước bị khập khiễng, nhưng vẫn bám theo bầy. Nó ngạc nhiên, không ngờ con hoãng què này đi xa đến thế, mà không bị con sói hay con beo đen nào vồ được. Bầu trời tối và trong. Không khí hây hẩy gió mát. Một cụm mây bạc nhô trên rặng núi bao quanh nó. Trăng tháng chín lơ lửng giữa hai ngọn núi, làm những sườn núi sáng lên hồng hào. Những dòng suối róc rách trên núi, từ những tảng băng tan, lấp loáng những mảng tuyết trắng. Sương mù là đà dưới thung lũng dầy đặc gần như có thể che kín đôi chân của Eragon. Năm nay Eragon được mười lăm tuổi, còn một năm nữa mới trưởng thành. Đôi mắt nó có vẻ cứng rắn dưới cặp chân mày nâu sậm. Làm việc vất vả, nên quần áo nó rách tả tơi. Một con dao săn dắt thắt lưng, một bao da nai bảo vệ cây cung bằng gỗ tùng khỏi sương mù, và trên lưng là một ba lô khung bằng gỗ. Nó đã theo dấu nai vào tân vùng Spine, một rặng núi trùng điệp nhấp nhô trải dài trên đất nước Alagaesia. Những câu chuyện kể và những con người kỳ lạ thường đến từ dãy núi này, và luôn là điềm báo trước những chuyện chẳng lành. Tuy vậy, Eragon không hề sợ vùng núi Spine, nó là tay thợ săn độc nhất dám theo dấu thú rừng vào tận hang ổ chúng, trong những nơi đầy hiểm trở. Đây là đêm thứ ba trong chuyến này, và lương thực của nó chỉ còn một nửa. Nếu không săn được con hoẵng, nó bắt buộc phải trở về tay không. Gia đình nó đang cần lương thực cho mùa đông đã cận kề, mà mua thịt tại Carvahall lại không có khả năng. Eragon đứng lặng dưới ánh trăng mờ, rồi cả quyết len lỏi trong rừng tiến đến một thung lũng nhỏ, nơi nó tin chắc bầy nai tìm chỗ nghỉ. Tàng cây đổ bóng trên đường, nó nhìn lối mòn theo thói quen thôi, nó quá rành đường đi nước bước khu vực này. Tới thung lũng nhỏ, Eragon chỉnh giây cung, rút ba mũi tên, gắn một mũi vào cung, tay trái cầm hai mũi tên còn lại. Dưới ánh trăng, chừng hai ba chục con nai nằm bất động trên bãi cỏ. Con hoẵng nó đang theo đuổi nằm ngoài lề, một chân trước vụng về xoãi ra. Eragon từ từ tiến tới, nâng cung. Tất cả vất vả suốt ba ngày qua mới có được lúc này. Nó hít một hơi dài lần cuối trước khi buông dây cung, nhưng ngay lúc đó một tiếng nổ phá tan màn đêm. Bầy thú vùng bỏ chạy. Eragon vội xông tới, rượt đuổi theo qua bãi cỏ. Một làn gió nóng rát phả qua má nó. Nó khựng lại, và buông dây cung, mũi tên bay về hướng con hoẵng đang chạy trốn, nhưng lệch đích chỉ chừng một lóng tay và mũi tên phóng vào đêm tối. Eragon càu nhàu quay lại, quen tay rút mũi tên khác. Nơi bầy thú vừa nằm, vòng tròn khói dày đặc một vùng cây cỏ. Những cây thông trơ cành, trảng cỏ bên ngoài đám cháy nằm rạp xuống. Một cụm khói khét lẹt cuồn cuộn bốc lên không. Chính giữa nơi phát nổ, chình ình một viên đá xanh sáng bóng. Sương mù hư ảo uốn éo vờn qua viên đá. Trong nhiều phút, Eragon đứng lặng nhìn xem có gì nguy hiểm xảy ra không, nhưng ngoài những dãi sương mù, nó không thấy gì khác lạ. Thận trọng, nó lỏng tay cầm cung, mon men tiến tới. Ánh trăng đổ bóng nó nhợt nhạt đứng trước viên đá. Eragon, lấy mũi tên khều nhẹ viên đá, rồi nhảy vội giật lùi. Không có gì xảy ra, nó e dè nhặt viên đá lên. Thiên nhiên chẳng bao giờ mài nhẵn viên đá được thế này. Bề mặt viên đá xanh thẫm, với những đường vân trắng li ti như lưới nhện. Viên đá mát lạnh, không chút trầy xước. Dưới những ngón tay Eragon, viên đá êm như lụa, hình quả trứng, dài chừng ba mươi phân và có vẻ nặng chừng vài kí, nhưng nó cảm thấy viên đá nhẹ hơn nhiều. Nó thấy viên đá vừa đẹp vừa đáng sợ. Nó tự hỏi, viên đá này từ đâu tới? Có mục đích gì không? Viên đá ngẫu nhiên được chuyển tới nơi này hay chủ tâm dành cho nó? Nếu đúng như những gì nó được biết qua những chuyện cổ tích, thì viên đá này dành cho những gì về phép thuật, mà kẻ nào sử dụng, phải vô cùng thận trọng. Nhưng mình làm gì với viên đá này? Khuân được nó về nhà cũng mệt đứt hơi, ấy là chưa kể có thể còn gây nguy hiểm. Tốt hơn là cứ bỏ nó tại đây. Nhưng vừa thoáng quyết định quăng viên đá xuống đất, thì dường như tay nó bị ngăn lại. Nó nhún vai tự nhủ, ít ra có thể cũng đem đổi được chút thịt, vậy là nó bỏ viên đá vào ba lô. Nơi này quá trống trải, Eragon đi sâu trở lại vào rừng tìm chỗ ngủ. Nó trải chăn dưới một thân cây bật gốc. Sau bữa ăn lạnh, bánh mì và phô ma, Eragon cuốn chăn, lơ mơ nghĩ ngợi về những gì mới xảy ra, rồi chìm vào giấc ngủ. Thung lũng Palancar Sáng hôm sau, vầng dương ló dạng với những màu hồng và vàng tươi rực rỡ. Không khí trong lành, ngọt ngào nhưng lạnh ngắt. Hai bờ những con suối, nước đã đóng băng và những hồ nhỏ hoàn toàn đông đặc như nước đá. Sau khi lót lòng bằng chút bánh bột, Eragon trở lại qaun sát khoảng cháy đêm qua. Ánh sáng ban mai mọi rõ từng chi tiết, nhưng nó không tìm ra được điều gì mới. Eragon sửa soạn về nhà. Con đường đầy vết thú đi qua chỉ còn lờ mờ, nhiều chỗ hoàn toàn mất dấu, tuy nhiên đây vẫn là lối đi ra khỏi rặng núi này mau nhất. Núi Spine là nơi duy nhất vua Galbatorix không tuyên bố là của riêng ông ta. Nhiều câu chuyện đã kể về vụ nửa đoàn quân của nhà vua đã biến mất trong khu rừng già đó như thế nào. Sự bất hạnh như dải mây mù luôn lơ lửng trong rừng núi. Dù cây cối tốt tươi, xanh ngăn ngắt và bầu trời luôn rạng rỡ, nhưng chỉ ít kẻ ở lại Spine một thời gian mà không gặp tai ương. Và Eragon là một trong những con người ít ỏi đó. Dường như, với nó, cũng chẳng có ân huệ đặc biệt nào, mà chỉ vì nó thường trực cảnh giác và luôn phản ứng nhanh nhạy. Vì dù nó đã từng bao năm lang thang trong vùng núi này, nhưng nó luôn lo ngại mỗi khi nghĩ đến những bí hiểm mà khu rừng già này lưu giữ, chẳng hạn như sự xuất hiện của viên đá vừa qua. Xế chiều, Eragon tới bờ dốc thẳng đứng của một khe suối. Con sông Anora cuồn cuộn phía dưới, trôi về hướng thung lũng Palancar. Nuốt chửng hàng trăm con suối nhỏ, dòng sông hung hãn chiến đấu cùng những tảng đá ngăng đường nó đi qua. Tiếng nước đập ì ầm vang trong không gian. Eragon cắm trại bên khe suối, ngắm trăng lên, trước khi chui vào chăn ngủ. Hơn một ngày sau, trời trở lạnh hơn. Eragon rảo bước và ít gặp thú hoang dọc đường đi. Quá trưa, nó nghe tiếng sóng vỗ ì ầm rầu rĩ của thác Igualda. Theo đường mòn, nó lên một tảng đá nổi ẩm ướt. Đây là nơi dòng sông chảy qua, rồi phóng mình vào khoảng không, trước khi đổ xuống vực thẳm phủ đầy rêu phía dưới. Trước mặt nó, thung lũng Palancar phơi mình như một tấm bản đồ trải rộng. Hơn một dặm rưỡi dưới kia, là chân tháp Igualda, điểm cực bắc của thung lũng. Từ chân thác, những con đường nhỏ dẫn vào Carvahall, một xóm nhà toàn màu nâu. Những ngọn khói trắng từ những ống khói nhà bay cao như thách thức cảnh hoang dã chung quanh. Từ độ cao Eragon đang đứng, vườn tược như những mảnh vuông vá víu, chỉ lớn bằng đầu ngón tay của nó. Đất đai chung quanh xám ngoét, cỏ khô quay cuồng theo làn gió. Dòng sông Anora uốn mình từ chân thác, tiến vào dải đất tận cùng phương nam của Palancar, lấp loáng dưới ánh mặt trời. Xa xa, con sông trôi qua làng Therinsford và ngọn núi núi Utgart đứng bơ vơ một mình. Qua khỏi ngọn núi đó, Eragon chỉ biết rằng sông sẽ hướng về phương bắc, chảy ra biển. Sau phút nghỉ ngơi, Eragon rời hòn đá nổi, bước xuống đường mòn, vừa đi vừa nhăn nhó. Tới hết dốc, mặt đất mới mềm và bao phủ khắp vùng từng khối xám xịt. Ánh đèn trong những ngôi nhà ở Carvahall thấp thoang trong bóng chiều chập choạng. Tách khỏi Therinsford, Carvahall là ngôi làng độc nhất tại thung lũng Palancar. Vị trí cách biệt, bao quanh bằng vùng đất đẹp nhưng khắc nghiệt. Gần như chẳng có du khách nào tới đây, ngọai trừ dân buôn và những người đi bẫy thú. Làng gồm những ngôi nhà gỗ chắc chắn, mái lợp rơm hay gỗ. Khói cuồn cuộn từ những ống khói, làm không khí nồng nặc mùi củi cháy. Nhà nào cũng có cổng rào rộng rãi, để mọi người có thể tụ tập chuyện trò hay bàn bạc chuyện làm ăn. Thỉnh thoảng một cửa sổ lại sáng ánh đèn hay nến. Trong không khí buổi chiều, Eragon nghe tiếng các ông đang om sòm trò chuyện và tiếng các bà lanh lảnh gọi chồng về. Eragon lủi thủi đi qua những ngôi nhà, để đến cửa hàng thịt, một ngôi nhà to lớn xây bằng đá. Trên nóc nhà, ống khói nhả ra từng cụm khói đen. Nó đẩy cửa, bước vào căn phòng rộng rãi, ấm áp và sáng sủa vì ánh lửa hắt ra từ một lò sưởi xây bằng đá. Một cái quầy kéo dài nơi cuối phòng. Sàn nhà được trải bằng rơm. Mọi thứ đề sạch sẽ đến tỉ mỉ, cứ như chủ nhân bỏ hết thì giờ rảnh rỗi săm soi từng cọng rác nhỏ xíu kẹt trong ngóc ngách. Đứng sau quầy là lão Sloan, chủ cửa hàng thịt. Lão nhỏ con, mặc sơ mi vải, tròng ra ngoài là cái áo bán hàng rộng thùng thình, lốm đốm máu. Con dao to bản, bóng loáng, lủng lẳng ngay thắt lưng lão. Mặt lão vàng khè, đầy vết rỗ, đôi mắt ăm ắp vẻ đa nghi. Vừa thấy Eragon, lão vừa lau chùi mặt quầy vừa méo miệng nói: - Ôi cha! Chàng thợ săn vĩ đại đến với chúng ta kìa. Sao, chuyến này đem về được mấy con? - Chẳng được con nào. Eragon trả lời thẳng. Nó vốn không ưa lão chủ hàng thịt này. Lão luôn cư xử với nó cư như nó là một vật dơ dáy đáng ghê tởm vậy. Là một người góa vợ, lão Sloan dường như chỉ quan tâm chăm chút tới Katrina, cô con gái yêu quí của lão. Lão quay lưng lại, cạo cạo vết dơ trên tường, lèm bèm: - Lạ nhỉ. Nhưng vì không kiếm được con thịt nào, mày mới tới đây chứ gì? - Dạ phải. Nghe Eragon lúng túng trả lời, lão phủi tay hỏi dồn: - Nếu vậy thì đưa tiền ra coi. Nào, có hay không, trả lời đi chứ. - Thật sự cháu không có tiền, nhưng cháu có.... - Sao? Không tiền? Không tiền mà lại muốn mua thịt? Có ai bán hàng mà lại cho không bao giờ? Vả lại, hôm nay tao đóng cửa rồi. Mai đem tiền lại mà mua. - Cháu không đợi được đến mai đâu. Nhưng cháu có một vật đáng giá để trả cho chú. Nó hãnh diện lấy ra viên đá, nhẹ nhàng đặt lên quầy. Viên đá sáng lên trong ánh lửa bập bùng. Lão Sloan cúi nhìn chăm chú, miệng lẩm bẩm: - Chắc đồ chôm chỉa đây. Tảng lờ như không nghe thấy lời lão, Eragon hỏi: - Được không ạ? Lão cầm viên đá lên cân nhắc trọng lượng, rồi vuốt ve, ngắm nghía những đường vân trắng. Đặt viên đá xuống, lão thăm dò: - Đẹp đấy, giá cả sao đây? - Cháu không biết. Nhưng chắc phải có giá trị, người ta mới bỏ công gọt dũa đánh bóng đến thế chứ. - Tất nhiên. Nhưng bao nhiêu? Nếu mày không biết, tao đề nghị mày tìm dân buôn đá mà hỏi, hoặc đồng ý thì tao trả ba đồng. - Bèo quá vậy? Ít ra cũng phải được gấp mười lần. Ba đồng không đủ tiền mua thịt ăn đến cuối tuần. - Không chịu thì ráng đợi cánh con buôn. Thôi, dẹp. Nói chuyện với mày tao oải quá rồi. Những thương nhân là một nhóm buôn bán đường dài, rày đây mai đó. Họ vừa buôn bán vừa hành nghề biểu diễn giải trí. Họ thường đến Carvahall vào mùa xuân và mùa đông, mua ngũ cốc của dân làng và bán những món cần thiết trong đời sống nhà nông như hạt giống, súc vật, vải vóc, muối, đường. Eragon không thể dợi cho đến khi họ tới, vì gia đình nó đang cần thịt. Nó đành chấp nhận: - Thôi được, cháu đồng ý. - Tốt, để tao đi lấy thịt. Nhưng mày lấy viên đá này ở đâu vậy? - Hai đêm trước, cháu lượm được ở núi Spine. - Cút ngay. Lão vội đẩy viên đá ra xa, giận dữ nện gót về cuối quầy, lau chùi con dao dính máu. Eragon ôm sát cục đá như bảo vệ khỏi cơn thịnh nộ của lão Sloan, hỏi: - Nhưng vì sao? - Tao không mua bán bất kỳ thứ gì mày đem từ ngọn núi khốn khiếp đó về. Rõ chưa? Đem viên đá phù thủy của mày cút khỏi đây ngay. Lão giận đến lúng túng cắt phải ngón tay mà không biết máu chảy, cứ tiếp tục lau chùi con dao. Eragon gặng hỏi: - Vậy là chú không bán thịt cho cháu? - Đúng. Trừ khi mày có tiền mặt. Đi, đừng để tao phải quăng mày ra cửa. Cửa sau bật mở. Eragon quay vội lại, sẵn sàng đón nhận những rắc rối sắp xảy ra. Horst, một người nặng nề thô kệch, bước vào. Theo sau ông ta là cô gái cao dong dỏng, Katrina, cô con gái mười sáu tuổi của lão Sloan. Eragon nhìn cô kinh ngạc, vì cô ta thường lánh mặt trong những vụ gây lộn của ông bố. Lão áy náy nhìn hai người, vừa mở miệng đổ lỗi cho Eragon, thì Horst lên tiếng: - Im đi. Giọng ông rổn rảng. Ông là chủ lò rèn ở Carvahall. Với cái cổ rắn chắc và cái tạp dề da đủ chứng tỏ cho điều đó. Hai cánh tay mạnh mẽ để trần, lông ngực xồm xoàm trên bộ ngực nở nang. Bộ râu đen rậm rì trên cái hàm lực lưỡng. Vừa bẻ ngón tay rốp rốp, ông vừa hỏi lão chủ hàng thịt: - Sloan, lần này anh lại gây chuyện gì vậy? - Đâu có gì. Thằng nhóc này định quậy. Tôi bảo nó đi đi, nhưng nó cứ lì ra. Đến nỗi tôi phải dọa, mà nó cũng cóc cần. Ông chủ lò rèn hỏi: - Đúng vậy không, Eragon? - Không. Cháu đề nghị đổi viên đá này lấy thịt. Chú ấy đồng ý. Khi cháu bảo lượm được ở núi Spine, chú ấy đùng đùng nổi giận. Viên đá này từ đâu tới thì có gì khác nhau đâu? Horst tò mò nhìn viên đá, rồi quay lại lão Sloan: - Sao anh không đổi cho nó, Sloan? Tôi cũng chẳng ưa gì núi Spine, nhưng vấn đề là giá trị của viên đá, tôi sẽ bỏ tiền ra mua vậy. Một lát sau lão chủ hàng thịt mới liếm môi, trả lời: - Đây là cửa hàng của tôi. Tôi muốn làm gì thì làm. Từ sau Horst, Katrina tiến len, lắc nhẹ mái tóc vàng óng như đồng, nói: - Ba ơi, Eragon sẵn lòng trả tiền mà. Đưa thịt cho cậu ấy, còn vào ăn cơm chứ. Lão Sloan quát tháo: - Vào nhà ngay. Đây không phải việc của con. Mặt Katrina rắn lại, thẳng lưng, giận dữ ra khỏi phòng. Thấy thái độ của cô ta đối với cha, Eragon không đồng ý, nhưng không dám lên tiếng. Horst vuốt hàm râu, cất giọng nói vang khắp căn phòng: - Tốt, bây giờ chú chàu mình mua bán với nhau. Cháu định ra giá bao nhiêu? - Càng nhiều càng tốt ạ. Horst lấy trong bóp ra một cọc tiền, bảo lão Sloan: - Lấy cho tôi sườn và thịt quay ngon nhất. Nhớ là chất cho đầy ba lô của Eragon. Thấy lão ngập ngừng, ông nói tiếp: - Không bán cho tôi là sai lầm đó. Lão lẩn vào phòng trong. Tiếng dao chặt, tiếng giấy gói, kèm theo những tiếng lèm bèm chửa rủa vang tới bên ngoài. Mấy phút sau, lão trở lại với một gói thịt lớn. Lão tỉnh bơ nhận tiền của Horst, rồi lau chùi dao, làm như không quan tâm tới ai. Horst ôm gói thịt bước ra khỏi cửa. Eragon vội vã nhặt viên đá và ba lô, chạy theo ông. Gió đêm phả lên mặt làm cả hai tươi tỉnh, sau những giờ phút trong cửa hàng ngột ngạt. - Cám ơn chú Horst. Cậu Garrow của cháu sẽ mừng lắm đây. - Đừng cám ơn chú. Vì từ lâu rồi chú muốn cho lão ta một bài học. Sloan là một gã bán hàng xấu tính, khó chịu lắm. Phải cho lão biết thế nào là lễ độ. May là Katrina nghe lộn xộn, tới báo ngay cho chú, nếu không chắc xảy ra đánh nhau. Nhưng không may là, lần sau cháu trở lại, dù có tiền, lão ta cũng sẽ làm khó dễ. - Nhưng tại sao ông ấy nổi sùng lên như vậy. Dù không ưa nhau nhưng những lần trước, cháu đem tiền đến, ông ấy vẫn bán như thường mà. Cháu cũng chưa bao giờ thấy ông ấy lớn tiếng với Katrina như vậy. - Hỏi cậu cháu. Cậu cháu biết rõ chuyện này hơn chú. Eragon xếp thịt vào ba lô, nói: - A, bây giờ cháu lại thêm lý do để về nhà gấp.....để khám phá bí mật này. Đây, nó thuộc về chú. Eragon trao viên đá cho Horst. Ông chặc lưỡi, bảo: - Không, cháu hãy giữ viên đá lạ lùng này. Chuyện tiền, chú tính thế này, anh Albriech dự tính đến Feinster vào mùa xuân tới. Anh ấy muốn làm thợ cả cho lò rèn ở đó. Như vậy chú cần có thợ phụ để thay thế anh ấy. Những ngày rảnh rỗi, cháu có thể đến làm trừ nợ. Được không? Eragon hớn hở cúi đầu cám ơn. Horst có hai con trai, Albriech và Baldor, cả hai cùng làm trong lò của ông. Ông thật quá tốt khi cho nó một chân thợ phụ. - Một lần nữa, cháu cám ơn chú. Cháu vẫn mong được làm cho chú. Nó mừng vì có cách để trả nợ cho ông. Cậu Garrow không bao giờ chấp nhận của bố thí. Nhưng nó chợt nhớ việc người anh họ nhờ: - Anh Roran muốn cháu nhắn tin cho chị Katrina, nhưng cháu đã không gặp riêng chị ấy được. Chú nhắn giúp cháu, được không? - Tất nhiên. - Anh ấy muốn chị Katrina biết: ngay khi những nhà buôn đến thành phố, anh ấy sẽ có mặt tại đó để gặp chị. - Có vậy thôi? - Dạ....còn nữa. Anh Roran còn muốn chị ấy biết rằng, ngoài chị Katrina, anh ấy không hề nghĩ đến ai. Chị ấy là người đẹp nhất mà anh từng thấy. Horst toét miệng cười, nháy mắt với Eragon: - Sắp tới màn nghiêm trọng rồi, phải không? Eragon cũng mủm mỉm cười: - Dạ, chắc vậy. Nhân thể, chú cho cháu gửi lời cám ơn chị Katrina đã bênh vực cháu. Mong chị ấy không bị rầy la. Anh Roran sẽ nổi sùng nếu chị Katrina gặp rắc rối. - Đừng lo. Lão Sloan không biết Katrina báo tin cho chú đâu. Trước khi về, cháu có muốn ăn tới với chú không? - Cháu rất tiếc, vì cậu Garrow đang nóng lòng chờ cháu. Eragon đeo ba lô lên vai, bước xuống đường, vẫy tay chào. Bao thịt nặng làm nó không thể đi mau hơn, vì nó đang nóng lòng về nhà. Tuy nhiên chuyện mới xảy ra cũng làm bước chân nó có phần phấn chấn. Đã tới cuối làng, Eragon bỏ lại phía sau những ngôi nhà với những ánh đèn ấm áp. Mặt trăng treo trên đỉnh núi soi tỏ mặt đất như ban ngày. Gần cuối đoạn đường dẫn về hướng nam, nó rẽ vào một lối nhỏ, xuyên qua đồng cỏ mọc cao hơn đầu gối, rồi leo lên một gò cao, gần như chìm khuất dưới bóng những cây phong du cao lớn. Tới đỉnh gò, nó thấy trong nhà thấp thoáng ánh sáng rọi ra. Mái nhà lợp ván và ống khói bằng gạch. Mái hiên nhô khỏi những bức tường trắng, phủ bóng tối trên nền đất. Phía trong hàng rào khóa, một bên chất đầy củi, một bên là dụng cụ nghề nông. Ngôi nhà này đã bỏ hoang cả nửa thế kỷ khi gia đình nó dọn về đây, sau cái chết của mợ Marian, vợ cậu Garrow. Nơi đây cách Carvahall mười dặm. Mọi người đều bảo sự cách biệt xa xôi như vậy rất nguy hiểm, vì có chuyện gì xảy ra, những người trong gia đình chẳng thể nhờ vả được người trong làng. Nhưng cậu Garrow không nghe. Cách nhà chừng bốn mươi thước là một cái chuồng màu sắc ảm đạm, nhốt hai con ngựa, con Birka và con Brugh, cùng bầy gà và một con bò cái. Đôi khi còn có một con heo, nhưng mùa này nhà nó không đủ khả năng nuôi một con heo nào. Chiếc xe ngựa gác bên chuồng. Sát bờ cánh đồng nhà, một hàng cây lớn trồng dọc con sông Anora. Nó mệt nhọc tiến gần hàng rào, lên tiếng gọi: - Cậu ơi, Eragon đây, mở cửa cho cháu. Tiếng lọach xọach kéo chốt rồi cửa mở. Cậu nó đứng vịn tay lên cánh cửa, áo quần tơi tả phủ trên người như một con bù nhìn. Dưới mái tóc hoa râm, mặt cậu nó hốc hác, cái nhìn căng thẳng. Trông ông như một xác ướp mới được phát hiện là hãy còn sống. Trả lời ánh mắt dò hỏi của nó, ông thì thầm: - Roran đang ngủ. Cây đèn dầu chập chờn trên cái bàn gỗ cũ. Gần bếp lò, một dãy đồ dùng làm bếp treo trên tường bằng những đinh tự chế. Cửa thứ hai mở vào toàn bộ căn nhà. Sàn gỗ bóng lộn, vì những bàn chân đi lại quá nhiều năm. Eragon vừa lôi gói thịt ra, cậu nó hỏi ngay: - Cái gì vậy? Cháu mua thịt à? Cháu lấy tiền ở đâu? - Không, chú Horst mua cho mình đấy. - Cháu để hắn trả tiền thịt sao? Cậu đã dặn cháu, cậu không xin xỏ đồ ăn. Nếu chúng ta không thể tự nuôi thân, thì chúng ta trở lại thành phố. Như thế này, cháu chưa kịp quay lưng, họ sẽ bảo nhau chẳng biết nhà ta có qua khỏi mùa đông này không và sẽ gửi quần áo cũ đến cho chúng ta mất thôi. Mặt cậu Garrow tái đi vì giận, Eragon vội nói: - Cháu không nhận đồ bố thí. Chú Horst chấp nhận cho cháu làm để trả nợ vào mùa xuân này. Chú ấy cần người, vì anh Albriech sắp đi xa. - Thì giờ đâu cháu đến làm cho hắn? Cháu tính bỏ hết việc nhà sao? Eragon treo cung tên lên cái móc bên cạnh cửa. - Cháu chưa biết phải làm sao. À, cháu kiếm được một thứ có thể bán được nhiều tiền, cậu ạ. Nó đặt viên đá lên bàn. Cậu nó hau háu nhìn: - Cháu thấy vật này ở núi Spine, phải không? - Dạ. Rồi nó kể lại mọi chuyện trong rừng và nói thêm nó đã bị mất mũi tên tốt nhất và chắc sẽ phải làm thêm một số. Cậu Garrow nắm chặt cục đá như sợ nó biến mất, nói: - Thời tiết ngoàii đó ra sao? - Lạnh. Không đổ tuyết, nhưng đêm nào cũng đóng băng. - Ngày mai cháu phải giúp anh Roran gặt cho xong đám lúa mạch đi. Nếu có thể, thu hoạch hết hoa màu luôn, sương mù sắp dày đặc rồi. Đây, cháu giữ viên đá này, khi những nhà buôn đến, mình sẽ tìm hiểu giá trị của nó ra sao. Bán đi là tốt nhất. Càng ít dính dáng đến phép thuật càng tốt...Tại sao Horst lại trả tiền thịt cho cháu? Eragon kể lại vụ lộn xộn với lão chủ hàng thịt và bảo: - Cháu không hiểu vì sao mà ông ấy giận dữ đến như vậy. - Ismira, vợ của Sloan đã vượt qua thác Igualda một năm trước khi cháu được đưa đến nơi này. Kể từ đó, không bao giờ lão đến gần núi Spine hay bất cứ thứ gì có liên quan tới rặng núi. Nhưng đó chẳng phải lý do lão bỏ qua mối lợi. Cậu nghĩ lão chỉ muốn làm khó cháu thôi. - Vậy thì cháu sẽ trở lại. Cái nhìn của cậu Garrow dịu xuống, cậu nhìn nó gật đầu. Eragon vào phòng, đẩy viên đá vào gầm giường, rồi lăn xuống nệm. Về nhà rồi! Lần đầu tiên, kể từ trước chuyến săn, nó mới được hoàn toàn thoải mái và có một giấc ngủ ngon lành. Chuyện kể về rồng Ánh nắng ban mai sưởi ấm mặt Eragon. Vừa dụi mắt, nó vừa ngồi dậy bên mép giường. Sàn gỗ lạnh ngắt dưới bàn chân, nó duỗi thẳng đùi và ngáp. Bên cạnh giường là dãy kệ, chất đầy những món nó sưu tầm được. Những mảnh gỗ cong queo, những vỏ sò hình dáng ngộ nghĩnh, những viên đá vỡ để lộ phần ruột sáng bóng và những bó cỏ khô thắt nút. Món nó thích nhất là bộ rễ xoắn xúyt. Nó ngắm hòai không biết chán. Phần còn lại, căn phòng trống trơn, ngọai trừ một tủ áo và cái bàn rửa mặt. Nó xỏ đôi ủng, nhìn xuống sàn nghĩ ngợi. Hôm nay là một ngày đặc biệt. Khoảng giờ này, mười sáu năm trước, là ngày Salena - mẹ nó, trở về Carvahall một mình, bụng mang thai nó. Bà đã bỏ đi, ra thành phố sống được sáu năm. Khi trở về, bà mặc toàn trang phục đắt tiền, tóc bó trong một cái lưới bằng ngọc trai. Bà xin với anh trai cho ở lại nhà tới khi sinh nở. Năm tháng sau, thằng bé ra đời, cả nhà đều sững sờ khi Salena khóc lóc năn nỉ vợ chồng anh, Garrow và Marian, nuôi nấng đứa trẻ. Trả lời câu hỏi vì sao, bà chỉ khóc bảo bắt buộc phải làm như thế. Nhưng lời năn nỉ gần như tuyệt vọng, cho đến khi anh và chị dâu chấp nhận. Bà đặt tên con là Eragon, rồi ra đi ngay sáng sớm hôm sau và không bao giờ trở lại. Eragon còn nhớ như in, cái cảm giác khi mợ nó cho nó biết sự thật trước khi bà chết. Khám phá ra cậu Garrow và mợ Marian không phải là cha mẹ ruột, nó đã bối rối đến thế nào. Nó đã sống bình thản suốt bao năm, chẳng vẩn chút nghi ngờ. Rồi dần dần nó cũng tập làm quen với cuộc sống này, nhưng Eragon luôn canh cánh một điều, chắc nó đã gây ra sự bất hạnh cho mẹ. Nó tự nhủ, mình tin chắc phải có lý do chính đáng trong việc mẹ đã làm, ước sao mình biết được đó là chuyện gì. Một điều nữa cũng làm nó khổ tâm: Cha nó là ai? Mẹ nó không hề cho người nào biết. Nhưng dù cha nó là ai, ông ta cũng chưa một lần tới tìm nó. Eragon ước ao được biết cha là ai, dù chỉ là biết tên thôi. Biết được nguồn gốc của mình, sung sướng biết bao! Nó thở dài, đến bên bàn vỗ nước lên mặt. Nước lạnh chảy xuống cổ làm nó rùng mình. Tỉnh táo hẳn, nó lấy viên đá từ gầm giường đặt lên kệ. Nắng sớm vuốt ve viên đá, rọi cái bóng ấm áp của nó lên tường. Eragon vuốt viên đá thêm lần nữa, rồi chạy vào bếp. Cậu Garrow và anh Roran đang ăn thịt gà. Eragon chào cậu và anh. Roran cười với nó. Roran hơn Eragon hai tuổi, người rắn chắc, mạnh mẽ, rất thận trọng trong mọi hành động. Anh em ruột thật sự cũng không thân nhau bằng hai đứa. Roran cười bảo: - Thấy mày về là anh mừng rồi. Chuyến đi ra sao? - Căng lắm. Cậu kể cho anh nghe chưa? - Chưa. Eragon bốc thịt gà vừa ăn ngấu nghiến vừa kể những gì đã xảy ra. Vì Roran năn nỉ, Eragon phải ngừng ăn, chạy về phòng lấy viên đá cho Roran xem. Roran thỏa mãn tò mò nhưng hơi sợ. Rồi anh lo lắng hỏi nhỏ: - Mày có dịp nhắn Katrina chưa? - Không, sau màn cãi nhau với ông Sloan, làm sao em gặp chị ấy được. Nhưng chị ấy sẽ đợi anh, khi nhà buôn đến. Em nhờ chú Horst nhắn giúp rồi. - Mày nói cho chú Horst biết? Đó là chuyện riêng tư của tao. Trời đất, nếu tao muốn thiên hạ biết hết như thế, thà tao bắt loa mà nói. Ông Sloan biết chuyện này, ông không để tao gặp cô ấy nữa đâu. - Chú Horst giữ bí mật mà. Chú ấy không cho ai biết đâu. Roran không tin tưởng lắm, nhưng không nói gì thêm. Hai anh em tiếp tục ăn trước vẻ mặt trầm ngâm của cậu Garrow. Xong bữa, cả ba người cùng ra cánh đồng. Dưới bầu trời xanh xao, lạnh lẽo, rồi đám lúa mạch cuối cùng cũng được gặt xong và chuyển vào kho. Sau đó, ba người cũng hái nho, củ cải đỏ và đậu để chuyển xuống đáy hầm. Mùa màng thu họach xong, cha con cậu cháu nằm sóng xòai vui mừng hưởng thú nghỉ ngơi. Những ngày tiếp theo lại tất bật việc tách hạt, muối củ quả, đem bán và sửa soạn lương thực cho mùa đông. Ngày thứ chín kể từ khi Eragon về nhà, một cơn bão tuyết bất ngờ từ trên núi kéo về thung lũng. Tuyết phủ dày đặc cánh đồng, làng xóm. Người ta chỉ bắt buộc ra khỏi nhà để lấy củi và cho gia súc ăn, vì ai cũng sợ bị lạc trong những trận gió ào ào, cảnh vật mịt mù, chẳng nhìn rõ vật gì. Mọi người co ro bên bếp lửa trong khi gió gào rú đập rầm rầm lên những cánh cửa sổ nặng nề, đóng kín mít. Mấy ngày sau, cơn bão chấm dứt, một thế giới khác hẳn hiện ra với những bông tuyết bồng bềnh trắng nõn. Cậu Garrow bảo: - Tình trạng này, cậu e năm nay những nhà buôn sẽ không đến. Nhưng dù sao cũng phải chờ trước khi đi Carvahall. Nếu họ không tới sớm, mình đành phải mua lương thực dự trữ của mấy người thành phố vậy. Ông đã nản lòng và cả nhà mỗi ngày càng thêm lo lắng, vì chẳng thấy dấu hiệu nào của đám thương gia. Mọi người ít chuyện trò, không khí trong nhà nặng nề, buồn tẻ. Buổi sáng ngày thứ tám, Roran ra đường cái và xác nhận chẳng có dấu vết nào của những người buôn bán đi qua. Suốt ngày hôm đó, cả nhà sửa soạn cho chuyến đi Carvahall. Nhưng chiều tối, còn nuôi chút hy vọng, Eragon ra đường kiểm tra lần nữa. Nó thấy nhiều vết bánh xe và dấu chân ngựa lún sâu trong tuyết. Nó mừng quýnh, chạy vội về, hớn hở báo tin. Trước khi mặt trời lên, cả nhà chuyển hoa màu lên xe. Cậu Garrow bỏ hết tiền dành dụm cả năm vào một túi da, thắt chặt lên dây lưng. Eragon nhét kỹ gói đựng viên đá giữa những bao hoa màu, sợ xe lắc lư, lăn mất. Sau bữa ăn sáng qua loa, mọi người thúc ngựa lên đường. Theo vết tuyết tan do những xe của đám thương gia để lại, xe nhà Garrow dễ dành di chuyển hơn. Buổi trưa họ đã nhìn thấy Carvahall. Ngôi làng nhỏ rộn ràng tiếng nói cười. Những thương gia dựng trại trên bãi đất trống ngọai ô thành phố. Xe cộ, lều bạt, bếp lửa ngổn ngang rải rác. Đủ màu sắc nổi bật trên nền tuyết trắng. Bốn căn lều của những nghệ sĩ hát rong trang hoàng sặc sỡ. Dòng người đông đúc nối nhau từ bãi đất cắm trại tới làng. Đám đông xúm xít quanh những lều và những gian hàng dọc hai bên đường chính. Tiếng ngựa hí vang trời. Tuyết bị dẫm đạp thành mặt băng bằng phẳng, nhiều nơi tan chảy thành nước vì những đống lửa đốt mừng. Không khí thơm lừng mùi hạt dẻ rang. Garrow đậu xe và cột mấy con ngựa, rồi lấy chút tiền đưa cho Roran và Eragon, bảo: - Roran, con vui chơi chút đi. Nhưng muốn làm gì, cũng phải nhớ về nhà chú Horst ăn cho đúng giờ. Còn Eragon, cầm viên đá đi theo cậu. Eragon đút tiền vào túi, cười toe tóet với Roran, nó đã có kế họach xài món tiền này. Roran quay đi ngay, mặt nó hằn một vẻ cả quyết. Cậu Garrow đẩy vai Eragon đi qua đám đông náo nhiệt. Đàn bà vây quanh hàng vải, trong khi các ông chồng săm soi đồ nông cụ. Trẻ con khóai trá la hét chạy nhảy khắp nơi. Chỗ này bày bán dao, chỗ kia hương liệu, nồi soong, thau chậu sáng bóng nằm kề quầy bán yên cương bằng da. Eragon tò mò nhìn những nhà buôn. Trông họ dường như không được phát đạt bằng năm ngóai. Con cái họ nhìn ngó với vẻ e dè sợ sệt, quần áo vá víu. Cánh đàn ông khư khư thanh kiếm hay con dao găm, mặt mày hốc hác khác thường. Cả đám phụ nữ của họ cũng cài dao găm bên mình. Eragon tự hỏi, chuyện gì làm họ phải trang bị ghê gớm thế? Tại sao năm nay họ tới đây trễ quá vậy? Nó nhớ là những nhà buôn lúc nào cũng vui vẻ nói cười, vậy mà lúc này chẳng ai cười nói gì. Cậu Garrow đẩy nó đi về cuối đường. Ông tìm kiếm Merlock, một người chuyên buôn bán nữ trang. Hai cậu cháu thấy Merlock đứng sau một quầy, đang bày cho một đám phụ nữ xem những chiếc trâm cài tóc. Eragon thầm đoán, sẽ không ít quí bà nhẵn túi vì những món trang sức này. Merlock có vẻ tươi tỉnh hẳn lên trước những tiếng trầm trồ của khách hàng. Với chùm râu dê dưới cằm, Merlock tỏ vẻ khinh khỉnh với tất cả mọi người. Đám khách đàn bà sôi nổi, không thèm quan tâm tới cậu cháu Eragon, vì vậy hai cậu cháu phải đứng lùi lại sau chờ đợi. Ngay khi Merlock vãn khách, hai cậu cháu vội vã tiến lại. Merlock hỏi: - Quí ông cần tìm thứ gì đây? Bùa hay nữ trang? Hắn đưa ra một bông hồng bằng bạc rất tinh xảo, tán tiếp: - Hàng quí hiếm do thủy thủ đem về tận Belatona, mà chỉ ba đồng thôi. Garrow nói nhỏ: - Chúng tôi không mua, mà bán. Merlock cất biến ngay bông hồng, ngó sững hai cậu cháu. - Hiểu rồi. Ông có món gì quí hiếm muốn đổi lấy mấy món nữ trang, phải không? Ông có đem theo đây chứ? - Có. Nhưng tôi muốn đưa ông coi ở chỗ khác thì hơn. - Nếu vậy, mời ông vào lều của tôi. Hắn dọn hàng, nhẹ nhành bỏ vào một hộp sắt, rồi khóa lại. Hắn đẩy hai cậu cháu về đầu đường, tới khu trại dựng tạm. Len lỏi qua những xe ngựa, họ tới một cái lều tách biệt với tất cả những nhà buôn khác. Nóc lều màu đỏ tía, nhưng dưới chân là màu đen. Merlock cởi dây cửa lều, hất cánh lều sang một bên. Trong lều xếp đầy những món nữ trang rẻ tiền và những bàn ghế lạ mắt, chẳng hạn như một cái giường hình tròn, ba cái ghế đẽo từ gốc cây. Merlock khép cánh lều lại, nói: - Mời ngồi. Nào, bây giờ cho tôi biết lý do phải gặp kín đáo thế này. Eragon mở gói, đặt viên đá giữa hai người. Merlock đưa tay ra, mắt sáng lên, nhưng hắn ngừng lại hỏi: - Tôi được phép chứ? Garrow đồng ý, hắn mới cầm viên đá lên. Đặt viên đá trên đùi, Merlock với tay lấy một hộp mỏng. Mở hộp, hắn kéo ra một cái chân bằng đồng, đặt trên mặt đất. Sau khi cân, hắn dùng kính chuyên môn của thợ kim hoàn xem xét kỹ lưỡng bề mặt, rồi hắn gõ nhẹ bằng một cái vồ gỗ nhỏ, đo chiều dài, đường kính của viên đá. Merlock trầm ngâm cân nhắc kết quả, một lúc sau lên tiếng hỏi: - Ông biết viên đá này trị giá bao nhiêu không? - Không. Cậu Garrow thú thật, nhấp nhổm không yên trên ghế. Merlock nhăn nhó: - Khổ nỗi là tôi cũng không rõ. Nhưng tôi có thể cho ông biết: những vân trắng có cùng chất liệu giống phần xanh. Tuy nhiên, chất liệu này là gì, tôi chưa biết được. Nó rắn hơn tất cả những lọai đá mà tôi từng biết, rắn hơn cả kim cương. Kẻ nào đã mài dũa, đánh bóng nó, chắc phải có những dụng cụ mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy, hay là...phải nhờ ma thuật. Tuy nhiên, tôi biết là viên đá này rỗng ruột. - Sao? Garrow kêu lên. Giọng Merlock hơi bực: - Đã bao giờ ông nghe âm thanh một viên đá như thế này chưa? Hắn dùng sống lưng một con dao găm gõ lên viên đá. Một âm thanh trong trẻo ngân lên, rồi êm đềm lịm tắt. Eragon chỉ sợ viên đá bị nứt. Merlock xoay viên đá về phía hai cậu cháu, nói: - Không trầy xước chút xíu. Tôi ngờ lấy búa đập cũng chẳng ăn thua gì đâu. Căn lều chìm trong im lặng. Eragon bối rối nghĩ, mình biết ngay viên đá này xuất hiện trong rừng do phép thuật mà, nhưng chẳng lẽ nó cũng được tạo nên bằng phép thuật? Eragon buột miệng hỏi: - Nhưng nó trị giá bao nhiêu? - Tôi không thể cho cháu biết chính xác được. Tôi chắc chắn có người sẽ trả giá cao, nhưng không phải những người ở Carvahall này. Cháu phải đi về những thành phố miền nam mới tìm được người mua. Đối với hầu hết mọi người thì viên đá này kỳ lạ thật đó, nhưng không phải một vật để họ phải bỏ tiền ra mua, trong khi còn bao nhiêu nhu cầu cấp thiết khác. Garrow nhìn trừng trừng lên nóc lều, như một tay cờ bạc đang tính nước: - Vậy ông có định mua không? - Tôi không định liều như vậy. Tôi chỉ có thể tìm một nhà buôn giàu có trong chuyến đi vào mùa xuân. Nhưng nếu tìm được người mua, thì phải năm tới tôi mới trở lại đây trả tiền cho ông được. Thôi, ông phải tìm người khác vậy. Nhưng tại sao ông lại muốn nói với tôi vụ này một cách riêng tư vậy? Eragon gói lại viên đá, ngước nhìn Merlock, trả lời mà chẳng biết ông thương gia này có nổi trận lôi đình như lão chủ hàng thịt không: - Vì....cháu lượm được nó trong núi Spine. Và những người quanh vùng không ưa chuyện này. Merlock giật mình hỏi: - Cháu có biết vì sao cánh nhà buôn chúng tôi đến đây trễ vậy không? Eragon lắc đầu. Merlock tiếp: - Suốt chuyến đi của chúng tôi gặp toàn chuyện không may. Sự hỗn loạn dường như ngự trị khắp nước Alagaesia. Bệnh tật, những vụ tấn công, và nhất là những lời trù ếm xui xẻo. Đám Varden tăng cười những cuộc xâm lăng. Triều đình Galbatorix thúc đẩy các thành phố chi viện thêm binh sĩ, để chống lại bầy quái thú Urgals. Lũ quái vật tàn bạo này đang tràn vào phía nam, để tiến đến sa mạc Hadarac. Chẳng ai hiểu vì sao, và chẳng ai quan tâm, cho đến khi chúng tiến qua vùng dân cư, người ta phát hiện ra chúng trên các ngả đường rất gần thành thị. Tệ hại nhất là có tin báo, trong đám chùng còn có một Tà Thần. Tuy nhiên, nguồn tin này chưa chắc lắm. Nhưng những cuộc đụng độ như thế xảy ra, khó có người sống sót. - Vớ vẩn. Ở đây chẳng bao giờ có ai nhìn thấy một con quái Urgal nào. Họa chăng là có cặp sừng của nó treo lù lù trước cửa quán rượu của thằng cha Morn. - Có thể vậy. Nhưng đây chỉ là một cái làng bé nhỏ, khuất sau dãy núi. Nhưng tôi đoán chẳng bao lâu nữa đâu, nơi này cũng sẽ không yên, nên báo để các vị biết, vì đã có những chuyện lạ xảy ra tại đây, chẳng hạn như chuyện tìm thấy viên đá như thế này trong vùng núi Spine. Hắn nghiêm trang nói và cúi chào với một thoáng cười. Trên đường trở lại Carvahall, Garrow hỏi cháu: - Eragon, cháu nghĩ sao? Cậu sẽ dò hỏi thêm tin tức, mới quyết định được. Đem viên đá về xe, rồi muốn làm gì thì làm. Cậu gặp lại cháu trong bữa ăn tài nhà chú Horst. Eragon mừng rỡ lách qua đám đông, trở lại xe. Việc mua bán của cậu nó sẽ kéo dài mấy giờ, nó tha hồ vui chơi. Dấu viên đá vào xe xong, nó hấp tấp trở vào thành phố. Đi hết cửa hàng này sang cửa hàng khác, Eragon đánh giá từng món cứ như một dân mua sành sỏi dù trong túi chỉ có vài đồng. Chuyện trò với dân buôn bán, họ chắc chắn những gì nó đã nghe qua Merlock là có thật. Tin tức lập đi lập lại: chẳng có ai bảo vệ, nguy hiểm xuất hiện tràn lan. Cuối ngày, nó mua ba cây kẹo bạc hà và một cái bánh mứt nóng. Sau nhiều giờ đứng trong tuyết lạnh, cái bánh nóng mới khóai khẩu làm sao. Nó thòm thèm liếm láp mấy ngón tay dính nước đường. Ngồi trên bức tường đá thấp, nó ăn dè từng chút kẹo. Hai thằng nhóc vật nhau gần đó, nhưng Eragon không hào hứng tham gia. Xế chiều, việc buôn bán chuyển vào những nhà dân. Eragon chỉ mong tới giờ này để xem các nghệ sĩ hát rong biểu diễn và kể chuyện. Nó rất mê chuyện cổ tích, thần tiên, nhất là nếu may mắn, được nghe kể chuyện về những Kỵ Sĩ Rồng. Carvahall có riêng một người kể chuyện. Đó chính là ông già Brom, một người quen của nó. Nhưng chuyện của ông lão mỗi năm mỗi cũ thêm, trong khi đám hát rong lần nào trở lại cũng có nhiều chuyện mới. Chợt Eragon nhìn thấy lão chủ hàng thịt gần đó, nó vội vòng qua một góc đường, tiến tới quán rượu của Morn. Bên trong quán nóng hực, khét lẹt mùi mỡ tỏa ra từ đám khói của hai cây nến cao nghễu nghện. Ngay trên khung cửa, một cặp sừng quái thú Urgal đen bóng. Cặp sừng xoắn, dang rộng như hai cánh tay. Quán dài và thấp. Morn tíu tít tiếp khách. Nửa phần dưới mặt hắn méo mó, ngắn chủn, cứ như hắn đã để cằm lên cái cối xay thóc. Mọi người chen chúc quanh mấy cái bàn gỗ, lắng nghe chuyện của hai nhà buôn đã bán hết hàng, vào quán lai rai. Đang lau cốc, Morn ngẩng lên bảo Eragon: - A, Eragon. Gặp cháu chú vui lắm. Cậu cháu đâu? - Mua sắm. Cậu cháu cũng sắp tới rồi. - Còn Roran? - Có chứ. Chẳng có gì giữ anh ấy ở nhà mùa này được. - Tốt! Tốt! Eragon chỉ hai con buôn hỏi: - Ai vậy? - Dân buôn ngũ cốc. Chúng nó mua giá rẻ mạt. Giờ đang nói toàn chuyện dóc tổ mà bắt mình tin mới ghét chứ. - Họ kể chuyện gì vậy? - Chúng bảo, nhóm Varden kết hợp với lũ quái Urgals và đang tập trung để tấn công chúng ta. Mày ra nghe thử đi. Tao đang bận tối tăm mặt mũi, chẳng thì giờ đâu nghe chuyện tào lao. Gã tay buôn thứ nhất cố nhồi nhét thân hình quá hổ trong cái ghế. Gã đang oang oang: - Không, không, các người chẳng hiểu gì cả. Chính nhờ sự cố gắng lớn lao của nhà vua, mà các người mới có thể yên ổn ngồi đây mà tranh cãi với chúng tôi. Nếu nhà vui khôn ngoan của chúng ta không còn bảo vệ cho các người nữa, bất hạnh sẽ đổ lên đầu các người. Có người lên tiếng: - Sao anh không nói luôn là các Kỵ Sĩ Rồng đã trở lại và hai anh đã tiêu diệt cả trăm vị thần tiên. Tưởng tụi này là con nít, tin tuốt tuột mấy chuyện bá láp của các anh chắc? Tụi này dư sức tự lo cho thân mình. Đám đông ồn ào hẳn lên. Gã lái buôn vừa mở miệng trở lời, gã đồng nghiệp gầy nhom của hắn đưa bàn tay sáng ngời những chiếc nhẫn lên: - Các vị hiểu lầm rồi. Chúng tôi biết triều đình không thể lo cho từng cá nhân chúng ta, như các vị mong muốn chứ. Nhưng triều đình có thể ngăn chặn lũ quái thú Urgals và những kẻ đáng ghê tởm khác tàn phá...nơi này. Các vị tức giận vì sự đối xử không công minh, thiếu quan tâm của triều đình với dân chúng. Nhưng một chính phủ không thể làm vừa lòng tất cả mọi người. Những bất đồng, tranh luận là không thể nào tránh được. Đất nước nào cũng có những nhóm nhỏ bất mãn, những kẻ không thỏa mãn với quyền lực cân bằng. Một người đàn bà hét toáng lên: - Anh gọi Varden là một nhóm nhỏ được à? Gã mập thở dài: - Chúng tôi đã cắt nghĩa rồi. Tụi Varden chẳng quan tâm gì đến chuyện giúp đỡ các người đâu. Đó chỉ là những lời đường mật giả dối của những quân phản nghịch, hòng lật đổ triều đình. Chúng cố làm chúng ta tin rằng mầm mống nguy hiểm là từ bên trong, chứ không phải từ bên ngòai biên cương của chúng ta. Tất cả những gì chúng muốn, là hạ bệ nhà vui và thâu tóm đất đai của chúng ta. Để sửa soạn cho cuộc xâm lăng này, chúng có gián điệp ở khắp nơi. Các người không thể biết được kẻ nào đang làm việc cho chúng đâu. Eragon không đồng ý. Nhưng gã nói thật trơn tru, làm đám đông gật gù như thấm ý. Nó bước lên, hỏi: - Sao các chú biết chuyện này? Cháu có thể nói mây xanh lè, nhưng chưa chắc đó là sự thật. Các chú hãy chứng minh những gì các chú nói là sự thật đi. Hai gã lái buôn lom lom nhìn nó, trong khi mọi người im lặng chờ câu trả lời. Gã gầy ốm lên tiếng trước: - Trẻ con của quí vị không được học lễ phép sao? Hay ở đây các vị cho trẻ con cái quyền thách thức cả người lớn? Mọi người nhìn Eragon khó chịu, nhưng một ông lên tiếng: - Thì cứ trả lời nó coi. Mồ hôi đổ hột trên mép gã mập. Gã bật nói: - Đồ khùng. Câu nói như chọc tức mọi người. Rầm rầm tiếng phản đối, cãi nhau như cái chợ. Miệng đắng chát, Eragon trở lại quầy rượu. Chưa bao giờ nó thấy ai quí trọng triều đình, đem thân đi chống kẻ thù của nhà vua cả. Mối căm ghét triều đình ăn sâu bám rễ khắp Carvahall, như một sự di truyền tự nhiên. Những năm thời tiết khắc nghiệt, dân chúng gần như chết đói, chẳng hề thấy một sự giúp đỡ nào của triều đình. Các quan thu thuế thì chẳng có chút quan tâm. Nó cảm thấy có lý khi phản đối hai gã con buôn ca tụng công đức nhà vua, mà quên nghĩ đến Varden. Varden là một nhóm nổi loạn, liên tục đột kích và tấn công triều đình. Điều bí mật là không ai biết kẻ nào cầm đầu, ai đã hình thành nên nhóm này sau nhiều năm triều đình Galbatorix trở nên lớn mạnh trong cả thế kỷ. Varden đã chiếm được cảm tình dân chúng, khi tài giỏi thoát khỏi những cố gắng nhằm tiêu diệt họ của Galbatorix. Chẳng ai biết gì về nhóm Varden, ngọai trừ chuyện có ai đó cần nơi ẩn trốn, hay là người căm ghét triều đình, họ sẽ chấp nhận cho theo. Nhưng vấn đề là phải tìm ra họ. Morn nghiêng mình trên quầy rượu, nói với Eragon: - Toàn chuyện khó tin, phải không? Chúng nó như kên kên lượn vòng vòng trên con thú sắp chết. Chúng không xéo khỏi đây cho sớm là rắc rối. - Rắc rối cho mình hay cho họ? - Cho chúng nó. Giọng Morn giận dữ vang khắp quán. Eragon bỏ đi khi đám cãi nhau gay go, sắp trở thành bạo lực. Cánh cửa đóng sập sau lưng nó, ngăn cách tiếng om sòm. Mặt trời đang xuống, những ngôi nhà trải bóng dài trên nền đất. Đang cắm cúi đi, Eragon chợt thấy Roran và Katrina đứng trong một ngõ hẻm. Roran nói gì đó, nó không nghe được. Katrina nhìn xuống hai bàn tay, thì thầm trả lời, rồi cô nhón chân, hôn Roran trước lúc chia tay. Nó nhảy lại chọc giận Roran: - Thoải mái chưa? Roran ậm ừ bước đi. Eragon hỏi: - Anh có nghe được tin tức gì của những người buôn bán không? - Có. Mày nghĩ gì về ông Sloan? - Anh biết quá rõ rồi mà. - Nếu khám phá ra chuyện tao với Katrina, chắc ông ấy với tao có đổ máu. Một bông tuyết rơi trên mũi Eragon, nó ngửa mặt nhìn bầu trời đã chuyển sang màu xám. Nó chẳng biết nói gì, vì Roran có lý. Nó choàng vai người anh họ, tiếp tục bước xuống con đường nhỏ. Bữa ăn tối ở nhà chú Horst thật thân mật, ấm cúng. Căn phòng tràn ngập tiếng nói cười. Món ăn ngon, rượu mạnh ê hề cộng thêm bầu không khí náo nhiệt vui vẻ. Ăn uống xong, khách khứa của chú Horst rời nhà thả bộ đến bãi đất trống, nơi đám thương nhân cắm trại. Một vòng cọc, trên thắp nến, cắm quanh một khoảng đất rộng. Dân làng từ từ vây quanh, nôn nao chờ đợi trong giá lạnh. Những nghệ sĩ hát rong, với trang phục đính tua, từ trong các lều ồ ạt bước ra. Theo sau là những nhạc công. Các nhạc công này sẽ tấu nhạc và minh họa cho các diễn viên trẻ diễn xuất theo những cốt truyện. Màn mở đầu chỉ là những trò hài hước, bỡn cợt. Sau đó, khi những ngọn nến lách tách trên giá và mọi người xúm xúit quanh thành một vòng tròn chật ních, ông lão kể chuyện tên Brom mới tiến ra. Chòm râu bạc thắt tím, thả dài trước ngực, áo trùm đen phủ kín từ đôi vai xuống thân hình, ông dang hahi tay, với những ngón tay chĩa ra như móng vuốt của lòai dã thú, rồi ngân nga kể: - Không thể nào ngăn cản được thời gian. Năm tháng cứ trôi qua, dù chúng ta muốn hay không....Nhưng những gì đã mất, vẫn có thể còn lại trong ký ức chúng ta. Do đó, những gì các người sắp nghe, sẽ không trọn vẹn và rời rạc, tuy nhiên đó là sự cần thiết để mà lưu giữ. Vì không có các người, những chuyện đó sẽ không thể tồn tại. Ta kể cho các người nghe một chuyện đã bị lãng quên, hay chỉ còn mơ hồ trong ký ức của chúng ta. Đôi mắt sắc sảo của ông quan sát những khuôn mặt đang chăm chú lắng nghe, sau cùng ánh nhìn ngừng lại trên mặt Eragon: - Trước khi tổ tiên các người sinh ra, thì những Kỵ Sĩ Rồng đã được hình thành. Suốt nhiều ngàn năm, họ đã thành công trong bổn phận bảo vệ và canh giữ. Sự dũng mãnh của họ trong chiến trận không gì so sánh được, vì mỗi một người trong số họ sức lực gấp mười người bình thường. Họ bất tử với bệnh tật, chỉ có thuốc độc và gươm giáo mới có thể lấy đi sinh mạng họ...Sự dũng mãnh của họ chỉ để phục vụ điều tốt lành, vì vậy, dưới sự bảo hộ của họ, lâu dài cao lớn, thành phố to rộng được mọc lên. Nhờ họ gìn giữ hòa bình, mà đất đai màu mỡ, dân chúng trù phú ấm no. Thần tiên là đồng minh, người lùn là bằng hữu của chúng ta. Đó là một thời đại hoàng kim. Nhưng bây giờ chúng ta phải khóc vì những điều đó đã mất hết rồi. Lão lặng lẽ cúi đầu, giọng buồn thảm mênh mông: - Mặc dù kẻ thù không tiêu diệt được họ, nhưng họ đã không tự bảo vệ được sự chống đối lẫn nhau. Tất cả chỉ vì một đứa trẻ tên Galbatorix, sinh ra tại vùng quê Inzibeth. Theo tục lệ, năm lên mười, thằng nhỏ được khảo thí và người ta phát hiện nó có một nội lực phi thường. Các Kỵ Sĩ đã chấp nhận cho nó vào hàng ngũ. Kết thúc giai đoạn huấn luyện, tài năng nó vượt trội hơn tất cả. Với thể lực cường tráng và một trí tuệ thiên phú cực kỳ sắc bén, nó mau chóng chiếm được địa vị ngang hàng với những Kỵ Sĩ tiền bối. Có người thấy sự thăng tiến cấp kỳ của nó như vậy là một điều nguy hiểm, lên tiếng cảnh giác các Kỵ Sĩ. Nhưng các Kỵ Sĩ đã trở nên kiêu hãnh về uy lực của họ, nên làm ngơ trước những lời khuyên. Hỡi ôi, thống khổ nẩy mầm từ khi đó. Vậy là chẳng bao lâu sau khi huấn luyện, Galbatorix rủ hai người bạn đồng môn làm một chuyến du hành liều lĩnh. Chúng bay tới tận miền nam xa xôi, vượt qua lãnh địa của tụi Urgals, yên tâm vì có quyền lực mới bảo vệ cho chúng. Tại đó, nơi băng đóng dày đặc, ngay cả mùa hè cũng không tan rã, chúng bị phục kích trong khi ngủ. Dù hai người bạn và hai con rồng của chúng bị giết chết và nó cũng bị thương nặng, nhưng Galbatorix đã vùng lên giết những kẻ tấn công. Chẳng may, con rồng của nó bị một mũi tên lạc xuyên thấu tim. Không biết phương pháp điều trị, con rồng đã chết trên tay Galbatorix. Hạt giống điên loạn nẩy mầm từ đây. Ông lão kể chuyện chậm chạp nhìn quanh, nét mặt thoáng vẻ u sầu. Những lời kể tiếp theo, nghe như hồi chuông cầu hồn buồn thảm: - Sức lực mất quá nhiều, lại gần như điên loạn vì những mất mát, một mình lang thang vô vọng trong nơi hoang vắng, hắn đi tìm cái chết. Nhưng cái chết không đến với hắn, mặc dù hắn không hề khiếp sợ, lăn xả vào chiến đấu với bất cứ sinh vật nào hắn gặp. Tụi quỉ sứ Urgals và những quái vật khác đều tìm cách chạy trốn khỏi sự lùng sục điên cuồng của hắn. Trong thời gian này, hắn chợt nẩy ra ý nghĩ là có thể các kỵ sĩ sẽ tặng hắn con rồng khác. Thúc dục bởi ý tưởng này, hắn bắt đầu chuyến trở về đầy cam go chỉ bằng đôi chân, xuyên qua vùng núi Spine. Vùng núi rừng hắng đã bay qua, không tốn chút sức lực, vì ngự trên lưng rồng, nay phải vượt qua trong nhiều tháng trời. Hắn có thể dùng phép thuật để săn bắn, nhưng thường thì những nơi hắn đi ngang, chẳng có con thú nào lảng vảng. Do đó, khi qua khỏi được vùng rừng núi, hắn đã cận kề cái chết. Một nông dân bắt gặp hắn gục ngã trong vũng bùn, vội đi gọi các Kỵ Sĩ. Trong cơn hôn mê, hắn được họ đem về săn sóc, và vết thương trên cơ thể hắn được chữa lành. Ngủ li bì suốt bốn ngày, khi hắn tỉnh dậy, không có dấu hiệu bất thường nào của bệnh tinh thần. Được đưa tới trước hội đồng xét xử, Galbatorix thản nhiên đề nghị được cung cấp một con rồng khác. Đòi hỏi quá đáng đó chứng tỏ hắn đã loạn trí và hội đồng mới nhận ra tình trạng thực sự của hắn. Với tư tưởng lệch lạc của một kẻ điên loạn, sự từ chối cho niềm hy vọng được cấp rồng, làm hắn tin rằng chính những Kỵ Sĩ là kẻ có lỗi gây ra cái chết cho con rồng của hắn. Suốt đêm ngày hắn nung nấu ý tưởng tính toán một kế họach trả thù hiệu quả nhất. Hắn kiếm được một kỵ sĩ có cảm tình, gieo rắc những lời đầy xảo trá. Bằng sự thuyết phục triền miên và sử dụng cả những ma thuật hắc ám hắn đã lén lút học được từ một Tà Thần, kích thích kỵ sĩ này chống lại cấp trên. Cả hai âm mưu lừu gạt, rồi giết một bậc tiền bối. Công việc bất chánh hoàn tất, hắn quay lại giết cả kẻ cộng sự. Ngay khi đó, các Kỵ Sĩ xuất hiện, tay hắn còn sũng máu. Galbatorix rú lên một tiếng, thoát vào đêm tối. Vì hắn rất tinh quái trong cơn điên, họ đã không tìm ra hắn. Suốt nhiều năm, hắn chui nhủi trong vùng hoang dã, như một con thú bị săn đuổi, luôn cảnh giác kẻ truy tìm. Tuy mọi người không quên được sự bất nhân, bạc ác của hắn, nhưng việc truy lùng hắn cũng giảm dần. Rồi bất hạnh đẩy đưa một kỵ sĩ trẻ, tên Morzan gặp gỡ hắn. Morzan là một người thể xác mạnh mẽ, nhưng tinh thần yếu đuối. Galbatorix dụ dỗ để Morzan không gài một cánh cổng của doanh trại Ilirea, nơi bây giờ được gọi là Uru'baen. Galbatorix đã lẻn qua cổng này để ăn cắp một con rồng mới nở. Hắn và đệ tử mới cùng trốn tại một nơi xấu xa, hắc ám đến các Kỵ Sĩ cũng không dám liều lĩnh xâm nhập. Tại đây, Morzan được truyền dạy những tà thuật kỳ bí từng bị cấm mà không sợ bị phát hiện. Khi huấn luyện cho Morzan xong và con rồng đen Shruikan của hắn đã trưởng thành, Galbatorix mới xuất đầu lộ diện, với sự túc trực sát bên của Morzan. Chúng cùng nhau truy dấu bất cứ Kỵ Sĩ nào chúng gặp. Giết được một mạng, sức mạnh của chúng lại tăng thêm. Dù biết là sai lầm, nhưng vì khát khao quyền lực và trả thù, mười hai kỵ sĩ đã đi theo Galbatorix. Mười hai cộng với Morzan, chúng trở thành nhóm Mười - Ba - Phản - Đồ. Quá bất ngờ, các Kỹ Sĩ đã thất thế khi bị tấn công. Các thần tiên cũng phải chiến đấu cam go trong cuộc chiến chống lại Galbatorix, nhưng họ vẫn bị đánh bại và phải bắt buộc chạy trốn vào những nơi bí mật. Kể từ đó, họ không xuất hiện nữa. Chỉ còn Vrael, lãnh tụ Kỵ Sĩ, có thể chống trả lại Galbatorix và mười ba tên phản đồ. Lớn tuổi và khôn ngoan, ông ráng chiến đấu để giữ lại nhựng gì còn có thể và giữ những con rồng còn lại khỏi rơi vào tay kẻ thù. Trong trận chiến cuối cùng, trước cổng thành Doru' Areaba, ông đã đánh bại Galbatorix, nhưng lại ngần ngừ hạ thủ. Galbatorix chớp thời cơ, đánh hết sức bình sinh vào mạng sườn ông. Bị thương nặng, ông tránh vào núi Utgard, nơi đây ông hy vọng thu hồi lại dần sức lực. Nhưng Galbatorix đã tìm ra. Khi hai bên chiến đấu, hắn đã tung cú đá trúng ngay hạ bộ của Vrael. Với chiêu đánh hèn hạ này, hắn đã chiếm được ưu thế, vung lưỡi kiếm sáng ngời, chặt đầu ông. Ngay khi hội đủ uy quyền, Galbatorix tự phong mình là vua trên toàn đất nước Alagaesia. Và kể từ ngày đó, hắn đã cai trị chúng ta. Kể xong, ông lê bước ra đi cùng nhóm hát rong. Eragon nghĩ là nó đã nhìn thấy những giọt nước mắt long lanh trên má ông. Đám đông tản mát, thì thầm bàn tán. Garrow nói với con và cháu: - Các con may mắn lắm đó. Suốt đời ta mới chỉ được nghe chuyện này có hai lần. Nhưng nếu triều đình biết vụ này, cụ Brom sẽ không sống nổi tới tháng sau. Món quà của số mệnh Buổi chiều, sau khi trở về từ Carvahall, Eragon quyết định thử viên đá theo kiểu nhà buôn Merlock đã làm. Trước hết, nó gõ viên đá bằng một vồ gỗ nhỏ, viên đá rung lên một âm rất thanh. Nó thích chí, dùng một búa đá nặng, vừa gõ xong, một thanh âm ảm đạm vang lên. Cuối cùng, nó sử dụng một cuốc chim nhỏ. Các cuốc sắt này không làm trầy đến một vết trên viên đá, mà chỉ phát ra một âm thanh cực kỳ trong trẻo. Nhưng khi âm thanh đó lịm tắt, hình như nó nghe tiếng chút chít nho nhỏ. Ông Merlock đã nói viên đá này rỗng ruột, vậy chắc phải có vật gì quí giá bên trong. Nhưng làm sao để mở ra được đây. Phải có lý do người ta mới mài dũa viên đá chứ. Nhưng ai đã bỏ viên đá trong rừng mà lại không quan tâm tìm lại? Mình không tin, một phù thủy có khả năng chuyển viên đá đi mà lại không có khả năng thu hồi trở lại. Như vậy có nghĩa là dành cho mình sao? Không thể tìm ra câu trả lời đầy bí ẩn, nó dọn dẹp và cất viên đá lên kệ. Đêm đó, Eragon chợt tỉnh ngủ, ngồi lên nghe ngóng. Im lặng hoàn toàn. Nhưng nó vẫn không yên tâm, luồn tay xuống nệm, nắm chặt con dao. Đợi thêm mấy phút, nó mới nằm xuống, ngủ tiếp. Một tiếng kêu chút chít xé tan sự im lặng, làm nó tỉnh táo hẳn. Nó lăn xuống giường, rút dao khỏi vỏ. Lần mò tìm hộp mồi, châm nến. Cửa phòng vẫn đóng kín. Nhưng tiếng kêu chút chít càng lớn hơn như tiếng chuột rúc. Nó lục soát gầm giường. Không có gì. Nó ngồi bên thành giường dụi mắt cho đỡ buồn ngủ. Tiếng chút chít xóay vào tai, làm nó giật nẩy mình. Tiếng kêu từ đâu vậy? Vách tường, sàn nhà toàn bằng gỗ cứng. Nếu có con gì bò vào giường ban đêm, thì nó đã nhận ra. Nhìn quanh, mắt nó bắt gặp viên đá. Cầm xuống, nó lơ đãng đong đưa, ngó khắp phòng. Tiếng chút chít vang qua kẽ ngón tay nó. Ôi! Tiếng kêu kỳ lạ đó phát ra từ viên đá! Hừ, viên đá này chẳng đem cho nó được ích lợi gì, ngoài những phiền phức khó chịu, bây giờ lại còn giở trò phá cả giấc ngủ của nó. Mặc cho nó cau có, tức giận, viên đá cứ tỉnh bơ "chiếp chiếp" rồi sau một tiếng hét toáng lên mới chịu câm họng hoàn toàn. Eragon chán ngán đặt viên đá lên kệ, chui vào mềm. Dù có bí ẩn gì cũng đợi tới sáng mai. Trăng sáng rọi qua khung cửa sổ, khi Eragon lại tỉnh giấc vì tiếng lúc lắc của viên đá trên kệ, đập dồn dập lên vách tường. Ánh trăng mát rượi như tắm gội cho viên đá sáng trắng lên. Eragon cầm dao, nhảy khỏi giường. Viên đá ngưng bặt. Eragon vẫn đứng im. Nhưng rồi viên đá lại vừa bật tiếng kêu vừa lắc mạnh hơn trước. Eragon bực bội mặc quần áo. Thây kệ, cho dù có giá trị đến cỡ nào, nó cũng sẽ đem chôn viên đá cứng đầu này thật xa. Nhưng viên đá chợt không kêu, không lắc nữa, mà nó run rẩy, từ từ lăn về phía trước, buông mình xuống sàn nhà đánh uỳnh một tiếng. Sợ viên đá tiến lại gần, Eragon mon men tới cửa. Thình lình, viên đá nứt một vết. Rồi lần lượt nứt thêm nhiều vết khác. Sững người khiếp đảm, Eragon cúi nhìn, nắm chắc con dao. Trên chóp viên đá, nơi đầy vết nứt, một mảnh nhỏ ngập ngừng như đắn đo, rồi viên đá đứng dựng lên, lăn kềnh trên sân. Sau hàng loạt tiếng chíp chíp, một cái đầu đen nhỏ xíu ló ra, tiếp theo đến một thân thể kỳ dị, gai góc. Eragon im lặng, nắm chặt hơn con dao. Con vật mau chóng chui hết thân mình khỏi viên đá. Con vật bé nhỏ đứng im lìm một lúc, rồi lon ton chạy vào nơi sáng ánh trăng. Eragon co người, kinh ngạc. Đứng trước nó, liếm láp cái màng mỏng bao bọc quanh thân, là một con rồng! Thức tỉnh Con rồng không dài hơn nửa cánh tay Eragon nhưng vẻ rất oai vệ quí phái với những chiếc vảy xanh thẩm màu ngọc, giống màu của viên đá. Nhưng đó đâu phải là viên đá, mà là một quả trứng. Con rồng uốn éo xoè đôi cánh. Đôi cánh dài hơn thân hình nó gấp nhiều lần, được chống đỡ bằng những ngón tay xương xẩu, mọc từ đầu cánh, tạo thành một hàng móng vuốt. Cái đầu tam giác xù xì, trông rất sắc. Móng nó trắng như ngà đánh bóng. Từ cuối gáy xuống chóp đuôi là một hàng gai nhọn. Nhưng giữa cổ và vai có một khoảng rộng, không có gai. Eragon nhè nhẹ dời chỗ. Con rồng vươn cổ táp quanh. Đôi mắt xanh, cứng rắn dõi theo từng cử động của Eragon. Eragon không dám nhúc nhích. Đây có thể là một kẻ thù khủng khiếp, nếu nó có ý định tấn công. Nhưng con rồng không còn chú ý đến Eragon nữa, mà bỡ ngỡ chạy quanh khám phá căn phòng. Mỗi lần đụng phải vách tường, bàn ghế, nó lại chí choé kêu lên chít chít. Với một cái vẩy cánh, nó vọt lên giường, bò lên gối. Miệng nó há ra rất tội nghiệp, y như một chú chim non, khoe hàm răng nhọn hoắt. Eragon thận trọng ngồi tuốt cuối giường. Con rồng mon men ngửi tay, rồi nhâm nhâm cổ tay áo Eragon. Nó vội giật tay lại. Nhìn con vật bé nhỏ, Eragon thoáng cười. Nó rụt rè đưa tay phải, rờ mạn sườn con rồng. Một luồng hơi lạnh như nước đá tràn từ bàn tay lên tới cánh tay nó, rồi như trở thành dòng lửa đốt mạch máu nó. Nó bật ngửa, thét lên. Tiếng kim lọai rổn rảng trong tai nó. Nó tức giận kêu không thành tiếng. Toàn thân đau đớn, nó ráng vùng vẫy mà không được. Bàn tay mất cảm giác, tê bại. Giật mình, nó nhìn chính giữa lòng bàn tay, một đốm sáng phân tán thành một hình trứng. Da nó ngứa ngáy, nhức nhối như bị nhện độc cắn. Tim nó đập thình thình. Eragon chớp mắt, cố hiểu chuyện gì xảy ra. Một cảm giác kỳ lạ, như những ngón tay thăm dò trên da thịt nó. Rồi cảm giác đó mạnh hơn lên, nó cảm thấy như một bức tường vô hình bao bọc tư tưởng nó vừa sụp đổ tan tành, giờ đây nó có thể thoải mái truyền tư tưởng mình đến kẻ khác. Và nó lo sợ rằng, không còn gì có thể giữ được nó, nó sẽ bay bổng khỏi thân xác, trở thành một thần linh trên bầu trời. Hốt hoảng, nó cố vượt ra ngoài cảm giác đó. Vừa nhắm mắt lại, cảm giác mới lạ đó biến mất. Nó nghi hoặc nhìn con rồng đang yên lặng. Một cái chân đầy vảy nhẹ cào sườn nó, Eragon phủi vội ra. Nhưng sự đụng chạm này không còn làm nó bị sốc vì năng lượng truyền qua nữa. Ngập ngừng, nó rờ đầu rồng bằng bàn tay phải. Cảm giác ngứa lăn tăn chạy suốt cánh tay. Con rồng nũng nịu uốn lưng dụi đầu vào tay Eragon, như một chú miu. Eragon vuốt nhẹ màng cánh mỏng. Lớp màng như lớp da thuộc mịn màng, ấm áp, nhưng vẫn còn hơi ẩm với hàng trăm sợi gân máu mỏng manh. Một lần nữa, cảm giác như có những chân rết vuốt ve tâm trí, nhưng lần này, thay vì khó chịu, nó chỉ cảm thấy sức lực tràn trề và bụng đói cồn cào. Thở dài đứng dậy, Eragon tự nhủ, chắc chắn đầy là con vật đầy nguy hiểm. Tuy nhiên nhìn nó bò trên giường có vẻ tội nghiệp quá. Nó chỉ thắc mắc, giữ lại con rồng này có hại gì không. Con rồng bắt đầu rên rỉ như đòi ăn. Eragon gãi gãi đầu cho nó nín, rồi ra khỏi phòng, nhẹ nhàng khép chặt cửa. Khi trở lại cùng hai vỉ thịt khô, nó thấy con rồng đang ngồi trên thành cửa sổ ngắm trăng. Nó cắt thịt thành những miếng vuông nho nhỏ, nhón một miếng đưa cho con rồng. Thận trọng đánh hơi, con rồng mới phóng đầu như rắn, chộp miếng thịt từ ngón tay Eragon, rồi nuốt ngon lành. Nó dụi vào tay Eragon đòi ăn nữa. Khi bụng con rồng đã căng ra, còn miếng cuối cùng, Eragon đưa sát mồm, con rồng ngần ngừ mãi mới uể oải nhai. No nê rồi, nó bò lên tay, cuộn tròn sát ngực Eragon, thở phì phì. Từ hai lỗ mũi nó cuốn ra làn khói đen. Eragon kinh ngạc nhìn sững. Vừa lúc tưởng con rồng đã ngủ, Eragon nghe tiếng ư ử từ trong cuống họng con vật. Nó nhẹ nhàng đặt con rồng lên gối. Mắt nhắm tịt, con rồng vươn đuôi, cuốn chặt cột giường. Eragon nằm xuống kế bên. Bây giờ Eragon cảm thấy rất khổ tâm: chăm nuôi một con rồng, nó có thể trở thành một kỵ sĩ cưỡi rồng, như vậy là đương nhiên nó tự đặt mình vào truyền thuyết của những Kỵ Sĩ Rồng. Tuy nhiên nếu triều đình khám phá ra, bản thân nó và cả nhà sẽ bị xử tội chết. Trừ khi, đồng ý phục vụ nhà vua. Chẳng ai có thể, hay muốn, phục vụ triều đình. Giải pháp đơn giản nhất, là giết bỏ con rồng. Nhưng với Eragon, rồng là loài nó luôn tôn trọng, chỉ mới nghĩ đến việc giết rồng, nó đã thấy là một sự bất minh. Nó tự nhủ, vả lại nơi đây cách biệt, hoang vu, nhà mình chưa hề làm gì để mọi người dòm ngó, ai có thể tố cáo mình. Vấn đề là phải làm sao thuyết phục cậu Garrow và anh Roran đồng ý cho nó giữ con vật. Nó tự nhủ mình sẽ bí mật nuôi nó vài tháng, khi nó quá to lớn, cậu Garrow có đuổi nó đi cũng được. Nhưng chẳng hiểu cậu có cho phép không? Dù cậu cho phép, mình có kiếm đủ lương thực nuôi nó không? Nhỏ xíu như con miu thế kia, mà nó xơi một loáng hết cả vốc thịt đầy! Nhưng dần dần, chắc nó có thể tự kiếm ăn được chứ? Mà đến khi nào? Hơn nữa, chẳng biết nó có sống nổi ngoài trời lạnh giá không? Càng nghĩ ngợi, Eragon càng biết chắc nó không rời xa con rồng được. Dù cậu và anh có làm gì, nó sẽ quyết bảo vệ sinh vật bé nhỏ này. Quyết định xong, nó yên tâm ngủ, với con rồng nằm sát bên. Mặt trời ló dạng, con rồng ngất ngưỡng tuốt trên ngọn cột giường, như một lính gác già chào đón ngày mới. Eragon mê mẩn ngắm nhìn sắc màu con rồng. Chưa bao giờ nó nhìn thấy màu xanh trong trẻo, đậm đà đến thế. Lớp vảy như hàng trăm viên ngọc xinh xinh. Nhưng nó chợt nhận ra, lòng bàn tay nó đã chạm vào con rồng, lóng lánh ánh bạc. Eragon hy vọng sẽ giữ cho bàn tay luôn dơ bẩn, để không ai nhận ra. Con rồng nhẹ nhàng tuột xuống sàn. Eragon ôm nó lên, đi lấy thịt, mấy miếng da và rất nhiều vải vụn, rồi lẳng lặng ra khỏi nhà. Buổi sáng thật đẹp, lớp tuyết trong lành phủ khắp ruộng vườn. Nó mỉm cười với con rồng nhỏ nằm gọi trong vòng tay nó, ngơ ngác nhìn quanh. Bước vội qua cánh đồng, tiến về khu rừng, Eragon tìm một nơi trú ngụ an toàn cho con rồng. Tình cờ, nó bắt gặp một cây thanh lương trà, đứng chơ vơ trên gò đất cằn khô, vươn những cành khẳng khiu tuyết bám đầy. Nó đặt con rồng và đống vải vụn dưới gốc cây. Kết một thòng lọng da, nó tròng vào cổ rồng, trong khi con rồng cứ nhào đầu vào đống tuyết. Nhìn con rồng bò quanh, Eragon tháo tròng, buộc chặt chân để con rồng khỏi tự xiết cổ. Sau đó gom cành cây, nó làm một cái lều đơn sơ trên cành cao, rồi bỏ thịt và vải vụn vào trong lều. Lấy vải che chắn bên ngòai cho ấm áp. Cành cây rung động, tuyết rơi lả tả lên mặt, nhưng Eragon khoan khoái ngắm nghía tác phẩm mới hoàn thành. Nâng con rồng lên cây, nó bảo: - Nhà mới của em đây. Con rồng chui tọt vào lều, xơi ngay một miếng thịt, rồi uốn mình, e lệ nhìn nó, chớp chớp mắt. Eragon ra lệnh: - Muốn yên ổn thì ở đây. Con rồng lại chớp mắt lia lịa. Đoán con vật nhỏ này chẳng hiểu gì, Eragon tập trung tư tưởng cho đến khi cảm thấy con rồng ý thức được những gì nó nói. Một lần nữa, nó lại có cái cảm giác khoáng đạt, thanh khiết kỳ lạ của một không gian rộng lớn đè xuống nó. Tập trung hết sức lực, nó chăm chú nhìn thẳng con rồng, cố gắng truyền đạt ý nghĩ: "Ở lại đây." Con rồng ngừng ngọ ngạy, gật gật đầu. Nó tập trung thêm, nhấn mạnh: "Ở lại đây." Một mối giao cảm mơ hồ trong sự nối kết thử nghiệm lần đâu, nhưng Eragon vẫn băn khoăn, chẳng biết con rồng có thật sự hiểu không. Dù sao nó cũng chỉ là một con thú. Khi ra về, Eragon ngoái lại nhìn. Con rồng ló đầu ra ngoài lều, mở to mắt nhìn theo nó. Đi vội về nhà, Eragon ngoái lại nhìn. Con rồng ló đầu ra ngoài lều, mở to mắt nhìn theo nó. Đi vội về nhà, Eragon lẻn vào phòng, dọn dẹp mảnh vỏ trứng. Nó tin chắc cậu Garrow và anh Roran chẳng quan tâm gì đến chuyện biến mất của viên đá. Ngay sau khi biết không bán được tiền, chẳng ai còn nhớ gì tới viên đá nữa. Buổi sáng thức dậy, Roran chỉ bảo đêm qua nghe tiếng lục đục, nhưng chẳng quan tâm là tiếng gì. Eragon nhẹ cả người. Dấu vết trên bàn tay nó cũng dễ dàng che giấu, nên nó không lo. Bây giờ nó chỉ nóng lòng mong mỏi ngày mau qua. Ôm xúc xích lấy trộm dưới hầm, Eragon tiến đến nơi trú ẩn của con rồng mà phập phồng lo. Chẳng hiểu con rồng có sống nổi ngòai trời đông rét mướt này không? Nhưng nó đã quá lo xa. Con rồng nhỏ đang ngất ngưởng trên một cành cây, nhấm nháp một vật gì kẹp giữa hai chân trước. Vừa thấy Eragon, nó cuống quít kêu lên chít chít. Eragon mừng rỡ thấy nó đậu trên cành cao, khỏi tầm bắt của loài thú to lớn khác. Eragon vừa bỏ đồ ăn dưới gốc cay, con rồng tuột ngay xuống. Trong khi nó ăn ngấu nghiến, Eragon quan sát lại cái liều. Đồ ăn để lại hôm qua hết sạch, nhưng lều thì nguyên vẹn và có một ít lông vũ rải rác trên sàn. Tốt, như vậy là nó có thể tự kiếm mồi. Bây giờ nó lại thắc mắc, không biết con rồng là "cô" hay "cậu". Mặc cho tiếng kêu chít chít phản đối, Eragon lật ngửa con rồng, quan sát, nhưng chẳng thấy dấu hiệu đặc biệt nào. Nó cởi dây, đặt con rồng lên vai rồi cả hai đi khám phá khu rừng. Cây cối phủ trắng tuyết, nhìn xuống chúng, như những hàng cột khổng lồ, uy nghi trong giáo đường. Eragon kể cho con rồng nghe những gì nó biết về khu rừng, nó nói liên tục, chẳng cần biết con rồng có hiểu hay không. Đơn giản là nó chỉ muốn chia sẻ những gì nó biết. Mắt con rồng long lanh nhìn lại, như uống lấy từng lời. Có lúc, ngồi nghỉ, nó nhìn con rồng trên tay, bàng hoàng vì những sự kiện mới xảy ra. Mặt trời lặn Eragon mới quay về, biết chắc đôi mắt giận hờn của con rồng dõi nhìn theo nó. Đêm đó nó lo sợ đủ chuyện không may có thể xảy ra cho con vật bé nhỏ, yếu đuối, bão tuyết và thú dữ chẳng hạn, làm nó trằn trọc mãi mới ngủ được. Nó mơ toàn thấy sói đen, cồn cáo xé thịt con rồng bằng những cái răng nhuốm máu. Mặt trời vừa lên, Eragon ôm đồ ăn và bó vải vụn chạy ra khỏi nhà. Thấy con rồng đang ở tuốt trên cao ngắm mặt trời mọc, Eragon tạ ơn tuốt tuột thánh thần biết và không biết. Con rồng nhỏ tuột xuống đất lon ton chạy lại, nhảy tót lên tay và dụi đầu vào ngực nó. Hình như con rồng không sợ lạnh, mà sợ phải ở một mình. Nó thở ra một luồng khói đen. Ngồi dựa gốc cây, Eragon vỗ về, an ủi nó. Nằm im thin thít trong áo choàng của Eragon một lúc, rồi nó trườn ra, leo lên vai Eragon. Cho nó ăn xong, Eragon phủ thêm giẻ quanh lều. Chỉ vui đùa với nó một lúc, Eragon phải về nhà làm việc. Thời khóa biểu hàng ngày được sắp đặt đàng hoàng. Mỗi sáng sớm Eragon chạy đi cho con rồng ăn điểm tâm, rồi vội vàng trở về lo việc nhà, xong việc, lại trở ra thăm nó. Cậu Garrow và Roran đều nhận ra thói quen của Eragon và hỏi nó vì sao ra ngòai nhiều thế. Nó chỉ nhún vai và bắt đầu thận trọng để không bị theo dõi. Mấy ngày sau, Eragon bớt lo lắng, vì con rồng lớn như thổi, chẳng bao lâu nữa nó sẽ không còn ngại hiểm nguy nào. Qua tuần đầu tiên, con rồng lớn gấp đôi. Bốn ngày sau, nó cao bằng đầu gối Eragon, không còn nằm vừa trong lều nữa. Eragon bắt buộc phải làm nhà dưới đất cho nó. Công việc đó mất ba ngày. Khi con vật được hai tuần tuổi, Eragon đành phải thả cho nó được tự do, vì bây giờ lượng thức ăn nó cần quá nhiều. Lần đầu, Eragon cởi xích cho nó, vì trước khi Eragon sợ nó theo về nhà. Eragon đã in sâu vào trí não con rồng là chỉ được săn mồi trong vùng núi Spine, nơi ít bị phát hiện nhất. Nông dân chỉ chú ý đến những vết thú xuất hiện từ thung lũng Palancar. Nhưng khi con rồng vào sâu trong rừng, Eragon vừa cảm thấy an toàn, vừa cảm thấy lo. Mối thần giao cách cảm với con rồng càng ngày càng dễ dàng, mạnh mẽ hơn. Eragon phát hiện, dù con rồng không hiểu tiếng nói, nhưng qua nét mặt, tình cảm vẫn có thể giao lưu được với nhau. Đó là một phương pháp rõ ràng, tuy nhiên đôi khi Eragon vẫn chưa hiểu hết. Phạm vi liên lạc với nhau bằng ý nghĩ nới rộng mau lẹ. Chẳng bao lâu, Eragon có thể liên lạc với con rồng trong vòng ba dặm. Suốt những giờ lao động, Eragon vẫn âm thầm trò chuyện với con rồng. Nhưng khi nó trò chuyện với người nào khác, sự liên lạc với rồng bị rối, như có con ruồi vo ve trong tai. Tới khi con rồng thuần thục, tiếng chút chít của nó trầm xuống thành tiếng gầm nho nhỏ, nhưng nó vẫn chưa thở ra lửa, điều này làm Eragon thắc mắc. Vì Eragon đã từng thấy nó thở ra khói đen mỗi khi bực tức, nhưng chưa bao giờ có chút lửa nào. Cuối tháng, đầu rồng đã cao tới khủy tay Eragon. Trong khoảng thời gian ngắn đó, từ một con vật nhỏ bé, yếu ớt, con rồng đã trở nên một con vật đầy sức lực. Vảy cứng như lớp giáp bằng sắt, răng sắc nhọn như dao găm. Vào buổi chiều, Eragon đã có thể đi dạo thật xa với con rồng thong dong bên cạnh. Gặp một trảng trống, Eragon ngồi dựa gốc cây, ngắm con rồng xoè cánh bay lượn trên không. Nhìn nó bay mà thấy mê, chỉ tiếc nó chưa đủ lớn cho Eragon cưỡi được. Mỗi khi vuốt ve thân hình con rồng, Eragon cảm thấy rõ gân cốt con rồng cuồn cuộn dưới bàn tay nó. Mặc bao cố gắng của Eragon, khu rừng chung quanh trang trại xuất hiện đầy rẫy dấu vết của con rồng. Không thể nào xóa hết những dấu chân bốn móng to đùng của nó lún sâu trong tuyết. Hơn nữa con quái này lại chẳng chịu chôn dấu những đống phân lù lù khác lạ. Nó còn cạ mình làm bong hết vỏ cây, mài móng làm những khúc gỗ lõm sâu cả tấc. Nếu cậu Garrow và anh Roran đi xa khỏi trang trại, sẽ phát hiện ra ngay. Eragon nghĩ chẳng còn cách nào tốt hơn là nói ra sự thật. Tuy nhiên, trước hết nó muốn đặt cho con rồng một cái tên tương xứng và học hỏi thêm những kiến thức về rồng. Việc này nó cần phải đến gặp ông già Brom, bậc thầy của những thiên anh hùng ca và huyền thọai, nơi còn tồn tại một nền rồng học. Vì vậy khi Roran đi Carvahall sửa cuốc, Eragon tình nguyện đi cùng. Buổi chiều trước hôm lên đường, Eragon vào rừng gọi con rồng bằng ý nghĩ. Một lúc sau nó đã thấy một chấm đen loáng thoáng trên nền trời xám. Con rồng nhào xuống, rồi lại lượn lên, giữ thăng bằng trong không trung, phía trên những ngọn cây. Tiếng gió thổi qua cánh nó như tiếng sáo. Nó nhẹ nhàng hạ xuống đất. Eragon mở ý nghĩ, vẫn chưa hết bứt rứt vì cảm giác đầy kỳ lạ, nói với con rồng rằng nó sắp đi xa. Con rồng thở phì phì lo lắng. Eragon dùng ý chí an ủi nó, nhưng nó vẫn quẫy đuôi không đồng ý. Những cái vảy dựng cả lên dưới bàn tay vuốt ve an ủi của Eragon. Một tiếng nói rung lên trong tai Eragon thật rõ ràng. "Eragon!" Tiếng nói vừa buồn vừa nghiêm trang, như một hiệp ước vừa bị phá vỡ. Nó nhìn sững con rồng, tay nó rần rần lạnh buốt. "Eragon!" Ruột nó co thắt lại, khi đôi mắt ngọc thăm thẳm nhìn lại nó. Lần đầu tiên, nó không nghĩ đây là một con vật. Nó là một thứ gì khác hẳn, thật lạ lùng...Nó co giò chạy về nhà, chạy trốn khỏi con rồng. Ôi! Con rồng của tôi. Tiếng gọi vẫn đuổi theo: "Eragon". Đối ẩm Roran và Eragon chia tay ngoài ngoại ô Carvahall. Eragon thả bộ tới nhà ông lão kể chuyện Brom. Nó vừa đưa tay gõ cửa, một tiếng nói gắt gỏng cất lên: - Thằng nhỏ, mi cần gì? Nó quay phắt lại. Phía sau nó, ông lão Brom cúi mình trên cây gậy chạm trổ những hình ảnh lạ kỳ. Lão mặc áo trùm đầu màu nâu như một nhà tu. Một cái túi lủng lẳng ngay thắt lưng da. Trên chòm râu trắng, cái mũi kiêu hãnh, khoằm khoằm như mỏ phượng hoàng. Eragon vội nói: - Cháu đến hỏi ông một vài việc. Anh Roran đi sửa cuốc, cháu được rảnh, tới nhờ ông cho cháu biết vài điều. Ông lão càu nhàu, mở cửa. Eragon nhìn thấy cái nhẫn vàng trên ngón tay ông, một viên ngọc sáng ngời, nổi bật một hình chạm kỳ lạ. Trong nhà tối đen như mực, một mùi chua chua nồng nặc trong không khí. Ông vừa đi lại trong tối vừa nói: - Những câu hỏi của cháu thì chẳng bao giờ chấm dứt, vào nhà mới nói hết được. Phải châm đèn lên đã. À, đây rồi. Ông ngồi trong ánh nến chập chờn trước lò sưởi. Từng chồng sách chất trên cái ghế dựa chạm trổ, đặt trước kệ. Mặt ghế và tấm dựa lưng đều bằng da nhồi bông với những hình vẽ hoa hồng. Những cái ghế nhỏ hơn chất đầy những cuộn giấy. Bình mực và bút ngổn ngang đầy bàn viết. Ông bảo Eragon: - Kiếm chỗ ngồi xuống đi. Nhưng phải thận trọng, toàn đồ quí đó. Eragon lách qua những tấm da thuộc viết đầy cổ ngữ. Nó rón rén ôm những cuộc giấy đặt xuống sàn. Vừa ngồi xuống, bụi bốc mịt mù, nó cố nhịn hắt hơi. Ông lên tiếng: - Tốt rồi. Không gì thú hơn trò chuyện bên lò sưởi. Ông lật bỏ áo trùm đầu để lộ mái tóc không chỉ trắng mà ánh lên như bằng bạc. Rồi ông treo siêu nước nhỏ trên lửa lò sưởi. Ngồi lại xuống ghế, ông hỏi Eragon: - Nào, cháu muốn hỏi gì? - Dạ...cháu thường nghe về những Kỵ Sĩ Rồng và tài năng của họ. Hầu hết mọi người đều mong họ trở lại, nhưng chưa bao giờ cháu nghe kể, họ đã khởi đầu ra sao? Những con rồng từ đâu tới? Và điều gì làm các Kỵ Sĩ khác biệt với những con rồng? - Quá nhiều vấn đề để kể cho cháu. Nếu ta nói hết lịch sử về họ, thì chúng ta phải ngồi đây tới mùa đông năm sau. Thôi để ta tóm tắt, nói sơ sơ cho cháu nghe. Nhưng trước hết, để ta lấy tẩu thuốc đã. Eragon kiên nhẫn ngồi chờ ông lão nhồi tẩu thuốc. Nó rất quí ông. Nhiều khi ông lão hay nổi giận, nhưng chưa bao giờ ông tiếc thì giờ với nó. Một lần Eragon hỏi ông từ đâu tới, lão ha hả cười bảo: "Từ một ngôi làng rất giống Carvahall này, chỉ có điều không hoàn toàn thú vị như ở đây." Nó càng thêm tò mò, hỏi cậu. Nhưng cậu Garrow chỉ có thể cho nó biết, ông lão đã mua căn nhà ở Carvahall gần mười lăm năm trước và sống lặng lẽ tại đó kể từ ngày ấy. Ông Brom châm tẩu thuốc bằng hộp mồi lửa. Bập vài hơi, rồi nói: - Bây giờ chúng ta sẽ không phải ngừng câu chuyện nữa, chỉ trừ khi nhấm nháp ngụm trà. Nào, về các Kỵ Sĩ, hay Shur'tugal, như những thần tiên gọi họ. Bắt đầu kể từ đâu bây giờ? Họ đã sống từ vô vàn năm trước và đã chỉ huy hai lần đất đai của triều đình. Biết bao chuyện kể về họ, đa phần là những chuyện phi lý. Nếu cháu tin vào tất cả những chuyện đó, cháu sẽ tưởng họ có quyền lực của những vị thần linh. Các nhà thông thái đã bỏ ra cả đời để phân biệt những chuyện hoang đường và sự thật, nhưng dường như chưa vị nào thành công. Tuy nhiên đó không phải chuyện không làm được, nếu ta chỉ hạn chế tìm hiểu trong ba lĩnh vực. Các Kỵ Sĩ khởi đầu ra sao, tại sao họ được tôn trọng đến như vậy, và rồng đến từ đâu. Ta sẽ bắt đầu nói về đề tài cuối cùng này trước. Eragon ngồi im, lắng nghe giọng kể êm như ru của ông già. - Rồng có mặt đồng thời với vùng đất Alagaesia được tạo ra. Nếu chúng có hồi kết thúc, thì chính là khi thế giới này không còn nữa, vì chúng có khả năng chịu đựng như trái đất này. Rồng, người lùn, và một vài sinh vật khác là những cư dân thật sự tại nơi này. Chúng sống tại đây trước muôn loài. Mạnh mẽ và kiêu hãnh từ cội nguồn đầy vinh quang của chúng. Thế giới của chúng không hề thay đổi, cho tới khi những thần tiên đầu tiên vượt đại dương tới đây, trên những con thuyền bằng bạc. - Những thần tiên từ đâu tới, và tại sao họ lại bị gọi là chuyện hoang đường. Họ có thật sự tồn tại không? - Cháu có muốn những câu hỏi của cháu được trả lời không? - Cháu xin lỗi. Lão Brom trầm ngâm nhìn ngọn lửa liếm đáy siêu, chậm rãi tiếp: - Nếu cháu biết rằng, thần tiên được cho là chuyện hoang đường là vì, họ thanh nhã, diễm lệ hơn tất cả các loài khác. Họ tới từ một nơi mà họ gọi là Alalea, chẳng ai hiểu nghĩa là gì và nơi đó ở đâu. Khi đó thần tiên rất hãnh diện về dòng giống và phép thuật cao cường của họ. Lúc đầu họ coi loài rồng chỉ là thú vật. Với niềm tin đó mới nẩy sinh một lầm lẫn chết người. Một chàng trẻ tuổi của họ đã đi săn và giết chết một con rồng, như giết một con nai vậy. Loài rồng nổi giận, phục kích và giết hại thần tiên. Bất hạnh là chuyện đổ máu không ngừng lại ở đó. Rồng tập hợp lại và tấn công toàn thể xứ của thần tiên. Khiếp đảm trước sự hiểu lầm như khủng khiếp này, thần tiên cố gắng chấm dứt chuyện oán thù, nhưng không có cách nào liên hệ được với loài rồng. Do đó, những rắc rối nghiêm trọng tiếp tục xảy ra, dẫn đến một cuộc chiến tranh đẫm máu kéo dài, mà sau đó cả hai phe đều ân hận. Lúc đầu, thần tiên chiến đấu chỉ để tự vệ, vì họ phải miễn cưỡng leo thang cuộc chiến, nhưng rồi sự tàn bạo của rồng đẩy họ đến chỗ bắt buộc phải tấn công để sống còn. Chuyện này kéo dài suốt năm năm, và còn kéo dài không biết tới bao giờ, nếu không có một vị tiên tên là Eragon nhặt được một trứng rồng.... Eragon chớp mắt đầy kinh ngạc. Ông lão bảo: - A, ta thấy là cháu không rõ nguồn gốc tên của cháu rồi. - Dạ, không. Siêu nước sôi sùng sục. Eragon chẳng hiểu sao tên nó lại được đặt theo tên một thần tiên. Brom xách siêu nước rót vào hai tách. Đưa cho Eragon tách nước trà, ông nói: - Món này làm cháu thấy chuyện càng thêm phần hấp dẫn. Cánh trà này không cần ngâm lâu trong nước uống đi, để lâu chát lắm. Eragon vừa nhấp một ngụm, lưỡi nó nóng rát như bị phỏng. Ông lão bỏ tách trà xuống, tiếp tục hút tẩu thuốc: - Chẳng ai hiểu vì sao quả trứng bị bỏ quên tại đó. Người thì bảo, cha mẹ của trứng bị giết trong cuộc chiến, kẻ lại tin rằng quả trứng bỏ đó có mục đích. Dù sao, Eragon đã nhận ra sự ích lới chăm nuôi một con rồng thân thiện. Ông ta bí mật nuôi nó và theo tục lệ xưa, ông đặt tên nó là Bid'Daum. Khi Bid'Daum trưởng thành, họ cùng du hành với những rồng khác và thuyết phục chúng sống hòa bình với những thần tiên. Những hiệp ước được thành lập giữa hai loài. Để bảo đảm chiến tranh không bao giờ xảy ra nữa, họ quyết định cấp thiết thành lập đoàn Kỵ Sĩ Rồng. Lúc đầu, các Kỵ Sĩ chỉ là phương tiện liên lạc giữa rồng và thần tiên. Càng về sau, họ càng chứng tỏ giá trị và họ được trao nhiều quyền lực hơn. Dần dần họ chiếm đảo Vroengard làm quê hương và xây dựng một thành phố, Doru' Areaba, tại đó. Trước khi Galbatorix lật đổ họ, các Kỵ Sĩ nắm giữ nhiều quyền lực hơn hầu hết các vua chúa tại Alagaesia. Vậy là ta đã trả lời hai câu hỏi của cháu rồi đó. - Dạ, nhưng Eragon nghĩa là gì? - Ta không biết. Tên đó quá cổ xưa rồi. Ta ngờ là chẳng ai còn biết, trừ những thần tiên. Nhưng cháu phải cực kỳ tốt phước mới có cơ may gặp được một người của họ. Dù sao tên cháu rất hay, cháu nên hãnh diện vì cái tên đó. Không phải ai cũng được vinh dự này đâu. Eragon tạm quên thắc mắc vì sao tên nó lại được đặt theo tên Kỵ Sĩ Rồng đầu tiên, vì nó muốn hỏi thêm một điều còn thiếu trong những lời kể của ông già. - Cháu không hiểu, chúng ta ở đâu, khi những Kỵ Sĩ được tạo ra? - Chúng ta? - Ông biết mà, ý cháu là...nói chung về con người. - Chúng ta không sinh ra trên đất này trước thần tiên. Ba thế kỷ sau khi có Kỵ Sĩ, tổ tiên chúng ta mới tới đây. - Không thể như thế được. Từ xưa tới gờ, chúng ta vẫn sống tại thung lũng Palancar này mà. - Chỉ vài thế hệ thôi, trước đó thì không đúng. Kể cả cháu nữa, Eragon. Dù cháu coi mình là một phần tử trong gia đình Garrow, điều đó cũng có phần đúng, nhưng tổ tiên cháu không phải dân của đất này. Hỏi mọi người quanh đây coi, cháu sẽ thấy, họ cũng không phải là dân ở đây từ xa xưa đâu. Eragon nhấm ngụm trà vẫn còn nóng bỏng. Nó nhủ thầm, đây là quê hương mình, mà lại không liên quan gì tới người mà mình gọi bằng cha? Nó lại hỏi tiếp: - Sau khi những Kỵ Sĩ bị tiêu diệt, chuyện gì đã xảy ra cho những người lùn? - Không ai thật sự biết rõ điều này. Sau mấy trận chiến, khi thấy Galbatorix nắm chắc phần thắng, họ bịt kín lối vào những địa đạo và biến vào lòng đất. Theo ta biết, cho đến bây giờ, không một ai nhìn thấy họ. - Còn những con rồng? Chắc chúng không bị giết chết hết chứ? - Cho đến ngày nay, đó vẫn là bí mật lớn nhất tại Alagaesia: Bao nhiêu rồng thoát khỏi sự tàn sát của Galbatorix? Hắn chỉ để lại kẻ nào sẵn lòng phục vụ hắn. Nhưng chỉ những con rồng rồ dại của những gã phản đồ mới trợ lực cho máu điên loạn của hắn. Nếu còn con rồng nào sống sót, chúng cũng đã tự ẩn mình, để thoát khỏi bàn tay của triều đình. Vậy thì con rồng của mình từ đâu ra? Eragon tự hỏi. - Khi thần tiên tới Alagaesia, tụi quái Urgals đã có mặt ở đây chưa? - Chưa. Chúng theo thần tiên vượt biển, như lũ ruồi đi săn máu vậy. Chính chúng là nguyên nhân là các Kỵ Sĩ trở nên giá trị trong cuộc chiến bảo vệ hòa bình đầy dũng cảm. Rất nhiều điều cần học hỏi trong giai đoạn lịch sử này. - Dạ, lần trước cháu đã được nghe ông kể chuyện.... Ông lão gầm lên, mắt sáng rực: - Chuyện à? Nếu đó là chuyện, thì lời đồn về cái chết của ta là sự thực rồi, và bây giờ cháu đang chuyện trò với hồn ma chắc? Đó là lịch sử. Phải tôn trọng quá khứ. Cháu không biết quá khứ có thể ảnh hưởng đến cháu cỡ nào đâu. Eragon chờ ông dịu xuống mới dám hỏi: - Rồng lớn cỡ nào, hả ông? - Lớn hơn một ngôi nhà. Ngay một con rồng nhỏ, xòa cánh đã tới khoảng ba mươi thước rồi. Có những con rồng, trước khi bị triều đình giết, có thể vượt qua những đỉnh núi cao chót vót. Eragon khiếp đảm nghĩ, mấy năm nữa mình biết giấu con rồng vào đâu? Nó phát bực, nhưng ráng bình tĩnh hỏi: - Chừng bao lâu chúng mới trưởng thành? - Sau năm sáu tháng tuổi, chúng mới có thể phun lửa, đó là thời gian chúng có thể kết hôn. Càng nhiều tuổi, rồng phun lửa càng lâu. Có con phun hàng mấy phút. - Cháu nghe nói, vảy của chúng sáng như ngọc. - Cháu nghe đúng đó. Chúng có đủ lọai màu sắc, đậm lạt. Người ta bảo chúng quần tụ một bầy, trông như một cầu vồng sống. Nhưng ai nói với cháu điều này? - Dạ...một thương gia. - Tên người ấy là gì? Cặp mày bạc của ông nhíu lại, những vết nhăn trên trán hằn sâu. - Cháu không biết. Ông ta nói chuyện trong quán rượu của chú Morn, nhưng cháu không tìm hiểu ông ta là ai. Ông ta còn nói, một Kỵ Sĩ có thể đọc được ý nghĩ con rồng của mình. Eragon nói vội, hy vọng gã lái buôn tưởng tượng sẽ làm ông không nghi ngờ nó. Lim dim ắt, ông già chậm chạp mồi thuốc, hít một hơi rồi mới nói: - Hắn nói sai rồi. Ta thuộc sử rất rõ, làm gì có chuyện đó. Hắn còn nói gì nữa không? - Dạ không. Rồng sống lâu lắm, phải không ông? - Rất lâu. Sống mãi mãi. Thật ra chúng sống cho đến khi bị giết hay khi Kỵ Sĩ cưỡi nó qua đời. Eragon phản đối: - Làm sao người ta biết được? Nếu nó chết, khi Kỵ Sĩ cưỡi nó chết, nó chỉ có thể sống được đến sáu bảy chục tuổi là cùng. Ông đã kể rằng, các Kỵ Sĩ sống hàng mấy trăm năm. Điều đó không thể có được. Nó áy náy, sợ vẫn cứ sống lù lù trong khi bạn bè, gia đình thì chết ráo hết. Ông già Brom nhếch mép cười tinh quái: - Điều có thể chỉ là vấn đề chủ quan. Ai có thể nói cháu vượt qua được rặng Spine và vẫn sống? Vậy mà cháu làm được đó thôi. Chỉ là vấn đề trí tuệ. Còn nhỏ mà cháu biết nhiều như vậy, hẳn là cháu phải rất khôn ngoan chứ. Cháu quên rồng rất thần kỳ, gây ảnh hưởng đến tất cả mọi thứ chung quanh một cách thật lạ lùng sao. Các Kỵ Sĩ gần gũi chúng nhất và quá rõ điều này. Ảnh hưởng mạnh nhất từ chúng là, sự kéo dài tuổi thọ. Nhà vua của chúng ta sống lâu đến thế nào, đủ chứng minh điều đó. Nhưng nhiều người lại cho rằng nhà vua trường thọ là do năng lực phép thuật của chính ông ta. Có những đổi thay mà mọi người ít nhận ra: tất cả những Kỵ Sĩ đều có thể lực cường tráng hơn, tinh thần minh mẫn hơn và thị lực chính xác hơn những con người bình thường. Cùng với những điều này, đôi tai họ cũng dần dần nhọn hơn, tuy không bao giờ nổi rõ hẳn như tai thần tiên. Eragon suýt đưa tay lên rờ vành tai. Con rồng này còn làm thay đổi đời mình bằng những gì khác nữa không? Không chỉ xâm phạm vào trí óc mình, nó còn có thể thay đổi ngọai hình mình nữa sao? Eragon hỏi: - Loài rồng có thông minh không ông? - Cháu không nhớ những gì ông nói sao? Chẳng lẽ các thần tiên thiết lập những thỏa ước hòa bình với một lũ súc sinh ngu dốt? Chúng thông minh như ông cháu mình vậy. - Nhưng chúng là loài vật. - Chúng là lòai vật như chúng ta. Lý do con người tôn vinh các Kỵ Sĩ mà quên đi loài rồng, vì họ cho rằng rồng chỉ là phương tiện chuyên chở người từ nơi này tới nơi khác thôi. Không đúng vậy. Kỵ Sĩ chỉ có thể tạo nên những chiến công hiển hách là nhờ ở rồng. Biết bao kẻ đã buông gươm khi biết một con thằn lằn khổng lồ phun được lửa và vô cùng khôn ngoan thận trọng, sẽ xuất hiện tức thì để ngăn chặn bạo lực hả? Ông nhả một ngụm khói thuốc thành vòng tròn lơ lửng bay cao. Eragon hỏi: - Ông đã thấy rồng bao giờ chưa? - Hừ, những chuyện đó xảy ra trước khi có ta. Giờ là lúc Eragon tìm cách tìm tên cho con rồng của nó: - Cháu không thể nào nhớ nổi tên con rồng mà người nhà buôn kia nhắc tới, ông giúp cháu được không? - Có những cái tên như Jura, Hírado và Fundor, những con rồng đã từng chiến đấu với con rắn biển khổng lồ. Galzra, Briam, Ohen, Gretiem, Beroan, Roslarb.... Ông kể một tràng nhiều tên khác nữa. Cuối cùng ông nói lên một cái tên, thì thầm như hơi thở: - Và còn có cả Saphira nữa. Cháu đã nghe hắn nhắc đến tên nào? - Hình như không. Nhưng trễ rồi, anh Roran chắc đã xong việc bên chú Horst, cháu phải về thôi. - Sao vậy? Ta định trả lời tất cả những câu hỏi của cháu, cho tới khi Roran tới tìm cháu. Không thắc mắc gì về chiến thuật của rồng và những trận chiến nghẹt thở sao? - Hôm nay cháu được ông chỉ dạy nhiều rồi. - Tốt lắm, chào cháu. Đừng quên, nếu nhớ ra tên tay nhà buôn đó, báo cho ta biết. - Cháu sẽ ráng nhớ. Cám ơn ông nhiều lắm. Eragon vừa chậm rãi bước trong ánh nắng xiên xiên của một ngày dông, vừa nghĩ ngợi về những gì mới được nghe. Một cái tên của uy quyền Trên đường về, Roran bảo: - Hôm nay nhà chú Horst có khách đến từ Therinsford. - Tên ông ta là gì? Eragon hỏi. Nó bước lẹ, tránh những luống tuyết. Hai má nó lạnh rát. Roran thúc bước đi xuống tuyết, như những đường cày, nói: - Dempton. Ông ta đặt chú Horst làm mấy chân để cối xay. - Ở Therinsford không có lò rèn sao? - Có, nhưng không khéo. Ông ta bảo tao đến Therinsford làm cho ông. Nếu đồng ý, thì khi nào ông ấy trở về, sẽ cùng đi luôn. Thợ xay làm việc quanh năm. Mùa đông xay ngũ cốc của khách hàng mang tới, mùa gặt mua ngũ cốc xay thành bột, bán ra. Đó là công việc vừa cực nhọc vừa nguy hiểm. Nhân công thường bị những tảng đá khổng lồ của máy xay nghiến nát cả bàn tay. Eragon hỏi: - Anh định cho cậu biết không? - Có chứ. - Để làm gì? Anh quá biết cậu sẽ nghĩ sao, nếu chúng mình bỏ đi xa mà. Nói gì thì cũng không tránh khỏi um xùm. Quên đi, đừng nói gì hết, để tối nay còn được yên ổn ăn cơm. - Không nói sao được. Vì tao sẽ đi làm mà. - Sao? Eragon ngừng bước. Hai anh em đối diện nhau, hơi thở tỏa khói trong không khí. Eragon nói: - Em biết tiền bạc khó khăn, nhưng nhà ta vẫn sống được, tại sao anh phải đi. - Vì tao cần tiền cho riêng tao. - Để làm gì? - Anh muốn lấy vợ. - Katrina? Anh hỏi ý chị ấy chưa? - Chưa. Nhưng mùa xuân tới, khi anh dựng được căn nhà, anh sẽ nói. - Việc nhà ê hề mà anh lại bỏ đi. Sao không đợi cấy trồng xong đã? - Không được. Mùa xuân người ta mới cần tao nhất. Chờ đến khi cày bừa, xuống giống xong thì biết bao giờ đi được. Tao đi lúc chuyển mùa này là hay nhất. Mày và cậu có thể làm mà không cần tới tao. Nếu công việc tốt đẹp, tao sẽ trở về....cùng với vợ. - Em chỉ còn biết chúc anh may mắn. Nhưng cậu sẽ không để yên đâu. Hai đứa lặng lẽ đi bên nhau. Eragon lo lắng nghĩ, khó lòng cậu chấp nhận chuyện này. Nhưng khi về tới nhà, Roran không nói gì với cha về kế họach làm ăn xa. Eragon biết chắc, trước sau gì anh nó cũng sẽ nói. Kể từ khi con rồng "nói" với nó, đây là lần đầu tiên Eragon trở lại. Vừa lo ngại vừa đề phòng, nó rón rén tiến lại...Một âm thanh vang trong đầu nó: "Eragon!" - Mi chỉ biết nói vậy thôi sao? "Ừa" Nó trợn mắt bất ngờ. Con rồng biết giỡn sao? Rồi còn gì nữa đây? Nó đạp gãy mấy cành khô, vì quyết định ra đi của Roran làm nó vẫn chưa hết bối rối. Một câu hỏi từ con rồng truyền sang tư tưởng Eragon. Nó kể lại chuyện Roran. Cuối cùng nó gào lên: - Mình không muốn anh ấy đi. Con rồng nghiêm trang lắng nghe. Eragon dụi mắt bảo nó: - Em cần một cái tên, rồng ạ. Hôm nay anh đã được nghe nhiều tên rồng hay lắm. Có lẽ em sẽ chọn được một tên em thích. Nó nhớ lại hàng lọat tên ông già Brom đã nói, rồi hai cái tên nghe rất vui tai và quí phái chợt hiện ra. Nó hỏi: - Vanilor hay Eridor được không? Cả hai đều là những chàng rồng danh tiếng đó. "Ứ, Eragon cơ", con rồng õng ẹo trả lời. Eragon nói ngay: - Không được. Eragon là tên anh. Được, còn nhiều tên khác nữa đây. Nhưng nó đề nghị tên nào, con rồng đều "ứ", nó còn tỏ ra tức cười vì hình như còn điều gì đó Eragon không hiểu. Eragon làm lơ, tiếp tục: - Hay Ingothold, con rồng đã giết.... Nhưng chợt nó nhớ ra, khựng lại: - Ngốc thật! Anh chọn toàn tên các chàng, em là nàng phải không? Ả rồng xếp cánh, hãnh diện "Dạ" rất ngoan. Bây giờ Eragon đã hiểu vì sao cô nàng từ chối hàng chục cái tên. Nó nghĩ đến Miremel, không được, vì đó là một chị rồng nâu. Opheila hay Lenora cũng bị loại bỏ. Nó gần như buông tay, thì chợt nhớ một cái tên ông già Brom đã thì thầm như hơi thở. Eragon rất thích tên đó, nhưng liệu cô nàng đỏng đảnh này có chịu không. Nó hỏi: - Em là Saphira nhé? Cô nàng nhìn Eragon với đôi mắt rất thông minh. Nó hiểu ngay là ả đã hài lòng. Tiếng "dạ" như từ xa xôi vọng lại. Eragon mỉm cười và Saphira bắt đầu ư ử hát. Chàng thợ xay tương lai Khi gia đình ăn cơm, mặt trời đã lặn. Bên ngòai gió lồng lộn từng cơn, rung chuyển cả căn nhà. Eragon lom lom nhìn Roran, chờ đợi những lời nói không thể nào tránh được. Cuối cùng Roran lên tiếng: - Con được mời đến làm tại một nhà máy xay ở Therisnford. Con định nhận lời. Ông Garrow thủng thỉnh nhai nuốt, đặt cái nỉa xuống, ngả lưng ra sau ghế, khô khan hỏi: - Vì sao? Roran cắt nghĩa trong lúc Eragon đi lấy thêm đồ ăn. Khi trở lại, nó nghe cậu phán một câu gọn lỏn: - Hiểu rồi. Rồi ông im lặng ngó lên trần. Hai anh em không nhúc nhích, chờ đợi. Sau cùng Garrow chỉ hỏi: - Bao giờ con đi? - Sao ạ? Roran ngạc nhiên hỏi. Ông bố nghiêng về phía nó, mắt long lanh. - Con tưởng cha ngăn cản con sao? Cha vẫn mong con sớm lấy vợ. Gia đình này đông vui trở lại là điều đáng mừng. Katrina có phước mới lấy được con. Roran thoáng kinh ngạc, rồi toét miệng cười. Ông bố lại hỏi: - Vậy chừng nào con đi? - Chừng nào ông Dempton trở lại lấy hàng thì con đi luôn. - Như vậy là khoảng...hai tuần. - Tốt. Mình sẽ đủ thời gian để sửa soạn. Nhà còn lại cha và Eragon mọi chuyện sẽ khác đi. Nhưng công việc trôi chảy, thì con cũng sẽ sớm về thôi. Eragon, cháu đã biết vụ này rồi chứ. - Dạ, cháu mới biết hôm nay thôi....Anh ấy khùng quá. Garrow vuốt mặt rồi xô ghế đứng dậy, nói: - Đó là chuyện tự nhiên trong đời. Rồi đâu vào đấy cả. Thời gian sẽ thu xếp mọi chuyện yên ổn hết. Thôi, dù sao cũng phải rửa chén đĩa đi chứ. Hai anh em lẳng lặng dọn dẹp. Những ngày sau đó, là cả một sự thử thách. Eragon cau có như muốn sinh sự. Trừ những câu trả lời cụt ngủ, nó chẳng chuyện trò với ai. Biết bao điều nhở việc Roran sắp đi xa: cậu Garrow làm cho anh ấy một cái ba lô, trên tường thiếu vắng nhiều thứ, sự trống trải tràn ngập khắp nhà. Cả tuần lễ trước, Eragon cảm thấy sự xa cách giữa nó và Roran. Hai đứa chuyện trò không còn thoải mái như xưa nữa. Saphira là bùa giải sầu cho Eragon. Nó chuyện trò thỏai mái, cởi mở hết nỗi niềm và Saphira hiểu nó hơn tất cả mọi người. Trong tuần lễ trước ngày khởi hành của Roran, cô nàng mọc thêm một cái cựa, và đứng cao hơn cả Eragon. Nó nhận thấy khoảng trống, không có gai, trên cổ vai của Saphira là một chỗ ngồi rất tuyệt. Mỗi buổi chiều, nó thường leo lên ngồi và vừa cắt nghĩa những từ ngữ khác nhau vừa gãi cổ cho cô ả. Saphira hiểu rất nhanh và cũng rất nhiều ý kiến ý cò. Với Eragon, đây là đoạn đời đầy vui sướng, Saphira là một thực thể phức tạp như một con người. Cá tính nó rất nhậy bén, nhiều khi mâu thuẫn, nhưng nó và Eragon rất hiểu nhau. Hành động và tư tưởng của nó biểu lộ những cá tính mà Eragon không ngờ. Có lần nó bắt được một con phượng hoàng, thay vì ăn thịt, nó đã trả tự do cho con chim và nói: "Không một thợ săn trên bầu trời nào phải chết như một con mồi. Thà chết trên đôi cánh vẫy vùng, hơn là chết vì mũi tên ghim thân mình trên mặt đất." Eragon đã định khoe Saphira với gia đình, nhưng chuyện ra đi của Roran và những lời can ngăn của chính Saphira, làm trì hoãn ý định đó lại. Nó không muốn ai nhìn thấy. Một phần cũng do tính ích kỷ của Eragon. Vì một khi sự tồn tại của Saphira được tiết lộ, những lời la mắng, kết tội, sợ hãi đều đổ cả lên đầu Eragon. Nó tự nhủ sẽ chờ cho tới khi có những dấu hiệu thuận tiện hơn. Đêm trước hôm Roran lên đường, Eragon định gặp anh để nói chuyện. Đứng ngoài cửa phòng bỏ ngỏ, nó nhìn ngọn đèn dầu trên bàn, rọi ánh sáng chập chờn ấm cúng lên tường, Roran quay lưng lại, đang cuốn tấm chăn ra ngòai áo quần và vật dụng. Anh ta ngừng lại, lấy một vật dưới gối, nắm trong tay. Đó là một viên đá bóng lộn, Eragon tặng từ mấy năm trước, Roran vừa nhét viên đá vào gói đồ, bỗng ngừng tay, rồi đem đặt lên trên kệ. Cổ họng Eragon như nghẹn lại. Nó trở về phòng. Những kẻ lạ tại Carvahall Món điểm tâm lạnh ngắt, nhưng trà thì nóng. Băng đóng phía trong cửa sổ tan rã vì bếp lửa buổi sáng, nhỏ giọt xuống sàn gỗ, thành những vũng nước đen ngòm. Nhìn bố con cậu Garrow ngồi bên bếp lò, Eragon ngẫm nghĩ: chắc phải nhiều tháng nữa mình mới thấy lại được cảnh này. Roran ngồi trên ghế, cột dây giày. Chiếc ba lô căng phồng, đặt trên sàn, ngay cạnh anh ta. Cậu Garrow đút tay túi quần, đứng giữa hai đứa. Mặc cho con và cháu năn nỉ, ông từ chối đi cùng chúng. Ông chỉ bảo như vậy tốt hơn. Ông hỏi Roran: - Con có đầy đủ mọi thứ chưa? - Dạ, đủ rồi. Ông gật đầu, lấy ra một túi nhỏ đưa cho Roran: - Cha để dành cái này cho con. Chẳng nhiều nhặn gì, nhưng nếu muốn con cũng mua được vài thứ lặt vặt hay một món nữ trang rẻ tiền. - Cám ơn cha, con sẽ không lãng phí đâu. - Muốn làm gì thì làm, đó là tiền của con. Cha chẳng còn gì khác để cho con nữa, chỉ còn lời cầu chúc của một người cha. Con có nhận không? Giọng Roran đầy xúc động: - Con rất vinh dự được nhận lời chúc phúc của cha. - Cầu chúc con đi bằng an. Ông hôn lên trán con trai, rồi quay lại cao giọng nói: - Đừng nghĩ là cậu quên cháu, Eragon. Đã đến lúc ta có vài lời nói với cả hai đứa, vì các con sắp bước vào đời. Hãy quan tâm tới đời, đời sẽ đãi ngộ các con. Thứ nhất, phải nhớ đừng để ai thống trị tâm hồn hay thể xác các con. Đặc biệt gìn giữ sao cho tư tưởng ta không bị ràng buộc. Một con người tưởng như tự do, tuy nhiên vẫn bị kiềm tỏa như một tên nô lệ. Hãy lắng nghe, nhưng đừng cả tin. Tỏ lòng kính trọng với những kẻ uy quyền, nhưng đừng mù quáng theo họ. Phán đoán hợp lý, chứ đừng chỉ trích. Cư xử đàng hoàng với tất cả mọi người, không phân biệt địa vị, chức quyền, nếu không muốn mua oán chuốc thù. Hãy thận trọng với tiền bạc. Hãy giữ vững niềm tin, người khác sẽ nghe theo ta. Còn...về chuyện yêu thương, đây là lời khuyên duy nhất của ta: hãy chân thành. Đó là dụng cụ mạnh nhất để mở khóa một trái tim và để nhận sự tha thứ. Tất cả những gì ta căn dặn các con chỉ có vậy thôi. Ông đưa ba lô cho Roran: - Đã đến lúc con phải đi rồi. Trời gần sáng, chắc Dempton đang đợi. Roran đeo ba lô lên vai, ôm bố: - Khi nào có thể, con sẽ về ngay. - Tốt. Bây giờ đi đi, đừng lo chuyện ở nhà. Cha con bịn rịn chia tay. Ra tới đường, Roran và Eragon còn quay lại, vẫy tay. Đôi mắt âu lo, người cha cũng đưa bàn tay gầy guộc lên, lặng nhìn theo, một lúc sau mới khép cửa, quay vào. Tiếng gài cửa vọng trong sương sớm, làm Roran dừng chân. Eragon quay lại nhìn cảnh vật. Mắt nó dừng lại ngôi nhà cô quạnh. Trông mới bé nhỏ, mỏng manh tội nghiệp làm sao! Chỉ còn chút khói nhẹ tỏa ra là bằng chứng ngôi nhà phủ tuyết kia có người đang ở. Roran buồn rầu nói: - Đó là tất cả thế giới của chúng ta. - Một thế giới tốt đẹp. Roran gật đầu đồng ý với Eragon, rồi xốc lại ba lô tiến về tương lai mới. Ngôi nhà chìm khuất khỏi tầm nhìn, khi hai anh em thả dốc xuống đồi. Hai anh em tới Carvahall trời còn sớm, nhưng cửa lò rèn đã mở rồi. Không khí trong nhà ấm áp, vui vẻ. Baldor đang chậm rãi làm việc bên cái bễ lớn, kế bên lò đá đầy than đỏ rực. Trước lò, một cái đe và một thùng tô-nô niềng đai sắt, chứa đầy nước muối. Hàng cọc đóng trên tường treo đủ thứ: kìm, búa, kẹp gắp than đủ kích cỡ và giũa, dùi, khuôn, tiện...chờ mài giũa. Chú Horst và ông Dempton đang đứng bên một cái bàn dài. Dempton tiến lại với nụ cười dưới hàng ria đỏ: - Roran, cậu tới là tôi mừng rồi. Với cái máy xay mới này, tôi làm một mình không xuể. Cậu sẵn sàng chưa? - Rồi. Mình đi sớm chứ? - Tôi còn vài việc nữa phải làm. Nhưng sẽ đi trong khoảng một giờ nữa thôi. Còn đây là Eragon, phải không? Tôi cũng tính kêu cậu đi làm. Thôi, để sang năm hả? Eragon cười bối rối, bắt tay Dempton. Ông ta có vẻ thân mật, dễ mến. Nhưng phải chi ông ta đừng bao giờ tới Carvahall, thì đã không có chuyện anh Roran ra đi. Ông ta quay lại cắt nghĩa cho Roran cách điều hành máy xay mới. Chú Horst chỉ những bó hàng, bảo Dempton: - Sẵn sàng cả rồi đó. Anh chuyển đi lúc nào cũng được. Rồi chú ra dấu cho Eragon ra cửa. Nó theo ra, thấy chú đứng khoanh tay ngòai đường, Eragon đưa ngón cái ngoắc về phía lão chủ máy xay, hỏi: - Chú nghĩ gì về ông ấy? - Một người tốt. Ông ta sẽ đối xử đàng hoàng với Roran. Chú phủi bụi sắt trên tạp dề, rồi đặt bày tay to đùng lên vai Eragon, hỏi: - Này chàng trai, cháu còn nhớ vụ cãi nhau với lão Sloan chứ? - Nếu chú hỏi về số tiền chú trả để mua thịt, cháu làm sao quên được. - Chú tin cháu. Nhưng không, chú hỏi là để biết cháu còn giữ viên đá đó không? Tim Eragon đập rộn lên. Vì sao chú ấy muốn biết về viên đá? Hay có người đã nhìn thấy Saphira? Nó cố nén sợ, nói: - Còn, nhưng sao chú lại hỏi? - Ngay khi trở về nhà, cháu phải quăng nó đi ngay. Hôm qua có hai người lạ tới đây. Chúng mang gươm, mặc toàn đồ đen. Nhìn chúng, chú rởn cả da. Chiều hôm qua, chúng hỏi mọi người, có ai nhặt được viên đá giống như của cháu không. Hôm nay chúng trở lại để dò hỏi tiếp. Không ai nói gì. Họ sợ bị rắc rối. Nhưng chú biết có vài kẻ sẽ nói ra. Eragon sợ thót tim. Kẻ bỏ viên đá trong núi Spine, bây giờ đang lần theo dấu vết tìm lại. Hay triều đình đã rõ chuyện về Saphira. Nó không biết điều nào tệ hại hơn. Bây giờ viên đá không còn nữa, chúng không còn có thể tìm ra. Nhưng nếu chúng biết những gì đã xảy ra, thì Saphira sẽ bị lâm nguy. Nó ráng bình tĩnh nói: - Cám ơn chú đã báo cho cháu. Chú biết hiện nay chúng ở đâu không? - Chú không báo để cháu đi gặp chúng. Hãy rời khỏi Carvahall, về nhà ngay đi. - Dạ, nếu chú thấy cháu nên về...... - Chú thấy cháu phải về. Có thể chú quá lo xa, nhưng nhìn những kẻ lạ này, chú thấy lo lắm. Tốt hơn, cháu nên ở nhà cho tới khi chúng đi khỏi đây. Chẳng biết có ích gì không, nhưng chú sẽ cố ngăn chúng đến gần nhà cháu. Eragon nhìn ông đầy biết ơn, ước gì nó có thể kể với ông về Saphira. Nhưng nó chỉ nói: - Cháu đi ngay đây! Nó vội vào nắm tay Roran chào tạm biệt. Roran ngạc nhiên hỏi: - Em không ở lại thêm chút nữa được sao? - Em ở lại làm gì? Cứ loanh quanh cho tới lúc anh đi sao? - Chắc phải mấy tháng nữa anh em mình mới gặp lại nhau. - Em đoán không lâu đến vậy đâu. Anh ráng giữ gìn sức khỏe. Nó ôm Roran, rồi quay đi. Chú Horst vẫn đứng ngòai đường. Đề phòng ông dõi theo, Eragon hướng thẳng về hướng ngoại ô Carvahall, nhưng ngay khi khuất khỏi tầm nhìn của Horst, nó tránh vào sau một căn nhà, rồi lẻn trở vào thành phố. Qua mỗi con đường, nó lắng nghe từng tiếng động, tiếc trong tay không có cây cung. Lòng vòng khắp Carvahall, cố né tránh mọi người, cho đến khi nó nghe một giọng nói như hơi gió thoảng ra từ ngôi nhà gần đó. Tai rất thính, nhưng Eragon vẫn phải cố lắng nghe. - Chuyện này xảy ra khi nào? Giọng nói trơn tru như bôi mỡ, lẫn trong tiếng nói là một tiếng rít lạ lùng làm nó nổi da gà. - Khoảng ba tháng trước. Đúng giọng lão Sloan, lão chủ hàng thịt mang máu tà thần, đang ton hót. Kẻ thứ ba lên tiếng, giọng nhão nhợt, làm nhớ đến hình ảnh một loài bò sát, trơn láng, hôi thối, không ai dám đụng vào: - Chắc không? Tụi này ghét nhất trò trông gà hóa cuốc. Nếu ấm ớ là...khốn nạn cuộc đời đấy. Eragon thừa biết chúng sẽ làm gì. Ngoài quân triều đình, ai dám hăm họa mọi người như vậy? - Chắc mà. Nó có thứ đó. Nhiều người nhìn thấy, lào sao tôi nói láo được. Cứ hỏi mọi người thì biết. Giọng lão Sloan run run thì thầm mấy câu mà Eragon không nghe được. Rồi giọng đầu tiên nói như nhạo báng: - Không cộng tác với chúng là hơn. Lão Sloan lại thì thầm. Eragon nghe tiếng chân chạy đi. Nó liếc về góc phố. Hai tên cao lớn đứng ngoài đường. Cả hai mặc áo choàng đen, dưới lớp áo nổi cộm hai bao kiếm. Trên ngực áo, nổi rõ một dấu hiệu lạ lùng thêu bằng chỉ bạc. Lưng chúng gù lên như độn một miếng đệm. Mũ trùm đầu che kín mặt, tay đeo găng. Eragon nhích người, nhìn cho rõ. Một gã gồng mình, gắt gỏng thay đồng bọn. Rồi cả hai quay ngoắt lại. Eragon nghẹt thở, chết sững. Hai mắt nó dán vào hai khuôn mặt giấu kín của kẻ lạ. Nó cố chống lại cơn sợ hãi, kêu thầm: "Chạy đi!" Nhưng chân nó không nhúc nhích được. Hai kẻ lạ khệnh khạng bước tới êm như ru. Eragon biết chúng đã nhìn thấy mặt nó. Chúng đã gần tới góc phố, tay cầm kiếm... - Eragon. Nó giật thót người khi nghe gọi. Hai kẻ lạ cũng đứng dừng lại, huýt lên như rắn. Ông lão Brom, tay đang vội vàng chống gậy tiến tới Eragon từ bên kia đường. Ông không nhìn thấy hai kẻ lạ, còn khuất nơi góc phố. Nó muốn cảnh giác ông, nhưng lưỡi và tay không thể nào họat động. Nghe tiến già Brom gọi Eragon lần nữa, hai kẻ kia ném một cái nhìn về nó, rồi lẩn vào giữa mấy căn nhà. Eragon rũ xuống đất, run rẩy, trán đổ mồ hôi hột. Ông già mạnh mẽ kéo nó đứng lên: - Trông cháu như người bệnh. Có gì không? - Thình lình cháu bị chóng mặt quá. Cháu không biết đã xảy ra chuyện gì. - Sẽ qua khỏi thôi. Nhưng đáng lẽ cháu phải về nhà rồi thì tốt hơn. Đúng vậy, mình phải về, về trước khi tụi chúng kịp tới nhà mình. Nó bảo: - Ông nói đúng. Có lẽ cháu bệnh rồi. - Vậy thì càng cần phải về. Đường xa thật, nhưng về nhà cháu sẽ khá hơn. Để ta đưa cháu ra đường cái. Ra tới đường, ông Brom đưa những ngón tay như móng vuốt ra nói: - Về nhà mau, nấn ná trên đường không tốt đâu. Nó bắt tay ông, nhưng bàn tay ông già có vật gì đó vướng vào găng tay của nó, rút tuột chiếc găng rơi xuống đất. Ông vừa phàn nàn mình vụng về, vừa xin lỗi nó. Khi Eragon cúi nhặt chiếc găng, những ngón tay rắn chắc của ông nắm cổ tay nó, lật ngửa bàn tay lên. Giữa lòng bàn tay nó hiển hiện một vết ánh bạc. Mắt ông già sáng lên, để Eragon rụt tay về, xỏ vào găng. - Chào ông. Eragon cố nói, rồi chạy vội đi. Phía sau, nó nghe ông già huýt sao một điệu nhạc vui. Chuyến bay định mệnh Trên đường về, đầu óc Eragon rối bời suy nghĩ. Nó chạy hết sức lực, không kịp ngừng để thở. Ra khỏi đường cái, nó phóng tư tưởng tới Saphira, nhưng cô rồng đang ở quá xa, không liên lạc được. Eragon tự nhủ, sẽ phải nói ra sao với cậu Garrow đây? Không còn chọn lựa nào khác, ngòai việc cho cậu biết hết sự thật về Saphira. Về tới nhà, tim đập thình thịch, thở hổn hển, nó thấy cậu Garrow đang đứng gần mấy con ngựa trong chuồng. Eragon bối rối nghĩ, mình có nên nói với cậu lúc này không? Không thấy Saphira làm sao cậu có thể tin? Tốt hơn, mình đi tìm nó trước đã. Eragon lẻn ra sau trại, vào rừng. "Saphira", nó thầm kêu lớn. "Em tới đây." Tiếng trả lời mơ hồ. Nó cảm thấy Saphira đang có điều lo lắng. Rồi tiếng vỗ cánh vang trên không, sau đó Saphira đáp xuống giữa một đám khói, hỏi: "Có chuyện gì vậy?" Eragon vuốt vai Saphira, nhắm mắt, lấy lại bình tĩnh, rồi tóm tắt những gì đã xảy ra. Nó vừa nói đến những kẻ lạ, con rồng chợt co rúm người lại, đứng dựng lên gầm rú. Rồi nó quất đuôi qua đầu Eragon. Eragon vội nhảy lùi lại, hụp đầu xuống, trong lúc đuôi rồng đập chan chát lên đống tuyết. Saphira gào thét: "Lửa! Kẻ thù! Chết chóc! Sát nhân!" Eragon dồn hết sức lực vào ý nghĩ: "Chuyện gì không ổn vậy?" Nhưng như có một bức tường thép bít quanh tư tưởng Saphira, nó lại gào lên, xoè móng vuốt cào xé tan nát mặt đất đóng băng. "Lời thề bị phản bội, người bị giết, trứng vỡ tan tành! Máu đổ khắp nơi. Sát nhân!" Eragon xông tới, nắm một cái gai trên lưng rồng, leo lên lưng, ôm chặt cổ Saphira khi nó lại đứng dựng lên. - Đủ rồi, Saphira. Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi mà. Con rồng thu mình, vươn hai cánh, bay lên. Lơ lửng trên khoảng không một lúc, rồi chúi xuống lấy đà, nó bay vút lên bầu trời. Eragon la lên, mặt đất xa dần, gió quất rào rào đến ngộp thở. Saphira làm ngơ trước sự khiếp đảm của Eragon, nó nghiêng cánh thẳng tiến về dãy núi Spine. Eragon thoáng thấy trang trại nhà nó và dòng sông Anora phía dưới. Bụng dạ như lộn tùng phèo cả lên, nó ôm chặt cổ Saphira, nhìn lom lom cái vảy ngay trước mặt, ráng không ói mửa, khi con rồng tiếp tục vút mãi lên. Saphira bay với mức thăng bằng, Eragon mới đủ can đảm nhìn quanh. Không khí lạnh tới độ sương đọng trên mí mắt nó. Tới vùng núi nhanh đến không ngờ. Từ trên không, những đỉnh núi nhọn hoắt như những mũi dao đang chờ cắt thịt cả người lẫn rồng ra từng mảnh. Bất ngờ Saphira chao đảo, làm Eragon phải nghiêng mình sang bên, nôn thốc tháo. Nó liếm môi, đắng nghét, rồi vùi đầu lên cổ ả rồng. Eragon năn nỉ: "Chúng ta phải trở về. Những kẻ lạ đang tìm đến trại. Phải báo cho cậu Garrow ngay. Quay lại đi." Không thấy ả trả lời. Nó ráng tiến sâu vào tư tưởng Saphira, nhưng một rào chắn đầy khiếp đảm và giận dữ bao kín ý nghĩ của con rồng. Nhất quyết phải bắt bằng được nó quay trở lại, Eragon thu hết ý chí, phóng tư tưởng qua lớp giáp tinh thần của Saphira, nhưng không thể được. Lúc này núi non bao quanh, như những bức tường trắng khổng lồ nứt nẻ bởi những vực đá hoa cương. Giữa hai đỉnh núi, băng đóng xanh ngăn ngắt như một dòng sông đông cứng. Dưới chân núi, phơi bày những suối khe, thung lũng chạy dài. Phía dưới, khi bóng Saphira xoè cánh bay qua, Eragon nghe tiếng chim chóc hãi hùng kêu thét. Nó cũng thấy cả bầy dê núi hốt hoảng nhảy qua những mỏm đá. Gió lồng lộng từ những cú vỗ cánh của Saphira làm Eragon chóng mặt và mỗi lần ả xoay trở cổ, nó lại bị chao đảo cả người. Hình như ả không biết mệt là gì. Eragon lo sợ ả cứ tiếp tục bay suốt đêm nay. Sau cùng, màn đêm xuống, Saphira mới là là hạ cánh. Eragon nhận ra một khoảng trống nhỏ trên thung lũng. Con rồng phải bay vòng trôn ốc trên những ngọn cây, vỗ cánh nhè nhẹ đáp xuống mặt đất bằng hai chân sau. Những bắp thịt mạnh mẽ của nó gồng lên khi chạm đất, rồi mới tới hai chân trước rướn lên một bước để giữ thăng bằng. Eragon, không đợi ả kịp xếp cánh, nhảy ngay xuống. Chạm mặt đất, đầu gối nó khụy xuống, má đập trên tuyết. Giật bắn người vì chân đau rát đến ứa nước mắt, bắp thịt nó run lên vì gò bó quá lâu. Nó nằm bật ngửa, dang rộng chân tay. Rồi ráng nhìn xuống, những đốm dơ lớn, loang lổ trên vải quần nơi bắp vế. Rờ thử, thấy ướt, nó vột lột quần ra, nhăn mặt vì đau đớn. Hai bắp vế da bị lột, vì vảy rồng cọ xát, máu chảy ròng ròng. Kéo quần lên, Eragon bật kêu, khi vải quần chạm phải vết thương. Nó đau đến không thể nào đứng nổi. Đêm tối mịt mùng che phủ chung quanh, bóng núi tối tăm trở nên xa lạ. Mình đang ở trong rặng núi Spine giữa mùa đông, với một con rồng hóa rồ, chân không bước nổi, chẳng một chỗ trú thân. Mai phải trở về, mà bay trên lưng nó thì không chịu nổi nữa. Ôi, ước gì Saphira phun được lửa lúc này. Eragon thở dài, quay nhìn con rồng đang thu mình nằm bên cạnh. Nó đặt tay lên Saphira, thấy nó run bần bật. Hàng rào tư tưởng của Saphira không còn nữa, nên nỗi sợ của con rồng truyền sang nó. Nó truyền ý nghĩ làm cho Saphira nguôi ngoai và hỏi: "Vì sao những kẻ lạ kia làm em sợ thế?" "Những kẻ sát nhân" "Cậu Garrow đang gặp nguy hiểm. Em lại bắt cóc anh đi. Em không đủ khả năng bảo vệ anh sao?" Ả gầm gừ, nghiến chặt hàm tức giận. "A, nếu em nghĩ bảo vệ được anh, tại sao phải chạy trốn?.Cái chết đến bằng thuốc độc." "Nhìn coi, Saphira. Trời thì tối, chuyến bay là lột da đùi anh như anh vẫn đánh vảy cá vậy. Em thích lắm sao?" "Không." "Vậy thì tại sao em lại gây ra chuyện này?" Qua mối giao cảm, nó biết Saphira ân hận vì sự đau đớn của nó, nhưng không ân hận vì hành động của ả. Ả quay đi, tránh trả lời. Trời trở lạnh như nước đá, vết thương cũng bớt đau, nhưng Eragon biết tình trạng của nó không khả quan hơn. Nó đổi phương pháp: "Anh gần đóng băng rồi, nếu em không tìm cho anh một túp lều, cái hang để sưởi ấm. Hay một ổ lá thông cũng được, nếu không anh chết cóng mất." Saphira có vẻ nhẹ lòng vì Eragon không căn vặn nữa. "Khỏi cần. Em sẽ cuốn quanh và che cho anh bằng đôi cánh. Lửa trong thân em sẽ làm anh bớt lạnh ngay." Saphira dùng đuôi dẹp bằng phẳng một ụ tuyết. Eragon chán ngán nhìn đống bùn trước mặt bảo: " Em phải giúp, anh không bước qua nổi đống bùn này đâu." Cái đầu lớn hơn cả thân hình Eragon, đặt ngay bên cạnh nó. Nó nhìn thẳng đôi mắt to, màu xanh ngọc, rồi nắm chặt một cái gai trắng như ngà. Saphira nhấc bổng nó lên, nhẹ nhàng đặt trên khoảng đất vừa dọn sạch sẽ. Eragon vẫn đau đến hoa mắt, nhưng ráng chịu đựng. Đặt Eragon xuống xong, Saphira cuộn mình nằm xuống, xoè cánh phải che kín Eragon như một cái lều. Hơi ấm từ trong bụng nó tỏa ra, ngay lập tức không còn chút lạnh lẽo nào nữa. Eragon choàng áo khoác, cột hai cánh tay áo quanh cổ. Lúc này nó mới thấy bụng đói cồn cào. Nhưng đói bụng không làm nó bận tâm bằng mối lo nghĩ chính: Nó có kịp về nhà trước những kẻ lạ kia không? Nếu không kịp thì chuyện gì sẽ xảy ra? Dù mình cố nhịn đau để lại cỡi rồng về, sớm nhất thì trưa mới tới. Lúc đó, những kẻ kia đã tới nhà mình từ lâu rồi. Nó nhắm mắt và cảm thấy một giọt nước mắt lăn trên mặt. Nó thầm hỏi: "Mình đã gây ra cơ sự gì đây?" Nỗi bất hạnh của người vô tội Khi Eragon mở mắt vào buổi sáng, nó tưởng trời đã sập. Cả một tấm màn phẳng màu xanh, nghiêng nghiêng mặt đất, phủ trên đầu nó. Chưa tỉnh ngủ hẳn, nó đưa tay rờ thử. Những ngón tay nó chạm phải một lớp màng mỏng. Ngẩn ra một lúc, nó mới nhận ra vật đó là gì. Nó cúi đầu nhìn cái đùi có vảy nó đã gối suốt đêm qua. Chậm rãi, Eragon duỗi thẳng hai chân, lớp vảy cứng trên vết thương nứt ra. Không còn đau nhức như hôm qua, nhưng nghĩ đến chuyện phải đi bộ, nó thấy ớn quá. Đấm nhẹ vào sườn Saphira, nó kêu lên: - Này. Dậy thôi chứ. Cô rồng trở mình, nâng cao cánh, đón nắng vàng rực rỡ. Tuyết trắng xóa làm Eragon lóa mắt. Saphira, vừa ngáp vừa duỗi người như một con mèo, khoe hàm răng trắng nhởn. Hết lóa mắt, Eragon thử quan sát xem nơi này là đâu. Những ngọn núi sừng sững đổ bóng trên mặt đất. Một đường mòn cắt mặt tuyết, dẫn vào rừng. Từ phía đó vọng ra tiếng róc rách nhẹ nhàng của những dòng suối nhỏ. Nó khập khiễng tiến tới một thân cây, vịn một cành ráng bẻ. Tuốt bỏ lá và những cành nhỏ, Eragon lò dò chống gậy đến bên khe nước đóng băng, đập vỡ lớp băng cứng, làm tung toé những giọt nước trong lạnh ngắt. Nghịch ngợm với dòng nước một lúc, Eragon quay trở lại, và nó chợt nhận ra nơi đây, chính giữa nơi u tịch này, quả trứng rồng đã xuất hiện. Không thể nào lầm được, trước mắt nó là thân cây, cháy đen tơi tả trong vụ nổ. Tại sao Saphira biết được chỗ này? Chắc ký ức của mình đã cung cấp cho nó đầy đủ thông tin để kiếm ra. Eragon lắc đầu kinh ngạc. Nó tiến lại Saphira hỏi: "Em đã chịu đưa anh về chưa?" Nó gật đầu, Eragon nói tiếp: "Dù không muốn em cũng phải làm, vì cả hai chúng ta đều có trách nhiệm với cậu Garrow. Cậu đã săn sóc anh, do đó anh mới săn sóc được cho em. Em có thể làm ngơ món nợ đó ư? Nếu chúng ta không quay về, những năm sau này, người ta sẽ nói sao? Những kẻ hèn nhát lẩn trốn, trong khi cậu ruột lâm nguy? Ngay từ bây giờ anh tưởng như đã nghe thấy chuyện rêu rao về một Kỵ Sĩ và con rồng nhát gan của anh ta. Em là rồng, đến Tà Thần gặp em cũng chạy. Nếu phải chiến đấu, hãy hiên ngang chiến đấu. Tại sao em chui rúc trong núi này như một con thỏ khiếp nhược thế?" Chủ tâm Eragon chọc tức Saphira, và nó đã thành công. Cô ả đưa cái đầu khổng lồ sát mặt Eragon mà gầm gừ. Nanh nhe ra, mắt trợn trừng, hai lỗ mũi ả phì ra làn khói. Tư tưởng Saphira giận sôi sùng sục truyền sang nó: "Máu trả máu. Tôi sẽ chiến đấu. Số phận đã ràng buộc tôi với anh. Nhưng đừng khích tướng. Vì mang nợ, tôi sẽ bay về cùng anh. Tuy nhiên tôi báo trước, đây là một chuyện điên rồ, ngu ngốc đó." "Ngốc nghếch gì cũng không còn lựa chọn nào khác nữa. Chúng ta bắt buộc phải về." Nó xé áo sơ mi làm hai, rồi nhét vào hai ống quần, đệm nơi vết thương. Nó gượng nhẹ leo lên, ôm chặt cổ Saphira, căn dặn: "Lần này ráng bay thấp hơn và nhanh hơn. Thời gian cấp bách lắm rồi." "Coi chừng té." Saphira bảo, rồi vút lên không, sau đó nó chỉ bay ở độ cao trên những ngọn cây. Eragon mừng vì bụng trống rỗng, chẳng còn gì mà ói mửa. "Mau lên, mau nữa lên!" Nó thúc dục. Saphira làm thinh, xoải cánh. Eragon nhắm nghiền hai mắt. Nó tưởng hai mảnh áo sẽ giữ cho vết thương được yên, nhưng chỉ một lúc sau, máu nhỏ giọt ướt hai bắp vế. Saphira cảm thấy điều đó, nên càng ráng bay nhanh hơn. Mặt đất vùn vụt trôi ngược về phía sau. Nếu có ai từ dưới kia nhìn lên, Eragon nghĩ, cũng chỉ thấy một vệt thoáng qua bầu trời. Mây phủ mịt mùng hướng nam, nhưng Eragon có thể nhìn thấy Carvahall nằm về hướng bắc. Saphira lượn thấp xuống cho Eragon tìm kiếm mảnh đất nhà nó. Vừa nhận ra khu nhà, Eragon hốt hoảng thấy khói lửa ngùn ngụt bốc cao. "Saphira, hạ cánh xuống đó." Nó khép cánh lao vun vút xuống, rồi nhẹ xoay chiều, tiến thẳng về phía rừng. Eragon gào lên: "Hạ xuống cánh đồng." Chờ cánh mặt đất mấy chục thước, Saphira nặng nề hạ cánh. Eragon lăn đùng xuống, ráng gượng dậy, thở hổn hển. Ngôi nhà tan nát từng mảnh. Cột kèo, tường mái tung toé khắp nơi. Gỗ vụn ra như bị một người khổng lồ nghiền nát. Bếp lò còn sót lại vài miếng sắt cong queo. Tuyết trắng lẫn lộn với gạch vụn của ống khói. Khói dày đặc bốc lên từ chuồng ngựa chỉ còn là đống tro tàn. Gia súc không còn một con, không biết bị giết hay đã hoảng loạn bỏ chạy. - Cậu ơi! Eragon băng qua đống đổ nát, lùng kiếm cậu nó. Không chút dấu vết nào của ông. Nó lại lên tiếng gọi. Saphira đi vòng qua ngôi nhà, đến bên nó: "Sự khốn khổ phát sinh tại đây rồi." "Nếu em không đem anh đi, làm sao chuyện này có thể xảy ra." "Nếu ở lại đây, anh đã chết rồi." "Đáng lẽ chúng ta phải báo cậu. Vì lỗi em mà cậu không thoát được." Eragon gào lên. Nó giận dữ đấm tay vào một cây cột đến toạc da. Nó bước ra khỏi nhà, máu chảy ròng trên những ngón tay. Lần mò dọc con đường mòn dẫn ra lộ lớn, Eragon cúi mình quan sát mặt tuyết. Nhiều dấu vết hiện ra, nhưng mắt nó mờ đi chẳng nhìn rõ gì nữa. Mình bị mù rồi sao, Eragon tự hỏi. Đưa bàn tay run rẩy lên dụi mắt, nó mới biết mình đang khóc. Saphira mon men lại gần, xoè cánh phủ nó dưới bóng râm, thì thầm an ủi. Eragon ngước nhìn lên con rồng tìm chút hy vọng: "Anh chỉ nhìn thấy hai cặp dấu chân. Chắc chúng không đưa cậu Garrow đi qua ngả này." Nó chăm chú nhìn những dấu ủng da lờ mờ trên tuyết hướng về ngôi nhà, trên những vết mờ đó là những dấu chân đi trở ra, cũng chỉ là hai đôi ủng. Đúng rồi, cậu Garrow còn kẹt trong nhà. Nó chạy vội vào, bảo Saphira: "Anh sẽ đi quanh nhà và trong rừng." Eragon lục lọi những tàn tích còn lại trong bết, đào xới đống gỗ vụn. Một tủ chén gần như còn nguyên vẹn làm nó sững nhìn kinh ngạc, rồi quăng cái tủ sang một bên. Nó vừa kéo lên một tấm ván, chợt nghe sau lưng tiếng thở nặng nề. Eragon quay phắt lại. Một bàn tay chới với thò ra từ đống mái nhà đổ. Nó nắm bàn tay đang yếu ớt rờ rầm, kêu lên: - Cậu ơi! Cậu nghe được cháu không? Không tiếng trả lời. Eragon xé những miếng vách gỗ chặn bên trên, không còn biết tay bị cứa từng đường. Một cây đà nặng tới nỗi, Eragon ráng sực bình sinh dùng cả vai và tay vẫn không lay chuyển nổi. Nó gọi: "Saphira, giúp anh." Saphira tiến lại ngay, gỗ gãy răng rắc dưới bốn chân nó. Nó ép mình vào cây đà, quặp móng sâu vào đất, gồng mình nâng cây đà lên. Eragon nhào xuống. Cậu Garrow của nó nằm sấp, quần áo tả tơi. Sau khi Eragon kéo ông ra khỏi đống đổ nát, con rồng buông cây đà đổ sập xuống. Eragon đưa cậu ra khỏi ngôi nhà tan hoang, đặt ông nằm trên đất. Da mặt ông xám ngoét, khô khốc, như da người chết. Môi hé mở, một vết trầy dài trên gò má. Nhưng tệ hại nhất là gần như toàn thân ông cháy bỏng, phồng lên những bọng trắng như phấn, ri rỉ nước trong, bốc lên mùi hôi như trái cây thối ủng. Hơi thở ngắn, nặng nề như từng cơn nấc cục. Saphira rít lên: "Quân giết người." "Cậu còn có thể cứu được. Phải đưa cậu tới nhà bà lang Gertrude ở Carvahall, nhưng anh không thể đưa cậu đi nổi." Saphira đề nghị, treo ông ta dưới thân hình nó, để cùng bay tới Carvahall. Eragon hỏi: "Em chở nổi cả hai người không?" "Phải ráng chứ sao." Eragon tìm trong đống đổ nát được một tấm ván và mấy sợi dây da. Saphira đục bốn lỗ trên bốn góc bằng móng sắt. Eragon luồn dây vào bốn góc rồi buộc thành một mối. Kiểm tra lại các mối buộc, nó lăn Garrow lên tấm ván. Một miếng vải đen rơi ra từ bàn tay cậu nó. Miếng vải giống như vải áo của hai kẻ lạ. Giận dữ nhét miếng vải vào túi, Eragon leo lên Saphira, thân thể đau nhức đến phải nhắm mắt cố chịu đựng. Saphira nhảy dựng lên, hai chân bám chặt mặt đất, hai cánh chấp chới, gân cốt nổi cuồn cuộn, một giây kéo dài đau đớn nó vẫn không cất được thân mình, rồi nó nhào về trước, ráng sức bay lên. Vượt trên khu rừng, Eragon nói: "Theo đường cái. Anh sẽ cho em biết chỗ nào đủ đất hạ cánh." "Bay trên đường, em sẽ bị phát hiện ngay." "Điều đó không thành vấn đề nữa." Saphira không bàn cãi gì thêm, nhắm hướng đường cái bay thẳng tới Carvahall. Garrow đong đưa phía dưới chỉ bằng mấy sợi dây mỏng manh. Chở nặng làm Saphira bay chậm. Chẳng bao lâu, đầu nó chúi xuống, mép sủi bọt. Nó ráng phấn đấu nhưng còn cách Carvahall cả dặm, nó đành phải hạ cánh xuống đường. Hai chân sau của nó làm tuyết tung bay mịt mù. Eragon ngã nghiêng mình xuống đất nhưng vẫn cố đứng dậy, tháo sợi dây khỏi chân Saphira. Thấy nó thở như đứt hơi, Eragon bảo: "Tìm nơi an toàn nghỉ ngơi đi. Chưa biết anh sẽ đi bao lâu. Em ráng thận trọng." "Em sẽ đợi." Ergon nghiến răng kéo cậu Garrow lê trên đường. Mấy bước đầu tiên, sự đau đớn như nổ tung trong thân thể, nó cảm thấy một nỗi thống khổ tràn trề. Ngửa mặt nhìn trời, Eragon gào lên: "Tôi không làm được đâu." Rồi nó nhìn xuống hai chân đang cố đứng cho vững vàng. Đây là cuộc chiến với chính bản thân, Eragon quyết không thua thân xác bướng bỉnh của nó. Mỗi phút trôi qua, mỗi đoạn đường như dài dằng dặc. Trong cơn khốn khổ, nó tự hỏi Carvahall còn không, hay cũng đã bị những kẻ lạ kia thiêu đốt hết rồi. Một lúc sau, nghe mơ hồ như có tiếng gọi, nó ngước lên nhìn. Ông già Brom đang chạy về phía nó, mắt mở lớn, tóc rối bù và một bên đầu bê bết máu khô. Ông đưa tay rối rít vẫy, rồi mới quăng gậy, nắm vai Eragon, nói oang oang những câu gì đó. Thình lình, mặt đất như dâng lên sát mặt nó. Eragon thấy trong miệng có vị máu, rồi ngất đi. Nỗi u mê của đời người Trời tối thui khi Eragon ngồi bật dậy, thở hổn hển. Căn phòng lạnh buốt. Vai và hai cánh tay nó nổi da gà. Mấy tiếng nữa mới rạng đông, chung quanh yên lặng như tờ. Tim nó đập liên hồi, như báo trước một điều khủng khiếp. Dường như có một tấm khăn liệm bao trùm khắp thế gian, mà góc tối tăm nhất chính là căn phòng này. Nó lặng lẽ ra khỏi giường, mặc quần áo. Với cảm giác lo âu, nó đi dọc hành lang, rồi hốt hoảng thấy mọi người tập trung trong phòng cậu nó. Cậu Garrow nằm yên lặng trên giường. Trong bộ quần áo sạch sẽ, tóc chải ngay ngắn, mặt bình thản, trông cậu nó như đang say ngủ, nếu không có sợi giây chuyền bạc quanh cổ và chùm dược thảo khô trên ngực. Đó là những món quà tặng sau cùng của người sống dành cho người chết. Katrina đứng bên giường, mặt nhợt nhạt. Nó nghe cô thì thầm: - Tôi đã hy vọng một ngày được gọi ông bằng cha. Gọi bằng cha? Chính nó cũng chưa một lần được gọi ông tiếng đó. Nó cảm thấy không còn chút sinh khí, tất cả đều hư ảo, chẳng có gì là thật, ngọai trừ khuôn mặt cậu Garrow của nó. Nó đứng chết lặng, hai vai run lên, má đầm đìa nước mắt mà khóc không thành tiếng. Nó đã mất tất cả, mẹ, mợ dâu, bây giờ tới cậu. Đau khổ đè nặng lên người, làm nó lảo đảo, đứng không vững. Ai đó đã đưa nó trở về phòng, thì thầm an ủi nó. Nó lăn xuống giường, nức nở khóc. Cảm thấy Saphira tìm cách liên lạc, nó làm ngơ, chìm mình trong đau khổ. Nó không thể nào chấp nhận chuyện cậu Garrow đã ra đi. Nếu chấp nhận, nó còn biết tin vào điều gì trên cõi đời này? Chỉ còn một thế giới thờ ơ, tàn nhẫn, với cuộc sống leo lét như ngọn đèn trước gió. Phẫn nộ, khiếp đảm, nó ngửa khuôn mặt ướt đầm nước mắt lên trời, gào lớn: - Sao Trời nỡ làm như thế? Cậu Garrow đâu đáng bị như vậy chứ. Từ trời không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng chân người chạy vào phòng nó. Rồi có đôi bàn tay an ủi, vỗ về. Nó nhận ra bà Gertrude đang ngồi kế bên. Nó nghẹn ngào khóc trong vòng tay của bà, cho tới khi mệt lả, ngủ thiếp đi. Thanh gươm kỵ sĩ Eragon thức giấc, lòng tràn ngập khổ đau. Mắt nhắm, mà nước mắt vẫn ứa ra. Nó cố tìm kiếm một tư tưởng hay một niềm hy vọng để đầu óc tỉnh táo hơn. Nó thầm than thở: "Như thế này làm sao tôi sống nổi." "Vậy thì đừng sống nữa." Lời nói của Saphira vang vang trong đầu nó. "Sao? Cậu Garrow vĩnh viễn ra đi. Tình thương, gia đình, tất cả không còn gì hết. Trên đời này còn gì đáng giá dành cho chúng ta nữa đâu." "Cái đáng giá nằm trong hành động. Sự đáng giá không còn nữa là khi anh đầu hàng trước ý chí phải xoay trở và thử thách với đời. Nhưng anh vẫn có quyền chọn lựa, hãy chọn một hành động và hiến mình cho nó. Chỉ có hành động mới cho anh mục đích sống và niềm hy vọng mới." "Nhưng anh có thể làm được gì?" "Con tim anh là người dẫn đường chân thật nhất. Sự khát khao vô cùng của trái tim mới giúp được anh." Rồi nó im lặng để Eragon ngẫm nghĩ. Thay vì ân hận, Eragon bỗng nổi sùng: "Em muốn anh phải làm gì? Truy lùng hai kẻ lạ kia sao?" "Đúng." Câu trả lời thẳng thắn của Saphira, làm Eragon bối rối. Nó run run hỏi: "Vì sao?" "Còn nhớ những gì anh đã nói với em ở núi Spine không? Anh đã nhắc nhở em, nhớ bổn phận của loài rồng như thế nào? Và em đã đưa anh trở về, dù bản năng của giống nòi em đã cản ngăn. Vì vậy, tới anh, anh cũng phải tỉnh táo. Mấy ngày qua em đã suy nghĩ rất nhiều, và nhận ra ý nghĩa của rồng và kỵ sĩ là gì. Đó là định mệnh đã dành cho chúng ta những việc khó khăn, hoàn thành những công việc vĩ đại, không quản gian nguy. Đó là trách nhiệm của chúng ta với tương lai." "Anh cóc cần biết em nói gì. Đó không phải là lý do để đi khỏi đây." "Vậy thì còn những lý do khác nữa. Dấu vết của em đã bị nhìn thấy. Người ta đang báo động về sự có mặt của em. Dần dần em sẽ bị phát hiện. Ngoài ra, nơi này còn gì cho anh đâu. Không nhà cửa, không gia đình, người thân...." "Nói bậy! Anh Roran chưa chết." "Nhưng nếu anh ở lại, anh phải cắt nghĩa những gì đã xảy ra. Roran có quyền biết thế nào và vì sao cha anh ta chết. Roran sẽ làm gì khi phát hiện ra em?" Lý luận của Saphira làm Eragon điên đầu, nhưng nó vẫn không thể nào có ý tưởng xa lìa thung lũng Palancar được. Đây là quê hương của nó. Nhưng việc truy lùng hai kẻ lạ cũng thôi thúc nó. Eragon hỏi: "Anh có đủ sức để làm việc này không?" "Anh còn có em." Eragon cảm thấy khinh bỉ thái độ ngập ngừng, không cả quyết của mình. Saphira có lý. Không còn vấn đề nào khác, ngoài chuyện phục thù. Và con gì làm nó sảng khoái hơn là săn đuổi hai tên lạ mặt kia. Một luồng nội lực mạnh mẽ cuồn cuộn dâng trào, tóm thu cảm xúc của nó, tạo thành một mối căm giận rắn như thanh sắt, khắc hai chữ: phục thù. Đầu nó ong óng, khi tuyên bố: "Anh sẽ hành động." Chấm dứt liên lạc với Saphira, Eragon lăn khỏi giường. Người nó căng như sợi lò xo. Trời còn sớm, nó mới ngủ được chừng vài tiếng. Eragon thầm nhủ: "Không gì nguy hiểm hơn một kẻ không còn gì để mất. Mình phải trở thành kẻ đó." Mới hôm qua, nó tưởng như khó lòng đứng vững trong đời, nhưng giờ đây nó tự tin, vững vàng với một ý chí rắn rỏi, không thèm quan tâm đến sự đớn đau của thân xác nữa. Vừa định ra khỏi nhà, chợt nghe tiếng hai người rì rầm nói chuyện, Eragon ngừng lại, lắng nghe. Giọng bà Elain dịu dàng: -...một chỗ ở. Nhà ta có phòng mà. Giọng ông chồng trầm trầm nho nhỏ, rồi tiếng bà vợ trả lời: - Phải, tội nghiệp thằng nhỏ. Lần này Eragon nghe rõ tiếng ông Horst: - Nhưng tôi vẫn cứ nghĩ ngợi về những gì nó nói. Tôi không tin nó đã nói hết cho chúng ta. - Ý ông là sao? - Khi chúng tôi chạy đến đó, đường cái trơn nhẵn vết Eragon kéo cậu nó trên tấm ván. Sau đó chúng tôi gặp một khoảng tuyết bị dẫm đạp, cào bới tung cả lên. Dấu chân của nó và vết tấm ván bị kéo lê trên đất ngừng tại đó. Nhưng ngoài ra, chúng tôi còn thấy những vết chân vĩ đại đến từ hướng nhà Garrow. Rồi còn hai chân bị thương của Eragon? Toạc cả đống da như thế, chẳng lẽ nó không nhận ra? Tôi không muốn ép nó trả lời ngay, nhưng chắc phải làm vậy thôi. - Có thể những gì nó thấy làm nó quá sợ, đến nỗi không muốn nhắc lại nữa. Ông thấy thằng nhỏ hoảng loạn ra sao chứ? - Điều đó cũng không thể cắt nghĩa, vì sao suốt đoạn đường trước khi gần tới đây, không chút dấu vết tấm ván kéo Garrow. Eragon nhận ra Saphira có lý, đến lúc phải đi khỏi đây rồi. Quá nhiều người thắc mắc với hàng ngàn câu hỏi. Sớm muộn gì, họ cũng sẽ tìm ra câu trả lời. Nó rón rén bước xuyên qua các phòng, sững người mỗi khi ván sàn kêu cót két. Đường phố sạch sẽ, vì giờ này còn ít người thức dậy. Nó đứng lại, suy nghĩ, mình không cần ngựa, vì Saphira là chiến mã của mình rồi. Nhưng phải có bộ yên. Vấn đề lương thực cũng không lo, Saphira có thể săn mồi cho cả hai. Tuy vậy, mình nên kiếm thêm chút đồ ăn để mang theo. Còn những thứ khác, mình sẽ trở về nhà đào bới. Eragon tới thẳng lò thuộc da của nhà Gedric ngoài ngọai ô Carvahall. Mùi tanh tưởi làm nó phát khiếp, nhưng vẫn cố tiến lại cái chòi nằm dựa chân đồi, làm kho chứa những tấm da đã hun khói. Nó cắt ba miếng lớn da bò. Tuy áy náy vì hành động trộm cắp, nhưng Eragon tự biện hộ, một ngày kia nó sẽ thanh toán đầy đủ cho nhà Gedric và chú Horst. Cuốn mấy miếng da lại, nó đem đến một cây phía ngòai làng, dấu cuộn da giữa những cành lá xum xuê, rồi trở lại Carvahall. Bây giờ phải lo phần lương thực. Eragon định đến quán rượu, nhưng nó thoáng cười, quay hướng. Nếu trộm, thà trộm của lão Sloan hàng thịt. Nó lẻn vào nhà. Cửa trước đóng chặt mỗi khi lão đi vắng, nhưng cửa hông lại chỉ móc hờ một dây xích nhỏ. Trong căn phòng tối thui, Eragon sờ soạng cho tới khi tay nó chạm từng chồng thịt gói bằng vải. Nó nhồi tối đa thịt vào trong áo sơ mi, rồi chạy thốc trở ra. Có tiếng phụ nữ gọi tên nó, Eragon chạy thục mạng về một góc phố. Run bắn người, nó thấy chú Horst đi vào một ngõ nhỏ cách chừng vài thước. Chờ ông vừa đi khuất, nó cắm đầu chạy tiếp, dù chân đau nhoi nhói. Rẽ qua một con đường nhỏ, nó núp sau thân cây, nhìn ngược lại, xem có bị theo dõi không. Không thấy ai, Eragon thở phào nhẹ nhõm và trở lại gốc cây đã dấu cuộn da. Nhưng....cuộn da không còn đó nữa. - Tính đi đâu vậy? Eragon quay phắt người lại. Ông già Brom nhìn nó đầy giận dữ, một bên đầu vết thương đã khô máu. Bên hông ông là một thanh kiếm ngắn và cuộn da bò đang nằm trong tay. Eragon cau mày bực tức. Sau ông già nãy cứ bám theo nó vậy? - Trả lại cháu cuộn da. - Để cháu lại bỏ chạy khỏi đây, trong khi Garrow chưa được chôn cất sao? - Đó không phải việc của ông. Sao ông cứ theo dõi cháu vậy? - Ta không theo dõi, mà ta chờ ở đây. Nào, cho ta biết, cháu định đi đâu? - Không đi đâu hết. Nó nhào lại giật cuộn da. Ông không cố giữ lại, chỉ bảo: - Ta hy vọng cháu có đủ đồ ăn cho con rồng của cháu rồi. Eragon lạnh người: - Ông nói gì vậy? - Đừng giả nai với ta. Ta biết vì sao trên bàn tay cháu có dấu gedwey ignasia, nghĩa là bàn tay phát sáng đó. Cháu đã phạm tay vào con rồng mới mở. Ta cũng biết vì sao cháu đã đến tìm ta để hỏi han đủ thứ chuyện. Và ta biết, một lần nữa Kỵ Sĩ lại tồn tại. Vậy là không còn có thể giấu diếm được nữa. Mình phải mau chuồn khỏi đây. Nhưng hai chân khập khiễng này làm sao chạy thóat tay ông ta. Nó thầm gọi: "Saphira!" Sau mấy giây dài dằng dặc mới có tiếng trả lời. Nó chuyển tiếp ý nghĩ đến con rồng: "Bể hết rồi. Anh cần em gấp." Rồi nó truyền hình ảnh nơi đang đứng cho Saphira. Để hoãn binh, nó hỏi ông già: - Làm sao ông khám phá ra chuyện này? - Bằng chứng, dấu vết khắp nơi, ta chỉ cần lưu tâm theo dõi. Bất kỳ ai hiểu biết, đều có thể khám phá ra như ta. Con rồng của cháu sao rồi? - Dạ...khoẻ. Chúng cháu không ở nhà, khi những kẻ kia tới. - Còn vết thương đùi? Cháu đã bay, phải không? Tại sao ông ta biết hết vậy? Nếu ông ta được những kẻ lạ kia gài đặt thì sao? Có thể chúng muốn ông tìm hiểu nơi nó tới, để phục kích? Còn Saphira đi đâu mà vẫn không thấy tăm hơi? Nó phóng tư tưởng đi tìm, và thấy Saphira đang bay vòng vòng tuốt trên không. "Tới lẹ lên." "Không, em xem một lúc nữa đã." "Cái gì?" "Một vụ tàn sát ở Doru Areaba." "Hả?" Ông già Brom đứng dựa gốc cây, thoáng mỉm cười: - Ta đã nói chuyện với nó, và nó đồng ý ở trên không, cho tới khi chúng ta giải quyết hết những bất đồng. Cháu thấy đó, không còn cách khác, là phải trả lời những câu hỏi của ta thôi. Nào, nói đi, cháu định đi đâu? Eragon kinh ngạc. Làm sao ông già nói chuyện được với Saphira? Đầu óc nó rối tung, nhưng cũng phải nói với ông ta vài điều mới yên được. - Cháu đi tìm nơi an toàn để ở cho đến khi vết thương lành. - Rồi sau đó? Đầu nó lùng bùng, không thể nghĩ cho minh bạch một điều gì. Nó chỉ mong được nói tất cả với ai đó về những gì đã xảy ra trong mấy tháng vừa qua. Nó cảm thấy bị dày vò, vì những bí mật của nó là nguyên nhân cái chết của cậu Garrow. Eragon run run nói: - Cháu sẽ truy lùng những kẻ lạ kia, và giết chúng. - Nhiệm vụ dũng cảm của một chàng trai còn quá trẻ. Ông nói tỉnh bơ, cứ như Eragon mới đưa ra đề nghị một việc làm minh bạch và thích hợp với nó nhất vậy. Rồi ông thủng thẳng tiếp: - Chắc chắn đó là một việc làm thích hợp với cháu và đáng để cháu hy sinh công sức. Vậy mà ta đã tưởng uổng công giúp cháu. Ông lấy từ trong bụi ra một cái bao lớn, bảo: - Tuy nhiên ta sẽ không ngồi một chỗ, trong khi chàng trai tha hồ bay nhảy với một con rồng đâu đó. Ông ta giúp mình thật hay gài bẫy đây? Eragon đã từng phát khiếp vì hành động của những kẻ thù bí mật rồi. Nhưng ông già Brom đã thuyết phục và chuyện trò được với Saphira. Nó không ngại thì sao ta phải ngại. Nó tạm dẹp bỏ nghi ngờ, nói: - Cháu không cần giúp đỡ. Nhưng...ông có thể đi cùng. Ông như lắng nghe một lúc, rồi bảo Eragon: - Cháu có thể liên lạc với con rồng rồi đó. "Saphira hả?" "Dạ." "Em gặp chúng ta ở nhà mình, được chứ?" "Được. Vậy là anh đã đồng ý với ông ta rồi hả?" "Chắc vậy." Saphira cắt liên lạc, xoãi cánh bay đi. Eragon quanh nhình lại Carvahall, thấy mọi người chạy từ nhà này sang nhà khác. Nó bảo: - Cháu đoán là họ đang tìm cháu. - Chắc vậy. Chúng ta đi chứ? - Cháu muốn để lại tin nhắn cho anh Roran. Thật không phải, nếu bỏ đi mà không cho anh ấy biết vì sao. - Ta đã để lại một lá thư nhờ bà Gertrude trao lại cho Roran. Bảo cho nó biết phải cảnh giác với một số nguy hiểm. Cháu yên tâm rồi chứ? Eragon gật đầu. Nó lấy da gói thịt, rồi cùng ông Brom lên đường. Cả hai cố tránh khỏi tầm nhìn của dân làng, rồi rảo bước càng mau khỏi vùng Carvahall càng tốt. Vừa đi Eragon vừa suy tính, về tới nhà, mình sẽ quyết định không cùng đi xa hơn với ông ta nữa, cho đến khi mình tìm hiểu ra mấy điều cần thiết. Hy vọng ông ta sẽ kể nhiều hơn về những Kỵ Sĩ và cho mình biết, mình đang chiến đấu với kẻ nào đây. Khi cảnh điêu tàn của trang trại hiện ra trước mắt, ông già Brom cau mày tức giận. Còn Eragon kinh ngạc thấy thiên nhiên đã mau chóng khai phá nhà nó. Từng đống tuyết và bụi đất đã che phủ, xóa hết những dấu vết của cuộc tấn công tàn bạo. Chuồng ngựa chỉ còn là một đống tro tàn. Ông Brom ngẩng đầu khi nghe tiếng vỗ cánh của Saphira. Từ phía sau, cô ả biểu diễn, bay gần như sát đầu, gió ào ạt thốc tới làm hai người lảo đảo. Những chiếc vảy rồng lóng lánh, khi cô nàng lượn vòng, duyên dáng hạ cánh trên mặt đất. Ông già tiến lên, vừa uy nghi vừa mừng rỡ. Mắt ngời sáng, nước mắt lăn trên má, trôi xuống chòm râu bạc. Ông đứng im, thở nặng nề và Eragon nghe ông nho nhỏ thì thầm: - Thế là...điều đó lại bắt đầu. Nhưng sẽ chấm dứt ra sao, tại nơi nào đây? Mắt ta bị che phủ rồi, không thể phân biệt đây là kịch hay hài kịch, vì cả hai, yếu tố đều có tại nơi này...Dù sao, có lẽ địa vị ta không bị đổi thay và ta... Nhưng những lời nói sau cùng nhỏ dần, khi Saphira kiêu hãnh tiến tới. Eragon làm như không nghe ông nói gì, bước lại đón Saphira. Nó xoa tay lên cổ con rồng. Ý nghĩ của Saphira mạnh mẽ truyền sang nó. "Ngoài anh và cậu Garrow, em chưa hề nhìn thấy một con người nào khác. Vậy mà bây giờ cậu lại bị thương quá nặng." "Em thấy mọi người qua mắt anh rồi mà." "Nhưng đâu có giống như được nhìn người thật." Saphira lại gần thêm, nghiêng cái đầu to đùng, để có thể ngắm ông già Brom bằng một con mắt xanh màu ngọc. Cô nàng nhìn ông lão trừng trừng, bình phẩm: "Một sinh vật kỳ cục quá!" Đứng im một lúc, rồi ông đưa tay ra. Saphira từ từ cúi đầu, cho ông vuốt trán nó. Nhưng nó bỗng khịt một cái, nhảy thót về sau lưng Eragon. Ông Brom hỏi nhỏ: - Nó tên gì? - Saphira. Một vẻ kỳ lạ thoáng qua mặt ông. Ông ấn cây gậy xuống đất, mạnh tới nỗi những đốt tay ông trắng nhợt. Eragon vội nói: - Trong tất cả những tên ông nói với cháu, nó chỉ thích duy nhất một tên. Cháu nghĩ cũng thích hợp. - Thích hợp! Giọng ông có điều gì đó, Eragon không cắt nghĩa được. Bối rối, kinh ngạc, sợ hãi hay ganh tỵ? Có thể là không có điều nào như thế, hoặc là tất cả. Ông già cao giọng nói: - Chào Saphira. Ta rất hân hạnh biết mi. Ông vặn vẹo hai tay, cúi đầu làm một cử chỉ chào hỏi thật lạ lùng. Saphira nhỏ nhẹ: "Em thích ông lão này." Eragon nói ngay: "Tất nhiên. Ai chẳng ưa được phỉnh phờ." Nó vuốt vai Saphira, rồi đi vào ngôi nhà đổ nát. Cô nàng theo sau cùng ông già Brom. Trông ông hoan hỉ hẳn ra. Eragon leo vào nhà, rồi chui qua một cái cửa, trước kia là phòng của nó. Nó chỉ nhận ra căn phòng dưới những đống gỗ vụn. Cố tìm nơi từng là những bức tường, nó moi móc ra được cái ba lô. Khung gỗ bị gãy, nhưng còn có thể sửa lại được. Tiếp tục lục lọi, Eragon tìm thấy cả cây cung còn trong bao da. Nó kéo dây cung rất điệu nghệ. Thân cung không bị nứt rạn chỗ nào. Vui mừng, nó tiếp tục tìm giỏ đựng tên. Nhiều mũi tên đã bị gãy. Nó trao cung tên cho ông Brom. Ông bảo: - Phải có cánh tay mạnh mẽ mới kéo nổi. Nhặt nhanh khắp nơi được một số đồ dùng cần thiết, Eragon chất đống gần ông Brom. Ông hỏi nó: - Bây giờ làm gì? - Tìm một nơi ẩn trú. - Cháu đã nghĩ ra nơi nào chưa? - Rồi. Trừ cây cung, Eragon cột tất cả thành một bó, đeo sau lưng, rồi nói với ông Brom đi theo và dặn Saphira bay trên cao, tránh để lại dấu chân. Điểm đến không xa, nhưng Eragon đi lòng vòng quanh co, như vậy sẽ trì hoãn được bất cứ kẻ nào truy lùng theo dấu vết. Hơn một tiếng sau, họ tới một nơi kín đáo, che phủ chung quanh bởi những bụi mâm xôi rậm rạp. Khoảng trống vừa đủ cho hai người và một con rồng. Những con sóc đỏ xao xác chuyền cành, chí chóe phản đối những kẻ đến quấy rấy. Già Brom nhìn quanh hỏi: - Có ai khác biết chỗ này không? - Không. Nhà cháu mới dọn về đây, cháu đã khám phá ra chỗ này. Phải mất cả tuần cháu mới đào xới qua lọt những bụi cây, và thêm một tuần nữa để dọn dẹp. Ông lão chống gậy, nghiêng mình nhìn soi mói vào mắt Saphira, làm Eragon lo ngại. Cảm thấy đói, nó đi nổi lửa nấu nướng. Lấy đầy một soong tuyết, nó đặt lên bếp lửa, đợi cho nước sôi, bỏ thịt và cho một vốc muối vào soong. Chẳng ngon lành gì, nó nghĩ, nhưng phải ăn cho quen thôi. Ăn uống xong, khi ông già Brom mồi tẩu thuốc, Eragon hỏi: - Vì sao ông muốn đi theo cháu? - Ta có bổn phận giữ gìn mạng sống cho cháu. - Nghĩa là sao ạ? - Nói rõ hơn, ta là một người kể chuyện và ta nhận ra cháu sẽ tạo ra một cốt truyện hay. Kể từ hơn một trăm năm nay, cháu là Kỵ Sĩ đầu tiên tồn tại ngoài tầm kiểm soát của nhà vua Galbatorix. Chuyện gì sẽ xảy ra? Cháu sẽ chết như một kẻ hy sinh cho lý tưởng? Cháu sẽ gia nhập cùng nhóm Varden? Hay cháu sẽ giết chết nhà vua? Vấn đề nào cũng đáng say mê theo dõi. Vì vậy ta tìm đủ mọi cách để được chứng kiến từng diễn biến. Eragon thắt cả bụng. Chẳng bao giờ nó nghĩ mình có thể làm những công việc nhiêu khê, vĩ đại đó. Nhất là làm kẻ chết cho lý tưởng. Nó tự nhủ, mình chỉ muốn trả thù, chứ ham gì mấy chuyện kia. Nó hỏi: - Nhưng làm sao ông nói chuyện được với Saphira? - Được, cháu muốn biết thì ta nói, nhưng có thể điều này không làm cháu thích đâu. Ông đứng dậy, lấy cái túi, kéo ra một bọc vải dài chừng thước tám và có vẻ hơi nặng. Ông lần lượt tháo từng lớp vải cuốn, như tháo bỏ lớp vải bao bọc xác ướp. Cuối cùng một thanh kiếm lộ ra. Một viên hồng ngọc bằng quả trứng nhỏ gần trên cái núm nhỏ bằng vàng nơi chuôi cán, toàn thân cán kiếm cuốn dây bạc sáng như cao. Vỏ kiếm nhẵn bóng màu rượu chát với một dấu hiệu kỳ lạ màu đen. Cùng với thanh kiếm, trong bọc còn có một đai lưng da có móc khóa. Ông già trao thanh kiếm cho Eragon. Chuôi kiếm vừa vặn trong bàn tay Eragon, như được làm cho riêng nó vậy. Nó từ từ rút kiếm ra khỏi vỏ, êm như ru. Bên ánh lửa, lưỡi kiếm long lanh đỏ rực. Dấu hiệu kỳ lạ màu đen giống như ngoài vỏ, khắc sâu trên mặt thép. Cầm thanh kiếm, Eragon cảm thấy thoải mái, như chỉ là một phần tay nó được nối dài ra, khác hẳn với những nông cụ thô kệch vẫn thường dùng. Một sức mạnh như ngấm ngầm cuồn cuộn tỏa ra từ ruột kiếm. Dụng cụ này tạo ra để giết người, để tung hoành trong những trận chiến kinh thiên động địa, tuy nhiên nó lại mang một vẻ đẹp đến mê hồn. Ông lão nghiêm trang nóoi: - Thanh kiếm này đã từng thuộc về một Kỵ Sĩ. Sau thời kỳ huấn luyện, mỗi Kỵ Sĩ được thần tiên tặng một thanh kiếm. Phương pháp tôi luyện vẫn luôn được giữ bí mật. Những thanh kiếm của họ không bao giờ bị rỉ sét, sắc bén muôn đời. Theo tục lệ, màu sắc của lưỡi kiếm phải tương hợp với màu sắc con rồng của Kỵ Sĩ đó. Tuy nhiên trong trường hợp này, ta nghĩ, chúng ta có thể làm một việc ngọai lệ. Thanh kiếm này tên là Zar'roc. Ta không hiểu nghĩa là gì, có thể là một điều riêng tư của người chủ cũ. - Nhưng ông lấy thanh kiếm này ở đâu? Vừa hỏi, nó vừa miễn cưỡng trao kiếm lại ông già. Nhưng ông không đưa tay đón nhận, nói: - Chuyện ta lấy từ đâu không quan trọng. Ta chỉ cho cháu biết rằng, ta phải vượt qua bao gian nguy, khốn khổ mới có nó. Ta nghĩ cháu có quyền giữ nó hơn ta. Và nhất là cháu cần có nó. - Món quà tuyệt vời quá. Cháu cám ơn ông. Còn dấu hiệu này là gì, thưa ông? - Đó là cách trang trí riêng của mỗi Kỵ Sĩ. Bây giờ cháu phải biết rằng, ai muốn học cách chuyện trò với rồng, đều phải được huấn luyện đàng hoàng. Vì dù họ có nói được với rồng, vẫn chưa là hiểu tất cả về rồng. Ta hiểu biết về rồng và khả năng của chúng hơn tất cả mọi người hiện nay. Nếu dạy hết cho cháu thì phải mất nhiều năm, nhưng ta sẽ tóm tắt lại thôi. Saphira mon men lại gần Eragon. Rút kiếm khỏi vỏ, nó đưa ra khoe. Cô ả lèm bèm: "Thanh kiếm này đầy sức mạnh," rồi dí mũi vào đầu kiếm. Vừa chạm vào lớp vảy rồng, làn thép chợt loé lên ánh ngũ sắc long lanh như mặt nước lao xao gợn sóng. Khi Saphira nhấc đầu ra khỏi mũi kiếm, thanh kiếm trở lại bình thường. Eragon ngơ ngác tra kiếm vào bao. Ông già nhước mày lên, nói: - Đó là điều ta sắp nói cho cháu biết. Rồng không ngừng làm người ta kinh ngạc. Những chuyện xảy ra quanh chúng kỳ bí đến bất ngờ. Ngay cả những Kỵ Sĩ đã từng hoạt động cùng chúng hàng bao thế kỷ, cũng chưa bao giờ biết hết khả năng của chúng. Có người còn nói, chính rồng cũng không biết phát huy đầy đủ sức mạnh của mình. Chúng gắn bó với đất nước này, bằng cách vượt qua những trở ngại lớn lao. Điều Saphira vừa làm đủ chứng minh cho quan điểm của ta: còn nhiều điều cháu chưa biết. Im lặng một lúc, Eragon nói: - Có lẽ là như vậy, nhưng cháu có thể học dần. Điều quan trọng nhất là cháu cần phải biết về hai kẻ lạ kia ngay bây giờ. Ông có biết gì về chúng không? - Chúng được gọi là Ra'zac. Không ai biết đó là tên của giống nòi chúng, hay đó chỉ là tên chúng tự đặt ra. Dù sao, nếu chúng có tên riêng, chúng cũng sẽ giữ bí mật. Trước khi Galbatorix cầm quyền, người ta không bao giờ thấy chúng. Chắc trong những chuyến đi xa, hắn đã thu nạp chúng làm bề tôi. Người ta hầu như không biết hay biết quá ít về chúng. Tuy nhiên, ta có thể nói với cháu: chúng không phải là người. Ta đã thoáng thấy một cái đầu của chúng, với một cái gì đó giống như mỏ chim và đôi mắt lù lù như nắm đấm. Nhưng bằng cách nào chúng sử dụng được tiếng người, còn là một bí mật với ta. Nhưng ta biết chắc một điều, toàn thân chúng là một khối quăn queo, vặn vẹo. Đó là lý do, bất kỳ thời tiết nào, chúng cũng khoác áo trùm đầu, phủ kín mình. - Chúng có bao nhiêu tên? - Cho đến bây giờ, ta biết có hai tên mà cháu đã gặp. Có thể còn nữa, nhưng ta chưa nghe nói. Có thể chúng là một giống gần tuyệt chủng. Cháu biết không, chúng là những thợ săn rồng cho nhà vua. Bất cứ khi nào, nghe đồn có rồng ở đâu, Galbatorix sai chúng tới ngay. Chết chóc in dấu trên đường chúng đi qua. Ông nhả khói thuốc thành những vòng tròn, bồng bềnh trên bụi cây. Eragon làm lơ, nhưng rồi nó thấy những vòng khói tròn vừa chuyển đổi màu sắc vừa bay liệng trên không. Ông già tinh quái nháy mắt với nó. Eragon tin chắc chưa ai từng nhìn thấy Saphira, vậy vì đâu nhà vua lại biết. Nó đưa ra câu hỏi, ông lão bảo: - Cháu nói đúng, dường như không có người nào ở Carvahall báo tin cho nhà vua. Sao cháu không cho ta biết, cháu đã thấy quả trứng tại đâu và cháu đã nuôi Saphira lớn lên như thế nào, điều đó có thể làm sáng tỏ vấn đề phần nào. Eragon kể lại tất cả mọi chuyện từ khi nó bắt gặp trứng rồng ở núi Spine. Thật tuyệt vời, cuối cùng nó đã thổ lộ bí mật được với một người. Ông chăm chú nghe, thỉnh thoảng mới đặt một câu hỏi. Eragon kể xong, mặt trời cũng sắp lặn. Hai người lặng lẽ ngồi dưới bầu trời chuyển màu hồng. Rồi Eragon lên tiếng: - Cháu chỉ muốn biết Saphira từ đâu tới, vì nó cũng không biết. - Cháu làm ta hiểu rõ được vài điều. Ta chắc không ai gần chúng ta đã nhìn thấy Saphira. Tụi Ra'zac phải nhận được tin từ bên ngoài thung lũng này, từ một kẻ nào đó, mà hiện nay, có thể đã chết rồi. - Đầu ông bị sao vậy? Trông như ông đã va đầu vào đá. - Không phải, nhưng cháu đoán cũng hay. Ta đang lẻn vào nơi ở của tụi Ra'zac sau khi trời tối. Chúng bất ngờ chận lối. Ta đâu sợ, rượt đuổi chúng. Thế rồi ta sững lại, ngã lăn xuống đất, ngất tới hôm sau mới tỉnh. Thời gian đó đủ để chúng tới nhà cháu. Không còn kịp chặn chúng nữa, nhưng ta quyết lần theo, và đó là lúc ta gặp cháu trên đường. Ông ta nghĩ mình là ai, mà dám một mình ăn thua đủ với tụi Ra'zac? Bị chúng phục kích, mà chỉ sững người. Nó nóng nảy hỏi: - Khi ông thấy dấu tay chiếu sáng của cháu, cái gedwey ignasia đó, ông không cho cháu biết về tụi Ra'zac, để cháu báo cho cậu Garrow, thay vì đi tìm Saphira? - Lúc đó ta không biết phải làm gì. Ta tưởng sẽ làm cho những tên Ra'zac lạc hướng cháu, đợi khi chúng bỏ đi, sẽ trở lại căn vặn cháu về Saphira. Nhưng chúng quá khôn, ta ân hận vô cùng vì lầm lỗi đó. Do vậy mà cháu đã phải trả giá quá đắt vì lỗi của ta. Giọng Eragon chợt cay đắng hỏi: - Ông là ai? Vì sao chỉ là ông lão nhà quê kể chuyện mà ông có được gươm của Kỵ Sĩ? Vì sao ông biết cả chuyện về tụi Ra'zac? - Ta tưởng đã nói rõ là ta sẽ không nói về chuyện này mà. - Cậu cháu chết vì chuyện này. Chết! Ông nghe rõ chứ? Cháu tin ông đến thế này, là vì Saphira tin ông. Nhưng cháu không tin ông hơn được nữa. Ông kông phải là người cháu từng quen biết suốt bao năm ở Carvahall. Một lúc lâu, ông ta ngắm làn khói thuốc uốn éo giữa hai người, những vết nhăn trên trán hằn sâu. Cuối cùng ông nói: - Chắc cháu không bao giờ ngờ rằng, đa phần cuộc đời ta, ta đã sống ngòai thung lũng Palancar này. Chỉ ở Carvahall, ta mới trong vai trò người kể chuyện. Ta đã sắm nhiều vai, với những con người khác nhau. Quá khứ của ta đầy phức tạp. Một phần vì muốn trốn khỏi quá khứ đó, mà ta đã tới đây. Vì thế, không, ta không phải là con người cháu đã biết đâu. - Hả?! Vậy thì ông là ai? Ông cười dịu dàng: - Ta là một người đến đây để giúp cháu. Đừng coi thường những lời nói đó. Vì đó là những lời chân thật nhất của ta. Nhưng ta sẽ không trả lời câu hỏi của cháu đâu. Cháu không cần phải biết tiểu sử của ta. Phải, ta có sự hiểu biết của lão già Brom, người kể chuyện, nhưng ta không chỉ là lão. Cháu phải tập sống với sự thật đó, và sự thật là ta sẽ không bao giờ thổ lộ đời ta với bất cứ ai. Eragon đứng dậy, cau có nói: - Cháu đi ngủ. Ông không có vẻ ngạc nhiên, nhưng ánh mắt đầy đau khổ. Trải tấm chăn trên mặt đất, ông nằm xuống cạnh Saphira. Tất cả chìm trong im lặng và lạnh lẽo. Làm yên rồng Khi Eragon mở mắt, kỷ niệm về cái chết của cậu Garrow lại dày vò nó. Kéo chăn phủ kính đầu, nó lặng lẽ khóc. Nó chỉ mong được nằm mãi trong chăn, trốn khỏi thế giới bên ngoài. Khóc chán, nó quay lại oán trách ông già Brom, rồi miễn cưỡng ngồi dậy, chùi nước mắt. Làu bàu chào lại lời chào buổi sáng của ông, Eragon kẹp mấy ngón tay lạnh ngắt dưới nách, tới bên bếp lửa ngồi chờ ông làm đồ ăn sáng. Nó ăn vội vàng vì sợ đồ ăn hết nóng. Ăn xong, Eragon lấy tuyết rửa bát, rồi đem mấy tấm da thuộc trải trên mặt đất. - Cháu làm gì vậy? - Cháu định làm cái yên cho Saphira. - Rồng thường có hai loại yên. Một là loại yên cứng, uốn cong như yên ngựa. Nhưng loại này phải có dụng cụ và thời gian. Loại thứ hai mỏng và nhẹ, chỉ như một tấm đệm cho người cưỡi, tuy nhiên cũng thoải mái gần như lọai yên kia. - Ông có biết trông nó như thế nào không? - Hơn thế nữa, ta còn biết làm. - Ông giúp cháu đi. - Được. Nhưng phải để ý, sau này mới có thể tự làm. Sau khi được phép của Saphira, ông đo cổ và ngực nó. Cắt mẫu xong, phần còn lại ông cắt thành những dải dây dài. Những đai da đều có phần phòng xa Saphira lớn hơn trong mấy tháng nữa. Phần chính của yên ráp bằng ba miếng da, chính giữa nhồi đệm. Một gút thắt chắc chắn, vừa khít một gai trên cổ Saphira. Những miếng đai rộng bản được khâu hai bên yên, bao quanh, cột vào nhau dưới bụng. Bàn đạp là những nút thắt buông xuống từ hai bên đai. Công việc hoàn tất là vừa hết ngày. Ông già đóng yên lên Saphira, thử đi thử lại thật kỹ lưỡng. Khi thật sự hài lòng ông mới tháo yên xuống. Saphira hỏi Eragon: "Anh không bay thử sao?" "Có lẻ để đến mai. Muộn rồi." Thật ra, nó không cảm thấy hào hứng, sau những chuyện thảm khốc mới xảy ra. Bữa ăn tối đơn giản nhưng ngon miệng. Đang ăn, ông hỏi Eragon: - Mai ta đi chứ? - Còn lý do gì để ở lại nữa đâu. - Eragon, ta phải xin lỗi vì những gì đã xảy ra. Gia đình cháu không đáng phải chịu một thảm cảnh đau đớn thế. Nếu có thể làm điều gì để thay đổi lại, ta quyết sẽ làm. Đây là một chuyện kinh khủng đối với tất cả chúng ta. Eragon im lặng, không nhìn ông. Ông nói tiếp: - Chúng ta cần có ngựa. - Có lẽ ông cần, cháu có Saphira rồi. - Không một con ngựa nào có thể đuổi kịp rồng, mà Saphira còn quá nhỏ, không đủ sức tải nổi hai chúng ta. Ngoài ra, ta và cháu gần nhau thì sẽ an toàn hơn. Cưỡi ngựa vẫn mau hơn đi bộ chứ. - Nhưng đi dưới đất khó phát hiện ra tụi Ra'zac hơn. Trên lưng Saphira, cháu sẽ tim ra chúng trong vòng hai ngày. - Phải có ta bên cạnh, cháu mới có cơ may bắt chúng. - Thôi được, nhưng ông mua ngựa. Cháu không có tiền và không muốn ăn trộm nữa. Xấu lắm. - Điều đó còn tùy quan điểm của điểm. Trước chuyến đi này, hãy nhớ tụi Ra'zac, kẻ thù của cháu, bầy tôi của nhà vua, tới đâu cũng được bảo vệ. Luật pháp không làm gì được chúng. Trong các thành phố, hàng đoàn người cung cấp tin tức và hồ hởi phục vụ chúng. Cháu phải nhớ kỹ một điều, với vua Galbatorix, không gì quan trọng hơn là thu phục được cháu hay giết chết cháu. Mặc dù tin về sự tồn tại của cháu có thể chưa tới tai hắn. Cháu càng né tránh tụi Ra'zac lâu chừng nào, Galbatorix càng thất vọng. Vì hắn biết mỗi ngày cháu càng mạnh hơn và càng có dịp để cháu gia nhập với kẻ thù của hắn. Cháu phải hết sức thận trọng, nếu không từ kẻ đi săn, cháu sẽ trở thành một con mồi bị săn lại. Bị chinh phục bởi những lời lẽ cứng rắn của ông, Eragon trầm ngâm với một cành khô trong tay. Ông lên tiếng: - Nói chuyện thế đủ rồi. Lưng ta đã mỏi, để ngày mai bàn tiếp. Eragon gật đầu, dập tắt lửa. Thị trấn Therinsford Buổi sáng, trời xám xịt và gió lạnh như cắt da. Khu rừng chìm trong yên lặng. Sau bữa điểm tâm, Eragon và ông Brom dập tắt lửa, đeo túi lên lưng, sửa soạn lên đường. Eragon treo cung tên bên ngoài ba lô. Tránh mang xách nặng nề, nó buộc chặt yên và kiếm lên lưng Saphira, nhờ cô ả mang dùm cho đến khi mua được ngựa. Vả lại, nó thấy sử dụng một cây gậy còn hiệu quả hơn dùng kiếm. Sống trong bụi rậm, Eragon cảm thấy an toàn, giờ bước ra ngoài, nó lo ngại từng hành động. Saphira bay vòng vòng trên đầu. Nhìn ngược về ngôi nhà đổ nát, Eragon cương quyết nhủ lòng, mình sẽ trở lại nơi đây. Chuyến đi này sẽ không bao giờ là lần ra đi mãi mãi. Một ngày kia, khi bình yên trở lại, mình sẽ về.... Đứng ưỡn ngực, hướng về phương nam, Eragon đối diện với vùng đất lạ lùng, hoang dã. Vừa cất bước, nó vừa lo lắng nhìn theo Saphira bay vút về dãy núi xa xa. Kể từ lúc này, dù không có bóng dáng ai, chúng không còn được hàng ngày bên nhau, vì Saphira phải tránh xa tầm mắt của khách lữ hành. Dấu chân tụi Ra'zac chỉ còn lờ mờ trên mặt tuyết chưa tan, nhưng Eragon không quan tâm, vì đây là con đường duy nhất để ra khỏi thung lũng này. Tuy nhiên, vừa qua khỏi thung lũng, con đường bỗng chia thành nhiều ngã, khó xác định tụi Ra'zac đã rẽ ngã nào. Hai người lẳng lặng rảo bước. Mỗi khi vảy đóng vết thương rạn nứt, chân Eragon lại ri rỉ máu. Để quên sự khó chịu đó, Eragon lên tiếng hỏi: - Thật ra, chính xác thì rồng có thể làm được những gì? Ông bảo biết các khả năng của chúng? - Chính ta cũng không thể nào biết hết được. Đó là một câu hỏi, người ta phải tìm hiểu trong nhiều thế kỷ để có câu trả lời. Vì vậy, cháu phải hiểu là, những gì ta nói với cháu là vẫn chưa đầy đủ. Nhưng trước khi ta có thể thật sự trả lời câu hỏi của cháu, cháu cần phải qua những bài học căn bản về rồng. Như vậy sẽ không bị rối trí vì đi tắt vào vấn đề đầy phức tạp này. Ta sẽ bắt đầu bằng chu trình sinh sống của loài rồng, sau đó, nếu cháu chưa chán, ta sẽ tiến sang đề tài khác. Rồi ông cắt nghĩa rồng phối giống ra sao và cho trứng nở thế nào: - Ngay từ lúc rồng đẻ trứng, thì con rồng sơ sinh đã ở sẵn trong trứng rồi. Nhưng nó đợi, có khi hàng nhiều năm, tới khi gặp tình huống thích hợp. Khi rồng còn sống ngoài thiên nhiên, tình huống này chỉ có nghĩa là lương thực. Nhưng từ khi chúng trở thành một đồng minh của thần tiên, một số trứng được tuyển chọn, thường thì không hơn một vài trứng, để trao cho các Kỵ Sĩ hàng năm. Những trứng này, hay nói rõ hơn là những rồng con này, sẽ chui ra khỏi vỏ khi gặp đúng người sẽ là Kỵ Sĩ của nó. Vì sao chúng nhận ra được điều đó, vẫn là một bí mật. Các Kỵ Sĩ phải xếp hàng vuốt ve quả trứng, hy vọng nó sẽ lựa chọn mình. - Ông có ý bảo là Saphira đã lựa chọn cháu? - Rất có thể, nếu nó không thích cháu, quả trứng đã không nở ra. Eragon cảm thấy hãnh diện, vì Saphira đã chọn nó, trong số biết bao người dân ở Alagaesia. Nó tự hỏi con rồng này đã chờ đợi bao lâu, rồi rùng mình với ý nghĩ Saphira đã phải sống trong tối tăm tù túng suốt thời gian dài dằng dặc. Nó lắng nghe ông giảng tiếp. Ông cắt nghĩa, rồng ăn gì và khi nào. Một con rồng trưởng thành, không hoạt động có thể nhịn ăn trong nhiều tháng. Nhưng vào mùa kết đôi bạn, chúng phải ăn hàng tuần. Có vài loại thực vật có thể chữa lành bệnh cho chúng, nhưng lại có những cây cỏ khác làm chúng bị đau ốm. Chúng có rất nhiều cách để săn sóc móng vuốt và bộ vảy. Ông cũng dạy Eragon những phương pháp cần sử dụng khi bị rồng tất công và phải làm gì khi chiến đấu với một con rồng, kể cả khi người ta ở trên mặt đất, trên lưng ngựa hay đang cưỡi trên một con rồng khác. Phần bụng của chúng như áo giáp, nhưng phía dưới nách là yếu điểm. Ông Brom vui mừng vì Eragon luôn đưa ra những thắc mắc. Và nhờ chuyện trò, thời gian qua nhanh. Buổi chiều họ đã gần tới Therinsford. Xâm xẩm tối, khi tìm nơi cắm trại qua đêm, Eragon hỏi: - Kỵ Sĩ nào là chủ nhân của thanh kiếm Zar'roc này? - Một chiến sĩ vĩ đại. Trong thời đại của ông, danh tiếng ông lừng lẫy và rất được kính sợ. - Tên ông ta là gì? - Ta không nói. Không phải ta muốn giấu cháu, nhưng có những hiểu biết sẽ chỉ đem lại nguy hiểm cho cháu vào lúc này. Chỉ khi nào cháu có đủ thời gian và uy lực để chịu đựng và giải quyết, ta sẽ nói. - Ông biết không? Cháu thấy ông khoái chơi trò cút bắt. Trong khi cháu vẫn có ý chia tay với ông, vì vậy cháu không cần. Ông muốn nói gì, cứ nói thẳng ra, đừng loanh quanh mập mờ với cháu như vậy nữa. - Bình tĩnh. Tất cả sẽ được ta nói hết, khi đúng thời điểm của nó. Eragon làu bàu nhưng không nài nỉ thêm. Lúc hạ trại và nổi lửa nấu ăn, Saphira cùng đến nhập bọn. Eragon hỏi: "Nếu hai người cứ đi như rùa bò thế này, em dư thời gian bay qua biển rồi trở lại." "Đừng làm phách, có ngựa tụi này sẽ đi nhanh hơn cho biết." "Có thể, nhưng kịp bắt tụi Ra'zac không? Chúng đi trước ta nhiều ngày rồi. Em còn sợ là chúng đã biết ta đang theo dõi. Chúng tàn phá trại nhà mình thẳng tay như vậy làm gì? Nếu không ngoài mục đích khiêu khích để anh tức giận mà đuổi theo?" Eragon bực bội ngồi dựa vào cái bụng ấm áp của con rồng. Brom ngồi bên kia đống lửa, căm cụi đẽo gọt hai cành cây dài. Thình lình ông phóng một cây về Eragon, nó vội đưa tay bắt lấy. Ông đứng vụt dậy, kêu lớn: - Tự vệ đi. Eragon nhìn cây gậy giống như một thanh kiếm trong tay, ngẫm nghĩ, ông ta muốn đánh nhau với mình à? Chơi trò gì thế này? Được, nhưng ông ta tưởng đánh lại mình, ông sẽ phải ngạc nhiên. Nó vội đứng lên, khi thấy ông già vòng qua đống lửa, tiến tới. Hai người đối diện nhau, rồi ông lão vung gậy tấn công. Eragon đưa gậy đỡ, nhưng không kịp. Nó thét lên, khi mũi gậy của ông ta đâm trúng sườn nó, rồi rút ngay về. Không nghĩ ngợi, nó nhào tới. Ông nhẹ nhàng né tránh. Eragon vung gậy trên đầu ông, rồi cấp kỳ đổi hướng, xoay đầu gậy, đâm thẳng vào sườn đối thủ. Tiếng hai cây gậy chan chát đập vào nhau. Ông già khoái chí kêu lên: - Rất nhanh! Khá lắm. Cây kiếm gỗ trong tay ông thấp thoáng chuyển xoay và một đường kiếm đập trúng đầu Eragon, nó như nổ đom đóm mắt, lăn đùng xuống đất. Khi được tạt nước lạnh, Eragon mới hồi tỉnh, gượng ngồi dậy, mặt dính máu. Ông già Brom đứng trước mặt nó với một soong tuyết đã tan. Eragon tức giận xô ông ra: - Ông không phải làm thế. - Ồ, một kẻ thù thực sự có khi nào lại vỗ về kẻ nó đã đánh. Ta cũng vậy. Hay ta phải tán dương kẻ bại trận để làm hắn vui lòng? Chắc là không rồi. Nào, tự vệ đi. Ông nhặt lên cây gậy đưa cho nó. Eragon nhìn lom lom cây kiếm gỗ, quay lưng lại, gắt: - Quên đi, như vậy đủ rồi. - Không bao giờ được quay lưng lại kẻ thù. Vừa nói, ông vừa quăng gậy cho Eragon và tiếp tục tấn công. Nó rút lui ra sau đống lửa. Brom la lên: - Thu tay về, thấp đầu gối xuống. Ông hướng dẫn nó một vài động tác di chuyển chính xác. Căn dặn nó lập lại chậm rãi nhiều lần. Sau đó là những động tác nhanh nhẹn, rắc rối hơn, trước khi hai người quyết đấu trở lại. Eragon học rất mau, nhưng dù cố gắng thế nào, nó vẫn không chống đỡ nổi ông sau vài đường kiếm. Chấm dứt buổi tập, Eragon lăn trên chăn, rên rẩm. Toàn thân nó đau nhức, ông ta đã không hề nương tay với nó. Saphira ho sù sụ như bà già, môi cong lên, nhe hàm răng trắng nhởn. Eragon bực mình gắt: "Làm trò gì vậy?" "Có gì đâu. Thấy chàng trai không đánh lại được một ông già, buồn cười quá." Ả lại rặn ra mà sù sụ ho. Eragon ngượng đỏ mặt, khi biết là ả đang "cười" chọc quê. Nó làm mặt nghiêm, trùm chăn ngủ. Hôm sau còn tệ hại hơn. Hai cánh tay nó đầy vết bầm tím. Toàn thân ê ẩm đến không nhúc nhích được. Đã thế, ông già còn ngắm nghía "thành quả", mủm mỉm cười: - Cháu khỏe không? Eragon càu nhàu, ráng ăn cho xong bữa điểm tâm. Ra tới đường, hai người cắm cúi đi cho kịp tới Therinsford trước buổi trưa. Qua khoảng một dặm, đường đi rộng rãi hơn, xa xa đã nhìn thấy khói. Ông già bảo: - Cháu nên bảo Saphira bay qua khỏi Therinsford trước, và đợi chúng ta ở đó. Dặn nó thận trọng, đừng để ai nhìn thấy. - Sao ông không tự nói với nó? - Như thế không được lịch sự lắm đối với con rồng của người khác. - Ở Carvahall ông vẫn nói với nó, có vấn đề gì đâu. - Đó là vì tình thế bắt buộc thôi. Nhìn ông cười cười, Eragon phát bực, nhưng cũng chuyển chỉ thị cho Saphira. Saphira cũng chuyển cảnh giác trở lại: "Thận trọng. Bề tôi của triều đình có thể ẩn núp khắp nơi." Họ đã nhìn thấy những dấu bánh xe hằn sâu trên đường và nhiều dấu chân người. Therinsford lớn hơn Carvahall nhưng nhà cửa xây dựng không ra hàng lối nào. - Lộn xộn quá. Eragon nói. Nó không thể đến nhà máy xay của Dempton để tìm Roran. Chắc lúc này Albriech và Baldor đã gặp anh họ nó rồi. Một cây cầu bắc qua sông Anora, dẫn vào thành phố. Hai người vừa bước lên cầu, một gã đàn ông lem nhem bỗng từ trong bụi cây tiến ra đứng chặn đường. Cái áo sơ mi ngắn cũn cỡn, phơi ra cái bụng phệ dơ dáy, lòi ra khỏi cạp quần. Sau cặp môi nứt nẻ, hàm răng cải mả đưa ra khi gã ngọng nghịu lên tiếng: - Ông ược ép ua ầu. Ải ả iền. - Bao nhiêu? Ông Brom hỏi và lấy bóp ra. Gã giữ cầu mắt sáng lên: - Ăm. - Năm? Eragon nổi nóng vì cái giá vô lý, vừa định lên tiếng phản đối, ông Brom liếc nhanh nó. Gã giữ cầu lanh lẹ đút tiền vào cái túi đeo bên hông, cười nham nhở. - Ám ơn. Ông già Brom bước lên, vấp ngã, vội nắm cánh tay gã. Gã giữ cầu làu nhàu quay đi. Ông già nói xin lỗi, rồi tiếp tục qua cầu. Eragon hỏi: - Gã ấy trấn lột ông chứ giữ cầu gì. Mình xô nó mà đi cũng được. - Chắc thế. - Vậy sao ông lại trả tiền? - Vì người ta không thể nói phải quấy với tất cả những thằng dở hơi trên đời. Tốt hơn, cứ để chúng tưởng bở, rồi mình chơi xỏ lại. Ông xoè bàn tay, những đồng tiền lấp lánh sáng. - Ồ, ông cắt túi hắn à? Ông nháy mắt, cất tiền vào túi: - Còn nhiều hơn số ta bỏ ra. Đây là bài học cho hắn phải biết cách cất tiền. Ông nắm vai một đứa con trai vừa đi ngang hỏi: - Cháu có biết chỗ nào bán ngựa không? Thằng nhỏ chỉ một chuồng ngựa gần ngọai ô Therinsford. Ông cám ơn và cho nó một đồng tiền. Hai cánh cửa mở lớn dần vào hai dãy chuồng. Cuối nhà là một bức tướng treo đầy yên cương. Một người đàn ông bắp thịt tay cuồn cuộn, đang chải lông con ngựa chiến màu trắng. Hắn đưa tay lên vẫy chào. Hai người tiến lại, ông Brom lên tiếng: - Con ngựa đẹp quá. - Đúng vậy. Tên nó là Hỏa Tuyết. Còn tôi là Haberth. Vừa nói, hắn vừa đưa bàn tay chai sần nồng nhiệt bắt tay hai người khách. Không thấy khách xưng tên, hắn hỏi tiếp: - Quí vị cần gì nào? Brom nói: - Chúng tôi cần hai con ngựa, với đầy đủ yên cương. Nhưng vì đường xa, chúng tôi cần ngựa khoẻ, chạy nhanh. - Hàng hiếm đấy và không rẻ đâu. - Giá cả không thành vấn đề. Tôi muốn mua những con tốt nhất. Haberth gật đầu, buộc con Hoa Tuyết vào thân cột, rồi lại tường lấy hai bộ yên cương, chất một đống. Sau đó, hắn vào chuồng dắt ra hai con ngựa. Một con sắc hồng, một con lang. Hắn giao sợi dây cột con ngựa hồng cho ông già, nói: - Nó là con tiểu quỉ đó. Nhưng dưới bàn tay cứng rắn của ông thì lại rất tốt. Brom đưa bàn tay cho con ngựa ngửi và nó yên lặng để ông vuốt ve da cổ. - Tôi lấy con này, còn con kia chưa chắc lắm. - Bộ giò của con kia mới ngon lành chứ. - À...còn con Hoa Tuyết thì sao? Hắn âu yếm nhìn con ngựa chiến: - Không bán được. Chưa bao giờ tôi kiếm được một con như nó. Để gây giống chứ. - Nếu ông vui lòng nhượng lại cho tôi, thì giá bao nhiêu? Eragon thử đưa tay chạm vào con ngựa hồng, nhưng con vật tránh đi. Vô tình nó tập trung tư tưởng để trấn an con vật, bỗng nó đờ người kinh ngạc, vì đã giao cảm được với con ngựa hồng. Sự liên lạc không rõ ràng, sắc sảo như với Saphira, nhưng vẫn đủ để con vật biết nó là bạn. Con ngựa đứng yên, mắt ươm ướt nhìn Eragon. Haberth bấm tay tính toán, rồi ra giá: - Hai trăm, không kém. Hắn cười cười tin chắc chẳng ma nào bỏ ra cả đống tiền nhiều đến thế. Nhưng ông Brom lẳng lặng lấy một cọc tiền, đưa ra hỏi: - Được chứ? Gả chủ trại ngựa thẫn thờ hết nhìn đống tiền lại nhìn con ngựa cưng, rồi thở dài, nói: - Nó thuộc về ông, nhưng thật tình tôi ép lòng bán đó. - Tôi sẽ đối xử với nó như nó thuộc giòng giống của Gildintor, con chiến mã lừng danh trong thần thoại. - Nghe ông nói làm tôi cũng vui lòng. Gã hơi cúi đầu, trao yên cương cho khách: - Xin chào. Nhờ có con Hỏa Tuyết, tôi mong quí khách đi đường bằng an. - Ông đừng lo, tôi sẽ chăm sóc nó thật tốt. Nói rồi, ông trao dây cương con Hỏa Tuyết cho Eragon: - Đi xa khỏi Therinsford, chờ ta. - Nhưng tại sao? Ông không trả lời, đi vội về hướng khác. Eragon bối rối đi dọc đường phố Therinsford cùng hai con ngựa. Nơi phía nam, núi Utgart mơ hồ ẩn hiện như một trụ đá khổng lồ tận cùng thung lũng. Đỉnh của nó vút lên, chìm khuất trong mây, sừng sững cao hơn những ngọn núi bao quanh. Vẻ ảm đạm tối tăm của nó làm Eragon rởn da gà. Một lát sau, ông Brom trở lại, ra hiệu cho nó theo. Hai người lẳng lặng đi cho tới hi Therinsford chìm khuất sau những hàng cây, ông già mới lên tiếng: - Chắc chắn tụi Ra'zac đã qua đường này. Rõ ràng chúng đã ngừng lại đây lấy ngựa như chúng ta. Một người đã nhìn thấy chúng, vừa kể lại hắn vừa run lên khiếp sợ, hắn cho ta biết tụi Ra'zac đã phóng ngựa ra khỏi nơi này như ma quỉ chạy trốn thần linh vậy. - Khi ở trong chuồng ngựa, cháu vô tình liên lạc được với con ngựa hồng này. Cháu không ngờ làm được như vậy. - Còn ít tuổi như cháu mà có khả năng đó, thật kỳ lạ. Hầu hết Kỵ Sĩ phải tập luyện nhiều năm mới có thể liên lạc được với bất cứ gì khác, ngoài loài rồng. Ông trầm ngâm ngắm nghía con Hỏa Tuyết, rồi bảo: - Bỏ hết đồ đạc của cháu trong ba lô vào túi yên, rồi buộc chặt ba lô lên trên. Trong khi Eragon thu xếp, ông nhảy lên lưng Hỏa Tuyết. Eragon nhìn con ngựa hồng, nhỏ hơn Saphira đến nỗi Eragon tự hỏi nó có chở nổi mình không? Thở dài, nó vụng về thắng yên. Từ trước tới giờ Eragon chỉ cưỡi ngựa không yên và có bao giờ được cưỡi đi xa đâu. Nó hỏi ông già: - Liệu cháu có bị thương như cưỡi Saphira không? - Vết thương của cháu sao rồi? - Bớt nhiều, nhưng cháu sợ nếu đụng chạm mạnh, khi phóng nhanh, sẽ bị rách lại. - Chúng ta sẽ đi chầm chậm thôi. Chẳng bao lâu cảnh vùng quê dần dần thay đổi, những cánh đồng hoang thay thế ruộng vườn. Cỏ dại, hồng gai tràn lan hai bên đường, móc víu quần áo hai người. Mặt đất lô nhô những tảng đá lớn. Một vùng tràn ngập không khí lạnh lùng ác cảm, như chống lại những người khách không mời. Càng tới gần, núi Utgart càng hiện ra hùng vĩ hơn, những dốc đứng nứt nẻ của nó, hoăm hoắm những rãnh khe đầy tuyết. Màu đá núi đen, hút ánh sáng như bọt biển hút nước, làm cả một vùng chung quanh tối om om. Giữa Utgart và những rặng núi khác, ở phía đông thung lũng Palancar, một lối đi nằm dưới chân những ngọn núi cao thăm thẳm. Đó là lối đi duy nhất ra khỏi thung lũng. Con đường này dẫn đến đó. Vó ngựa lách cách trên mặt đá, đường hẹp lại như một đường mòn khi tiến gần đến chân núi Utgart. Eragon ngước nhìn đỉnh núi mờ mờ trên cao, nó giật mình khi thấy một lầu chuông chon von trên đó. Tuy đã bị đổ vỡ và không được sửa chữa gì, nhưng tháp chuông vẫn như một người lính gác nghiêm khắc nhìn suốt thung lũng palancar. Eragon chỉ tay hỏi: - Cái gì kia hở ông? Ông già không nhìn lên, nhưng buồn rầu, cay đắng nói: - Một tiền đồn của Kỵ Sĩ...một căn cứ tồn tại từ khi họ mới được thành lập. Đó là nơi Vrael ẩn thân, và cũng là nơi ông bị phản bội, rồi bị Galbatorix phát hiện và đánh bại. Edoc'sil, có nghĩa "Bất Khả Chinh Phục", là tên của pháo đài này, vì núi non quá dốc, không kẻ nào có thể lên tới đỉnh, chỉ trừ khi có thể...bay. Sau cái chết của Vrael, dân gian gọi nơi này là Utgart, nhưng nó còn một tên khác nữa, Ristvak'baen, nghĩa là "Núi Tiếc Thương". Tên này tồn tại cho đến Kỵ Sĩ cuối cùng bị nhà vua giết chết. Eragon kinh hãi ngắm nhìn. Đây là dấu tích hiển nhiên về một thuở huy hoàng hiến hách của những trang Kỵ Sĩ, mà thời gian không thể xóa nhòa. Nó bàng hoàng tự hỏi, các Kỵ Sĩ sống bao nhiêu tuổi? Eragon cảm thấy cả một di sản đầy truyền thống hào hùng từ thiên cổ bao trùm lên nó. Hai người đi quanh Utgart suốt nhiều giờ. Khi qua khoảng trống, giữa sườn núi phải, vòi vọi cao như một bức tường thành vững chắc, tách rời khỏi những rặng núi khác, Eragon đứng trên bàn đạp, cố nhìn phong cảnh bên ngòai thung lũng Palancar. Một lát sau hai người tới một con đường dốc, dẫn tới sông Anora. Mặt trời chìm xuống phía sau, hai người mới lên tới một gò cao, có thể ngắm nhìn khung cảnh bao la phía dưới. Eragon giật mình thảng thốt. Hai bên là núi, nhưng phía dưới, đồng hoàng mênh mông trải dài tít tấp tới chân trời. Toàn một màu nâu như cỏ úa. Nó hiểu vì sao ông già khăng khăng mua ngựa. Nếu đi bộ, hai ba tháng trời mới có thể vượt qua được cánh đồng thăm thẳm kia. Tuốt trên bầu trời, Eragon thấy Saphira đang bay vòng vòng, ở độ cao để người ta có thể lầm nó là một con chim. - Ta phải nghỉ lại đây tối nay. Sáng mai mới xuống được, vì từ đây tới dưới kia mất cả ngày trời. - Cánh đồng này rộng cỡ nào, hả ông? - Tùy theo hướng đi. Chúng ta cưỡi ngựa thì mất khoảng ba ngày. Nơi này, ngoài một bộ lạc du mục lang thang trên đồng cỏ, gần như không có dân cư, giống như sa mạc Hadarac vậy. Khó lòng kiếm được một xóm làng. Tuy vậy, càng về miền nam, đất đỡ cằn cỗi hơn, nên dân cư đông đúc hơn. Rời con đường mòn, hai người tới bờ sông Anora. Vừa tháo yên cương, ông Brom vừa chỉ con ngựa hồng, bảo Eragon: - Cháu phải đặt tên cho nó chứ. Nó nghĩ ngợi rồi nói: - Cháu không nghĩ được tên nào hay như con Hỏa Tuyết, nhưng có một tên chắc cũng được. Này, tao đặt cho mày tên Cadoc nhé. Tên của ông ngoại tao đó. Ông già gật đầu đồng ý, nhưng Eragon cảm thấy cái tên hơi kỳ cục. Khi Saphira hạ cánh, Eragon hỏi: "Đồng hoang thế nào?" "Chán chết, toàn là thỏ với mấy bụi cây vớ vẩn." Vừa xong bữa tối, ông già đứng ngay dậy, hét: - Bắt lấy. Eragon chỉ kịp chộp thanh kiếm gỗ suýt bay thẳng vào đầu nó. Biết lại phải tập kiếm, nó rên lên: - Thôi mà. Nhưng địch thủ già của nó cứ vừa cười vừa ngoắc. Eragon uể oải đứng lên. Một già một trẻ quay cuồng quần thảo, tiếng kiếm gỗ vun vút như gió rít, cho đến khi Eragon rút lui với một cánh tay nhức buốt. Bài tập hôm nay ngắn hơn, nhưng cũng đủ cho Eragon lãnh thêm một số "chiến tích" bầm dập mới. Nó đau đớn quăng kiếm xuống đất, tìm chỗ...tự điều trị vết thương. Kinh thiên động địa Sáng hôm sau, toàn thân Eragon ê ẩm, nó không còn muốn nhớ gì đến những sự việc vừa qua, chỉ tập trung suy tính làm cách nào truy lùng và tiêu diệt mấy tên Ra'zac. Mình sẽ dùng cung tên, Eragon quyết định và tưởng tượng hình ảnh hai kẻ giấu mặt kia, khi bị những mũi tên của nó xuyên suốt thân mình. Mỗi cử động nhỏ cũng làm nó đau nhức, Eragon ráng lắm mới đứng dậy nổi. Những ngón tay của nó sưng tấy lên. Lúc sửa soạn tiếp tục lên đường, vừa leo lên con Cadoc, nó vừa nhăn nhó nói: - Nếu cứ tập tành kiểu này, ông đập cháu nát người mất thôi. - Biết cháu đủ mạnh, ta mới mạnh tay vậy chứ. - Cám ơn lời khen. Cháu không ham. Cadoc giẫm chân hốt hoảng khi Saphira lừ lừ tiến tới. Nàng rồng khinh khỉnh liếc con ngựa, bảo Eragon: "Ngoài cánh đồng chẳng còn chỗ nào để núp nữa. Từ lúc này, em sẽ bay loanh quanh trên đầu anh thôi." Nói xong, nó vút bay lên. Hai người bắt đầu cưỡi ngựa xuống con dốc gần như thẳng đứng. Nhiều đoạn họ phải tự mở lối đi, xuống dắt ngựa, bám vào thân cây, lần xuống mới không bị trượt ngã. Trời lạnh ngắt, nhưng chuyến đi cực nhọc làm cả hai nóng toát mồ hôi. Gần trưa mới tới chân dốc để nghỉ chân. Bên trái, dòng Anora xuôi về phương bắc. Gió lồng lộng trên cánh đồng, quất rát mặt hai người. Quang cảnh mênh mông bằng phẳng làm Eragon phát nản, không một chút mấp mô, không một cái gò nho nhỏ. Nó quen sống giữa núi non bao bọc, nơi trống trải này làm nó cảm thấy e dè, như con chuột nhắt dưới con mắt tinh quái của một con diều hâu vậy. Tới cánh đồng, con đường mòn tách ra làm ba nhánh. Một rẽ tới Ceunon, thành phố lớn nhất miền bắc. Một nhánh xuyên thẳng qua cánh đồng. Nhánh cuối cùng dẫn về miền nam. Quan sát cả ba, họ phát hiện dấu vết của những tên Ra'zac đi xuyên qua cánh đồng. Ông già lo ngại nói: - Dường như chúng tới Yazuac. - Yazuac ở đâu? - Cứ thẳng hướng đông bốn ngày thì tới nơi. Đó là một làng nhỏ bên sông Ninor. Như vậy, nguồn nước duy nhất của chúng ta chỉ còn nhờ con sông Anora này. Phải lấy đầy nước dự trữ trước khi băng qua cánh đồng. Từ đây tới Yazuac không hề có sông suối nào nữa đâu. Eragon phấn chấn hẳn vì sắp được săn bắt kẻ thù. Chỉ mấy ngày nữa, nó sẽ sử dụng cung tên để trả thù cho cái chết của cậu Garrow. Và rồi...Không, nó không muốn nghĩ đến những gì xảy ra sau đó. Người, ngựa và rồng xuống sông uống nước, rồi lấy đầy những túi da đựng nước mang theo. Tất cả đều sung mãn tiến qua cánh đồng, hướng tới miền đông. Eragon đổ tại gió làm nó muốn phát khùng lên. Môi nứt nẻ, lưỡi rộp lên, mắt đổ lửa, tất cả đều vì gió. Suốt ngày nó lồng lộn bốc bụi mù trời. Chiều tối, gió còn hung bạo hơn cả ban ngày. Không một nơi khuất gió, họ phải nghĩ lại giữa trời. Eragon nhổ những cây mọc còi cọc trên nền đất khô cằn, cố nhóm lửa, nhưng chỉ làm bốc lên những ngọn khói cay sè mù mịt. Nó bực tức đưa hộp mồi cho ông già Brom: - Gió kiểu này, cháu chịu thua luôn. Ông thử nhóm coi, nếu không được, mình đành ăn đồ nguội vậy. Nhưng ông xoay đủ cách cũng không hơn gì Eragon. Tức giận, ông vừa quẹt lửa vừa rủa lớn: "Brisingr!". Ngọn lửa chợt bùng lên. Trong khi đợi đồ ăn chín, cả hai đều quá mệt, nên chỉ tập vài đường kiếm. Ăn xong, nhờ Saphira nằm kế bên, xoè cánh làm lều, hai người được ngủ yên lành. Buổi sáng, vẫn những cơn gió lạnh hun hút qua cánh đồng. Mỗi khi cười nói, môi Eragon lại bị chảy máu. Ông già Brom cũng không hơn gì nó. Cho ngựa uống nước xong, tất cả lại lên đường. Cuộc hành trình gian khổ như kéo dài vô tận. Ngày thứ ba, Eragon thoải mái thức giấc, vì gió đã lặng. Nhưng niềm hưng phấn của nó lịm dần khi nhìn bầu trời vần vũ mây đen, báo hiệu cơn giông sắp tới. Ông Brom nhìn trời, cau mày nói: - Thường thì ta sẽ không đi trong giông bão thế này, nhưng chúng ta đang bước vào cuộc chiến chưa biết những gì đang xảy ra, vì vậy phải cố đi càng mau càng tốt. Trời yên tĩnh cho đến khi họ đụng độ cơn giông ầm ầm kéo tới. Eragon ngẩng nhìn những đám mây khổng lồ muôn hình muôn dạng trên trời, và khi vừa cúi xuống, một đám mịt mùng, xô rạp cỏ cây, ào ào tiến tới. Ngọn cuồng phong đi sát mái đầu, làm Eragon khiếp đảm thét lên: "Saphira! Xuống!" Mặt ông Brom tái nhợt. Saphira phóng thẳng xuống đất. Chắc nó sẽ không xuống nổi. Một cơn gió phẫn nộ quất thẳng vào người ngựa như búa bổ. Eragon ngộp thở, ghì chặt yên cương. Con Cadoc xoay mình, bờm dựng ngược, châm bám sâu vào đất. Như những ngón tay vô tình, gió xé tan tành quần áo hai người. Những đám mây bụi khổng lồ phủ tối tăm trời đất. Eragon đảo mắt tìm Saphira. Saphira nặng nề hạ cánh, móng vuốt bấu chặt xuống đất. Nó chưa kịp xếp cánh, một cơn gió dữ dội thốc tới, căng đôi cánh ra như cánh buồm và nâng nó lơ lửng trên không một lúc, rồi quăng nó nằm ngửa trên mặt đất. Eragon nghiến răng quay đầu ngựa, thúc Cadoc cả bằng gót chân và ý chí. Nó gào lên: "Saphira! Nằm im đó! Anh tới đây." Tới gần Saphira, Cadoc cố kềm lại để Eragon nhảy xuống. Một cơn gió mạnh đẩy nó ngã sấp xuống đất. Nó trôi đi, khi đứng dậy được, trên da đầy vết trầy xước. Chỉ cách Saphira chừng ba thước, nhưng Eragon không thể đến gần vì những cái vỗ cánh mạnh mẽ, liên tục. Con rồng cố gắng chống lại cơn cuồng phong hung bạo. Eragon đã tới sát được cánh bên phải, nó vừa định kéo cái cánh xuống, một cơn gió lật thân mình Saphira, úp lên Eragon. Những cái gai trên lưng rồng cách đầu nó chỉ một phân. Saphira cào xuống đất, giữ cho thân thăng bằng. Gió lại thổi tung cánh nó lên, nhưng Eragon vừa kịp nhào tới, ôm chặt cánh trái của nó. Saphira xếp chặt cánh trái. Eragon leo lên lưng nó, lần mò sang cánh phải. Một cơn gió bất ngờ lật nó xuống đất. Saphira và Eragon ráng sức chống đỡ. Khi tạm ổn, Eragon vỗ về Saphira, hỏi: "Em không sao chứ?" Saphira run rẩy một lúc mới trả lời: "Em...em nghĩ vậy. Không bị gãy xương nào. Gió khiếp quá, em gần như bất lực." "Đừng sợ nữa. An toàn rồi." Nhìn Cadoc đang đứng quay lại chiều gió, nó phóng tư tưởng bảo con ngựa trở lại chỗ ông Brom. Với Eragon trên lưng, Saphira vừa chống chọi với giông bão vừa bò dần tới con đường. Tiếng ông Brom gào trong gió: - Saphira bị thương không? Eragon lắc đầu, nhảy xuống đất. Vừa vuốt ve con Cadoc, ông già vừa chỉ màn mưa đen kịt đang ào ào đổ tới. Eragon kêu lên: - Lại gì nữa thế kia? Nó nhăn nhó kéo chặt manh áo rách. Những hạt mưa lạnh buốt, rát như kim chích rào rào đổ xuống. Người vật sũng nước, run lập cập. Những tia chớp xé bầu trời, kéo theo những đợt sấm kinh thiên động địa. Cảnh vật vụt hiện vụt mất. Rải rác đó đây, sét xoèn xoẹt đốt cháy từng đám cỏ, rồi lại bị dập tắt ngay bởi cơn mưa rào rạt. Cảnh khủng khiếp giảm dần, rồi cuối ngày, họ không còn biết mình hiện đang ở nơi đâu. Mặt trời chiều rọi những tia nắng vàng rực rỡ, cây cỏ tốt tươi. Tất cả cảnh vật bình thường bỗng mang một vẻ đẹp phi phàm. Eragon cảm thấy như đang được sống trong một bức tranh. Mùi đất hồi sinh tươi mát, trong lành, làm tâm trí mọi người như được gột rửa và trở nên phấn chấn. Saphira vươn cổ, xoãi mình, gầm lên vui sướng làm hai anh ngựa khiếp vía ù té chạy. Eragon và ông già mỉm cười vì thấy cô rồng đã lấy lại sức khoẻ dồi dào. Trước lúc mặt trời lặn, họ tìm chỗ nghỉ qua đêm trong một hố đất nông. Quá mệt mỏi, bỏ buổi tập kiếm, tất cả đều lăn ra ngủ. Sự phát hiện tại Yazuac Mặc dù trong cơn dông tố, họ đã lấy được thêm ít nước dự trữ, nhưng sáng nay họ đã uống hết đến giọt nước cuối cùng. Eragon dốc ngược túi da đựng nước, bảo: - Hy vọng chúng ta đi đúng hướng, nếu không sẽ chết khát vì không tới được Yazuac hôm nay. Ông già điềm nhiên nói: - Ta đã từng đi qua lối này. Xâm xẩm tối chúng ta sẽ nhìn thấy Yazuac. - Làm sao ông biết được, khi bao nhiêu dặm quanh đây trông giống hệt nhau? - Ta không nhìn mặt đất để định hướng, mà nhìn mặt trời và những vì sao, sẽ không thể nào bị lạc đường. Nào đi thôi, Yazuac ở hướng kia kìa. Quả thật ông nói đúng. Saphira thấy Yazuac trước nhất, gần cuối ngày hai người mới nhìn thấy xóm làng như một khối đen, tận chân trời xa xa của đồng hoang bằng phẳng. Lại gần hơn, họ nhận ra một lằn đen uốn mình hai bên thị trấn. Ông già chỉ tay bảo: - Sông Ninor đó. - Saphira sẽ bị phát hiện nếu cứ bay theo chúng ta. Có nên để nó lánh đi khi chúng ta tiến vào Yazuac không ông? - Thấy khúc quanh của dòng sông kia không? Bảo nó chờ ta ở đó, không xa Yazuac lắm. Vào đó, mua xong những gì cần thiết, chúng ta sẽ trở ra gặp lại nó. Nhưng khi Eragon chuyển lại thông tin. Saphira cằn nhằn: "Em không chịu đâu. Trốn tránh miết như một tên tội phạm, bực quá." "Nhưng em biết, nếu bị phát hiện chúng ta sẽ gặp rắc rối chứ?" Ả càu nhàu rồi bay đi là là mặt đất. Càng tới gần, càng thấy rõ hơn những ngọn khói tuôn ra từ những ống khói bếp của những ngôi nhà nhỏ. Không một bóng người ngoài đường phố. Một sự im lặng khác thường bao phủ khắp nơi. Họ ngừng lại ngay khi tới căn nhà đầu tiên. Eragon thì thầm: - Không cả một tiếng chó sủa. Vậy là sao? Phải có người thấy chúng ta rồi chứ? - Đúng vậy. - Nếu thế, vì sao không một ai ra khỏi nhà? - Có thể vì sợ. - Có lẽ vậy. Hay là một cái bẫy? Tụi Ra'zac đang chờ chúng ta? - Cần phải có nước và thực phẩm. - Lấy nước sông Ninor kìa. - Còn thực phẩm? - Dạ, vậy là chúng ta phải tiến lên thôi. - Đúng, nhưng không thể vào một cách ngốc nghếch như vậy được. Đây là con đường chính. Nếu có phục kích, là ngay trên đường này. Không kẻ nào tưởng chúng ta sẽ vào bằng đường nào khác nữa đâu. - Vậy là phải đi đường vòng? Brom gật, rồi rút gươm, giữ ngang yên. Eragon rút tên đặt sẵn lên cung. Hai người lặng lẽ quay ngựa, thận trọng đi vòng thị trấn. Phố xá vắng hoe, chỉ có một con chồn chạy vụt đi, khi ngựa tiến lại gần. Nhà nào cũng tối mù mù đầy vẻ đáng ngờ, với những cửa sổ đập vỡ và những cánh cửa ra vào xộc xệch bám vào những bản lề gãy nát. Eragon cố không gãi bàn tay rần rần ngứa ngáy. Tới giữa trung tâm, nó buộc miệng kêu lên nho nhỏ: "Trời đất!" Một núi xác người chồng chất lên nhau, thân thể cứng ngắc, mặt mày nhăn nhó, áo quần sũng máu. Đàn ông nằm đè lên đàn bà để bảo vệ, những bà mẹ còn ôm chặt con thơ, những đôi tình nhân cố che chắn cho nhau trong vòng tay ôm lạnh lùng của cái chết. Già trẻ, nam nữ đều bị bắn chết bởi những mũi tên đen. Khốn nạn nhất, trên đỉnh núi người, một cây đinh ba đâm suốt thân hình trắng nuốt của một đứa trẻ con. Hình ảnh đó nhòa đi vì nước mắt, Eragon cố quay đi, nhưng những khuôn mặt người chết kia như bắt nó phải nhìn. Nó trừng trừng ngó những đôi mắt mở to mà tự hỏi, sự sống lìa bỏ con người dễ dàng vậy sao? Ý nghĩa của sự tồn tại là gì khi phải chấm dứt như thế này? Niềm tuyệt vọng tràn ngập trong lòng nó. Một con quạ sà xuống, như một bóng ma. Đậu trên ngọn đinh ba, con quạ gật gù khoái trá, rỉa xác đứa trẻ. Eragon căng dây cung, hét lên: - Đồ quỉ kia không được làm thế. Mũi tên xuyên qua ngực, con quạ rớt xuống, lả tả mấy cái lông. Nó vừa định rút mũi tên thứ hai, vội nghiêng mình nôn thốc tháo. Ông Brom, vỗ lưng nó nhẹ nhàng bảo: - Cháu có muốn ra ngoại ô đợi ta không? - Không...cháu ở lại. Kẻ nào có thể làm chuyện này? - Những kẻ khoái nhìn người khác đau đớn, khốn khổ. Chúng có muôn hình vạn trạng, ngụy trang dưới nhiều dáng vẻ khác nhau, nhưng chỉ có một cái tên để gọi chúng: Tội- Ác. Và chúng ta chỉ còn biết xót thương và chôn cất cho những nạn nhân. Ông xuống ngựa, chăm chú quan sát mặt đất, rồi chậm rãi nói: - Ra'zac đã qua đây, nhưng chúng không làm chuyện này. Đây là hành động của lũ quái vật Urgals. Cây đinh ba là vũ khí của chúng. Một số đông, có thể đến một trăm tên...Lạ thật, ta chưa bao giờ thấy chúng tụ tập nhiều đến thế.... Ông quì xuống, quan sát một dấu chân, rồi chạy vội lại con Hỏa Tuyết, thót lên yên. Ông quay đầu ngựa, rít lên: - Phóng ngay! Tụi Urgals còn đây. Eragon thúc con Cadoc lao theo Hỏa Tuyết. Qua khỏi khu nhà, gần tới ngọai ô, Eragon thấy thấp thoáng bên phải nó, một nắm đấm khổng lồ đập nó nhào ngược ra sau, quăng nó vào một vách tường. Tay vẫn nắm chặt cây cung, bàng hoàng đến ngộp thở, nó ráng dựa tường ngồi dậy. Một con quái Urgals, mặt quỉ quyệt, đứng trước nó. Con quái vật cao lớn, to hơn một khung cửa, da xám ngoét, mắt lợn vàng khè. Bắp thịt nó cuồn cuộn trên ngực và cánh tay. Một tấm giáp nhỏ che trước ngực, một mũ sắt nằm giữa cặp sừng dê mọc từ hai bên thái dương, và một khiên tròn bao quanh một cánh tay, tay kia cầm thanh kiếm ngắn. Sau nó, Brom đang gò cương, cho ngựa giật lùi, ngăn tên Urgals thứ hai lăm lăm cây rìu, vứa xuất hiện. Ông kêu lớn, bảo Eragon: - Chạy đi, đồ ngốc. Tên Urgals đứng trướng Eragon gầm lên, vung kiếm. Eragon giật người né tránh, đường kiếm rít sát bên tai. Nó xoay người vụt chạy về hướng trung tâm thành phố, tim đập loạn lên. Con quái thú đuổi theo, tiếng ủng nặng nề đập ình ình trên mặt đất. Eragon tuyệt vọng cầu cứu Saphira, vừa rướn người cố chạy nhanh hơn. Con quái, hừ hự như trâu, hai răng nanh to đùng lòi ra, theo gần sát Eragon. Eragon lắp tên, ngừng lại nhắm, bắn. Con quái nghiêng tay đưa khiên đỡ mũi tên. Nó đâm sầm vào Eragon, cả hai đổ nhào xuống mặt đất. Eragon nhỏm vội dậy, chạy ngược về với ông già. Ông đang chiến đấu ác liệt cùng kẻ thù. Eragon tự hỏi, còn những con quái vật Urgals kia đâu hay chúng chỉ có hai tại đây thôi? Một tiếng vũ khí chạm nhau chát chúa, con Hỏa Tuyết lồng lộn, hí vang. Ông già Brom gục trên yên, cánh tay đầm đìa máu. Con quái thú bên ông, tru lên đắc thắng, vung cao cây rìu. Eragon kêu không thành tiếng, nhào tới tấn công. Con quái sững người kinh ngạc. Rồi khinh miệt nhìn thẳng Eragon hạ lưỡi rìu. Eraong hụp người dưới hai tay cầm rìu của con quái vật, cào mạnh vào sườn nó đến toé máu. Tên Urgals nhăn nhó, điên cuồng tức giận. Nó bổ nhát rìu thứ hai. Eragon phóng sang một bên, bò vội vào một con ngõ nhỏ. Tìm mọi cách để con quái tách khỏi ông già, Eragon len lỏi trong lối đi chật hẹp giữa những ngôi nhà. Nhưng đó là một ngõ cụt. Quay trở ra, hai con quái vật đã lù lù đứng chặn đường. Chúng gừ gừ tiến tới. Eragon nhìn quanh, không còn đường thoát. Đối diện chúng, những hình ảnh thoáng hiện trong đầu Eragon: xác chết dân làng chất đống dưới xác đứa trẻ thơ vô tội, không còn bao giờ được biết tới tuổi trưởng thành. Nghĩ đến số phận thảm thương của họ, một uy lực bừng bừng như lửa cháy khắp người Eragon. Nó hừng hực hơn cả nỗi khát khao đòi hỏi sự công bằng, lúc này toàn thân Eragon là sự chống đối lại cái chết. Uy lực trong nó mạnh thêm, mạnh thêm, cho tới khi nó cảm thấy sắp bị nổ tung ra. Nó đứng thẳng người, không còn chút sợ hãi nào, bình tĩnh giương cung. Hai con quái hềnh hệch cười, đưa khiên lên đỡ. Eragon cúi nhìn tia sáng trong tay, như nó từng làm hàng trăm lần, rồi nhắm thẳng mục tiêu. Nội lực của nó sôi sục đến không còn chịu nổi. Nếu không giảm xuống được, thì chính nó sẽ bị tiêu hủy. Bất ngờ môi nó bật ra một câu, khi nó thả dây cung: - Brisingr! Mũi tên rít trong không khí, vọt đi như một tia chớp màu xanh, cắm phập ngay đầu con quái Urgals đứng trước. Một tiếng nổ lớn vang rền trong không gian. Cơn chấn động màu xanh làm nổ tung đầu cả con quái đứng sau. Con sóng xanh đó tràn qua Eragon, tản mạn qua những ngồi nhà, nhưng nó không hề hấn gì. Thở hổn hển, Eragon đứng nhìn bày tay lạnh như nước đá. Dấu gedwey ignasia sáng rực như sắt nung, đang mờ dần. Ngay lúc nó nắm chặt bàn tay lại, dường như một cơn sóng đang cuốn hết sinh lực nó. Đuối sức như nhiều ngày chưa được ăn gì, đầu gối run lên, Eragon phải dựa vào tường. Những lời chỉ giáo Ngay khi lấy lại được một phần sức lực, Eragon lách qua hai xác Urgals, lảo đảo ra khỏi ngõ. Đi chưa xa, nó đã gặp Cadoc đang chạy tới. - Mày không bị thương là tốt rồi. Vừa nói Eragon vừa vuốt ve con ngựa. Nó chợt nhận ra cử động của nó không bình thường, hai tay run lẩy bẩy. Cảm thấy như tách ra khỏi chính mình, những gì nó thấy dường như đang xảy ra cho một người nào khác. Eragon gặp Hỏa Tuyết đang bứt rứt giậm chân, thở phì phì, hai tay cúp xuống, sẵn sàng bỏ chạy. Ông Brom vẫn còn bất động trên yên. Eragon phóng tư tưởng dỗ dành con ngựa. Sau khi Hỏa Tuyết thư thái, Eragon quay qua với ông Brom. Một vết cắt dài trên cánh tay phải của ông già. Vết thương nhiều máu, nhưng không sâu. Tuy nhiên vẫn cần băng bó trước khi mất máu quá nhiều. Nó vỗ về Hỏa Tuyết một lúc nữa, mới nhẹ nâng ông già khỏi yên. Nhưng nó kinh ngạc vì cảm thấy quá yếu, không nâng nổi, làm ông nặng nề lăn xuống đất. Trong đầu nó vang lên một tiếng kêu giận dữ. Saphira từ trên trời phóng xuống, hung hăng hạ cánh trước mặt Eragon. Mắt nó đổ lửa, rít lên tức tối: "Anh có bị thương không?" "Không." Vừa nói ngay cho Saphira yên tâm, Eragon vừa đặt ông Brom nằm ngửa trên mặt đất. "Những kẻ gây ra chuyện này đâu cả rồi? Em sẽ xé xác chúng nó ra từng mảnh." Eraong chỉ tay về con hẻm: "Chúng chết cả rồi." Saphira kinh ngạc: "Anh giết chúng à?" Eragon vừa tóm tắt những gì xảy ra, vừa tìm kiếm bó vải bọc cây kiếm Zar'rac để trong bao yên. Saphira nghiêm trang nói: "Anh trưởng thành rồi đó." Eragon lấy miếng vải dài, rửa và băng bó vết thương cho ông Brom. Nó nói với Saphira: "Phải chi mình còn ở thung lũng Palancar, anh có thể tìm được những lá thuốc làm lành vết thương. Ở đây, anh chẳng biết phải làm sao." Nó nhặt thanh kiếm của Brom dưới đất, tra vào bao cho ông. Saphira nói: "Mình phải đi khỏi nơi này ngay. Tụi Urgals có lẽ vẫn còn lẩn khuất quanh đây." "Em chở ông Brom được không? Cái yên của em có thể giữ cho ông ấy được vững vàng và em bảo vệ cho ông." "Được. Nhưng em không thể bỏ anh lại một mình." "Không sao. Hãy bay gần anh. Đi thôi." Thắng yên cho Saphira xong, nó ráng nâng ông già lên nhưng không nổi, phải nhờ Saphira. Saphira vươn cổ, ngoặm lưng áo ông, nâng lên, như mèo mẹ tha mèo con, rồi đặt ông lên yên. Eragon ấn chân ông vào bàn đạp và buộc chặt lại. Ông già cựa mình rên nho nhỏ, đặt tay lên đầu Eragon, hỏi: - Saphira tới kịp không? - Cháu sẽ cắt nghĩa sau. Tay ông bị thương, cháu băng kỹ rồi. Nhưng ông cần nơi an toàn để nghỉ ngơi. - Phải, nhưng cháu có thấy kiếm của ta không? À, ta thấy đây rồi. - Saphira sẽ chở ông, bay phía trên cháu. - Ta có thể cưỡi ngựa mà. - Với cánh tay bị thương này thì không được đâu. Trên yên của Saphira, lỡ ông bị ngất cũng không ngã được. Saphira cất cánh. Eragon cột con Hỏa Tuyết sau Cadoc rồi ra khỏi Yazuac, trở lại đường mòn, hướng về phía nam. Qua vùng toàn sỏi đá, rẽ trái, nó tiếp tục đi dọc bờ sông Ninor. Hai bên đường tràn lan cỏ đuôi chồn và đầm lầy. Đi dưới bóng cây mát rượi, Eragon vẫn luôn cảnh giác. Nó chỉ ngừng lại đủ để cho ngựa uống và lấy thêm nước. Nhìn mặt đất, nó thấy còn dấu chân Ra'zac, như vậy là đã đi đúng hướng Saphira bay liệng phía trên, luôn dõi đôi mắt sắc sảo trông chừng Eragon. Điều làm Eragon băn khoăn là nó chỉ thấy hai tên Urgals. Dân làng bị giết và Yazuac bị tàn phá bởi một đám đông, vậy thì chúng đang ở đâu? Hay hai tên mình gặp chỉ là tụi cản hậu, gài bẫy ngăn cản những người truy lùng lực lượng chính? Rồi nhớ lại việc nó giết hai con quái như thế nào. Chẳng lẽ nó, Eragon, một thằng bé nhà quê đã dùng phép thuật? Phép thuật! Đúng. Những gì đã xảy ra chỉ có thể là phép thuật. Thật vô lý, nhưng làm sao nó nghĩ khác được với những gì đã thấy. Bề nào mình cũng đã trở thành một pháp sư hay phù thủy mất rồi. Nhưng nó đâu biết cách sử dụng sức mạnh này lần nữa ra sao? Giới hạn đến đâu? Có nguy hiểm gì không? Vì sao mình có được khả năng này? Đây có phải là chuyện bình thường của một Kỵ Sĩ không? Nếu đã biết chuyện này, sao ông Brom không hề nói cho mình rõ? Nó liên lạc với Saphira để biết tình trạng của ông già và bảo: "Em tìm chỗ nào nghỉ ngơi đi, dưới những tàn cây này anh không thể thấy gì hết." Trời gần tắt nắng, Saphira mới gửi cho Eragon hình ảnh một khoảng đất trống có cây bao bọc chung quanh, bên bờ sông. Nhờ có Saphira hướng dẫn trên không, Eragon thúc ngựa phi nhanh về nơi kín đáo rất khó tìm đến. Eragon tới nơi, đã thấy ông già ngồi bên ngọn lửa nhỏ không tỏa chút khói. Saphira hỏi: "Anh chắc chắn không bị thương chỗ nào chứ?" "Bề ngoài thì không, nhưng chẳng biết có gì trục trặc trong đầu không." "Em sẽ xuống đó ngay đây." "Đừng áy náy. Hôm nay tất cả chúng ta đều có lỗi. Lỗi anh là đã không chịu ở gần em." Nó hỏi ông Brom: - Ông cảm thấy sao rồi? - Vết thương nhức kinh khủng, nhưng sẽ mau lành thôi. Ta cần thay băng. Nó lấy nước sôi, rửa và băng bó lại vết thương. Ăn uống no nê rồi, ông già mồi tẩu thuốc hỏi: - Nào, ông nóng lòng nghe cháu kể lại những gì xảy ra khi ông bị ngất. Nghe Eragon kể xong, ông im lặng trầm ngâm. Một lúc lâu chỉ nghe tiếng lửa reo lách tách. Cuối cùng, ông lên tiếng hỏi: - Đã bao giờ cháu sử dụng sức mạnh này chưa? - Chưa. Ông có biết gì về chuyện này không? - Có, một chút. Ta đã nợ cháu ơn cứu mạng, mong có ngày ta đền đáp lại. Nhưng cháu phải lấy làm hãnh diện, vì hiếm người thoát khỏi nanh vuốt của Urgals. Tuy nhiên, hành động của cháu là rất nguy hiểm. Cháu có thể làm chính cháu và cả thành phố nổ tung. - Cháu đâu còn lựa chọn nào khác. Nếu cháu không hành động kịp, chúng băm cháu nát vụn ra rồi. - Cháu không rõ cháu đang làm gì đâu. - Vậy ông cho cháu biết đi. Cháu không thể nào hiểu nổi điều bí hiểm này. Chuyện gì đã xảy ra? Tại sao cháu lại có khả năng sử dụng phép thuật? Chưa hề có ai hướng dẫn hay dạy cháu đọc thần chú. - Không phải chuyện cháu được dạy hay không, mà là....không nên sử dụng nhiều.... - Nhưng cháu đã sử dụng rồi, và còn có thể sử dụng nữa để chiến đấu. Tuy nhiên cháu không thể làm được, nếu ông không giúp cháu. Tại sao vậy? Có gì bí mật, phải đợi khi cháu lớn hơn mới biết được sao? Hay ông không biết gì về phép thuật hết? - Đừng khích ta. Những gì cháu muốn biết phức tạp hơn cháu tưởng nhiều. Eragon nóng nảy: - Cháu cảm thấy như bị đẩy vào một thế giới đầy những qui luật lạ lùng, mà chẳng ai cắt nghĩa cho cháu biết. - Ta hiểu. Trễ rồi, nên đi ngủ thôi. Tuy nhiên ta cho cháu biết ngay vài điều bây giờ để cháu cảm thấy dễ chịu hơn. Phép thuật này, vì đúng là cháu đã sử dụng phép thuật, có những qui luật riêng cũng như mọi chuyện khác trên đời này. Nếu cháu phá luật lệ, hình phạt sẽ là cái chết, không có điều ngoại lệ. Hành động của cháu tùy thuộc vào sức lực, những từ ngữ cháu biết và trí tưởng tượng của cháu. - Từ ngữ là sao? - Khi cháu bắn tụi Urgals, cháu không nói gì sao? - Dạ có. Brisingr. Ngọn lửa bếp chợt bùng lên. Eragon rùng mình, hình như câu nói làm nó thêm nguồn lực. Brom bảo: - Ta cũng đã nghĩ vậy. Brisingr là một cổ ngữ rất thông dụng, nhưng đã bị lãng quên và không được sử dụng tại Alageasia từ nhiều thế kỷ, cho tới khi các thần tiên vượt đại dương tới nơi này. Họ dạy ngôn ngữ này cho những nòi giống khác. Nếu tìm hiểu, cháu sẽ thấy ngôn ngữ cổ này đều có tên riêng để gọi từng sự vật. - Nhưng nó có liên quan gì tới phép thuật? - Nó liên quan tới tất cả mọi thứ. Đó là căn nguyên của tất cả mọi sức mạnh. Nó diễn tả bản chất thật sự của mọi sự vật, không đơn giản, thô thiển như con người nhìn thấy. Thí dụ, Brisingr không chỉ là tên gọi lửa, mà chính là lửa. Nếu cháu đủ mạnh, cháu sử dụng từ brisingr, để điều khiển lửa làm theo ý cháu. Và điều đó đã xảy ra hôm nay. - Tại sao lửa lại có màu xanh? - Màu sắc thay đổi theo người kêu lên tên đó. Tại sao lửa làm theo ý cháu, đó là vấn đề luyện tập. Đa số người mới tập phải hô thần chú chính xác những điều muốn sử dụng. Khi có đầy đủ kinh nghiệm, điều đó không cần thiết nữa. Một bậc thầy thật sự chỉ cần nói "nước", là có thể tạo ra một vật không liên quan gì tới nước, như một viên ngọc chẳng hạn. Cháu không thể nào hiểu nổi, vì sao ông ta làm được điều đó, nhưng nên nhớ bậc thầy đó có thể nhìn thấy mối liên quan giữa nước và ngọc, và sử dụng như một tiêu cự cho sức mạnh của ông ta thôi. Sự luyện tập là một nghệ thuật khó khăn vô cùng. Saphira truyền ý nghĩ sang Eragon: "Brom là một pháp sư. Vì vậy ông ta mới nhóm lửa được trên cánh đồng trong cơn bão đó. Không những hiểu biết, ông ta còn sử dụng được phép thuật, đúng không?" "Em nói đúng." "Hỏi ông ta về sức mạnh của phép thuật đi. Nhưng thận trọng lời nói. Chọc giận mấy tay có phù phép, chẳng hay hớm gì đâu. Biết đâu chừng, ông ta là phù thủy hay yêu tinh thì sao. Đâu có ai biết lý do ông ta tới ở hẳn tại Carvahall là gì." Eragon thận trọng nói: - Cháu và Saphira chợt nhớ ra là ông có thể sử dụng phép thuật. Vì vậy ông mới nhóm được lửa hôm đầu tiên chúng ta tới đồng hoang. - Ta.....biết chút đỉnh thôi. - Vậy tại sao ông không dùng phép chống lại tụi Urgals? Thật ra, cháu nhớ lại nhiều lần, ông có thể dùng khả năng đó, như che chắn cho chúng ta khi trời bão, không cho mây bụi lại gần làm mù mắt chúng ta.... - Lý do đơn giản, vì ta không phải là một Kỵ Sĩ, có nghĩa là ngay cả khi cháu yếu nhất, cháu vẫn còn mạnh hơn ta. Và...ta đã qua thời trẻ trai rồi, không còn mạnh như xưa nữa. Mỗi khi dùng phép thuật, lại thêm chút khó khăn. - Cháu xin lỗi. - Không sao. Chuyện đó xảy ra cho tất cả mọi người mà. - Ông đã học phép thuật ở đâu? - Đó là điều ta muốn giữ trong lòng. Ta chỉ có thể cho cháu biết. Đó là một chốn hoang vu và ta đã được một sư phụ đại tài truyền dạy. Dù chỉ là rất ít, nhưng ta đã lãnh hội được một số bài dạy của thầy. Thôi, dù biết cháu còn thắc mắc nhiều điều, nhưng để sáng mai ta nói tiếp. Ông nghiêng người, mắt sáng lên nhìn nó: - Nhưng ta phải cho cháu biết một điều: phép thuật làm cháu tiêu hao nội lực rất nhiều. Đó là lý do tại sao cháu cảm thấy đuối sức sau khi hạ hai con quái Urgals. Và đó cũng là lý do ta tức giận cháu. Cháu đã quá liều lĩnh. Phép thuật sử dụng quá nội lực trong cơ thể, sẽ giết chết cháu. Chỉ dùng phép thuật khi gặp những trường hợp không thể giải quyết bằng cách của thế gian thôi. Eragon lo sợ hỏi: - Làm sao biết được một câu thần chú có thể làm tiêu hao hết nội lực của mình? - Thường là không thể biết được. Do đó mà người sử dụng phép thuật phải biết rõ giới hạn. Một khi đã phóng ra, không thể nào thu hồi lại, dù luồng nội lực đó sẽ gây ra cái chết cho ta. Ý ta muốn cảnh giác cháu trước khi học hỏi để hiểu biết hơn, đừng cố làm bất cứ gì liên quan tới phép thuật. Thôi, đêm nay như vậy là đủ rồi. Khi dọn chỗ ngủ, Saphira hí hởn truyền ý nghĩ cho Eragon: "Chúng ta đang mạnh lên, cả anh và em. Không bao lâu nữa, chẳng kẻ nào cản đường nổi anh em mình." "Phải, nhưng chúng ta sẽ chọn đường nào đây?" "Bất cừ đường nào chúng ta thích." Phép thuật là điều đơn giản nhất Đang đi, Eragon chợt hỏi: - Sao ông lại biết hai con quái vật Urgals vẫn còn tại Yazuac kho đó? Dường như đâu có lý do gì để chúng ở lại nữa đâu? - Ta ngờ là chúng đã rải toán chính đi cướp phá thành phố. Nhưng điều kỳ lạ là, theo ta được biết Urgals mới chỉ tụ tập đơn vị hai ba lần trong lịch sử. Hành động của chúng lần này có vẻ bất thường. - Ông có nghĩ tụi Ra'zac là nguyên nhân gây ra vụ tấn công này không? - Ta không biết. Điều tốt nhất bây giờ là hãy tiếp tục tránh khỏi Yazuac càng xa càng tốt. Ngòai ra, hướng nam này chính là nơi Ra'zac đã đi qua. - Mình vẫn cần lương thực. Gần đây có làng phố nào không, ông? - Không, nhưng Saphira có thể săn mồi. Cháu thấy rừng cây nhỏ thế kia, nhưng đầy muông thú đấy. Con sông này là nguồn nước duy nhất của vùng đất nhiều dặm quanh đây, vì vậy hầu hết thú trong cánh đồng này tụ về đây uống nước. Chúng ta sẽ không đói đâu. Quả vậy, trên đường họ đi qua, chim chóc ríu rít, rào rào bay liệng dập dìu và dòng sông êm đềm chảy. Đúng là một nơi huyên náo, đầy sức sống. Eragon hỏi: - Mọi chuyện lúc đó xảy ra nhanh quá, cháu không biết tên Urgals kia đã làm gì ông? - Nó đá Hỏa Tuyết, con ngựa ngốc này lồng lên, lùi lại làm ta lảo đảo. Chỉ chờ có thế, nó tặng ta vết thương này. Ta biết cháu vẫn còn thắc mắc về phép thuật. Rất ít người biết rằng, tất cả Kỵ Sĩ đều có thể sử dụng phép thuật, nhưng với cường độ khác nhau. Họ giữ bí mật khả năng này, như vậy sẽ có lợi thế với kẻ thù. Và, nếu mọi người đều biết, việc giao dịch với dân gian sẽ bị khó khăn. Nhiều người cho rằng, nhà vua phép thuật cao cường như vậy, do ông ta là phù thủy hay yêu tinh. Không đúng, ông ta là một Kỵ Sĩ. - Khác nhau ở chỗ nào? Chứ không phải, cháu dùng phép thuật, cháu sẽ trở thành một phù thủy hay yêu tinh sao? - Hoàn toàn không đúng. Một yêu tinh, như Tà Thần, dùng âm binh để thi hành mệnh lệnh của hắn. Khác hẳn với sức mạnh của cháu. Phép thuật cũng không thể làm cháu thành một pháp sư, những kẻ không cần sự trợ giúp của âm binh hay một con rồng. Và chắc chắn cháu không thể là một phù thủy, sức mạnh của họ là thảo dược và thần chú. Những chuyện này lại làm ta nghĩ đến vấn đề cấp bách của cháu. Đúng ra, một Kỵ Sĩ trẻ như cháu, phải được đưa vào một đơn vị huấn luyện nghiêm túc, để tăng sức mạnh thể lực và tinh thần. Khóa huấn luyện này kéo dài nhiều tháng, có thể là nhiều năm, cho tới khi các Kỵ Sĩ thấy đã đủ khả năng, trách nhiệm sử dụng phép thuật. Suốt thời gian học, không học viên nào được cho biết về sức mạnh tiềm ẩn của mình. Nếu học viên nào vô tình khám phá ra phép thuật, sẽ bị tách ra để huấn luyện riêng. Hiếm khi có người tự khám phá ra phép thuật. Mặc dù họ chưa bao giờ bị đặt dưới một áp lực nặng nề như cháu. - Vậy thì sau cùng họ được huấn luyện ra sao để biết cách sử dụng phép thuật? Hai hôm trước, nếu ông có dạy, chắc cháu cũng sẽ chẳng hiểu gì hết. - Học viên sẽ phải làm hàng loạt bài tập vô ý nghĩa, cốt làm cho họ nản chí. Thí dụ, phải cuốc bộ, di chuyển hàng đống đá tảng, hay đổ nước cho đầy những thùng gỗ rò rỉ....và nhiều điều vô lý khác nữa. Nếu cháu đụng nhằm những kẻ thù đã từng được đào tạo như vậy, quả là điều bất lợi. Vì họ là những kẻ rất kiên trì. Không kể các thần tiên, trong số họ vẫn còn người đang sống tới tận bây giờ, như nhà vua là một. Bất cứ ai trong đám họ cũng có thể nhẹ nhàng xé xác cháu ra lập tức. - Vậy cháu phải làm sao đây? - Không còn đủ thời gian học cho bài bản nữa, nhưng chúng ta sẽ cố gắng thật nhiều dọc đường đi. Ta biết một số phương pháp, cháu có thể tập luyện sức khoẻ và sự bình tĩnh, tự kiểm soát bản thân. Nhưng cháu không thể học tập suốt đêm như những Kỵ Sĩ xưa kia được. Cháu sẽ... Ông nhìn Eragon đầy hài hước: - Cháu sẽ thâu lượm kiến thức trên đường chạy. Lúc đầu sẽ có khó khăn, nhưng kết quả sẽ rất lớn. Nói để cháu mừng, không một Kỵ Sĩ nào ở tuổi cháu, sử dụng phép thuật được như cách cháu làm hôm qua với hai con quái kia đâu. Eragon toét miệng cười vì lời khen: - Cám ơn ông. Ngôn ngữ này có tên gọi không, hả ông? - Có chứ, nhưng không ai biết. Có thể là một từ để chỉ một sức mạnh khó tin, nó có thể điều khiển cả những người sử dụng ngôn ngữ đó. Từ lâu người ta đã từng nghiên cứu, nhưng vẫn chưa tìm ra sức mạnh của nó. - Cháu vẫn chưa hiểu phép thuật hoạt động thế nào? Chính xác thì cháu đã làm gì để được như vậy? - Để dùng phép thuật, cháu phải có một sức mạnh thiên bẩm. Một điều mà ngày nay hiếm người có được. Cháu phải tập trung sức mạnh này bằng ý chí. Khi đã tập trung được, cháu phải sử dụng hoặc giải tỏa nó đi. Khi đọc thần chú bằng cổ ngữ, phảp biết từ chính xả để diễn tả ý định ý định của mình. Thí dụ như hôm qua, nếu cháu không đọc "Brisingr" thì đã không có gì xảy ra. - Vậy là cháu bị giới hạn ngôn ngữ cổ này. - Chính xác. Một điều cần phải nhớ, khi sử dụng ngôn ngữ này, không được giả dối. - Khó quá. Người ta luôn giả dối, ngay cả âm thanh cổ ngữ cũng chẳng thể làm con người bớt giả dối được. Ông già nháy mắt, tuôn một tràng: - Ferthblaka, eka weohnata néiat haina onno. Blaka eom iet lam. Con chim đang đậu trên cành bỗng sà xuống, đậu trên tay ông. Nó hót nho nhỏ và nhìn hai người bằng đôi mắt như hai hột cườm. Một lát sau, nghe ông nói "Eitha", con chim bay vụt đi. Eragon ngơ ngác hỏi: - Sao ông làm được vậy? - Ta hứa không làm hại nó. Có thể nó không hiểu chính xác từng lời, nhưng trong ngôn ngữ của sức mạnh, rõ ràng đã ẩn chứa ý định của ta. Com chim tin tưởng ta, vì nó biết tất cả loài vật khác cũng tin rằng, những ai sử dụng ngôn ngữ này đều trung thực. - Các thần tiên nói ngôn ngữ này? - Đúng. - Vậy là họ không bao giờ nói dối? - Không hoàn toàn như vậy. Tuy họ nhất định bảo rằng không bao giờ dối trá, nhưng họ có một nghệ thuật hoàn hảo trong cách nói...bóng gió, nói điều này để ám chỉ điều kia. Không bao giờ người ta hiểu chính xác ý định của họ. Thường thì họ chỉ hé lộ một phần sự thật thôi. Những người khôn ngoan, tinh tế mới có thể giao du cùng họ. - Trong ngôn ngữ này những tên riêng có ý nghĩa gì không? - Những người nói thứ tiếng này đều có hai tên. Một tên để gọi hàng ngày, không quan trọng. Tên thật chỉ dành cho những người thân tín. Kẻ nào biết tên thật của cháu, sẽ chiếm được quyền hành vô hạn với cháu. Chẳng khác nào đặt sinh mạng vào tay người khác vậy. Mọi người đều giấu tên thật, chỉ vài người được biết mà thôi. - Làm cách nào để biết tên thật của mình? - Không ai có khả năng đó, ngoài những thần tiên. Các Kỵ Sĩ từng dày công khám phá, hoặc nhờ một thần tiên chỉ dẫn. Nhưng hiếm có thần tiên nào chịu chia xẻ sự hiểu biết này. - Cháu muốn biết tên thật của mình. - Hãy thận trọng. Có thể đó chỉ là một tai họa khủng khiếp. Chưa ai được yên ổn khi phát hiện ra mình là ai. Có người điên loạn khi biết được sự thật trầm trọng về mình. Hầu hết đều cố quên đi điều đã biết. Nhưng cái tên cũng đem lại quyền uy, sức mạnh cho nhiều người. Nếu sự thật không đánh gục cháu, có thể cháu sẽ đạt được quyền uy, sức mạnh vì tên riêng của cháu. Saphira nhận xét: "Em bảo đảm anh chẳng bị sao đâu." Eragon cả quyết nói: - Cháu vẫn cứ muốn được biết. - Cháu cứng đầu thật. Nhưng ai chẳng mong được biết tông tích của mình? Có điều là ta lại không giúp được gì cho cháu trong chuyện này. Cháu phải tự tìm hiểu. Ông nhăn mặt, nhúc nhích cánh tay bị thương. Eragon hỏi: - Sao ông cháu mình không chữa lành vết thương này bằng phép thuật? - Chẳng có lý do nào cả. Ta chỉ không bao giờ nghĩ đến chuyện đó, đơn giản là vì ta không đủ sức. Với một câu thần chú, cháu chắc sẽ làm được điều đó, nhưng ta không muốn cháu mất sức. Ta có thể chịu nổi. Dùng phép thuật chữa vết thương rất tốn hao nội lực, mà ta thì không muốn cháu bị mỏi mệt trong những ngày sắp tới. - Nếu cháu có thể chữa lành được vết thương cho ông, liệu cháu có thể làm một người chết sống lại không? Câu hỏi làm ông hết hồn, vội trả lời: - Chớ làm vậy. Còn nhớ những vấn đề ông nói là có thể giết chết cháu không? Việc cháu vừa hỏi là một đó. Vì an toàn bản thân, các Kỵ Sĩ đã phải bỏ qua chuyện cải tử hoàn sinh này. Phép thuật không thể vượt quá giới hạn thăm thẳm của sự sống được. Nếu cháu phạm vào điều này, sức lực cháu sẽ tiêu tan, linh hồn cháu sẽ biến vào u tối. Yêu tinh, phù thủy, Kỵ Sĩ....tất cả đều chết vì thất bại ngay từ bước đầu. Hãy gắn bó với những gì có thể, như vết cắt, vết sưng, có thể cả xương gãy; nhưng dứt khóat không dính vào người chết. - Cháu đâu ngờ rắc rối quá vậy. - Nếu cháu không biết mình phải làm gì, còn rắc rối lớn hơn và bị chết. Ông nghiêng mình, bốc một nắm đá cuội trên mặt đất. Ráng sực ngồi ngay ngắn lại trên yên, ông lựa một viên, đưa cho Eragon nói: - Đây là bài tập của cháu. Nhìn viên đá đen bóng, bằng đầu ngón tay cái nó, Eragon ngẩng mặt: - Cháu không hiểu. - Tất nhiên cháu không hiểu. Bây giờ yên lặng nghe. Ta muốn cháu đẩy viên đá bổng lên khỏi bàn tay, giữ nó đứng im trên không càng lâu càng tốt. Câu thần chú sẽ là "Stenr reisa". Nói đi. - Stenr reisa. - Tốt. Bắt đầu thử đi. Eragon tập trung nhìn viên đá, tâm trí lục lọi chút dấu hiệu nội lực đã hừng hực trong nó hôm qua. Toát cả mồ hôi, nhưng viên đá vẫn trơ trơ im lìm trên bàn tay, nó nhăn nhó nói: - Không được đâu. - Được hay không ta sẽ cho cháu biết. Hãy chiến đấu với nó. Đừng bỏ cuộc dễ dàng thế. Thử lại đi. Eragon nhắm mắt, tập trung tư tưởng. Nó hít thật sâu, chìm vào tiềm thức, cố tìm sức mạnh của nó ẩn trú nơi nào. Nó chỉ thấy những ý nghĩ, kỷ niệm rời rạc, rồi nó cảm thấy một sự khác lạ, một khoảng trống nhỏ, là một phần như thuộc về nó, mà lại như không phải. Tiến sâu vào khoảng trống đó, nó cảm thấy như có sự chống cự, có một rào cản, nhưng nó biết sức mạnh nằm trong đó. Nó càng cố xâm nhập, rào cản như càng vững chãi hơn. Tức giận, nó cố thu hết ý chí để xuyên qua, cho đến khi rào cản vỡ ra như tấm kính mỏng, ánh sáng tràn đầy tâm trí nó. Eragon hổn hển: - Stenr reisa. Viên đá nhè nhẹ lắc lư, nâng mình khỏi bàn tay mờ mờ phát sáng của Eragon. Nó cố gắng giữ viên đá lơ lửng trong không gian, nhưng khí lực thoát trở lại vào khoảng trống. Viên đá rơi xuống bàn tay và bàn tay nó trở lại bình thường. Ông già lên tiếng: - Lần đầu được vậy là không tệ. - Tại sao tay cháu làm được thế? Cứ như một cây đèn lồng vậy. - Không ai biết rõ điều này. Các Kỵ Sĩ đều tận dụng sức mạnh khi có được dấu hiệu Bàn Tay Phát Sáng. Cháu có thể sử dụng tay kia, nhưng không dễ dàng đâu. Tới thành phố gần nhất, ta sẽ mua cho cháu một đôi găng. Tuy cháu có thể tự che giấu, nhưng không nên vô tình để người khác nhìn thấy. Ngoài ra, nhiều khi ánh sáng đó có thể làm kẻ thù cảnh giác. - Tay ông có dấu hiệu đó không? - Không. Chỉ Kỵ Sĩ mới có. Cháu cũng nên biết thêm một điều, phép thuật còn ảnh hưởng theo khoảng cách giống như mũi tên hay một ngọn giáo vậy. Cháu muốn nâng hay di chuyển một vật ở xa, sẽ phải dùng nội lực nhiều hơn. Vì vậy, nếu kẻ thù đuổi theo, còn cách cháu cả dặm, đợi chúng lại gần hãy dùng phép thuật. Nào, trở lại công việc. Nâng viên đá lên. - Nữa ạ? - Đúng vậy. Và lần này phải nhanh hơn. Bài tập lặp di lặp lại suốt ngày hôm đó, làm Eragon chán nản đến ghét viên đá. Tập xong, nó vừa định ném viên đá thật xa, nhưng ông già ngăn lại: - Đừng. Giữ lại. Cháu chưa thuần thục, sẽ còn phải tập tiếp. Eragon miễn cưỡng nhét viên đá vào túi áo. Ông chỉ tay vào một cây nhỏ, nói: - Cây này gọi là delois. Và, cứ thế, ông dạy cổ ngữ cho Eragon, từ vondr là cái que, đến Aiedail là sao mai. Chiều tối họ lại luyện kiếm. Tuy đấu bằng tay trái, tài nghệ của ông già không hề sút giảm. Những ngày tiếp theo họ vẫn tiếp tục vừa đi vừa học cổ ngữ và điều khiển viên đá. Chiều tối luyện tập bằng đôi kiếm giả. Eragon luôn nhăn nhó bực bội, nhưng dần dần tính nết thay đổi hẳn mà không hề hay biết. Chẳng bao lâu, viên đá đã vọt khỏi bàn tay và đứng lặng thật lâu trên không. Ông Brom cho nó những bài tập khó khăn hơn và sự hiểu biết về cổ ngữ của Eragon tiến triển rất nhiều. Trong những lần luyện kiếm, Eragon đã tỏ ra tự tin, nhanh nhẹn, luồn lách như một con rắn. Những đường kiếm tung ra mạnh mẽ và cánh tay không còn run rẩy khi đỡ đòn. Những chiêu chống lại địch thủ kéo dài hơn. Bây giờ, sau mỗi buổi tập, không chỉ riêng Eragon bị mang thương tích. Saphira vẫn tiếp tục lớn, nhưng lớn chậm hơn trước. Những chuyến bay xa hơn, và những buổi đi săn theo định kỳ làm nó thêm cường tráng. Nó đã cao hơn hai con ngựa và thân mình dài hơn nhiều. Vì kích thước quá khổ và bộ vảy lóng lánh nên nó rất dễ bị phát hiện. Ông già và Eragon lo ngại, nhưng không thuyết phục cô ả để cát bụi che bớt bộ da sáng ngời. Theo dấu vết Ra'zac, họ tiếp tục đi về phương nam. Eragon tức giận vì dù đi nhanh đến thế nào, tụi Ra'zac vẫn tiến trước họ mấy ngày. Nhiều khi nó chán nản, muốn bỏ cuộc, nhưng lại có những dấu vết làm họ tràn trề hy vọng. Càng ngày, họ càng không yên tâm, vì dọc sông Ninor không hề có dấu vết dân cư. Sau cùng, họ đã đến gần Daret, ngôi làng đầu tiên từ khi ra khỏi Yazuac. Đêm trước hôm tiến vào làng, giấc mơ của Eragon y như thật: Nó thấy cậu Garrow và anh Roran đang ở nhà ngồi trong căn bếp đổ nát. Hai người yêu cầu Eragon phụ giúp xây dựng lại trang trại. Nhưng nó chỉ lắc đầu, lòng đau như cắt. "Cháu đang phải truy lùng những kẻ đã giết cậu.", nó thì thầm. Cậu Garrow lườm nó: "Trông ta giống một người chết lắm sao?" "Cháu không thể giúp cậu được." Nó ứa nước mắt nói. Một tiếng gầm đột ngột vang lên, cậu nó biến thành một tên Ra'zac. Hai cha con nhảy tới nó, rít lên: "Vậy thì ngươi phải chết." Nó tỉnh dậy, rầu rĩ ngắm những vì sao đang chầm chậm trôi trên bầu trời. Bên nó, Saphira dịu dàng bảo: "Tất cả rồi sẽ tốt đẹp thôi, cậu bé." Làng Daret Daret nằm trên bờ sông Ninor. Ngôi làng nhỏ, trông hoang vằng, không hề có dấu vết dân cư. Hai người thận trọng tiến vào, trong khi Saphira bay gần làng, nếu có chuyện xảy ra, nó sẽ kịp thời có mặt. Cố không gây tiếng động khi cưỡi ngựa ngang những ngôi nhà lặng ngắt, ông Brom ghì chặt kiếm, Eragon thủ sẵn cung tên. Hai người nhìn nhau đầy lo ngại. Eragon thông tin cho Saphira: "Nơi này coi bộ hắc ám quá!" Saphira không trả lời, nhưng nó cảm thấy cô ả đang bay vọt lại gần. Nhìn mặt đất, Eragon yên tâm hơn vì thấy những dấu chân trẻ con. Nhưng chúng đâu cả rồi? Vào tới trung tâm vẫn không một bóng người. Gió hun hút cuốn bụi mịt mù khắp nơi. Ông già quay đầu ngựa bảo: - Ra khỏi đây ngay, ta không yên tâm một chút nào. Eragon thúc Cadoc vọt theo. Nhưng mới được vài bước, từ những ngôi nhà, hàng lọat xe ào ra, chặn ngang đường. Cadoc kềm bốn vó, thở phì phì, trượt trên mặt đất. Một gã đen nhẻm, hông đeo kiếm, tay cầm cung, nhảy từ trên xe xuống trước mặt hai người. Eragon vội đưa cung lên nhắm. Gã kia quát lên: - Đứng im. Bỏ vũ khí xuống. Các người đang bị sáu mươi xạ thủ bao vây. Nhúc nhích là bị bắn ngay. Như một khẩu lệnh, gã vừa dứt lời, hàng dãy người xuất hiện trên những mái nhà chung quanh. Eragon kêu thầm: "Tránh xa ra, Saphira. Chúng đông lắm. Em xuống là bị bắn ngay." Không chắc ả chịu vâng lời, nó nói thêm: "Anh sẽ chặn những mũi tên trước khi chúng chạm được tới anh và ông già." Nó tính sẽ dùng phép thuật. Ông Brom bình tĩnh nói: - Các ông muốn gì? - Ông tới đây làm gì? - Mua thực phẩm và hỏi thăm tin tức. Chúng tôi trên đường đến nhà một người bà con ở Dras- Lona. - Sao trang bị vũ khí khiếp thế? - Thì các ông cũng vậy. Thời buổi nguy hiểm mà. - Đúng vậy. Tôi thấy ông không phải là loại người làm hại chúng tôi, nhưng chúng tôi phải đụng độ quá nhiều với Urgals và trộm cướp, làm sao tin được lời nói của ông. - Nếu không có gì phiền, ông có thể cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra tại đây không? - Ông bảo chỉ cần tiếp tế? Ông có đồng ý đứng chờ tại đây, nhận hàng xong, trả tiền rồi đi ngay không? - Rất đồng ý. - Vậy thì được. Hắn hạ cung, vẫy một xạ thủ đến gần, nói với ông Brom: - Cho anh ta biết ông cần gì. Brom đọc một số lương thực và nói thêm: - Nếu các ông có đôi găng nào vừa tay cháu tôi thì tốt quá. Người xạ thủ gật đầu, chạy đi. Người đàn ông nói: - Tôi là Trevor. Đúng ra tôi phải bắt tay ông, nhưng trong hoàn cảnh này tôi phải giữ khoảng cách. Ông từ đâu đến đây? - Miền bắc. Nhưng chúng tôi chẳng ở nơi nào đủ lâu để có thể gọi là nhà được. Tụi Urgals đã đẩy các ông đến những cảnh giác này sao? - Phải, nhưng còn những kẻ tàn ác hơn vậy nữa. Ông có tin tức gì những nơi khác không? Ở đây chúng tôi mù mịt lắm, nhưng cũng nghe tin nhiều nơi bị bao vây. - Gần hai tuần trước, chúng tôi đi qua Yazuac, nơi đó đã bị tàn phá, dân làng bị giết chất thành đống. Chúng tôi chưa kịp chôn cất họ thì bị hai con quái Urgals tấn công. Giật thót người, Trevor lùi lại, ứa nước mắt: - Than ôi, thê thảm quá! Nhưng tôi vẫn không hiểu vì sao chỉ có hai tên Urgals mà tàn sát được cả dân làng Yazuac. Họ là những chiến sĩ dũng cảm, có mấy người là bạn của tôi. - Có những dấu hiệu cho thấy chúng đông lắm. Hai tên tôi gặp có thể chỉ là những kẻ đào ngũ. - Chúng đông cỡ nào? - Đông đủ tiêu diệt Yazuac và đủ để tản mát kịp thời. Không hơn một trăm, không dưới năm chục tên. Nếu tôi không lầm, số đó sẽ làm các ông khốn khổ. Các ông nên tính toán rời khỏi đây đi. Vùng này quá nguy hiểm. - Tôi hiểu, nhưng dân làng này không nghĩ đến chuyện bỏ đi. Đây là nhà của họ, cũng như của tôi, dù tôi mới về đây chưa được bao lâu. Chúng tôi quí nơi này hơn mạng sống. Chúng tôi đẩy lui được mấy tên Urgals lẻ tẻ, chuyện này làm dân làng có một niềm tin quá với thực lực của mình. Tôi sợ, có ngày tất cả thức dậy đều bị cắt cổ ráo rồi. Người xạ thủ trở lại với một ôm hàng tiếp tế. Brom trả tiền và khi anh ta ra khỏi, ông hỏi Trevor: - Vì sao ông được họ chọn để bảo vệ Daret? - Tôi đã đi lính cho nhà vua mấy năm. Brom đưa đôi găng tay cho Eragon, rồi chất hàng lên bao yên. Eragon cẩn trọng úp bàn tay khi đeo găng. Ông Brom bảo: - Bây giờ, đúng như đã hứa, chúng tôi đi. - Khi tới Dras- Leona, ông làm ơn giúp tôi một việc được không? Xin ông báo động cho triều đình biết tình trạng của chúng tôi và những nơi khác. Nếu tin tức không đến được triều đình lúc này, sẽ là một mối lo lớn, nhưng nếu, nhận được tin mà triều đình làm ngơ, còn khốn nạn hơn. - Chúng tôi sẽ làm theo ý ông. Chúc những lưỡi kiếm của các ông luôn sắc bén. - Chúc ông cũng được như vậy. Những xe chặn đường được kéo ra. Hai người đi khỏi Daret, tiến vào khu rừng dọc sông Ninor. Eragon thông báo cho Saphira: "Anh đang trên đường đi. Mọi chuyện đều tốt đẹp." Rõ ràng cô ả tỏ ra rất bực mình. Brom vuốt râu, nói: - Triều đình gặp khó khăn hơn ta tưởng. Khi những thương gia tới Carvahall, họ cho biết những chuyện chẳng lành, nhưng ta không ngờ chuyện lớn đến như vậy. Lũ Urgals tràn lan khắp nơi, chứng tỏ triều đình đang bị tấn công. Vậy mà, không hề thấy bóng một toán quân sĩ nào. Dường như nhà vua không quan tâm đến chuyện bảo vệ lãnh thổ của ông ta. - Cháu cũng lấy làm lạ. - Cháu có dùng phép thuật của cháu khi chúng ta ở Daret không? - Có lý do gì để làm vậy đâu? - Lầm. Cháu có thể đọc tư tưởng của Trevor chứ. Kể cả với khả năng giới hạn của ta, ta còn làm được điều đó. Nếu dân làng có ý định giết chúng ta, đời nào ta ngồi yên chuyện trò như thế được. - Làm sao cháu có thể biết Trevor nghĩ ngợi gì? Cháu có thể nhìn vào tâm trí người khác được sao? - Thôi nào, đáng lẽ cháu phải biết câu trả lời chứ. Cháu có thể biết ý định của Trevor giống như cách cháu liên lạc với Saphira hay Cadoc vậy. Tâm trí con người không khác biệt lắm với một con ngựa hay rồng đâu. Rất đơn giản để cháu thực hành, nhưng phải giới hạn và thận trọng. Vì ý nghĩ của một con người là nơi trú ẩn cuối cùng của hắn. Không bao giờ cháu được phép xâm phạm, trừ khi đó là trường hợp bắt buộc. Các Kỵ Sĩ có những qui luật rất khắt khe về vấn đề này. Nếu phạm luật với những lý do không chính đáng, sẽ phải chịu hình phạt rất nghiêm trọng. - Dù không phải là Kỵ Sĩ, ông vẫn có thể làm được chuyện này? - Ta đã từng nói, với sự chỉ dẫn chính xác, ai cũng có thể trao đổi, chuyện trò bằng tâm trí, nhưng với những kết quả khác nhau. Tuy nhiên, đó có phải là phép thuật hay không, khó mà biết được. Nhưng ta biết nhiều người đã tự học. Thử nghĩ: cháu có thể liên lạc được với tất cả các loài có tri giác, mặc dù có thể sự liên lạc không được rõ ràng lắm. Bằng cách hãy để nguyên một ngày lắng nghe những ý tưởng của lòai chim, hay tìm hiểu con giun đất cảm thấy gì sau một cơn mưa bão. Riêng ta không thú vị với loài chim, cháu thử bắt đầu với mèo coi. Chúng có nhiều cá tính khác thường, hay lắm. Nhưng nếu cháu có thể xâm nhập vào đầu người khác, như vậy cũng có nghĩa người khác cũng có thể làm như vậy với cháu? Làm sao cháu biết được ai đó đang dò la tâm trí chúa? Có cách nào ngăn cản họ được không? Nó thầm nhủ: "Làm sao mình biết được, nếu chính ông ta biết mình đang nghĩ gì?" - A, Saphira chưa bao giờ phong tỏa tư tưởng nó, không cho cháu liên lạc sao? - Đôi khi. Như lần Saphira đưa cháu lên núi Spine, cháu đã không thể nào nói chuyện với nó được. Không phải nó làm ngơ, mà rõ ràng không nghe thấy những gì cháu nói, như có một bức tường bao bọc tâm trí nó vậy. - Chỉ một vài người có khả năng biết có kẻ xâm nhập vào tâm trí, và rất ít người có thể ngăn chặn cháu len lỏi vào tư tưởng họ. Đó là vấn đề rèn luyện và suy nghĩ của cháu. Vì sức mạnh phép thuật sẽ cho cháu biết có kẻ len lỏi vào tâm trí cháu. Khi đã biết được điều đó, chuyện ngăn chặn họ là một vấn đề đơn giản. Tập trung vào một vật độc nhất. Tách rời tất cả những sự vật khác. Chẳng hạn, cháu chỉ tập trung nghĩ đến một bức tường, kẻ địch chỉ tìm thấy bức tường trong ý nghĩ của cháu thôi. Tuy nhiên, làm được điều này, với bất cứ thời gian bao lâu, đều đòi hỏi rất nhiều công lực và kiên trì. Vì cháu chỉ thoáng nghĩ đến một chuyện nhỏ nhặt nào khác, bức tường kia sẽ rung động để đối thủ có thể lẻn vào. - Làm cách nào cháu có thể làm được điều này? - Chỉ có một cách : luyện tập, luyện tập và không ngừng luyện tập. Ghi một hình ảnh độc nhất vào đầu cháu, lưu giữ hình ảnh đó cho đến khi nào còn có thể. Năng lực này không phải ai cũng đạt được một cách hoàn hảo. - Cháu không cần hoàn hảo, cháu chỉ mong an toàn thôi. Eragon lại nghĩ, nếu mình len lỏi được vào tâm trí người khác, liệu mình có làm thay đổi được tư tưởng của họ không? Càng biết thêm về phép thuật, mình càng thêm lo. Khi gặp lại Saphira, hai người đều giật nẩy mình. Saphira đâm đầu thẳng vào hai ông cháu. Hai con ngựa cuống cuồng lùi lại. Cô ả lạnh lùng ngó Eraong lom lom, hầm hừ trong học. Eragon lo ngại liếc ông Brom, chưa bao giờ nó thấy Saphira giận dữ đến thế: "Có chuyện gì vậy?" "Chuyện anh. Anh gây ra vấn đề." Eragon xuống ngựa. Vừa đặt chân trên mặt đất, nó bị Saphira vươn đuôi cuốn chặt hai chân, rồi quặp chặt nó bằng móng vuốt. Eragon la lên: "Em làm gì vậy?" Nó vùng vẫy nhưng không thoát nổi. Ông Brom vẫn ngồi trên lưng Hỏa Tuyết chăm chú theo dõi. Saphira nhìn sát mắt Eragon: "Mỗi lần ra khỏi tầm mắt tôi, anh đều gặp rắc rối. Cứ như trẻ con, chuyện gì anh cũng dí mũi vào. Nếu có chuyện nguy hiểm xảy ra, tôi ở xa cả mấy dặm, làm sao cứu kịp? Tôi sẽ không trốn tránh nữa. Không có tôi ở gần, có ngày anh mất mạng." "Anh hiểu vì sao em tức giận, nhưng anh lớn hơn em nhiều. Anh tự lo cho mình được mà." Ả nhe nanh, dí sát mặt Eragon: "Từ ngày mai anh phải bay với tôi, không cưỡi con vật khốn khổ mà anh gọi là con ngựa kia nữa. Nếu không, tôi sẽ quắp bằng móng mà tha anh đi. Anh có phải là một Kỵ Sĩ rồng không? Anh không cần gì tới một con rồng sao?" Eragon biết Saphira có lý, nhưng nhớ lại vết thương trầy da nát thịt khi cưỡi rồng, nó vẫn còn khiếp hãi. Ông Brom hỏi: - Sao, chuyện gì vậy? - Saphira muốn ngày mai cháu bay cùng nó. - Bây giờ cháu có yên rồi. Cháu và Saphira có thể bay, không sao đâu. - Nhưng nếu ông gặp tai nạn hay bị tấn công thì làm sao cháu đến kịp.... - Phải liều thôi. Vì dù sao cháu cũng vẫn cần học bay. Ta tính thế này, cháu bay trước, quan sát dưới này, báo cho ta biết nếu phát hiện cạm bẫy, phục kích hay có sự cố bất ngờ. Eragon gật đầu, bảo Saphira: - Được, ngày mai chúng ta bay. Buông anh ra. - Thề đi. - Trời đất! Rồi, anh hứa. Vừa lòng chưa? Saphira buông Eragon, rồi nhún mình, cất cánh khỏi mặt đất. Eragon rùng mình nhìn con rồng quay tít thân mình trên không. Nó nhảy lên con Cadoc, đi theo ông già. Xế chiều, sau khi tìm chỗ nghĩ, Eragon lại luyện kiếm với ông Brom. Giữa cuộc đấu, Eragon tung một đường kiếm đầy dũng mãnh, làm hai thanh kiếm gỗ nát tan từng mảnh, bay lả tả. Ném mẫu gỗ còn lại vào lửa, ông lão lấy thanh Zar'rac, đưa cho Eragon, bảo: - Tập kiếm giả như vậy đủ rồi. Đã đến lúc cháu phải dùng kiếm thuật. - Ông cháu mình cắt nhau ra từng mảnh mất. - Không đâu. Cháu lại quên phép thuật rồi. Nâng thanh kiếm của ông lên, Brom xoay lưỡi kiếm lấp lánh trong ánh lửa, rồi nhíu mày tập trung, đặt ngón tay lên lưỡi kiếm. Ông lẩm bẩm: - Geloth du knifr! Một tia sáng đỏ nhảy nhót giữa những ngón tay ông. Ông đưa ngón tay đi suốt chiều dài hai mặt kiếm. Tia sáng biến mất khi ông rút tay về. Ông ngửa một bàn tay, tay kia cầm kiếm, chém mạnh. Eragon hết hồn nhảy tới, nhưng không kịp. Nó sững sờ nhìn ông đưa bàn tay nguyên vẹn lên, mỉm cười. - Ông làm gì vậy? - Thử lưỡi kiếm. Eragon đưa tay rờ, nó cảm thấy một lớp vô hình ngăn ngón tay nó với lưỡi kiếm. Ông già bảo: - Bây giờ cháu cũng làm như vậy với thanh Zar'rac đi. Ông hướng dẫn nó cách làm. Sau mấy lần cố gắng, lưỡi kiếm của Eragon cũng có một lớp vô hình bảo vệ. Nó tự tin, đứng lên thủ thế. Ông Brom dặn dò: - Tuy lưỡi kiếm sẽ không cắt được da thịt nữa, nhưng chúng vẫn có thể làm chúng ta bị vỡ xương. Vì vậy cháu đừng chém phía sau như những lần trước. Một đường kiếm sau gáy có thể gây thương tích nặng đó. Eragon gật rồi bất ngờ tấn công. Hai thanh kiếm toé lửa. Tiếng kim khí choang choang vang lên khi ông Brom chống đỡ. Tuy nhiên sử dụng kiếm gỗ quá lâu, thanh Zar'rac trở nên quá nặng và Eragon xoay trở chậm chạp hơn, nó bị một đòn chớp nhoáng của ông già ngay đầu gối. Khi nghỉ tay, Eragon bầm dập hơn ông lão nhiều. Nó mê mẩn nhìn thanh Zar'rac không hề trầy xước. Nhìn bằng mắt rồng Sáng hôm sau, Eragon thức dậy với những vết bầm tím và tứ chi đau nhức. Thấy ông già đang hì hục xách yên và hành lí của nó, chất lên lưng Saphira, Eragon ráng nét mệt mỏi dậy lo bữa điểm tâm. Ăn xong, nó lẳng lặng cầm cung tên tiến lại Saphira. Brom dặn dò: - Nhớ khép chặt đầu gối, điều khiển Saphira bằng ý tưởng. Càng nằm sát lưng nó càng tốt. Nếu cháu không hốt hoảng sẽ không sao đâu. Eragon gật đầu, bỏ cung vào bao, rồi để ông đỡ lên yên. Nó rúm cả người khi Saphira thu mình lấy đà rồi chỉ với một cái quẫy đuôi cô ả vọt lên trời. Gió vù vù như hút hết hơi thở Eragon. Nó nhớ lần sau cùng bay trên lưng rồng, Saphira ráng sức vỗ cánh. Nhưng bây giờ cô ả bay thật vững vàng, mạnh mẽ. Saphira đảo vòng, bay cặp bờ con sông màu xám kéo dài phía dưới. Mây bềnh bồng trôi qua Eragon. Rừng cây chỉ còn là những chấm nho nhỏ. Không khí nhẹ nhàng, trong suốt. Eragon vừa thốt lên: “Tuyệt vời …”, mặt đất phía dưới thấp xoáy vòng đến chóng mặt, nó kêu lên: “Làm trò gì vậy. Anh lộn cổ xuống mất.” “Tập cho quen đi. Lỡ mình bị tấn công trên không, phải chơi trò này mới né được chứ.” Eragon cứng họng, đành tập trung cho bụng đỡ nhộn nhạo cơn buồn nôn. Chị rồng khoái trá, biểu diễn một màn rơi tự do, gần mặt đất mới là là bay tiếp. Eragon nghiêng mình ngắm cảnh. Saphira bảo: “Để em cho anh thấy bay thật sự như thế nào nhé.” Tư tưởng nó cuốn hút Eragon thoát khỏi thân xác. Eragon cố chống chọi, xong đành chịu thua, không tự kiểm soát được nữa. Mắt nó mờ đi, nó cảm thấy đang nhìn sự vật xuyên qua đôi mắt của Saphira. Tất cả đều biến dạng: màu sắc trở nên kỳ lạ khác thường, màu lam nổi bật lên, những gì màu xanh lục và đỏ đều dịu xuống. Eragon không thể nào xoay trở thân mình, nó cảm thấy như một hồn ma đang trôi trên bầu trời. Càng bay lên cao, niềm vui thuần khiết từ Saphira càng lan tỏa. Nó sung sướng được tự do bay bổng. Nó quay nhìn Eragon, và Eragon nhìn thấy chính mình trong mắt rồng. Nó cảm thấy xương thịt rồng như chính xương thịt nó và chính nó đang vươn mình bay bổng trên không, chiếc đuôi rẽ mấy như một bánh lái khổng lồ. Mối liên hệ giữa rồng và người tăng dần cho đến khi nhận thức của cả hai không còn sự tách biệt nào. Sự phấn chấn của Saphira làm tiêu tan nỗi khiếp đảm trong Eragon. Ngay cả khi hạ cánh, cả hai kết hợp sức mạnh một cách rất nhịp nhàng. Eragon thở hổn hển, lịm đi khi hai tư tưởng tách rời. Ngay khi tỉnh táo hẳn lại, nó nói với Saphira: “Thật không thể nào tin nổi! Tại sao em lại chịu xuống đất, trong khi bay bổng thú vị đến như vậy?” “Em cũng phải ăn chứ. Anh thích bay là em mừng rồi.” “Tiếc là anh không được bay nhiều hơn. Em vẫn thường thấy màu lam nhiều như vậy sao?” “Đúng vậy. Chúng ta sẽ thường xuyên bay chứ?” “Tất nhiên, có dịp là bay.” Ả hài lòng ra mặt. Trong chuyện bay Saphira chỉ cho Eragon những nơi nó thường ẩn náu, những lối mòn khám phá cho người dưới đất, luc sđó Eragon mới hiểu sự gian khổ của Saphira nhiều hơn nó tưởng. Vì qua những tàn cây rậm rạp, Saphira đã phải liều mình sà xuống thấp mới có thể phát hiện những lối đi. Gần trưa, một âm thanh ù ù trong tai Eragon. Nó lắc đầu, âm thanh đó càng lớn hơn. Tiếng ông già Brom đang cố nốiliên lạc với nó: “Cháu đang làm cái trò gì thế? Xuống đây ngay. Ta mới thấy một việc rất quan trọng.” “Ông Brom ạ?” “Còn ai nữa? Bảo cái con thằn lằn khổng lồ của cháu trở lại đây ngay.” Ông gửi hình ảnh nơi ông đang đứng chờ cho Eragon. cho Eragon. Eragon sẵn sàng cung tên trong tay, cùng Saphira tìm nơi hạ cánh. Tới nơi, Eragon nhảy vội xuống đất. - Chuyện gì vậy, ông? - Chuyện gì à? Lần sau đừng giở trò cắt liên lạc như vậy, nghe chưa? - Cháu xin lỗi. - Ta lần xuống bờ sông, rồi thấy mất dấu tụi Ra’zac. Nhìn mặt đất coi, cho ta biết cháu thấy gì. Dấu chân Ra’zac lộn xộn chồng lên nhau đầy mặt đất. Nổi rõ trên những vết chân chừng hai ngày qua của chúng, là những vết cào dài rất rõ. Thấy quen quen, nhưng Eragon chưa xác định là dấu vết gì. Rồi nó chợt nhìn Saphira. Mỗi khi cần lấy đà, lưng nó cào nát mặt đất giống như thế này. Eragon nói: - Cháu chỉ có thể cho rằng tụi Ra’zac này đã bay khỏi đây với những con rồng. Nếu không, thì cũng phải là một loài chim khổng lồ. - Ta thường nghe Ra’zac di chuyển với một tốc độ phi thường. Nhưng đây là chứng cứ đầu tiên ta được thấy. Nếu chúng bay như thế này, khó lòng chúng ta tìm gặp được. Nhưng ta biết chắc, đây không phải là rồng. Một con rồng không khi nào chịu để cho một tên Ra’zac cưỡi. - Làm sao bây giờ. Saphira không thể theo dấu chúng trên không, mà nếu có thể, thì ông lại ở quá xa. - Không nóng vội được. Vừa ăn trưa vừa tính. Hai người vừa ăn vừa lặng lẽ nhìn trời suy nghĩ. Eragon lại nghĩ đến gia đình. Hình ảnh cửa nhà điêu tàn bốc cháy làm nó đau khổ đến thắt ruột. Nó tự hỏi giờ này anh Roran đang làm gì? Nếu không tìm ra tụi Ra’zac mình sẽ đi về đâu, với mục đích gì đây? Sẽ trở lại Carvahall hay đi theo ông già Brom tiếp tục luyện tập? Ăn xong, ông Brom đứng dậy lật bỏ áo trùm đầu, nói: - Ta đã suy tính đến tất cả những mánh khóe, những câu thần chú, tất cả khả năng mà chúng ta có được, Saphira có thể xuất hiện trong vài thành phố, để quyến rũ tụi Ra’zac như mật phủ ruồi, nhưng như vậy là quá liều lĩnh. Chúng sẽ đưa quân lính tới. Chưa kể nhà vua rất có thể sẽ tự thân chinh lâm trận. Lúc đó ta và cháu không thể nào thoát chết. - Bây giờ phải làm sao? Có ý kiến gì không, Saphira? “Không.” Ông già cũng bảo: - Tùy cháu quyết định. Đây là cuộc trường chinh của chính cháu. Eragon nghiến răng tức giận, bỏ đi khỏi ông già và con rồng đỏng đảnh. Nhưng mới tới bìa rừng, chân nó đạp phải một cái bình bằng sắt. Bình có một quai da đủ dài để choàng qua vai và trên thân bình là một dấu hiệu bằng bạc, mà Eragon đã từng nhìn thấy trên áo hai tên Ra’zac. Nhặt cái bình lên, Eragon tò mò mở nắp, một mùi nồng gắt tỏa trong không khí, giống như mùi nó đã bắt gặp khi phát hiện cậu Garrow trong gian nhà đổ. Nó nghiêng miệng bình, một giọt chất lỏng trong vắt, ngời sáng rớt vào ngón tay và lập tức ngón tay nó bị đốt như chạm vào ngọn lửa. Eragon thét lên, chìu tay xuống đất. Chỉ một thoáng, một khoảng da bị ăn lõm xuống. Nhăn nhó, Eragon chạy bay về chỗ ông già, kêu lên: - Ông coi cháu nhặt được cái gì đây? Ông cầm bình quan sát rồi đổ một chút chất lỏng lên mũ. Eragon vội cảnh cáo: - Coi chừng, nó cháy… - Cháy da ông chứ gì? May là cháu còn đủ khôn, mới chỉ rót lên ngón tay chứ chưa uống đấy. Một chút thôi là cháu tiêu rồi. - Nhưng nó là cái gì vậy ông? - Một chất dầu từ hoa của cây Seith. Loại cây này mọc trên một hòn đảo hoang vu lạnh giá ngoài biển bắc. Trong trạng thái tự nhiên, chất dầu này dùng bảo quản và làm sáng bóng ngọc trai. Nhưng sau khi được phù phép bằng những câu thần chú cùng với máu, nó có một đặc tính là: chuyên ăn thịt tươi. Nếu chỉ có vậy thôi thì công có gì đặc biệt, vì có nhiều loại axit cũng làm tan nát thịt xương, sắt thép. Riêng chất dầu này vô hại với tất cả các vật khác. Cháu có thể những bất kỳ thứ gì vào nó, cũng không bị hề hấn gì, trừ những gì thuộc cơ thể con người hay thú vật. Nó được tạo ra để tra khảo và giết người. Có thể lưu giữ trong gỗ, bôi lên ngọn giáo, rải trên tấm trải giường, để địch thủ bị đốt cháy khi đụng phải. Tùy khả năng, kỹ xảo, nó có vô số cách dùng. Những vết thương do nó tạo ra rất lâu lành. Đây là một chất rất hiếm và đắt tiền, đặc biệt ở thể đã được biến đổi đặc tính như thế này. Eragon nhớ lại những vết bỏng khắp người của Garrow. Nó khiếp đảm nhận ra, chúng đã hại cậu bằng chất dầu mà quỷ này đây. - Nhưng nếu quý giá như vậy, sao tụi Ra’zac bỏ lại? - Có thể chúng làm rơi khi bay đi. - Sao chúng không trở lại tìm. Cháu nghi đây là mục đích của nhà vua. Ông ta vui mừng nếu cháu bị hại vì thứ dầu quỷ quái này. - Không đâu. Ông ta sẽ chỉ vui mừng khi chúng đem cho ông ta tin tức về cháu. Nếu lúc này chúng đã gặp nàh vua, chắc chắn ông ta đã biết tin cháu rồi. Như vậy có nghĩa là chúng ta càng phải thận trọng hơn khi vào các thành phố. Những thông cáo về cháu sẽ tràn lan khắp nơi trên đế quốc này. - Chính xác thì thứ dầu này hiếm hoi đến cỡ nào? - Hiếm như cháu…tìm được viên kim cương trong máng heo vậy. Thật ra, loại dầu bình thường vẫn được các thợ kim hoàn dùng. - Vậy thì phải có người mua bán nó chứ. - Có lẽ độ một vài người thôi. - Tốt rồi. Những thành phố dọc vùng biển này, có ai giữ giấy tờ mua bán không? Mắt ông già sáng lên: - Ồ, tất nhiên. Nếu chúng ta có thể coi những giấy tờ này, sẽ biết ai đưa dầu tới miền nam và từ đó chuyển đi đâu. - Và hồ sơ mua bán của triều đình sẽ cho chúng ta biết tụi Ra’zac ở đâu. Cháu không biết bao nhiêu người làm nghề này, nhưng không khó khăn tìm ra những người không làm tay sai cho triều đình. - Đại tài! Phải chi ta nghĩ đến điều này từ nhiều năm trước, ta đâu đến nỗi điên đầu. Dọc duyên hải này có rất nhiều thành phố cho tàu vào đậu. Nhưng ta nên tới Teirm trước, đây là nơi kiểm soát hầu hết chuyện buôn bán. Ta có một người bạn vẫn còn sống tại đó. Tuy nhiều năm chưa gặp lại, nhưng ta tin ông ấy sẽ sẵn lòng giúp đỡ. Là một nhà buôn, ông ta dễ đến gần hồ sơ mua bán hơn chúng ta. - Chúng ta đến Teirm bằng cách nào? - Đi về hướng tây nam, cho tới dốc núi Spine. Vượt qua bên kia, là chúng ta đã có thể đến thẳng Teirm. - Trong vòng một tuần, chúng ta tới kịp con đường dốc đó không? - Rất dễ. Nếu ta rẽ phải từ sông Ninor, sáng mai đã nhìn thấy rặng núi rồi. Trước khi leo lên lưng Saphira, Eragon bảo: - Cháu sẽ gặp ông trong bữa ăn tối. Lên cao rồi, nó mới cho Saphira biết: “Ngày mai anh sẽ cưỡi Cadoc, để bàn việc với ông già.” “Mấy ngày sắp tới anh cứ cưỡi ngựa đi với ông ấy để học, còn em phải đi săn.” “Em không bực chứ?” “Công việc cần thiết vậy mà.” Cuối ngày, khi hạ xuống mặt đất, Eragon mừng rỡ thấy chân nó không hề đau đớn trầy trụa gì. Buổi tập kiếm sau bữa ăn tôi kém phần hào hứng, vì ai cũng bận tâm đến những sự việc xảy ra trong ngày. Bản tình ca của thần tiên Ngày hôm sau, đang cưỡi ngựa trên đường, Eragon chợt hỏi: - Biển trông như thế nào, hả ông? - Chắc cháu từng nghe ai tả rồi chứ? - Dạ, nhưng chính xác nó ra sao? - Biển là hiện thân của cảm xúc. Biển yêu thương, căm ghét và than khóc. Biển thách thức những lời cám dỗ, chối bỏ mọi ràng buộc. Cháu còn nhớ ta nói các thần tiên tới đây từ biển cả chứ? Dù sau đó họ không còn sống gần những vùng duyên hải, họ vẫn giữ nguyên tấm lòng say mê, khao khát với đại dương. Tiếng sóng vỗ dào dạt, mùi muối mặn vẫn sâu đậm trong tâm hồn và những bài ca vô cùng duyên dáng của họ. Có một bài ca về mối tình với biển, cháu có muốn nghe không? - Cháu muốn lắm. - Ta sẽ cố dịch những lời ca bằng cổ ngữ. Không hoàn hảo lắm, nhưng để cháu hiểu phần nào lời chính. Ông tằng hắng, im lặng một lúc rồi ngâm nga: Ôi mặt nước óng vàng mênh mông quyến rũ dưới bầu trời xanh thẳm Mi gọi ta gọi ta Ta duổi dong mãi mãi cánh buồm Chẳng dành cho một vì tiên nữ Mi cứ gọi ta gọi ta. Nàng đã trói ta bằng dải dây màu huệ trắng Không bao giờ tan vỡ không khi nào chia lìa giữa rừng cây và sóng vỗ Vì có biển nâng niu. Lời ca vang vang trong đầu Eragon. Ông lão bảo: - Bài ca Du Silbena Datia này còn dài. Nó kể nột chuyện tình buồn của Acallamh và Nuada. - Bài ca đẹp quá. Khi họ ngừng lại nghỉ, dãy núi Spine đã hiện ra mờ mờ nơi chân trời. Tới chân núi, họ rẽ qua hướng nam. Eragon vui mừng lại được đến gần núi Spine, được bao bọc khỏi thế giới bên ngoài. Ba ngày sau, khi tới một con đường rộng, hằn vết những bánh xe, ông Brom bảo: - Đây là đường chính giữa thủ đô Uru’baen và Teirm. Các nhà buôn thường đi lại trên con đường này. Chúng ta phải hết sức thận trọng. Dù thời gian này không phải mùa buôn bán, nhưng vẫn có nhiều người qua lại nơi này. Nhiều ngày qua thật nhanh, vì Eragon không có thời gian để chán nản, nó học cổ ngữ của thần tiên, cách săn sóc Saphira và luyện phép thuật. Nó cũng học cách săn bằng phép thuật, chỉ với một viên đá nhỏ, một cú búng tay, con mồi đã lăn quay trên mặt đất. Những ngày làm việc không ngưng nghỉ đã tạo cho Eragon một thân hình rắn chắc, gọn gàng hơn. Tới một đoạn đường bị dòng sông cắt ngang, ông Brom bảo: - Đây là con sông Toark. Theo dòng sông này, chúng ta sẽ tới biển. Vì trên núi Spine có một hồ nước, hồ Woadark. Từ hai đầu hồ phát xuất hai dòng sông đi hai ngả. Cả hai đều được gọi là sông Toark. Một chảy về hướng nam. Một ra biển. Hai hôm sau, đứng trên một mỏm đá cao, ông chỉ tay về phía xa xa, cắt nghĩa: - Nơi hướng bắc kia chính là thành phố cổ Teirm. Người ta cho rằng, đó chính là nơi thần tiên đặt bước chân đầu tiên tới đế quốc Alagaesia này. Thành quách của nó không bao giờ sụp đổ, những chiến binh của thành phố chưa từng biết mùi chiến bại là gì. Trưa hôm sau họ mới xuống đến chân núi bên kia, nơi có những cánh rừng bằng phẳng. Saphira bay là là và tìm những hố trũng, mỗi khi cần phải ẩn mình. Qua khỏi khu rừng, cảnh đồng quê bắt đầu hiện ra. Mặt đất toàn cỏ và cây thạch thảo. Rong rêu phủ xanh rì những tảng đá ven dòng suối. Những vũng bùn lép nhép khắp mặt đường. Chẳng bao lâu cả ông Brom và Eragon đều lem nhem toàn bùn đất. Buổi chiều, họ tìm nơi khô ráo để nghỉ ngơi. Vừa ăn, ông Brom vừa căn dặn: - Có thể sẽ có người bắt gặp chúng ta từ núi ra, cháu phải cưỡi ngựa đi gần ông cho tới Teirm. Một ông già đi xa xôi một mình dễ gây thắc mắc, nghi ngờ. - Mình dùng tên thật hả ông? - Đối với ông bạn Jeod của ta thì không cần nói dối, nhưng với người khác ta sẽ là Neal, còn cháu là Evan. Có ai biết tên ta cũng không sao, nhưng không thể cho ai biết tên cháu được. Một thoáng thành Teirm Một cơn gió cuốn dạt hết sương mù. Eragon há hốc mồm ngắm nhìn thành phố hiện ra trước mắt. Teirm nằm trên bờ biển, mặt nước sáng ngời với những con tàu đã cuốn buồm, hiên ngang cặp bến. Từ xa đã nghe tiếng sóng vỗ rạt rào. Bao quanh thành phố là một bức tường trắng – cao một trăm mét, dày mười mét - với những cọc sắt nhọn hoắt và lối đi cho lính gác. Hai cửa sắt nặng nề mở ra hai con đường phía tây và nam. Một pháo đài khổng lồ bằng đá vượt hẳn lên. Trên tháp cao nhất, ngọn hải đăng sáng ánh đèn. Nhìn đám lính gác cổng thành nam, ơ hờ cầm ngọn giáo, ông Brom bảo: - Đây là thử thách đầu tiên của chúng ta. Hy vọng chúng chưa nhận chỉ thị của triều đình và đừng làm khó dễ chúng ta. Nhưng dù có gì xảy ra, đừng hoảng hốt để chúng nghi ngờ. Eragon dặn dò Saphira: “Tìm chỗ trốn đi, anh vào thành đây.” “Đừng dí mũi vào những chuyện không phải của mình, nhớ không?” “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Dù sao tôi và ông Brom còn có lợi thế hơn nhiều người, lo gì.” “Hay quá há. Có chuyện gì là tôi sà xuống quắp anh đi luôn, đừng ấm ớ.” “Dễ thương quá.” Tiến gần cổng, nhìn lá cờ hiệu, nổi bật hình ảnh một con sư tử tay cầm cành huệ trắng vẫy chào, Eragon hớn hở hỏi: - Thành phố này lớn cỡ nào? - Lớn hơn tất cả các thành phố cháu đã thấy. Một tên lính gác chặn cây giáo ngang lối vào, ngọng nghịu: - Tên gì? Li lâu? Thằng dỏ lày là ai? - Tôi tên Neal, thằng cháu con cô em tôi này là Evan. Nó đi thăm một người bạn. Sợ cháu bị lạc tôi mới phải đi cùng. Nó… nó hơi bị tưng tưng. - Lược dồi. Kêu thằng nhỏ không lược quậy phá, nghe chưa? Vừa qua khỏi cổng, ông già tủm tỉm: - Tửng tưng khùng khùng hả? - Đã vậy cháu khật khùng quậy tưng lên cho ông biết. Eragon trêu chọc lại. Hai người thong thả qua những căn nhà, với những cửa sổ chỉ đủ đón ánh mặt trời. Vó ngựa lóc cóc trên đường trải đá. Eragon thấy những căn nhà gần tường bao nhất, đều là nhà một tầng, cửa ra vào rất hẹp, nhưng càng vào sâu nhà cửa lại cao dần. Gần pháo đài là những ngôi nhà cao nhất, nhưng vẫn thấp hơn pháo đài. Ông Brom lên tiếng: - Lịch sử thành phố này là luôn phải chống lại những lần tấn công của cướp biển, Urgals và nhiều kẻ thù khác. Từ xưa tới giờ, đây là trung tâm thương mại. Nơi cạnh tranh ráo riết của những tay giàu sụ. Dân chúng bắt buộc phải tự vệ. Vua Galbatorix cũng gửi lính tới giúp họ bảo vệ thành phố. - Sao cháu thấy nhiều nhà cao hơn những nhà khác nhiều? - Hãy nhìn thành quách của họ. Từ đó, tầm quan sát của họ không bị ngăn chặn vì nhà cửa. Nếu bức tường bao bên ngoài bị đánh đổ, ngay lập tức, các xạ thủ xuất hiện trên những mái nhà. Vì những nhà ngòai cùng thấp hơn, họ không sợ bắn lầm đồng đội. Nếu xạ thủ của quân địch chiếm được những căn nhà thấp ở đó, thì những người trong thành vẫn lợi thế vì ở những điểm cao hơn. - Cháu chưa bao giờ thấy một thành phố xây dựng như thế này. - Đúng, nhưng Teirm xây dựng như thế này, chỉ sau khi suýt bị thiêu rụi trong một lần đánh phá của hải tặc. Dọc đường qua các phố, mọi người nhìn hai người nhưng không có vẻ tò mò nghi hoặc. Eragon thầm nhủ, chắc thành phố này thoát khỏi sự quan tâm của lũ Urgals. Nhưng ý nghĩ này của nó chợt thay đổi, khi một người đàn ông to lớn, lủng lẳng thanh kiếm, lách qua hai người. Và còn những dấu hiệu bất thường khác nữa: không trẻ con chơi đùa trên đường phố, người lớn đăm chiêu căng thẳng, nhiều ngôi nhà bỏ trống, cỏ mọc đầy sân. Eragon bảo: - Hình như nơi này đang có vấn đề. - Cũng như tất cả các nơi khác vậy. Chúng ta phải tìm ra ông Jeod đã. Khi hai người bước vào quán rượu, lửa trong lò sưởi đang tàn, nhưng không có ai buồn bỏ thêm củi. Vài người khách lẻ lẻ ngồi nhâm nhi cốc rượu, mặt mày ủ dột. Một người đàn ông cụt hai ngón tay, lặng lẽ ngắm nghía cây gậy cong queo. Gã bán rượu bậm môi lau một cái ly đã nứt. Ông Brom cúi mình trên quầy hỏi: - Anh có thể chỉ giúp tôi nhà ông Jeod ở đâu không? Gã chủ quán oang oang nói: - Làm sao tôi biết nhà ông ta ở đâu. Bộ tôi phải theo dõi thất cả những tên cha căng chú kiết khắp thành phố này sao? Eragon nháy mắt khi thấy mọi người đổ dồn những cặp mắt về phía quầy rượu. Nhưng ông già buông mấy đồng tiền lên mặt quầy, nhỏ nhẹ nói: - Anh thử cố nhớ coi. Mắt gã sáng lên: - Có thể, nhưng trí nhớ tôi lộn xộn lắm… Ông già bỏ thêm tiền. Gã kêu lên: “À, nhớ rồi.” Nhưng gã vừa chạm tay vào mấy đồng tiền, người đàn ông cụp hai ngón tay lên tiếng: - Gareth, cậu giở trò bỉ ổi gì thế? Mọi người trên đường này đều biết ông Jeod ở đâu. Cầm tiền của họ không biết xấu à? Ông già bỏ ngay tiền vào túi, tiến đến người vừa nói: - Cám ơn ông. Tên tôi là Neal, còn đây là cháu Evan. Người kia nâng ly nói: - Tôi là Martin. Không thể trách Gareth được, gần đây chuyện làm ăn ế ẩm quá. Ông ngồi đi, Jeod sống ở phía tây thành phố, ngay cạnh nhà Angela, bà bán dược thảo. Ông có chuyện làm ăn với ông ta à? Ông ta chẳng tha thiết mua bán gì nữa đâu, lại mới mất một tàu hàng nữa đấy. - Xảy ra chuyện gì? Phải tụi Urgals không? - Không, chúng ra khỏi vùng này rồi. Cả năm nay không ai còn thấy chúng. Hình như chúng đã sang miền nam hay miền đông cả rồi. Ông biết đó, việc buôn bán tại đây là nhờ đường biển, vậy mà mấy tháng nay tàu hàng của chúng tôi luôn bị tấn công. Không thuyền trưởng nào còn nhận chở hàng, làm đời sống ở đây trở nên khốn đốn. Nhất là những người giao mối lớn cho triều đình, họ phải chuyển hàng bằng đường bộ. Tốn kém lắm. - Nhưng chắc phải có nhân chứng biết kẻ nào gây ra những vụ tấn công chứ? - Không còn ai sống sót. Tàu ra khơi và biến mất. Các thủy thủ đoán già đoán non là… ma thuật. - Ông nghĩ sao? - Tôi không biết. Chắc khi nào vô phúc có mặt trên một con tàu bị cướp, tôi mới biết được chuyện gì xảy ra. Eragon hỏi: - Ông có phải thủy thủ không ạ? - Không, nhưng các thuyền trưởng thuê tôi bảo vệ tàu. Một công việc cũng hay hay. - Nhưng nguy hiểm lắm. Martin nhún vai sau câu nói của ông Brom, rồi uống cạn cốc bia. Eragon theo ông già rời quán, đi thẳng về hướng tây - một khu nhà cửa khang trang, rộng rãi của thành phố. Người bạn cũ Cửa hàng dược thảo treo một tấm bảng vui mắt và dễ thấy. Ngồi bên cửa là một người đàn bà tóc ngắn, một tay cầm con ếch, một tay hí hoáy viết. Eragon đoán đó chính là người bán lá thuốc, Angela. Nó nhìn hai căn nhà hai bên cửa hàng, hỏi ông Brom: - Ông nghĩ căn nào là nhà ông Jeod? Ông lại gần người đàn bà, lịch sự hỏi: - Bà có thể chỉ giúp ông Jeod ở căn nào không? - Có thể quá đi chứ. - Bà chỉ giúp được không? - Tất nhiên là được. Nhưng bà ta cứ lẳng lặng viết. Con ếch trên tay bà tay thì cứ dương..mắt ếch thô lố lên nhìn hai người. Một lúc lâu, Angela mới ngẩng lên bắt bẻ: - Chỉ thì được. Nhưng ông phải hỏi cho rõ ràng rành mạch. Cứ lập đi lập lại mỗi một câu "chỉ được không, chỉ được không", què cụt gì mà không chỉ được. Vớ vẩn. Brom tủm tỉm cười: - Được, tôi hỏi rành mạch đây, căn nhà nào là nhà ông Jeod và vì sao bà cứ nắm khư khư con ếch vậy? - Đó, hỏi thế mới là hỏi. Nhà Jeod bên phải. Còn vụ con ếch, mụ đang cố chứng minh loài cóc là không có thật, chỉ toàn là ếch thôi. Eragon hỏi: - Bà chứng minh không có cóc để làm gì? - Giời ạ, sao cháu ngốc thế. Nếu ta chứng minh được không có loài cóc trên đời, thì con ếch này sẽ mãi mãi là con ếch. Và không còn kẻ nào dùng cóc để làm độc dược. Phù thủy hết phù phép cho cóc làm điều ác, vì....làm gì có con vật nào tên là......cóc nữa. Ông già vội nói: - Tôi hiểu rồi. Rất thú vị, nhưng bây giờ tôi phải đến gặp ông Jeod ngay. Ra khỏi cửa hàng, Eragon thì thầm: - Bà ấy khùng thật! - Có thể. Nhưng đừng phê phán khi mình chưa biết rõ. Biết đâu bà ta khám phá ra điều gì về cóc và ếch thì sao. Đứng trước cánh cửa khóa sắt và những bậc thềm đá, ông Brom gõ cửa ba lần vẫn không có ai lên tiếng. Eragon đã nghĩ bà bán thuốc dở hơi chỉ lầm nhà, nhưng ông Brom gõ lần nữa, một người đàn bà còn trẻ, xanh xao, tóc vàng, hé cửa hỏi: - Ông cần gì? - Ông Jeod ở đây phải không? - Ông ấy là chồng tôi. Ông có hẹn với chồng tôi không? - Không, nhưng tôi có chuyện cần nói với ông ấy. - Ông ấy bận lắm. - Tôi từ xa tới. Có chuyện rất quan trọng cần gặp. Mặt bà ta đanh lại, đôi mắt sưng như vừa mới khóc. - Tôi nói là ông ấy bận. - Nếu có thể, xin bà chuyển lời là có một người từ Gil'ead đến đang chờ gặp ông ấy. Bà ta nói "Được" đầy vẻ nghi ngờ, rồi đóng cửa lại ngay. Eragon lèm bèm: - Chẳng lịch sự chút nào. - Cháu không được nói gì hết, để mình ta tiếp xúc với họ thôi. Cửa bật mở. Một người cao lớn chạy vội ra. Mặt ông ta rầu rĩ với đôi lông mày ngắn ngủn và mái tóc bạc rối bù, một cái sẹo từ đầu chạy dài xuống thái dương, nhưng áo quần rất sang trọng, đắt tiền. Vừa thấy hai người, mắt ông ta mở trừng trừng, dựa vào khung cửa, không thốt nên lời. Ông ta ngáp ngáp như con cá đớp bọt, mãi mới thều thào thành tiếng: - Brom.... Ông già Brom đặt ngón tay lên miệng, rồi tiến lại nắm cánh tay Jeod: - Gặp anh tôi mừng lắm, Jeod. Mừng hơn nữa là trí nhớ anh còn tốt. Nhưng đừng gọi tên đó ra. Có kẻ nào biết tôi ở đây là tai họa đấy. - Tôi tưởng anh chết rồi. Chuyện gì đã xảy ra? Sao anh không liên lạc với tôi? - Tôi sẽ cắt nghĩa tất cả, nhưng anh có chỗ nào để chúng mình nói chuyện cho kín đáo không? Khi Jeod khuất sau cánh cửa, Eragon nhủ thầm: "Mình hy vọng sẽ biết về quá khứ của ông Brom." Jeod trở lại với một áo vét thêu, rất hợp với cái mũ đính lông chim. Thấy ánh nhìn phê phán của ông bạn già, Jeod chỉ biết nhún vai, bối rối. Eragon dắt mấy con ngựa đi theo hai ông già tới khu pháo đài. Jeod khoát tay về một lâu đài, nói: - Lão Risthart, thị trưởng Teirm, ra lệnh cho tất cả các nhà buôn phải để hàng hóa trong lâu đài của lão. Mặc dù công việc làm ăn của chúng tôi là ở nơi khác, nhưng vẫn phải thuê phòng của lão, cho đỡ rách việc. Tuy nhiên, tại đó, mình không sợ bị nghe lén, vì tường rất dày. Qua cổng chính pháo đài, ba người tiến thẳng vào nơi chứa hàng. Jeod mở cửa và bảo Eragon: - Cháu có thể buộc ngựa vào những vòng sắt kia, không sao đâu. Cột Hỏa Tuyết và Cadoc xong, Eragon theo hai người vào một hành lang dài, trống trơn, với những ngọn đuốc gắn trên tường. Nó thấy nơi này vừa lạnh lẽo vừa ẩm thấp, thử rờ tay lên tường, Eragon rùng mình, khi tay chạm vào một lớp nước nhớp nháp. Jeod lấy một cây đuốc, dẫn đường tới trước một cửa gỗ nặng nề. Ông mở khóa, đẩy cửa vào căn phòng chất một đống da gấu. Những cuốn sách bìa da nằm đầy trên kệ. Chất củi vào lò sưởi, Jeod bỏ cây đuốc vào làm mồi, ngọn lửa bùng lên ngay. Quay lại Brom, Jeod bảo: - Nào, lão già, cắt nghĩa gì thì nói ngay đi. Brom tủm tỉm cười: - Gọi ai là lão già vậy? Lần cuối cùng gặp anh, tóc anh xanh mướt. Bây giờ thử nhìn lại chính mình coi, bạc hết rồi. - Còn anh gần như chẳng hề thay đổi sau hai mươi năm. Thời gian có vẻ ưu ái lão già gàn bướng, để anh đủ sức gánh vác những thế hệ sau. Thôi đủ rồi, kể chuyện anh đi. Eragon giỏng tai nghe những điều ông Brom sắp nói. Ông thoải mái ngả mình trên ghế, mồi tẩu thuốc, rồi thả ra một vòng tròn khói từ từ chuyển thành màu xanh, bay thẳng vào lò sưởi. - Anh còn nhớ những gì chúng ta đã làm tại Gil'ead chứ? - Tất nhiên. Chuyện như thế làm sao quên được. - Sau khi chúng ta...mỗi người mỗi ngả, tôi không tìm thấy anh. Trong đám hỗn loạn đó, tôi bị lạc vào một gian phòng nhỏ. Trong đó chẳng có gì đặc biệt, chỉ toàn giỏ với thùng. Nhưng vì tò mò, tôi lục lọi khắp phòng. Và tôi đã may mắn bắt gặp thứ chúng ta đang tìm kiếm. Jeod bàng hoàng thấy rõ, trong khi Brom tiếp tục: - Ngay khi nắm vật đó trong tay, tôi không thể nào chờ anh được nữa. Chần chừ một giây thôi, chắc tôi sẽ bị phát hiện, và tất cả sẽ mất hết. Tôi ngụy trang, trốn khỏi thành phố ngay lập tức. Sau đó tôi chạy đến.... Ông ngần ngừ nhìn Eragon, rồi nói: - Đến những người bạn của chúng ta. Họ cất vật đó dưới hầm, và yêu cầu tôi thề phải săn sóc cho người được tiếp nhận vật đó. Và tôi phải biến mất cho đến khi nào khả năng tôi được sử dụng tới. Không ai, kể cả anh, biết tôi còn sống. Mặc dù điều này làm tôi rất khổ tâm, vì đã làm anh phải đau buồn vì tưởng tôi đã chết. Tôi đã tới miền bắc và trú ẩn tại Carvahall. - Vậy là suốt thời gian qua...các bạn ta biết anh còn sống? Vẫn hiểu là kế hoạch phải được bảo mật, nhưng tôi vẫn hy vọng là họ sẽ cho tôi biết. Carvahall ở bên kia núi Spine, phải không? Brom gật. Lầu đầu tiên Jeod nhìn kỹ Eragon, rồi bảo ông Brom: - Vậy là tôi thấy anh đang hoàn thành trách nhiệm rồi. - Không đơn giản như anh tưởng đâu. Vật đó bị mất trộm một thời gian rất lâu. Tôi đoán là mất trộm vì tôi không hề nhận được tin tức gì từ những người bạn của chúng ta. Theo tôi, người liên lạc của họ đã bị lọt bẫy. Nên tôi phải tìm mọi cách để tìm hiểu. Tình cờ, Eragon có việc đi cùng một đường...cho có bạn. Jeod băn khoăn hỏi: - Nhưng nếu không nhận được tin tức gì, làm sao anh biết đó là....... Brom vội nói lướt đi: - Cậu của Eragon bị Ra'zac giết rất tàn nhẫn. Chúng đốt phá nhà và súyt bắt được Eragon. Vì thế Eragon quyết phục thù, nhưng chúng tôi không có dấu vết gì về nơi trú ẩn của tụi Ra'zac, bây giờ chỉ cần anh giúp tìm ra chúng. - Tôi hiểu rồi...Nhưng tôi cũng không biết gì hơn. Còn những kẻ biết, họ không đời nào chịu nói ra đâu. Brom lấy cái bình sắt ra khỏi túi, đưa cho Jeod. - Bình đựng dầu Seithr, loại cực độc đó. Tụi Ra'zac làm rơi trên đường đi. Chúng tôi muốn được coi hồ sơ buôn bán của thành phố này, từ đó sẽ lần ra dấu vết mua dầu của triều đình và nơi ở của Ra'zac. - Tất cả sổ sách ở đây chỉ liên quan đến công việc làm ăn của riêng tôi. Vấn đề anh muốn biết, có hồ sơ trong lâu đài này. Nhưng chỉ do một người nắm giữ. Đó là Brand, quản lý thương mại của thị trưởng Risthart. Những nhà buôn như tôi không được phép đụng tới, vì chúng sợ tụi tôi sửa đổi để ăn gian thuế triều đình. - Tôi sẽ tính toán chuyện này, nhưng chúng tôi cần nghỉ ngơi mấy ngày để suy nghĩ công việc. - Anh hãy coi nhà tôi như của anh. Thời gian ở đây, anh có tên nào khác không? - Tôi là Neal, Eragon là Evan. Jeod trầm ngâm nói: - Eragon, cháu có một cái tên rất đặc biệt. Hiếm người mang tên của vị Kỵ Sĩ đầu tiên. Suốt đời ta chỉ đọc trong sách, có ba người có tên như thế. Eragon giật mình, không ngờ Jeod cũng biết nguồn gốc tên của nó. Ông Brom bỗng bảo: - Hình như ta cột Hỏa Tuyết không được chắc lắm, cháu thử ra coi. Eragon lẳng lặng ra khỏi phòng. Nó biết hai ông già kia không muốn nó nghe chuyện sắp bàn. Hai con ngựa vẫn đứng yên tại chỗ. Eraong vuốt ve con Hỏa Tuyết, rồi buồn rầu dựa tường ngẫm nghĩ: "Mình ước nghe được họ đang bàn tán chuyện gì." Rồi nó chợt mừng rỡ nhớ lại những câu ông Brom dạy cách làm tăng thính giác. Nó tập trung tư tưởng, thu nội lực, bật ra mấy câu: "Thverr stenr un atra eka hórna." Nhưng rồi nó chỉ nghe những tiếng lí nhí trong tai. Chán nản, Eragon vừa định buông mình ngồi xuống, chợt nó nghe tiếng của Jeod: -....và tôi làm công việc này suốt tám năm rồi. Eragon vội nhìn quanh, xa xa chỉ có mấy tên lính gác. Nó khoái trá cười, nhắm mắt lắng nghe. Tiếng ông Brom: - Tôi không bao giờ ngờ, sau bấy nhiêu thời gian gắn bó với sách vở, anh lại có thể trở thành một nhà buôn. Chuyện gì làm anh quay qua chuyện làm ăn, thay vì trở thành một học giả? - Sau vụ Gil'ead, tôi không còn hứng thú ngồi trong phòng với những tấm da đầy chữ và những chồng sách nữa. Tôi muốn dốc hết sức mình để giúp Ajihad, nhưng tôi không phải là một chiến binh. Anh còn nhớ cha tôi là một nhà buôn có tài chứ? Chính ông đã giúp tôi khởi nghiệp. Tuy nhiên chuyện làm ăn của tôi chủ yếu là để chuyển hàng vào Surda. - Tôi nghe nói công việc hồi này bết bát lắm. - Đúng vậy. Gần đây không tàu hàng nào ra khơi được. Tronjheim gần cạn lương thực rồi. Tôi nghi, triều đình đã phát hiện việc chúng tôi yểm trợ cho Tronjheim. Nhưng tôi vẫn chưa biết chắc mình suy đoán đúng không. Thật không hiểu nổi, không ai nhìn thấy lính triều đình. Hay vua Galbatorix mướn tụi lính đánh thuê để phá chúng tôi. - Nghe nói anh mất một tàu hàng? - Đó là cái tàu cuối cùng của tôi. Cay đắng nhất là, trên chuyến đó, toàn là những người trung thành, can đảm. Tôi e rằng chẳng bao giờ còn gặp lại họ nữa.....Hàng họ còn lại, tôi phải cho chuyển đường bộ tới Surda hay Gil'ead. Nhưng tôi biết, dù thuê bao nhiêu bảo tiêu, hàng cũng sẽ không tới được những nơi đó. - Có bao nhiêu nhà buôn tiếp tay anh trong vụ này? - Ồ, nhiều lắm, khắp vùng duyên hải. Tất cả bọn họ đều bị rắc rối. Tôi biết anh nghĩ gì. Sẽ có ngày đến lượt tôi, nhưng tôi vẫn chưa nghĩ ra một tên phản bội nào có đủ uy thế và hiểu biết công việc của chúng tôi đến thế. Nếu có kẻ phản bội cỡ đó, thì quả là một tai họa. Tôi nghĩ anh nên trở về Tronjheim. - Và đem theo Eragon tới đó? Chúng sẽ xé xác nó ra từng mảnh. Ngay lúc này, đó là nơi nguy hiểm nhất cho nó. Có thể vài tháng hay một năm nữa thì được. Anh thử tưởng tượng, những người lùn sẽ phản ứng ra sao chứ? Tất cả đều muốn có ảnh hưởng với nó, nhất là Islanzadi. Eragon và Saphira sẽ không được an toàn ở đó, cho đến khi nào tôi để chúng qua được...tuatha du orothrim. Người lùn? Eragon giật mình nghĩ. Còn Tronjheim ở đâu? Sao ông ta lại cho Jeod biết về Saphira mà không hỏi mình trước? Tiếng Jeod: - Theo tôi, Eragon và Saphira vẫn còn cần sức mạnh và sự khôn ngoan của anh. - Khôn ngoan? Tôi chỉ là con người mà anh mới gọi là "lão già" đó thôi. - Rất nhiều người không đồng ý đâu. - Kệ họ. Tôi không cần biện hộ cho mình. Không, Ajihad vẫn có thể tiến hành mọi việc mà không có tôi. Điều tôi đang làm bây giờ quan trọng hơn nhiều. Nhưng cái viễn cảnh có một tên phản bội làm tôi băn khoăn. Tôi tự hỏi, làm sao triều đình biết chỗ nào để..... - Tôi cũng tự hỏi sao họ không liên lạc với tôi về vụ này? - Có thể họ đã cố gắng. Nhưng nếu có kẻ phản bội thì....À, tôi muốn gửi một tin cho Ajihad. Anh có tên liên lạc nào tin tưởng được không? - Còn tùy nơi phải đến là đâu? - Tôi chưa biết. Những đường dây của tôi có lẽ đã chết cả, hay họ đã quên tôi rồi. - Anh có thể cho người liên lạc đến những người thường nhận những chuyến hàng của anh không? - Được, nhưng như vật là liều lĩnh, táo bạo quá. - Thời buổi này có gì là không táo bạo? Chừng nào có thể đi? - Sáng mai. Tôi sẽ bảo hắn đến Gil'ead cho mau hơn. Lấy gì cho Ajihad tin hắn do anh phái tới? - Anh đưa cho nó cái nhẫn này. Bảo nó, nếu làm mất, tự tay tôi sẽ móc gan nó đấy. Đây là cái nhẫn của một bà hoàng đã cho tôi. Một lúc sau tiếng ông Brom bảo: - Mình nên ra ngoài với Eragon. Để nó một mình, tôi không yên tâm. Thằng nhỏ đó đến đâu là nơi đó có chuyện liền. Eragon vội thu hồi ý chí, mở mắt tự nhủ: "Chuyện gì đang xảy ra? Jeod và các nhà buôn khác đang tiếp tay cho những kẻ không được nhà vua ưa thích. Ông Brom đã tìm ra một vật ở Gil'ead và phải chạy trốn đến Carvahall. Chuyện gì quan trọng đến nỗi ông ta phải để cho bạn tưởng mình đã chết từ hai mươi năm rồi? Ông ta còn nhắc đến một bà hoàng, trong những đế quốc nó biết, có bà hoàng nào đâu. Rồi lại còn người lùn, chính ông ta bảo với mình là người lùn đã biến hết xuống lòng đất từ xa xưa rồi mà." Nó đợi khi nào đi khỏi thành Teirm, có dịp sẽ hỏi ông về tất cả những bí ẩn này. Ngay lúc đó, ông Brom mở cửa, hỏi: - Ngựa ổn cả chứ, Eragon? Trên đường về, Brom nói: - Jeod, vậy là cuối cùng thì anh cũng cưới vợ. Một phụ nữ thật duyên dáng. Chúc mừng anh. Jeod có vẻ không vui vì câu chúc của bạn, ông lầm lũi ngó mặt đường: - Cám ơn anh, nhưng Helen không hạnh phúc lắm đâu. - Sao? Cô ấy muốn gì? - Cũng bình thường thôi. Một mái ấm, con cái ngoan ngoãn, món ăn ngon, bạn bè vui vẻ. Vấn đề là cô ấy thuộc con cái nhà giàu. Ông bố kiếm rất khá trong cùng ngành nghề với tôi. Với tình trạng thua lỗ như hiện nay, cô ấy không đủ chi tiêu theo ý thích. Nhưng thôi, đó là những rắc rối của riêng tôi, mong anh đừng bận tâm. Trong thời gian ở lại đây, tôi lo cho anh no bụng là ổn rồi. - Cám ơn anh, suốt chuyến đi dài dằng dặc, chúng tôi chưa được ai ân cần chăm sóc cả. Anh có biết chỗ nào bán quần áo rẻ tiền không? Quần áo chúng tôi rách cả rồi. - Đó là việc của tôi. Bây giờ mình tìm chỗ ăn trước đã. Sau khi cho ngựa vào chuồng nhà Jeod, ba người đến một quán rượu. Khung cảnh tại đây khác hẳn quán trước, sạch sẽ, ồn ào tiếng nói cười vui vẻ. Khi món chính đưa lên - heo sữa và khoai tây, cà rốt, rau cần và táo ngọt - Eragon ăn thỏa thích cho bỏ những ngày chỉ có thịt thú rừng. Ra khỏi quán, trời đã gần chiều, Eragon nói: - Hai ông về trước, cháu đi thăm cảnh một chút. Jeod dặn: - Nếu ra ngoài thành, nhớ về trước khi trời tối. Cổng thành đóng, là cháu phải đợi tới sáng mới vào được đó. Ra khỏi thành, Eragon khoan khóai hít thở không khí trong lành, rồi thầm gọi: "Saphira, em đang ở đâu?" Saphira hướng dẫn Eragon đến một chân vực, bao quanh toàn cây phong du. Nhìn cái đầu rồng thấp thoáng trên ngọn cây đầu vực, Eragon hỏi: "Làm sao anh lên được tuốt trên đó?" "Thử tìm có bãi trống nào, em xuống đưa anh lên." "Không cần, anh leo lên được." "Nguy hiểm lắm." "Nói nhiều quá đi, tôi thích leo." Nhưng chỉ leo được nửa vực, Eraong không còn tìm ra điểm nào để bám víu nữa, kêu lên: "Giúp dùm đi." "Ráng chịu, phải biết lựa sức mình chứ." "Biết rồi, lải nhải mãi. Giúp hay không?" "Nếu không có tôi ở đây thì sao. Phải rồi, một con rồng như tôi làm sao khuyên anh nên làm điều gì hay không. Một người thông minh sáng láng như anh thì chỉ tìm vào cửa tử mà đi thôi. Tại sao à? Nếu anh đừng quá tự phụ, chỉ đi thêm vài bước nữa là thấy bãi cỏ trống và một đường mòn lên đỉnh này rồi." "Được rồi, lỗi tại anh, kéo giúp lên đi. Năn nỉ mà." Mắt cô ả long lanh khoái trá, chẳng nói thêm một lời, Saphira bay vụt đi. "Saphira! Trở lại ngay." Chỉ một cái vỗ cánh, Saphira vượt khỏi đầu vực, bay vòng trên không, rồi sà xuống quắp Eragon bay ngược lên, nhẹ nhàng đặt xuống. Eragon ngây người ngắm cảnh tượng biển, rừng bao la phía dưới. Một nơi thật lý tưởng cho Saphira ẩn trốn, chỉ loài chim mới có thể phát hiện ra nó. "Bạn của ông Brom có đáng tin cậy không?" "Anh không biết. Có những chuyện làm anh rất bối rối, chẳng biết mình có thật sự hiểu những chuyện xảy ra chung quanh không. Người nào cũng đầy bí ẩn." "Đời là vậy đó. Hãy bỏ qua những âm mưu của họ, chỉ tin vào bản chất thật sự của họ thôi, thì ông Brom là người tốt. Ông ấy không định làm hại chúng mình đâu. Không có gì phải ngại những kế họach của ông ta." "Anh cũng hy vọng thế." "Chuyện lục lọi hồ sơ, em thấy khó khăn quá. Có cách nào dùng phép thuật, không nhất thiết vào hẳn trong phòng hồ sơ không?" "Để anh hỏi thử ông Brom coi. Em biết không, chúng ta còn phải ở lại đây thêm mấy ngày nữa." "Nghĩa là em tiếp tục bị bỏ một mình chứ gì?" "Anh cũng đâu muốn thế. Tối rồi, anh phải về trước khi cổng đóng." Saphira đưa nó xuống lại chân vực. Vừa nhìn cánh cổng sắt đang từ từ hạ xuống, Eragon chạy thục mạng, lăn tòm vào bên trong. Một tên lính gác hét toáng lên: - Thiếu chút nữa là mày bị cắt làm đôi rồi, nhóc. Nó vừa thở hồng hộc vừa chạy về nhà Jeod. Một người hầu mở cửa, nói: - Hai ông đang đợi cậu trong văn phòng. Qua hàng lọat cửa, gã hầu mở một cửa phòng. Bốn bức tường đầy những sách, đủ kích cỡ. Brom và Jeod đang ngồi chuyện trò bên một cái bàn bầu dục. Thấy Eragon, ông Brom vui vẻ nói: - A, cháu đây rồi. Chúng ta bắt đầu lo. Đi dạo vui không? Chuyện gì làm ông ta vui thế nhỉ? Sao không hỏi gì về Saphira? - Dạ vui, nhưng cháu bị lạc đường. Thành phố này lớn thật. Jeod cười: - Chừng nào cháu thấy Dras - Leona, Gil'ead, kể cả Kuasta, thì sẽ thấy cái thành phố biển này chưa là gì đâu. Tuy nhiên ta lại thích nơi này. Khi trời không mưa, Teirm đẹp tuyệt vời. Nó hỏi ông Brom: - Ông nghĩ mình sẽ ở lại đây bao lâu? - Khó biết trước được, còn tùy vào việc mình có được lại gần đống hồ sơ và có tìm được điều chúng ta cần không. Công việc bộn bề lắm, tất cả chúng ta đều phải góp tay vào... - Cháu nghĩ là không giúp gì được đâu. - Vì sao? - Cháu....không biết đọc. - Hả, Garrow không dạy cháu học à? - Cậu Garrow biết chữ sao? - Tất nhiên là biết. Lão khùng hợm hĩnh, hắn nghĩ sao mà không dạy thằng nhỏ học hành gì? Vậy là kế hoạch của ta phải chậm lại. Được, ta sẽ dạy cháu đọc. Nếu cháu chăm chỉ thì chẳng bao lâu cháu sẽ đọc được thôi. Eragon rầu rĩ nghĩ, mình còn phải bị nhồi nhét những thứ gì nữa đây. Jeod lên tiếng: - Rồi cháu sẽ thích. Cháu sẽ học được rất nhiều điều trong những cuốn sách này. Những cuốn sách này là bằng hữu, là người đồng hành của ta. Chúng làm ta khóc, cười và tìm ra ý nghĩa của cuộc đời. Ông Brom cười nói: - Vẫn mãi là học giả, phải không? - Hết rồi, mình sợ trở thành lão cuồng chữ nghĩa. Eragon hỏi: - Là gì ạ? - Là người mê sách. Jeod trả lời rồi quay qua trò chuyện với ông Brom. Eragon mon men lại gần kệ sách. Một cuốn được đóng bằng những đinh vàng, làm nó chú ý. Rút cuốn sách xuống, nó tò mò vừa ngắm nghía vừa vuốt ve lớp bìa da trơn mát. Những chữ in bên trong đều màu đỏ. Một cột chữ nổi bật với những đường dài và những chấm sắc bén, rất đẹp. Nó cầm quyển sách tới, hỏi ông Brom: - Cái gì đây, ông? Brom nhìn sát trang sách rồi nhướng mày kinh ngạc: - Jeod, anh kiếm được quyển này ở đâu vậy? Bao lâu nay tôi chưa hề nhìn thấy. - À, cuốn Domia abr Wyrda. Mấy năm trước, một gã đem bán ngoài bến tàu. May mắn là tôi ở đó nên cứu được quyển sách và cả cái đầu gã đó. Thằng cha ấy chẳng biết quyển sách nói gì. - Đây là quyển sách quí hiếm nhất. Nói rõ từng chi tiết tất cả lịch sử Alageasia, bắt đầu từ trước khi thần tiên tới đây và kết thúc vào thời gian mấy thập niên trước. Triều đình đã thiêu chết tác giả vì tội phỉ báng, phạm thượng. Tôi không ngờ ngày nay vẫn còn một bản như thế này. Câu cháu vừa hỏi là một đoạn thơ cổ. - Đoạn thơ nói gì, hả ông? - Đây là bài thơ các thần tiên kể lại những năm chiến đấu cùng loài rồng. Trích đoạn này kể về vị vua của họ, vua Ceranthor, trong chinh chiến. Các thần tiên rất say mê và hay ngâm nga bài thơ này, để họ không bao giờ lập lại những sai lầm trong quá khứ. Tuy nhiên đọc cho đầy đủ thì phải cần đến ba ngày. Nhiều khi giọng ngâm véo von thật mủi lòng, đến gỗ đá cũng phải rơi nước mắt. Eragon cầm quyển sách, trở lại ghế ngồi. Nó vuốt ve quyển sách, ngẫm nghĩ: "Thật diệu kỳ, một con người đã chết từ lâu, vẫn có thể chuyện trò với mọi người qua những trang sách này. Chừng nào quyển sách này còn, tư tưởng của ông ta vẫn tiếp tục sống. Chẳng biết trong này có thông tin gì về lũ Ra'zac không?" Nó lật tới lật lui cuốn sách cho đến khi rũ ra vì buồn ngủ. Jeod gọi người hầu đưa nó về phòng. Khi thấy ông Brom sắp bước vào phòng, kế bên, Eragon hỏi: - Cháu nói chuyện với ông được không? Nó theo ông vào phòng, khép cửa xong, nói: - Saphira và cháu có một ý kiến..... Ông ngăn nó lại, tay kéo màn cửa sổ, thì thầm: - Khi nói những chuyện này, cháu phải biết chắc không ai nghe được chứ. - Cháu xin lỗi. Cháu muốn hỏi có cách nào để nhìn được những hình ảnh mà mình chưa thấy bao giờ không? - Đó là cách thu nhận hình ảnh từ xa. Hoàn toàn có thể làm được và rất hữu ích trong nhiều tình huống, nhưng nó cũng có một giới hạn. Cháu chỉ có thể thu và quan sát những người và sự vật cháu đã từng thấy. Thí dụ, cháu đã nhìn thấy hai tên Ra'zac, cháu có thể thu hình ảnh chúng từ xa để quan sát. Tuy nhiên cháu chỉ thấy nhân dạng của chúng, còn những gì chung quanh, cháu không thể thấy được. Còn nhiều vấn đề khác nữa, nếu cháu muốn quan sát một trang sách đã từng biết, chỉ khi từ xa cuốn sách mở đúng trang đó, cháu mới thấy được. Nhưng nếu quyển sách đóng thì cháu chỉ thấy toàn một màu đen. - Vì sao ta không thể quan sát những vật mà mình chưa nhìn thấy trước đó? - Vì khi muốn thu những hình ảnh đó vào trí não để quan sát, cháu phải biết mình đang hướng đến mục tiêu nào để điều khiển sức mạnh tinh thần. Cháu phải biết rõ "hình ảnh mẫu" mình định thu, thì cháu mới thu được. Một con người, một đồ vật cháu chưa từng thấy sẽ trở nên vô hiệu, khi sử dụng phương pháp này. - Nhưng sử dụng phương pháp này như thế nào? Cháu có thể cho hình ảnh hiện lên trong khoảng không được không? - Như vậy sẽ tốn hao rất nhiều năng lực hơn là để hình ảnh hiện lên một mặt phẳng phản chiếu, như mặt nước hay mặt gương chẳng hạn. Các Kỵ Sĩ luôn phải đi xa, nên họ dùng phương pháp này để nắm tình hình khắp đế quốc Alageasia trong thời chiến hay mỗi khi có biến cố. - Cháu....được phép thử không ạ? - Ngay bây giờ thì không được. Việc này rất mất sức, mà cháu thì đang mệt. Ta sẽ cho cháu biết những câu thần chú, nhưng phải hứa không được áp dụng tối nay. Bao giờ đi khỏi đây, ta sẽ dạy cháu thêm. - Cháu hứa. Eragon hí hởn cười. Ông già ghé tai nó, thì thầm: - Draum kópa. Eragon lẩm bẩm cho tới thuộc, rồi bảo: - Sau khi rời thành phố Teirm, cháu sẽ dùng phương pháp này để tìm hiểu anh Roran cháu đang làm gì. Cháu sợ tụi Ra'zac đang theo dấu anh ấy. - Ta không muốn làm cháu lo, nhưng điều đó rất có khả năng xảy ra. Mặc dù Roran đã đi khỏi Carvahall trước khi Ra'zac tới, nhưng ta chắc chúng đã dò hỏi về cậu ấy. Chúng có thể đã gặp cậu ta ở Therinsford rồi, ai mà biết được. Nếu đúng vậy, chúng đã nắm hết thông tin. Nhưng dù sao, tin tức về cháu, chúng vẫn còn mù mịt. Nếu nhà vua hăm dọa, chúng sẽ bị trừng trị nặng nề khi không tìm ra cháu, chắc chắn chúng sẽ quay lại truy hỏi Roran. - Nếu ông đoán đúng, chỉ còn một cách để Roran được an toàn, là hãy cho tụi Ra'zac biết cháu đang ở đâu. Chúng sẽ buông tha anh ấy. - Không được. Cháu không hiểu kẻ thù làm sao biết được ý đồ của chúng? Dù cháu xuất đầu lộ diện, chúng vẫn săn lùng Roran. Biết vì sao không? - Dạ, nếu cháu trốn tránh mãi, chúng sẽ bắt Roran để làm áp lực cho cháu phải xuất hiện. Nếu cách đó không mang lại kết quả, chúng sẽ giết anh Roran để cháu đau đớn. Còn nếu cháu trở thành một kẻ thù công khai của triều đình, chúng sẽ dùng anh ấy làm mồi để bắt cháu. Và nếu cháu đi gặp anh Roran, khi chúng biết, chúng sẽ tra khảo anh để khai ra cháu ở đâu. - Giỏi lắm. Cháu suy luận rất chính xác. - Nhưng còn giải pháp nào không? Cháu không muốn anh cháu chết. - Giải pháp thật rõ ràng: Roran phải học cách tự bảo vệ lấy mình. Nghe có vẻ nhẫn tâm, nhưng như cháu vừa nhận ra đó, cháu không thể liều lĩnh tìm gặp cậu ta. Cháu đã quên một điều, khi chúng ta rời khỏi Carvahall, ta đã cho cháu biết là ta để lại cho Roran một lá thư báo động cho cậu ấy. Vì vậy, Roran không thể hoàn toàn không cảnh giác trước những hiểm nguy. Khi nghe tin tụi Ra'zac xuất hiện tại Carvahall, cậu ta phải tìm đường tẩu thoát. - Cháu vẫn cảm thấy lo lắm. - Trong chuyện này cũng có điều hay. Nhà vua không đời nào để một Kỵ Sĩ bay bổng khắp nơi, ngoài tầm kiểm soát của ông ấy. Ngoài cháu ra, vua Galbatorix được biết đến như một Kỵ Sĩ duy nhất đang còn sống. Nhưng ông ta rất muốn có một Kỵ Sĩ nữa dưới quyền chỉ huy của mình. Do đó, trước khi muốn giết cháu hay Roran, ông ta sẽ đề nghị cháu phục vụ dưới trướng của ông. - Ông gọi điều đó là hay được sao? - Tất cả là để bảo vệ Roran. Chừng nào nhà vua còn chưa rõ cháu theo phe nào, ông ta còn không muốn làm mất lòng cháu bằng việc hãm hại người anh họ của cháu. Hãy nhớ kỹ điều này. Tụi Ra'zac giết cậu cháu thật, nhưng ta tin đó là hành động ngu ngốc của chúng thôi. Như những gì ta biết về vua Galbatorix, ông ta không cho phép một hành động nào làm bất lợi cho ông. - Nhưng làm sao cháu có thể từ chối đề nghị của nhà vua, nếu ông ta hăm giết cháu. Brom thở dài, ông đến bên bàn rửa mặt, nhúng mấy ngón tay vào thau nước màu hồng. - Ông ta khát khao việc cháu cộng tác với triều đình. Ngược lại, ông ta phải trừ khử cháu. Vì vậy vấn đề đặt ra là: nếu phải đối diện với sự chọn lựa này, cháu có sẵn sàng chết vì niềm tin của cháu không? Vì đó là cách duy nhất để cháu chối từ. Eragon im lặng. Một lúc sau ông nói tiếp: - Đây là một câu hỏi khó, cháu có thể trả lời khi đối diện với vấn đề. Nhưng hãy nhớ rằng, nhiều người sẵn lòng chết vì niềm tin. Đó là chuyện rất bình thường. Nhưng sự can đảm thật sự là sống và chịu đựng gian khổ vì niềm tin của mình. Phù thủy và ma mèo Buổi sáng, Eragon thức dậy muộn. Rửa mặt, thay quần áo xong, nó cầm gương, ngắm nghía chải đầu. Hình như mặt nó có vẻ gì khang khác. Eraong cầm gương sát hơn. Mới dời xa Carvahall chẳng bao lâu, mặt nó đã thay đổi nhiều. Những ngày dong duổi, những buổi luyện tập đã làm nó già dặn hơn, ánh mắt mạnh mẽ, dữ dội hơn, chẳng còn nét trẻ thơ lúc trước. Đưa gương ra xa, mặt nó lại có vẻ bình thường, nhưng vẫn không hoàn toàn giống như nó ngày xưa. Eragon khoác cung tên, vừa ra khỏi phòng, một người hầu nói: - Ông Neal đã ra ngoài với chủ tôi từ sáng sớm. Ông dặn chiều mới về, cậu cứ thoải mái đi đâu thì đi. Eragon vui vẻ cám ơn rồi vội vã đi tham quan thành phố. Suốt mấy tiếng, nó lang thang khắp các đường phố, la cà những cửa hàng, tán gẫu cùng khách bộ hành. Cuối cùng, bụng đói meo và túi rỗng không, nó bắt buộc phải quanh về nhà Jeod. Ngừng trước cửa hàng bán dược thảo kế bên, nó ráng nhìn qua cửa sổ, nhưng bên trong chỉ toàn thấy cây lá khô che kín mít. Tò mò, Eragon bước vào trong. Lúc đầu nó không thấy gì trogn cửa hàng tối om om, nhưng quen dần với ánh sáng xanh lọt qua cửa sổ, nó thấy một con chim màu sắc rực rỡ với cái mỏ dài ngoằng đang đứng trong lòng nhìn lại nó. Trên vách, ngoài cây đèn treo, đủ thứ lá thuốc móc lên tận trần. Một bình hoa lớn cắm độc nhất một bông hoa vàng đặt trên sàn. Trên cái quầy dài, lủ khủ chày, cối tán thuốc và một quả cầu pha lê bự sư bằng cái đầu của nó. Eragon thận trọng lách qua hàng đống thùng dựng đá, da thuộc...tiến lại cái quầy kê trước hàng dãy kệ đủ kích cỡ. Một đôi mắt đỏ lòm loé sáng trong góc tối, rồi một con mèo to đùng, hung dữ nhảy phóc lên quầy. Con mèo gầy nhom, nhưng đôi vai mạnh mẽ và những móng dài quá khổ. Cái bờm loè xoè phủ trên cái mặt hình tam giác. Đôi tai dựng ngược. Hai nanh cong khỏi hàm. Tất cả làm nó không giống bất cứ con mèo nào Eragon từng thấy. Con mèo lim dim mắt, ngoe nguẩy đuôi, nhìn Eragon. Không chủ tâm, Eragon bỗng truyền tư tưởng, nhẹ nhàng cho con mèo biết nó là bạn. "Không phải làm thế." Eragon giật mình nhìn quanh. Con mèo tỉnh bơ liếm láp chân. "Saphira hả?", Eragon hỏi. Không có tiếng trả lời. Nó bối rối dựa vào quầy, với tay định lấy một vật giống như một cái roi bằng gỗ. "Ngốc thế!" "Đừng làm trò nữa, Saphira." Vừa nói, Eragon vừa cầm cái roi lên. Một luồng điện giật tung người, làm nó ngã ngửa ra sàn. Con mèo nhảy xuống, lừ lừ nhìn nó: "Mi không đủ tài trí làm một Kỵ Sĩ." "Mi nói đó hả?" Eragon thầm kêu lên. "Không là ta thì ai?" "Nhưng mi chỉ là một con mèo!" Con vật rướn mình, ngạo mạn tới gần, rồi nhảy lên ngực Eragon, mắt sáng rực: "Trông ta có giống những con mèo khác không?" Eragon cố ngồi dậy, nhưng con mèo gầm gừ, nhe nanh nhọn hoắt. "Không." "Vậy điều gì làm mi dám nghĩ ta là một con mèo bình thường? Rõ ràng mi là đứa dốt nát, ta cho mi biết, ta là.....ma mèo. Chúng ta không còn nhiều, nhưng một thằng nhóc nhà quê như mi chắc phải có nghe rồi chứ." "Ta không ngờ ma mèo lại có thật." "Ta cũng đâu biết trên đời này lại có mi, cho đến khi mi nhào vào đây phá giấc ngủ của ta. Tuy nhiên đâu phải vì vậy mà mi không có thật." "Ta xin lỗi đã làm phiền." Con mèo lại nhảy lên quầy: "Không sao, ta ngủ thế đủ rồi. Này, nếu ta là mi, ta không khư khư cầm mãi cái que đó đâu. Chỉ vài giây nữa, nó lại giật mi tưng tưng lên cho mà coi." Eragon vội đặt cái roi vào chỗ cũ, hỏi: "Cái này là gì?" "Trò tiểu xảo vớ vẩn, chán chết." "Nhưng để làm gì?" "Mi chưa hiểu à? Để giật mi bổ nhào ra đó." Nó biếng nhác xoãi người, rồi co hai chân trước ngực, nhắm mắt, gừ gừ trong họng. Eragon hỏi: "Tên mi là gì?" Con ma mèo mở hí mắt: "Ta từng có rất nhiều tên, nếu mi muốn biết tên thật, đi chỗ khác mà hỏi." Eragon vừa quay đi, mèo ma bảo: "Tuy nhiên, mi có thể gọi ta là Solembum." Cửa chợt mở, Angela bước vào với một bao đầy cây cỏ. Mắt bà ta thoáng nhìn Solembum, rồi ngó sững Eragon: - Nó bảo đã nói chuyện với cháu. - Bà cũng có thể nói với nó sao? - Tất nhiên, nhưng không phải lúc nào nó cũng trả lời. Nó thích cháu. Đó là chuyện lạ, vì thường thường nó không để khách hàng nhìn thấy. Thật ra, nó nói cháu chứng tỏ là người có thể giao một trách nhiệm khó khăn. Đó là kiểu khen của Solembum. - Cám ơn nhiều. - Cháu là một trong ba người có thể trò chuyện với nó. Người thứ nhất là một phụ nữ, cách đây nhiều năm rồi. Người thứ hai là một lão hành khuất. Cháu là người thứ ba. Nhưng thôi, mụ mở cửa hàng đâu phải để tán gẫu. Cháu muốn mua gì nào? - Dạ, cháu xem thôi. Thật sự cháu không cần thuốc. - Mụ không chỉ bán dược thảo đâu. Mấy lão lãnh chúa ngốc vẫn hỏi mua nước hoa tình yêu. Mụ chưa hề bảo đảm công hiệu, nhưng các lão ấy vẫn trở lại mua thêm. Nhưng ta nghĩ cháu chẳng cần gì đến mấy thứ vớ vẩn đó. Hay cháu muốn biết vận mạng tương lai không? Ta vẫn bói cho cả lũ phu nhân dở hơi, giàu sụ đấy. Eragon phì cười: - Thôi, tương lai cháu khó đoán lắm. Vả lại cháu không có tiền. Angela nhìn Solembum đầy vẻ lạ lùng, rồi chỉ quả cầu pha lê, bảo Eragon: - Cái này chi màu mè biểu diễn thôi, chẳng ra trò trống gì đâu. Đợi đó, mụ trở lại ngay. Một lát sau, Angela thở hổn hển ôm một gói lớn từ phòng sau ra. Trải miếng vải lên quầy, rồi bà ta đổ ra một đống mẩu xương, mỗi mẩu dài hơn ngón tay. Chữ cổ và hình vẽ khắc đầy mặt xương. Bà cắt nghĩa: - Đây là những khớp xương rồng. Đừng hỏi ta lấy ở đâu. Đó là bí mật không thể tiết lộ. Nhưng không như những lá bài, cầu pha lê, hay trà khô đâu. Những khúc xương này có một sức mạnh thật sự. Chúng không nói dối. Tuy nhiên hiểu được những gì chúng nói là cả một vấn đề hết sức phức tạp. Nếu cháu muốn, ta sẽ bói cho. Nhưng phải nhớ rằng, biết số mệnh mình, cũng có thể là một điều khủng khiếp. Cháu phải tự quyết định muốn biết hay không. Eragon nhìn những khớp xương trờn trợn sợ, đây là những gì đã từng ở trong thân thể một đồng lọai của Saphira. Làm sao mình có thể quyết định để biết một số mệnh đang chờ đón mình? Xấu tốt ra sao? Thà không biết trước còn hơn. Nó hỏi: - Cháu không có tiền, sao bà lại muốn bói giúp cháu? - Vì Solembum. Việc nó chuyện trò với cháu, làm cháu trở thành người đặc biệt. Dù sao, nó cũng là một ma mèo mà. Trước đây ta cũng đề nghị bói không lấy tiền cho hai người đã nói chuyện với nó. Nhưng chỉ người đàn bà nhận lời. Bà ta tên là Selena. Ôi, nhưng sau đó bà ta lại ân hận. Số phận bà ta nghiệt ngã, đau đớn quá. Eragon xúc động rùng mình, mắt nó mờ lệ. Nó nhủ thầm, Selena là tên mẹ mình. Có phải chính là bà không? Có phải vì số mệnh quá hãi hùng đến nỗi bà đã phải lìa bỏ mình? Nó hỏi: - Bà có nhớ số phận của bà ta ra sao không? - Lâu quá rồi, vả lại trí nhớ của mụ đâu còn minh mẩn như xưa, lú lẫn rồi. Ngoài ra, dù có nhớ, mụ cũng không nói được. Đó là chuyện riêng tư của bà ấy. Tuy vậy, mụ đã rất buồn, không bao giờ mụ quên được vẻ mặt bà ta. Eragon nhắm mắt, ráng bình tĩnh hỏi qua chuyện khác: - Bà đã già đâu mà sợ lú lẫn. Angela cười khoe hai núm đồng tiền: - Cháu bị lừa rồi. Ta già hơn cháu thấy nhiều. Tại ta dùng dược thảo đó thôi. Eragon lại nghĩ, nếu người đó là mẹ mình, bà có thể chịu đựng nổi khi biết số phận, ta cũng có thể chịu nổi. Nó nói: - Bà bói cho cháu. Mặt Angela chợt nghiêm túc. Bà vốc hai nắm xương, mấp máy môi cầu khẩn, rồi mạnh mẽ nói: - Manin! Wyrda! Hugin! Những khúc xương được tung trên miếng vải. Eragon nhận ra những âm cổ ngữ dùng trong ma thuật. Chắc chắn Angela là phù thủy. Bà ta lặng lẽ quan sát những khúc xương trong nhiều phút. Sau cùng, bà nặng nề thở dài, lau trán, rồi lấy vò rượu dưới chân quầy, hỏi Eragon: - Cháu uống không? Eragon lắc. Bà ngửa cổ tu ừng ực. Vừa lau miệng, Angela vừa bảo: - Chưa bao giờ mụ bói một quẻ khó khăn thế này. Cháu nói đúng, tương lai cháu mịt mùng như đêm tối. Mụ chưa từng thấy vận mạng của ai giống cháu. Tuy nhiên mụ sẽ cố sức nói vài điều có thể. Bà ta chỉ dấu hiệu trên khúc xương, một vòng tròn trên một sọc dài: - Sống lâu hay bất tử. Lần đầu tiên ta thấy dấu hiệu này trong số mệnh của một người. Phần nhiều là cây hoàng diệp hay tiểu du, cả hai là dấu hiệu chỉ một khoảng thời gian sống của một người bình thường. Mụ không biết đây là dấu hiệu cho biết cháu sẽ bất tử hay sống một thời gian lâu đến lạ lùng. Nhưng dù thế nào, thì cũng là dấu hiệu cháu sẽ rất thọ. Chẳng có gì ngạc nhiên, Eragon nghĩ, vì mình là Kỵ Sĩ. Angela chỉ ba khúc xương khác: - Đây là đường đi, đây là tia chớp và đây là một thuyền buồm. Chúng nằm cùng một hướng. Con đường cho biết cháu sẽ có được nhiều sự lựa chọn trong tương lai. Ngay từ bây giờ đã xuất hiện một vài sự việc rồi đó. Mụ thấy những cuộc chiến gay go quanh cháu, vài cuộc nổi lên là vì quyền lợi của cháu. Mụ cũng thấy những uy quyền mạnh mẽ của đất nước này đang ráng sức kiểm soát ý chí và định mệnh cháu. Vô vàn những điều có thể xảy ra trong tương lai rất gần, tất cả đều có xung đột và đổ máu, nhưng chỉ duy nhất một điều đem lại hạnh phúc và bình yên. Thận trọng để không bị lầm đường, vì cháu là một trong những người thực sự tự do được chọn lựa số phận mình. Sự tự do đó là một đặc ân, nhưng cũng là một trách nhiệm ràng buộc mình hơn xiềng xích. Rồi bỗng mặt bà ta trở nên rầu rĩ: - Tuy nhiên, như đối nghịch lại, đây là tia chớp. Một điềm gở khủng khiếp. Một vận rủi bao phủ cháu, nhưng ta không biết là chuyện gì. Chỉ biết một phần của chuyện đó là sự chết chóc. Một cái chết sắp xảy ra và sẽ làm cháu vô cùng đau đớn. Còn cái chết nữa chờ đợi cháu trong một chuyến đi xa. Hãy nhìn kỹ khúc xương này. Cháu thấy chiếc thuyền buồm chấm dứt ra sao. Không thể nào rõ ràng hơn. Số cháu sẽ phải xa đất nước này mãi mãi. Cháu sẽ ngừng lại đâu, mụ không biết, nhưng sẽ không bao giờ trở lại Alageasia nữa. Điều này không thể nào tránh được. Những lời nói làm Eragon sợ hãi. Lại thêm một cái chết nữa sao? Mình sẽ phải mất ai đây? Rồi nó nghĩ đến Roran, đến quê hương. Chuyện gì có thể bắt mình phải lìa xa nơi này? Mình sẽ đi về đâu? Nếu là miền đất bên kia đại dương hay miền đông, ngòai thần tiên, ai biết được chúng nằm ở nơi nào? Angela vuốt mặt, nói tiếp: - Khúc xương tiếp theo dễ đoán hơn và có vẻ vui hơn. Eragon nhìn một bông hồng nằm giữa mặt trăng lưỡi liềm. Angela mỉm cười nói: - Trong tương lai, cháu sẽ gặp một chuyện tình rất hào hùng. Vì mặt trăng là dấu hiệu kỳ diệu tuyệt vời. Mối tình này đủ sức mạnh củng cố cả một đế quốc. Mụ không biết kết cuộc có hạnh phúc, tốt đẹp không, nhưng người yêu của cháu là một cô gái con nhà quyền quí. Cô ta đẹp, thông minh, và đầy uy quyền. Eragon kinh ngạc nghĩ, con nhà quyền quí? Làm sao có thể xảy ra chuyện đó? Mình chỉ là thằng bé nhà quê nghèo xơ xác. - Bây giờ là mảnh xương cuối cùng. Thân cây và rễ rơn trà bắt chéo nhau. Mụ mong là mình lầm, nhưng rõ ràng có sự phản bội hiển hiện. Và điều phản phúc này nằm chính trong gia đình cháu. Eragon phản đối ngay: - Anh Roran sẽ không làm điều đó. - Mụ không biết. Đó là những gì có trên xương và chúng không bao giờ nói dối. Eragon cố nén sự nghi ngờ đang gặm nhấm tâm can nó. Lý do gì có thể làm Roran trở thành người phản bội nó. Angela đặt bàn tay vỗ về an ủi lên vai Eragon và đưa bình rượu. Lần này, Eragon nhận uống. Bà ta bảo: - Cháu không nên lo ngại quá về những chuyện chưa xảy ra. Cách duy nhất tương lai có thể làm hại ta, chính là vì sự lo lắng. Mụ bảo đảm, ngay sau khi bước ra ngoài trời sáng sủa kia, cháu sẽ cảm thấy thỏai mái hơn nhiều. - Bà biết cổ ngữ? - Cháu biết cổ ngữ, nói chuyện được với ma mèo, có một tương lai rất thú vị. Một chàng tuổi trẻ, một xu không dính túi, lang thang, xơ xác, lại được một tiểu thư khuê các thương yêu. Cháu là ai? Eragon nhận thấy con ma mèo chưa cho bà biết nó là Kỵ Sĩ. Nó suýt nói tên giả "Evan", nhưng rồi quyết định: - Cháu là Eragon. - Đó là tên hay chức danh của cháu? - Cả hai. Eragon mỉm cười nói, vì nó nghĩ đến cái tên người Kỵ Sĩ đầu tiên. Angela bảo: - Bây giờ ta lại càng thêm quan tâm đến tương lai của cháu. Còn lão già rách rưới đi với cháu là ai? - Tên ông ấy là Brom. Angela bỗng cười sằng sặc, cười gặp cả mình, chảy nước mắt. Bà cố nín cười, uống ngụm rượu, thở như đứt hơi. Eragon hỏi: - Bà làm sao vậy? - Ồ, không, không, đừng giận. Chẳng là trong giới của mụ có những người biết lão. Mụ e là số phận của lão già khốn khổ đó, có những điều làm chúng ta buồn cười. - Bà đừng nhạo báng ông ấy như thế. Khó có người nào tốt hơn ông Brom. - Bình tĩnh, bình tĩnh. Ta biết chứ. Nếu có dịp thuận tiện, chúng ta gặp lại, mụ sẽ cho cháu biết về điều này. Nhưng đồng thời cháu nên.... Bà ta ngưng bặt khi ma mèo chen vào giữa hai người, lom lom nhìn Eragon: "Mi lắng nghe kỹ hai điều ta nói đây. Đến thời điểm mi cần vũ khí, hãy tìm dưới gốc một cây Menoa. Và khi, dường như mi bị mất tất cả, sức tàn lực kiệt, hãy tới tảng đá Kuthian và nói lên tên mi, để mở Hầm - Của - Các - Linh - Hồn. Eragon chưa kịp hỏi gì thêm, con ma mèo đủng đỉnh ve vẩy đuôi, quay đi. Angela lắc đầu bảo: - Mụ không biết và không muốn biết nó đã nói gì với cháu. Vì đó là chuyện riêng tư. Cháu không được cho ai biết. - Cháu phải đi thôi. - Nếu muốn, cháu cứ đi. Hãy suy nghĩ những gì mụ và Solembum đã nói. - Cám ơn bà đã bói giúp cháu. Eragon phải nhắm mắt một lúc trước ánh nắng chói chang ngoài đường. Rồi vừa suy nghĩ những gì mới nghe được, nó vừa chạy ra ngoài tường thành, đến nơi Saphira trú ẩn. Từ chân vực, nó gọi Saphira. Khi cả hai ở trên đỉnh, Eragon kể lại những gì mới xảy ra và nói thêm: "Anh nghĩ, ông Brom nói đúng, dường như anh toàn xuất hiện ở những nơi lộn xộn." "Hãy nhớ những điều ma mèo nói với anh. Quan trọng đó." "Sao em biết?" "Em không chắc, nhưng những cái tên nó nhắc đến nghe rất quan trọng. Đá Kuthian? Chúng ta không được quên những gì nó nói." "Em nghĩ, anh có nên kể lại với ông Brom không?" "Tùy anh. Nhưng hãy nghĩ đến điều này: ông ấy không có quyền biết về tương lai của anh. Còn nói về ma mèo Solembum, sẽ dẫn đến nhiều câu hỏi mà chắc anh không muốn trả lời. Nếu anh hỏi ông về ý nghĩa những câu nói của nó, ông sẽ hỏi anh nghe được từ đâu. Anh nghĩ có đủ tài nói dối để ông ấy tin nổi không?" Chúng chuyện trò và ngắm cảnh rừng cho đến chạng vạng tối. Eragon vội vã trở về. Một người hầu cho biết chủ nhân và ông khách đang ở trong văn phòng. Eragon bước vào khi ông Brom đang phì phà tẩu thuốc. Nó hỏi: - Công chuyện tới đâu rồi, ông? - Căng lắm. - Vậy là ông đã gặp Brand? - Gã quản lý này là một tay cạo giấy tồi tệ nhất. Hắn tuân thủ chi li từng qui luật, hoạnh hoẹ người khác đủ điều. Không có gì lay chuyển nổi hắn, kể cả hối lộ. - Bây giờ phải làm sao? - Ta sẽ dành nguyên tuần tới để dạy cháu đọc. - Rồi sau đó? - Sau đó ta sẽ dành cho gã Brand này một sự ngạc nhiên. Rồi ông từ chối, không tiết lộ thêm chi tiết nào nữa. Phòng ăn thật sang trọng. Jeod ngồi tại đầu bàn, Helen với đôi mắt khó đăm đăm, ngồi đầu bàn đối diện. Eragon và ông già kẹt giữa hai vợ chồng chủ nhân. Chủ khách lặng lẽ ăn. Eragon thầm nhủ, không sao, mình đã từng dự tiệc đám ma ở Carvahall. Nhưng trong những đám tang cũng không đến nỗi ảm đạm thế này. Nó cảm thấy sự bất mãn của Helen tràn ngập suốt bữa ăn. Tập đọc và những mưu đồ Brom viết một chữ cổ trên tấm da thuộc, bảo Eragon: - Học đi, đây là chữ a. Chuyện học hành của Eragon bắt đầu như thế. Tuy lạ lẫm, khó khăn và phải ráng hết sực, nhưng nó rất say mê. Không có gì khác để làm, và với một thầy giáo giỏi, dù đôi khi nóng tính, Eragon tiến bộ rất nhanh. Mỗi sáng thức dậy, điểm tâm xong, nó vào ngay văn phòng để học đọc và viết. Trong thời gian đó, nó không hề nghĩ ngợi đến chuyện gì khác, ngoài việc học, đến nỗi, nhắm mắt, nó cũng thấy chữ nghĩa nhảy múa trong đầu. Trước bữa ăn tôi, nó lại cùng ông Brom ra sau nhà luyện kiếm. Đám người hầu và lũ trẻ con thô lố mắt đứng nhìn. Sau đó, Eragon luyện phép thuật trong căn phòng kín đáo. Mối lo duy nhất của nó là Saphira. Chiều nào nó cũng đi thăm cô bạn rồng, nhưng vẫn không đủ thời gian cho chúng kể hết chuyện. Ban ngày, tránh bị phát hiện, Saphira phải bay xa để kiếm mồi. Eragon tìm mọi cách để giúp thêm, nhưng giải pháp tốt nhất cho lương thực và sự cô đơn của Saphira vẫn là mau đi khỏi thành phố này. Hàng ngày, những tin tức dữ dội càng tràn lan trong thành phố Teirm. Các nhà buôn kể lại những vụ tấn công khiếp đảm dọc vùng duyên hải. Nhiều người khoẻ mạnh biến khỏi nhà vào nửa đêm, sáng ra thấy xác họ bị xé ra từng mảnh. Eragon thường nghe ông Brom và Jeod thì thầm bàn bạc, nhưng hai người im bặt khi vừa thấy nó. Một tuần lễ trôi qua, Eragon viết còn vụng, nhưng đã đọc được cả trang, tuy chậm, nhưng không phải hỏi ông già. Ông khuyến khích: - Không sao, cháu đã có thể giúp được ta rồi. Một chiều, ông Brom tụ họp Eragon và Jeod. Ông bảo Eragon: - Cháu đã có thể giúp chúng ta, và lúc này tới thời gian tiến hành rồi. - Chương trình của ông là sao? Nghe Eragon hỏi, ông già chỉ lạnh lùng cười. Jeod lầm bầm: - Nhìn vẻ mặt kia, ta biết ngay là sẽ có rắc rối từ đầu. - Hơi quá lời, những cũng có lý. Đây, kế hoạch của chúng ta sẽ như sau..... Nằm trong phòng, Eragon truyền tin cho Saphira: "Chúng ta sẽ rời đây đêm nay hay sáng mai thôi." "Thật bất ngờ. Nhưng anh có được an toàn trong việc làm phiêu lưu này không?" "Chưa biết được. Có thể phút cuối sẽ bị lính đuổi bắt. Nhưng đừng lo, ông Brom và anh đều có thể dùng phép thuật và đánh đấm không tồi." Nằm ngửa ngó trần nhà cho đến khi giấc ngủ chập chờn tới, Eragon bỗng hoang mang nghĩ, mình không muốn đi khỏi đây, thời gian vừa qua mình đã được sống một cuộc sống gần như bình thường. Được ở lại đây, sống như bao người khác, thật tuyệt vời. Nhưng còn Saphira thì sao? Những giấc mơ bất ngờ hiện ra trong tiềm thức. Có lúc nó vùng vẫy sợ hãi, có khi cười ha hả. Rồi một giấc mơ đến thật rõ ràng: nó thấy một phụ nữ trẻ, cúi đầu ủ rũ, bị xiềng trong một phòng giam lạnh lẽo. Qua song cừa sổ trên tường cao, ánh trăng soi tỏ mặt cô. Một giọt nước mắt lăn dài trên má, long lanh như hạt kim cương. Eragon giật mình thức giấc và thấy mình đang nức nở khóc, rồi lại chìm vào giấc ngủ. Những tên trộm trong lâu đài Eragon thức giấc khi mặt trời chiều vàng óng sưởi ấm lưng. Nó nằm lơ mơ cho đến khi cảm thấy lạnh vì mặt trời chìm khuất chân trời. Gần tới giờ rồi, vừa nghĩ, Eragon vừa khoác cung tên lên vai. Nó không mang theo kiếm, vì không thích, kiếm chỉ làm nó thêm chậm chạp. Nếu cần hạ địch thủ, nó sẽ dùng phép thuật hay cung tên. Khoác áo nịt da ra ngoài sơ mi, Eragon sốt ruột chờ trời tối hẳn. Eragon cảm thấy căng thẳng khi theo hai ông già ra khỏi nhà. Lúc qua cửa hàng dược thảo, nó thoáng thấy một bóng đi trên mái nhà. Nhưng nhìn kỹ, nó không thấy ai. Lòng bàn tay nó rần rần ngứa. Tới lâu đài, trời đã hoàn toàn tối. Nhìn những bức tường vây kín pháo đài, Eragon rùng mình, nếu phải ngồi tù nơi này, thật chẳng thú vị gì. Jeod tiến lên đập cổng. Một lính gác thò đầu ra, lè nhè: - Cái gì? - Chúng tôi cần vào, vì thằng cháu này bỏ quên một vật rất quí trong phòng tôi. Phải tìm lại ngay. Rõ ràng tên lính muốn trở lại ngay bàn nhậu: - Vào đi, nhưng nhớ đập cho thằng nhóc một trận cho hết tật quên đi. Jeod dúi vào tay gã mấy đồng tiền. Jeod vội vàng hướng dẫn hai người vào lâu đài. Tới phòng hồ sơ, Brom để tay lên khóa cửa lẩm bẩm. Cánh cửa nhẹ nhàng bật ra. Lấy một cây đuốc trên tường, rồi ông khép cửa sau lưng lại. Trong phòng chồng chất đầy những thùng da thuộc. Jeod lần lượt lướt qua tất cả những tấm da đầy chữ. Tới cuối phòng ông ngừng lại, nói: - Đây rồi. Hồ xơ chuyển hàng trong năm năm qua. Dấu niêm phong bằng sáp có ghi ngày tháng. Eragon hỏi: - Bây giờ chúng ta làm gì? Jeod nói: - Bắt đầu từ cao xuống thấp. Nhiều hồ sơ chỉ ghi tiền thuế, bỏ qua đi. Tìm những gì liên quan tới dầu Seithr thôi. Ông lấy ra một cuốn da đã mang theo và lọ mực, cây bút lông. Brom ôm một chồng hồ sơ trải trên sàn. Eragon ngồi quay mặt ra cửa để canh chùng và phụ tìm kiếm với ông già. Tuy nhiên những chữ viết ở đây không dễ đọc như những gì nó đã học. Rất nhiều tàu cặp bến miền bắc, nhưng ba người chỉ ghi lại những tàu có chở dầu Seithr. Thình lình Eragon cảm thấy như cổ mình bị châm chích. Nó cố tiếp tục làm việc, nhưng sự khó chịu cứ tăng dần. Nó lắc đầu, ngẩng lên, chợt giật thót người, kinh ngạc: một thằng bé đang nằm ép mình trên thành cửa sổ, mắt láo liên, mái tóc đen bù xù cài một cành ô rô nhỏ. Một tiếng nói xuyên vào đầu Eragon: "Mi cần giúp không?" "Mi đó sao?" "Còn ai khác nữa?" "Nếu ta không bị mắt đánh lừa, thì chính là mi." Thằng nhóc cười, nhe những cái răng nhọn hoắt. "Trông ta ra sao, thì ta vẫn là ta. Mi không tin một ma mèo có thể làm được tất cả sao?" "Mi đang làm gì ở đây?" "Điều đó còn tùy vào việc mi đang làm. Nếu mi đọc hồ sơ để giải trí, ta chẳng có lý do gì để đến đây. Còn nếu chuyện mi làm là phạm pháp, thì ta báo cho mi làm phúc: gã lính gác bọn mi mới hối lộ đó, hắn đã kể hết cho tên lính thay ca trực. Và một toán lính của triều đình sắp xuất hiện để tóm cổ bọn mi." "Cám ơn đã cho ta biết." "Ta nhớ là đã nói với mi vài điều. Mong mi hãy nhớ cho kỹ." "Lần trước mi nhắc đến một cái cây và một cái hầm là có nghĩa gì?" "Ý nghĩa chính xác là những gì ta đã nói." Không để Eragon kịp hỏi thêm, ma mèo biến mất khỏi cửa sổ. Eragon vội nói: - Tụi lính đang truy lùng chúng ta. Brom hỏi ngay: - Sao cháu biết? - Cháu nghe được tụi gác nói. Tên mới thay ca đã cho người đi tìm chúng ta. Phải ra khỏi đây ngay. Chắc chúng đã vào kho của ông Jeod mà không thấy chúng ta ở đó. - Không sao. Làm cho xong ngay đi. Cả ba vội vàng ghi chép gấp những chi tiết còn lại. Mấy phút sau, Brom thu dọn tất cả những tấm da lên kệ, Jeod nhét bút và lọ mực vào bao, Eragon cầm cây đuốc. Vừa ra khỏi cửa phòng đã nghe những bước chân rầm rầm tiến tới. Brom tức tối: - Mẹ kiếp! Cửa không khóa được. Ông đặt tay lên cửa. Tiếng ổ khóa vừa lách cách đóng lại, đám lính cũng vừa xuất hiện. Một gã quát lên: - Tránh xa cái cửa đó ra. Ba người tiến lại đám lính. Một tên cao lớn nhất hỏi: - Định vào phòng hồ sơ làm gì? Eragon nắm chặt cây cung, sẵn sàng chạy. Jeod nói giọng chắc nịch, nhưng mồ hôi cổ đầm đìa: - Chúng tôi bị lạc. Một gã lườm lườm nghi hoặc, ra lệnh cho đàn em: - Kiểm tra trong phòng. Eragon nín thở khi tên lính tiến lại, loay hoay mở cửa, nhưng gã quay lại nói với chỉ huy: - Thưa sếp, cửa khóa. Gã chỉ huy gãi cằm: - Vậy thì được. Ta không biết các người định làm gì, nhưng cửa còn khóa, các người được tự do. Đi thôi. Đám lính quay người, trở lại đồn canh. Mình không thể nào tin nổi, Eragon nghĩ, chúng đang tiếp tay cho mình thoát ra. Tại cổng chính, một gã lính chỉ tay nói: - Giờ thì ra khỏi đây, đừng giở trò gì nữa. Eragon cảm thấy đôi mắt gã lính gác dõi sau lưng khi ba người ra khỏi lâu đài. Cánh cổng vừa khép lại, mặt rạng rỡ nụ cười chiến thắng, Eragon nhảy tớn lên. Ông già lừ mắt bảo: - Đi đứng đàng hoàng, muốn nhảy múa hãy để về nhà đã. Vừa vào tới phòng, nó kêu lên: - Thành công rồi. Jeod trải tấm bản đồ Alagaesia lên bàn, bảo: - Phải, nhưng hãy thử xem có đáng công lao không đã. Bên trái bản đồ, biển kéo dài tít tắp về tây. Dọc miền duyên hải, rặng Spine trải dài như vô tận. Sa mạc Hadarac nằm chính giữa bản đồ. Phía đông trống rỗng. Đâu đó trong khoảng trống là sào huyệt của Varden. Phía nam là Surda, một xứ nhỏ đã tách rời khỏi triều đình, sau sự sụp đổ của các Kỵ Sĩ. Eragon từng nghe nói, Surda âm thầm yểm trợ cho Varden. Trên bản đồ, phía đông núi Beors còn bỏ trống. Gần ranh giới phía đông Surda là dãy núi Beor. Nó cũng đã nghe nhiều chuyện về rặng núi này, rặng núi được coi như cao gấp mười lần núi Spine. Riêng Eragon, nó không bao giờ tin điều đó là sự thật. Ngoài khơi Surda có năm hòn đảo: Nía, Parlim, Uden, Illum và Beirland. Nía chẳng hơn gì một khối đá nhô lên, nhưng Beirland là đảo lớn nhất, có một thành phố nhỏ. Xa hơn, gần Teirm, là đảo Răng Cá Mập. Về phía bắc còn một đảo nữa, rộng bao la và hình dáng như một bàn tay nổi những cục u. Không cần nhìn, Eragon cũng biết tên, đó là đảo Vroengard, đất tổ của các Kỵ Sĩ. Nơi đây từng có thuở vinh quang, nhưng bây giờ trở thành chốn hoang vu, chỉ còn những quái vật lạ lùng lai vãng. Chính giữa Vroengard là thành phố bỏ hoang Doru Areaba. Carvahall của nó chỉ là một chấm nhỏ trên sa mạc Palancar. Ngang tầm với Carvahall, nhưng ở bên kia đồng cỏ là khu rừng Du Weilenvarden. Như phía đông núi Beor, miền đông cũng chưa có trên bản đồ. Một phần phía tây đã có dân cư, nhưng sâu trong rừng núi vẫn chưa được khám phá và đầy bí ẩn. Rừng rậm hoang dã hơn cả núi rừng Spine. Vài người can đảm đã mở đường thám hiểm, nhưng khi trở ra đã hóa điên khùng. Eragon rùng mình khi nhìn Uru'baen nằm giữa trung tâm đế quốc. Từ nơi này, cùng với con rồng đen Shruikan, vua Galbatorix đang trị vì đất nước. Nó chỉ ngón tay vào Uru'baen nói: - Chắc chắn Ra'zac có nơi ẩn trú tại đây. Brom nói ngay: - Tốt hơn, cháu nên cầu mong chúng không chỉ có duy nhất một sào huyệt tại đó. Nếu không, cháu không thể nào mon men lại gần chúng được. Ông đẩy tấm bản đồ ra xa. Jeod lấy tấm da ra, bảo: - Từ những gì tôi thấy trong hồ sơ, năm năm qua nhiều chuyến tàu chở dầu Seithr đến tất cả những tỉnh lớn trên cả nước. Có thể cho rằng, tất cả đã làm theo chỉ thị của nhiều nhà kim hoàn lớn. Nếu không có thêm thông tin, khó lòng khoanh hẹp danh sách điều tra. - Tôi nghĩ ta nên loại trừ bớt một số tỉnh. Ra'zac chỉ có thể làm theo lệnh vua, đến một số tỉnh cần thiết. Để có thể di chuyển ngay đến những nơi được lệnh, chúng phải ở tại một ngã tư cho thuận tiện. Ngã tư này phải đủ rộng lớn để chúng dễ dàng lẩn khuất. Và cũng phải là nơi có nhiều người buôn bán, để chúng có lương thực chẳng hạn. - Có lý. Như vậy chúng ta có thể lọai bỏ hầu hết những tỉnh phía bắc. Chỉ còn lại những tỉnh lớn, Teirm, Gil'ead và Ceunon. Tôi biết chúng không có ở Teirm, và tôi ngờ là dầu được chuyển tới Narda, nhưng Narda quá nhỏ, còn Ceunon lại quá biệt lập....chỉ có Gil'ead. - Có thể Ra'zac ở đó. Còn những tỉnh miền nam? - Miền nam thì phải nhắc tới Uru'baen, nhưng đó không phải là nơi thích hợp để nhận hàng. Nếu có kẻ nào trong triều bị giết bởi dầu Seithr, các bá tước, lãnh chúa sẽ dễ dàng phát hiện, vì số lượng khổng lồ dầu nhà vua nhập về. Chúng ta nên xem xét từ nhiều tỉnh khác. - Hồ sơ chỉ có danh sách các tỉnh Kasta, Dras - Leona, Arougs và Belaona. Kuasta không làm việc cho Ra'zac được, vì bốn bề là núi. Aroughs, dù là trung tâm mua bán, nhưng cũng cô lập như Ceunon. Chỉ còn lại hai tỉnh gần nhau là Dra - Leon và Belatona. Tôi nghĩ là Dras - Leon và Belatona. Tôi nghĩ là Dras - Leon, vì nó lớn và địa điểm thuận lợi hơn. - Và cũng là nơi hầu hết hàng hóa của triều đình thường xuyên qua lại. Đó là nơi ẩn cư rất tốt cho tụi Ra'zac. Trong hồ sơ ghi rõ, kể từ đầu năm, đã có ba chuyến tàu chuyển dầu tới Dras - Leon. Hai tuần một chuyến. Tất cả đều do một nhà buôn xuất đi. Năm ngoái và năm kia cũng vậy. Tôi nghi tay nhà buôn này, hay nhóm này, rất nhiều tiền mới đủ khả năng buôn số lượng dầu Seithr lớn như vậy. - Gil'ead thì sao? - Tỉnh này khó thông thương. Những năm qua, họ chỉ nhập dầu hai lần. À...hình như chúng ta quên...Helgrind? - Đúng rồi. Cổng U Tối. Bao nhiêu năm rồi tôi mới chợt nhớ đến cái tên này. Anh nói đúng, Cổng U Tối tại Dras - Leon thành một điểm quá hoàn hảo cho lũ Ra'zac. Chúng ta sẽ tới đó. Eragon lo lắng nghĩ, Helgrind là cái gì? Mình tưởng sẽ vui mừng được tiếp tục cuộc săn lùng, trái lại, bây giờ mình cảm thấy như vực thẳm đang chờ trước mặt. Jeod cuộn tấm bản đồ, đưa cho ông Brom: - Cuộc đi này đưa anh đến quá nhiều vùng đất lạ, tôi nghĩ anh sẽ cần đến bản đồ này. Tôi cảm thấy áy náy vì không đi được cùng anh. Lòng tôi thì rất muốn, nhưng rồi lại nghĩ đến tuổi tác và trách nhiệm gia đình. - Tôi hiểu. Anh còn cuộc sống tại đây. Cũng đến lúc phải gầy dựng thế hệ mai sau. Anh đã hoàn thành phần việc của mình rồi. Chúc hạnh phúc. - Còn anh? Cứ suốt đời không ngừng nghỉ sao? - Tôi nghĩ cũng sắp phải nghỉ rồi, nhưng không phải lúc này. Hai ông già ra khỏi phòng. Trước khi ngủ, Eragon kể cho Saphira nghe cuộc phiêu lưu vừa qua. Một lỗi lầm đắt giá Buổi sáng, Eragon cùng ông Brom đóng yên cương sửa soạn lên đường. Jeod tiễn bạn, còn Helen đứng trong cửa nhìn ra. Hai bạn già nắm chặt tay nhau, Jeod bảo: - Tôi sẽ nhớ anh lắm, ông lão ạ. - Tôi cũng vậy. Brom trả lời, rồi cúi mái đầu bạc về phía Helen: - Đa tạ tấm lòng hiếu khách của chị. Chị thật tốt bụng. Mặt Helen đỏ bừng. Eragon tưởng bà ta sắp vả vào mặt ông già. Nhưng ông vẫn tỉnh bơ tiếp: - Chị có một người chồng rất tốt, hãy săn sóc anh ấy. Hiếm có người can đảm và cương nghị được như anh nhà. Tuy vậy, gặp lúc khó khăn anh ấy cũng khó mà chịu đựng, nếu không có sự an ủi, khích lệ của những người thân yêu. Eragon thấy vẻ mặt vừa phẫn uất vừa đau đớn của bà chủ nhà. Mắt bà long lên trước khi sập sửa. Jeod thở dài, vuốt tóc. Eragon cám ơn tất cả những giúp đỡ của ông mấy ngày qua, rồi nhảy lên lưng con Cadoc. Ra khỏi cổng thành Teirm, lúc hai người đang cưỡi ngựa bên ngòai bức tường khổng lồ, Eragon thoáng thấy một bóng di động. Solembum nằm bẹp trên cỏ ve vẫy đuôi. Con ma mèo dõi đôi mắt đầy bí ẩn nhìn theo hai người. Qua khỏi thành phố một đoạn đường, Eragon chợt hỏi: - Ông ơi, ma mèo là gì? - Sao tự nhiên cháu lại hỏi vậy? - Cháu nghe được ở Teirm. Chúng không có thật, phải không, ông? - Chúng hoàn toàn có thật. Trong những năm tháng huy hoàng của Kỵ Sĩ, chúng cũng nổi tiếng như rồng. Vua chúa, thần tiên nuôi nó làm bầu bạn. Tuy nhiên ma mèo trái tính lắm, muốn làm gì thì làm. Nhưng ta e là dòng giống đó gần đây rất hiếm. - Chúng có phép thuật không? - Không ai biết chắc, nhưng chúng có thể làm những điều rất khác thường. Dường như chúng luôn biết trước những chuyện sắp xảy ra, và tìm mọi cách để tham gia vào. - Còn...Helgrind là gì? - Cháu sẽ thấy, khi tới Dras - Leona. Khi không còn nhìn thấy thành Teirm nữa, Eragon vận công gọi Saphira. Tiếng gọi thầm mạnh tới nỗi làm con Cadoc rối rít vẫy tai khó chịu. Saphira trả lời, dốc toàn sức lực bay tới. Hai người chỉ thấy thoang thoáng một bóng đen nhô ra trong màn mây, tiếp theo là tiếng ì ầm khi Saphira vẫy cánh là là xuống. Những đường gân đen trên màng cánh nổi rõ dưới ánh mặt trời. Eragon trao dây cương Cadoc cho ông già: - Cháu sẽ gặp ông trong bữa ăn trưa. - Chúc vui vẻ. Gặp lại mi ta mừng lắm, Saphira. "Cháu cũng vậy." Eragon nhảy phóc lên, ôm chặt vai Saphira, trong khi ả rồng bay vút lên cao. Vẫy nhẹ đuôi, nó uốn lượn mình trong không trung. "Ôm chặt nhé." Báo cho Eragon xong, cô ả rít lên một tiếng như kèn xuất quân, đảo một vòng thật ngoạn mục. Eragon thích thú la lên, dang rộng hai tay, hai chân quắp chặt. "Anh không ngờ không có yên, em đảo quá trời như vậy, mà anh chẳng bị gì." Ả khoái trá cười kiểu ho sù sụ. Nhưng đến trưa hai đùi Eragon bỏng rất vì cọ xát quá lâu vào vảy rồng, còn mặt và tay tê dại vì trời lạnh. Khi xuống đất ăn trưa, Eragon phải lùa tay vào áo và ngồi chỗ nắng để sưởi cho ấm người. Đang ăn, nó hỏi Saphira: "Anh cưỡi Cadoc được chứ? Anh muốn hỏi ông Brom mấy chuyện." "Được thôi, nhưng anh phải kể cho em nghe ông ấy nói gì." Ăn xong, Saphira bay trên không, còn Eragon và ông Brom lại dong duổi ngựa trên đường mòn. Eragon lên tiếng: - Cháu muốn nói chuyện với ông. Cháu đã muốn nói ngay từ khi mình mới tới Teirm, nhưng cháu quyết định đợi đến lúc này mới nói. - Về chuyện gì? - Nhiều chuyện đang xảy ra, cháu chẳng hiểu gì cả. Thí dụ, ai là "những người bạn" của ông, và vì sao ông phải trốn tránh ở Carvahall? Cháu tin ông bằng cả tính mạng cháu, vì vậy cháu vẫn còn đi cùng ông, nhưng cháu cần phải biết ông là ai và ông đang làm gì? Ông đã lấy trộm gì tại Gil'ead, và tuatha du orothrim là gì mà ông định bắt cháu vượt qua? Cháu nghĩ, sau tất cả những chuyện đã xảy ra, cháu xứng đáng để được ông cắt nghĩa. - Cháu đã nghe trộm chúng ta? - Chỉ một lần. - Ta thấy cháu chưa được học cho có tư cách đàng hoàng. Điều gì làm cháu nghĩ những chuyện này liên quan tới cháu? - Thật sự thì không có gì. Cháu chỉ lấy làm lạ vì sự trùng hợp, tự nhiên ông tới trốn tại Carvahall đúng vào lúc cháu nhặt được trứng của Saphira, và ông lại biết quá nhiều về rồng học. Còn những bằng cớ khác, mà cháu gần như hoàn toàn không để ý, nhưng bây giờ nghĩ lại cháu thấy quá rõ ràng. Chẳng hạn như, mới lần đầu nhìn thấy, ông đã biết chúng là Ra'zac. Và tại sao chúng lại bỏ chạy khi thấy ông? Cháu không thể nào không nghĩ ông không có liên quan với sự xuất hiện của quả trứng rồng. Nhiều điều ông không cho cháu biết, vì vậy cháu và Saphira không thể làm ngơ với những chuyện có thể gây nguy hiểm cho chúng cháu. Một thoáng u buồn trên mặt Brom, ông ghì cung Hỏa Tuyết đứng lại: - Cháu không đợi được sao? Nó lắc đầu, ông thở dài nói: - Nếu cháu không quá nghi ngờ, thì chuyện này chẳng có vấn đề gì. Nhưng nếu cháu không thắc mắc đặt câu hỏi, thì cháu lại không đáng để ta tốn thì giờ với cháu. Ta sẽ nói, nhưng phải hiểu rằng ta không tiết lộ tất cả đâu. Không phải ta muốn giấu giếm, nhưng vì ta không muốn tiết lộ những bí mật không phải của ta. Có những lời thêu dệt trong chuyện kể này, cháu nên tìm gặp những người có liên quan mà tìm ra sự thật. - Dạ, ông cứ nói những gì có thể nói được. - Sự bí mật của ta đều có lý do. Ta cố bảo vệ cho cháu, bằng cách che chở cháu khỏi những sức mạnh có thể xé cháu ra từng mảnh. Một khi cháu biết chúng và mục đích của chúng, cháu sẽ không còn cơ may sống yên ổn một ngày. Cháu phải lựa chọn theo phe nào và chống lại phe nào. Thật sự cháu còn muốn biết không? - Cháu không muốn sống một đời ngu dốt. - Kiên quyết lắm. Rất tốt, vậy thì nghe đây: một cuộc chiến đang bùng nổ tại Alageasia giữa phe Varden và triều đình. Tuy nhiên, cuộc xung đột của họ đã vượt quá xa những phân tranh bằng vũ lực. Họ đã kẹt vào một vụ đối đầu, chống chọi nhau khủng khiếp, mà trung tâm điểm là....cháu. - Cháu? Không thể như thế được. Cháu không hề dính dáng tới họ. - Chưa đâu. Nhưng sự tồn tại hiển nhiên của cháu là mục tiêu cuộc chiến này. Triều đình và phe Varden không đánh nhau để dành dân hay đất nước này. Mục đích của họ là kiểm soát thế hệ Kỵ Sĩ tiếp theo. Và cháu là kẻ đầu tiên. Ai kiểm soát được lớp Kỵ Sĩ này sẽ trở thành chúa tể quyền hạn vô biên của Alageasia. Eragon nghe những lời nói của ông Brom mà không thể nào hiểu nổi. Quá nhiều người quan tâm tới nó và Saphira. Tất cả chuyện chiến tranh chỉ vì nó giữa triều đình và phe Varden làm nó gần như không còn thở nổi. - Nhưng ngoài những tên phản đồ, các Kỵ Sĩ đều đã chết. Và như cháu biết, những phản đồ chạy theo Galbatorix cũng chết cả rồi mà. Ở Carvahall, có lần ông nói với cháu, không ai biết Alageasia còn rồng hay không. - Về chuyện rồng, ta đã nói dối. Mặc dù các Kỵ Sĩ không còn nữa, nhưng vẫn còn ba quả trứng rồng. Cả ba đều là sở hữu của nhà vua Galbatorix. Thật ra là còn hai, vì Saphira đã nở rồi. Nhà vua đã cứu được ba trứng này trong cuộc chiến cuối cùng với các Kỵ Sĩ. - Vậy là chẳng bao lâu nữa sẽ có thêm hai Kỵ Sĩ trung thành với nhà vua? - Chính xác. Và một dòng dõi độc ác lại phát sinh. Nhà vua đang ráo riết tìm ra người có thể khiến trứng nở. Còn phe Varden cũng ráo riết tìm mọi cách để giết chết những ứng viên đó, hoặc phải lấm trộm được trứng rồng. - Nhưng trứng của Saphira từ đâu tới? Kẻ nào có thể lấy trộm được của nhà vua? Và tại sao ông biết tất cả chuyện này? Ông già cười cay đắng: - Cháu hỏi nhiều quá. Tất cả vở kịch này có hai hồi. Hồi một xảy ra trước khi cháu ra đời rất lâu. Từ khi ta còn trẻ và còn khờ dại lắm. Ta căm ghét triều đình, với những nguyên do chỉ mình ta biết, và ta quyết phá hoại triều đình đó bằng mọi giá. Duyên may run rủi, ta quen biết một nhà học giả, đó là ông Jeod. Ông khoe mới khám phá ra một quyển sách, có viết về một con đường bí mật xâm nhập lâu đài của nhà vua. Ta sốt sắng đưa Jeod đến gặp Varden, đó là "những người bạn" của ta. Và họ lên kế hoạch trộm trứng rồng. - Phe Varden? - Tuy nhiên, có những chuyện xảy ra ngoài ý muốn, tên trộm của chúng ta chỉ lấy được một trứng. Rồi không biết vì lý do gì, nó ôm trứng bỏ trốn. Jeod và ta được cử đi truy lùng hắn để đem trứng về. Đó là sự khởi đầu một cuộc săn lùng lớn nhất lịch sử. Chúng ta phải đua tốc lực với Ra'zac và Morzan, tên phản đồ cuối cùng còn sống sót, và cũng là bầy tôi tài năng nhất của nhà vua. - Morzan? Nhưng ông ta chính là kẻ phản bội các Kỵ Sĩ để đi theo Galbatorix từ ngày xửa ngày xưa, bây giờ ông ta phải là người thiên cổ rồi chứ? Nói xong nó chợt nhớ tuổi thọ của Kỵ Sĩ kéo dài kinh khủng. Ông già nhướng mày nói: - Đúng, hắn già thật, nhưng mạnh mẽ và tàn nhẫn. Là đệ tử đầu tiên và trung thành nhất của nhà vua, hắn từng có món nợ máu với ta. Vì vậy cuộc săn lùng trứng rồng trở thành cuộc chiến cá nhân giữa ta và hắn. Biết trứng được giữ tại Gil'eah, ta tới đó tử chiến với Morzan và giết được hắn. Trong lúc hỗn chiến, ta và Jeod lạc nhau, nhưng đoạt trứng rồi, ta không còn thời gian để kiếm tìm ông, mà phải trở về ngay trao trứng cho Varden. Varden yêu cầu ta huấn luyện bất kỳ ai sau này sẽ là Kỵ Sĩ mới. Ta đồng ý và đến ẩn mình tại Carvahall, chờ thời cớ đến, Varden sẽ liên lạc nhắn tin. - Rồi vì sao trứng của Saphira lại xuất hiện trong rừng núi Spine? Lại một vụ trộm nữa trong triều đình? - Làm gì có dịp thứ hai được nữa. Chúng canh phòng nghiêm ngặt suốt ngày đêm, đâm đầu vào đó là tự sát. Không, trứng Saphira đến từ Varden. Ta mòn mỏi đợi chờ, nhưng không có tin tức gì. Vì vậy ta không biết chuyện gì xảy ra cho nhóm Varden, nhưng ta đoán phải có sự cố, nên những người bảo vệ quả trứng đó đã phải dùng phép thuật để chuyển nó đến cho ta. Ta sợ rằng người liên lạc của chúng ta đã bị triều đình chặn bắt và Ra'zac được phái đi lùng bắt ta, vì chính ta đã làm hỏng kế họach của triều đình. - Vậy là khi Ra'zac đến Carvahall, chúng chưa biết gì về cháu? - Đúng. Nếu lão Sloan, tên hàng thịt khốn kiếp câm họng, làm sao chúng có thể biết được về cháu. Và mọi việc đã khác hẳn rồi. Chính cháu đã cứu mạng ta. Vì nếu hai tên Ra'zac đó không quá quan tâm đến cháu, chúng đã chộp được ta một cách bất ngờ. Và đó sẽ là màn kết của lão già Brom, người kể chuyện. Lý do duy nhất chúng bỏ chạy là vì ta mạnh hơn cả hai chúng nó, nhất là lúc ban ngày. Chắc hẳn, chúng đã có kế hoạch, đánh thuốc mê để bắt ta vào ban đêm và tra khảo ta phải khai ra nơi cất dấu trứng rồng. - Ông đã nhắn tin cho phe Varden biết về cháu? - Phải, ta chắc họ đang mong ta đưa cháu tới càng sớm càng tốt. - Nhưng ông đã không làm vậy. - Không, ta không làm vậy. - Vì sao? Ở với Varden chẳng an toàn hơn là đuổi theo Ra'zac sao? Nhất là đối với một Kỵ Sĩ tò te như cháu. Ông già nhìn Eragon đầy trìu mến: - Phe Varden toàn những con người nguy hiểm. Nếu đến đó, cháu sẽ vướng vào những thủ đoạn chính trị của họ. Các thủ lĩnh sẽ giao cho cháu những nhiệm vụ, cho dù cháu chưa đủ khả năng hoàn thành. Ta muốn cháu phải được trang bị đầy đủ trước khi đến gần họ. Ít ra trong thời gian truy đuổi Ra'zac, ta không lo có kẻ bỏ thuốc độc vào nước uống của cháu... Ông tủm tỉm cười: - Và làm cho cháu vui khi ta huấn luyện cho cháu...Tuatha du orothrim...nghĩa là một giai đoạn huấn luyện. Ta sẽ giúp cháu tìm ra, kể cả giết chết tụi Ra'zac, vì chúng cũng là kẻ thù của ta. Nhưng rồi cháu vẫn phải có sự chọn lựa. Nếu cháu giết được tụi Ra'zac, con đường duy nhất để tránh khỏi cơn phẫn nộ của nhà vua, là cháu phải tìm sự che chở từ Varden, chuồn tới Surda, theo họ. Hay kêu xin nhà vua rủ lòng thương và theo về với triều đình. Kể cả nếu cháu không giết Ra'zac, cháu vẫn phải đối diện trước hai ngả đường này. Eragon biết cách tốt nhất tránh khỏi ngục tối là gia nhập phe Varden, nhưng nó không muốn bỏ cả cuộc đời để đánh nhau với triều đình như họ. Nó suy đi tính lại từng lời nói của ông Brom, rồi bảo: - Ông vẫn chưa nói, vì sao ông quá rành rẽ về loài rồng như vậy? - À, ta chưa nói sao? Thôi, để khi khác. Tại sao lại là mình, Eragon thắc mắc, mình có gì đặc biệt để có thể trở thành Kỵ Sĩ? Nó hỏi: - Ông đã bao giờ gặp mẹ cháu chưa? - Có, ta đã gặp. - Mẹ cháu như thế nào? Ông già thở dài: - Bà ấy đầy phẩm hạnh và....kiêu hãnh như cậu Garrow của cháu vậy. Đó cũng là thất bại của bà. Dù trong hoàn cảnh nào, bà ấy luôn sẵn lòng cưu mang giúp đỡ những người nghèo khổ, bất hạnh. - Ông biết rõ mẹ cháu không? - Đủ rõ, để khi bà ấy ra đi ta vẫn còn nhớ. Lần đầu tiên Eragon cảm thấy nó ngốc làm sao, khi cứ tưởng Brom chỉ đơn giản là một ông già kể chuyện. Nó kể cho Saphira nghe những gì ông Brom nói, cô ả rất khoái, nhưng nhất định phản đối chuyện mình là vật sở hữu của vua Galbatorix. Khi dừng chân để qua đêm, ông già lo nấu nướng, Eragon đi tìm nước. Nó lần theo tiếng nước róc rách chảy. Tới con suối, Eragon nằm nép mình trên bờ, ngắm nước trắng xóa tung toé trên những tảng đá. Bọt nước lạnh ngắt từ trên núi đổ xuống làm nó rùng mình. Eragon đứng dậy, ngẩn người nhìn qua bên kia bờ: những dấu vết lạ lùng, to lớn đầy mặt đất ẩm. Tò mò, Eragon nhảy lên tảng đá bờ bên kia, trượt chân trên lớp rêu trơn. Nó níu vội một cành cây, cành cây bị gãy, quăng nó ngã xuống đất. Eragon chống tay đỡ và một tiếng "rắc" nơi cổ tay, cả cánh tay đau buốt. Mờ mắt vì đau, nó nghiến răng để khỏi kêu thét lên. Tiếng Saphira vang trong đầu nó: "Eragon, anh sao thế?" "Gãy cổ tay rồi, anh ngốc quá." "Em tới ngay đây." "Đừng, cây cối rậm rạp lắm." Saphira gửi hình ảnh nó đang dạt cây rừng tiến lại. Eragon rên rỉ ráng đứng lên. Những dấu ủng đóng đinh nặng nề hằn trên mặt đất, cách nó chừng một thước. Nó nhớ ngay đến những dấu ủng chung quanh đống xác người tại Yazuac. Urgals, Eragon bật kêu lên. Nó ước gì có thanh Za'roc lúc này, vì với một tay nó không thể sử dụng cung tên. Ngẩng lên, thấy Saphira, nó vội la thầm: "Saphira, có tụi Urgals, bảo vệ ông Brom đi." Eragon nhảy trở lại qua suối, chạy vội về nơi cắm trại. Tay nắm chặt con dao săn, nó tưởng như gốc cây, bụi rậm nào cũng có kẻ thù rình rập. Đứng khựng lại vì cái đuôi của Saphira lướt qua đầu, Eragon la lên: "Ngừng lại. Anh đây mà." "Ôi dào, tưởng gì." Saphira tỉnh bơ, hai cánh cô ả xếp trước ngực như một bức tường. Eragon bực mình: "Còn ôi dào nữa hả? Cái đuôi của cô suýt làm tôi toi mạng đó. Ông Brom đâu?" Tiếng ông già càu nhàu từ sau cặp cánh: - Ta đây. Bảo con rồng dở hơi của cháu thả ta ra. Nó không chịu nghe lời ta. - Thả ông ấy ra. Điếc à? Saphira bướng bỉnh cãi: "Chính anh bảo em phải bảo vệ ông ấy, quên à?", rồi mới chịu nâng cánh, để ông già giận dữ bước ra. Eragon nói ngay: - Cháu thấy dấu chân Urgals. Còn mới. - Đóng yên, rời khỏi đây ngay. Ông vội vàng dập lửa, thấy Eragon đứng im, ông gắt: - Tay cháu làm sao vậy? - Cháu bị gãy cổ tay. Ông vừa càu nhàu rủa, vừa đóng yên Cadoc dùm nó. Giúp nó lên ngựa xong, ông bảo: - Ngay khi nào có thể, ta phải nẹp gỗ vào tay cháu. Ráng đừng cử động cổ tay. Saphira, gần tối rồi, mi có thể bay ngay phía trên chúng ta. Tụi Urgals muốn tấn công, thấy mi chúng sẽ e dè hơn. Trời sụp tối rất nhanh và ngựa đã thấm mệt, nhưng họ không dám ngừng nghỉ. Cổ tay của Eragon sưng vù lên. Đi thêm chừng một dặm, ông Brom ghì ngựa lắng nghe. Xa xa phía sau có tiếng tù và thổi. - Chắc chúng đã tới nơi ta vừa bỏ đi và có thể đã thấy dấu vết của Saphira. Chúng không để thoát con mồi đâu, sẽ đuổi theo chúng ta ngay cấp kỳ. Ông ngửa mặt gọi Saphira. Saphira hạ cánh, ông ra lệnh cho Eragon: - Cháu để Cadoc lại, đi với Saphira an toàn hơn. - Nhưng còn ông. - Ta không sao đâu. Đi đi. Eragon đành cùng Saphira bay phía trên ông già và hai con ngựa. Mỗi lúc Saphira chao đảo, nó lại nhăn nhó vì đau. Tiếng tù và vang lên gần gần đem theo một làn sóng hãi hùng khiếp đảm. Ông Brom thúc ngựa chạy xuyên qua những bụi rậm. Tiếng tù và đồng lọai rúc lên rồi im bặt. Mấy phút sau, chỉ có một tiếng từ xa vọng lại. Eragon thở dài, nhẹ hẳn nỗi lo. Nhưng nó giật thót người, ngay phía dưới tiếng tù và chợt vang lên và nó thấy ông già đang quay ngựa trở lui. Lũ quái đầu sừng, gầm gừ trên mình ngựa, trải dọc con đường mòn. Ông già không còn lối thoát. Eragon kêu lên: "Mình phải hành động thôi!" "Cái gì?" "Hạ xuống ngay trước mặt lũ Urgals." "Điên à?" "Xuống ngay, anh biết phải làm gì. Không còn cách nào khác nữa. Chúng sắp hạ ông ấy rồi." Saphira bay tới trước lũ Urgals, trở lại tìm chỗ hạ cánh trên đường. Eragon vận nội lực chờ đợi. Khi lũ Urgals tràn ngập đường, nó la lớn: "Xuống!" Saphira bất ngờ khép cánh buông mình thẳng xuống, rào rào qua những ngọn cây. Nó đáp xuống mặt đường cùng một vùng cát đá bay tung. Lũ Urgals thét lên, ghì chặt dây cương, những con ngựa hốt hoảng dạt vào nhau. Nhưng đám quái thú mau chóng kết bầy đối diện Saphira, lăm lăm vũ khí. Mười hai con thú đầu sừng, xấu xí, kinh tởm, lom lom nhìn Saphira đầy căm ghét. Eragon tự hỏi, sao chúng không sợ hãi bỏ chạy khi thấy Saphira? Rồi nó giật mình khi một con quái cao to nhất bầy tiến lên, ồm ồm nói: - Chủ nhân ta muốn nói chuyện với mi. Saphira cản Eragon ngay: "Chúng gài bẫy đó. Đừng tin." "Để xem chúng nói sao đã." - Chủ nhân mi là ai? - Hạng thấp kém như mi không đáng được biết tên ngài. Ngài là chúa tể trị vì từ trời tới đất. Loài cỏ rác như mi, phải hãnh diện vì được Ngài ngó tới. Ngài ra lệnh cho chúng ta phải để mi được sống về ra mắt Ngài. - Ta không bao giờ đi theo mi hay bất cứ kẻ thù nào. Dù mi phục vụ cho Tà Thần, Urgals, hay loài yêu quái gớm ghiếc nào, ta cũng không thèm biết. Ta không có chuyện gì để nói với chủ nhân mi. Con quái thú gầm lên, nhe nanh hét: - Lầm to, lầm to. Mi không thoát nổi Ngài đâu. Cuối cùng thì mi cũng sẽ phải phủ phục trước chủ nhân ta. Chống lại, đời mi sẽ khốn khổ vô cùng. Eragon tự hỏi, kẻ nào có đủ quyền uy thu phục lũ quái này dưới trướng? Ngoài triều đình và phe Varden, còn một lực lượng hùng mạnh nữa sao? Nó bảo: - Hãy về nói lại với chủ nhân mi ta không nghe lệnh bất cứ kẻ nào. Cả bầy Urgals lồng lộn lên. Con đầu đàn nghiến răng trèo trẹo: - Vậy thì chúng ta bắt buộc phải ép mi đi. Nó vừa ngoắc tay, cả bầy xông tới Saphira. Đưa tay phải lên, Eragon hét: "Jierda" "Đừng!" Saphira la lên nhưng không kịp. Những tia sáng xanh phóng ra từ bàn tay Eraogn, xẻ thịt tụi Urgals thấu ruột. Bầy quái thú bị bốc bổng lên, quăng vào những thân cây, lả tả rơi xuông đất, nằm bất động. Thình lình Eragon không còn chút sức lực. Tâm trí bàng hoàng, mê muội. Hất tung mười hai con quái Urgals đã làm nó tiêu hao hết nội lực. Trong khi Saphira đang quay lại nhìn nó, Eragon lờ mờ thấy một con Urgals đang mon men tới gần với một thanh gươm, nhưng không đủ sức báo động cho Saphira. Con quái đưa cao thanh kiếm chém xuống cổ rồng. Saphira quay ngoắt lại, hung dữ gầm lên. Trong chớp mắt, bộ vuốt của nó xé con quái làm hai mảnh, máu phụt khắp nơi. Rồi bình thản, Saphira quặp thân thể Eragon bằng những cái vuốt đầy máu, nhún mình vọt lên không. Trời đêm và tiếng vỗ cánh nhẹ nhàng của Saphira như dìu Eragon vào một trạng thái đê mê xuất thần, khi tỉnh khi mơ. Nó cảm thấy như có một tấm chăn êm dịu phủ lên mình trong giấc ngủ. Người đẹp trong mơ Eragon co mình trong chăn lơ mơ ngủ tiếp, nhưng rồi một câu hỏi thoáng hiện trong đầu, bằng cách nào mình lại nằm đây? Nó bối rối kéo chăn, cánh tay phải cứng ngắc. Thử nhúc nhích cổ tay, nó cảm thấy đau nhói. Bầy Urgals đâu? Eragon ngồi bật dậy. Nó đang ở trong khoảng đất trống nho nhỏ, một nồi thịt hầm còn nóng hổi trên bếp lửa. Một con sóc đang rúc rích trên cành. Cung tên của nó đặt ngay ngắn trên chăn. Thân thể bải hoải, nó nhăn nhó cố đứng lên. Cổ tay phải đã được nẹp bằng những thanh gỗ nặng chịch. Mọi người đâu cả rồi? Nó lo lắng vì ráng liên lạc với Saphira vẫn không được. Bụng đói cồn cào, Eragon múc thịt hầm ăn ngấu nghiến. Chưa bớt đói, nó tìm túi yên lấy mẩu bánh, nhưng cả túi, cả yên cương đều không thấy đâu. Eragon lo ngại nghĩ, chắc phải có vấn đề gì quan trọng ông Brom và Saphira mới bỏ nó lại đây một mình. Dọn dẹp chăn mền xong, nó ngồi dựa gốc cây chờ đợi mấy tiếng đồng hồ, vẫn không thấy bóng dáng ông già và Saphira trở lại. Gần trưa, nó loanh quanh khu rừng chung quanh, rồi tới bên một cây tùng oằn thân trên một tảng đá giống như một cái bát, chứa đầy ắp nước sương trong vắt. Eragon nhìn mặt nước và nghĩ đến những lời hướng dẫn của ông Brom về cách thu những hình ảnh từ xa. Mình thử xem Saphira đang ở đâu. Tuy ông già bảo việc này rất hao công lực, nhưng mình mạnh hơn ông ấy, lo gì. Nó nhắm mắt, hít thật sâu. Trong trí tập trung vào hình ảnh Saphira, miệng đọc: "Draumr kópa", rồi nhìn mặt nước. Mặt nước thoắt đông cứng, hoàn toàn bằng phẳng bởi một sức mạnh vô hình. Hình ảnh Saphira từ từ hiện ra, chung quanh trống rỗng một màu trắng, nhưng Eragon có thể thấy là Saphira đang bay. Brom ngồi trên lưng con rồng, kiếm đặt trên đầu gối. Nó mệt mỏi để cho hình ảnh đó mờ đi. Ít ra cũng đã được biết ông già và Saphira vẫn an toàn, Eragon thầm nhủ, rồi tập trung trong mấy phút hồi phục sức lực. Khi cảm thấy bình thường trở lại, nó cúi nhìn mặt nước, gọi thầm: "Roran ơi, anh khoẻ không?" Trong tâm trí, nó thấy Roran rất rõ. Bất ngờ, miệng nó bật ra câu thần chú. Mặt nước không gợn chút xao động và hình ảnh Roran hiện ra. Anh nó đang ngồi trên một cái ghế vô hình, vì cũng như hình ảnh Saphira, khung cảnh chung quanh Roran hoàn toàn trống không. Mặt Roran thêm những vết nhăn, trông anh nó giống cậu Garrow hơn bao giờ hết. Chắc anh đang ở nơi nào đó mà mình đã từng đi qua, hay anh vẫn ở Therinsford? Ráng sức giữ hình ảnh người anh họ làm trán nó đẫm mồ hôi. Một ý tưởng chợt đến, mình có thể thu những hình ảnh trong tưởng tượng hay trong một giấc mơ không? Ý nghĩ đó cám dỗ thôi thúc Eragon, nó lại quì bên mặt nước, tự hỏi thầm: "Mình sẽ gợi lại chuyện gì đây?" Rồi nhớ lại giấc mơ về người con gái trong tù, nó gợi lại khung cảnh phòng giam nó đã thấy trong mơ, đọc thần chú, lom lom nhìn mặt nước. Nhưng không có gì xảy ra. Bỗng mặt nước tối đen như mực hiện ra cây đuốc bập bùng soi tỏ một bức tường bằng đá. Người phụ nữ trẻ trong giấc mơ của nó vừa ngồi dậy trên chiếc giường vải, nơi góc phòng. Cô ta ngẩng đầu, mái tóc đen xõa sau lưng, nhìn thẳng vào mắt Eragon. Nó bàng hoàng, như bị thôi miên vì sức mạnh của cái nhìn đó. Ớn lạnh chạy dọc sống lưng nó, khi hai cặp mắt như gắn vào nhau. Người phụ nữ run rẩy, rũ xuống, lịm đi. Mặt nước trong veo trở lại, Eragon thở hổn hển. Không thể như thế được. Cô ta không có thật, mình chỉ thấy cô ta trong mơ. Làm sao cô ta lại biết mình đang nhìn cô ta? Và làm sao mình có thể thu được hình ảnh một phòng giam mình chưa hề biết? Tiếng vỗ cánh của Saphira làm Eragon ngừng suy nghĩ, nó chạy vội ra, vừa lúc Saphira xuống tới mặt đất. Mặt ông già cau có, râu và kiếm đều dính máu. Tưởng ông bị thương, nó hốt hoảng hỏi: - Chuyện gì xảy ra vậy? Ông lão gầm lên: - Chuyện gì à? Ta mới đi thanh toán đống rác cho mi đó. Mi không biết đã làm trò khỉ gì sao? Ông vảy mạnh thanh kiếm cho máu văng ra bớt. Eragon sợ thót ruột: - Cháu ngăn lũ quái khỏi bắt ông. - Phải. Nhưng miếng ảo thuật rẻ tiền đó suýt làm cháu toi mạng, cháu biết không? Cháu nằm như chết suốt hai ngày. Hừ, mười hai con quái thú. Vậy mà cháu không ngần ngại tung nó trở lại thành Teirm. Phép thuật của cháu chẳng khác nào phủi bụi chúng. Khi tỉnh lại, chúng dư sức chạy về. Ta đã phải theo dấu để tiêu diệt chúng hai ngày nay. Vậy mà, dù có cả Saphira tiếp sực, vẫn còn để sổng mất ba tên. - Cháu đâu định làm thế. Lúc đó cháu không kiểm soát được nữa. Tự nhiên...tự nhiên nó bùng ra. - Bùng ra? Nhưng tại sao, tại sao cháu lại chường mặt ra cho chúng thấy? - Ông bảo là chúng đã nhìn thấy dấu vết của Saphira. Nếu chúng thấy cháu, có khác gì đâu? - Ta chỉ bảo...có lẽ. Bây giờ cháu và Saphira đã lù lù hiện ra trước mặt chúng rồi, không những thế, còn để chúng sống sót. Tất cả chuyện này sẽ được thêu dệt, thổi phồng khắp nơi. Có thể giờ này triều đình đã nhận được tin rồi. Sau chuyện này, cháu thật không đáng mang danh một Kỵ Sĩ chút nào, nhóc ạ. Ông giận dữ cắm thanh gươm vào đống lửa, rút miếng giẻ trong áo ra, chùi kiếm. Eragon đờ đẫn hỏi ý Saphira, cô ả đỏng đảnh: "Đừng hỏi em, hãy hỏi ông ấy đi." Ngập ngừng, nó đến gần đống lửa hỏi ông già: - Cháu xin lỗi, có thay đổi được tình thế không? - Không, sự ân hận của cháu chẳng thể làm thay đổi những gì đã xảy ra. Việc cháu làm sẽ gây một tiếng vang rất nguy hiểm. Chưa kể việc cháu suýt chết. Từ nay, làm gì phải suy nghĩ. Đó là lý do vì sao chúng ta sinh ra với khối óc trong đầu, chứ không phải là cục đá. - Dù chúng đã biết cháu, nhưng sự việc không đến nỗi nguy như ông tưởng. Chúng không dám giết cháu đâu, vì chúng được lệnh bắt sống cháu. Ông Brom trợn mắt, kinh ngạc: - Không, nếu vậy còn tệ hại hơn nhiều. Như thế là chúng có kẻ chỉ huy? Eragon gật. Ông hỏi tiếp: - Cháu từ chối lời mời, sỉ nhục kẻ đó và tấn công bộ hạ của hắn? Tình hình sẽ không tệ hại hơn, nếu cháu giết hết bầy Urgals, hành động của cháu sẽ không ai biết. Nhưng bây giờ với ba con quái thoát thân, chúng sẽ không bỏ qua chuyện này. Chúc mừng cháu đã tạo được thêm kẻ thù. Eragon rầu rĩ: - Đúng là lỗi cháu. - Phải, cháu có lỗi, nhưng điều lo ngại của ta bây giờ là kẻ nào chỉ huy bầy Urgals này? Eragon rùng mình hỏi: - Giờ phải làm sao? - Ít nhất hai tuần nữa tay cháu mới lành. Chúng ta sẽ lợi dụng thời gian này để cháu học hỏi thêm kiến thức. Đây cũng có phần lỗi của ta, ta mới chỉ dạy cháu cách sử dụng kiếm, phép thuật, nhưng chưa hướng dẫn cho cháu biết khi nào nên, khi nào không. Tất cả phép thuật trên khắp đất nước này sẽ trở nên vô dụng, nếu cháu không sử dụng đúng nơi, đúng lúc. - Nhưng chúng ta vẫn đi tới Dras - Leona chứ? - Đúng, vẫn tiếp tục truy lùng Ra'zac. Nhưng ta sợ rằng tìm thấy chúng thì với cái tay bị thương của cháu cũng sẽ chẳng hay ho gì. Saphira, mi còn đủ sức bay chứ? - Dạ, chắc được. - Vậy thì hôm nay chúng ta có thể tiến xa thêm vài dặm nữa. Trên đường đi, mỗi khi bị ngựa dằn xốc, Eragon nghiến chặt răng chịu đựng. Nếu đi một mình, chắc nó đã ngừng lại nghỉ. Nhưng có mặt ông gì, nó không dám thở than một tiếng nào. Hơn nữa, suốt dọc đường, ông già giảng giải cho nó đủ mọi tình huống khi gặp địch thủ, từ Urgals, Tà Thần, những trận đánh tưởng tượng với đủ mọi đối tượng, kể cả với những con rồng khác. Eragon cảm thấy như bị tra tấn cả tinh thần lẫn thể xác. Nó mệt cả người, đưa ra những câu hỏi lẩm cẩm làm ông lão phát bực. Khi ngừng lại điểm nghỉ đêm, ông già càu nhàu: - Mới chỉ là bắt đầu thôi đó. Nó biết ông cụ "hơi bị" thất vọng. Chủ nhân bảo kiếm Ngày hôm sau, Eragon cảm thấy thoải mái hơn, trả lời trôi chảy những câu hỏi của ông già. Sau những bài học đặc biệt khó khăn, Eragon mới tỉ tê chuyện nó thu hình ảnh từ xa của người phụ nữ. Ông Brom vuốt chòm râu, hỏi: - Cháu nói cô ta ở trong tù? Cháu có thấy mặt cô ta không? - Thấy không rõ, vì ánh sáng mờ lắm. Tuy nhiên cháu có thể nói là cô ấy đẹp. Thật kỳ lạ, cháu và cô ta có thể nhìn thẳng vào mắt nhau. - Ta chưa từng nghe nói đến trường hợp này bao giờ. - Ông có thể đoán cô ta là ai không? Nó ngạc nhiên vì giọng hỏi quá nồng nhiệt của mình. Ông già thú thật: - Không chắc. Nếu ráng lắm, ta cũng đoán chừng mấy người, nhưng không có vẻ giống người cháu nói. Giấc mơ này của cháu rất đặc biệt. Đôi khi những giấc mơ ảnh hưởng từ tinh thần, nhưng chuyện này khó hiểu quá. - Có lẽ muốn hiểu được, ông cháu ta phải đi lục soát hết những nhà tù. Eragon nói đùa. Nhưng thâm tâm nó nghĩ, đó là một ý kiến rất hay. Ông già ha hả cười, phóng ngựa vượt lên trước. Nhiều ngày, nhiều tuần từ từ trôi qua, với những bài tập khắt khe của ông thầy già đưa ra. Tay phải vẫn còn kẹp gỗ, nên mỗi khi luyện kiếm, Eragon phải sử dụng tay trái. Lâu dần, tay trái của nó cũng thuần thục như tay phải. Thời gian họ vượt qua rặng Spine để tiến vào đồng hoang, mùa xuân đã về Alageasia. Muôn hoa bừng nở khắp nơi. Lộc non đã nhú trên những cành cây trơ trụi trong mùa thay lá. Từ những đám cỏ héo khô từ năm ngóai, vươn lên mơn mởn những mầm xanh. Chim trốn đông cũng ríu rít trở về làm tổ. Khách lữ hành theo dòng sông Toark lững lờ trôi về hướng đông nam. Con sông nổi vồng lên, xoáy mạnh, nơi những dòng phụ lưu ào ạt đổ nước về. Tới đoạn sông rộng chừng một dặm, ông Brom chỉ một cồn đất nhô trên mặt nước, bảo: - Chúng ta gần tới Dras - Leona rồi. Chỉ chừng hai dặm nữa thôi. - Ông nghĩ mình có thể tới đó trước khi trời tối không? - Chúng ta sẽ cố. Trời chập choạng tối, con đường mòn khó nhận ra, nhưng họ đi theo tiếng róc rách của dòng sông dẫn đường. Chẳng bao lâu sau, mặt trăng mòn từ từ lên, trải ánh sáng lên toàn cảnh vật. Hồ Leona trông như lớp bạc phủ trên mặt đất. Mặt nước tĩnh lặng đến tưởng như không phải là chất lỏng. Ngọai trừ những vạch sáng phản chiếu ánh trăng, không thể nào phân biệt mặt hồ với đất. Saphira đang đứng hong cánh trên bờ đá. Thấy Eragon, cô ả tí tởn khoe: "Nước dễ thương ghê, trong veo, sâu thẳm, mát ơi là mát." Eragon bảo: "Mai anh sẽ bơi cho đã." Nó cùng ông già cắm trại dưới tàn cây rồi đi ngủ ngay. Rạng đông, Eragon hăng hái chạy ra ngắm cảnh hồ. Gió thổi xô mặt nước tỏa ra hình dẻ quạt long lanh. Vừa hú hí vừa chạy về mé nước, nó gọi: "Saphira đâu? Đến quậy cho vui." Eragon vừa leo lên, Saphira cất cánh ngay. Hai đứa lượn vòng tròn trên mặt nước, nhưng tuy ở trên cao, cả hai vẫn chưa nhìn thấy được bờ hồ bên kia. Eragon e dè hỏi Saphira: "Tắm không?" Ả mỉm cười như con sói nhe nanh: "Ôm cho chắc nhé", rồi thả thân mình theo đợt sóng, nước lấp loáng tung toé dưới nắng mai, chúng nó như đang lướt trên một chiếc thuyền buồm. Eragon khoái chí la lên. Saphira khép cánh, phóng đầu xuống nước như một mũi thương. Nước lạnh ùa qua Eragon, làm nó ngộp thở và súyt kéo nó văng khỏi Saphira. Chỉ ba cái vẫy chân, cô ả làm tung những cột nước trắng xóa lên không, rồi lướt qua mặt hồ, với cái đuôi sử dụng như một bánh lái. "Sẵn sàng chưa?" Eragon gật đầu, hít một hơi dài. Cả hai nhẹ nhàng chìm xuống nước. Nước trong veo, chúng có thể nhìn thật xa. Saphira uốn mình, quay lượn, biểu diễn đủ kiểu thật dịu dàng trong làn nước như một con lươn mềm mại. Eragon cảm tưởng như đang cưỡi con rắn biển trong thần thoại. Vừa lúc Eragon tưởng như sắp hết hơi, Saphira cong mình, vươn cổ, nhoi lên mặt nước. Mặt nước như nổ tung, khi nó vọt lên, xoè cánh, vút lên cao. Eragon la lớn: - Wowwwww! Thật phi thường! Đã quá! Saphira hí hởn: "Đúng vậy, nhưng tội nghiệp anh không nhịn thở được lâu." Khi áo quần Eragon khô ráo, nó cùng ông già đóng yên ngựa và bắt đầu đi vòng hồ Leona với một tinh thần sảnh khoái, trong khi Saphira vẫn còn lặn hụp trong làn nước. Trước bữa ăn tối, Eragon dùng phép thuật phủ lớp bảo vệ lên lưỡi kiếm Za'roc trước khi tập luyện như thường lệ. Cả nó lẫn ông Brom đều đứng im chờ đối thủ tấn công. Eragon nhìn quanh, rồi lượm một cành cây, phóng mạnh về phía ông già. Ông né tránh, rồi vung kiếm tiến lên. Eragon hụp xuống vừa khi lưỡi kiếm của ông rít sát bên tai. Cả hai nhào xuống đất, ai cũng ráng đè sấp đối phương. Eragon lăn mình đứng phắt dậy, xuất những chiêu kiếm đầy phức tạp, tiếp tục tấn công. Những tia chớp bật ra mỗi lần hai thanh kiếm chan chát đụng nhau. Ông già tập trung chống đỡ, nhưng Eragon biết ông đã thấm mệt. Những đường gươm mạnh mẽ vẫn được hai bên ra tay, mỗi khi thấy đối phương sơ hở. Rồi Eragon cảm thấy cuộc đấu xoay chiều. Mỗi đường kiếm của nó trở nên biến ảo hơn, lợi thế hơn. Ông già tấn công chậm lại, chân loạng choạng. Nó dễ dàng gạt đường kiếm phóng ra của ông. Gân nổi hằn trên trán và cổ vì ông đã quá ráng sức. Thình lình, rất tự tin, Eragon ra chiêu chớp nhoáng. Mũi kiếm của nó thấp thoáng, loằng ngoằng như lưới nhện cuốn lấy mũi kiếm của ông Brom. Với một cú gạt mạnh của Eragon, kiếm của ông già văng xuống đất. Chưa kịp phản ứng, thanh Za'roc đã kề sát cổ ông. Eragon từ từ lùi lại, rút tay về. Ông Brom nhặt kiếm lên, tra vào bao, vừa thở vừa nói: - Hôm nay như vậy đủ rồi. - Nhưng mình mới chỉ bắt đầu mà. - Ta không còn gì để dạy cháu về kiếm thuật nữa. Suốt đời ta mới chỉ gặp ba người hạ được ta, nhưng ta e rằng cả ba người đó đều không thể hạ ta bằng tay trái như cháu. Ta có thể nói một câu: cháu là một tài năng và là một kiếm sĩ hiếm có. - Vậy là hàng đêm cháu không phải tập nữa? - Không đâu, cháu không thể lơ là tập luyện được. Tuy nhiên, kể từ nay, nếu có phải bỏ tập một vài đêm, cũng không là điều quan trọng nữa. Nhưng hãy nhớ một điều, nếu chẳng may cháu đụng độ với thần tiên - dù là nam hay nữ, có tài hay không - phải tiên liệu là cháu sẽ không địch lại họ. Cùng với rồng và những sinh vật tạo ra bởi phép lạ, họ mạnh hơn sức lực thiên nhiên ban cho chúng ta gấp nhiều lần. Một thần tiên yếu nhất cũng vẫn mạnh hơn cháu. Tụi Ra'zac cũng vậy, vì chúng không phải là người và sức chịu đựng của chúng hơn ta rất nhiều. - Có cách nào làm ta mạnh hơn họ không? - Có vài cách. Nhưng không cách nào thuận lợi cho cháu vào thời điểm này. Với phép thuật cháu có thể hạ được tất cả, trừ những kẻ thù dũng mãnh nhất. Để thắng được những kẻ thù tầm cỡ đó, cháu phải cần đến sự hỗ trợ của Saphira và...rất nhiều may mắn. Hãy nhớ, những sinh vật được tạo ra bằng phép thuật, mà chính chúng lại sử dụng phép thuật, chúng sẽ áp dụng mọi phương sách để giết bằng được cháu, vì giết được một người, nội công chúng sẽ tăng lên. - Làm cách nào để chống lại phép thuật? Thí dụ, nếu cháu bị Tà Thần tấn công, làm cách nào cháu phá được phép của chúng? Hầu hết những câu thần chú có hiệu lực chớp nhoáng, không thể phản ứng kịp. Nhưng nếu còn kịp phản ứng, cháu hóa giả những phép thuật của địch thủ bằng cách nào? Phải chi cháu biết trước được chủ tâm của đối phương. Vì rõ ràng, kẻ nào tung phép thuật trước, kẻ đó sẽ thắng. - Điều cháu đang nói, được gọi là "Sự quyết đấu của phù thủy." Nguy hiểm vô cùng. Không bao giờ cháu tự hỏi, làm sao chỉ với một chục Kỵ Sĩ phản bội, mà Galbatorix đã đánh bại tất cả các Kỵ Sĩ sao? - Cháu chưa nghĩ đến điều này. - Có nhiều cách đã giúp hắn, sau này cháu sẽ biết. Nhưng điều quan trọng nhất là, Galbatorix đã và vẫn là bậc thầy trong nghệ thuật xâm nhập vào tư tưởng người khác. Nên biết trong một cuộc "quyết đấu của phù thủy", đối phương phải quan sát tư tưởng nhau, nếu không cả hai sẽ cùng chết. Khởi đầu cuộc đấu, không ai dùng phép thuật, cho tới khi đã xâm nhập được vào ý nghĩ của nhau. Saphira nóng nảy cuốn đuôi quanh Eragon lèm bèm: "Rách việc, chờ đến khi biết được tư tưởng nhau, đối phương xuất chiêu trước là toi mạng." Eragon nói lại ý kiến của cô ả cho ông già nghe. Ông lắc đầu lia lịa: - Không. Thí dụ, ông bất ngờ ra tay, chỉ trong một thoáng trước khi cháu chết, cháu vẫn còn đủ thời gian phản ứng. Vì vậy, chỉ trừ khi muốn tự sát, không bên nào tấn công trước, cho đến khi lọt được vào ý nghĩ của đối phương. Vì cháu biết đối phương tính toán gì, cháu mới có thể đề phòng, tránh né kịp thời. Kể cả khi cháu đã có lợi thế đó, cháu chưa chắc đã thoát chết, nếu không biết câu thần chú phản công lại. Vì vậy phải suy nghĩ, tính toán thật cấp kỳ. Trước khi tự vệ, phải biết sức mạnh thiên nhiên nào tấn công cháu. Nếu bị tấn công bằng hơi nóng, phải biết nó truyền tới cháu qua lửa, ánh sáng, không khí hay một trung gian nào khác. Một khi biết rõ, cháu mới phản ứng đúng, chẳng hạn, dùng hơi lạnh để hóa giải sức nóng đó. - Có vẻ rắc rối quá. - Đúng vậy. Ít kẻ sống sót trong một cuộc chiến đấu như vậy trong vòng vài giây. Vô số kẻ đã chết vì không được huấn luyện bài bản. Chừng nào cháu tiến bộ hơn, ta sẽ dạy cháu những phương pháp cần thiết. Đừng nóng vội. Trong thời gian này, nếu chẳng may cháu gặp một cuộc "quyết đấu với phù thủy", ta đề nghị cháu......chạy càng xa càng tốt. Bãi lầy của Dras - Leona Hai ông cháu ăn trưa tại Fasaloft, một ngôi làng rất dễ thương nằm ven hồ. Ngồi trong lữ quán, vừa ăn, Eragon vừa lắng tai nghe các thực khách những bàn bên tán gẫu. Nó yên tâm vì không có tiếng đồn thổi nào về nó và Saphira. Sau đó, qua khỏi lối mòn, hai người tiến lên con đường cái nham nhở vết bánh xe và dấu móng sắt của ngựa khoảng vài ngày trước. Người đi đường càng đông, Saphira càng phải ẩn mình, chỉ gặp lại Eragon và ông già vào ban đêm. Nhiều ngày tiếp theo vẫn đi men bờ hồ rộng mênh mông. Eragon cảm giác như không bao giờ có thể đi hết vòng hồ, nên nó hớn hởn hẳn, khi một người đi đường cho biết chỉ còn một dặm nữa là tới Dras - Leona. Buổi sáng, Eragon dậy thật sớm, chân tay nó ngứa ngáy, chứa chan hy vọng, vì cuối cùng thì nó đã tìm ra kẻ thù. Nhưng Saphira bảo: "Hai người phải thận trọng. Tụi Ra'zac chắc phải có lũ mật thám dòm ngó khách phương xa, để tìm xem có ai giống hình dạng anh không." "Anh sẽ ráng không để lộ diện đâu." "Nhưng nên nhớ là em không ở gần để có thể tới kịp, nếu anh bị Urgals tấn công, mà từ xa em có bay về, cũng không sống nổi trong mấy đường phố chật chội yêu quí của anh đâu. Bám sát ông Brom. Làm theo lời ông ấy, ông già tinh ý lắm đó." "Biết rồi, nói mãi." "Anh có đi với ông ấy tới phe Varden không? Ngay sau khi thanh toán được tụi Ra'zac, ông ấy rất muốn đưa anh tới với họ. Nếu tụi Ra'zac bị chúng ta giết, nhà vua sẽ nổi cơn thịnh nộ, chỉ còn cách theo họ là an toàn nhất." "Anh không muốn suốt đời tranh đấu với triều đình. Đời sống đâu chỉ để triền miên trong chiến tranh." "Đừng quả quyết thế. Hãy đợi đấy!" Hôm sau, đường đi chật ních dân làng đem nông sản tới chợ Dras - Leona. Ngựa của hai ông cháu Eragon, chậm chạp len lỏi giữa những xe chở hàng và nông dân. Tuy nhiên, trước buổi trưa, họ đã nhìn thấy khói, nhưng vẫn phải đi thêm một dặm mới vào tới thành phố. Dras - Leona không được tươm tất như Teirm. Thành phố trải dài từ bờ hồ Leona, với những ngôi nhà xập xệ nằm dọc con đường lồi lõm và trung tâm thành phố được bao bọc bởi một bức tường trát đất lem nhem. Nhiều dặm về hướng đông, là ngọn núi với những tảng đá nhọn hoắt đâm thẳng lên trời, trông hắc ám như một con tàu ma. Những vách núi thẳng đứng như xương xẩu từ lòng đất mọc lên. Ông già chỉ tay, bảo: - Đó là Helgrind. Nó là lý do chính để Dras - Leona được xây dựng tại nơi này. Nó mê hoặc mọi người, mặc dù nó là một thứ ghê tởm độc ác. Chúng ta vào trung tâm thành phố trước đã. Trên đường vào Dras - Leona, Eragon thấy ngôi nhà cao nhất trong thành phố là một thánh đường vươn cao khỏi những bức tường. Ngôi thánh đường trông tương tự mỏm Helgrind, nhất là những chóp nhọn, khung tò vò. Eragon hỏi: - Họ thờ ai vậy? Ông già nhăn nhó ghê tởm: - Họ cầu nguyện Helgrind. Họ theo một tôn giáo tàn nhẫn, man rợ. Uống máu người và dâng đồ tế lễ bằng thịt tươi. Các giáo sĩ của họ, thân thể mất từng phần, vì họ tin tưởng càng dâng hiến nhiều da thịt càng lánh xa thế giới chết chóc. Cả đời họ tranh cãi về ba ngọn Helgrind, ngọn nào cao và quan trọng nhất. Nhưng ngay cả ngọn thấp nhất, ngọn thứ tư, cũng được họ tôn thờ. Eragon rùng mình: - Kinh tởm quá. - Phải, nhưng đừng nói thế trước mặt các giáo dân. Cháu sẽ mất ngay một bàn tay trong buổi lễ "giải tội." Qua khỏi cổng thành khổng lồ, mỗi bên có mười lính gác, mắt sắc lẻm nhìn người qua lại, hai ông cháu đi qua những dãy nhà cao nghễu nghện, nhưng bề ngang rất hẹp vì thiếu đất. Hầu hết nhà cửa đều bằng gỗ đen ngòm ngòm, làm thành phố càng thêm u ám. Đường phố đầy rác rưởi, không khí nồng nặc mùi cống rãnh. Một lũ trẻ con rách rưới, nhếch nhác tìm nhặt từng mẩu bánh mì. Từng đám ăn mày, dị dạng, tàn tật lê la gần cổng thành khóc than rên rỉ xin tiền bố thí. Tiếng van xin như một bản đồng ca từ địa ngục. Eragon thầm nhủ, ở quê mình, thú vật còn được đối xử đàng hoàng hơn. Ông già bảo: - Vào gần trung tâm, tình trạng sẽ khá hơn. Bây giờ chúng ta phải tìm một quán ăn, lên kế hoạch. Nơi này đầy nguy hiểm, dù thận trọng đến đâu. Không nên ở ngoài đường lâu quá. Vào một khu giàu có hơn, Eragon nghĩ, sao những người này có thể sống thoải mái giữa những con người đau khổ thế kia. Hai ông cháu vào Quả Cầu Vàng, một quán trọ rẻ tiền nhưng không đến nỗi xập xệ quá. Một cái giường hẹp kê sát tường, một cái bàn ọp ẹp và thau rửa mặt. Nhìn thoáng cái khăn trải giường, Eragon nói ngay: - Cháu ngủ dưới sàn. Cái giường đầy rệp kia ăn tươi nuốt sống cháu mất. - Được. Bây giờ chúng ta đi ăn và uống chút bia, rồi về làm một giấc. Sáng mai khởi sự tìm tông tích tụi Ra'zac. Trước khi đi, ông dặn: - Dù chuyện gì xảy ra cháu phải giữ mồm miệng, nhớ không? Món ăn quá tệ, nhưng bia rất tuyệt. Khi hai ông cháu loạng choạng về phòng, đầu Eragon bừng bừng hưng phấn. Nó trải chăn lên sàn, rồi chui vào. Ông già cũng lăn ra giường ngáy khò khò. Trước khi ngủ, Eragon liên lạc với Saphira: "Chúng ta sẽ ở lại đây mấy ngày, nhưng không lâu như ở Teirm đâu. Khi nào tìm ra tông tích của Ra'zac, em phải ra tay giúp anh. Mai sẽ nói thêm, lúc này đầu óc anh lung tung quá." "Xỉn rồi chứ gì?" "Ôi dào, ông già còn uống gấp đôi anh." Lần ra dấu vết của dầu Mình làm sao thế này? Eragon thức dậy, đầu nhức, lưỡi khô rộp. Vừa nhìn theo hướng tiếng chuột rúc dưới sàn, trong đầu nó đã có tiếng léo nhéo của Saphira hoạnh hoẹ chuyện say xỉn đêm qua. Eragon làm ngơ, im lặng. Một lát sau, ông Brom thức giấc, lèm bèm ra khỏi giường, nhúng đầu vào thau nước, rồi ra khỏi phòng. Eragon hỏi: - Ông đi đâu đó? - Làm cho tỉnh táo lại. - Cháu đi với. Tới quầy bar, nó khám phá ra phương pháp giã rượu của ông già là trà nóng, nước đá chiêu với rượu mạnh. Khi hai người trở về phòng, Eragon cảm thấy tỉnh táo hơn. Ông già đeo kiếm, vuốt ve quần áo chỉnh tề, nói: - Việc đầu tiên là chúng ta phải khéo léo dò hỏi dầu Seithr lưu trữ tại đâu và được chuyển tiếp đến những nơi nào? Lính tráng và công nhân rất có thể là những người liên quan đến sự chuyên chở này. Tìm gặp họ mà gợi chuyện. Hai người ra khỏi Quả Cầu Vàng, tìm nơi cất giấu dầu. Càng gần trung tâm, đường phố càng lên cao, hướng tới một lâu đài bằng đá hoa cương bóng lộn. Lâu đài được xây trên một khu cao vượt trên tất cả những nhà khác, trừ ngôi thánh đường. Sân trước lâu đài lát đá cẩm thạch nhiều màu. Trên tường, nhiều phần cẩn bằng vàng, và trong những hốc tường là những pho tượng đen, tay cầm những cây nhang nghi ngút khói. Khoảng ba bốn thước đều có lính đứng nghiêm, mắt sắc lẻm nhìn người qua lại. Eragon hỏi: - Ai sống ở đây? - Marcus Tábor, người cai trị thành phố này. Lão chỉ tuân lệnh nhà vua và chính lương tâm lão. Nhưng lương tâm lão hầu như không phải làm việc nhiều. Đi quanh lâu đài và ngắm nhìn những ngôi nhà trang trí loè loẹt chung quanh, không tìm ra điều gì hữu ích, gần trưa hai ông cháu đi ăn. Ông già bảo: - Thành phố này quá rộng, chúng ta phải chia nhau đi quan sát. Chiều tối gặp nhau tại Quả Cầu Vàng. Ông tin cháu sẽ không làm điều gì dại dột. - Cháu hứa. Suốt ngày còn lại, Eragon lân la làm quen, trò chuyện với những người bán hàng, công nhân. Nhưng từ đầu tới cuối thành phố, hình như không ai biết gì về dầu Seithr. Đi tới đâu nó cũng cảm thấy ngôi thánh đường lom lom theo dõi nó. Sau cùng nó gặp một ông già từng giúp việc bốc xếp, còn nhớ nhà kho chứa dầu. Eragon mừng rỡ tới nhìn qua nơi đó, rồi trở về nhà trọ. Hơn một giờ sau, ông Brom về tới, nó vội hỏi ngay: - Ông tìm được gì không? - Ta nghe được nhiều điều hay lắm. Trong vòng một tuần nữa, vua Galbatorix đến thăm Dras - Leona. - Sao? - Hình như lão Tábor quá lộng hành. Galbatorix quyết định cho lão một bài học cho biết thế nào là lễ độ. Đây là lần đầu, sau hơn mười năm, nhà vua mới ra khỏi Uru'baen. - Ông có nghĩ là nhà vua biết về chúng ta không? - Chắc chắn hắn biết. Nhưng không biết chúng ta ở đâu. Vì nếu hắn biết, chúng ta đã nằm trong móng vuốt tụi Ra'zac rồi. Tuy nhiên chuyện này có nghĩ là, những gì chúng ta cần làm với Ra'zac, phải hoàn thành trước khi nhà vua tới. Chúng ta nên tránh xa hắn ít nhất là hai mươi dặm. Điều may mắn là bây giờ chúng ta đã biết chắc Ra'zac có mặt tại đây, để sửa soạn cho chuyến thăm viếng này. - Cháu chỉ muốn tiêu diệt Ra'zac, chứ không muốn đụng độ nhà vua. Ông ta xé xác cháu mất. Ông già có vẻ thú vị: - Rất tốt, cháu biết thận trọng rồi đấy. Cháu có lý, cháu không thể chịu nổi một chiêu của hắn đâu. Bây giờ cho ta biết, cháu đã nghe ngóng được những gì? - Cháu đã gặp một ông già biết nhà kho chứa dầu. Chỉ có vậy thôi. - Hôm nay ta thu hoạch khá hơn cháu rồi. Ta cũng nắm được nguồn tin như cháu. Ta đến đó, lân la trò chuyện với những công nhân, tán hươu tán vượn cho đến khi họ vô tình tiết lộ dầu Seithr luôn được chuyển từ kho về lâu đài. Sau đó, ta tới lâu đài, trong vai một thi nhân. Ta tìm cách để được mời vào khu gia nhân. Suốt mấy tiếng ta loanh quanh tại đó, hết hát lại ngâm thơ làm các tì nữ và gia nhân mê mệt. Và ta tha hồ hỏi chuyện trên trời dưới biển. Rồi, tình cờ ta được biết, từ lâu đài dầu sẽ chuyển tới đâu. - Đó là.... - Ngoài thành phố, tất nhiên. Mỗi đêm trăng rằm có hai nô lệ được đưa tới Helgrind với một tháng lương thực. Sau đó, những nô lệ này không bao giờ trở lại. Một lần, có người tò mò theo dõi, người này cũng biến mất luôn. - Cháu tưởng các Kỵ Sĩ dẹp bỏ chế độ nô lệ rồi. - Bất hạnh là nó lại được phát triển dưới triều đại Galbatorix. - Vậy là tụi Ra'zac ở tại Helgrind. - Tại đó hay gần đó thôi. - Nếu chúng ở Helgrind, chắc chúng phải ở dưới lòng núi đá đó, hoặc trên đỉnh cao và chúng phải bay như Saphira mới lên tới nơi. Nhưng nếu cháu và Saphira bay lên, chúng sẽ phát hiện ra....hay là ta tìm cách thay thế những người nô lệ? - Quá dựa vào may rủi. Nếu chúng thủ tiêu nô lệ trước khi đến gần, chúng ta sẽ bị kẹt. Vì không thấy Ra'zac thì làm sao hạ được chúng? - Nhưng chúng ta chưa rõ nô lệ có bị giết thật không. - Ta tin chắc họ bị giết. Nhưng ta có một kế có thể thi hành được, nếu để Saphira ẩn núp gần....Nhưng phải làm gấp, nhà vua sắp tới rồi, không còn nhiều thời gian nữa. - Chúng ta có nên đến quan sát Helgrind vào ban ngày, để tránh bị phục kích bất ngờ không? - Chuyện đó để sau. Ngày mai ta sẽ trở lại lâu đài, tính toán xem bằng cách nào thay thế được những người nô lệ. Việc này vô cùng thận trọng, vì rất dễ bị mật thám và đám cận thần phát hiện. - Cháu không thể nào tin nổi là ông cháu ta đã thật sự tìm ra chúng. Eragon lặng lẽ nói. Hình ảnh người cậu chết thảm và trang trại ngùn ngụt trong lửa đỏ lại hiện về trong trí, làm nó phải nghiến chặt hai hàm răng. - Phần gay go nhất chưa tới, nhưng quả nhiên ông cháu ta đã hoàn tất tốt phần nào công việc. Nếu thần may mắn mỉm cười với chúng ta, cháu sắp trả được thù và Varden dẹp bỏ được kẻ thù nguy hiểm. Còn những chuyện sau đó là tùy ở cháu. Eragon hớn hở thông báo cho Saphira: "Chúng ta tìm ra sào huyệt Ra'zac rồi. Chúng ở Helgrind." "Helgrind? Một nơi rất xứng với chúng." "Xong công việc, chúng ta có thể trở về Carvahall." Giọng cô ả bỗng chua lè: "Anh định làm gì? Trở lại cuộc sống trước kia à? Anh biết là không thể mà. Dẹp bỏ những chuyện vớ vẩn, mất thì giờ ấy đi cho tôi nhờ. Bây giờ là lúc anh phải quyết định. Chui nhủi trốn tránh suốt đời hay là về với Varden? Hay anh định đem thân về với triều đình? Xin lỗi, chuyện đó không có tôi đâu." Eragon nhẹ nhàng nói: "Nếu đến nước phải chọn lựa, anh đành đặt số phận vào phe Varden thôi, em quá rõ rồi mà." "Đó, ít ra cũng phải tự miệng anh nói ra chứ." Ả bay vụt đi để Eragon cân nhắc những lời nói của mình. Những kẻ sùng bái Helgrind Eragon thức dậy, trong phòng chỉ còn mình nó. Trên tường có mấy dòng chữ viết bằng than: Eragon, Ta đi tới khuya. Tiền ăn sáng để dưới đệm. Tham quan thành phố đi, nhưng phải thận trọng. Brom. TB.: Tránh xa lâu đài. Nhớ đem theo cung tên. Eragon lau lời nhắn trên tường, lấy tiền, đeo cung lên vai. Ra khỏi quán trọ, nó lang thang qua các con đường rất nhiều cửa hàng, nhưng chẳng có cửa hàng nào hấp dẫn bằng cửa hàng dược thảo của bà Angela ở Teirm. Nhìn những ngôi nhà tối tăm, kín đáo, nó cảm thấy có vẻ thoải mái trong thành phố này. Mua một miếng bánh mì phô-ma, Eragon ngồi trên hè đường vừa ăn vừa ngắm cảnh phố xá. Sau đó nó tới một góc đường, vì nghe tiếng oang oang của một tay bán hàng đấu giá đang quảng cáo hàng. Khoảng mười người đang đứng trên khán đài cao chừng một thước. Phía trước, một đám đông áo quần sặc sở đủ màu. Eragon tự hỏi, buôn bán gì mà chẳng thấy hàng họ đâu? Gã bán đấu giá ngừng quảng cáo, ngoắt tay gọi một thanh niên. Anh ta vụng về, khó khăn leo lên. Chân tay đều bị xích. Gã bán hàng lại oang oang: - Đây là món đầu tiên. Một con đực mạnh khoẻ, mới bắt được tại sa mạc Hadarac tháng trước. Bảo đảm hàng xịn, hoàn hảo. Hãy nhìn cơ bắp trên tay chân nó đi. Khoẻ như trâu, lao động nặng tuyệt vời. Và nhất là thông minh như một....cái móng tay, nếu nó có thể nói được ngôn ngữ văn minh của chúng ta. Quí ông quí bà bỏ qua rất uổng. Đám đông hô hố cười. Eragon nghiến răng đầy phẫn nộ. Môi nó mấp máy suýt bật ra mấy câu thần chú. Cánh tay mới tháo nẹp của nó giơ lên, dấu hiệu trên bàn tay ngời sáng. Nhưng rồi nó chợt nghĩ đến hành động hấp tấp xảy ra với lũ quái Urgals đã gây ra bao phiền toái. Nếu nó dùng phép thuật giải phóng cho người nô lệ này, anh ta sẽ cũng bị bắt lại trước khi tới được tường thành. Và lúc đó tình trạng của anh ta còn khốn khổ hơn. Eragon tuyệt vọng nhìn người nô lệ bị bán cho một thằng cha mũi khoằm như mỏ diều hâu. Nô lệ tiếp theo được rao bán là một bé gái, chưa đến sáu tuổi, nhỏ tí teo. Con bé co rúm trong vòng tay bà mẹ đang khóc ngất. Eragon lách khỏi đám đông, lòng đầy căm hờn, tức giận. Qua khỏi mấy đoạn phố, nó mới lặng lẽ khóc, rồi đấm như điên lên một bức tường cho đến khi bàn tay trầy trụa: "Chính vì những điều như thế, mình sẽ tranh đấu với triều đình. Cùng với Saphira, mình sẽ giải phóng người nô lệ. Mình đã được ban cho những sức mạnh đặc biệt hơn người, nếu mình ích kỷ đến không sử dụng sức mạnh trong những công việc chính đáng đó, thì đâu đáng mặt một trang Kỵ Sĩ?" Khi bình tĩnh trở lại, Eragon ngạc nhiên thấy nó đang đứng trước thánh đường. Trên mái nhọn phủ đầy tượng và chữ cổ. Đầu quái vật nhe nanh dưới những mái hiên. Trên những bức tường, hình ảnh vua chúa, anh hùng, quái thú lạnh lùng trên nền cẩm thạch. Cùng với những hàng cột đủ kích cỡ là những cửa sổ kính màu cao lớn. Chiếc tháp nhọn chụp trên mái như một cột buồm. Chìm trong bóng râm, mặt tiền thánh đường là một cửa sắt cẩn những hàng chữ bạc. Eragon ráng đọc những hàng chữ cổ: Phúc cho kẻ nào vào chốn này hiểu được những bất mãn của nó và quên đi mọi ràng buộc, là những người thân yêu. Toàn thể khung cảnh thánh đường làm Eragon lạnh xương sống. Nơi đây mang một vẻ đe dọa kỳ lạ, như một tên cướp đang rình rập nạn nhân tiếp theo của nó. Những bậc thềm rộng lớn dẫn lên lối vào. Eragon ngần ngại đẩy cánh cửa, bước vào trong. Bên trong im vắng như một ngôi mồ hoang lạnh lẽo. Những bức tường cao vòi vọi tới vòm trần, làm nó cảm thấy bé nhỏ như một con kiến. Những bức trang bằng kính màu trên cửa sổ, diễn tả những cảnh giận dữ, căm ghét, ăn năn sám hối; phản chiếu những tia sáng ma quái lên một khoảng những dãy băng ghế đá. Giữa khoảng cách của những ô cửa sổ là những pho tượng mắt xanh lè, nghiêm khắc. Bàn thờ là một phiến cẩm thạch không trang trí. Phía sau bàn thờ, những cái ống của một cây đàn gió vươn tới trần. Khi có gió mạnh kéo ngang Dras - Leona, tiếng đàn sẽ trỗi lên. Eragon quì gối cúi đầu. Nó không cầu nguyện. Chỉ để tỏ lòng tôn trọng những kiếp người mà ngôi thành đường này từng chứng kiến, cũng như những khốn khổ của những người đã hoàn thành nên vẻ hào nhoáng bên trong những bức tường này. Đây là nơi âm u đáng sợ, trong cái ớn lạnh lẩn khuất một tia vĩnh cửu và phải chăng sức mạnh của thánh đường là chính điểm này. Vừa đứng dậy, quay ra, nó lạnh toát người. Tiếng tim đập như tiếng trống. Tụi Ra'zac đứng ngay lối vào, đang trừng trừng nhìn nó. Những lưỡi gươm tuốt trần, sáng rực màu đỏ máu. Một tên Ra'zac rít lên như huýt sáo. Chúng không hề nhúc nhích. Eragon ngùn ngụt căm hờn. Mấy tuần qua nó lặn lội truy lùng, giờ là lúc phục thù ở trong tầm tay. Mối phẫn nộ bùng lên như hỏa diệm sơn. Eragon gào lên một tiếng như tiếng sấm, tay rút cung tên, nhắm bắn liền ba phát. Tụi Ra'zac nhảy tránh nhanh lẹ phi thường. Vừa rít, chúng vừa chạy qua mấy hàng ghế, xông tới Eragon, những vạt áo đen phất phới như cánh những con quạ. Eragon lắp thêm tên, nhưng nó chợt nghĩ, nếu chúng biết chỗ tìm ra mình, chắc ông già cũng bị nguy rồi, phải báo cho ông biết. Ngay lúc đó, Eragon khiếp đảm thấy một đám lính tiến vào thánh đường, lố nhố ngoài cửa cũng đầy những lính. Nó tiếc rẻ nhìn mấy tên Ra'zac, rồi chạy vào tiền sảnh bên trái bàn thờ, nhảy qua rào, xuống hành lang. Tiếng chân Ra'zac rầm rập phía sau. Eragon rướn người cố chạy, nhưng nó bị một cánh cửa chặn đường. Không thể phá được cánh cửa gỗ nặng nề, Ra'zac gần kề phía sau, Eragon điên cuồng hít một hơi mạnh, la lên: "Jierda!" Ánh sáng loé lên, cánh cửa tan thành muôn ngàn mảnh vụn bay lả tả. Nó nhảy qua căn phòng nhỏ, cắm đầu chạy tiếp. Qua nhiều phòng ốc khác, những giáo sĩ hốt hoảng vừa la vừa chửi. Chuông báo động reo vang. Eragon chạy xuyên qua bếp, vượt qua hai tu sĩ, lách mình qua một cửa hông. Nó lọt vào một khu vườn, chung quanh có tường cao bao bọc. Eragon vội quay trở lại, nhưng phía sau tiếng rít của Ra'zac đã cận kề. Nó đành chạy lại bức tường. Nhắm bức tường quá dày, nếu dùng phép thuật để phá, nó sẽ không còn sức để thoát thân. Giơ cao hai tay, phóng người nhảy lên, những ngón tay Eragon chỉ bám hờ được mép tường. Thở hồng hộc, nó cố giữ thân hình treo sát tường. Mấy tên Ra'zac khệnh khạng vào vườn, đầu lắc lư như chó săn đánh hơi mồi. Eragon gồng mình đu lên, vai đau nhói khi quăng mình sang được phía bên kia. Vừa kịp lảo đảo đứng dậy chạy vào một ngõ hẹp, tụi Ra'zac cũng đã vọt qua tường. Eragon chạy chừng hơn một dặm mới dám ngừng lại thở. Nó lẩn vào một khu chợ đông đúc, rồi nhào xuống gầm một xe chở hàng vắng chủ. Bằng cách nào chúng phát hiện ra mình? Chúng không thể biết mình ở đâu, trừ khi có chuyện xảy ra cho ông Brom. Nghĩ vậy, nó liên lạc với Saphira: "Ra'zac đã tìm ra anh. Chúng ta đang bị nguy hiểm. Thử xem ông già có sao không. Nếu không, báo cho ông biết tin ngay, bảo ông gặp anh tại quán trọ. Sẵn sàng bay lại anh càng sớm càng tốt. Rất có thể cần em giúp để tẩu thóat." Một lúc sau, Saphira trả lời: "Xong rồi, ông ấy sẽ gặp anh tại nhà trọ. Đừng đi đâu nữa. Nguy hiểm lắm." Chui khỏi gầm xe, Eragon vội vã về Quả Cầu Vàng, đóng hành lý, yên cương xong, dắt ngựa ra ngòai đứng chờ. Về tới nơi, ông Brom nhảy ngay lên Hỏa Tuyết, hỏi: - Xảy ra chuyện gì? - Ra'zac xuất hiện ngay sau lưng cháu trong thánh đường. Cháu cố chạy về, nhưng chỉ một giây nữa, có thể chúng sẽ tới đây. Ngay khi chúng ta ra khỏi Dras - Leona, Saphira sẽ đi cùng chúng ta. - Phải ra khỏi đây ngay, trước khi chúng đóng cổng thành. Dù làm chuyện gì, cháu không được tách khỏi ta. Eragon cứng người, khi thấy đám lính đang đi nơi cuối phố. Ông già vừa rủa vừa giật cương cho Hỏa Tuyết phi nước đại. Eragon rạp mình trên con Cadoc phóng theo. Nhiều lần hai người suýt vấp ngã, vì phải vọt qua, luồn lách giữa đám đông khi tới gần cổng thành. Gần tới nơi, Eragon hoảng hốt thấy cổng thành đang từ từ hạ và một hàng gươm giáo chặn ngang. Ông Brom cứng rắn nói: - Để ta làm việc với đám lính, cháu phải tìm cách mở cửa thành. Eragon gật đầu, nghiến răng, thúc ngực tiến tới. Đám lính hạ mũi giáo ngang tầm ngực ngựa. Eragon nghe tiếng la hét của đám lính, nhưng chỉ chăm chăm nhìn cổng đang khép lại. Ông Brom đưa tay lên nói, những lời nói như làm tụi lính bị cắt một chân, chúng nghiêng ngả dựa vào nhau. Eragon lấy hết sức bình sinh, la lớn: - Du grind huildr! Cổng sắt run lên bần bật rồi đứng im. Tiếng vó ngựa tanh tách vượt khỏi cổng thành. Đám đông và tụi lính há hốc mồm kinh ngạc. Eragon quay lại vẫy tay, cánh cổng nặng nề đóng chặt lại. Vừa phóng ngựa, ông già vừa án náy nhìn Eragon, vì ông biết nó rất mệt. Khi xuyên qua ngọai ô Dras - Leona, hai người mới nghe tiếng kèn báo động từ trong thành. Saphira đang nấp sau lùm cây chờ họ. Ông Brom nói ngay: - Đi với Saphira, nhớ ở trên cao, dù chuyện gì xảy ra với ta. Ta đi về hướng nam. Bay gần thôi, chúng thấy Saphira cũng không là điều cần thiết nữa. Eragon đang nhìn mặt đất trôi ngược và ông già gò mình phóng ngựa phía dưới, Saphira chợt hỏi: "Anh không sao chứ?" "Không sao, nhưng hoàn toàn nhờ may mắn thôi." Thở ra một bụm khói, chứng tỏ đang bực bội, Saphira nói: "Tất cả thời gian vất vả truy lùng Ra'zac thành công cốc ráo!" "Anh biết. Nếu chỉ có Ra'zac, anh đâu buông tha chúng. Nhưng với tất cả đám lính đó, mình không đủ sức." Con đường phía dưới vùn vụt giật lùi, đã qua khỏi vùng hồ Leona, chúng đang bay trên vùng đất khô cằn đầy đá và những bụi xương rồng cao. Mây đen kéo đầy trời. Chớp loé lên từ xa. Saphira bắt buộc phải hạ cánh, vì gió bắt đầu gào thét. Ông Brom ngước lên hỏi Eragon: - Sao vậy? - Gió mạnh quá. - Có thấy gì đâu? - Trên cao kìa. Ông trao dây cương Cadoc cho nó. Người, ngựa và rồng tiếp tục lên đường. Trên mặt đất Saphira khó nhọc mới theo kịp hai con ngựa. Gió mạnh thêm. Bụi cuốn mịt mùng, Eragon và ông già phải cuốn khăn che bụi. Tuy vậy, Eragon lại mong trời sớm đổ mưa để xóa những dấu vết trên đường. Trời tối, họ phải cắm trại giữa hai tảng đá, ăn đồ ăn nguội vì không dám nổi lửa. Saphira xòe cánh làm lều. Ăn xong, Eragon chợt hỏi: - Sao chúng lại tìm được chúng ta? - Một người hầu trong lâu đài cho biết, trong số họ có một tên gián điệp. Nó đã báo cho Tábor, và lão báo cho Ra'zac. - Vậy là chúng ta không thể trở lại Dras - Leona được nữa? - Mấy năm nữa mới có thể trở lại đó được. - Chúng ta có nên tìm cách nhử cho Ra'zac ra ngoài không? Để Saphira xuất hiện, chúng sẽ đuổi theo. - Và ít nhất năm mươi tên lính sẽ truy đuổi cùng chúng? Nhưng lúc này không phải thời gian để bàn cãi chuyện này. Ngay bây giờ, phải tìm mọi cách để sống còn. Đêm nay sẽ vô cùng nguy hiểm, vì Ra'zac sẽ lợi dụng đêm tối để truy đuổi theo ta. Cháu phải nhớ, chúng mạnh mẽ nhất khi trời tối. Chúng ta phải thay phiên canh gác cho tới khi trời sáng. Eragon chợt thấy một thoáng di động của một miếng màu nho nhỏ nổi bật trong đêm tối. Nó tiến lên mấy bước để nhìn cho rõ. Ông Brom hỏi: - Có gì thế? Nó quay vào bảo: - Cháu không biết. Hình như cháu thấy một con chim. Sau gáy nó bỗng nhói đau và có tiếng Saphira gầm lên. Eragon gục xuống, ngất đi. Razac trả thù Tiếng đập nặng nề cứ nổi lên trong đầu, mỗi lúc nhịp máu nhảy, Eragon cảm thấy như một cơn sóng đau đớn xuyên qua. Nó cố hé mở mắt, nước mắt ứa ra khi ánh nhìn trực tiếp một ngọn đèn chói sáng. Chớp mắt quay đi, nó định ngồi dậy, mới biết hai tay bị trói giật ra sau. Nó bơ phờ quay lại nhìn: hai cánh tay ông Brom bị trói vào tay nó. Nó tạm yên tâm biết ông còn sống, vì chúng đời nào lại đi trói một người chết. Nhưng chúng là ai? Eragon cố ngoái nhìn ông, nhưng, lù lù trước mắt nó là đôi ủng màu đen. Ngước mắt lên, nó nhìn thấy ngay bộ mặt đáng sợ của một tên Ra'zac. Eragon vừa định bật ra mấy câu thần chú tiêu diệt tên Ra'zac, bỗng bốt rối khựng lại. Không nhớ nổi một câu nào. Tức giận nó thử lại, vô ích. Tên Ra'zac cao lớn cười lạnh buốt: - Thuốc vẫn còn công hiệu, hả? Mày không còn quấy rầy chúng ta được nữa đâu. Bên trái có tiếng động, Eragon quay nhìn. Tên Ra'zac thứ hai đứng kế bên Saphira. Một sợi xích đen trói hai cánh, hai chân Saphira bị còng. Eragon cố liên lạc với Saphira nhưng không được. Tên Ra'zac gần Saphira ngồi xổm xuống lục lọi hành trang của Eragon. Nó lôi ra đủ thứ cho tới khi rút ra thanh Zar'roc: - Một vật đẹp thế này mà để cho thằng nhóc vô dụng thì phí quá. Có lẽ tao nên giữ thì hơn. Hay...nếu mày biết điều, chủ nhân ta sẽ cho mày được phép lau chùi đấy. Đang xoay xoay thanh kiếm ngắm nghía, nó bỗng thét lên. Tên kia chạy lại. Cả hai rin rít một hồi, rồi quay bảo Eragon: - Mày sẽ phục vụ chủ nhân ta rất đắc lực. - Nếu vậy tao sẽ giết chúng mày. - Ồ, không đâu. Tụi tao có giá lắm. Nhưng mày....sẽ được trọng dụng. Saphira gừ một tiếng, khói tuôn ra từ hai lỗ mũi. Nhưng hai tên Ra'zac chợt chú ý đến ông Brom vừa rên lên, trở mình. Một tên Ra'zac nắm ông quăng lên không. Tên kia lên tiếng: - Giết lão đi. Lão gây cho chúng ta khổ nhiều rồi. - Ý kiến hay đó. Nhưng đức vua bảo phải để cho chúng sống. - Chúng ta sẽ tâu là lão bị chết trước khi bị bắt. - Nếu thằng nhóc này khai ra thì sao? - Nó không dám đâu. - Đồng ý. Một tên cười ha hả, rút ra con dao. Chúng kéo ông ra giữa khoảng trống, đè ông quì xuống. Brom đổ nhào sang một bên. Eragon khiếp đảm, cố vùng vẫy, nhưng dây trói càng xiết chặt. Một tên Ra'zac hỉnh mũi đánh hơi, hình như có điều gì làm nó không yên tâm. Tên kia gầm lên một tiếng, thọc thẳng mũi dao vào cổ họng ông già. Ngay lúc đó, một tiếng "véo" trong không gian, và tiếp theo là tiếng rú của một tên Ra'zac. Một mũi tên cắm phập trên vai nó. Tên đang đứng gần Eragon nhào xuống đất tránh những mũi tên tiếp theo. Nó bò lại tên đồng đội bị thương, giận dữ rít lên, không để ý đến ông già đang loạng choạng đứng dậy. Eragon la lớn: "Nằm xuống!" Ông lảo đảo tiến lại Eragon. Thêm một mũi tên vút ra từ một xạ thủ vô hình. Hai tên Ra'zac núp sau những tảng đá. Im lặng một lúc, những mũi tên vun vút bắn tới từ một hướng khác. Quá bất ngờ, hai tên Ra'zac trở nên chậm chạp, hai tấm áo choàng rách tả tơi và một mũi tên xuyên ngập cánh tay tên còn lại. Với tiếng kêu đầy man rợ, tên thấp nhỏ hơn đá tới tấp lên sườn Eragon, rồi thoát chạy. Tên cao lớn bối rối chộp con dao trên mặt đất, phóng thẳng vào Eragon. Mắt ông già Brom chợt sáng lên kỳ lạ. Ông quăng thân mình đè lên Eragon. Một tiếng "phập", mũi dao xuyên vào ông ngọt xớt. Nặng nề buông mình xuống, đầu ông nhè nhẹ lắc lư: - Không! Eragon kêu thét lên. Nó nghe tiếng chân người, nhưng mắt nó nhắm lại, không còn biết gì nữa. Chàng Murtagh Một lúc lâu Eragon chỉ lo lắng vì một bên sườn bỏng rát. Mỗi nhịp thở lại làm nó đau đớn. Cảm giác như chính nó bị đâm, chứ không phải ông Brom. Nó không còn biết chuyện mới xảy ra hay đã mấy tuần rồi. Khi hơi tỉnh táo, Eragon mở mắt nhìn đống lửa cách nó mấy bước. Tay vẫn còn trói, nhưng chắc thuốc mê đã tan, nên nó mới có thể suy nghĩ được thế này. "Saphira, em có bị thương không?" "Không, chỉ anh và ông già bị thôi." Nó đang nằm sát bên, xoè cánh che chở cho Eragon. "Saphira, không phải em nhóm lửa và tự cởi trói chứ?" "Không..." "Anh cũng đoán vậy." Eragon quay đầu nhìn: một thanh niên lạ mặt đang ngồi xa xa khỏi đống lửa. Anh ta mặc bộ đồ cũ nát, nhưng dáng vẻ trầm tĩnh, quả quyết. Hai tay nắm chặt cây cung, bên sườn đeo thanh kiếm dài. Trên đùi anh là một tù và bịt bạc và một chuôi dao găm ló ra từ chiếc ủng. Những lọn tóc nâu bao quanh khuôn mặt trang nghiêm với đôi mắt dữ dằn. Trông anh ta có vẻ lớn hơn Eragon mấy tuổi và cao hơn nó chừng vài phân. Sau lưng anh có một con ngựa chiến màu nâu. Người lạ nhìn Saphira vẻ e dè. Eragon yếu ớt hỏi: - Anh là ai? - Murtagh. Giọng anh ta trầm, bình tĩnh, nhưng rất tình cảm. Eragon nghiến răng chịu đau, luồn hai tay bị trói qua chân ra phía trước. - Tại sao anh lại cứu chúng tôi? - Không chỉ riêng các anh mới là kẻ thù của Ra'zac. Tôi cũng đang truy lùng chúng. - Anh biết chúng là ai chứ? - Biết. Eragon tập trung vào giây trói, vận dụng phép thuật. Nhưng nó ngập ngừng nhìn Murtagh, xong quyết định: "Jierda!" Giây trói bung khỏi tay, nó định đứng dậy, bỗng cảm thấy xương sườn đau buốt, ngã ngửa ra. Murtagh đứng bật dậy, nhưng khựng lại vì tiếng gầm gừ của Saphira. - Tôi đã định cởi trói cho anh từ trước, nhưng con rồng của anh không để tôi lại gần. - Tên nó là Saphira. "Saphira, để anh ta giúp chứ. Anh không thể tự đứng dậy được đây này. Chính anh ta đã cứu chúng mình mà." Saphira gừ gừ vài tiếng mới chịu lùi ra sau, xếp đôi cánh lại. Murtagh vừa tiến lại gần vừa nhìn chừng nó. Anh ta nhẹ nhàng nắm tay kéo Eragon đứng dậy. Eragon nén đau để Murtagh dìu tới chỗ ông già đang nằm. Nó hỏi: - Vết thương của ông ấy ra sao? - Nặng lắm. Murtagh đặt Eragon ngồi cạnh ông, nói thêm: - Lưỡi dao đâm trúng sườn. Nhưng trước hết, phải coi xem vết thương Ra'zac gây cho cậu ra sao đã. Anh ta cởi áo Eragon, kêu lên: - Ôi cha! Một vết đỏ bầm hằn sâu bên sườn Eragon. Da nó bị rách nát. Murtagh đặt tay lên vết thương, ấn nhẹ. Eragon đau đớn kêu lên. Saphira gầm gừ cảnh cáo. Murtagh lấy một cái chăn, vừa xé vừa nhìn Saphira: - Tôi nghĩ cậu bị gãy mấy xương sườn. Ít nhất là hai. May mà cậu không ho ra máu. Anh ta bó quanh ngực Eragon bằng những mảnh chăn. Eragon mặc lại áo rồi run rẩy tháo băng vết thương của ông già. Murtagh cản lại: - Đừng. Ông ấy sẽ chết vì mất máu. Máu trào ra từ vết thương không lớn nhưng sâu. Eragon đã có kinh nghiệm từ cái chết của cậu Garrow, vết thương do tụi Ra'zac gây ra rất khó lành. Nó lẳng lặng tháo găng tay, cố nhớ lại những câu thần chú chữa thương ông già đã dạy nó. "Saphira, giúp anh. Anh yếu lắm, không làm chuyện này một mình được đâu." Saphira bò lại gần, chăm chú nhìn ông. Ngay khi tâm trí Eragon hòa cùng Saphira, nội lực nó bùng lên. Eragon tập trung hai luồng công lực vào câu thần chú: "Waise heill!" Bàn tay nó vụt sáng và da của ông Brom liền lành lại, như chưa từng bị rách. Chỉ một thoáng, ánh sáng biến mất. Eragon mệt lả, ngồi lên, bảo Saphira: "Trước đây chúng ta không bao giờ làm được điều này." "Đúng vậy. Nếu mình hợp sức lại, sẽ có thể làm được những điều vượt quá khả năng mỗi đứa." Murtagh hỏi: - Vết thương có thể lành hoàn toàn được không? - Tôi chỉ có thể chữa lành bên ngoài. Tôi không đủ khả năng trị nội thương. Ôi, đầu tôi sao cứ như ở trên mây thế này. - Chắc cậu phải ăn chút gì. Để tôi đi nấu súp. Trong khi Murtagh nấu nướng, Eragon tự hỏi, con người xa lạ này là ai? Áo quần cũ nát, nhưng kiếm, cung, tù-và đều là thứ hảo hạng. Không biết anh ta là kẻ trộm hay một tay nhà giàu phá sản? Tại sao anh ta săn lùng Ra'zac? Chúng đã làm gì để gây mối hận thù với anh ta? Anh ta có phải là người của Varden không? Murtagh bưng bát súp tới, Eragon vừa húp vừa hỏi: - Ra'zac chạy khỏi đây bao lâu rồi? - Chừng mấy tiếng. - Chúng ta phải đi trước khi chúng kéo viện binh tới. - Cậu có thể đi nổi, còn ông già thì sao? Eragon hỏi Saphira: "Nếu mình là một cái cáng, em có thể quắp ông đi như cậu Garrow được không?" "Được, nhưng lúc xuống khó lắm." "Chỉ còn cách đó thôi." Eragon nói với Murtagh: - Saphira có thể đưa ông Brom đi. Nhưng phải cần một cái cáng. Anh làm giúp được không? Tôi không còn sức nữa. Murtagh đi chặt cây và lấy chăn làm cáng. Nhìn Saphira quắp cái cáng có ông Brom và cố sức bay lên, Murtagh ngơ ngẩn nói: - Thật không bao giờ tôi tưởng tượng được cảnh này. Khi Saphira đã khuất trong màn đêm, Eragon nghiến răng leo lên lưng Cadoc: - Cám ơn anh rất nhiều vì đã giúp đỡ chúng tôi. Nhưng bây giờ anh nên đi càng xa chúng tôi càng tốt. Anh sẽ bị nguy hiểm nếu triều đình bắt gặp anh đi cùng chúng tôi. Chúng tôi không thể bảo vệ anh, cũng không thể nào đang tâm nhìn anh bị hại vì chúng tôi. - Cậu nói hay lắm. Nhưng cậu định đi đâu? Có nơi nào gầy đây cho cậu nghỉ ngơi một cách an toàn không? Eragon thú thật: - Không. - Trong hoàn cảnh này, tôi nghĩ sẽ đi cùng, cho tới khi nào cậu qua khỏi cơn nguy hiểm. Vì tôi cũng chẳng biết đi đâu. Ngoài ra, nếu tôi đi cùng cậu, tôi còn có dịp bắn thêm mấy mũi tên vào Ra'zac, hơn là đi một mình. Thiếu gì chuyện thú vị xảy ra quanh một chàng Kỵ Sĩ. Eragon phân vân, có nên để một người hoàn toàn xa lạ cùng đi không, mà lặn lội một mình trong lúc quá yếu thế này cũng chẳng vui vẻ gì. Nhưng nếu Murtagh tỏ ra thiếu thành thật, Saphira sẽ chẳng để anh ta yên. Nó bảo: - Nếu muốn thì anh đi cùng chúng tôi cũng được. Murtagh gật đầu, nhảy lên con ngựa xám. Eragon nắm cương Hỏa Tuyết để nó chạy theo Cadoc. Tất cả dời nơi cắm trại, tiến vào chốn mịt mùng hoang dã. Trăng lưỡi liềm soi tỏ lối mòn chỉ làm Eragon thêm lo Ra'zac dễ dàng lần theo dấu vết. Trời gần sáng, Saphira liên lạc với Eragon: "Em phải ngừng lại thôi. Cánh mỏi rã rời, mà ông già cũng cần được săn sóc. Em khám phá ra một nơi ở tốt lắm, cách anh chừng hai dặm." Tới nơi Saphira hướng dẫn, hai người thấy nó đang chễm chệ dưới một tảng sa thạch lớn như một quả đồi, với những khoảng lồi lõm như những mái vòm. Saphira hí hởn: "Có một cái hang, từ dưới đất nhìn lên không thể nào thấy được. Rộng đủ cho cả người lẫn ngựa. Theo em." Nó bám vuốt vào đá leo lên trước. Eragon và Murtagh vừa kéo vừa đẩy gần một tiếng mới đưa được ba con ngựa lên hang. Hang rộng chừng bảy thước, sâu khoảng ba mươi thước, nhưng cửa hang nhỏ, có thể bảo vệ họ khỏi mưa gió và những con mắt soi mói. Càng vào sâu hang càng tối mù mù. Trong khi Murtagh gom củi nhóm lửa, Eragon vội chạy đến bên ông già. Saphira đã đặt ông lên một phiến đá gần cuối hang. Eragon nắm bàn tay buông thõng, lo lắng nhìn khuôn mặt tàn tạ, héo gầy của ông một lúc lâu, rồi thở dài đến ngồi bên đống lửa. Không ai nói năng gì. Sau khi cố gắng đổ chút nước cho ông, nhưng ông không nuốt được, hai chàng trai lẳng lặng trải chăn, dọn chỗ ngủ. Di chúc của một Kỵ Sĩ "Dậy, dậy ngay Eragon. Có chuyện rồi. Dậy giúp em mau." Eragon cố làm ngơ, ngủ thêm nhưng không được. "ERAGON!" Tiếng gọi lanh lảnh như chuông rền trong hang làm nó ngồi bật dậy, tay nắm vội cây cung. Saphira đang ráng giữ ông Brom, trong khi ông vật vã, lăn mình xuống nền hang. Bàn tay nắm chặt, mặt ông nhăn nhúm lại. Eragon hốt hoảng vừa chạy vội tới, vừa gọi Murtagh: - Giúp tôi giữ chặt. Ông làm bị thương thêm bây giờ. Nó ghì hai cánh tay ông, một bên sườn đau buốt. Hai người giữ cho đến khi cơn động kinh của ông hạ xuống, mới nhẹ nhàng bồng ông lên phiến đá. Eragon rờ trán, trán ông nóng như lửa. Nó bảo Murtagh lấy khăn và nước lạnh, rồi lau mặt cho ông. "Tụi anh ngủ lâu không?" Nhìn mặt trời đã rạng ngoài cửa hang, Eragon hỏi Saphira. "Cũng lâu rồi. Suốt thời gian đó, em ngồi canh cho ông. Chỉ một phút trước ông lên cơn co giật, em mới gọi anh." Nó vừa nhăn mặt vì bên sườn đau nhói, thì một bàn tay nắm lấy vai nó. Đôi mắt ông già đang trừng trừng nhìn Eragon. Ông hổn hển: - Lấy cho ta bình rượu. Nghe ông nói, Eragon mừng rỡ kêu lên: "Ông ơi!" rồi năn nỉ: - Đừng uống rượu, rượu làm ông bệnh nặng thêm mất thôi. - Lấy cho ta đi, con....đem lại đây... Eragon lại túi hành lý lục lọi rồi bảo: - Cháu không thấy. Nhưng Murtagh nói ngay: - Tôi có. Rồi anh ta lấy bình rượu đem tới. Giọng ông già yếu ớt thì thào: - Tốt. Rửa bàn tay phải cho ta. - Sao ạ? - Đừng hỏi. Không còn thời gian nữa đâu. Eragon rưới rượu lên lòng bàn tay ông, cẩn thận lau chùi từng ngón. Ông bắt nó đổ thêm rượu, kỳ cọ cho tới khi một lớp nhuộm màu nâu tróc khỏi bàn tay. Eragon há hốc mồm kinh ngạc. Trên lòng bàn tay ông già Brom là dấu gedwey ignasia. - Ông là Kỵ Sĩ? Ông già nở một nụ cười đầy chua xót: - Đã một thời...thì đúng. Bây giờ không còn nữa. Ngày ta còn nhỏ, nhỏ hơn cháu bây giờ, ta đã được các Kỵ Sĩ tuyển chọn vào hàng ngũ họ. Trong thời gian khổ luyện, ta kết bạn với một đồng môn...đó là...là Morzan, trước khi hắn trở thành một phản đồ. Eragon nghẹn thở, vậy là phải cả trăm năm trước! - Nhưng rồi hắn phản bội chúng ta, chạy theo Galbatorix và....trong cuộc chiến tại Doru Areaba, thành phố Vroengard ngày nay, con rồng của ta bị giết. Tên nó là Saphira. - Sao trước đây ông không cho cháu biết chuyện này? - Vì...vì cháu không cần phải biết. Eragon ơi, ta già rồi, quá già rồi. Mặc dù con rồng của ta đã chết, ta vẫn sống lâu hơn mọi người. Nhìn lại, cháu không thể đoán được tuổi ta và biết được hết mọi chuyện đâu. Hãy hướng tới tương lai, và nên biết rằng còn rất nhiều năm chờ đợi cháu phía trước....Sau bấy nhiêu năm, ta vẫn còn thương xót Saphira và căm thù Galbatorix về những gì hắn tước đọat của ta. Đừng để chuyện đó xảy ra với cháu. Đừng! Phải bảo vệ Saphira bằng mạng sống của cháu. Vì không có nó, cuộc đời không còn đáng sống nữa. - Ông đừng lo, sẽ không có gì xảy ra cho Saphira đâu. Ông lão đưa đôi mắt lờ mờ nhìn Murtagh rồi nói: - Có lẽ ta đã quá dông dài... Quay lại Eragon, ông chăm chăm nhìn nó, giọng rắn rỏi hẳn lên: - Eragon, ta không còn ở lại bao lâu nữa. Vết trọng thương này đã rút hết sức lực ta. Ta không còn đủ khả năng chống trả nữa rồi. Trước khi ta đi...cháu có nhận lời chúc phúc của ta không? Eragon ứa nước mắt nói: - Mọi chuyện sẽ ổn cả thôi mà ông. Ông đừng làm vậy. - Đó là điều ta phải làm. Cháu có nhận không? Eragon xúc động cúi đầu. Ông Brom đặt bàn tay run rẩy lên trán nó: - Cầu chúc những tháng năm sắp tới đem hạnh phúc đến cho cháu. Ông ra dấu cho Eragon sát lại gần hơn. Thì thầm như hơi thở, ông rót vào tai Eragon bảy câu bằng cổ ngữ, và hạ thấp giọng thêm, ông cắt nghĩa bảy chữ đó cho nó hiểu. Rồi ông nói tiếp: - Ta chỉ có bấy nhiêu dành cho cháu....Hãy sử dụng khi cần thiết. Nói xong ông ngước mắt lên mái hang, lẩm bẩm: - Và bây giờ là lúc dành cho cuộc phiêu lưu lớn nhất đây.... Eragon cầm tay ông vừa khóc vừa tìm lời an ủi. Suốt nhiều tiếng đồng hồ dằng dặc, nó không nhúc nhích, không ăn uống, nó lặng lẽ ngồi nhìn da ông từ từ xám lại, mắt mờ dần. Trong hang im phăng phắc. Đôi mắt ông vẫn không rời mắt nó. Rồi một tiếng thở hắt ra thật nhẹ thoát ra từ vành môi. Brom, ông già kể chuyện, lìa đời như vậy đó. Với những ngón tay run rẩy, Eragon vuốt mắt ông, rồi đứng dậy. Saphira ngẩng cao đầu, ngước lên trời, gầm lên thê thảm như tiếng than van, rên rỉ của một bài hát cầu hồn. Cảm thấy một nỗi mất mát không gì bù đắp nổi, nước mắt đầm đìa trên má, Eragon ráng bình tĩnh nói: - Chúng ta phải chôn cất cho ông. Murtagh cảnh giác: - Làm vậy chúng ta có thể bị phát hiện. - Tôi không cần. Bối rối, Murtagh bồng xác ông Brom, cùng kiếm và cây gậy của ông, ra khỏi hang. Saphira đi theo. Eragon chỉ tay lên cao, bảo: - Lên tới đỉnh. - Không đào huyệt trên đá được. - Tôi làm được. Eragon cố nén đau leo tới mặt phẳng trên đỉnh đồi sa thạch. Murtagh đặt ông già nằm trên đá. Lau nước mắt, chăm chăm nhìn mặt đá, Eragon đưa tay lên, nói: - Moi stenr! Mặt đá rúm lại, rồi chảy ra như nước, lõm xuống thành một hình người. Dùng sa thạch như một thứ đất sét ướt, Eragon xây một bức tường bao quanh, cao chừng một thước. Sau khi xác ông già cùng cây gậy và gươm được đặt vào cái huyệt chưa hoàn tất, Eragon lùi lại, dùng phép thuật làm sa thạch dâng lên, kết thành một chóp hình nón. Tỏ lòng tôn kính với ông, nó khắc trên đá: NƠI ĐÂY AN NGHỈ ÔNG BROM Người đã từng là một Kỵ Sĩ Và với tôi, ông như một người cha Cầu xin tên ông mãi mãi tồn tại trong vinh quang Eragon đứng lặng như pho tượng cho đến khi bóng tối bao trùm vạn vật. Đêm đó lại mơ thấy người phụ nữ trong tù. Nó thấy cô ta đang gặp hiểm nghèo. Cô ta thở không bình thường, run lên không biết vì lạnh hay đau đớn. Trong bóng tối lờ mờ của phòng giam, chỉ bàn tay trắng của cô bỏ thõng nơi mép giường là rõ nhất. Những giọt màu đen, nhỏ xuống từ những ngón tay. Eragon biết, đó chính là máu. Ngôi mộ kim cương Eragon thức dậy, mắt cay xè, thân mình tê cứng. Ngoài mấy con ngựa, trong hang trống rỗng. Không còn chiếc cáng, chẳng còn chút gì của ông Brom. Nó ra cửa hang, ngồi lên một tảng đá nghĩ ngợi. Vậy là lời tiên đoán của bà thầy bói Angela đã thành sự thật: "Một cái chết đến với cháu trong tương lai làm cháu vô cùng đau khổ." Mặt trời đang hắt cái nóng của sa mạc vào buổi sáng tinh mơ. Những giọt nước mắt lại lăn dài trên má, Eragon lơ đãng vạch móng tay trên sa thạch. Nhìn lại, nó mới biết vừa vô tình viết mấy chữ: "Tại sao lại là tôi?" Murtagh xách hai con thỏ, leo lên hang. Anh ta lẳng lặng ngồi xuống bên Eragon, một lúc sau mới hỏi: - Cậu khá chưa? - Yếu lắm. Mấy phút sau, Murtagh ngập ngừng lên tiếng: - Thật tình tôi không muốn hỏi cậu vào lúc này. Nhưng tôi cần phải biết...có đúng ông Brom của cậu chính là người đã tiếp tay trộm trứng rồng của nhà vua và giết Morzan trong một trận tử chiến không? Tôi đã nghe cậu nhắc đến tên này và đọc những dòng chữ cậu mới khắc trên mộ bia, nhưng tôi muốn biết một cách chắc chắn hơn. Có đúng là ông ấy không? - Chính là ông ấy. Nhưng tại sao anh biết tất cả những chuyện này? Anh đề cập đến những việc hoàn toàn bí mật với mọi người, anh còn theo dấu Ra'zac, xuất hiện ngay khi chúng tôi cần giúp đỡ. Anh có phải là một thành viên của Varden không? Ánh mắt Murtagh xa xôi, đầy bí ẩn: - Tôi là một kẻ chạy trốn như cậu. Tôi không thuộc cả về Varden lẫn triều đình. Ngoài chính bản thân mình, tôi cũng không có bổn phận phục tùng bất cứ ai. Việc giải thoát cậu, thú thật, là vì tôi nghe những chuyện lén lút truyền tai cho nhau về một Kỵ Sĩ mới. Tôi nghĩ chỉ theo vết tụi Ra'zac mới biết chuyện này có thật hay không. - Tôi tưởng anh muốn giết tụi Ra'zac? - Tôi muốn lắm chứ, nhưng nếu tôi đã làm điều đó, thì tôi chẳng bao giờ còn gặp cậu. Eragon tự nhủ, phải chi ông già còn sống, ông sẽ biết ngay Murtagh có đáng tin không. Nhớ lại phương pháp ông đã sử dụng để đọc ý nghĩ của Trevor ở Daret, nó cố xâm nhập vào tư tưởng Murtagh. Nhưng thật lạ kỳ, tiềm thức anh ta như có một bức tường thép bao bọc. Eragon kinh ngạc nghĩ, làm sao anh ta có được khả năng này? Theo lời ông già, hiếm kẻ nào, không được huấn luyện, có khả năng ngăn chặn được người khác xâm nhập vào tiềm thức. Vừa buồn vừa cô đơn, Eragon hỏi: - Saphira đâu? - Tôi không biết. Nó theo tôi đi săn một lúc, rồi bay đi môt mình. Bây giờ cậu định sẽ làm gì? - Tôi cũng chưa biết. Bên sườn nó vẫn còn đau nhoi nhói. Eragon cuốn chăn, buộc lên lưng Cadoc, trong khi Murtagh làm thịt thỏ. Dọn dẹp đồ vào bao, Eragon cầm lên thanh Zar'roc. Bao kiếm màu đỏ sáng ngời. Nó rút kiếm cân nhắc trong tay. Chưa bao giờ nó đeo hay sử dụng Zar'roc trong chiến đấu, trừ những khi luyện kiếm với ông già. Nó không muốn để mọi người nhìn thấy thanh kiếm này. Nhưng bây giờ nó không bận tâm về điều đó nữa. Tụi Ra'zac đã thấy kinh khi nhìn thấy thanh Zar'roc, lý do đó quá đủ để nó nên đeo thanh kiếm bên mình. Hãy để cho cả thế giới biết mình là ai. Mình không sợ. Từ nay mình là một Kỵ Sĩ, hoàn toàn, trọn vẹn. Đang lột da thỏ, Murtagh chùi tay, ngẩng lên bảo: - Cậu cho mình xem thanh kiếm một chút, được chứ? Murtagh quan sát thanh kiếm, mặt chợt tối sầm: - Cậu lấy kiếm này ở đâu? - Ông Brom cho tôi. Sao? Murtagh trao lại thanh kiếm, khoanh tay giận dữ: - Đã có thời thanh kiếm này nổi tiêng như chủ nhân của nó. Người cuối cùng sử dụng nó chính là Morzan, một con người bạo tàn, man rợ. Tôi ngỡ tưởng cậu là kình địch của triều đình, không ngờ lại bắt gặp cậu đeo một trong những thanh kiếm đẫm máu của những kẻ phản đồ. Eragon bàng hoàng nhìn thanh kiếm. Nó hiểu ra, ông Brom đã lấy thanh kiếm của Morzan sau trận quyết chiến tại Gil'ead. Nó thành thật nói: - Ông không bao giờ cho tôi biết xuất xứ thanh kiếm này. Tôi không ngờ nó là của Morzan. - Không hề cho biết? Lạ nhỉ. Tôi nghĩ ông ta chẳng có lý do gì phải giấu cậu. - Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng ông vẫn giữ bí mật nhiều điều. Nó cảm thấy bứt rứt khi cầm trong tay thanh kiếm của con người phản bội. Lưỡi kiếm này chắc chắn đã từng lấy mạng nhiều Kỵ Sĩ trong thời gian đó, và khốn nạn hơn nữa, đã từng giết những con rồng! - Tôi đâu có thanh kiếm nào nữa đâu. Cho đến khi có được thanh khác, tôi vẫn phải dùng Zar'roc. Murtagh nhăn mặt khi nghe Eragon nhắc đến tên thanh kiếm, nhưng chỉ bảo: - Tùy cậu. Món ăn nóng làm Eragon cảm thấy dễ chịu hơn, vừa ăn nó vừa bảo Murtagh: - Chắc tôi phải bán con Cadoc. - Sao không bán ngựa của ông Brom? - Hỏa Tuyết? Không được. Ông Brom đã hứa săn sóc nó, giờ ông...không còn nữa, tôi phải làm thay. - Nếu cậu muốn vậy cũng được, khi nào chúng ta qua làng, chắc sẽ tìm được người mua. - Chúng ta? - Mộ của ông Brom như ngọn hải đăng dẫn lối cho Ra'zac. Cậu ở đây lâu sao được. Xương sườn chưa lành hẳn, tuy tôi biết cậu có thể tự chữa trị bằng phép thuật, nhưng cậu cần có bạn đồng hành khuân vác hành trang lên ngựa, xuống ngựa và thêm tay kiếm bảo vệ chứ. Tôi sẽ đi cùng cậu một thời gian. Nhưng tôi phải báo cho cậu biết, triều đình đang truy nã tôi. Trước sau gì cũng sẽ có màn đổ máu. - Tôi cóc cần nếu cả đội quân truy lùng anh. Anh có lý, tôi cần anh giúp. Rất mừng vì có anh cùng đi, nhưng tôi vẫn phải hỏi qua Saphira đã. Tôi cũng báo cho anh biết, chắc triều đình đã gửi cả một đoàn quân đuổi theo tôi. Đi với tôi và Saphira, không an toàn bằng anh đi một mình đâu. - Biết chứ. Nhưng dù sao chuyện đó cũng không ngăn được tôi đi cùng cậu. Eragon mỉm cười biết ơn. Vừa lúc đó, Saphira bò vào hang. Nó mừng vì gặp lại Eragon, nhưng tâm trí nó đầy sầu não. Đặt cái đầu màu xanh to đùng lên nền nhà, nó rầu rầo bảo: "Em nhớ ông già quá!" "Anh cũng vậy. Không bao giờ anh ngờ ông là một Kỵ Sĩ. Tất cả những gì ông dạy anh, chắc đều do các Kỵ Sĩ truyền thụ lại." "Em biết ông là ai, ngay từ khi ông chạm vào em ở trang trại nhà anh." "Tại sao em không cho anh biết?" "Ông dặn em không được nói." Eragon cho Saphira biết tiểu sử thanh Zar'roc, rồi nói thêm: "Bây giờ anh hiểu vì sao khi trao kiếm cho anh, ông đã không cho anh biết nguồn gốc của nó. Vì nếu anh biết, anh đã bỏ ông mà đi ngay rồi." "Em biết nó là một vũ khí vô song, không gì so sánh được, nhưng anh nên tìm một thanh kiếm bình thường, hơn là sử dụng con dao đồ tể của Morzan." "Có lẽ vậy. Saphira, Murtagh đề nghị đi cùng chúng ta. Anh không biết gì về quá khư của hắn, nhưng hắn có vẻ trung thực. Chúng ta có nên đến với Varden không? Có điều là anh không biết tìm họ ở đâu. Ông già chưa hề cho anh biết." "Ông đã nói với em." Eragon tức giận: "Tại sao ông tin tưởng em, trong khi giấu anh tất cả những chuyện này?" "Sau khi ra khỏi thành Teirm và đụng độ với tụi Urgals, ông đã nói với em nhiều chuyện. Có những chuyện em chưa nói vì chưa cần thiết. Ông áy náy vì sợ sau khi ông chết, sẽ có những việc xảy đến cho anh. Ông đã cho em biết tên một người là Dormnad ở Gil'ead. Người này sẽ cho anh biết nơi tìm phe Varden. Ông già cũng muốn anh biết một điều, trong tất cả dân chúng ở Alageasia, ông tin chỉ có anh xứng đáng nhận quyền thừa kế từ các Kỵ Sĩ." Eragon ứa nước mắt. Đó là lời khen cao quí nhất chưa bao giờ nó nhận được từ ông. Nó tự nhủ, đây là một trách nhiệm mình rất vinh hạnh nhận lãnh. Nó cảm thấy sức lực và hy vọng tràn trề. "Tốt. Chúng ta sẽ đến Gil'eah. Còn vụ Murtagh? Em nghĩ anh ta có nên đi cùng mình không?" "Chúng ta còn nợ anh ta ơn cứu mạng. Và dù không tính đến chuyện đó, thì anh ta đã thấy chúng ta rồi. Dù muốn hay không, hãy giữ anh ta gần tụi mình, để anh ta không thể tả nhân dạng và địa điểm của chúng ta với triều đình." Eragon đồng ý, rồi kể cho Saphira nghe về giấc mơ: "Những gì anh thấy, làm anh lo ngại quá. Cảm thấy như có điều gì khủng khiếp sắp xảy đến cho cô ấy. Anh tin chắc cô ấy đang gặp nguy hiểm chết người, nhưng không biết tìm cô ta ở đâu. Cô ta phải ở đâu đó chứ." "Con tim anh bảo sao?" "Con tim anh mới chết rồi. Tuy nhiên anh hy vọng, trên đường đi tới Gil'eah, qua những thành thị, chúng ta sẽ tìm thấy nơi giam giữ cô ta. Chỉ sợ giấc mơ tiếp theo, anh sẽ chỉ thấy một nấm mồ. Anh không thể chịu đựng nổi điều này." "Sao vậy?" "Không rõ nữa. Nhìn cô ta, anh cảm thấy như cô ta là một thứ gì quý giá, không....thể để mất được. Kỳ lạ lắm!" Saphira nhe nanh trắng nhởn, cười khì khì. Eragon gắt: "Làm trò gì vậy?" Ả lắc đầu quầy quậy, bỏ đi. Eragon cho Murtagh biết kế hoạch lên đường. Murtagh bảo: - Nếu cậu quyết định tìm gặp người tên Dormnad, rồi tới với Varden, thì tôi phải chia tay thôi. Bước vào lãnh địa của Varden, nguy hiểm cho tôi, chẳng khác nào tay không vào hang cọp Uru'baen. Chúng sẽ thổi kèn báo cho tất cả biết tôi đã tới. - Chúng ta không phải chia tay sớm đâu. Đường tới Gil'eah còn xa lắm. Lát nữa mình sẽ rời khỏi đây. - Sức khoẻ cậu đủ để lên đường chưa? - Tôi phải làm gì đó, nếu không tôi phát điên lên mất. Luyện kiếm, tập phép thuật lúc này chưa được, thà cưỡi ngựa còn hơn. Hai người dập tắt lửa, đóng hành lý rồi ra khỏi hang. Eragon bảo Murtagh xuống trước. Nó hổn hển nhăn nhó leo lên tới đỉnh đồi sa thạch, đã thấy Saphira ở đó rồi. Cả hai đứng lặng bên mộ ông già lần cuối. Eragon rưng rưng nghĩ, mình không thể nào tin nổi, ông đã mãi mãi ra đi. Saphira vươn cổ vuốt ve ngôi mộ bằng đầu mũi, toàn thân nó rung lên, tiếng vù vù vang khắp không gian. Lớp sa thạch chung quanh mũi nó loé lên những tia sáng long lanh như bạc. Eragon kinh ngạc nhìn những tua giải trắng trong quấn nhau lại, tạo thành một tấm lưới kim cương phủ trên ngôi mộ. Với một tiếng thở khì, Saphira lùi lại ngắm công trình của nó. Ngôi mộ bằng sa thạch chỉ một thoáng đã trở thành một hộp đá quí sáng ngời, trong suốt. Có thể nhìn rõ mặt ông Brom thảnh thơi như đang ngủ. Eragon hỏi: "Em đã làm gì vậy?" "Em chỉ có thể tặng ông món quá này. Bây giờ thì thời gian không thể nào tàn phá ông được nữa. Ông sẽ yên nghỉ đời đời." "Cám ơn em." Bị bắt tại Gil'ead Vết thương làm Eragon đau tới nỗi cưỡi ngựa mà chậm như người đi bộ. Mỗi khi hít thở mạnh, nó cũng đau như xé thịt. Dù thế, nó vẫn không chịu ngừng. Saphira luôn bay gần để tiếp sức và khích lệ Eragon. Murtagh kềm cương ngựa giữ nhịp đi cùng Eragon, như một người bạn tâm giao. Eragon nhìn con ngựa xám, nói: - Anh có con ngựa đẹp quá. Tên nó là gì? - Tornac, đặt theo tên người thầy đã dạy tôi chiến đấu. Ông cho tôi, khi nó còn là một con ngựa tơ. Khó lòng kiếm được con vật nào thông minh, dũng cảm như nó. Tất nhiên là trừ Saphira. - Trông nó rất hùng tráng. - Ha ha, đúng vậy. Nhưng Hỏa Tuyết đâu thua gì. Hôm đó chỉ vượt qua được một đoạn đường, nhưng Eragon rất vui vì được họat động trở lại và làm nó quên bớt những buồn phiền, thương tật. Xuyên qua vùng đất gập gềnh, đã cách Dras - Leona nhiều dặm và quê hương Carvahall của nó giờ mịt mù xa. Tới một ngôi làng nhỏ, khi cầm tiền bán Cadoc, Eragon đau thắt ruột. Làm sao quên được những tháng ngày gian nan cùng nó khi vượt nửa đất nước Alageasia và cuộc đụng độ cùng lũ quái vật Urgals. Nhiều ngày trôi qua khi họ tiến sâu vào miền đất hoang vu. Eragon thích thú nhận ra nó và Murtagh có chung nhiều sở thích, hai người bàn cãi hàng giờ về cung nỏ và săn bắn. Tuy nhiên có một vấn đề cả hai đều né tránh: quá khứ của hai người. Eragon không nói gì về việc nó đã tìm thấy trứng của Saphira, gặp gỡ ông Brom và nó từ đâu tới. Murtagh cũng không hé môi về chuyện tại sao triều đình lại săn đuổi anh ta. Nhưng những ngày gần gũi, cả hai đều học hỏi lẫn nhau rất nhiều điều. Eragon thắc mắc vì sự thông thạo của Murtagh về chuyện chính trị và những vụ tranh dành quyền lực tại triều đình. Dường như anh ta biết rõ từng quan cận thần, từng nhà quí tộc đang âm mưu gì, ai ảnh hưởng đến ai ra sao. Eragon lắng nghe, lòng đầy nghi hoặc. Suốt tuần lễ đầu không thấy dấu vết nào của Ra'zac, nên Eragon cũng bớt lo. Tuy nhiên, ban đêm họ vẫn thay phiên nhau canh gác. Nó tưởng trên đường tới Gil'eah, sẽ có đụng độ với Urgals, nhưng cũng không hề thấy dấu chúng. Nó không còn mơ thấy cô gái trong tù nữa. Dù nó đã thử thu hình ảnh cô ta, nhưng chỉ thấy căn phòng giam trống rỗng. Mỗi lần qua một thành phố, nó dò hỏi xem có nhà tù nào không. Nếu có, nó sẽ cải trang, tìm cách vào thăm. Nhưng nàng vẫn bặt tăm. Nhìn những thông báo, với tên và nhân dạng nó, dán đầy các thành phố, nó càng ngụy trang cẩn trọng hơn. Cuộc hành trình về phương bắc, bắt buộc phải qua thủ đô Uru'baen. Đây là một nơi thị tứ, đông đúc dân cư, nên rất dễ bị phát hiện. Lính tráng tuần tra, bảo vệ suốt cầu đường, phố xá. Vì vậy họ phải mất nhiều ngày căng thẳng, cam go, đi đường vòng để tránh vào thủ đô. Ngay khi an toàn qua khỏi Uru'baen, họ đối diện với cánh đồng hoang bạt ngàn. Đây là cánh đồng Eragon đã đi qua khi rời khỏi thung lũng Palancar, nhưng bây giờ nó ở phía ngược lại. Theo dòng sông Ramr, đoàn lữ hành nhỏ tiến về phương bắc. Sinh nhật năm thứ mười sáu của nó trong thời gian này. Nếu ở Carvahall, một bữa tiệc sẽ được tổ chức mừng nó trưởng thành, nhưng tại nơi hoang dã này, thậm chí nó cũng không nói cho Murtagh biết. Gần sáu tháng tuổi, Saphira lớn hơn trước rất nhiều. Đôi cánh đồ sộ mới nâng nổi thân hình khổng lồ của nó. Mấy cái nanh của nàng rồng to bằng nắm đấm Eragon và nhọn hoắt như mũi kiếm Zar'roc. Cuối cùng cũng đến ngày Eragon tháo băng vết thương. Xương sườn của nó đã hoàn toàn lành lặn. Nơi bị đá bằng ủng sắt của Ra'zac chỉ còn một vết sẹo nhỏ. Nếu như trước kia, nó đã hú hí khoái trá cười vang, nhưng sau cái chết của ông già, nó không còn dễ dàng vui bồng bột nữa. Mặc áo nịt, rút thanh Zar'roc, Eragon tiến lại gần Murtagh đang ngồi bên đống lửa. Anh ta căng thẳng ngẩng nhìn, nhưng vẫn giữ vẻ bình tĩnh. Eragon hỏi: - Tôi khoẻ rồi, anh có muốn làm mấy đường kiếm không? - Kiếm sắc thế kia, chúng mình đâm chết nhau mất. - Đưa kiếm của anh đây. Murtagh bối rối, nhưng cũng đưa kiếm cho Eragon. Eragon phủ lớp bảo vệ bằng phép thuật như ông Brom đã dạy. Sau khi Murtagh quan sát lưỡi kiếm và Eragon làm phép kiếm cho nó xong, hai thanh kiếm đều vung lên, chạm nhau nẩy lửa. Eragon phá một chiêu tấn công của Murtagh thật bay bướm, rồi phóng một đường gươm như chớp. Murtagh thoắt uốn mình né tránh. Eragon thầm khen, cha này quá lẹ làng! Hai thanh kiếm thoăn thoắt vờn nhau, không bên nào chịu lùi bước. Sau hàng loạt chiêu thức cực kỳ hóc hiểm, Murtagh bỗng cười sằng sặc. Vì cả hai tài sức ngang nhau, tiếp tục đấu, cả hai đều mệt mà vẫn bất phân thắng bại. Eragon cũng cười, hiểu rõ tài nhau. Cuối cùng, hai đấu thủ mồ hôi đầm đìa, tay mỏi rã rời, Eragon la lên: - Nghỉ thôi, đủ rồi. Murtagh ngồi phệt xuống thở. Eragon buông mình xuống đất há mồm thở gấp. Murtagh bảo: - Cậu làm mình kinh ngạc đấy. Mình luyện kiếm cả đời, chưa gặp địch thủ nào như cậu. Nếu muốn, cậu sẽ trở thành kiếm sĩ hàng đầu của nhà vua. - Anh cũng tuyệt quá chứ. Tornac, thầy của anh mà mở trường thì giàu to. Đệ tử khắp Alageasia nườm nượp kéo về thụ giáo. - Ông ấy chết rồi. - Mình xin lỗi. Từ đó thành lệ, chiều đến hai người lại cùng nhau luyện kiếm. Dần dần trở thành một cặp đấu rất hiểu ý nhau. Sức khỏe trở lại, Eragon tiếp tục tập luyện phép thuật. Chẳng bao lâu, Murtagh biết được nhiều điều bất ngờ về phép thuật, tuy nhiên anh ta không thể tự sử dụng vì không hiểu tường tận. Mỗi khi Eragon tập nói cổ ngữ, Murtagh lắng nghe, và hỏi nghĩa. Gần một tháng sau, họ mới tới biên giới Gil'eah. Mùa xuân về xua tàn tích của mùa đông rét mướt. Eragon cảm thấy chuyến đi làm nó thay đổi nhiều, mạnh mẽ và bình tĩnh hơn. Tuy vẫn nhớ và tâm sự với Saphira về ông Brom, nhưng nhiều khi nó ráng không làm những kỷ niệm đau đớn thức dậy. Từ xa, thành phố trông như một nơi cằn cỗi, man rợ, đầy rẫy nhà gỗ và tiếng chó ăng ẳng sủa. Trung tâm thành phố là một pháo đài sập xệ. Không gian dày đặc sương mù. Nơi này giống một trạm buôn bán tạm thời hơn là một thành phố cố định. Qua khỏi thành phố chừng năm dặm, mờ mờ ẩn hiện họ Isenstar. Để được an toàn, họ cắm trại bên ngòai Gil'eah hai dặm. Trong bữa ăn tối, Murtagh bảo Eragon: - Tôi nghĩ cậu không nên vào Gil'eah. - Sao lại không? Tôi cải trang rất khá. Vả lại ông Dormnad muốn nhìn thấy dấu getwey ignasia trên tay tôi để làm bằng chứng tôi là một Kỵ Sĩ thật sự. - Nhưng triều đình nóng lòng bắt được cậu hơn tôi. Nếu tôi bị bắt, trước sau gì tôi cũng sẽ trốn thoát được. Nhưng nếu chúng bắt được cậu, chúng sẽ giải cậu đến nhà vua ngay. Cậu sẽ bị tra tấn cho tới chết, trừ khi cậu đồng ý làm bề tôi ông ta. Hơn nữa, Gil'eah là điểm trọng yếu của quân đội. Những ngôi nhà cậu thấy kia, không phải là nhà đâu, đó là doanh trại. Cậu vào đó chẳng khác nào tra tay vào còng của nhà vua. Eragon hỏi ý Saphira. Nó bảo: "Anh không cần phải hỏi em nữa. Ý kiến anh ta rất đúng. Nếu phải liều, không ai ngòai anh ấy. Vì anh ta đã từng trải chuyện này. Em sẽ dặn mấy điều, để anh ta có thể lấy được lòng tin của Dormnad." "Anh không muốn anh ta bị nguy hiểm vì chúng mình." Murtagh ha hả cười nói: - Thật y như huyền thoại, chàng Kỵ Sĩ đơn thương độc mã xông pha vào chốn ba quân của triều đình. Nào, trước khi tôi đi có dặn dò gì nữa không? Eragon áy náy hỏi: - Chúng ta có nên nghỉ ngơi, đợi tới mai không? - Cậu nói sao? Càng ở lại đây lâu chừng nào, càng dễ bị phát hiện. Chúng ta không ai nên ở gần Gil'eah quá vài ngày. Nếu Dormnad có thể đưa cậu đến gặp phe Varden, ông ta sẽ muốn càng mau càng tốt. Sau khi nghe những lời căn dặn của Saphira, Eragon nói lại cho Murtagh biết. Murtagh cười cười: - Nếu không có gì bất trắc xảy ra, chỉ mấy tiếng mình sẽ trở lại ngay. Nhớ để dành thức ăn cho mình đấy. Nhảy lên lưng Tornac, Murtagh vẫy tay chào, thúc ngựa phóng đi. Nhưng mấy giờ trôi qua vẫn không thấy anh ta trở lại. Eragon bồn chồn tới lui quanh đống lửa. Saphira không ngừng dõi mắt về hướng Gil'eah, rồi chợt kêu lên: "Trông kìa!" Một bóng người phi ngựa ra khỏi thành phố, tiến về nơi họ cắm trại. Eragon leo lên cổ Saphira, sẵn sàng bay. Nhưng khi người đó tới gần, Eragon nhận ra đó chính là Murtagh. Vừa nhảy xuống ngựa, anh ta hỏi ngay: - Có thấy ai đuổi theo mình không? - Không. - Tốt. Nhưng để tôi ăn đã, đói chết được. Sau vài miếng bánh, Murtagh bắt đầu nói: - Dormnad đồng ý gặp chúng ta rạng sáng ngày mai. Nếu xác nhận cậu đúng là Kỵ Sĩ, ông ta sẽ đưa cậu đi gặp Varden. - Điểm gặp nhau ở đâu? Murtagh chỉ hướng tây, bảo: - Trên ngọn đồi nhỏ kia. - Vậy chuyện gì xảy ra làm anh có vẻ lo lắng thế? - Một chuyện nhỏ, nhưng lại có thể cực kỳ nguy hiểm. Trong khi đang dò hỏi nhà Dormnad, một người quen đã nhìn thấy mình. Phóng ngựa né tránh, nhưng không kịp. - Liệu người quen anh có nói lại với ai không? - Mồm miệng thằng cha đó toang hoác như cái giếng, nghĩ gì trong đầu là phun ra hết. Vấn đề không phải là có nói cho người khác biết không, mà là nói với ai. Nếu hắn oang oang đúng với những kẻ muốn bắt chúng ta, thì kể như tiêu. - Tôi nghĩ lính sẽ không đi lùng anh trong đêm tối đâu. Ít ra đêm nay sẽ yên ổn, sáng mai chúng ta đi gặp Dormnad. - Không, chỉ mình cậu đi với ông ta. Tôi đã nói trước rồi, tôi không đến phe Varden. Eragon buồn rầu nhìn Murtagh. Nó không muốn chia tay với anh ta. Sau chuyến đi dài, hai người đã thành đôi bạn thân thiết của nhau. Nhưng Saphira nhẹ nhàng bảo: "Thôi, để mai hãy tính." Đôi bạn trẻ chuyện trò tới khi sao sáng đầy trời mới ngủ. Saphira giữ ca gác đầu. Eragon thức giấc trước khi mặt trời mọc chừng hai tiếng, vì lòng bàn tay nó rần rần ngứa ngáy. Chung quanh lạnh ngắt như tờ, nhưng nó cảm thấy có điều gì bất an. Cầm thanh Zar'roc, nó nhẹ nhàng đứng dậy. Mắt Saphira sáng rực chăm chăm nhìn: "Chuyện gì vậy?" "Chưa biết." "Em đánh hơi thấy mùi ngựa gần đây, nhưng chúng không di chuyển. Bốc mùi hôi kỳ lạ lắm." Eragon lay vai Murtagh. Murtagh giật mình vơ vội dao găm, nhìn Eragon dò hỏi. Nó thì thầm: - Quanh đây có ngựa. Murtagh lẳng lặng rút gươm. Hai người đứng im lìm hai bên Saphira. Sao mai đã mọc ở hướng đông. Một con sóc rúc rích chuyền cành. Chợt một tiếng gừ gừ giận dữ làm Eragon quay phắt lại. Một con quái Urgals to đùng, tay cầm một cái bừa, lưỡi nhọn hoắt. Con quái gầm gừ, vung vẩy vũ khí, nhưng không tấn công. "Brisingr!" Eragon thét lên, tung một chưởng. Mặt con quái co rúm lại, khủng khiếp. Thân hình nó nổ tung trong lằn chớp xanh, máu phun phè phè vào Eragon, một đống bầy nhầy vút lên không. Saphira gầm lên lùi lại. Một lũ quái tiếp tục xông ra. Tiếng vũ khí choang choảng chạm nhau giữa bầy quái và Murtagh. Eragon muốn tiếp tay với anh ta, nhưng bị bốn con quái vật bủa vây. Một con bổ lưỡi kiếm xuống vai Eragon. Tay trái Eragon đưa kiếm đỡ, tay phải tung chưởng giết tươi địch thủ. Lượn mũi Zar'roc ra sau, nó đâm trúng yết hầu con quái thứ hai, rồi đảo đường kiếm đâm ngay tim một Urgals vừa áp tới. Ngay lúc đó, con quái thứ tư vung cây chùy, đập xuống đầu Eragon. Nó chỉ kịp kêu lên: "Bay đi, Saphira", mắt nó toé lửa, gục xuống mê man. Tên tôi là "Thần chết của tà ma" Điều trước hết Eragon nhận thấy là nó khô ráo, ấm áp và tay không bị trói. Ngồi dậy, nhìn quanh, nó biết mình đang ở trên một giường vải nhỏ, trong một phòng giam. Một cửa sổ có chấn song trên tường cao. Cánh cửa sắt cũng có một ô nhỏ gắn chấn song như cửa sổ trên tường. Máu khô bong trên mặt Eragon, một lúc sau nó mới nhớ không phải máu mình. Nó cảm thấy choáng váng và đầu nhức như búa bổ. Cố gắng sử dụng phép thuật, nhưng nó không thể nào tập trung tâm trí và sức lực. Eragon thầm nhủ, chắc mình lại bị đánh thuốc mê. Nó ra khỏi giường, bên hông nhẹ tênh vì không còn thanh Zar'roc. Kiễng chân nhìn qua cửa sổ trên tường, Eragon thấy cửa sổ nhìn ra một con đường đầy người qua lại, xa xa là những ngôi nhà gỗ giống hệt nhau. Mệt mỏi, Eragon ngồi bệt xuống sàn. Những gì vừa thấy làm nó lo lắng nhưng không hiểu vì sao. Vừa dựa đầu vào tường cố giữ cho đầu óc sáng suốt, nó chợt thấy cửa mở và một người vào phòng với khay đồ ăn và bình nước. Nhưng mới húp được vài thìa canh bắp cải lõng bõng nước, Eragon không thể nuốt thêm được nữa. Thình lình nó nhớ ra, mình bị Urgals bắt, sao bây giờ lại ở đây? Nhưng tinh thần nó mơ hồ không nhớ được rõ ràng chuyện gì đã xảy ra. Nhiều tiếng sau, đồ ăn lại được đem đến. Lần này quá đói, Eragon đành phải ăn mà không cảm thấy lợm giọng. Sau đó không còn biết làm gì khác, nó nằm xuống lơ mơ ngủ. Rồi có tiếng cổng lanh canh mở ở đâu đó, cùng tiếng ủng sắt rầm rập đạp trên nền đá vang dội khắp không gian. Tiếng động lớn dần như có người dập một cái chảo vào đầu Eragon. Nó cố lết lại bên cửa. Qua ô cửa nhỏ, nó thấy một hành lang rộng chừng ba thước. Đối diện phòng nó là những phòng giam. Một hàng lính, lăm lăm thanh kiếm, đang rầm rộ đi dọc hành lang. Rồi giữa hàng lính, Eragon chợt thấy hai tên lính lực lưỡng dìu một phụ nữ bất tỉnh. Mái tóc dài, đen như trời đêm, che phủ mặt cô ta, tuy một dải băng da đã được thắt chặt bím tóc sau lưng. Cô ta mặc quần và áo da đen. Một thắt lưng da bóng, đeo một bao kiếm rỗng. Đôi chân nhỏ nhắn đi một đôi ủng cao tới gối. Eragon giật thót người, như bị đấm ngay bụng, khi cô ta nghẹo đầu sang một bên. Đó chính là người nó đã gặp trong mơ. Đường nét trên mặt nàng hoàn hảo như một bức tranh. Cả tấm nhan sắc ấy, chỉ bị một vết xước bên dưới má, nhưng nàng vẫn là một người tuyệt sắc mà Eragon chưa từng bao giờ được thấy. Người nó nóng ra, như trong nó có điều gì đó vừa chợt thức, một điều nó chưa từng cảm thấy bao giờ. Mái tóc nàng chợt xô lệch, để lộ vành tai nhọn. Eragon lạnh toát người. Nàng là thần tiên! Tụi lính dìu nàng đi khỏi tầm nhìn của Eragon. Sau đó, là một người cao lớn, ngạo mạn, tà áo choàng đen phất phới sau lưng. Mặt hắn ta trắng nhợt như xác chết, tóc đỏ lòm như máu. Nó biết kẻ đó là ai. Tà Thần! Thì ra giải thoát nó khỏi tay Urgals là...một Tà Thần! Khi qua phòng giam Eragon, hắn quay đầu nhìn thẳng vào nó. Đôi mắt hắn màu hạt dẻ. Hắn nhếch môi nở nụ cười man rợ, nhe những cái răng nhọn như lưỡi răng cưa. Eragon ngồi rũ xuống sàn. Dù trong lúc hoang mang, nó cũng biết rằng sự xuất hiện của Tà Thần đồng nghĩa với tội ác tràn lan. Nơi nào chúng xuất hiện là máu chảy thành sông. Một tà thần làm gì tại đây? Rồi ý nghĩ của Eragon lại quay về nàng tiên xinh đẹp và những cảm xúc lạ lùng lại xâm chiếm nó. Mình phải trốn khỏi đây, ý nghĩ đó vừa thoáng trong đầu, tâm trí nó mịt mờ như làn mây bao phủ. Nó trở lại giường, lịm ngay vào giấc ngủ. Vừa mở mắt, Eragon nhận ra ngay có sự thay đổi khác hẳn: suy nghĩ dễ dàng, minh bạch hơn. Nó biết mình đang ở Gil'eah. Nó tự nhủ, chúng đã lầm, thuốc mê đang tan dần. Chứa chan hy vọng, Eragon liên lạc với Saphira và thử sử dụng phép thuật. Nhưng cả hai việc đều không thành công. Khi người hầu đem đồ ăn vào. Eragon đợi cho hắn ra khỏi, bưng khay đồ ăn đến bên cửa sổ, đổ ra ngoài đường. Tuy đồ ăn chỉ có bánh mì, phô mai và một chút hành, cũng đủ làm nó cảm thấy đói cồn cào, nhưng nó nhất quyết không ăn, để tránh bị đánh thuốc mê. Càng lúc tinh thần nó càng tỉnh táo hơn. Nó bắt đầu nhớ lại nhiều câu thần chú, nhưng khi nó lẩm bẩm đọc lên, vẫn không có gì xảy ra. Eragon bực tức muốn gào lên được. Bữa ăn trưa Eragon cũng đổ qua cửa sổ, nó hồi hộp hy vọng không ai phát hiện. Tuy đói xót ruột, nhưng không khổ bằng khát nước. Cổ họng nó khô khốc, cứ nghĩ đến dòng nước mát lạnh, ngọt ngào là nó như bị tra tấn. Tuy vậy, nó vẫn cố không đụng tới bình nước. Chợt tiếng ồn ào ngoài hành lang làm nó lắng nghe. - Đã có lệnh rõ ràng. Không ai được vào gặp nó. - Thật ư? Anh muốn chết hay sao mà ngăn ta, đại úy? - Không....nhưng...Đức Vua... - Đức Vua đã có ta lo. Mở khóa mau. Tiếng khóa lách cách ngòai cửa phòng Eragon. Nó vội làm bộ mặt ngẩn ngơ, bụng nghĩ, dù thằng cha này nói gì, mình cũng giả khùng, không hiểu. Cửa mở. Eragon nín thở khi nhìn thấy mặt Tà Thần. Mặt hắn như một cái sọ bị lột da và được bao ra ngoài bằng chiếc mặt nạ của thần chết. Nhếch nụ cười lạnh buốt, nhe ra hàm răng nhọn, Tà Thần lên tiếng: - Chào. Ta phải chờ đợi mãi mới gặp được mi. Eragon lắp bắp: - Ông...ông...là..là...ai? Hắn ngồi xuống, xoè rộng áo choàng đen, đôi mắt hạt dẻ sáng lên đầy đe dọa: - Tên ta không thành vấn đề với một kẻ trong hoàn cảnh như mi. Chính ta mới là người cần biết tên mi. Mi là ai? Eragon giả nai ngẫm nghĩ một lúc, rồi ngớ ngẩn nói: - Chẳng biết nữa...tên thì là Eragon, nhưng chẳng biết....như vậy đầy đủ chưa nhỉ? - Chưa, chưa đủ. Mi láu cá lắm, chàng Kỵ Sĩ trẻ tuổi ạ. Hắn cúi sát Eragon. Da trán hắn mỏng và trong suốt: - Ta hỏi rõ hơn, tên mi là gì? - Era.... - Không, không phải tên đó. Mi không có một cái tên khác nữa sao? Một cái tên ít được dùng tới đó. Eragon hiểu. Hắn muốn biết tên thật của ta, để sai khiến ta. Nhưng chính ta cũng không biết, thì làm sao nói được? Eragon cấp tốc nghĩ ra một cái tên nào có thể làm tên tà thần khiếp vía. Nó lẩm bẩm rồi gật gật như đứa dở hơi: - Ấy, có đấy. Ông Brom có nói một lần. Gì nhỉ? À, tên là...Du Súndavar Freohr. Mấy câu đó có nghĩa văn vẻ là "cái chết của tà ma." Một làn không khí lạnh băng bao phủ khắp phòng giam trong khi Tà Thần ngồi bất động. Eragon ngây ngô hỏi: - Ông vào đây làm gì vậy? - Ngắm, tất nhiên. Một chiến công để làm gì, nếu ta không có cái thú nhìn ngắm nó? Giọng hắn đầy tự tin, nhưng không kém khó chịu vì kế hoạch bị cản trở. Thình lình hắn đứng bật dậy, nói: - Ta còn vài việc phải làm. Trong khi ta ra khỏi đây, tốt hơn mi hãy suy nghĩ cho kỹ. Mi muốn phục vụ ai. Phục vụ một Kỵ Sĩ đã phản bội giai cấp của mi, hay phục vụ người như ta, với những tài năng đầy huyền bí. Tới lúc phải chọn lựa, không có đất đứng giữa dành cho mi đâu. Hắn quay ra, chợt liếc bình nước, gọi: - Đại úy. Một gã xách kiếm chạy vào. Tà Thần chỉ thanh kiếm, bảo: - Dẹp món đồ chơi trẻ con ấy đi. Tại sao thằng bé này không uông chút nước nào? - Thằng cai ngục bảo bát đĩa sạch bong mà. - Tốt, nhưng phải làm sao cho nó uống nước chứ. Eragon vận công cũng chỉ nghe được mấy câu Tà Thần thì thầm vào tai tên đại úy: -.....tăng liều lượng lên... Hắn quay lại Eragon: - Ngày mai, nếu không quá bận, ta sẽ nói chuyện tiếp với mi. Nên biết, ta rất mê chuyện về mấy cái tên. Ta rất khoái bàn bạc về tên mi một cách chi tiết hơn. Chúng vừa ra khỏi, Eragon nằm vật xuống giường, nhắm mắt. Những bài học của ông già lúc này thật đáng giá. Nó giúp Eragon giữ vững tinh thần và tránh cảm giác hãi hùng. Lại nghe tiếng tụi lính rầm rập ngoài hành lang. Eragon nhỏm dậy ra ô cửa nhìn. Hai tên lính đang xô đẩy nàng qua hành lang. Khi bóng này đi khuất, Eragon ngồi xuống sàn, thử dùng phép thuật. Nhưng nó bật tiếng rủa, vì hình như trong nó không còn chút phép thuật nào. Eragon nghiến răng nhìn ra thành phố. Mới giữa trưa. Nó bình tĩnh hít thở, kiên nhẫn đợi chờ phục hồi năng lực. Chiến đấu với tà ma Lúc Eragon phấn khởi ngồi bật dậy, trong phòng tối thui. Nó cảm giác phép thuật đã trở lại tiềm thức. Mắt rực sáng, nắm chặt tay, Eragon đọc: "Nagz reisa!" Cái chăn bay bổng lên, thu nhỏ thành quả bóng bằng nắm tay, rồi nhẹ rơi xuống sàn. Eragon hăng hái đứng dậy. Tuy mệt vì vận sức nhưng sự phấn chấn làm nó vượt qua được cơn đói. Nó thực sự thử lại lần nữa. Tập trung tâm trí vào ổ khóa cửa, nhưng thay vì phá ổ khóa, nó đơn giản đẩy chốt trong ổ. Lần đầu tiên, khi sử dụng phép thuật hạ Urgals tại Yazuac, nó gần như kiệt lực, nhưng từ đó sức mạnh của nó đã tăng nhiều. Mỗi khi vận dụng phép thuật, chỉ làm nó hơi thoáng mệt. Eragon thận trọng bước ra ngòai hành lang. Mình phải tìm cho ra nàng tiên và thanh Zar'roc. Cô ta chỉ ở một trong những phòng giam này thôi. Còn thanh Zar'roc, chắc Tà Thần đang giữ. Tại sao mình không dùng phép phá cửa sổ ra đường mà lại đứng đây? Nhưng như vậy làm sao giải cứu được cô ta. "Saphira, em ở đâu? Anh cần em giúp." Nó tự trách đã không liên lạc với Saphira ngay sau khi hồi sức. "Eragon, em đang bay trên Gil'ead. Đừng làm gì hết. Murtagh đang đến đó." Nghe tiếng chân rầm rập sau lưng, Eragon quay phắt lại. Một toán sáu tên lính đang tiến vào hành lang. Chúng đứng khựng lại, hết nhìn Eragon lại nhìn cánh cửa phòng giam mở toang hoác, mặt tái nhợt. Tốt, Eragon nghĩ, chúng biết mình là ai, mình sẽ hù cho chúng sợ, khỏi tốn sức đánh nhau. Một tên lính la lên: "Tấn công." Tất cả rút kiếm xông tới. Có điên mới chống lại sáu tên trong khi còn yếu, nhưng ý nghĩ về tiên nữ kia như kìm chân Eragon lại. Nó đưa tay lên, dấu gedwey ignasia bừng sáng. Tụi lính khiếp đảm thấy rõ, nhưng không chùn chân. Ngay lúc Eragon mở miệng đọc thần chú, chợt một tiếng "vèo" lướt như bay qua không gian, một tên lính ngã sấp xuống sàn, mũi tên cắm ngập trên lưng. Thêm hai mũi tên vèo vèo hạ thêm hai tên nữa, trong khi không ai, kể cả Eragon, hiểu chuyện gì đang xảy ra. Đứng nơi đầu hành lang, sau lưng đám lính, một người râu ria xồm xoàm, áo quần rách rưới, tay cầm cung tên. Một cái nạng quăng trên sàn. Ba tên lính còn lại hốt hoảng nhìn người lạ. Eragon phóng chưởng, một tên ôm ngực lăn xuống đất. Tên đứng bên ngã theo với mũi tên xuyên qua cổ. Thấy người lạ đưa cung tên nhắm tên lính cuối cùng, Eragon vội la lên: - Đừng giết hắn. Rồi nó lại gần, chăm chăm nhìn tên lính vừa thoát chết đang sợ đến trợn ngược cả mắt: - Mi thấy ta có thể làm được gì rồi đấy. Nếu mi không trả lời câu hỏi của ta đàng hoàng, suốt đời mi sẽ khốn khổ vô cùng. Nào, kiếm của ta và cô gái thần tiên hiện đang ở đâu? Tên lính mím chặt môi. Eragon đưa bàn tay ngời sáng như sắp làm phép thuật: - Mi có biết một hạt cát nhỏ ta phóng vào mi, sẽ thiêu đốt ruột gan mi, làm mi đau đớn đến ngần nào không? Nó cạy một tí đất đỏ trên nền đá, tiếp: - Cái này hơi lớn hơn hạt cát một tí, nhưng không sao, sức tàn phá càng mạnh hơn, làm lỗ thủng trong ruột mi càng lớn hơn. Tên lính hét toáng lên: - Đừng, đừng làm thế. Cô tiên trong phòng giam cuối bên trái. Còn thanh kiếm, chắc ở trong phòng bảo vệ trên lầu. Eragon nói: "Slytha!". Gã lính trợn mắt rũ xuống. - Cậu giết hắn rồi à? Eragon ngẩng nhìn người lạ đang đứng cách nó chỉ mấy bước: - Murtagh! Anh đấy ư? - Phải, tôi không muốn chúng thấy mặt. Cậu giết hắn rồi à? - Không, hắn chỉ ngủ mê đi thôi. Làm sao anh vào được đây? - Không kịp cắt nghĩa đâu. Chúng ta lên lầu ngay trước khi bị phát hiện. Mấy phút nữa chúng ta sẽ có đường tẩu thoát. Đừng để lỡ. - Anh không nghe tôi nói gì với tên lính này sao? Trong nhà tù này còn một nàng tiên. Tôi cần anh giúp để giải thoát cho cô ấy. Ngừng lại trước phòng giam tên lính mới chỉ, Murtagh đưa chùm chìa khóa lấy được của một gã bảo vệ cho Eragon. Eragon mở khóa cửa. Ánh trăng chênh chếch qua khung cửa sổ, lạnh lùng chiếu sáng khuôn mặt nàng tiên. Trước mắt Eragon, nàng căng thẳng, thu mình trên giường, đợi chờ bất cứ chuyện gì xảy ra. Kiêu sa như một bà hoàng, đầu ngẩng cao, đôi mắt xanh thẫm như mắt mèo ngước nhìn Eragon. Nó lạnh toát người. Hai mắt lặng nhìn nhau một lúc, rồi nàng bỗng run rẩy ngất đi. Eragon kịp đỡ trước khi nàng ngã nhào xuống đất. Nàng nhẹ đến không ngờ. Mùi lá thông thoang thoảng chung quanh. Murtagh bước vào thì thầm: - Đẹp quá! - Nhưng đang bị đau. Vì Eragon còn yếu, Murtagh đưa dao găm cho nó, rồi cõng nàng tiên. Cả ba trở lại hành lang, qua mấy xác của tụi lính, tới một cầu thang dẫn lên lầu. Eragon hỏi: - Làm cách nào ra khỏi đây mà không bị chúng phát hiện? - Có cách rồi. Eragon vẫn không khỏi lo lắng đụng độ với lính tráng hay Tà Thần vào lúc này. Lên hết cầu thang là một phòng tiệc la liệt nhiều bàn bằng gỗ. Trần nhà cũng bằng gỗ nằm trên những cây đà lớn. Murtagh đặt nàng tiên trên một cái bàn, ngước nhìn trần nhà, bảo Eragon: - Cậu liên lạc với Saphira, bảo nó đợi thêm năm phút nữa. Xa xa có tiếng la hét, tiếng lính chạy rầm rầm. Eragon lo lắng nói: - Dù anh định làm gì cũng không kịp nữa rồi. - Báo cho Saphira xong, cậu núp đi. Nói xong, Murtagh chạy ra ngoài. Eragon vừa chuyển tin cho Saphira xong, đã nghe tiếng chân người lên thang. Vừa mệt vừa lả người vì đói, nó cố bồng nàng tiên xuống, cùng trốn dưới một gầm bàn. Mười tên lính xông vào, lục soát vội vàng mấy bàn đầu phòng, rồi tiếp tục chạy qua phòng khác. Eragon dựa vào tường thở ra, thoát nạn. Lúc này nó càng thấy vừa đói vừa khát đến khô cổ. Nó chui ra, lấy vội đĩa đồ ăn giở và một bình bia trên bàn, rồi trở lại gầm bàn tu ừng ục rồi xé bánh mì khoan khoái ăn. Murtagh trở lại với thanh Zar'roc, một cây cung lạ và một thanh kiếm không bao. - Mình thấy mấy thứ này trong phòng bảo vệ. Chưa bao giờ thấy những vũ khí như thế này. Chắc của cô ta. Eragon cầm lên xem. Lưỡi kiếm thanh mảnh và cong, đầu mũi rất nhọn. Tra vào vừa vặn bao kiếm của nàng tiên. Cây cung, khó biết có phải của nàng không, nhưng hình dáng rất đẹp. Nó bảo: - Chúng ta không thể ngồi mãi đây, trước sau gì tụi lính cũng tìm ra. - Như tôi đã nói, kế hoạch tẩu thoát đã được sắp đặt. Chúng ta phải chờ thôi. - Anh không hiểu rồi. Ở đây có một Tà Thần. Đụng phải hắn là chúng ta tiêu luôn. - Tà Thần! Vậy thì cậu phải bảo Saphira tới ngay đi. Đúng kế hạoch là đợi chúng đổi ca gác, nhưng đợi tới lúc đó sợ sẽ nguy hiểm. Cậu tự trốn ra, đã làm hỏng kế hoạch đó của tôi rồi. Hy vọng Tà Thần không tìm được chúng ta. Một giọng nói lạnh tanh vang vọng khắp phòng: - Ta e là hy vọng đó quá muộn rồi. Hai người quay vội lại. Cuối phòng, Tà Thần đứng một mình, tây cầm cây kiếm ánh thép xanh, một vết xước nhỏ trên lưỡi. Hắn cởi áo choàng quăng xuốn sàn. Thân hình hắn như một lực sĩ điền kinh, gầy và rắn chắc. Nhưng ông Brom từng cảnh giác đừng để ngọai hình của một Tà Thần đánh lừa, chúng mạnh mẽ hơn con người gấp nhiều lần. Hắn nói giọng đầy miệt thị: - Kỵ Sĩ trẻ kia, mi muốn thách đấu cùng ta phải không? Đáng lẽ ta không nên tin tưởng tên đại úy kia, khi hắn bảo mi đã ăn uống tất cả phần ăn. Nhưng bây giờ ta không để mi lường gạt như thế nữa đâu. Murtagh nắm chắc cung tên, thì thầm: - Để tôi tính sổ tay này. Eragon cũng cố nói thật nhỏ: - Đừng. Hắn muốn tôi sống. Còn anh sẽ bị hắn thịt ngay. Để tôi ráng giữ chân hắn, anh tìm cách cho tụi mình thoát thân. - Được, cậu không phải chờ lâu đâu. Eragon rút thanh Zar'roc tiến lên. Lưỡi kiếm đỏ rực sáng dưới ánh đuốc bập bùng. Đôi mắt hạt dẻ của Tà Thần bừng bừng như hai cục than hồng: - Mi thật sự tin là có thể hạ ta sao, hả "Cái chết của tà ma"? Sao tên mi xấu xí, thảm hại thế? Ta đã mong gặp ở mi điều gì hay ho hơn vậy, nhưng hạng mi thì chỉ đến thế thôi. Eragon không thèm quan tâm những lời châm chọc đó, nó nhìn trừng trừng vào mắt Tà Thần, chờ đợi một sơ hở nhỏ. Nó quyết định không sử dụng phép thuật, như vậy sẽ không khiêu khích Tà Thần cũng tung phép thuật ra. Cả hai chưa kịp ra tay, trần nhà bỗng rung lên đùng đùng. Đất, bụi và mảnh gỗ lả tả mù mịt khắp phòng. Từ trên trần vang lên những tiếng gào thét. Eragon vừa ngước mắt nhìn lên, Tà thần tranh thủ tấn công. Eragon vội vung Zar'roc gạt đường gươm phóng tới bên sườn. Tiếng thép chạm nhau làm nó ê răng và tê dại cả cánh tay. Eragon kêu thầm: "Ma quỉ. Nó mạnh quá!" Vận dụng cả hai tay, Eragon bổ kiếm xuống đầu Tà Thần. Hắn nhẹ nhàng chống đỡ. Lưỡi kiếm của hắn vù vù bay lượn trong không gian, thấp thoáng biến hóa ngòai sức tưởng tượng của Eragon. Phía trên, lại vang lên những tiếng động xé tai, như sắt thép đâm xuyên qua đá. Ba cây đà dài thậm thượt rớt khỏi trần. Những mảnh ngói tuôn ào ào từ mái xuống. Nhưng dù những mảnh vỡ to đùng lột độp chung quanh, Eragon cũng không dám một giây phân tâm. Vì tuy nó từng được thụ giáo ông Brom, một đại sư phụ về kiếm thuật, và từng luyện kiếm với Murtagh, một kiếm sĩ tài năng, nó cũng không thể nào thắng nổi trận đấu này. Tà Thần đang vờn kiếm như đùa với nó. Tay nó run lên sau mỗi lần chống đỡ những đường gươm như búa bổ của Tà Thần. Nhát chém sau dường như còn mạnh hơn nhát trước. Dù có muốn, Eragon cũng không còn đủ sức cầu viện tới phép thuật. Rồi với một cái đảo cổ tay nhẹ nhàng, Tà Thần đánh văng cây Zar'roc khỏi tay Eragon. Chiêu đánh nhẹ đó cũng làm nó mất đà, quị xuống. Trong lúc đó tiếng rầm rầm, kêu thét càng lớn hơn như sát bên tai. Tà Thần ngó xuống Eragon, ngạo mạn: - Những chiêu thức của mi tỏ ra cũng khá dũng mãnh, nhưng ta cũng khá thất vọng vì tài năng tuyệt vời của mi chỉ có bấy nhiêu. Nếu những Kỵ Sĩ khác cũng như mi làm sao cai trị đế quốc này. Lúc này, nghe những tiếng rầm rầm trên mái, Eragon đã đoán ra kế hoạch của Murtagh. Nó thầm liên lạc với Saphira: "Saphira, đến thời điểm rồi." Rồi nó nói với Tà Thần: - Không. Mi lầm rồi. Chưa thắng được ta đâu. - Còn trò gì nữa đây? Như để trả lời câu hỏi diễu cợt của hắn. Một tiếng nổ như sấm rền vang dội và một mảng trần bị xé toang, để lộ ra bầu trời đêm. Eragon thét lên trong tiếng đổ vỡ rào rào: - Còn loài rồng. Nó chạy khỏi tầm tay Tà Thần. Hắn gầm lên phẫn nộ, vung cao thanh kiếm. Bỗng hắn sững người, kinh ngạc nhìn xuống mũi tên của Murtagh cắm phập trên vai. Nhưng rồi Tà Thần ha hả cả cười, nhón hay ngón tay rút phăng mũi tên ra: - Phải nhắm cho kỹ, nếu mi muốn..... Chưa dứt lời, mũi tên thứ hai xuyên giữa hai mắt hắn. Tà Thần đau đớn rú lên, ôm mặt. Da hắn xám ngoét. Một làn sương mù bao phủ chung quanh thân hình. Một tiếng kêu đầy tuyệt vọng vang lên, làn mây mù biến mất. Nơi Tà Thần đứng không còn gì ngoài đống quần áo đen ngòm. - Anh giết được hắn rồi! Eragon kêu lên với Murtagh. Nó biết trong truyền thuyết, mới chỉ có hai vị anh hùng sống sót, sau khi giết Tà Thần. Bỗng bên ngoài có tiếng la: - Chính xác hắn bị hạ rồi, tiến lên bắt mấy thằng kia. Từ hai đầu phòng, đám lính ùa vào với những tấm lưới và những cây thương. Murtagh và Eragon vội kéo theo nàng tiên dựa vào tường. Tụi kia tiến lên vây ba người vào nửa vòng tròn. Từ lỗ hổng trên trần, Saphira thò cái đầu khổng lồ xuống, gầm vang như sấm. Nó xoè móng vuốt, quặp mép trần xé tọac thêm ra. Ba tên lính hết hồn ù té chạy. Toán quân hoảng loạn trong trận mưa gỗ, sắt. Eragon và Murtagh nép sát tường. Saphira lại dũng mãnh gầm lên. Mấy chú lính còn lại kinh hồn, nháo nhào đạp lên nhau tìm đường tẩu thóat. Saphira xé hết trần nhà, xếp cánh nhảy xuống. Sức nặng của nó làm mấy cái bàn gãy nát. Eragon mừng rỡ ôm cổ nó. "Em nhớ anh quá, anh nhóc ạ." "Anh cũng vậy. Có mấy người nữa, em chở nổi không?" "Được." Saphira đá hết bàn ghế sang hai bên, dọn dẹp bãi cất cánh. Nhìn người con gái mà Eragon và Murtagh dìu ra, nó trợn mắt kinh ngạc. Một nàng tiên?! Eragon cho nó biết đây chính là người nó vẫn gặp trong mơ. Nhặt thanh Zar'roc lên, Eragon cùng Murtagh đặt nàng tiên lên yên rồng. Nó hỏi Saphira: "Anh nghe tiếng đánh nhau trên mái nhà, còn ai trên đó không?" "Em dẹp hết rồi. Sẵn sàng chưa?" Khi Saphira nhảy vọt khỏi phòng, trên đỉnh pháo đài la liệt xác lính, Murtagh kêu lên: "Coi kìa!" Một lọat xạ thủ giương cung trên một đỉnh tháp. Eragon thúc dục: "Bay ngay, Saphira." Saphira gồng chân lấy đà, vươn cánh. Tiếng rít của hàng lọat mũi tên rào rào trong bóng tối. Saphira đau đớn rú lên, vội bay về bên trái. Nhờ đêm đen mù mịt, chúng thoát khỏi những mũi tên vẫn tiếp tục phóng lên. Eragon lo lắng hỏi: "Em bị thương ở đâu?" "Cánh. Một mũi tên còn ghim ở đó." Eragon giữ chặt cô gái thần tiên, trong khi Saphira lướt trên Gil'ead, ra khỏi thành phố, rồi đổi hướng đông, vút lên cao trong đêm tối. Chiến binh kiêm thầy thuốc Saphira là là đáp xuống một đỉnh đồi bằng phẳng, cách Gil'ead chỉ chừng nửa dặm. Hỏa Tuyết và Tornac đã được đưa lên đó từ trước. Eragon nhảy xuống đất, xem xét vết thương của Saphira. Trong bóng tối, nó rờ rẫm trên cánh con rồng. Ba vết tên xuyên qua màng cánh ri rỉ máu, nhưng một mũi tên còn ghim trên phần bắp thịt. Saphira run rẩy khi những ngón tay Eragon chạm vào những vết thương. Sử dụng phép thuật, Eragon hàn gắn những chỗ màng cánh bị rách thủng. Những giọt máu nóng hổi ứa ra từ vết thương còn vướng mũi tên. Eragon phải nhờ Murtagh ghì cánh Saphira xuống. Nó nhỏ nhẹ bảo: "Đau một chút thôi, anh ráng làm thật lẹ. Cố đừng vùng vẫy nhé." Saphira vươn đầu, ngoạm một thân cây nhỏ, nhổ bật rễ, rồi nghiến chặt giữa hai hàm răng. "Em sẵn sàng rồi." Eragon bẻ gãy đầu mũi tên, khéo léo rút khỏi cánh Saphira. Saphira ngửa cổ rên lên, giật mạnh cánh, quất ngay vào cằm Murtagh, làm anh ta bật ngửa trên mặt đất. Eragon quay sang nàng tiên vẫn còn hôn mê, rồi bảo Saphira: "Em vẫn còn phải chở cô ấy một đoạn đường nữa. Mang cô ấy theo bằng ngựa, không thể đi nhanh được." "Em còn bay được, không sao." "Cám ơn em. Những gì em làm, thật không thể nào tin nổi." Sau khi Saphira bay vụt đi cùng nàng tiên, Eragon và Murtagh rạp mình trên ngựa phi nước đại. Trên đường đi, Eragon cố nhớ lại những gì hiểu biết về thần tiên: họ sống rất lâu, nhưng nó không biết rõ là lâu đến ngần nào. Họ nói cổ ngữ và phần nhiều biết phép thuật. Sau thất bại của các Kỵ Sĩ, họ lui vào ẩn dật. Không còn ai nhìn thấy họ bao giờ nữa. Vậy tại sao nàng lại ở đây và vì sao triều đình bắt được nàng? Nếu nàng có phép thuật, chắc chắn cũng đã bị đánh thuốc mê như mình. Suốt đêm, dù mệt mỏi làm họ đi chậm lại, nhưng vẫn không dám ngưng nghỉ. Phía sau, lớp lớp người ngựa, sáng ngời ánh đuôc đang lùng sục quanh Gil'ead. Gần sáng, cả hai ngừng ngựa. Eragon uể oải nói: - Cắm trại thôi. Tôi ngủ, có bị bắt cũng mặc. - Đồng ý. Bảo Saphira tìm chỗ trống hạ cánh, mình tới sau. Hai người tới điểm do Saphira hướng dẫn. Tới nơi, đã thấy cô ả đang thảnh thơi uống nước bên dòng suối, dưới chân một dốc đá. Nàng tiên vẫn lìm lịm trên yên. Eragon và Murtagh dìu nàng đặt trên mặt đất. Saphira bảo: "Không hiểu sao cô ta chưa tỉnh. Mình ra khỏi Gil'ead đã mấy tiếng rồi." Murtagh nhìn cô gái, nói: - Theo tôi biết, đây là lần đầu tiên nhà vua bắt được một thần tiên. Từ khi họ ẩn cư, ông ta hoàn toàn thất bại trong việc tìm kiếm tung tích họ. Như vậy có nghĩa, ông ta đã biết nơi ở của họ, hoặc bắt được nàng do may mắn tình cờ. Tôi nghĩ là do may mắn. Vì nếu biết nơi họ ẩn náu, ông ta đã tung quân gây chiến rồi. Vấn đề là, bầy tôi nhà vua đã moi móc được tin tức gì từ nàng tiên này chưa? - Chỉ khi nàng tỉnh lại, chúng ta mới biết được điều này. Bây giờ anh cho tôi biết, vì sao tôi lại bị bắt vào Gil'ead? - Lũ Urgals đang phục vụ triều đình. Hình như cả Tà Thần cũng thế. Vì tôi và Saphira đã thấy Urgals trao cậu cho một toán lính và Tà Thần, nhưng lúc đó tôi chưa biết hắn là ai. Chính chúng đã áp giải cậu về Gil'ead. Eragon nhớ lại, tại Teirm, tên Urgals đầu đàn đã nhắc đến chủ nhân của chúng. Thì ra đó là tên bạo chúa Galbatorix! Eragon lo sợ nghĩ là mình đã lăng mạ con người quyền uy nhất Alageasia. Nhưng nhớ lại cảnh tàn sát dã man dân lành vô tội ở Yazuac, trong nó lại cuồn cuộn một mối căm hờn, ghê tởm. - Như vậy là lũ Urgals làm theo lệnh của Galbatorix. Vì sao ông ta có thể đối xử với thần dân của mình một cách khả ố, kinh tởm thế? Saphira nói ngay: "Vì lão ta là đồ quỉ sứ." Eragon trầm ngâm: - Chiến tranh chắc chắn sẽ xảy ra, một khi dân chúng biết chuyện này. Họ sẽ nổi lên, đi theo Varden. Murtagh điềm tĩnh nói: - Dù biết chuyện bỉ ổi này, chưa chắc đã có nhiều người thoát về phe Varden. Với lũ quái Urgals dưới trướng, nhà vua quá đủ chiến binh để phong tỏa đường biên giới. Bất chấp sự phản đối của thần dân. Dưới bàn tay sắt của ông ta, ông tùy nghi nặn bóp đất nước theo ý thích. Hơn nữa, dù có căm ghét ông ta, nhưng khi có kẻ thù chung của đất nước, dân chúng vẫn cứ hồ hởi sát cánh cùng ông ta dẹp kẻ thù. - Kẻ thù đó là ai? - Là thần tiên và Varden. Với những lời đồn rất lọt tai, họ được diễn tả như những quái vật đê mạt nhất tại Alageasia, những con quỉ rình rập để tranh cướp tài sản vả đất đai của chúng ta. Thậm chí, triều đình còn có thể bảo, những đồn thổi về Urgals chỉ là sự hiểu lầm suốt thời gian qua, chúng mới thực sự là những người bạn, những đồng minh để giúp chống lại những kẻ thù kinh khủng như trên. Tôi chỉ thắc mắc, nhà vua hứa ban thưởng gì cho công lao của chúng. - Không thể như thế được. Không ai dễ dàng bị lừa phỉnh về lũ Urgals và Galbatorix. Ngoài ra ông ta còn muốn gì nữa, với quyền uy tột đỉnh như hiện nay. - Nhưng uy quyền đó bị đe dọa bởi những người được lòng dân, là phái Varden. Và cả Surda nữa, thành phố này vẫn tỏ ra không phục tùng từ khi tách khỏi triều đình. Galbatorix chỉ mạnh trong vòng đế quốc này. Vượt khỏi biên cương, lão rất yếu thế. Những lời nói của Murtagh làm Eragon lo lắng. Saphira truyền tư tưởng, hỏi: "Anh biết vì sao nhà vua chuyển Urgals ra ngoài không? Tại Carvahall và Teirm anh nghe rồi đó, Urgals tập trung chuyển về đông nam, như bất chấp sa mạc Handarac. Tại sao nhà vua chuyển chúng đến hướng này? Có thể để thi hành một việc riêng của ông ta, hoặc....một thành phố dành riêng cho Urgals đang được thiết lập." Eragon rùng mình vì ý nghĩ đó. "Dù kế họach của Galbatorix là gì, đều gây khốn khó cho chúng ta. Anh chỉ mong biết phe Varden ở đâu. Nhưng chúng ta đã mất dấu Dormnad. Trước sau gì triều đình cũng sẽ túm được chúng ta." "Anh nói đúng đó. Nhưng đừng nản lòng." Eragon nói với Murtagh: - Cám ơn anh nhiều lắm. Anh đã liều mạng để giải thoát tôi, tôi mang nợ anh vụ này. Thật tình tôi không thể một mình xoay xở được. Nó muốn nói nhiều hơn vậy nữa, về tình huynh đệ gắn bó trong chiến đấu, về lòng trung thành, quả cảm của Murtagh.... Murtagh bảo: - Tôi rất vui mừng vì đã giúp được cậu. Đó là....Điều lo ngại nhất của tôi bây giờ là làm sao tiếp tục cuộc đi, trong khi bị nhiều người săn đuổi. Ngay khi tìm ra dấu chân ngựa, chúng sẽ biết cậu không bay cùng Saphira. Nội ngày mai lính của Gil'ead sẽ đuổi theo chúng ta. - Làm cách nào anh lọt được vào Gil'ead? - Hối lộ và bò qua đường cống thối hoắc sau nhà bếp. Nhưng kế họach sẽ không thành nếu không có Saphira. Saphira là nguyên nhân chính giúp chúng ta thoát ra được." Được Eragon vuốt ve cổ, cô ả tỏ ra rất hài lòng vì lời tán dương của Murtagh. Sau đó, Murtagh trải chăn làm giường và Eragon bồng nàng tiên đặt lên. Một ống tay áo của nàng vướng cành cây rách toạc. Eragon làm phép cho vải ránh lành lặn lại, rồi thở dốc. Cánh tay cô ta lốm đốm những vết sưng và bị cắt. Có cả vết mới và vết đã lành. Eragon lắc đầu phẫn nộ, vén cao tay áo nàng lên. Những vết thương kéo dài lên tận vai. Eragon run rẩy mở áo sau lưng. Khi sợi giây da buộc áo bung ra, Murtagh bật lên lời rủa. Lưng nàng khỏe mạnh, rắn chắc, nhưng vảy đóng đầy làm làn da khô cứng, nứt nẻ như ruộng khô. Nàng đã bị đánh bằng roi và đóng dấu bằng sắt nung hình móng vuốt. Những nơi da không bị sưng nứt thì tím bầm bằng những hình thức tra khảo tàn nhẫn khác. Trên vai trái của nàng, một vết xăm màu chàm, với dấu hiệu giống hệt dấu hiệu khắc trên mặt nhẫn ngọc của ông Brom. Eragon âm thầm thề sẽ giết bằng được tất cả những kẻ đã tra khảo, hành hạ nàng. Murtagh hỏi: - Cậu chữa lành cho nàng được không? - Tôi..tôi không biết. Toàn thân nàng đầy thương tích. Saphira nói ngay: "Eragon, đây là một thần tiên. Không thể để nàng chết được. Đói mệt đến đâu cũng phải cứu cho bằng được. Em sẽ tiếp sức với anh, nhưng anh chủ động trong phép thuật." Eragon rớt nước mắt cảm thương người con gái mảnh mai, xinh đẹp bị đọa đày đến thế. Nó rút găng tay, nói với Murtagh: - Saphira nói phải. Anh làm ơn cho tôi chút đồ ăn, luộc ít băng vải, được không? - Chúng ta không thể nhóm lửa tại đây. Nguy hiểm lắm. Phải dùng vải và đồ ăn nguội thôi. Eragon nhẹ nhàng đặt một tay lên người nàng. Saphira lại gần, mắt long lanh tập trung nhìn thẳng nàng tiên. Eragon hít mạnh một hơi, hướng tâm trí vào phép thuật và đọc câu cổ ngữ: "Waise heil!" Bàn tay nó sáng lên, một lớp da vô hình tan ra, hàn gắn lại một vết thương, không lưu lại chút sẹo nào. Cứ thế, nó lần lượt chữa trị những vết sưng, rách trước. Vì nếu tập trung vào những vết thương nghiêm trọng ngay, sinh mạng của nó sẽ bị đe dọa vì kiệt sức. Tuy mệt lả người, Eragon vẫn mừng rỡ tự hỏi, làm sao nàng có thể vẫn sống được sau những đòn khảo tra kéo dài liên tục thế kia. Nó cũng không ngăn được nhận xét, dưới những vết thương bầm dập, là một tấm thân đẹp tuyệt trần. Cho tới rạng đông, Eragon chỉ ngừng lại một lần ăn uống, để lấy lại sức sau cuộc trốn chạy và chữa trị cho nàng. Mặt trời lên cao, Eragon mới ngừng tay, loạng choạng đến lấy bình da đựng rượu, tu một hơi dài. Nghe Murtagh hỏi "Xong cả rồi à?", nó run rẩy gật đầu, không thốt được lên lời. Nhưng chỉ một lúc sau, nó đề nghị: - Chúng ta đi thôi. - Không được, cậu phải ngủ. - Tôi....tôi có thể ngủ trên yên, chứ không thể nằm đây chờ tụi lính đến. - Nếu vậy trao cương của Hỏa Tuyết cho tôi dắt, trong khi cậu nghỉ ngơi. Ngồi trên yêu, dọc đường đi, Eragon cố ăn để lấy lại năng lượng, trước khi rạp mình trên Hỏa Tuyết, nhắm mắt ngủ. Biến cát thành nước Khi ngừng lại cắm trại, Eragon vẫn không bớt mệt và cảm thấy nóng nảy hơn. Hầu như suốt ngày phải lẩn tránh đám lính và bầy chó săn của chúng. Nhảy xuống ngựa, Eragon hỏi Saphira ngay: "Cô ấy khá không?" "Khá hơn hôm qua. Đã nhúch nhích được một chút. Nhưng chỉ có vậy thôi." Saphira ép mình để Eragon bồng cô gái xuống. Trong một thoáng, thân hình mềm mại của nàng áp sát nó, Eragon vội đặt nàng xuống. Murtagh và Eragon đều buồn ngủ rũ, hai người dọn bữa qua loa. Trong khi ăn, Murtagh bảo: - Chúng ta không thể giữ khoảng cách với tụi lính mãi được. Chỉ một hai ngày nữa chúng sẽ đuổi kịp ta. - Làm sao được. Nếu chỉ có hai chúng ta, và anh sẵn lòng bỏ lại con Tornac, Saphira có thể đưa chúng ta ra khỏi đây. Nhưng còn cô ấy. Khó quá. - Nếu cậu muốn thì cứ đi, tôi không muốn cậu và Saphira ở lại liều mạng vì tôi. - Anh nói gì lạ thế? Tôi được tự do là nhờ anh. Bây giờ tôi bỏ anh lại cho chúng sao? - Tôi rất cảm động vì những lời nói của cậu, nhưng nó không giải quyết được vấn đề gì. - Còn cách nào nữa đâu? Phải chi cô ta tỉnh lại, và cho mình biết nơi ở của thần tiên, có thể mình sẽ tìm đến với họ. - Hãy nhớ họ bảo vệ nơi ẩn náu đến thế nào. Tôi không tin cô ta sẽ tiết lộ cho ta biết. Cho dù chúng ta biết được, chưa chắc dòng tộc cô ta vui lòng chứa chấp chúng ta. Vì sao họ phải che giấu chúng ta? Những Kỵ Sĩ cuối cùng liên hệ với họ, chính là Galbatorix và những phản đồ. Tôi tin họ chưa quên những kỷ niệm đầy đau khổ đó đâu. Còn tôi, thậm chí cũng chẳng có đến cái danh Kỵ Sĩ như cậu, họ chứa chấp tôi làm gì? Saphira thoải mái ngả mình, vẻ rất tự tin: "Họ sẽ chứa chấp chúng ta, em biết chắc mà." - Nhưng biết tìm họ ở đâu, đông, tây, nam hay bắc? Murtagh nói: - Điều duy nhất là chúng ta phải ra khỏi đế quốc này. Có những nơi an toàn ở cách xa đây. Chúng khó lòng lọt vào những nơi đó mà tranh khỏi bị bắt hay theo dõi...Miền bắc không nơi nào tốt hơn rừng Du Weldenvarden, nhưng phải ngược lại Gil'ead thật chẳng thú vị gì. Phía tây là biển và triều đình. Miền nam có Surda, tại đó cậu có thể tìm ra người hướng dẫn đường đến với Varden. Còn hướng đông....Sa mạc Hadarac nằm giữa chúng ta và những miền đất xa xôi chúng ta chưa từng biết. Varden ở đâu đó trong những vùng đất này, nhưng không biết phương hướng, muốn tìm được họ, có lẽ chúng ta phải mất nhiều năm. Saphira ý kiến ý cò: "Chừng nào không đụng độ mấy con quái Urgals, chúng ta vẫn cứ an toàn. Không sao đâu." Eragon bỗng cảm thấy đầu đau nhói: - Tới Surda rất nguy hiểm, phải xuyên qua hầu hết đất của triều đình, lẩn tránh những làng mạc và thành phố, nhưng vẫn chưa chắc tránh khỏi những con mắt dò xét của vùng đông dân cứ đó. Murtagh nhướng màu hỏi: - Vậy là cậu muốn băng qua sa mạc? - Tôi thấy không còn cách nào khác nữa. Chỉ có cách đó chúng ta mới ra khỏi đế quốc trước khi tụi Ra'zac tới đây. Với phương tiện bay, chắc chỉ một vài ngày chúng đã tới Gil'ead. Mình không còn nhiều thời gian nữa. - Dù chúng ta đi xuyên sa mạc. Nếu chúng ta di chuyển trên không được, chúng vẫn bắt kịp chúng ta. - Muốn bắt chúng ta cho kịp, chúng buộc phải bỏ lại tụi lính. Đó là lợi điểm của ta. Nếu phải chiến đấu, ba chúng ta dư sức hạ chúng, như đã có lần tôi và ông già lọt ổ phục kích của chúng vậy. - Cậu biết những gì về sa mạc? - Nóng, khô, toàn cát. - Phải cộng thêm vào đó: cây cỏ không ăn được vì đầy chất độc, đủ loài rắn rít, bò cạp và mặt trời thiêu đốt. Cậu thấy cánh đồng hoang trên đường ta tới Gil'ead rồi chứ? Câu hỏi ngớ ngẩn, nhưng Eragon cũng trả lời: - Rồi, một lần trước đó nữa. - Vậy hãy tưởng tượng một khoảng rộng gấp đôi, gấp ba lần, cậu sẽ thấy sự rộng lớn của sa mạc Hadarac. Cái nơi mà cậu định vượt qua đó. Eragon lấy tấm bản đồ Alageasia trải xuống đất. Nó quan sát cánh đồng hoang, lắc đầu kinh ngạc: - Không có gì là lạ, dù đế quốc kéo dài sát mí sa mạc, Galbatorix cũng không thể nào kiểm soát được phía bên kia. - Khi những Kỵ Sĩ còn sống, tất cả những vùng đất bên kia sa mạc, không có trên bản đồ này, đều được cai trị bởi một nhà nước. Nếu bây giờ nhà vua có ý định gây dựng một thế hệ Kỵ Sĩ mới, biên cương của đế quốc sẽ mở rộng vô cùng. Nhưng điều tôi muốn nhấn mạnh là sa mạc Hadarac quá mênh mông, đầy nguy hiểm, chuyện vượt qua nó chỉ là vô vọng. - Chúng ta đang là những kẻ vô vọng mà. Nhưng hãy quan sát kỹ bản đồ này, nếu chúng ta xuyên qua chỗ phình ra này, thì phải mất ít nhất hai tháng. Còn nếu, chúng ta theo hướng đông nam, tới rặng núi Beor, sẽ mất ít thời gian hơn. Men theo núi Beor, ta có thể đi về vùng hoang dã phía đông hoặc nhắm hướng tây để tới Surda. Nếu bản đồ này chính xác, từ đây tới Beor cũng tương đương đoạn đường chúng ta đã đi qua để tới Gil'ead. - Như vậy cũng mất gần một tháng. - Trên đường tới Gil'ead bị chậm trễ là vì vết thương của tôi. Bây giờ chúng ta ráng đi, thời gian sẽ giảm hơn nhiều. - Thôi được, vậy là cậu đã quyết. Nhưng trước khi tôi đồng ý với cậu, còn vài vấn đề phải bàn bạc: cậu biết trước khi đi khỏi Gil'ead, tôi đã mua lương thực tích trữ. Nhưng còn nước? Những bộ lạc du mục trên sa mạc, họ ngụy trang rất kỹ nguồn nước, không để ai lấy cắp được, mà lượng nước cho ngựa, nhất là Saphira, một ngày bao nhiêu? Trừ khi cậu có thể làm phép cho trời mưa mỗi khi cần thiết, nếu không ý kiến của cậu không thể nào thực hiện được. Làm ra mưa thật sự vượt quá khả năng của nó. Eragon cho rằng, ngay cả những Kỵ Sĩ mạnh mẽ nhất, phép thuật đầy mình cũng chưa chắc làm nổi điều đó. Gom số lượng không khí nhiều đến thế, chẳng khác nào chuyển núi, dời sông. Nó cần một giải pháp nào không làm nó kiệt hết sức lực. - Tôi có một ý kiến, nhưng để tôi thí nghiệm thử, rồi cho anh biết sau. Saphira lẽo đẽo đi theo Eragon hỏi: "Anh định làm gì?" "Anh chưa biết." Eragon quì gối, nhặt một cục đá có một lỗ hõm sâu, có thể chứa chừng một vốc tay nước. Nó bốc nắm cát lèn đầy vào lỗ hổng, tập trung tâm trí, ra lệnh: "Deloi moi!" Lập tức, cục đá hút công lực nó với một tốc độ phi thường. Eragon chợt nhớ lời ông Brom, có những việc khi sử dụng phép thuật sẽ cực kỳ nguy hiểm, có thể rút cạn kiệt sức người cho đến chết. Nó cố giải phóng câu thần chú vừa đọc, nhưng không được. Sức lực nó bị cục đá cuồn cuộn thu hút. Giữa lúc nó tưởng chỉ đành quì đó chờ chết, cát trong cục đá bỗng nhão ra, ri rỉ một chút xíu nước. Eragon ngồi bật ngửa, hổn hển thở. Tim nó đập rộn ràng, nội tạng đều đau nhói. Saphira hốt hoảng: "Chuyện gì vậy?" Eragon lắc đầu. Cũng may là nó đã không thí nghiệm với một vật lớn hơn. "Cách này không được, thậm chí anh không còn đủ sức uống một ngụm nước." "Anh phải thận trọng. Phép thuật nhiều khi gây những hậu quả bất ngờ, vô cùng tai hại." "Anh biết, nhưng anh phải thí nghiệm trước khi vào sa mạc. À, làm cách nào em tạo ra ngôi mộ kim cương cho ông già mà em không bị chết?" "Em không hiểu vì sao em làm được điều đó. Ông Brom đã từng nói với anh, rồng có thể tạo ra những sự kiện rất bất ngờ. Ông ấy nói đúng đó. Đôi khi em làm những việc một cách ngẫu nhiên, không suy nghĩ gì hết, như con nhện giăng tơ vậy. Những lúc khác, em yếu xìu như Hỏa Tuyết thôi." Eragon vuốt ve cổ Saphira, ngậm ngùi nhớ tới ngôi mộ và ông già đã khuất. Nó lẩn thẩn vạch ngón tay trên cát, giữa hai lằn rạch, cát lún xuống như một thung lũng tí hon. Nó đắp thêm vài quả núi chung quanh, rạch một con sông chảy vào thung lũng. Thêm vài chi tiết, cho đến khi nó nhận ra đây là thung lũng Palancar. Một nỗi nhớ quê hương dào dạt dâng trong lòng, nó lấy tay gạt bỏ cảnh núi non, thung lũng. Khoanh tay ngồi nhìn mông lung. Rồi như không cưỡng lại được, nó cúi nhìn nền cát nó mới gạt đi. Eragon kinh ngạc ngồi thẳng dậy. Những đường rạch ri rỉ nước. Nó vội cào sâu thêm: chừng vài phân phía dưới cát âm ẩm ướt. Nó hồ hởi kêu lên: "Nhìn này, Saphira." Saphira dí mũi vào công trình mới khám phá của Eragon: "Ôi dào, ăn thua gì. Ở đây thì dễ rồi. Nhưng ngòai sa mạc, đào cả mấy tuần chưa chắc có nước." "Đúng, nhưng miễn sao có nước là anh có thể lấy được. Nhìn nhé." Eragon đào hố sâu thêm, nhưng thay vì biến cát thành nước, nó dùng phép thuật gom nước trong cát ẩm. Không tốn chút sức lực, nước từ từ chảy vào hố vừa đào. Nó vui mừng cúi uống nguồn nước mát mẻ tinh khiết: "Thấy chưa? Chúng ta sẽ có đủ nước mà." "Em nói rồi, ở đây thì được. Ngoài sa mạc chưa chắc có nước để anh gom lại, rút lên mặt đất như thế đâu." "Được mà, công việc rút nước lên rất nhẹ nhàng. Làm từ từ anh sẽ không bị mất sức. Dù có phải đào sâu cũng không thành vấn đề, vì còn có em giúp nữa mà." "Anh chắc không? Nghĩ kỹ rồi hãy trả lời. Vì nếu anh lầm, là chúng ta mất mạng đó." Eragon ngập ngừng một lúc, rồi cả quyết: "Anh tin chắc." "Vậy thì đi báo cho Murtagh biết. Em sẽ gác cho anh ngủ." "Nhưng em cũng đã thức suốt đem như tụi anh rồi." "Không sao. Em khoẻ hơn anh nhiều." Vừa thấy Eragon, Murtagh hỏi ngay: - Sao? Sa mạc mở cánh cửa đón mừng ta chứ? - Đúng vậy. Eragon chui vào chăn, cắt nghĩa cho Murtagh mọi chuyện. Rồi quay lại nhìn nàng tiên, Eragon đem hình ảnh nàng theo vào giấc ngủ. Sông Ramr Hai người thức dậy trời còn chưa sáng hẳn. Eragon run lập cập vì lạnh: - Chúng ta đưa cô ấy đi bằng cách nào đây? Bay với Saphira lâu thêm nữa, cô ấy sẽ bị trầy sát vì vảy rồng. Nằm xe trược theo ngựa càng không ổn. - Nếu cậu bay với Saphira, ta sẽ cột cô ta lên lưng Hỏa Tuyết. Nhưng...như vậy những vết thương cũ sẽ bị trầy. Saphira đề nghị: "Sao các anh không buộc cô ta dưới bụng em? Em vẫn thoải mái bay được, mà cô ấy lại rất an toàn. Chỉ sợ những mũi tên của lính, nhưng em sẽ bay cao khỏi tầm bắn của chúng." Tất cả đều đồng ý. Eragon cuốn chăn quanh thân hình nhỏ nhắn của nàng tiên, dùng vải áo nối làm dây, buộc lưng cô ta sát vào bụng Saphira, đầu đặt giữa hai chân trước của nó. Murtagh nhìn lại quãng đường mới đi qua hôm trước, khói nấu ăn tỏa ra từ lán trại của tụi lính. Anh cười nói: - Mình khoái trò chạy đua này quá. Hai người nhảy lên ngựa, khởi hành. Saphira cùng nàng tiên cất cánh. Nó bay thấp để tụi lính từ xa không phát hiện được. Tất cả hướng về đông nam, tiến thẳng tới sa mạc Hadarac. Dõi mắt nhìn về phía những kẻ đang truy đuổi, nhưng tâm trí Eragon chỉ nghĩ đến nàng tiên xinh đẹp. Thật không thể nào tin nổi nó đã thật sự gặp một nàng tiên. Nó tự nhủ, không hiểu anh Roran sẽ nghĩ sao về chuyện này. Nếu một ngày nào đó nó được trở về Carvahall, cắt nghĩa hết hơi, chắc mọi người cũng không tin nổi cuộc phiêu lưu kỳ lạ này của nó là có thật. Suốt ngày, dù quá mệt mỏi, họ chỉ ngừng lại hai lần cho ngựa ăn uống nghỉ ngơi. Nhiều khi hai người xuống ngựa dắt bộ, cho chúng dưỡng sức. Mặc dù lính Gil'ead còn ở xa phía sau, nhưng khi qua những làng mạc thành phố, họ luôn phải lẩn tránh lính tráng ở những nơi này. Nguy hiểm luôn rình rập. Hai lần họ suýt sa vào ổ phục kích, chỉ nhờ Saphira đã phát hiện có hơi người, mới tránh kịp. Sau đó, họ không còn dám tiếp tục đi theo đường mòn nữa. Bóng tối từ từ phủ màn đen lên cảnh vật miền quê. Gần nửa đêm, họ tới một vùng rải rác những ngọn đồi nho nhỏ. Murtagh chỉ tay nói: - Tới mấy dặm đằng kia, chúng ta phải đi qua một thành phố tên là Đồi Bò Tót. Chắc chắn sẽ có lính chờ chúng ta tại đó. Tốt hơn, chúng ta nên chuồn qua vào lúc đêm tối này. Ba tiếng sau, họ đã thấy thấp thoáng bóng đèn dầu trong Đồi Bò Tót. Một mạng lưới quân tuần tra rải ra khắp thành phố bên những đống lửa. Eragon và Murtagh rút gươm, nhẹ nhàng xuống ngựa. Hai người dắt ngựa, ngậm tâm đi vòng bên ngoài trại lính. Qua khỏi thành phố, Eragon mới hơi yên tâm. Trời sáng, họ ngừng trên một ngọn đồi nhìn cảnh chung quanh. Hai nhánh sông Ramr gặp nhau, trước khi chảy về miền tây. Họ vừa vượt qua mười sáu dặm trong một ngày. Eragon vui mừng vì đã qua được một đoạn đường dài như thế. - Hãy kiếm một hang hốc nào để ngủ chứ? Hai người trải chăn dưới gốc một cây đỗ tùng làm chỗ ngủ cho nàng tiên. Murtagh bảo: "Mình gác ca ca đầu. Nửa đêm sẽ gọi cậu." Sáng hôm sau, trời còn tối mịt, lừ đừ vì thèm ngủ, họ vẫn quyết định lên đường. Trước khi đi, Saphira nhận xét: "Kể từ sau đêm anh và cô ta thoát khỏi Gil'ead, đêm nay là đêm thứ ba rồi, sao cô ấy vẫn chưa tỉnh? Em lo lắm. Thậm chí chẳng ăn uống gì. Không có tí đồ ăn nào vào bụng, em sợ là cô ấy sống không nổi." Murtagh hỏi: - Chuyện gì vậy? - Saphira ngại cô ta không ăn gì sẽ khó mà sống nổi. Tôi cũng lo, vì chữa lành được những vết thương bên ngoài rồi, nhưng cô ta có vẻ không khoẻ ra chút nào. - Có thể Tà Thần đã làm cho đầu óc cô ta bị mê muội. Murtagh vừa nói vừa khám cho nàng tiên thật chu đáo, rồi bảo: - Theo tôi là cô ta ngủ, ngủ li bì thôi. Cơn hôn mê dường như là một phương cách thần tiên tự tạo ra để tránh những cơn đau của thương tích. Nhưng nếu quả đúng vậy, sao cô ta chưa tỉnh? Cô ta không biết là đã hết nguy hiểm rồi sao? - Liệu cô ta có biết được không chứ? - Dù sao cũng phải qua khỏi vùng nguy hiểm này, chúng ta mới có thể lo cho cô ta được. Eragon nhúng một mảnh vải vào nước, rồi vắt từng giọt lên môi cho nàng. Sau đó, nó đắp khăn ướt lên trán và cánh tay. Sợ lính gác phát hiện, họ bắt đầu di chuyển xuyên những bụi cây dưới chân đồi, kể cả Saphira. Nhưng với thân hình đồ sộ, cô nàng cố rón rén, cái đuôi như con rắn xanh khổng lồ cứ quăng thình thịch trên mặt đất. Trời sáng dần, ngôi sao mai Aiedail đã ló dạng ở phía đông. Tiếng nước rầm rầm như ào ạt xô vào đá, lách qua những bụi cây. Eragon cố gào át tiếng ồn: - Sông Ramr đó. - Đúng rồi, chúng ta phải tìm nơi an toàn để vượt qua. Nghe Murtagh nói, Saphira bảo Eragon: "Không cần, sông rộng cỡ nào, em cũng đưa các anh qua được." "Nhưng còn ngựa?" "Em bị tên bắn mà còn chở được ba người, quên rồi à? Nếu chúng đừng vùng vẫy, em đưa qua tuốt hết." "Anh tin em chứ. Nhưng kẹt lắm mới phải làm vậy. Nguy hiểm lắm." "Nhưng chúng ta không thể phí thời giờ nhùng nhằng ở đây mãi được." Bờ sông kéo dài ngun ngút. Sương mù và hơi nước mù mịt, không thể nhìn thấy bờ bên kia. Murtagh thả một cành cây xuống dòng nước xiết, cành cây bập bềnh rồi bị cuốn trôi đi. Eragon hỏi Murtagh: - Anh nghĩ sông này sâu cỡ nào? - Không đoán nổi. Cậu dùng phép thuật để biết bề ngang được không? - Tôi không chắc, nhưng làm được thì ánh sáng sẽ phát ra như ngọn hải đăng làm hiệu cho tụi lính tới. Saphira cất cánh bay qua bờ bên kia. Một lúc sau nó liên lạc với Eragon: "Sông rộng hơn nửa dặm." "Nửa dặm!" Eragon kêu lên, rồi nói lại với Murtagh về việc Saphira đề nghị chuyển người ngựa qua sông. Murtagh bảo: - Tốt hơn là không nên thử với ngựa. Cả Tornac và Hỏa Tuyết đều sợ Saphira. Chúng sẽ hốt hoảng làm bị thương luôn cả Saphira. Hỏi nó xem có chỗ nào nông để có thể bơi qua được không. Nhưng sau khi đi khảo sát về, Saphira cho biết từ đầu dòng đến cuối, chỗ nào cũng sâu và rộng như nhau. Murtagh nói: - Như vậy tôi sẽ qua trước để giữ ngựa. Saphira, thận trọng với Tornac. Nó gắn bó với tôi nhiều năm rồi, tôi không muốn nó gặp bất cứ rủi ro nào. Nàng tiên vẫn mê man dưới bụng Saphira. Eragon làm ngơ trước tiếng rên rỉ của Tornac khi nó được dắt tới gần con rồng. Saphira quắp bụng Tornac bằng hai chân trước. Eragon nhìn những cái vuốt kinh khủng của nó, vội giữ con ngựa lại, xoay bộ yên xuống bụng, như vậy móng của Saphira sẽ không làm ngựa bị thương. Tornac hốt hoảng đến nỗi Eragon cố dùng phép thuật liên lạc với nó để trấn an, nhưng mắt nó vẫn trợn ngược lên, vùng vẫy ráng chuồn khỏi móng vuốt của Saphira. Saphira quắp chặt thân hình Tornac, hai chân sau đạp tới trầy nền đá, rồi vươn cánh loạng choạng bay lên. Con Tornac vừa đá lung tung vừa gào như bị thọc huyết. Eragon chỉ sợ tiếng gào của con ngựa vang tới tai tụi lính. Nó gợi lại hình ảnh đoàn quân và những bó đuốc chập chờn trong đêm tối, rồi những hình ảnh đó chuyển thành một hàng người ngựa đang tiến xuống đồi, cách đó chừng một dặm. Khi Saphira trở lại, Eragon dắt Hỏa Tuyết trao cho nó. Cô ả kể lể: "Con vật hèn nhát của anh chàng Murtagh hoảng loạn lên. Anh ta phải cột chặt lại, vì sợ nó lồng lên chạy trốn." Sau cùng tới lượt Eragon bay qua sông. Khi hai con ngựa yên ổn lại, họ lại lên đường tiến về rặng núi Beor. Không gian rộn ràng tiếng chim đón chào ngày mới. Cả hai chàng trai vừa đi vừa ngủ gục, chỉ còn Saphira tỉnh táo dẫn đường cho ngựa. Dần dần mặt đất mềm hẳn và như níu lấy chân ngựa lún trên nền đất. Mặt trời lên cao. Dòng sông Ramr chỉ còn lờ mờ xa xa sau họ. Đoàn lữ hàng nhỏ bé đã tới sa mạc Hadarac. Sa mạc Hadarac Những đụn cát trải dài tới chân trời như những làn sóng biển. Những cột gió xoáy cuốn cát đỏ lên không. Trên nền đất cằn cỗi rải rác những thân cây gầy guộc. Xa xa nổi lên một dãy sườn đá thẳng đứng, cheo leo. Quang cảnh hùng vĩ, thê lương như ngăn chặn tất cả loài muông thú, ngọai trừ loài chim, nương theo ngọn gió tây vượt qua dãy núi. Eragon khào khào hỏi, không khí nóng khô làm cổ họng nó như nghẹn lại: - Anh chắc đằng kia có cỏ cho ngựa không? Murtagh chỉ sườn núi: - Cỏ mọc quanh đó. Không nhiều, nhưng đủ cho ngựa ăn. - Hy vọng anh nói đúng. Nhưng nghỉ đã, đầu óc tôi mụ mẫm cả rồi. Chân cũng không lết nổi nữa đâu. Họ đặt nàng tiên xuống dưới bóng râm của một đụn cát. Ăn uống xong, cùng nằm xuống nghỉ ngơi. Saphira xoè cánh che cho tất cả. Cô nàng tấm tắc: "Ôi! Nơi này thật phi thường. Em có thể sống mãi tại đây." "Tha hồ bay." "Không chỉ có vậy. Em cảm thấy như em thuộc về sa mạc này. Không gian, núi non và những con mồi cho em săn bắt suốt ngày. Cả hơi ấm nữa, tuy khí lạnh không làm em khó chịu, nhưng hơi nóng ở đây làm em cảm thấy tràn đầy sức sống." "Nếu em thích nơi này đến thế, khi công việc hoàn tất, chúng mình sẽ trở lại." Saphira vui mừng ư ử hát. Đó là buổi sáng thứ tư, kể từ khi ra khỏi Gil'ead. Họ đã vượt qua được ba mươi lăm dặm đường. Họ chỉ ngủ đủ cho tinh thần tỉnh táo và ngựa được nghỉ ngơi. Vì dù không thấy bóng dáng tên lính nào, nhưng họ vẫn phải cố mau chóng vượt nhanh khỏi tầm truy lùng của triều đình. Tin Eragon trốn thoát chắc chắn đã đến tai nhà vua. Tụi Ra'zac chắc đã được lệnh theo dấu vết nó. Dù chúng có bây cũng phải mất một thời gian mới đuổi kịp Eragon và Murtagh, nhưng vẫn phải luôn cảnh giác. Murtagh bảo: - Hy vọng qua khỏi Đồi Bò Tót, chúng không còn có thể theo được dấu vết chúng ta nữa. Sông Ramr thật là con đường làm lạc hướng kẻ thù rất hiệu quả. Eragon nhìn nàng tiên thiêm thiếp mê man, nói: - Còn có điều khác thật sự trông vào hy vọng, dù tôi không tin vào may mắn được nữa. Nếu tụi Ra'zac đuổi kịp chúng ta, nàng sẽ không thể thoát chết. Họ tới sườn đá cao lúc mặt trời lặn. Dốc đá đứng, phủ bóng râm lên cả đoàn người ngựa. Những đụn cát rải rác chung quanh. Vừa rời ngựa, nhảy xuống mặt đất nứt nẻ, hơi nóng như thốt vào Eragon. Mặt, cổ và lưng nó đều bỏng rát. Thả ngựa đi gặm cỏ xong, Murtagh nhóm lửa. Eragon vừa đưa nàng tiên xuống khỏi Saphira vừa hỏi: - Anh nghĩ chúng ta đi được bao xa rồi? - Không biết. Nhưng chúng ta không có đủ nước. Ngựa chưa được uống. Eragon bảo Saphira đào hố, rồi nó nhắm mắt, đọc thần chú. Tuy đất cằn cỗi nhưng đất đủ ẩm cho cây sống và đủ cho Eragon nhiều lần gom đầy hố nước. Murtagh lấy đầy mấy bao da nước, rồi cho ngựa uống. Hai con vật khát tới mức uống mãi không chán. Eragon phải vận sức gom nước tới kiệt lực. Thấy vậy, tới lượt nó uống, Saphira chỉ uống hai ngụm dài. Sáng hôm sau, trời hây hây gió mát. Cát hồng hào dưới nắng mai. Nhưng chân trời xa xa vẫn mờ mịt không thấy rõ. Eragon nhận thấy sự lanh lợi của Murtagh giảm sút, sau giấc ngủ dài, anh ta cũng không thấy khá hơn. Trong bữa ăn sáng, Eragon hỏi: - Thời gian để ra khỏi sa mạc này có lâu không? - Chúng ta mới qua được một phần nhỏ. Tôi nghĩ phải mất hai ba ngày nữa. Ăn xong, Eragon đến bên nàng tiên. Nàng nằm như một xác chết, nếu không có một chút thoi thóp thở. Nó vuốt ve lọn tóc trên trán nàng, thì thầm: "Vết thương của nàng ở đâu? Sao cứ nằm li bì thế này mà nàng vẫn sống được?" Gương mặt đầy cảnh giác của nàng trong phòng giam vẫn như hiển hiện trong tâm trí nó. Khi khởi sự lên đường, nó thấy, mờ mờ nơi chân trời, hiện ra một dãy những khối màu đen. Murtagh đoán là những ngọn đồi. Nhưng sau khi nghỉ chân vào buổi trưa, lúc sửa soạn tiếp tục cuộc hành trình, Eragon thấy sương sớm đã tan dần, và những khối đen phía chân trời đã hiện ra một cách rõ ràng. Những khối màu xanh không kéo dài như khi nhìn từ xa, nhưng to lớn hơn nhiều, với những gò mấp mô bao phủ đầy cây rừng. Không khí trên đỉnh như đặc dày khói trắng. Eragon nhìn trừng trừng, chớp mắt lắc đầu, tự nghĩ đây chỉ là một ảo ảnh của sa mạc. Nhưng khi mở lớn mắt nhìn kỹ lại, hình ảnh vẫn còn nguyên. Nó chỉ cho Murtagh và Saphira. Những gì mà họ tưởng là những quả đồi, thật ra là chân của dãy núi khổng lồ, trải rộng trên nhiều dặm đất. Trừ những khu rừng dày đặc phía dưới, toàn thể rặng núi chìm trong tuyết và băng bao phủ. Eragon ngửa cổ nhìn. Rặng núi vươn cao, chìm khuất vào bầu trời. Màu trắng nó tưởng là lớp khói, chính thật là băng tuyết. Eragon làu bàu: - Mong sau những con vật sống ở đó đừng to đùng tương xứng với quả núi này. Mrtagh cười cười: - Bây giờ tốt nhất là tìm nơi mát mẻ nghỉ ngơi vài tuần cho bõ những ngày gian khổ. - Tôi cũng quá mệt mỏi rồi. Nhưng không thể ngừng lại, trừ khi cô ta tỉnh lại hay là....chết. - Để cô ta nghỉ ngơi chẳng hơn là bị đeo dưới bụng Saphira suốt ngày sao? - Nhưng....có lẽ sau khi tới núi, tôi sẽ đưa nàng tới Surda, nơi đó không còn xa nữa và chắc có thầy thuốc chữa trị cho nàng. - Chuyện đó sẽ tính sau, mục tiêu chính của chúng ta bây giờ là rặng núi Beor. Ít nhất nơi đó chúng ta cũng tránh được quân triều đình và tụi Ra'zac cũng khó tìm ra. Nhưng tới cuối ngày, núi Beor dường như vẫn xa vời vợi, dù quang cảnh biến chuyển sinh động, tươi tốt dần lên. Cát khô đã chuyển thành đất đỏ, nhiều đụn đất nứt thành những con rạch đầy nước. Gió mát thoang thoảng trong không khí, hứa hẹn sắp tiến vaò một vùng khí hậu trong lành. Hai con ngựa như cảm được sự thay đổi của thời tiết, hăng hái tung vó phi tới. Khi mặt trời lặn, họ chỉ còn cách chân núi chừng một dặm. Từng bầy nai chạy nhảy trong đồng cỏ xanh tươi. Eragon tủm tỉm nhìn đôi mắt hau háu thèm thuồng của Saphira. Họ cắm trại bên một dòng suối, nhẹ nhõm trút bỏ những đọa đầy của sa mạc những ngày qua. Tiết lộ một con đường Mệt mỏi và tiều tụy, nhưng với những nụ cười đắc thắng, họ quây quần bên ánh lửa chúc mừng nhau. Saphira sảng khoái hí vang, làm hai anh ngựa giật thót mình. Nhìn ngọn lửa, Eragon cảm thấy hãnh diện đã vượt qua sáu chục dặm đường đầy gian khổ trong chỉ năm ngày. Một thành quả thật ấn tượng, ngay cả một Kỵ Sĩ cũng phải thường xuyên thay ngựa. Ý nghĩ đã ra khỏi đất nước thật lạ lùng với nó. Nó đã sinh ra và sống ở đó, cả đời dưới sự thống trị của Galbatorix, mất bạn bè thân thiết, gia đình vì bàn tay của bầy tôi nhà vua và bản thân nó suýt chết nhiều lần cũng trên mảnh đất đó. Vậy mà bây giờ Eragon đang được tự do! Nó và Saphira không còn phải lẩn trốn tụi lính, tránh né những làng mạc, thành phố. Đó là một nỗi cay đắng ngọt ngào, đã phải trả giá bằng sự mất mát cả thế giới của nó. Nhìn những ngôi sao trên bầu trời, nó nghĩ đến việc xây dựng một chỗ ở nơi hoang vắng, để không bao giờ trở lại nơi nó đã chứng kiến quá nhiều tội ác của Galbatorix, từ giết người, đến mua bán nô lệ. Nhưng còn mối thù phải trả cho cái chết của cậu Garrow và ông Brom. Và còn trách nhiệm của một Kỵ Sĩ, nó phải giúp đỡ những con người không đủ sức chống lại sự áp bức của Galbatorix. Eragon thở dài quay nhìn nàng tiên đang nằm bên Saphira. Rồi một ý tưởng chợt đến: nó có thể "nghe" được tư tưởng người và vật, điều nó thường sử dụng với Saphira. Nó cũng vẫn còn nhớ lời khuyên của ông già, đừng xâm nhập vào tư tưởng người khác nếu không thật sự cần thiết. Sau lần không chạm nổi vào tư tưởng Murtagh, nó đã ráng không áp dụng việc này nữa. Tuy nhiên, lúc này nó tự hỏi, mình có thể liên lạc được với nàng tiên đang hôn mê không? Mình sẽ thử tìm hiểu vì sao nàng ở mãi trong tình trạng này. Nhưng nếu nàng tỉnh lại, nàng có tha thứ cho ta sự xâm phạm này không...? Dù tha thứ hay không, mình phải thử, không thể để nàng mãi trong tình trạng như thế này. Không nói gì cho Murtagh và Saphira biết ý định của mình, Eragon quì xuống và đặt bàn tay lên trán nàng. Nó nhắm mắt thả tư tưởng lần mò vào ý nghĩ của nàng. Thật dễ dàng, Eragon cảm thấy tư tưởng nàng sáng sủa, trong veo như một tiếng chuông pha lê ngân lên. Thình lình một con dao lạnh buốt đi thẳng vào tâm trí nó. Hai mắt nó như nổ tung với muôn vàn màu sắc. Nó cố rút lui nhưng như có một cái kềm sắt ghì chặt lại. Eragon dùng mọi phương pháp để đề phòng. Mũi dao lạnh ngắt lại đâm mạnh vào tâm trí nó thêm. Một tấm màn bao phủ tư tưởng nó từ mọi hướng. Một sức mạnh phi thường chầm chậm vắt sự sống ra khỏi hình hài nó từng chút một, mặc dù nó chống trả, không chịu đầu hàng. Nàng xiết thêm gọng kìm, như muốn làm nó lụi tàn như một ngọn nến. Eragon tuyệt vọng la lên bằng cổ ngữ: "Eka ái fricai un Shur'tugal!". Tôi là Kỵ Sĩ và là bạn. Sức xiết không giảm, chỉ ngừng lại. Và từ tư tưởng nàng phát ra sự ngạc nhiên. Một thoáng sau là sự nghi ngờ. Nhưng nó biết nàng sẽ tin, nó không thể dối trá khi dùng cổ ngữ. Tuy nhiên, như lời ông Brom, thần tiên có những cách nói để đối phương không biết được hết tư tưởng mình. Nhưng Eragon hy vọng có thể vì tò mò, nàng sẽ buông tha cho nó. Đúng vậy. Sức ép lên nó và rào cản quanh nàng giảm xuống. Nàng ngập ngừng để hai luồng tư tưởng gặp nhau, giống như hai con thú hoang gặp nhau lần đầu. Eragon cảm thấy rùng mình vì lạnh. Tư tưởng nàng thật dị thường. Mạnh mẽ và bao la. Đầy ắp những ký ức từ vô vàn năm trước. Những sự kiện lịch sử của giống nòi nàng làm Eragon sợ hãi đến rúm người. Tuy nhiên tất cả cảm giác đó lại sáng lên một nhan sắc dịu dàng, hoang dại, hóa thân thành con người nàng. "Tên ngươi là gì?" Nàng nói cổ ngữ, giọng ngoại lai, lo âu, âm thầm tuyệt vọng. "Eragon. Còn nàng?" Tiềm thức nàng thu hút nó gần gũi hơn vào từng mạch máu. Tim nó nhói đau. Vì lần đầu tiên nó hiểu sự hấp hối của một thần tiên. Họ là những sinh vật của phép thuật, không bị ràng buộc bởi luật sinh tử của con người, rồng hay những loài vật khác. "....Arya. Tại sao ngươi có thể liên lạc với ta bằng cách này? Ta vẫn đang ở trong ngục của triều đình, phải không?" "Không, nàng đã được tự do. Tôi cũng bị giam tại Gil'ead như nàng. Tôi đào thoát và cứu nàng ra. Từ đó, suốt năm ngày qua, chúng ta đã vượt qua sa mạc Hadarac và bây giờ đang cắm trại tại núi Beor. Nàng không hề cử động hay nói một lời nào." "À, thì ra ta bị tù tại Gil'ead. Ta biết vết thương đã được chữa trị. Nhưng ta không hiểu vì sao. Cứ ngỡ chúng cứu chữa để tra khảo tiếp. Bây giờ ta mới biết là ngươi. Trong thời gian bi bắt, chúng bắt ta phải uống một lọai thuốc độc hiếm có, là Skilna Brag, để tiêu hủy sức lức ta. Mỗi buổi sáng chúng lại ép ta phải uống một thứ thuốc giải liều thuốc độc của ngày hôm trước. Không có thuốc đó, ta sẽ chết trong vòng vài giờ. Đó là lý do vì sao ta nằm trong trạng thái xuất thần như vậy....cách này làm cho thuốc độc Skilna Brag chậm phát tán, nhưng không hết hẳn được. Ta....tỉnh dậy với ý định chấm dứt đời mình và từ chối Galbatorix, nhưng ta đã không làm vậy vì hy vọng ngươi là một đồng minh." "Nàng có thể giữ trạng thái xuất thần này được bao lâu?" "Trong nhiều tuần, nhưng ta e rằng thời gian không còn nhiều nữa. Giấc ngủ đông này không ngăn được cái chết mãi. Chỉ trừ khi ta có được thuốc giải. Ba bốn ngày nữa thôi, thuốc độc sẽ hạ gục ta." "Có thể tìm thuốc giải ở đâu?" "Ngoài triều đình, chỉ hai nơi có: người của ta và Varden. Nhưng nơi chúng ta, rồng cũng không bay tới được." "Còn Varden? Chúng tôi sẽ đưa nàng thẳng tới chỗ họ, nếu tôi biết họ ở đâu." "Ta sẽ cho ngươi biết. Nhưng ngươi phải hứa không bao giờ được tiết lộ cho Galbatorix, hoặc những kẻ phục vụ lão biết nơi ở của họ. Ngoài ra, ngươi phải thề không được lừa dối ta và có ý định làm hại thần tiên, người lùn, Varden và loài rồng." Những yêu cầu của Arya quá đơn giản, ngoại trừ có sự ẩn ý trong cổ ngữ. Eragon biết nàng muốn nó đem cả mạng sống ra thề. Một khi đã tuyên thệ, không bao giờ được phản lại những lời thề đó. Eragon cảm thấy một gánh nặng đè lên vai khi cất lời tuyên thệ. Ngay sau đó, những hình ảnh chóng mặt thình lình loáng thoáng trong trí nó. Nó thấy mình đang phi ngựa dọc núi Beor, tiến xa về hướng đông nhiều dặm. Eragon cố sức nhớ những lộ trình, trong khi núi đồi vùn vụt lướt qua. Rồi nó hướng về nam, vẫn men dọc dãy núi. Tất cả thoắt thay đổi, nó tiến vào con đường mòn nhỏ hẹp, uốn mình trong thung lũng. Con đường đưa nó xuyên qua rặng núi, đến một thác nước đổ ầm ầm xuống một cái hố sâu thăm thẳm. Khi những hình ảnh đó mờ và tắt hẳn, Arya bảo: "Ngươi đừng nản lòng vì đường xa. Khi tới hồ Kóstha-mérna cuối dòng sông Răng Gấu, hãy dùng một cục đá, đập vào sườn vực kế bên thác nước, rồi kêu lên: "Ái varden abr du Shur'tugals gata vanta." Ngươi sẽ bị thử thách, nhưng đừng lùi bước trước bất cứ điều gì có vẻ hiểm nguy." "Tên thuốc giải độc là gì?" "Bảo họ đưa cho ta Túinivor's Nectar. Bây giờ ngươi hãy để ta yên. Ta đã hao tổn năng lượng qua nhiều rồi. Đừng liên lạc chuyện trò cùng ta nữa, trừ khi không còn hy vọng nào để tìm gặp Varden. Tạm biệt Eragon, chàng Kỵ Sĩ Rồng, sinh mạng ta đặt trong tay ngươi đó." Eragon rùng mình, mở mắt. Murtagh và Saphira ngồi hai bên lo lắng nhìn. Murtagh hỏi: - Cậu không sao chứ? Cậu quì gối lặng im cả mười lăm phút rồi. Saphira nói thêm: "Mà anh lại còn nhăn nhó đau khổ nữa." Eragon đứng dậy nói: - Mình vứa nói chuyện với Arya. Murtagh cau mày như muốn hỏi nó có bị khùng không. Eragon cắt nghĩa: - Đó là tên cô ấy. Saphira nóng nảy hỏi ngay: "Chuyện gì làm cô ấy đau đớn vậy?" Eragon kể lại mọi chuyện. Murtagh hỏi: - Từ đây tới chỗ Varden có xa không? - Tôi không biết chắc, cứ như những gì cô ấy cho tôi thấy, thì xa hơn từ đây tới Gil'ead. Murtagh tức giận hỏi: - Vậy mà chúng ta phải vượt qua chặng đường đó chỉ trong ba bốn ngày sao? Với lộ trình ngắn hơn, ta đã phải mất năm ngày. Cậu tính làm gì vậy? Giết chết hết mấy con ngựa à? Chúng đã kiệt sức quá rồi. - Nhưng nếu chúng ta không làm thì Arya sẽ chết. Nếu ngựa không đi nổi, tôi và Arya sẽ bay trước với Saphira. Ít ra cũng kịp gặp Varden để lấy thuốc cho cô ấy. Cậu sẽ tới đó gặp tụi này mấy ngày sau vậy. - Đúng rồi. Thằng Murtagh này chỉ là đứa đóng yên cương, dắt ngựa thôi. Nhớ lại những gì tôi đã làm cho đến hôm nay cũng không đến nỗi tồi. Ồ, cũng đừng quên, tụi lính triều đình đổ ra truy lùng tôi, cũng chỉ vì cậu không thể tự bảo vệ, nên tôi mới phải đi với cậu. Phải, tôi thấy mình chỉ là tên đầy tớ ngoan ngoãn, làm theo lệnh, chăn dắt ngựa ở hậu phương thôi. Eragon bàng hoàng vì những lời nói bất ngờ, giọng đầy cay độc của Murtagh. - Anh làm sao vậy? Tôi rất biết ơn vì những gì anh đã làm. Chẳng có lý do gì làm anh có thể giận tôi. Tôi không năn nỉ anh theo tôi hay giải cứu tôi khỏi Gil'ead. Chính anh tự ý làm. Tôi có bắt buộc anh điều gì đâu. - Ôi, chẳng thật lòng chút xíu nào. Làm sao tôi không cứu cậu khỏi tay tụi Ra'zac được? Sau đó, mặc xác cậu trong nhà tù Gil'ead, lương tâm tôi có yên ổn được không? Vấn đề là chính cậu..... Anh ta xô mạnh ngực Eragon: - Chính cậu, cậu hoàn toàn không đủ khả năng, cậu bắt mọi người phải áy náy, bận tâm lo cho cậu. Những lời nói làm chạm tự ái Eragon, vì nó thấy cũng có một phần sự thật. Nó hét toáng lên: - Đừng đụng vào tôi. - Cậu làm gì nào? Đánh tớ chắc? Anh ta lại xô mạnh Eragon. Nó nắm lấy tay Murtagh, một tay thoi ngay bụng anh ta. Murtagh gập người, tóat mồ hôi. Hai người cuốn lấy nhau, thoi, đạp. Eragon vung cú đá, Murtagh né kịp. Nó đá trúng đống lửa, tàn lửa bay tung lên không. Eragon tới tấp vung những cú đá dưới ngực Murtagh. Murtagh vội lộn nhào qua đầu nó. Rồi cả hai vùng đứng lên, hồng hộc thở, sửa soạn nhào vào nhau. Saphira gầm lên, quất cái đuôi to đùng chình ình ngăn giữa hai người. Eragon định phóng qua đuôi ả, nhưng bị những cái vuốt nhọn hoắt kẹp chặt, nâng bổng thân hình nó khỏi mặt đất. "Đủ rồi!" Eragon tức tối vùng vẫy, rồi thấy bên chân kia của Saphira, Murtagh cũng đang bị "cô em bé nhỏ" của nó quặp cứng. Saphira ghé sát mặt Eragon: "Hai anh không biết điều chút nào, đánh nhau như hai con chó đói dành xương như thế, thử hỏi ông Brom sẽ nói gì?" Nó đặt cả hai xuống đất nhưng vẫn giữ chặt trong móng vuốt. "Nào, bây giờ anh không muốn cả đêm phải nằm dưới chân em, hãy lịch sự hỏi anh Murtagh chuyện gì làm anh ấy phát khùng lên vậy. Bảo cho anh ấy biết, em không chịu nổi những chuyện nhục nhã do cả hai anh gây ra như thế đâu." Eragon liếm máu trên môi, miễn cưỡng quay lại Murtagh. Anh quay đi, ngó trời, lạnh lùng hỏi: - Sao? Ả không chịu buông tha à? - Không, trừ khi chúng mình nói chuyện với nhau. Nó muốn tôi hỏi anh lý do gì làm anh nổi giận. Murtagh tức giận nhìn con rồng ve vảy đuôi lắng nghe, gào lên: - Tôi đã nói với cậu rồi: Tôi không muốn đến với phe Varden. Eragon nhíu mày, chẳng lẽ chỉ có vậy thôi. Nó hỏi: - Không muốn hay....không thể? - Không muốn. Họ sẽ đòi hỏi tôi những điều mà tôi không đáp ứng được. - Anh có lấy gì của họ không? - Nếu vậy thì lại quá đơn giản. - Vậy thì chuyện gì? Anh giết người hay lăng nhăng với đàn bà con gái của họ? - Không. Tôi đã sinh ra.... Saphira buông cả hai người ra, nhưng vẫn lom lom nhìn khi cả hai đứng dậy phủi bụi quần áo. Eragon nói: - Anh đang né trả lời đấy. - Thì sao nào? Nhưng rồi anh ta thở dài nói: - Không phải vấn đề vì sao tôi lại ở trong hoàn cảnh này, nhưng tôi có thể cho cậu biết, Varden không vui lòng đón nhận tôi, dù tôi có đem thủ cấp nhà vua đến cho họ. Ồ, đúng, có thể họ sẽ cho tôi tham gia, nhưng tin tưởng tôi, thì không bao giờ. - Anh có thể cho tôi biết vì chuyện gì không? Tôi cũng từng làm những chuyện chẳng hay ho gì, nên không phán xét gì anh đâu. - Không như những chuyện cậu nghĩ đâu. Tôi chưa từng làm gì để phải bị đối xử như vậy. Không...cái lỗi duy nhất của tôi đã tồn tại từ.... Anh thở dồn dập, run run nói: - Cậu biết không, cha tôi là..... Chợt Saphira rít lên: "Trông kìa!" Cả hai đều nhìn về phía tây theo nó. Mặt Murtagh tái nhợt: - Ma quỉ ở khắp nơi thật mà! Cách khoảng một dặm, men theo sườn núi, một đoàn người đang tiến về hướng đông. Hàng trăm người ngựa, vũ khí sáng ngời, kéo dài cả dặm. Một xe hai bánh màu đen, với cờ hiệu màu đỏ tía, do ngựa kéo dẫn đầu. Eragon mệt mỏi nói: - Quân triều đình. Saphira rươn cổ nhìn: "Vậy là chúng đã phát hiện ra chúng ta." - Đúng là quân triều đình, nhưng là lũ quái vật Urgals, không phải người. - Sao anh biết? - Lá cờ hiệu kia là dấu hiệu riêng của thủ lĩnh Urgals. Nó là một con quái vật vô cùng tàn nhẫn. - Anh gặp rồi? - Một lần. Chỉ sơ sơ đủ để lãnh mấy vết sẹo này. Có thể lũ Urgals này không có sứ mạng truy lùng ta đâu. Nhưng tôi tin chắc chúng đã thấy chúng ta. Và con quái đầu đàn này không phải lọai buông tha một con rồng một khi nó đã phát hiện ra. Nhất là sau khi nó đã được nghe những chuyện xảy ra ở Gil'ead. Eragon vội vàng dập tắt lửa. - Chuồn gấp thôi. Anh không muốn đến Varden, nhưng tôi phải đưa Arya đến đó, nếu không nàng sẽ chết. Bây giờ mình thỏa thuận thế này: anh đi với tôi tới hồ Kóstha-ména, rồi anh đi đường anh. Vì nếu mình chia tay ngay lúc này, Urgals sẽ theo dõi anh và anh phải một mình đương đầu với chúng sao? - Được, nhưng nhớ là gần tới Varden, ta chia tay. Nghe nói, Eragon bắt đầu nóng mặt, nhưng tụi quái vật đang đến gần, nó đành thu xếp hành trang vội vàng để lên đường. Saphira bay vòng vòng trên không, hỏi: "Bay hướng nào đây?" "Hướng đông, men theo núi." "Không biết tụi quái tới đây làm gì? Chắc để tấn công Varden." "Như vậy ta càng phải tới sớm báo cho họ." Đêm xuống dần. Phía sau họ, lũ quái Urgals chìm vào bóng tối. Bất đồng ý kiến Suốt đêm hai người thay phiên nhau ngủ trên yên. Khi trời sáng, họ đã vượt qua khỏi đám Urgals, nhưng cả hai đều không biết cuộc hành trình còn tiếp tục nổi không. Hai con ngựa đã mệt lả và còn tùy thuộc vào thời gian nghỉ ngơi của lũ Urgals. Rặng Beor sừng sững che khuất hơi ấm của mặt trời. Xa xa về phía bắc, sa mạc Hadarac chỉ còn là một vạch trắng như tuyết, sáng ngời dưới nắng trưa. Saphira lèm bèm: "Em đói cồn cả ruột rồi. Mấy ngày chưa được ăn gì. Lúc này em có thể xơi hết một con nai." Eragon mỉm cười vì tật háu đói của nó: "Đi săn đi, nhưng đưa Arya xuống đây đã." Eragon chuyển Arya lên yên, rồi nó đi sát Hỏa Tuyết dắt cương. Cả nó lẫn Murtagh vẫn nín lặng, không nói gì với nhau. Với sự xuất hiện của bầy quái Urgalrs, chuyện đánh nhau hôm qua, không còn gì nghiêm trọng nữa, nhưng cả hai vẫn còn hậm hực. Eragon vui mừng thấy Saphira no nê trở về. Vắng nó, Eragon luôn cảm thấy không yên tâm. Khi ngừng bên một cái ao cho ngựa uống nước, Eragon vừa quay quay một cây cỏ vừa ngắm nhìn Arya, chợt nghe tiếng rút gươm, nó vội nắm thanh Zar'roc quay phắt lại. Murtagh cầm thanh kiếm trần chỉ lên đồi. Một người cao lớn, mặc áo choàng nâu, đang ngồi trên một con ngựa sắc hồng, tay lăm lăm cây chùy. Lố nhó đằng sau người đó, chừng hai mươi người ngồi im lìm trên mình ngựa. Murtagh hỏi: - Có thể là người của Varden không? - Theo Arya thì còn mấy dặm nữa mới tới. Đây có thể là toán tuần tra của họ. - Hay là cướp? Eragon vừa kéo chăn che mặt cho Arya vừa hỏi: - Mình có nên cứ vượt qua không? Murtagh kềm sẵn cung tên: - Không nên. Tornac và Hỏa Tuyết là ngựa chiến thật, nhưng chúng mệt mỏi rồi. Cậu nhìn ngựa của họ xem, chúng đang muốn lồng lên kia kìa. Chỉ chưa được nửa dặm là chúng bắt được mình. Ngoài ra, có thể họ có gì quan trọng muốn nói thì sao. Tốt hơn cậu hãy bảo Saphira sẵn sàng. Eragon cho Saphira biết tình hình và dặn thêm: "Đừng để họ thấy em nếu không cần thiết. Tuy mình đã ra khỏi đế quốc, nhưng anh không muốn ai biết về em." "Đừng lo. Nên nhớ anh có phép thuật mà." Toán người vẫn đứng trên đồi quan sát xuống. Eragon nắm chặt thanh Zar'roc, nói nhỏ: - Nếu họ đe dọa, tôi có thể hù họ sợ mà chạy bằng phép thuật. Vả lại, còn có Saphira. Tôi đang tự hỏi họ sẽ phản ứng sao khi gặp một Kỵ Sĩ? Tiếng đồn về sức mạnh của Kỵ Sĩ có thể tránh được đụng độ. - Đừng hy vọng vào chuyện đó. Nếu phải đánh, chúng ta phải giết ráo cho chúng nể mặt. Người ngồi trên con ngựa sắc hồng đưa cao cây chùy làm hiệu. Bốn mũi tên vun vút bay về phía Eragon và Murtagh. Tên cầm chùy lại đưa cao vũ khí múa trên không, đám thủ hạ vừa la hét vừa nâng cao những ngọn giáo, cùng phóng ngựa lao xuống đồi. Eragon mấp máy môi sửa soạn dùng phép thuật, nhưng chợt nghĩ, chưa biết ý định của những người này là gì. Khi đám người vây quanh Eragon và Murtagh, tên thủ lĩnh mới khoanh tay, ngồi trên ngựa, nói: - Lần này coi bộ trúng quả to rồi. Grieg sẽ tha hồ mà khoái. Nào, hai thằng này, biết điều thì bỏ vũ khí xuống. Nếu không đừng trách đàn em tao độc ác. Cả bọn hô hố cười tán dương tên đầu lĩnh. Murtagh nâng kiếm, hỏi: - Các anh là ai? Các anh muốn gì? Chúng tôi là những người tự do qua đất này. Các anh không có quyền ngăn cản. - Ha ha, vậy mà tao cứ có quyền đấy. Tên tao í à? Một thằng nô lệ không được phép hỏi chủ nhân với cung cách đó. Trừ khi....hơi bị khoái ăn đòn. Eragon rủa thầm. Thì ra chúng là tụi buôn nô lệ. Nó nhớ lại tất cả những gì torng cuộc đấu giá người ở Dras-Leona. Máu nó sôi lên sùng sục. Nó nhìn lũ người vây quanh căm hờn, ghê tởm. Thằng trùm buôn người quát tháo: - Buông vũ khí, đầu hàng ngay. Mấy thằng buôn người đàn em hau háu nhìn hai người. Bàn tay Eragon rần rần ngứa. Nghe tiếng động phía sau, nó quay phắt lại. Một thằng kéo chăn trùm mặt Arya, kêu rú lên: - Torkenbrand, trông này, một nàng tiên. Tên thủ lĩnh, Torkenbrand, cưỡi ngựa lại nhìn mặt Arya, húyt sáo: - Cha cha, tao nói rồi. Trúng quả mà. Ả này đáng giá bao nhiêu? Bèo lắm cũng một gia tài kếch sù. Triều đình cứ là đổ cả núi vàng ra mà chuộc ả. Lũ đàn em rú lên mừng rỡ, đấm lưng nhau thùm thụp. Tiếng gầm của Saphira vang trong đầu Eragon: "Tấn công, Saphira. Nhưng tên nào chạy thoát được thì tha." Ngay lập tức, Saphira khép cánh buông mình cho rơi tự do xuống, rồi bay vút về điểm dừng chân. Eragon liếc Murtagh. Anh ta hiểu ý ngay, giật khủy tay trúng mặt một thằng buôn người, làm nó bật khỏi mình ngựa. Con Tornac vừa nhận cái thúc hông của chủ, tung hai vó trước, xoay mình ra sau. Murtagh vung kiếm chém ngang lưng tên vừa ngã ngựa. Chúng chưa kịp bàng hoàng, Eragon tách khỏi đám đông, đưa cao tay đọc thần chú. Một hạt lửa xanh lè rơi trên mặt đất giữa cơn hỗn loạn, rồi lan ra như một con suối lênh láng những hạt lửa li ti tan chảy. Ngay lúc đó, Saphira sà xuống, đứng kế bên Eragon. Nó nhe nanh, ngoác mồm rống lên khủng khiếp. Eragon gào to: - Ngừng lại ngay. Ta là Kỵ Sĩ Rồng đây. Nó đưa cao thanh Zar'roc khỏi đầu. Lưỡi kiếm đỏ rực dưới ánh mặt trời. Chỉ mũi kiếm vào đám buôn nô lệ, nó quát lên: - Muốn sống, cút xéo ngay. Tiếng ngựa hí, tiếng người la hét, xô đẩy nhau tìm đường thoát thân rầm rầm, hỗn loạn. Một cây giáo của lũ đàn em đâm trúng ngay thái dương tên đầu sỏ. Torkenbrand lộn nhào xuống đất, máu chảy ròng ròng trên má. Đám đàn em khiếp vía vừa liếc nhìn Saphira vừa nháo nhào lấn nhau chạy trốn, bỏ mặc hắn. Murtagh xuống ngựa, tay cầm kiếm, hằm hằm tiến tới. Torkenbrand đưa tay lên như chống lại một cú đấm. Murtagh lạnh lùng nhìn rồi vung kiếm chém ngay cổ Torkenbrand. - Đừng! Eragon la lên, nhưng không kịp. Torkenbrand vật xuống, đầu một nơi, thân một ngả. Eragon chạy lại, giận dữ hét lên: - Anh điên rồi à? Tại sao giết nó? Murtagh chùi kiếm lên lưng áo Torkenbrand: - Tôi chẳng hiểu tại sao cậu lại nổi nóng thế? - Nổi nóng? Thay vì bỏ mặc nó, để mình tiếp tục lên đường, anh lại giết một người ngã ngựa tay không vũ khí! - À, là vì nó là thằng nguy hiểm, không thể để nó quanh quẩn tại đây. Đàn em nó chuồn hết, không để lại một con ngựa. Tụi Urgals tới đây, sẽ phát hiện ra nó, và sẽ biết chuyện về Arya.... Saphira ngửi ngửi cái đầu lâu, rồi đến ngồi bên Eragon. Murtagh nói tiếp: - Tôi chỉ cố gắng để được sống còn. Không mạng sống của kẻ xa lạ nào quan trọng hơn chính mạng sống của tôi. - Nhưng anh không thể chiều theo tính hung bạo của anh như thế được. Lòng nhân đạo của anh đâu? - Nhân đạo? Tôi phải tỏ ra nhân đạo với cả kẻ thù của mình nữa sao? Tôi phải run rẩy, rên xiết vì kẻ thù đau đớn, khi tôi phải tự bảo vệ mình sao? Nếu tôi là con người như vậy, tôi đã chết từ lâu rồi. Người ta phải bảo vệ mình và những người thân yêu với bất cứ giá nào. Eragon tra kiếm vào vỏ, lắc đầu: - Đó là lý lẽ của một kẻ không có lương tâm. Murtagh gào lên: - Cậu tưởng tôi thích thú lắm sao? Đời tôi bị đe dọa từ khi mới lọt lòng. Suốt đời trốn tránh hiểm nguy, không vì người này, cũng bởi kẻ khác. Chưa bao giờ tôi ngủ yên giấc, vì nơm nóp lo sợ, ngày mai còn có thể nhìn thấy mặt trời không. Nếu có ngày tháng nào được yên ổn, thì đó chỉ là thời gian nằm trong bụng mẹ. Nhưng ngay cả khi đó, tôi cũng đâu được an toàn. Cậu không hiểu nổi đâu, nếu cậu cũng sống trong nỗi phập phồng, lo sợ như tôi, cậu mới học được bài học đắng cay này: đó là đừng chờ cơ hội. Cần làm là phải làm ngay. Như tôi giết thằng này là gạt bỏ một mối nguy hiểm. Tôi không hối hận, áy náy với những việc đã làm. Eragon ngó sát mặt Murtagh: - Dù sao, đó cũng là một chuyện làm không đúng. Đi thôi. Nó buộc Arya vào Saphira, rồi nhảy lên mình ngựa. Murtagh giật cương đi vòng qua cái xát cụt đầu của Torkenbrand. Họ đi với một tốc độc mà tuần trước Eragon tưởng không bao giờ đạt nổi, dường như chân ngựa được chắp cánh vậy. Rẽ hướng nam, họ tiến vào giữa hai nhánh của núi Beor. Hai nhánh núi như ôm siết lấy nhau. Đỉnh núi còn cách họ một ngày đường, nhưng khoảng cách như có vẻ gần hơn vì vóc núi quá đồ sộ. Khi ngừng lại nghỉ, Eragon và Murtagh lặng lẽ cắm cúi ăn. Sau cùng Eragon lên tiếng: - Tôi gác ca đầu. Murtagh gật, nằm quay lưng lại Eragon. Saphira thì thầm: "Anh muốn nói chuyện không?" "Để khi khác, anh cần suy nghĩ. Anh đang bối rối quá." "Em thương anh lắm, anh nhóc ạ." "Anh cũng thương em, Saphira." Nó lặng lẽ ngồi trong tối, đấu tranh với những phiền toái trong lòng. Bay ngang thung lũng Sáng hôm sau, Saphira cất cánh, mang theo Eragon và Arya. Eragon muốn tránh mặt Murtagh một thời gian. Trời như sắp đổ tuyết, Eragon rùng mình, siết chặt áo quần. Saphira hỏi: "Anh đang nghĩ gì vậy?" Eragon ngắm rặng núi Beor, dù Saphira đã bay cách mặt đất rất xa, nhưng đỉnh núi vẫn còn thăm thẳm trên đầu. "Chuyện hôm qua đúng là một vụ sát nhân, chẳng thể nào nói khác được." "Anh ấy quá nông nổi, hấp tấp, nhưng rõ ràng là muốn làm điều phải. Những kẻ buôn bán đồng lọai, xứng đáng nhận những tai họa giáng xuống đầu. Nếu không phải lo cho Arya, em cũng đã xé xác chúng ra từng mảnh rồi." "Nhưng Torkenbrand không được tự bảo vệ. Phải chi anh ấy cho nó dịp cầm vũ khí chiến đấu, thì đỡ tồi tệ hơn." "Eragon, dù hắn được phép chiến đấu, kết quả cũng thế thôi. Cả anh và em đều quá rõ, hiếm người có thể so sánh được với anh và Murtagh về kiếm thuật. Torkenbrand vẫn sẽ chết, dù dường như với cuộc đấu không cân tài sức, anh cảm thấy công bằng và vinh dự hơn." "Anh bối rối quá, chẳng biết thế nào là đúng." "Đôi khi tìm lời giải đáp cho hành động của mình không dễ đâu. Hãy suy nghĩ kỹ về Murtagh trong việc này. Tha thứ cho anh ấy. Nếu không thể tha thứ thì quên đi. Vì anh ấy không định làm hại hay làm anh buồn." Eragon lắc mạnh người, như con ngựa rùng mình để xua ruồi. Chợt nó thấy trên chặng đường đoàn nó đã đi qua hôm trước, một đám Urgals đang cắm trại bên bờ suối. Vì sao lũ Urgals đi bộ nhanh thế được? Saphira khép cánh, ẩn mình trong một đám mây, rồi trở về, để Eragon báo cho Murtagh: - Urgals đã theo kịp chúng ta. - Còn bao lâu nữa chúng ta mới tới nơi? - Thường thì....năm hôm nữa, nhưng với tốc độ mình vừa đi thì chỉ ba ngày. Tuy nhiên, tụi Urgals đã bám sát theo, nếu ngày mai không tới nơi kịp, chắc chắn chúng sẽ bắt được ta và Arya sẽ chết. - Arya có thể kéo dài tình trạng hôn mê này thêm mấy ngày nữa chứ? - Không thể biết chắc được. Chỉ còn cách đi suốt không nghỉ ngủ, ta mới tới kịp. Murtagh cười lớn, mỉa mai: - Cậu định làm cách nào đây? Bao ngày qua chúng ta đã thiếu ngủ rồi. Hay các Kỵ Sĩ khác người phàm, nên cậu mới không bị mệt như tôi. Qua suốt bấy nhiêu chặng đường gian khổ, dù cậu không quan tâm, chắc cũng thấy ngựa sắp gục rồi. Thêm một ngày đi như cậu vừa nói, chắc chúng sẽ chết ráo. - Nhưng chúng ta còn sự lựa chọn nào khác nữa đâu? - Tôi sẽ ra đi, để cậu bay với Saphira trước. Điều này sẽ bắt buộc Urgals phải chia quân làm hai, cậu sẽ có cơ hội tới được với Varden. - Như thế là tự sát. Urgals đi bộ mau hơn ta cưỡi ngựa. Chúng sẽ thừa sức đuổi kịp và vồ lấy anh như săn một con nai. Con đường duy nhất thoát khỏi chúng, là tìm nơi trú ẩn với phe Varden. Tuy nói vậy, nhưng Eragon không biết thật lòng nó có muốn Murtagh ở lại không. Nhưng rồi nó thầm thú nhận: "Mình rất quí anh ấy." - Được, khi tới chỗ Varden, tôi sẽ trốn sau. Tôi sẽ lẩn trong thung lũng và tìm đường đi Surda. Ở đó tôi ít bị ai để ý. - Vậy là anh đồng ý ở lại? - Ngủ hay thức, tôi cũng sẽ gặp lại cậu ở chỗ Varden. Sau khi quyết định, họ càng ráng tránh xa lũ Urgals, nhưng cuộc truy đuổi của chúng như càng đến gần hơn. Về đêm, những con quái vật tiến gần họ chỉ còn cách một phần ba chặng đường so với buổi sáng. Hai người lại thay phiên nhau ngủ trên yên, người thức hướng dẫn ngựa. Eragon chỉ dựa vào ký ức của Arya để dẫn đường. Dần dần họ tới những ngọn đồi phía đông rặng núi, đến thung lũng dẫn về nơi ở của Varden. Qua một đêm vẫn chưa thấy dấu hiệu nơi đó ở đâu. Mặt trời ló dạng, tất cả mừng rỡ vì thấy lũ quỉ sứ đã cách xa phía sau. Eragon ngáp dài, nói: - Hôm nay là ngày cuối cùng. Tới trưa vẫn chưa đến gần chỗ Varden, tôi sẽ bay trước với Arya. Sau đó, anh muốn đi đâu tùy ý. Nhưng anh phải đem theo Hỏa Tuyết giúp tôi, vì tôi không thể trở lại được. Nó đến đặt tay lên trán Arya, trán nàng nóng hổi và hai mí mắt luôn luôn day động như đang bị hốt hoảng trong một cơn ác mộng. Eragon đặt miếng vải ướt lên trán cho nàng. Vòng qua một khoảng núi lớn, Eragon thấy một thung lũng hẹp. Dòng sông Răng Gấu mà Arya đã nhắc đến, lững lờ trôi qua vùng đất này. Nó mỉm cười sung sướng, đây chính là nơi nó đang cần tới. Quay lại nhìn phía sau, Eragon lo lắng thấy khoảng cách với lũ Urgals chỉ còn chừng hơn một dặm. Nó chỉ thung lũng nói với Murtagh: - Nếu chúng ta lẩn được vào kia, có thể chúng sẽ khó mà tìm được. Len lỏi trong thung lũng, họ đi dưới những tàn cây cao lớn, rậm rạp. Những thân cây vươn cao, da nứt nẻ với những đốt rễ vồng khỏi mặt đất to lớn như những đầu ngựa. Từng bầy sóc lách chách chuyền cành hay tho lô đôi mắt từ những hang hốc trên thân cây. Những sợi tầm gửi xanh đen trĩu trịt rủ xuống từ những cành cao. Quang cảnh rừng rú nơi đây làm Eragon dựng tóc gáy. Một không khí thù nghịch bảng lảng đâu đây, dường như rừng già bất mãn vì bị quấy rầy bởi con người. Saphira dí mũi vào một thân cây xu xì, bình phẩm: "Những cây này già khụ cả rồi." Càng vào sâu, rừng cây như chen vào nhau, không còn đủ chỗ cho Saphira cất cánh. Cả Eragon và Murtagh cũng phải chậm bước vì những bụi cây chằng chịt. Tiếng sông Răng Gấu róc rách kế bên. Đỉnh núi cao che khuất mặt trời, làm họ như đang ở trong một buổi chiều tới sớm. Eragon nhận ra, dù thung lũng thoạt nhìn tưởng nhỏ hẹp như một vết nứt giữa hai ngọn núi, thật ra nó rộng lớn như tất cả những thung lũng khác của rặng núi Spine. Những thác nước đổ xuống từ mọi phía. Từ nền đất ẩm ướt, sương mù uốn éo tỏa lên lạnh buốt. Dâu dại tràn lan trên thảm rêu xanh, vươn lên tìm chút mặt trời. Trên những đống gỗ mục, mọc chi chít những búp nấm hoang màu vàng và đỏ. Saphira thì thầm: "Em mới thấy một bầy chim vừa xanh vừa đen, trên cánh còn chấm đỏ nữa. Chưa bao giờ em gặp lòai chim nào kỳ lạ thế." "Cái gì ở đây cũng khác thường. Em đưa anh bay một vòng xem tụi Urgals sao rồi." Nó bảo Murtagh: - Varden ẩn trú cuối thung lũng này. Nếu đi gấp, chúng ta sẽ tới nơi trước khi trời tối. - Làm sao tôi ra khỏi đây? Không thấy thung lũng nào nối với nơi nỳ, mà tụi Urgals thì sắp vây tới chúng ta rồi. Phải tìm đường tẩu thoát chứ. - Yên tâm. Thung lũng này dài lắm, chắc chắn phải có đường ra. Eragon đặt Arya lên yên Hỏa Tuyết: - Anh trông chừng nàng. Tôi sẽ gặp anh phía trước. - Bảo trọng. Murtagh dặn theo, rồi tiến sâu vào rừng. Khi đã ở trên cao, Eragon hỏi: "Em nghĩ có thể bay tới đỉnh một trong mấy ngọn núi kia không? Từ đó có thể mình tìm ra điểm đến và một lối đi cho anh Murtagh." "Em sẽ cố. Nhưng lên cao lạnh lắm đó." "Anh mặc đủ ấm mà." Saphira vươn mình, hai cánh vỗ mạnh, vút lên. Phía dưới, thung lũng như một dải lụa xanh và dòng Răng Gấu thấp thoáng ánh nắng sáng lên như bạc. Saphira bay cao lên khỏi những tầng may. Chung quanh như bao trùm bởi một tấm chăn màu xám, đến nổi cả nó và Eragon không thể nhìn thấy gì cách xa một tầm tay. Eragon đưa thử bàn tay ra, nước đặc lại, chui tuột lên cánh tay và làm ướt đẫm áo nó. Một đốm xám vụt qua, Eragon thoáng thấy một con bồ câu, với một băng trắng cuốn quanh chân. Saphira giơ vuốt chụp. Con bồ câu kêu lên khi bị hai hàm răng của Saphira phập đứt lông đuôi, rồi bay vụt vào đám sương mù. Vượt trên những tầng mây, bộ vảy của Saphira bao phủ ngàn ngàn những giọt nước, phản chiếu những cầu vồng li ti ngũ sắc, long lanh trên màu xanh của nó. Eragon rùng mình rũ quần áo. Nó không còn nhìn thấy phong cảnh bên dưới nữa, chỉ còn những đồi mây bồng bềnh giữa những ngọn núi. Thay vì núi non cây cối, chỉ toàn băng tuyết trắng xóa mênh mông dưới mặt trời. Eragon nhắm mắt lại vì quá chói. Nó hỏi Saphira: "Sao em chịu nổi?" "Vì mắt em mạnh hơn nhiều." Nước đóng băng trên đầu Eragon như một cái mũ sắt. Quần áo nó cứng như vỏ sò quấn quanh mình. Những cái vảy của Saphira bóng lộn vì nước đá. Chưa bao giờ cả hai bay cao đến thế, vậy mà đỉnh núi vẫn còn nhiều dặm phía trên. Những cái vỗ cánh của Saphira chậm dần, hơi thở nó chợt nặng nề hơn. Eragon thở gấp gáp như thiếu không khí. Cố chống lại cơn chóng mặt, nó ôm chặt Saphira: "Ra gấp khỏi đây thôi. Anh...không...còn thở...được nữa." Nhưng dù nó cố nói nhiều lần, dường như Saphira vẫn không hiểu gì. Nó đấm thùm thụp vào sườn Saphira gào lên: "Xuống!" Sự ráng sức làm đầu nó ù đi. Những hình ảnh mờ dần rồi tối hẳn. Xuống khỏi những tầng mây, Eragon mới tỉnh lại. Đầu nhức nhối, nó ngơ ngác nhìn quanh: "Chuyện gì xảy ra vậy?" "Anh bị ngất đi." "Sao em không trả lời khi anh bảo xuống?" "Đầu óc em cũng bị rối loạn. Nhưng khi anh ngất, em biết là có chuyện không hay, em mới bay thấp xuống." "Cũng may là em không bị ngất. Nhưng tuy không lên tới đỉnh, mình cũng biết được một điều, con đường duy nhất để bay khỏi thung lũng này, chính là con đường mình đã đi vào. Tại sao ở đây mình thở nổi, mà trên đó cứ như là thiếu không khí." "Không biết. Nhưng từ nay em không bao giờ dám bay quá gần mặt trời như vậy nữa. Mình phải nhớ kinh nghiệm này, có thể rất có ích nếu chúng ta đụng độ với một Kỵ Sĩ khác." "Anh mong chuyện đó không bao giờ xảy ra. Xuống đi, hôm nay phiêu lưu như thế quá đủ rồi." Saphira nhẹ nhàng bay trong làn không khí hiền hòa, bập bềnh từ núi này sang núi khác, cho đến khi Eragon phát hiện đoàn quân Urgals đang tiến vào thung lũng. Saphira bảo: "Lúc này nhìn gần, em nhận ra lũ này to lớn hơn lũ quái mình gặp trước đây. Một người cao lớn chỉ đứng đến vai chúng là cùng. Không biết chúng từ đâu tới, nhưng chắc phải là nơi kinh khủng lắm, mới sinh ra lũ quái vật ghê tởm như thế này." "Nếu chúng tiến vào thung lũng, sẽ bắt được Murtagh, trước khi mình đến chỗ Varden." "Hy vọng rừng già làm chậm chân chúng lại. Có thể dùng phép thuật ngăn cản chúng không?" Nhớ lại lớp sương mù trên mặt đất, Eragon tủm tỉm cười: "Chúng đông lắm, không chặn hẳn được, nhưng anh có thể làm chúng chùn chân một chút." Nó nhắm mắt, nhìn xuống làn sương, ra lệnh: "Gath un reisa du rakr!" Phía dưới mặt đất chuyển động, như những kè đá bên sông trôi bềnh bồng, nối vào nhau. Sương mù lờ đờ cuồn cuộn bốc lên như bức tường tăm tối trước mặt bầy quái thú. Lũ Urgals ngập ngừng rồi tiến tới như một mũi tàu băng băng lướt đi, không gì ngăn cản được. Sức lực Eragon thoáat ra bất ngờ một cách khủng khiếp, tim nó đập thoi thóp như con chim hấp hối. Nó cố dứt ra khỏi sự níu kéo của phép thuật, đang làm sự sống trào ra khỏi cơ thể nó. Eragon tức giận vùng mạnh, thét lên, cắt đứt khỏi sự áp chế của phép thuật. Bước tường sương mù tan dần, không gây trở ngại nào cho tụi Urgals. Eragon gục trên cổ Saphira thở dốc. Đến lúc này nó mới nhớ lại lời ông Brom: "Khoảng cách ảnh hưởng đến phép thuật. Cũng giống như khi bắn tên hay phóng thương, càng gần mục tiêu càng đỡ hao sức lực." Eragon thầm nhủ: "Mình sẽ không bao giờ quên điều đó nữa." Saphira nói ngay: "Anh chẳng quan tâm gì đến những lời căn dặn của ông già. Cứ tiếp tục những trò kiểu này, có ngày anh chết không kịp ngáp." "Thì đã bao giờ anh sử dụng phép thuật từ xa như thế này đâu. Ai ngờ căng quá vậy." "Phải rồi, lần sau anh dám thử làm cho người chết sống lại lắm. Tôi biết quá mà." "không bao giờ." Saphira phóng xuống thấp tìm Murtagh. Eragon không giúp gì được, chỉ còn đủ sức ngồi cho vững. Khi xuống tới một bãi đất trống, Eragon vẫn ngồi trên Saphira, ngạc nhiên nhìn Murtagh đang quì trên mặt đất quan sát chung quanh. Murtagh chạy lại hỏi: - Chuyện gì vậy? - Tôi...bậy quá. Muốn chặn tụi quái vào thung lũng mà quên qui tắc phép thuật. Mệt đứt hơi. - Còn tôi vừa nhìn thấy những dấu chân sói, nhưng những dấu chân này lớn gấp đôi bàn tay tôi, hằn sâu xuống đất cả phân. Quanh đây có những con thú thậm chí có thể gây nguy hiểm cho cả Saphira. Anh ta quay lại con rồng: - Saphira, dù không vào sâu trong rừng rậm được, em có thể bay vòng vòng trên đầu ta và mấy con ngựa được không? Thú dữ có thể sợ mà không dám tới gần, nếu không chúng sẽ xơi tái ta mất. Eragon nói: - Saphira bảo, lũ Urgals này cao lớn hơn những đám mình đã thấy. Murtagh bật lên một tiếng rủa, tay nắm chặt chuôi kiếm: - Nếu đúng như Saphira nói, tôi đã hiểu vì sao chúng tiến nhanh đến thế. Lũ này là Kull, những tinh hoa của loài Urgals. Đáng lẽ tôi phải đoán ra rồi, vì tên thủ lĩnh chỉ huy đám này. Chúng không cưỡi ngựa vì không một con ngựa nào chở nổi sức nặng của chúng, không con quái nào thấp dưới hai thước rưỡi, và chúng có thể chạy suốt nhiều ngày không cần ngủ, mà vẫn đủ sức chiến đấu. Năm người dũng mãnh mới có thể hạ được một đứa chúng nó. Kull không bao giờ ra khỏi hang, trừ khi có chiến tranh. Chúng xuất quân cả một lực lượng như vậy, là sửa soạn cho một cuộc tàn sát rất lớn. Nếu bắt buộc phải đụng độ với chúng, chỉ còn hy vọng Varden có quân đóng gần đây, sẽ yểm trợ chúng ta. Vì dù với khả năng của tôi và cậu, cộng thêm Saphira, chúng ta cũng sẽ không thoát khỏi một đoàn Kull như thế. - Arya sao rồi? - Sốt cao hơn. Sức khỏe giảm lắm rồi. Cậu nên cùng cô ấy bay về Varden, trước khi thuôc độc gây nguy kịch thêm. - Tụi Urgals đã cận kề, tôi không thể bỏ anh lại được. - Tùy cậu, nhưng tôi báo trước, nếu cậu ở lại với tôi, cô ấy sẽ không sống nổi đâu. - Đừng nói thế chứ. Hãy giúp tôi cứu cô ấy. Chúng ta còn có thể làm được điều đó mà. Cứ xem như một mạng đổi một mạng.....chuộc tội cho cái chết của Torkenbrand. - Đó không phải là một món nợ..Cậu... Mặt Murtagh tím lại vì giận, nhưng ngay lúc đó có tiếng tù-và lồng lộng qua rừng già rậm rạp. Anh ta giật cương ngựa quay đi, ném cái nhìn tức tối về Eragon: - Tôi sẽ nói chuyện với cậu sau. Eragon nhắm mắt khi Saphira cất cánh. Nó ước sao được ngả lưng trên một cái giường êm ái và quên hết những chuyện khó chịu giữa hai người. "Saphira, em nghĩ sao, nếu mình đưa Arya tới chỗ Varden, rồi trở lại giúp anh Murtagh?" "Phe Varden sẽ không cho anh rời khỏi đó đâu. Họ sợ anh trở lại báo cho Urgals biết nơi trú ẩn của họ. Tình trạng của chúng ta lúc này khó làm họ tin tưởng được. Họ sẽ hỏi vì sao ta dẫn cả một đoàn quân của kẻ thù tới sát cửa ngõ của họ." "Chúng ta sẽ nói hết sự thật, chắc họ sẽ tin thôi." "Được, coi như họ đồng ý để ta đi, nhưng nếu tụi Kull tấn công Murtagh, anh sẽ làm gì?" "Choảng cho tụi nó một trận. Đời nào anh để cho chúng bắt hay giết Arya và anh ấy." Giọng Saphira chua lè: "Cao thượng quá! Ôi! Anh thì với phép thuật và mũi kiếm, còn tôi với móng vuốt và răng, lũ quái sẽ bị tiêu diệt cả đám. Nghe sướng tai thật, nhưng rút cục chẳng nên trò trống gì đâu. Chúng đông thế kia, choảng chúng, hay bị chúng choảng lại?" "Vậy thì phải làm sao? Bỏ mặc Arya và Murtagh cho lũ quái vật xé xác sao?" "Tôi đâu bảo anh làm thế. Nhưng theo tôi, muốn choảng thì phải choảng phủ đầu, chúng mới không kịp trở tay." "Em điên rồi à? Chúng sẽ.....Hay! Chúng sẽ bất ngờ không kịp trở tay. Đúng quá rồi." "Hơi bị đúng, phải không? Em và anh sẽ làm cho chúng bị thương cả đám....vì những vật thể lạ từ trên trời rơi xuống." "Hơi bị tài! Quăng đá lên đầu chúng, cho chúng chạy chết bỏ luôn." "Sọ chúng có rắn như đá, gặp đá không bể cũng vỡ." Saphira hạ cánh xuống bờ bên phải sông Răng Gấu. Bộ móng mạnh khoẻ của nó quắp chặt những hòn đá lớn, trong khi Eragon nhặt nhanh một số đá nhỏ hơn. Cả hai êm ả lượn về phía tụi Urgals. "Bắn!" Tiếp theo tiếng kêu của Saphira, đá tuôn như mưa xuống đầu lũ quái. Tiếng đá xuyên rào rào qua cành lá, rồi những tiếng thét rú vang vang khắp thung lũng. Eragon khóai trá bảo: "Lấy thêm đạn." Nhưng mỗi lần Saphira bay đi lấy đá, tụi quái lại tiếp tục tiến lên. Tuy vậy, nỗ lực của Eragon và Saphira cũng đã giúp kéo dài khoảng cách giữa Murtagh và Urgals. Bóng tối phủ dần, sương mù lan tỏa trên thung lũng. Những dã thú ăn đêm đã lần mò ra khỏi hang, rình rập những kẻ lạ lang thang trong lãnh địa của chúng. Eragon tiếp tục quan sát những sườn núi, tìm kiếm dòng thác, dấu hiệu của cuối cuộc hành trình. Nó đau đớn thấy mỗi phút qua đi, cái chết của Arya lại đến gần hơn. Nó giục giã Saphira mau tìm chỗ nghỉ, để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của Arya. Saphira bảo: "Bây giờ mạng sống của Arya nằm trong tay số phận. Anh đã quyết định ở lại với Murtagh, đổi thay không kịp nữa rồi. Dẹp trò đau khổ đó đi. Điều tốt nhất bây giờ là tiếp tục ném bom lũ quái." Biết nó nói phải, nhưng Eragon vẫn không thể yên tâm. Nó tập trung tìm kiếm con thác, nhưng những mỏm núi nhô ra che khuất hết tầm nhìn. Lúc này, trăng chưa lên, núi non, thung lũng chìm trong bóng tối. Với tầm nhìn và khứa giác sắc bén, Saphira cũng không còn biết Urgals ở đâu dưới khu rừng già, sương mù dày đặc. Saphira lượn vòng quanh núi, Eragon thoáng thấy lờ mờ một vạch trắng. Có phải là ngọn thác đó không, nó tự hỏi. Bóng núi phủ quanh thung lũng như một cái bát. Đường tới cuối thung lũng không còn bao la nữa. Nó hỏi: "Em có nghĩ Varden sẽ cho người ra giúp mình không?" "Chắc họ sẽ chỉ giúp mình, sau khi phải biết rõ mình là bạn hay thù. Bây giờ nên trở lại với anh Murtagh. Không thấy bóng tụi quái ở đâu, có thể chúng đang lén lút theo anh ấy rồi." Eragon rút kiếm khỏi vỏ, tự hỏi có đủ sức chiến đấu không. Saphira hạ cánh xuống bờ trái sông Răng Gấu. Xa xa tiếng thác đổ ầm ầm. "Anh ấy tới đó." Saphira nói. Eragon lắng nghe tiếng vó ngựa tới gần. Murtagh, từ trong rừng phóng ra. Gặp Eragon, anh nói ngay: - Mình thấy cậu và Saphira ném đá xuống lũ quái. Đám Kull ngừng lại hay rút lui? - Chúng vẫn tiến theo ta, nhưng chúng mình gần tới thác rồi. Arya sao? - Cô ấy chưa chết. Có cái hang hay bất kỳ chỗ nào cho tôi trốn được không? Giọng anh ta như nghẹn thở. Eragon cố nhớ lại xem có khe đá hay cái hang nào không. Nó đã quên khuấy tình trạng tiến thóai lưỡng nan của Murtagh. - Trời tối quá, hay có thể tôi quên để ý, nhưng hình như không có.... - Cậu định nói, con đường duy nhất của tôi, là phải đến với Varden? - Phải, vì tụi Urgals sắp tới rồi. Chạy đi đâu được? Murtagh chỉ ngón tay ngay mặt Eragon, giận dữ hét lên: - Không. Tôi đã báo cho cậu là tôi không đến đó. Cậu đi trước, rồi gài bẫy tôi vào cảnh trên đe dưới búa này. Cậu chỉ là một kẻ chứa đầy trong đầu ký ức của nàng tiên. Sao cậu không nói thẳng ra đây là đường cùng dành cho tôi? - Tất cả những gì tôi biết, chỉ là chúng mình phải đến nơi nào, làm sao tôi biết được những chuyện rắc rối giữa đường. Murtagh nghiến răng, giận dữ, quay đi. Eragon nhìn Murtagh đứng im lìm, gân cổ căng lên, phập phồng. Nó lên tiếng: - Chuyện xích mích giữa anh và Varden là gì? Đến lúc này anh cần gì phải dấu nữa. Chẳng lẽ anh muốn đánh với tụi Kull hơn là tiết lộ chuyện đó sao? Chúng ta còn phải vượt qua những gì nữa, để anh mới có thể tin tôi? Im lặng kéo dài. Saphira nhắc nhở: "Urgals sắp tới rồi." Eragon lại nói: - Murtagh, mình nên giải quyết cho xong vấn đề này. Trừ khi anh muốn chết, nếu không, anh phải tới với Varden. Đừng để tôi bước vào vòng tay họ mà vẫn chưa được biết họ sẽ có phản ứng thế nào. Điều đó sẽ rất nguy hiểm với những bất ngờ không cần thiết. Murtagh quay lại Eragon, thở dồn dập như một con sói cùng đường, giọng đầy đau khổ: - Cậu có quyền được biết. Tôi....tôi là con trai của Morzan. Tên phản đồ đầu tiên và cuối cùng. Tâm sự của Murtagh Eragon không thốt được một lời. Tâm trí nó muốn kêu lên bác bỏ những lời nói của Murtagh. Những kẻ phản đồ không hề có con, nhất là Morzan. Morzan! Con người đã phản bội các Kỵ Sĩ, chạy theo Galbatorix và làm bề tôi sủng ái của nhà vua cho đến cuối đời. Saphira len lỏi qua những bụi cây, tới bên Eragon thì thầm: "Coi chừng. Hắn có thể sử dụng phép thuật." Eragon nắm chặt kiếm, khỏi Murtagh: - Anh là....thừa kế của ông ta? - Nhưng tôi có chọn lựa chuyện này đâu. Murtagh kêu lên, mặt co rúm vì đau khổ. Anh xé toạc áo, quay lưng lại Eragon: - Nhìn đi. Eragon cúi xuống, cố giương mắt nhìn trong tối. Trên tấm lưng lực lưỡng, rám nắng của Murtagh, một vết sẹo trắng kéo dài từ vai trái xuống hông. Một di chúc đầy thống khổ. - Thấy chưa? Murtagh cay đắng hỏi. Rồi anh nói như được trút hết những gì chất chứa trong lòng: - Mới ba tuổi đầu tôi đã được hưởng vết sẹo này trong một cơn say như điên loạn của ông ta. Morzan phóng thanh kiếm vào tôi khi tôi bỏ chạy. Lưng tôi toác ra bằng chính thanh kiếm cậu đang đeo đó....nhưng chính đó cũng là vật tôi mong được nhận như một di sản, cho đến khi Brom tước đọat nó trên xác cha tôi. Tôi may mắn thoát chết, nhờ được một thầy thuốc gần nhà đem về chữa trị. Cậu phải hiểu rằng, tôi không thương yêu gì triều đình hay nhà vua. Tôi không phục tùng họ, cũng như không hề có ý định làm hại cậu. Eragon bối rối buông kiếm, ngập ngừng hỏi: - Vậy là cha anh bị giết bởi... - Đúng, chính là Brom. Tiếng tù-và lại nổi lên sau họ. Eragon thúc dục: - Đi, đi với tôi. Murtagh giật dây cương, con ngựa uể oải cất bước. Arya vẫn thiêm thiếp trên yên Hỏa Tuyết. Eragon bảo Saphira: "Không sao đâu, em cứ thoải mái ra bờ sông đi." "Em không thể để anh một mình với hắn được." Eragon nói với Murtagh: - Những gì anh kể, khó tin quá. Làm sao tôi có thể biết là anh không nói dối được. - Vì sao tôi phải nói dối chứ? - Anh có thể là.... - Lúc này tôi không thể chứng minh được điều gì. Khi nào tới chỗ Varden, cậu sẽ rõ. Họ sẽ nhận ra tôi là ai ngay lập tức. - Nhưng tôi cần phải biết: anh có phục vụ cho triều đình không? - Không. Nếu tôi phục vụ cho triều đình, tôi đi với cậu làm gì? Nếu tôi có ý bắt hay giết cậu, thì giờ này cậu đang ở trong tù rồi. - Anh có thể làm hướng dẫn cho lũ Urgals đến Varden. - Bây giờ đã biết chỗ ở của họ, sao tôi vẫn ở bên cậu? Lý do nào tôi đang tự nạp mình cho họ? Nếu tôi định tấn công, tôi phải quay lại đi cùng Urgals chứ. - Có thể anh là một....thích khách. - Có thể. Làm sao cậu thật sự biết được, đúng không? "Sao, Saphira?" Eragon thầm hỏi. Saphira ve vảy đuôi, trả lời: "Anh ấy đúng đấy, nếu định làm hại anh, anh ấy đã làm từ mấy ngày trước rồi." "Anh muốn em phải để mắt tới Murtagh khi chúng ta tới Varden. Có thể anh ta làm chuyện điên rồ, mà anh thì không muốn thấy anh ta bị chết." "Em sẽ cố gắng." Tiếng tù-và lại rúc lên. Eragon ngoái nhìn, tưởng như lũ quái sắp xông ra từ bóng tối. Tiếng thác gầm réo phía trên đầu họ, vang trong đêm. Qua hết khu rừng, họ dừng ngựa trên bờ sỏi, đối diện bờ trái của cửa sông Răng Gấu. Hồ Kóstha-mérna sâu thẳm chặn ngay trước mặt. Những vách núi thu hẹp con đường chỉ rộng chừng vài thước hai bên hồ. Cuối hồ, màn nước trắng xóa đổ xuống một vực đá đen, sủi ngầu bọt. Murtagh hỏi: - Mình tới thác chứ? - Phải. Eragon trả lời rồi dẫn đầu đi dọc bờ bên trái. Lối đi sát vách núi, chỉ đủ cho Saphira men theo, hai chân bò trên bờ, hai chân khỏa dưới nước. Được nửa đường tới thác, Murtagh báo động: - Urgals! Eragon quay lại, nơi họ vừa dời đi mấy phút trước, những thân hình thô kệch, đồ sộ từ trong rừng ùa ra. Lũ quái thú lố nhố trước hồ. Một tên chỉ tay về Saphira, tiếng nó ồm ồm lan trên mặt nước. Ngay lập tức, chúng chia làm hai nhóm, đi bọc hai ngả hồ, không cho Eragon và Murtagh còn đường tẩn thóat. Lối đi nhỏ hẹp, bắt buộc tụi Kull phải di chuyển hàng một. "Chạy!" Murtagh kêu lên, rút kiếm đập mạnh hông ngựa. Bất ngờ Saphira vút lên, đảo một vòng, bay ngược về đám Urgals. - Đừng! Trở lại ngay, Saphira. Eragon gào lên trong đầu. Saphira làm lơ, mũi xì khói đen, bổ nhào xuống lũ Urgals. Chúng không phân tán ra được vì vướng vách núi. Saphira quắp một con quái, bay bổng lên cùng tiếng thét của con vật bị xiết chặt trong móng vuốt và bị những cái nanh của Saphira xé đứt chân tay. Một lát sau, Saphira quăng tõm cái xác xuống hồ. Đám Urgals còn lại vẫn bình thản tiến bước. Hàng lọat mũi tên đen tua tủa vút lên, một số xước qua vảy, nhưng có mũi xuyên qua cánh Saphira. Mối đồng cảm làm cánh tay Eragon nhói đau. Khiếp đảm thấy một con quái tiến gần, nó ráng chạy mau hơn, nhưng mặt đá trơn và chân nó rã rời. Rồi, với một tiếng nước vỡ tung, Saphira phóng xuống hồ mất dạng. Đám Urgals lo lắng nhìn nước đen tung toé lên mình. Một tên gầm gừ thọc cây thương xuống nước. Mặt nước lại vỡ ra tung toé, Saphira nhô đầu đớp cây thương trong tay con quái nhanh như chớp, rồi cắn gãy như bẻ một cái que. Trước khi nó kịp lặn xuống, một con quái khác đâm mũi thương, làm mũi Saphira toé máu. Saphira rít lên phẫn nộ, đập đuôi rầm rầm trên mặt nước. Nó quăng mình, cắn chân con quái chỉ huy. Lũ Urgals dừng lại trong khi Saphira ngậm chặt thủ lĩnh của chúng. Bờ bên kia, lũ Urgals vẫn tiến tới gần thác nước. Saphira báo cho Eragon: "Em cầm chân chúng được rồi, chạy mau đi." Đám xạ thủ trên bờ giương cung lên nhắm. Eragon trượt chân suýt ngã. Murtagh vội kéo nó lên, rồi hai người khoác tay nhau, cùng dắt ngựa chạy tiếp. Gần tới thác, tiếng nước đổ như sấm rền. Màn nước trắng ào ạt tuôn xuống vực, đập lên những tảng đá. Bụi nước thấm đẫm mặt Eragon và Murtagh. Saphira gầm lên, lặn sâu xuống nước, vì bị một con quái đâm một thương trúng đùi. Lũ Kull lũ lượt tiến lên. Chúng chỉ còn cách thác nước chừng ba chục thước. Murtagh lạnh lùng hỏi: - Bây giờ chúng ta phải làm gì? Eragon lục trí nhớ những lời dặn sau cùng của Arya. Nó nhìn quanh, rồi nhặt lên cục đá bằng quả táo, đập mạnh lên bờ vực đá: "Ái varden abr du Shur'tugals gata vanta!" Không có gì xảy ra! Nó cố làm lại lần nữa, kêu lớn hơn, nhưng chỉ làm trầy tay, vách đá vẫn trơ trơ. Saphira từ nước ngoi lên. Hai con ngựa hốt hoảng muốn vùng chạy. Eragon phóng tư tưởng trấn an chúng. Bỗng Saphira kêu lên: "Sau anh kìa!" Eragon quay vội lại: con quái đi đầu, giơ cao cây thương, đang chạy tới nó. Nhìn gần, con quái vật như một người khổng lồ, chân tay to đùng như những thân cây. Murtagh rút kiếm nhanh như chớp. Chỉ một chiêu phóng ra, xương ngực con quái kêu lên răng rắc. Trước khi một Urgals khác kịp tới, Murtagh rút kiếm khỏi cái xác khổng lồ. Eragon đưa tay lên, đọc chú: "Jierda theirra kalfis!" Hai mươi quái thú lộn cổ xuống hồ, gầm rú, chụp nắm những cẳng chân lòi xương trắng hếu. Hàng lọat mũi tên xuyên qua đêm tối, vun vút qua đầu Eragon và Murtagh, lộp độp rơi bên vách đá. Saphira vội nghiêng mình bên toàn vảy cứng như giáp, che cho hai người và ngựa. Murtagh kêu lên: - Chúng ta không thể ở mãi đây được. Eragon nghe tiếng Saphira rít lên vì một mũi tên xuyên qua lớp màng cánh. Nó nóng nảy nhìn quanh, không hiểu vì sao những lời dặn của Arya không mang lại hiệu quả. Murtagh bảo: - Sao cậu không hỏi lại Arya? - Arya yếu đến không thể nào nói được nữa rồi. "Eragon" bỗng Saphira truyền ý nghĩ sang nó "Eragon, em thấy những ký ức của Arya qua anh, và em nhận ra chúng ta lầm đường rồi. Bên kia thác chứ không phải bên này." - Đúng rồi, Varden ở bên kia thác. Chúng ta phải vượt qua thôi. Murtagh nhìn lũ quái đang lừ lừ tiến tới: - Dù có níu kéo, hai con ngựa cũng không dám qua thác đâu. - Tôi sẽ thuyết phục được chúng. - Liều thôi, còn hơn ở đây chờ chết. Murtagh nhún vai nói, rồi cùng Eragon chuyển Arya sang yên Saphira và thắt chặt dây an toàn. Saphira vỗ cánh bay qua bên kia thác. Lũ Urgals rảo bước cố tiến tới trước khi Saphira hạ cánh. Eragon truyền tư tưởng sang hai con ngựa, dùng thần chú cho chúng biết, nếu không bơi qua, sẽ bị lũ quái ăn thịt ngay. Hỏa Tuyết cùng Tornac nhảy ùm xuống nước. Murtagh nhảy theo chúng. Tiếng chân thình thịch của Urgals tiến sát sau lưng Eragon. Thét lớn một tiếng, Eragon phóng mình theo Murtagh. Sức mạnh của dòng nước từ trên đổ xuống nhấn chìm Eragon xuống tới đáy, nó vùng vẫy hai chân, cố nhoi lên. Cây Zar'roc nặng chịch và bộ quần áo sũng nước như kéo ghì nó xuống, không thể mở miệng đọc thần chú được. Thình lình, một bàn tay mạnh mẽ nắm áo nó kéo ngược lên. Eragon hy vọng đó là Murtagh, chứ đừng là quái vật. Lên tới bờ, toàn thân Eragon run bần bật. Nghe tiếng gầm rú, nó quay nhìn: lũ quái rụng lả tả vì những mũi tên bắn ra như mưa từ một khe núi. Xác Urgals lềnh bềnh đầy mặt nước. Một bên là núi, một bên là hồ sâu, hai đầu đều bị tên bắn tới, lũ quái không đường rút lui. - Akh Gunteraz dorzada! Chắc chúng tưởng cậu chết chìm rồi! Eragon kinh ngạc, quay phắt lại. Đứng bên nó, không phải Murtagh, mà là một người nhỏ xíu, cao không tới thước hai. Người lùn rũ rũ chòm râu đầy nước. Ngực ông ngắn, phồng lên mạnh mẽ, một áo sát nách đan bằng sắt, để lộ hai cánh tay cuồn cuộn bắp thịt. Một cái rìu lủng lẳng dưới một thắt lưng da to bản. Cái mũ sắt bằng da bò, bọc ra ngòai là một khung sắt với dấu hiệu mười hai ngôi sao bao quanh cây búa. Eragon rút kiếm nhìn quanh tìm Saphira và Murtagh. Hai cánh cửa đá dày bốn thước đã mở, để lộ ra một đường hầm rộng, cao chừng mười thước, sâu thăm thẳm vào lòng núi. Một hàng đèn, không có ngọn lửa, tỏa sáng một màu xanh ngọc ra tới mặt hồ. Saphira và Murtagh đứng trước miệng đường hầm, giữa một đám người và những người lùn vây quanh. Sát bên Murtagh, một người đầu hói, không râu, mặc bộ áo hai màu vàng và tía. Lão cao hơn cả bọn, tay lăm lăm con dao găm ngay cổ họng Murtagh. Eragon vừa tập trung phép thuật, lão hói đầu nói ngay: - Ngừng lại! Nếu mi dùng phép thuật, ta thịt ngay thằng bạn dễ thương này của mi. Thằng này dễ thương lắm, nó đã cho ta biết mi là một Kỵ Sĩ. Đừng tưởng ta không biết mi định giở trò gì. Không giấu nổi ta đâu. Eragon vừa định mở miệng, lão dí con dao mạnh hơn vào cổ Murtagh: - Nếu mi nói một lời hay làm bất cứ điều gì ta chưa cho phép, thì bạn mi sẽ chết. Nào, bây giờ tất cả vào trong. Lão gườm gườm nhìn Eragon rồi kéo Murtagh vào hầm. Eragon vội hỏi Saphira khi cả bọn người kia dắt ngựa theo vào: "Saphira, anh nên làm gì?" "Đi theo họ." Eragon miễn cưỡng đi theo. Người lùn đã cứu Eragon đi sát bên, tay nắm chuôi rìu. Hoàn toàn kiệt sức, Eragon lê bước vào đường hầm. Cánh cửa đá khép lại phía sau. Nó quay lại nhìn, mặt đá phẳng lì không có một vết nứt nhỏ nào. Eragon, Murtagh và Saphira đã hoàn toàn ở trong lòng núi, nhưng không biết có được an toàn? Truy lùng sự thật - Lối này. Gã đầu hói nói. Vẫn dí lưỡi dao dưới cằm Murtagh, rồi gã quay ngoắt sang phải, biến vào một cửa vòm. Đám lính chiến đi theo gã hói, nhưng mắt vẫn tập trung vào Eragon và Saphira. Hai con ngựa được dắt qua một đường hầm khác. Eragon đi theo Murtagh. Liếc nhìn Saphira để được yên tâm là Arya vẫn còn ở trên lưng rồng, nó mong sao nàng sớm có thuốc giải độc. Mọi người theo gã hói qua cửa vòm, đi suốt một hành lang hẹp. Đám chiến binh luôn hướng mũi vũ khí về Eragon. Qua bức tượng một con vật dị kỳ, phủ đầy lông vũ, hành lang thình lình rẽ trái, rồi phải, tới một cánh cửa mở sẵn, mọi người bước vào một gian phòng trống trơn, rộng đủ cho Saphira thong dong đi lại. Cửa được đóng lại ngay và tiếng gài then nặng nề bên ngoài vang lên. Thanh Zar'roc vẫn nắm chặt trong tay, Eragon từ từ nhìn quanh. Từ sàn, những bức tường và trần nhà đều làm bằng đá cẩm thạch trắng, sáng bóng đến soi gương được. Mỗi góc phòng treo một ngọn đèn. - Có một người bị thương.... Gã hói đầu ngăn Eragon lại: - Không được nói. Mi chỉ có quyền nói sau khi đã được kiểm tra. Các ngươi bỏ hết vũ khí xuống, đưa cho ta. Gã xô Murtagh đến một tên chiến binh. Tên lính dí kiếm vào cổ Murtagh, để một tên lùn tước kiếm của anh, ném xuống sàn. Eragon miễn cưỡng tháo bỏ Zar'roc, rồi cũng để trên mặt sàn cùng với cung tên. Gã hói ra lệnh: - Đứng lại. Bây giờ dẹp bỏ hết những sự bảo vệ quanh não mi, để ta kiểm tra tư tưởng và những ký ức của mi. Nếu mi che giấu bất cứ điều gì, ta sẽ phải dùng áp lực, và điều này sẽ làm mi hóa điên rồ. Nếu mi không phục tùng, đồng bọn của mi sẽ bị giết. Eragon kinh hoàng hỏi: - Vì sao? - Vì ta muốn biết chắc mi có phải là tay chân của triều đình không và để hiểu vì sao hàng trăm con quái thú đến tận cổng nơi này. Không kẻ nào bước vào Farthen Dur mà không bị kiểm tra. - Như thế sẽ không kịp nữa. Chúng tôi cần một thầy thuốc ngay. - Im. Mi chưa được kiểm tra, những lời nói của mi không có nghĩa lý gì. - Nhưng cô ta sắp chết. Eragon giận dữ chỉ Arya. Dù đang trong hoàn cảnh ngặt nghèo, nhưng việc Arya được chữa trị là điều quan trọng nhất. - Phải đợi thôi. Không ai được phép ra khỏi phòng này, khi chúng ta chưa khám phá ra sự thật. Trừ khi mi muốn.... Người lùn đã cứu Eragon nhảy tới: - Anh mù sao, Egraz Carn? Anh không thấy đó là một thần tiên sao? Không thể giữ cô ta ở đây với tình trạng nguy kịch thế. Ajihad và đức vua sẽ lấy đầu tôi và anh, nếu để cô ta chết. Mắt gã hói long lên sòng sọc. Một lát sau, gã mới bình tĩnh nói: - Orik, tất nhiên chúng ta không mong chuyện đó xảy ra. Quân đâu, đưa cô ta xuống khỏi lưng rồng mau. Một trong mấy tên chuyển nàng từ yên Saphira xuống sàn, bỗng kêu lên: - Đây chính là Arya, nàng tiên vận chuyển trứng rồng. - Sao? Gã hói kêu lên. Ông lùn Orik trợn mắt kinh ngạc. Gã hói đưa ánh mắt sắc như thép nhìn Eragon: - Mi có quá nhiều điều phải cắt nghĩa cho rõ ràng. Eragon trợn mắt nhìn lại, cương quyết nói: - Nàng bị đầu độc trong tù bằng Skilna Bragh, chỉ có Túnivor's Nectar mới giải được. Mặt gã hói trở nên bí hiểm: - Tốt lắm. Tụi bây đưa cô ta đến thầy thuốc và cho biết cô ta cần thuốc gì. Canh giữ cô ta cho đến khi công việc hoàn tất. Sau đó, đợi lệnh ta. Đám chiến binh đưa Arya ra khỏi phòng. Gã hói quay ngay lại Eragon: - Mất quá nhiều thì giờ rồi. Nào, sẵn sàng kiểm tra. Tuy Eragon không muốn thằng cha không có sợi tóc nào kia mò mẫm vào tiềm thức, nhưng biết không thể làm khác được. Nó bảo: - Tôi sẵn sàng rồi. Bỗng Orik nói: - Egraz Carn, nếu anh không muốn bị đức vua khiển trách thì đừng làm nó bị đau đớn. - Trừ khi nó cố chống lại thôi. Gã cúi đầu, thầm thì lẩm bẩm. Eragon thở dốc đau đớn như có một cái que bằng sắt đang cào vào tâm não nó để tìm đường. Mắt nó trợn ngược, và hàng rào bảo vệ tiềm thức tự động bủa vây chặt chẽ. "Đừng làm thế." Saphira la lên. "Anh đặt Murtagh vào thế rất hiểm nghèo rồi." Eragon nghiến răng do dự, rồi thả lỏng người, hóa giải làn sóng bảo vệ tâm trí nó. Sự thất vọng toát ra từ gã hói, gã tấn công mạnh mẽ hơn. Sức mạnh từ hắn có vẻ gì đó của tà đạo, không thuộc phe chính đạo. Một làn sóng đau đớn xuyên suốt Eragon, làm nó kêu thầm: "Hắn muốn mình chống lại!" Saphira cố làm giảm cơn đau của Eragon, nhưng với sức lực của nó, cũng không hoàn toàn giúp được. "Hãy cho hắn biết những gì hắn muốn. Chỉ giấu những gì cần phải giấu thôi. Em sẽ giúp anh. Sức hắn không bằng em đâu. Em đã ngăn những lời trao đổi của chúng ta, không để truyền qua hắn." Eragon nhăn nhó khi cái que thăm dò đâm sâu hơn, như một cây đinh xoáy qua sọ nó, để mò mẫm tìm kiếm thông tin. Gã hói thô bạo nắm bắt những kỷ niệm thời thơ ấu của nó, và bắt đầu tỉ mỉ sàng lọc. Eragon tức giận kêu lên với Saphira: "Tống hắn ra khỏi vùng đó, hắn không cần biết những chuyện này." "Như vậy rất nguy hiểm cho anh. Em chỉ có thể che giấu những gì hắn chưa lần tới. Lẹ đi, anh muốn giấu những gì, phải cho em biết trước." Eragon tập trung vào những ký ức từ khi tìm ra trứng rồng, nhưng giấu bớt một số lần bàn cãi với ông Brom, những buổi học cổ ngữ. Nó cũng bỏ qua vụ trộm hồ sơ tại Teirm, cái chết của ông già, những lời bói của Angela, chuyện gặp gỡ ma mèo, vụ nó ngồi tù tại Gil'ead, và sau cùng là thân thế của Murtagh. Nhưng Saphira bảo không nên che giấu sự thật về Murtagh, vì Varden có quyền được biết họ đang cưu mang ai. Eragon phải gắt lên: "Anh không thể là người lật mặt nạ kẻ khác, nhất là con người này. Cứ làm theo ý anh đi." Với hầu hết những thông tin quan trọng đã được che giấu, Eragon thoải mái chờ đợi gã không tóc hoàn tất kiểm tra. Nhiều phút chậm chạp trôi qua, gã hói đã nắm bắt được những điều Eragon tưởng không quan trọng: như chuyện về bà Selena, mẹ nó. Dường như hắn cố tình trĩ hoãn để kéo dài sự đau đớn của Eragon. Hắn dừng lại thật lâu quan sát những gì nó còn lưu giữ về Ra'zac và Tà Thần, trước khi rút ra khỏi tâm trí Eragon. Như có mảnh xương vụn vừa kéo mạnh ra khỏi đầu, Eragon rùng mình, lảo đảo, ngã lăn xuống. Một bàn tay mạnh mẽ đưa ra kịp đỡ và đặt nhẹ nó lên sàn. Tiếng Orik kêu lên: - Anh đi quá xa rồi đó. Nó đâu đủ sức chịu đựng như thế này? - Nó không chết được đâu. Chúng ta cần phải làm như vậy. Giọng Orik giận dữ hỏi: - Anh đã tìm thấy gì? Im lặng. - Sao, nó có đáng tin hay không? - Nó....không phải là kẻ thù của ông. Những tiếng thở dài nhẹ nhõm lan khắp phòng. Eragon mở mắt, gượng ngồi dậy. Orik choàng cánh tay rắn chắc giúp nó đứng lên. Gã hói quay qua Murtagh, mũi kiếm vẫn dí sát cổ anh: - Bây giờ tới lượt mi. Murtagh bướng bỉnh lắc đầu, mũi kiếm cứa một đường nhỏ làm máu chảy ròng ròng: - Không. Eragon đã tỏ ra rất thành thật rồi. Ông không giết cậu ấy để làm áp lực với tôi được nữa. Gã hói tức tối, thở hồng hộc: - Mi không có quyền lựa chọn nữa. Gã bước tới, đặt tay lên trán Murtagh, một tay nắm chặt cánh tay anh. Murtagh gồng mình, mặt rắn như đá, cơ cổ phòng lên. Anh chống lại bằng tất cả sức lực. Gã hói nhe răng giận dữ, bấu chặt vào Murtagh hơn. Eragon nhăn nhó, xót xa hỏi Saphira: "Em không thể giúp anh ta sao?" "Không, anh ta không để bất kỳ ai xâm nhập vào tâm trí đâu, kể cả em." Nhìn cảnh đó, Orik càu nhàu: - Ilf carnz orodum. Thôi, đủ rồi. Ông xông tới, nắm cánh tay gã hói quăng ra ngoài, với một sức mạnh trái ngược hẳn với thân hình bé nhỏ của ông. Gã hói giận dữ la lên: - Ông dám làm vậy sao? Đã mở cổng khi chưa được phép, bây giờ lại thêm vụ này, càng chứng tỏ là một kẻ hỗn láo và phản phúc. Ông tưởng đức vua của ông sẽ bảo vệ được ông sao? - Nếu chờ có lệnh, thì Urgals đã giết chêt họ rồi. Còn bây giờ, ta không có quyền tra tấn anh ta để lấy thông tin. Ajihad sẽ không tán thành chuyện đó. Nhất là sau khi anh kiểm tra thấy Eragon vô tội. Họ lại còn đem Arya về cho chúng ta. - Vậy thì ông để cho hắn được phép vào đây mà không phải qua thử thách? Chẳng lẽ ông khờ dại đến nỗi đặt tất cả chúng ta vào chuyện liều lĩnh đó sao? - Anh ta có phép thuật không? - Cái đó thì.... - Anh ta có thể sử dụng phép thuật không? - Không. - Vậy thì anh sợ gì? Anh ta không thể trốn khỏi đây, không thể làm được điều gì nguy hại với sự hiện diện của tất cả chúng ta, nhất là với sức mạnh của các anh, như anh vẫn nói. Nhưng đừng nghe tôi, hãy đến hỏi Ajihad xem ông muốn làm gì. Gã hói trừng trừng nhìn ông lùn đầy bí hiểm, rồi khoanh tay, nhắm mắt, ngửa mặt lên trần. Môi gã lẩm nhẩm không thành tiếng, những ngón tay nắm chặt như đang xiết cổ một kẻ thù vô hình. Nhiều phút trôi qua trong yên lặng, khi hắn mở mắt, không thèm ngó ngàng gì tới Orik, ra lệnh cho đám quân rút lui. Ra tới cửa, hắn quay lại Eragon: - Ta chưa hoàn tất cuộc kiểm tra, mi và....bạn mi sẽ ở lại đây đêm nay. Nó sẽ bị giết, nếu mi định chuồn khỏi đây. Khi cánh cửa khép lịa, Eragon thì thầm với Orik: - Cám ơn ông. - Để tôi đi nhắc chúng đem đồ ăn tới. Vừa nói ông vừa lắc đầu ra khỏi phòng. Tiếng then cửa lại nặng nề gài lại bên ngoài. Saphira tới gần Eragon: "Chúng ta phải rất thận trọng. Ở đây hình như cũng nhiều kẻ thù, chẳng thua gì khi chúng ta sống dưới ách triều đình." Murtagh ngả lưng vào tường nơi góc phòng, kéo áo chùi máu trên cổ. Eragon hỏi: - Anh không sao chứ? Chúng có moi được gì từ anh không? - Không. - Làm cách nào anh ngăn được hắn? Hắn rất mạnh. - Tôi đã...đã được huấn luyện rất tốt. Giọng anh ta có vẻ đắng cay khi thốt ra những câu trên. Hai người im lặng, trong khi Eragon lẩn thẩn ngắm mấy ngọn đèn, rồi nó chợt nói: - Tôi không cho hắn biết anh là ai. Murtagh có vẻ nhẹ nhõm, cúi đầu lẩm bẩm: - Cám ơn cậu đã không phản bội mình. - Hắn không nhận ra anh chứ. - Không. - Và anh vẫn nhận mình là con trai của Morzan? Murtagh thở dài, gật đầu. Eragon vừa định hỏi tiếp, chợt một giọng máu nóng rớt trúng bàn tay. Giật mình, Eragon ngẩng lên: giọt máu từ cánh Saphira. "Xin lỗi, anh quên là em bị thương. Để anh chữa cho." "Thận trọng. Anh đang mệt, dễ bị nguy hiểm lắm." "Anh biết, không sao đâu." Saphira xoè cánh trên sàn. Murtagh ngồi nhìn Eragon vuốt bàn tay trên từng vết tên bắn, miệng nói: "Waise heill" Rất may, những vết thương đều nằm trên phần màng cánh. Xong xuôi, Eragon lại quay qua Murtagh: - Vì sao anh lại ở đây? - Cái gì? - Nếu anh thật sự là con của Morzan, Galbatorix đâu để anh thoải mái lang thang khắp nơi như thế này. Lý do gì làm anh một mình đi tìm tụi Ra'zac? Vì sao tôi chưa từng nghe nói một phản đồ nào có con? Và....anh đang làm gì tại đây? - Đã khuya rồi, mà chuyện dài lắm. - Bây giờ chúng ta hồi không tại đây, ngày mai biết có thì giờ không? Murtagh khoanh tay lên gối: - Chuyện của tôi dài lắm. Theo tôi biết, tôi là đứa con trai độc nhất của mười ba công thần, hay là mười ba phản đồ như thiên hạ gọi. Có thể những phản đồ khác cũng có con mà tôi không biết. Vì họ rất có tài che giấu....Cha mẹ tôi gặp nhau, trong một chuyến cha tôi đi công cán, tại một ngôi làng nhỏ, tôi không biết nơi đó ở đâu. Morzan đã tỏ ra tử tế, chắc chỉ là một mánh khoé để chiếm lòng tin của mẹ tôi. Và khi ông ta rời khỏi làng, bà đã đi theo. Tất nhiên bà đã thương yêu Morzan sâu sắc. Còn ông ta mừng rỡ khám phá ra tình yêu mẹ tôi trao cho ông, không chỉ vì nó cho ông vô vàn dịp để hành hạ bà, mà còn vì ông nhận ra một điều, rất thuận lợi khi có một đầy tớ trung thành. Thế rồi, khi Morzan trở lại triều đình, mẹ tôi trở thành công cụ cho ông lợi dụng. Ông ta dạy bà một số phép thuật thô sơ, để bà có thể lẩn trốn hay moi móc tin tức của mọi người. Ông sử dụng bà làm người chuyển tin tức mật. Morzan tìm mọi cách để bảo vệ bà khỏi những phản đồ kia, không phải vì tình cảm thương yêu bà, nhưng vì e ngại, nếu có dịp, họ sẽ dùng mẹ tôi để chống lại ông. Suốt ba năm, tình trạng đó không có gì thay đổi, cho đến khi mẹ tôi mang thai. Murtagh ngừng lại một lúc, ngập ngừng rồi lắp bắp thật nhanh: - Cha tôi, không gì khác hơn là một con người quỉ quyệt. Ông biết cái thai sẽ đẩy cả ông và mẹ tôi vào đường nguy hiểm. Ông không hề quan tâm đến đứa trẻ....là tôi. Vì vậy, vào một đêm tối mịt mùng, ông đưa bà ra khỏi cung điện, đến một đồn lũy của ông. Ngay sau đó, ông hạ lệnh, ngòai một số người hầu tâm phúc, không một kẻ nào được vào lãnh địa đó. Bằng cách này, cái thai được giữ bí mật với tất cả mọi người, trừ Galbatorix. Galbatorix biết rõ từng chi tiết riêng tư trong đời sống của mười ba công thần, từ những mưu đồ, những cuộc tranh chấp của họ. Và quan trọng nhất là....tư tưởng họ. Nhà vua thích thú nhìn họ đấu tranh với nhau, khoái trá trong mua vui bằng cách nay giúp kẻ này, mai nâng đỡ người khác. Nhưng với một lý do thầm kín nào đó, ông ta không hề tiết lộ sự tồn tại của tôi. Sau khi ra đời, tôi được trao cho một người vú nuôi, để mẹ tôi lại trở về với Morzan. Ông ta cho phép bà được thăm tôi, mấy tháng một lần. Suốt ba năm như vậy, và chính trong thời gian này, ông ta đã...để lại vết sẹo này trên lưng tôi. Đáng lẽ tôi vẫn tiếp tục sống như vậy cho đến lúc trưởng thành, nếu Morzan không được lệnh đi xa để săn lùng trứng của Saphira. Ngay sau khi ông đi, mẹ tôi biến mất. Không ai biết bà đi đâu và tại sao. Nhà vua ra lệnh bắt, nhưng người của triều đình không tìm được dấu vết nào của bà. Chắc chắn bà đã sử dụng phép thuật Morzan từng truyền dạy để chạy trốn. Khoảng thời gian tôi được sinh ra, chỉ còn năm phản đồ sống sót. Khi Morzan lên đường tìm trứng Saphira, số phản đồ rút xuống còn ba. Họ đã chết vì nhiều lý do: bị phục kích, tự tử và vì quá lạm dụng phép thuật....nhưng hầu hết đều có bàn tay của Varden. Tôi nghe kể lại, nhà vua đã phẫn nộ điên cuồng vì những mất mát này. Tuy nhiên, trước khi được tin cha tôi và những người kia chết, mẹ tôi trở về sau nhiều tháng bặt tăm. Sức khoẻ bà tàn tạ, như mới vừa trải qua cơn bệnh nặng. Hai tuần sau, mẹ tôi chết. - Rồi...hoàn cảnh anh ra sao? Murtagh cười lớn: - Tôi lớn lên. Nhà vua đem tôi về cung điện, cho người nuôi dạy tôi tới trướng thành. Ngoài chuyện đó, ông ta để tôi yên một mình. - Vậy tại sao anh lại bỏ đi? - Bỏ đi? Trốn đi thì đúng hơn. Trong ngày sinh nhật cuối cùng, năm tôi mười tám tuổi. Nhà vua triệu tôi tới cung, dự bữa ăn riêng cùng ông. Tôi vô cùng kinh ngạc, vì tôi vẫn xa cách với triều đình và hiếm khi được gặp vua. Trước đó tôi cũng đã vài lần được chuyện trò với ông, nhưng chỉ lặt vặt mấy chuyện riêng tư của những gia đình quí tộc. Bữa ăn rất thịnh soạn, nhưng suốt buổi, đôi mắt đen của ông ta không rời khỏi tôi. Ông ta như muốn dò xét điều gì đó ẩn giấu trên mặt tôi. Tôi không biết làm gì hơn là cố gắng nói năng thật lễ độ. Nhưng ông ta không muốn chuyện trò. Cuối bữa ăn, ông mới lên tiếng. Cậu chưa bao giờ nghe ông ta nói, vì thế tôi thật không biết làm sao để cậu có thể hiểu được giọng nói của ông ta như thế nào. Giọng nói êm ru, luồn lách, như một con rắn thì thầm những lời vàng ngọc giả dối vào tai tôi. Giọng nói của một con người đáng sợ và đầy sức thuyết phục mà tôi chưa bao giờ được biết. Ông vẽ lên viễn ảnh của một đế quốc diệu kỳ: Thành thị nguy nga sẽ được dựng xây khắp nơi, tràn ngập nghệ nhân, nhạc sị, triết gia và những chiến sĩ tài ba. Tụi quái vật Urgals sẽ bị triệt hạ tận gốc. Đế quốc Alageasia sẽ được mở rộng mênh mông. Trăm họ sống trong hòa bình thịnh vượng. Nhưng kỳ diệu nhất là, Kỵ Sĩ sẽ được đưa trở lại cai quản những thái ấp êm đềm của nhà vua. Tôi như mê đi, lắng nghe ông ta nói hàng giờ. Khi nhà vua ngừng lại, tôi nôn nóng hỏi, làm cách nào để phục hồi Kỵ Sĩ, vì ai cũng biết làm gì còn có trứng rồng. Galbatorix trầm ngâm, lặng lẽ nhìn tôi. Một lúc lâu sau, ông giang hai tay, hỏi: - Ôi! Con trai của bạn ta, con sẽ phục vụ dưới trướng ta, cùng ta ra sức dựng xây thiên đường đó chứ? Dù tôi đã biết hật trường lịch sử gầy dựng uy quyền của ông ta và cha tôi, nhưng giấc mơ ông ta vẽ lên đầy cám dỗ, không thể nào từ chối nổi. Nhiệt tình lăn mình vào nhiệm vụ ngùn ngụt trong tôi. Tôi thề hiến cuộc đời cho ông. Vô cùng sảng khoái, nhà vua chúc phúc rồi cho tôi lui, với lời dặn dò: "Ta sẽ cho vời con khi cần đến." Mấy tháng sau, khi được triệu vào cung, lòng tôi lại sôi nổi như hôm đó. Chúng tôi lại gặp riêng như lần trước, nhưng nhà vua không tỏ ra vui vẻ, thân tình. Varden mới phá tan ba lữ đoàn triều đình tại miền nam, làm nhà vua phẫn nộ như điên. Ông gầm lên ra lệnh cho tôi đem quân tiếp viện, đi tiêu diệt Cantos, nơi thường có quân phiến loạn ẩn trú. Tôi hỏi sẽ phải làm gì với thường dân ở đó, và làm sao phân biệt kẻ có tội hay không. Ông ta lại gầm lên bằng giọng vô cùng khủng khiếp: "Tất cả chúng nó đều là quân phản trắc. Treo chúng lên, thiêu hết. Đem tro của chúng vùi trong phân súc vật." Ông ta tiếp tục khoa trương, nguyền rủa kẻ thù và cắt nghĩa kế họach sẽ trừng phạt vùng đất có những kẻ phạm thượng đó ra sao. Giọng điệu của ông ta khác hẳn với những gì tôi gặp lần trước. Nó làm tôi nhận ra con người này không có chút nhân từ, không thể thu phục nhân tâm. Ông ta chỉ cai trị bằng sức mạnh bạo tàn đầy tham vọng. Ngay lúc đó, tôi đã quyết định trốn khỏi ông ta và thủ đô Uru'baen mãi mãi. Ra khỏi cung điện, tôi và Tornac, người nô bộc trung thành, sửa soạn tẩu thoát ngay đêm đó. Bằng cách nào đó, Galbatorix biết trước việc làm của tôi. Các cửa thành đều đầy lính cản ngăn. Ôi, thanh kiếm của tôi đẫm máu, loang loáng dưới ánh đèn. Chúng tôi thoát khỏi thành, nhưng Tornac bị giết trong cuộc chiến. Một thân một mình, lòng đầy đau khổ, tôi chạy tới một người bạn cũ, người đó đã che giấu cho tôi. Trong thời gian trốn tránh, tôi nghe ngóng để tiên đoán hành động của Galbatorix và dự định cho tương lai tôi. Rồi có những lời đồn về việc tụi Ra'zac được phái đi bắt hay giết một người nào đó. Nhớ lại kế hoạch của nhà vua về Kỵ Sĩ, tôi quyết định đi tìm và theo dõi Ra'zac, có đúng chúng đã khám phá ra một trứng rồng không. Do đó mà tôi tìm ra cậu...Tôi không còn giữ bí mật điều gì với cậu nữa. Saphira cảnh giác: "Chẳng biết anh ta có nói dối không?" "Tại sao anh ấy phải nói dối chứ?" "Lỡ anh ta khùng khùng thì sao?" "Vớ vẩn." Eragon hỏi: - Vậy thì tại sao anh không gia nhập Varden? Có thể lúc đầu họ không tin tưởng, nhưng một khi anh chứng tỏ sự chân thành, họ sẽ nể trọng anh. Trên phương diện tinh thần, họ chẳng là đồng minh của anh sao? Vì họ đang ráng sức chấm dứt triều đại Galbatorix. Đó hẳn cũng là điều anh mong mỏi? - Tôi phải nói sao để cậu hiểu đây? Tôi không muốn Galbatorix biết nơi tôi ở, điều đó sẽ không tránh được thiên hạ cho rằng tôi đi theo phe kẻ thù của ông ta, một việc tôi không hề làm. Còn những...kẻ nổi loạn này không chỉ ráng sức lật đổ nhà vua, mà còn ráng hủy họai đất nước. Và tôi không muốn điều đó xảy ra. Điều đó là mầm mống của hỗn loạn, tan nát. Nhà vua có khuyết điểm, đúng. Việc lấy lòng tôn trọng của Varden đối với tôi? Ha ha! Ngay khi tôi lộ diện là ai, chúng sẽ coi tôi là một tên tội phạm, hay còn tệ hơn thế nữa. Không chỉ vậy, sự nghi ngờ sẽ đổ lên cả cậu, vì hai ta cùng đi với nhau. "Anh ấy nói phải đó." Saphira thì thầm. Eragon bảo: - Chắc không đến nỗi thế đâu. Tôi chắc là họ sẽ.... Nó ngưng bặt khi cánh cửa hé mở và hai bát đồ ăn được chuyền vào, tiếp theo là ổ bánh mì và một miếng thịt tươi. Sau đó cửa lại được đóng chặt lại. - Cuối cùng cũng được ăn đây. Murtagh nói, đi tới lấy đồ ăn, nhặt miếng thịt tung lên cho Saphira. Cô ả vươn cổ đớp, nuốt chửng luôn. Anh ta bẻ bánh mì chia cho Eragon, cầm bát đồ ăn lại một góc phòng ngồi. Lặng lẽ ăn xong, Murtagh nói gọn một câu: - Tôi ngủ. - Chúc ngủ ngon. Eragon nói xong, nằm xuống cạnh Saphira. Nó cuốn cái cổ dài quanh Eragon, như con mèo cuốn đuôi quanh mình, xoè một cánh che cho Eragon như tấm bạt màu xanh. "Chúc ngủ ngon, anh nhóc." Eragon mỉm cười lơ mơ ngủ. Thời đại huy hoàng của thành phố trong lòng núi Eragon ngồi bật dậy vì một tiếng càu nhàu vọng vào tai nó. Saphira vẫn ngủ li bì, mắt động đậy, môi trên rung rung như sắp nhe nanh, gầm gừ. Chắc cô ả đang mơ. Nó nhẹ nhàng lách khỏi cánh Saphira, đứng dậy vươn vai. Murtagh nằm nơi góc phòng, mắt vẫn nhắm, lên tiếng: - Chào. - Anh dậy lâu chưa? Mấy giờ rồi? - Tôi cũng mới dậy. Ở đây chẳng biết giờ giấc là gì. Hai người lặng lẽ ngồi bên nhau. Eragon cảm thấy gắn bó với Murtagh lạ lùng. Nó nhủ thầm, mình đang giữ thanh kiếm, đúng ra là di sản của cha anh ta để lại. Mình và Murtagh có rất nhiều điểm giống nhau, dù có những quan điểm và được giáo dục hoàn toàn khác nhau. Nghĩ đến vết sẹo trên lưng Murtagh, nó rùng mình. Sao lại có người cha tàn nhẫn thế? Saphira ngẩng cao đầu, chớp chớp mắt, rồi ngoác mồm ra ngáp. Nó bảo Eragon: "Hy vọng hôm nay họ cho ăn khá khá một chút, chứ hôm qua chỉ đủ cho em táp đúng một miếng. Đói đến có thể ăn hết một bầy bò." Nó đủng đỉnh đến gần cửa chờ bữa ăn. Eragon loanh quanh chán, đến ngắm nghía cây đèn. Đó là một khối thủy tinh lớn bằng hai trái chanh, hình giọt lệ, bên trong chứa một nguồn sáng xanh dịu. Bốn sợi dây kim loại thắt từ đáy lên đỉnh, tạo thành một cái móc. Ngay lúc đó có tiếng người nói bên ngoài, rồi cửa mở. Mười hai chiến binh bước vào phòng, tiếng theo là ông lùn Orik và gã hói đầu. Gã lên tiếng: - Các người được thủ lĩnh Ajihad gọi tới. Nếu cần ăn, thì vừa đi vừa ăn. Eragon đứng sát Murtagh, lo lắng hỏi: - Ngựa của chúng tôi đâu? Tôi muốn lấy lại kiếm và hành lý nữa. - Vũ khí của các ngươi sẽ được thủ lĩnh trao lại khi thích hợp. Ngựa đang chờ các ngươi trong đường hầm. Đi thôi. - Arya khỏe chưa? - Ta không biết. Các thầy thuốc đang săn sóc cô ấy. Hắn ra khỏi phòng, Orik theo sau. Một chiến binh chỉ Eragon đi đầu, rồi tới Saphira và Murtagh. Họ trở lại hành lang đêm qua, ngang tượng con vật kỳ dị. Tới đường hầm lớn, gã đầu hói và Orik đang chờ sẵn với Hỏa Tuyết và Tornac. Gã đầu hói ra lệnh: - Đi hàng một, giữa đường hầm. Kẻ nào ra khỏi hàng sẽ bị chặn lại ngay. Cưỡi ngựa, không được cưỡi rồng, cho đến khi có lệnh của ta. Orik và gã đầu hói đi đầu, rồi lần lượt đến Eragon cưỡi Hỏa Tuyết, Saphira theo sau, tới Murtagh cưỡi Tornac. Chiến binh chia làm hai toán, đi hai bên, cách xa đủ chỗ cho thân hình dềnh dàng của Saphira. Kiểm soát đội hình xong, gã hói vỗ tay hai lần ra lệnh tiến bước. Cả đoàn tiến sâu vào lòng núi. Tiếng chân người, ngựa vọng vang trong con đường hầm vắng vẻ. Trên tường hầm nhẵn bóng, thỉnh thoảng lại xuất hiện những cánh cửa đóng im ỉm. Eragon ngẩn người nhìn con đường hầm sâu hun hút. Sàn, tường, trần không một vết trầy xước. Trên đường đi, Eragon đoán họ đưa nó và Murtagh tới ra mắt Ajihad, lãnh tụ của Varden. Một con người đầy bí ẩn đối với người dân sống trong đế quốc Alageasia, nổi lên từ gần mười năm nay, và đã tạo ra những cuộc chiến gây khốn đốn cho vua Galbatorix. Không ai biết ông ta từ đâu tới, mặt mũi như thế nào. Theo lời đồn, ông ta là một bậc thầy chiến lược và cũng là một chiến binh tàn bạo. Nghĩ đến những tiếng tăm đó, Eragon lo lắng, không biết ông ta sẽ đối xử với anh em nó ra sao đây. Nhưng, nhớ lại ông Brom có thể tin tưởng Varden và phục vụ họ, nó cũng bớt sợ. Nhìn Orik, trong trí nó lại nẩy sinh nhiều nghi vấn. Đường hầm này chắc chắn được tạo ra do người lùn - không ai có tài năng đào hầm như họ - nhưng người lùn là một phần tử của Varden hay họ chỉ được cho trú ẩn tại đây? Đức vua mà Orik nhắc tới là vua nào? Có phải chính là Ajihad? Bây giờ Eragon đã biết sào huyệt của Varden là dưới lòng đất, nhưng còn thần tiên ở đâu? Gần một tiếng đồng hồ, gã hói dẫn đoàn người đi thẳng, không hề ngừng lại cũng không rẽ nơi nào. Eragon nhận xét: "Chúng đưa ta đi ít nhất cũng cả dặm rồi, chắc đi xuyên qua núi." Sau cùng một nguồn sáng dịu hiện ra phía trước, càng lại gần ánh sáng càng mạnh hơn. Lúc này, Eragon đã có thể nhìn thấy dọc theo bờ tường, những hàng cột đá cẩm thạch cao, viền ngọc màu tím và hồng. Dưới chân cột viền bằng vàng. Cuối hành lang, hai cánh cửa khổng lồ màu đen nổi bật những đường nét bằng bạc, kết thành một vương miện có bảy nhánh nhọn. Gã hói ngừng lại, đưa tay lên nói: - Bây giờ mi bắt đầu cưỡi rồng. Đừng giở trò bay. Có nhiều người chờ xem, vì vậy mi phải nhớ mi là gì, và là ai. Eragon xuống ngựa, leo lên yên Saphira. "Em nghĩ họ tính đem chúng mình ra biểu diễn." "Chờ xem sao. Ước gì anh có thanh Zar'roc." "Lần đầu tiên Varden thấy anh, anh không nên đeo thanh kiếm của Morzan lại hay hơn." "Đúng vậy." Rồi Eragon bảo: - Tôi sẵn sàng rồi. - Tốt. Gã hói nói xong, cùng Orik đứng dạt sang hai bên, để Saphira dẫn đầu, dặn dò thêm: - Tiến tới của, khi cửa mở, từ từ tiếp tục đi theo con đường. Chậm thôi. Bộ vảy của Saphira tỏa ra những đốm sáng long lanh nhảy nhót trên những cột cẩm thạch. Eragon hít thật sâu lấy bình tĩnh. Thình lình hai cánh cửa hé mở. Một tia sáng rọi vào đường hầm, ngay chỗ Eragon và Saphira. Bớt chói mắt, Eragon bàng hoàng gần nghẹt thở. Nó đang ở trong lòng chảo khổng lồ của một miệng núi lửa. Vách bao quanh vươn lên, hẹp dần thành một lỗ hổng trên một độ cao, Eragon thầm đoán, chắc phải tới mười dặm. Nguồn sáng dìu dịu xuyên qua lỗ hổng này. Nhưng chỉ chiếu sáng giữa lòng chảo, còn chung quanh ánh sáng lờ mờ. Lòng chảo kéo dài, tới điểm không còn nhìn rõ nữa, khoảng hơn chục dặm. Những cột nước đá khổng lỗ, dày mấy chục thước, dài hàng ngàn thước treo trên cao, trông như những lưỡi dao lóng lánh. Eragon nghĩ, không ai, kể cả Saphira có thể lên tới được điểm cao đến thế. Phía dưới, vách đá lại phủ đầy rong rêu. Từ bực cửa mở ra, một con đường rộng lát đá, trải dài tới giữa lòng chảo. Cuối cùng là một quả núi tuyết như một viên ngọc nguyên khối, lấp lánh muôn màu sắc. Orik nói nhỏ với Eragon: - Nhìn kỹ đi, vì hơn một trăm năm qua không có một Kỵ Sĩ nào ngắm cảnh này. Đỉnh núi chúng ta đang đứng trong lòng đây, chính là Farthen - Dur, do Korgan, ông tổ của dòng giống ta khám phá từ nhiều ngàn năm trước, khi ông đào hầm để tìm vàng. Nổi bật lên tại trung tâm là một công trình vĩ đại: Đó là Trojheim, thành phố núi, xây dựng toàn bằng đá cẩm thạch thuần khiết. Hai cánh cửa rít lên mở hẳn. Trước đường hầm, cả một biển người chen chúc hai bên lối đi. Hàng trăm....ngàn người, tất cả đều dồn mắt vào Eragon. Và tất cả đều yên lặng. Eragon nắm chặt gai cổ Saphira. Nó nhìn những đứa trẻ áo quần dơ bẩn, những người đàn ông lam lũ, những người đàn bà trong những bộ váy áo tự cắt may, chen chúc bên những người lùn đang lặng lẽ vuốt râu. Tất cả họ đều có cái vẻ căng thẳng của những con thú bị thương, hết còn đường trốn chạy trước một tay săn bắn tiến lại gần. Một giọt mồ hôi lăn trên mặt, nhưng nó không dám đưa tay lên chùi. "Anh phải làm gì đây, Saphira?" "Mỉm cười, đưa tay lên." Eragon ráng cười như....mếu. Lấy hết can đảm, nó đưa tay, ngọ ngọay như vẫy chào. Tất cả đều êm ru. Eragon ngượng đỏ cả mặt. Bỗng một tiếng hoan hô phá tan bầu im lặng. Một số vỗ tay theo. Qua một giây bối rối, tiếng hoan hô cuồng nhiệt vang lên và đám đông xô đến Eragon. Gã hói gật gù lên tiếng: - Tốt. Bắt đầu tiến ra đi. Eragon yên tâm ngồi thẳng lên. Saphira vươn cổ, cất bước. Khi qua dãy người đầu tiên, cô nàng duyên dáng liếc hai bên, phì ra chút khói. Đám đông giật mình lùi lại, tiếng hoan hô sôi nổi hẳn lên. Eragon trêu chọc: "Điệu quá vậy?" Saphira tỉnh bơ biểu diễn màn ve vảy cái đuôi. Trong khi Saphira từ từ lướt qua, Eragon bỗng chú ý đến một đám đang xô lấn, nhiều người lùn đứng chung trong đám này hơn, và nhiều người trong số họ trừng trừng nhìn nó đầy tức giận. Thậm chí có người, mặt đanh lại, quay đi. Eragon thấy đàn ông tại đây đều có vẻ khắc khổ, ai cũng đeo kiếm hoặc dao găm. Đàn bà vừa kiêu hãnh vừa như che giấu một nỗi buồn lo sâu sắc. Trẻ con, cả những đứa còn phải bế, thô lố mắt nhìn Eragon. Nó cảm thấy những con người này chắc phải làm việc rất vất vả và họ sẽ làm bất cứ điều gì có thể, để tự bảo vệ. Nơi trú ẩn của Varden thật tuyệt vời. Rồng cũng không thể bay cao tới Farthen- Dur và không đoàn quân nào có thể phá vỡ núi đá, xuyên tới lối vào. Đám đông theo sau, dần dần yên lặng lại, chỉ chăm chú nhìn Eragon. Nó quay lại, thấy mặt Murtagh tái nhợt. Gàn tới thành phố núi. Eragon ngẩn ngơ nhìn Tronjheim bằng cẩm thạch trắng bóng, hình dáng mềm mại nhịp nhàng, như đổ khuôn trên mặt đá. Những cửa sổ tròn chạm trổ cầu kỳ. Mỗi cửa sổ đều tỏa một làn ánh sáng nhẹ nhàng từ một cây đèn nhỏ. Không nhìn đâu thấy khói bếp. Hai bên cổng gỗ đồ sộ, hai con sư tử đầu chim bằng vàng, cao mười thước, khắc sâu vào đá. Qua cổng Tronjheim, những cột cẩm thạch, vân đỏ như máu, song song bên những bức tường. Giữa những cây cột là những bức tượng của những sinh vật kỳ dị tạc bằng đá. Những sợi xích được giấu kín, từ từ mở rộng cánh cổng nặng nề, đưa vào đại sảnh. Một con đường bốn tầng chạy thẳng tới trung tam Tronjheim. Ba tầng trên tách ra thành nhiều đường có mái che, dẫn vào những đường hầm. Dân chúng chen chúc đông nghẹt trên khắp ba tầng để nhìn Saphira và Eragon. Nhưng dưới tầng trệt, lối vào những con đường mái vòm, đều đóng cửa kín mít. Giữa các tầng, treo đầy những bức thảm thêu hình ảnh các vị anh hùng và những trận chiến khốc liệt. Tiếng hoan hô vang dội khắp nơi. Eragon vẫy tay chào, làm nổi lên một làn sóng cổ vũ rầm rầm, náo nhiệt hơn. Tuy nhiên nhiều người lùn vẫn hoàn toàn im lặng. Lối đi dài cả dặm kết thúc trước một mái vòm giữa hai cột mã não đen. Trên đầu cột phủ khối ngọc vàng, tỏa những tia sáng vàng xuống khắp đại sảnh. Đây là một gian phòng hình tròn, đường kính cả ngàn thước, chiều cao hẹp dần, hun hút tới đỉnh Tronjheim. Sàn làm bằng mã não hồng bóng lộn, trải rộng trên mặt sàn hình ảnh một cái búa với mười hai ngôi sao bạc, giống dấu hiệu trên nón sắt của ông lùn Orik. Gian phòng này liên kết với bốn hành lang, kể cả hành lang họ vừa đi qua, chia Tronjheim thành nhiều khu. Các hành lang đều giống nhau, trừ hành lang trước mặt Eragon. Hai bên hành lang này là hai đường mái vòm dẫn xuống hai cầu thang uốn cong xuống lòng đất. Trên trần gắn một khối ngọc đỏ thẫm hình ngôi sao khổng lồ. Trên bề mặt của khối ngọc, chiều ngang và bề dày đều khoảng hai mươi thước đó, được khắc một đóa hồng nở tung cánh, sống động như thật. Một dây đèn được kết chung quanh, chiếu những tia sáng xuống tất cả mọi vật bên dưới. Khối ngọc như một con mắt khổng lồ nhìn xuống mọi người. Eragon há hốc mồm kinh ngạc. Nó không thể nào tưởng tượng nổi cảnh này. Dường như không thể tin nổi đây là công trình của con người. Không có gì tại đế quốc Alageasia có thể so sánh với thành phố trong lòng núi này. Thậm chí thủ đô Uru'baen cũng không thể bì nổi với vẻ hùng tráng giàu sang của Tronjheim. Tronjheim là đài lưu niệm làm người ta phải choáng váng vì sức lực và sự kiên gan bền chí của người lùn. Gã hói đến trước Saphira, bảo Eragon: - Từ đây, hai ngươi phải đi bộ. Một người lùn đến dắt Hỏa Tuyết và Tornac đi ngả khác. Eragon xuống đứng cạnh Saphira, rồi gã hói hướng dẫn họ đi qua mặt sàn mã não hồng, vào đường mái vòm bên phải. Đi chừng trăm bước, tới một hành lang nhỏ hơn, sau bốn lần rẽ, tới một cánh cửa gỗ bách hương đen bóng, gã hói mở cửa để Eragon, Saphira và Murtagh bước vào. Ajihad, thủ lĩnh Varden Eragon bước vào một thư phòng hai tầng sang trọng, được ngăn cách bởi những kệ đầy sách. Một cầu thang xóay dẫn lên ban công nhỏ, có hai cái ghế và một cái bàn. Từ trần tới vách tường đều treo đèn trắng, nên chỗ nào trong phòng cũng đủ ánh sáng để đọc. Một tấm thảm bầu dục phủ trên sàn đá. Cuối phòng, một người đàn ông đứng sau bàn làm việc. Da mặt ông ta đen bóng như dầu mun, đầu cạo nhẵn thín, râu và ria mép tỉa ngắn. Đôi mắt cương nghị, thông minh. Khoác trên đôi vai rộng, mạnh mẽ là một tấm áo vét đỏ, thêu bằng vàng. Bên trong là một sơ mi màu tía. Từ ông toát ra một vẻ đầy uy nghi của một cấp chỉ huy. Giọng ông mạnh và quả quyết: - Đón chào Eragon và Saphira tới Tronjheim. Ta là Ajihad. Mời ngồi. Eragon rón rén ngồi lên cái ghế kế bên Murtahg. Saphira ngồi sau nó như để bảo vệ. Ajihad búng ngón tay. Một người tiến ra từ sau cầu thang xoáy. Trong hắn giống hệt gã đầu hói đang đứng bên ông ta. Thấy Eragon ngạc nhiên nhìn hai gã, Ajihad nói: - Cháu ngạc nhiên lắm hả? Họ là hai anh em sinh đôi. Đúng ra ta phải giới thiệu tên, nhưng họ không có tên. Saphira khó chịu khịt khịt mũi. Ajihad nhìn nó một lúc rồi dựa lưng vào ghế. Cặp sinh đôi trở lại gầm cầu thang, đứng trơ trơ bên nhau. Ajihad chăm chú nhìn Eragon và Murtagh một lúc lâu, rồi ra dấu về phía cặp sinh đôi. Một gã tiến lại. Ông ghé tai hắn thì thầm. Gã đầu hói bỗng tái mặt, lắc đầu lia lịa. Ajihad nhăn mặt gật đầu, như tin chắc một điều gì. Rồi ông nhìn Murtagh, nói: - Việc cậu từ chối kiểm tra, đặt ta vào một hoàn cảnh khó xử. Cậu được phép vào Farthen Dur là vị cặp song sinh bảo đảm với ta là kiểm soát được cậu và cũng vì những hành động của cậu đã giúp Eragon và Arya. Ta hiểu có thể cậu có những điều muốn giữ riêng trong lòng, nhưng chừng nào cậu còn làm vậy, thì chúng ta vẫn không thể tin cậu được. Murtagh nói: - Dù sao thì các ông cũng vẫn sẽ không tin tôi. Mặt Ajihad chợt tối sầm, mắt long lên thật đáng sợ: - Dù hơn hai mươi năm rồi, ta vẫn nhận ra giọng nói này. Tuy đó là giọng của một kẻ khác, một con ác thú chứ không phải con người. Đứng dậy. Murtagh lo lắng nhìn cặp sinh đôi, rồi lại nhìn Ajihad. Ông ta ra lệnh: - Cởi áo ra. Quay lưng lại. Khi Murtagh xoay người, ánh sáng soi rõ vết sẹo trên lưng. Orik sửng sốt kêu lên. Ajihad quay phắt lại cặp sinh đôi, gầm lên như sấm: - Murtagh hả? Các mi có biết cái này là gì không? Cả hai cúi đầu lắp bắp: - Chúng tôi khám phá ra tên này qua tiềm thức của Eragon, đâu ngờ thằng này là con trai của phản đồ Morzan... Ajihad đưa tay không cho nói hết, bảo: - Ta sẽ bàn chuyện này sau. Quay lại Murtagh: - Trước hết phải giải quyết cho xong vụ này. Sao, mi vẫn từ chối thẩm vấn? - Đúng. Tôi không để ai xâm nhập được vào đầu tôi. - Nếu thế sẽ gây những hậu quả không vui đâu. Trừ khi cặp sinh đôi chứng minh được mi không phải là mối đe dọa nơi này, chúng ta mới có thể tin tưởng mi, cho dù mi đã từng giúp đỡ Eragon. Nếu không thể chứng minh mi thành thật, vô hại thì những người ở đây, kể cả người lùn, sẽ xé xác mi ra từng mảnh, khi họ biết sự có mặt của mi. Ta bắt buộc phải bảo vệ mi cẩn mật, vì an toàn của mi và của cả chúng ta. Nhưng nếu Hrothgar, vua người lùn, đòi tống mi vào tù, tình hình sẽ thê thảm hơn. Đừng tự đẩy mình vào hoàn cảnh khó khăn đó, khi còn có thể tránh được. - Không. Vì dù tôi chịu khuất phục, tôi vẫn sẽ bị đối xử như một thằng cùi hủi, tứ cố vô thân. Tôi chỉ mong rời khỏi nơi này. Nếu ông cho phép tôi yên ổn ra đi, sẽ không bao giờ tôi tiết lộ với triều đình. - Chuyện gì sẽ xảy ra nếu mi bị bắt và đem đến trước mặt Galbatorix? Lão ta sẽ moi móc tất cả những gì trong đầu mi, cho dù mi mạnh mẽ đến cỡ nào cũng không thể chống trả lại nổi. Mà cho dù mi có thể chống trả, làm sao ta có thể tin mi không liên kết với lão trong tương lai? - Ông định bắt tôi làm tù nhân suốt đời sao? - Không, chỉ đến khi mi đồng ý để kiểm tra. Nếu cặp sinh đôi thấy được sự chân thành của mi và xóa bỏ hết ký ức về Farthen Dur này trong đầu mi, mi sẽ được ra đi. Sao, Murtagh, quyết định mau đi. Nếu không chúng ta phải chọn cho mi một con đường khác. Eragon lo lắng cho sự an toàn của Murtagh, thầm thúc dục: "Nhận lời đi, không tranh đấu nổi đâu." Sau cùng Murtagh chậm rãi nói thật minh bạch: - Tâm trí tôi là một chốn thâm nghiêm, không để ai xâm chiếm. Đã từng có nhiều kẻ cố gắng làm điều đó, nhưng tôi đã được học để bảo vệ bằng cả sức mình, vì tôi chỉ được an toàn với tâm trí của chính tôi. Ông đòi hỏi những điều tôi không thể nào ưng thuận được. Quay qua cặp sinh đôi, anh nói: - Hãy làm những gì các ngươi phải làm. Nhưng nên nhớ một điều, cái chết sẽ đem ta đi trước khi các ngươi có thể khai thác được điều gì. Mắt Ajihad sáng lên niềm ngưỡng mộ: - Ta không ngạc nhiên vì quyết định của mi, dù ta đã mong một điều ngược lại. Lính gác đâu. Cửa mở, mấy tên lính tiến vào. Ajihad chỉ Murtagh: - Đem anh ta vào một phòng không cửa sổ và chốt cửa ra vào thật kỹ. Đặt sáu tay gác thường trực, không được chuyện trò gì với anh ta, không cho bất cứ kẻ nào vào phòng, cho tới khi đích thân ta đến. Nhìn Murtagh đi theo mấy tên lính, Eragon mấp máy môi: "Mình xin lỗi." Murtagh nhún vai ra đi. Ajihad bỗng nói: - Tôi muốn tất cả ra khỏi phòng, trừ Eragon và Saphira. Cặp song sinh cúi đầu đi ra, nhưng Orik lên tiếng: - Thưa ngài, đức vua sẽ muốn được biết về Murtagh. Và còn vấn đề tôi bất tuân thượng lệnh..... Ajihad nhăn mặt phẩy tay: - Tôi sẽ nói với nhà vua. Còn chuyện của ông, đợi bên ngoài, chờ tôi gọi. Bảo cặp sinh đôi chờ luôn, tôi chưa xong việc với chúng đâu. Một lúc lâu sau, Ajihad thở dài mệt mỏi. ông vuốt mặt, ngửa nhìn lên trần. Eragon rụt rè hỏi: - Arya khoẻ chưa ạ? - Chưa, nhưng các thầy thuốc cho biết cô ấy sẽ hồi phục. Họ săn sóc cho cô suốt đêm. Thuốc độc mạnh quá, không có cháu, Arya chắc không sống nổi. Vì vậy Varden rất mang ơn cháu. Vậy là nàng không chết. Eragon cảm thấy nhẹ lòng, lần đầu tiên nó cảm thấy công lao vất vả suốt dọc đường từ Gil'ead đã không hoài phí. Ajihad nói: - Ta cần được biết cháu đã khám phá ra Saphira như thế nào, và tất cả những gì xảy ra sau đó. Qua thư của Brom và báo cáo của cặp song sinh, ta được biết vài điều, nhưng ta muốn chính cháu nói ra, nhất là những chi tiết liên quan tới cái chết của ông Brom. Eragon ngại ngùng phải bộc bạch với một người xa lạ, nhưng ông kiên nhẫn ngồi chờ, và Saphira thúc dục: "Nói đi." Eragon bắt đầu kể. Ajihad chăm chú lắng nghe. Khi kể những việc xảy ra ở Teirm, nó giấu chuyện Angela đoán tương lai cho nó. Nói đến đoạn mơ thấy Arya và gặp Tà thần tại Gil'ead, nó thấy mặt Ajihad tối lại, mắt như mờ đi. Kể xong, Eragon im lặng chìm ngập trong những kỷ niệm đã trôi qua. Ajihad đứng dậy, hai tay nắm sau lưng. Ông lơ đãng nhìn kệ sách. Một lát sau, ông trở lại bàn: - Cái chết của ông Brom quả là một mất mát không gì bù đắp được. Ông vừa là một người bạn thân thiết vừa là một đồng minh tài trí, can trường. Ngay đến lúc này, dù đã ra đi, ông đã cung cấp cho chúng ta một điều, có thể dẫn dắt tới thành công. Đó là...cháu. - Nhưng ông muốn cháu làm gì? - Ta sẽ cho cháu biết tất cả. Nhưng có vấn đề cần phải đề cập trước tiên. Tin tức về Urgals liên kết với triều đình là chuyện cực kỳ quan trọng. Nếu Galbatorix đang tụ tập quân Urgals để tiêu diệt chúng ta, sẽ là một áp lực rất lớn cho sự sống còn của Varden, mặc dù chúng ta có nhiều người bảo vệ tại Farthen Dur này. Là một Kỵ Sĩ, dù là một Kỵ Sĩ cùng hung cực ác, Galbatorix cũng phải biết rằng, gắn bó với lũ quái vật đó quả là một hành động điên rồ. Ta lạnh cả người khi nghĩ: lão ta hứa hẹn phần thưởng gì để đáp lại lòng trung thành bất thường này của lũ quái vật kia. Lại còn chuyện Tà Thần nữa. Cháu thử tả cho ta nghe. - Cao, gầy, rất xanh xao, mắt và tóc đỏ lòm. Hắn mặc toàn một màu đen. - Kiếm của nó thế nào, cháu thấy không? Có vết trầy xước nào không? - Có vết trầy dài. Sao ông biết? - Vì chính do ta gây nên, khi cố đâm vào tim nó. Tên nó là Durza, một con quỉ tàn ác, ghê tởm nhất trên mặt đất này. Nó là đầy tớ tuyệt đối trung thành của Galbatorix và là kẻ thù nguy hiểm của chúng ta. Cháu bảo đã giết nó? Bằng cách nào? - Không phải cháu, anh Murtagh bắn nó hai mũi tên. Một trúng vai, một ngay giữa hai mắt. - Ta đã đoán đúng. Nó chưa chết. Tà Thần chỉ bị tiêu diệt khi bị vũ khí đâm suốt qua tim. Bất cứ vết thương nào nông hơn, chỉ làm nó biến đi, để rồi xuất hiện lại trong một hình thức yêu ma khác. Đó là giai đoạn thay hình đổi dạng cam go của nó, nhưng nó sẽ hồi sinh và trở nên mạnh mẽ hơn trước rất nhiều. Im lặng bao trùm hai người cho đến khi Ajihad lặng lẽ tiếp: - Eragon, cháu là một điều bí ẩn, một câu đố không ai biết cách giải. Mọi người đều biết Varden, hay Urgals, hoặc ngay cả Galbatorix muốn gì, nhưng không ai biết cháu muốn gì. Và đó chính là điều làm cháu trở thành nguy hiểm, nhất là đối với Galbatorix. Lão sợ cháu, vì không biết cháu sẽ làm gì tiếp theo. - Varden có sợ cháu không? Ajihad thận trọng nói: - Không, chúng ta chỉ tràn trề hy vọng. Nhưng nếu sự hy vọng đó chứng tỏ chỉ là sự lầm lẫn, thì lúc đó....có, chúng ta sẽ sợ. Cháu phải nhìn rõ hoàn cảnh khác thường của cháu hiện nay. Nhiều phe phái muốn cháu chỉ phục vụ cho mục đích của riêng họ thôi. Ngay từ giây phút cháu bước vào Farthen Dur, họ bắt đầu dùng ảnh hưởng và uy quyền hầu lôi kéo cháu. - Kể cả những người của ông? - Kể cả những người của ta. Có nhiều chuyện cháu cần phải biết: thứ nhất, vì sao trứng của Saphia lại bất ngờ xuất hiện trong rừng núi Spine. Brom đã cho cháu biết chưa? - Chưa. Eragon trả lời, liếc nhìn Saphira đang chớp mắt lắng nghe. - Ngay từ ngày đầu tiên, khi Brom đem trứng về cho Varden, mọi người đều rất quan tâm đến số phận của quả trứng. Vì chúng ta ngỡ rằng trứng rồng đã bị hủy diệt hết rồi. Người lùn chỉ quan tâm, làm sao để biết chắc Kỵ Sĩ tương lai phải là một đồng minh. Tuy nhiên, cũng có những người lùn phản đối có một Kỵ Sĩ mới. Còn Thần Tiên và Varden quan tâm đến vấn đề ứng viên để trở thành Kỵ Sĩ hơn. Lý do thật đơn giản: xuyên suốt lịch sử Kỵ Sĩ, tất cả Kỵ Sĩ đều là người thường hay thần tiên. Đa số là thần tiên. Chưa hề bao giờ có một Kỵ Sĩ lùn. Vì vụ mười ba phản đồ và Galbatorix, thần tiên rất e ngại bất kỳ ai trong nhóm Varden giữ trứng, họ sợ con rồng trong trứng sẽ chọn và nở ra nhằm một kẻ bất lương, tráo trở như đám phản đồ kia. Tình trạng trở nên căng thẳng nghiêm trọng, vì cả hai phe đều muốn Kỵ Sĩ tương lai phải là người của họ. Người lùn còn làm vấn đề trở nên nặng nề hơn: họ dai dẳng đặt câu hỏi với cả hai phe, bao giờ họ mới có dịp được có ứng viên làm Kỵ Sĩ. Tình trạng kéo dài với những đe dọa mà sau này tất cả đều ân hận. Đến lúc đó, chính ông Brom đưa ra một giải pháp để tất cả các phe phải đều không bị bẽ mặt. Brom đề nghị trứng sẽ được luân chuyển mỗi năm giữa Varden và Thần Tiên. Tại mỗi nơi, trẻ con sẽ được xếp hàng lần lượt đi qua quả trứng rồng, dưới sự giám sát của những người canh giữ. Nhưng nếu trứng nở, việc tập luyện cho Kỵ Sĩ mới sẽ được quyết định cấp kỳ. Vì năm thứ nhất, cậy hay cô bé đó sẽ do Brom huấn luyện tại đây. Sau đó mới được chuyển đến với thần tiên để hoàn tất chương trình. Thần tiên miễn cưỡng chấp nhận đề nghị đó với một điều kiện: nếu Brom chết trước khi trứng nở, họ sẽ có toàn quyền huấn luyện Kỵ Sĩ mới, không ai được can thiệp vào. Sự thỏa thuận này rất có lợi cho họ, vì ai cũng biết, rồng thường thích chọn thần tiên hơn. Ajihad ngừng lại một lúc, rồi buồn rầu tiếp: - Ai cũng nuôi hy vọng vào một Kỵ Sĩ mới sẽ đem hai nòi giống lại gần nhau hơn. Nhưng cả thập kỷ trôi qua, trứng vẫn không chịu nở. Mọi người như không còn nhớ đến nữa, chỉ đôi khi than thở quả trứng quá chai lì. Rồi năm ngoái, chúng ta lại phải chịu đựng mất mát quá lớn, cả Arya và trứng rồng đều biến mất, trên đường trở về từ Tronjheim tới thành phố thần tiên Osilon. Chính thần tiên đã tìm thấy con chiến mã và hai tử thị cận vệ của Arya, gần đống xác Urgals. Nhưng không thấy trứng rồng và Arya đâu. Như vậy chẳng bao lâu chúng sẽ biết căn cứ Farthen Dur và hoàng cung Ellesmera của thần tiên, nơi Nữ Hoàng Islanzadi đang ở. Nhưng bây giờ, biết được sự cấu kết giữa chúng và triều đình, ta lại càng lo ngại hơn. Chúng ta không biết chính xác chuyện gì xảy ra cho đến khi Arya tỉnh lại. Nhưng chắc chắn đó phải là một cuộc tấn công bất ngờ, chớp nhoáng, đến nổi Arya không kịp tẩu thoát và chỉ còn một cách sử dụng phép thuật chuyển trứng rồng tới một nơi nào khác. - Nàng biết phép thuật sao? Rồi nó nhớ lại Arya đã bảo, nàng bị ép uống một thứ thuốc để làm giảm sức lực. Giờ nó biết là nàng nói về phép thuật. Ajihad trả lời: - Chính vì nàng giỏi phép thuật nên mới được chọn để bảo vệ trứng rồng. Tuy nhiên, vì ở quá xa, Arya không thể chuyển trứng về tận đây, còn giới tuyến vương quốc thần tiên lại có một hệ thống bảo vệ kỳ bí, không để bất cứ vật gì bằng phép thuật có thể vượt qua được. Arya đành phải nghĩ đến Brom, và trong cơn tuyệt vọng, nàng chuyển trứng về Carvahall. - Tại sao nàng lại ở gần thung lũng Palancar hơn chỗ ở của Varden? Thật sự thì thần tiên ở đâu? Hoàng cung Ellesmera ở nơi nào? Ajihad đắn đo, rồi quyết định: - Đáng lẽ ta không được cho cháu biết, thần tiên rất nghiêm khắc trong vấn đề này, nhưng vì cháu cần phải biết và ta nói ra cũng là để chứng tỏ sự chân thành của ta. Các thành phố của họ nằm rất xa về phương bắc, sâu thẳm trong vùng rừng bạt ngàn Du Weldenvarden. Kể từ sau thời đại Kỵ Sĩ, cả chúng ta và người lùn đều không đủ độ tin cậy để bước chân vào những con đường khuất nẻo trong rừng cây của họ. Chính ta cũng không thể tìm ra hoàng cung Ellesmera. Còn Osilon...nằm đâu đó nơi Arya đã bị mất tích. Ta ngờ là nó ở phía tây Du Weldenvarden, về hướng Carvahall. Sau khi Arya biến mất, thần tiên không ủng hộ chúng ta nữa. Nữ hoàng Islanzadi nổi giận đến nỗi cắt hết mọi quan hệ. Kết quả là, thậm chí ta đã nhận thư của Brom, thần tiên cũng vẫn làm ngơ về chuyện Saphria và cháu....Không có tiếp tế của họ, quân đội của ta gặp rất nhiều khó khăn khi đụng độ với triều đình mấy tháng qua. Nhưng bây giờ Arya trở về, thêm cháu tới đây, ta mong Nữ hoàng sẽ bớt thù nghịch. Việc cháu cứu Arya sẽ giúp nhiều trong vấn đề hòa giải giữa chúng ta và họ. Tuy nhiên việc huấn luyện cháu lại trở thành vấn đề nóng bỏng cho cả Varden và thần tiên. Rõ ràng Brom đã có cơ hội hướng dẫn cháu, nhưng chúng ta cần biết ông đã truyền dạy cho cháu tới đâu. Đó là lý do cháu phải trải qua một kỳ kiểm tra, để được xác định và mở mang thêm tài năng của cháu. Ngoài ra, thần tiên cũng muốn cháu hoàn tất chương trình huấn luyện với họ. Tuy nhiên, ta không chắc còn đủ thời gian. - Tại sao không đủ ạ? - Có nhiều lý do. Lý do chính là tin tức cháu đem đến về Urgals. Thấy không, Eragon? Varden bị đặt trong một hoàn cảnh rất khó xử. Một mặt, chúng ta cần giữ mối giao hảo với thần tiên, đồng thời chúng ta không thể làm người lùn nổi giận, nếu ta còn muốn tá túc tại nơi này. - Người lùn không phải là một thành phần của Varden sao? - Trên tinh thần thì có. Họ cho chúng ta ở đây, trợ giúp cho cuộc đấu tranh với triều đình, nhưng họ chỉ trung thành với...đức vua của họ. Đối với họ, ta không có quyền, trừ một số điều vua Hrothgar cho phép. Vì ngay ông ta cũng thường có vấn đề với những bộ tộc của người lùn, tuy mười ba bộ tộc đều qui phục ông. Nhưng mỗi tộc trưởng lại có nhiều quyền hạn, thí dụ họ được quyền chọn vị vua mới, khi nhà vua già băng hà. Hrothgar có cảm tình với chúng ta, nhưng nhiều tộc trưởng thì ngược lại. Nhà vua không muốn làm mất lòng các tộc trưởng, cũng như không muốn mất sự ủng hộ của thần dân. Do đó, việc ông ta giúp chúng ta cũng chỉ có giới hạn thôi. - Các tộc trưởng có chống lại cháu như đối với Varden không? - Ta sợ còn hơn thế nữa. Giữa người lùn và rồng đã có mối thù từ xa xưa. Trước khi thần tiên xuất hiện và đem lại hòa bình, loài rồng có thói quen ăn thịt gia súc và ăn trộm vàng của người lùn. Và, cháu nên biết, người lùn thù hận rất dai dẳng. Sự thật là họ không bao giờ hoàn toàn chấp nhận cho một Kỵ Sĩ bảo vệ vương quốc của họ. Sự lớn mạnh của Galbatorix càng làm đa số người lùn tin rằng, đừng bao giờ dính dáng đến rồng và Kỵ Sĩ thì tốt hơn. - Vì sao Galbatorix không biết Farthen Dur này và hoàng cung Ellesmera ở đâu? Chắc chắn ông ta đã từng được nghe kể về những nơi này, trong thời gian được các vị Kỵ Sĩ tiền bối chỉ dạy chứ? - Kể thì có, nhưng cho biết ở đâu thì....không. Biết Farthen Dur nằm trong lòng núi là một chuyện, tìm ra được lại là chuyện hoàn toàn khác. Galbatorix chưa từng được các bậc tiền bối đưa đến bất cứ nơi nào, trước khi con rồng của hắn bị giết. Còn sau đó, tất nhiên hắn không còn được tin cậy. Trong thời gian tạo loạn, hắn đã tìm mọi cách để lấy tin từ các Kỵ Sĩ, nhưng họ thà chịu chết, chứ không tiết lộ cho hắn biết. Galbatorix cũng chưa bắt sống được một người lùn nào. - Vậy tại sao ông ta không cất quân xuyên qua Du Weldenvarden tìm cho ra hoàng cung của thần tiên? - Vì thần tiên vẫn có đủ uy lực để chống lại. Hắn không dám thử sức với họ, ít ra trong thời gian này. Nhưng ma thuật của hắn mỗi năm mỗi mạnh thêm, nếu thêm một Kỵ Sĩ nữa tiếp tay, thì lúc đó không gì ngăn cản nổi. Đó là lý do hắn vẫn chờ đợi cho đến hôm nay, nhưng hai trứng rồng vẫn chưa chịu nở. - Vì sao nội lực ông ta có thể tăng dần lên, trong khi sức mạnh cơ thể con người có hạn, không thể phát triển mãi mãi được. - Chúng ta không biết. Chỉ còn hy vọng một ngày hắn sẽ chết vì chính những câu thần chú của chính hắn. Nói xong, Ajihad rút từ trong áo ra một mảnh da thuộc, hỏi: - Cháu biết cái này là gì không? Eragon cúi nhìn. Chi chít trên mảnh da những dòng chữ lạ lùng viết bằng mực, nhiều chỗ bị nhoè vì máu. Nó lắc đầu: - Không, cháu không biết. - Mảnh da này được lấy từ xác con quái thú Urgals đầu đàn bị giết đêm qua. Mười hai người của ta đã hy sinh để cứu cháu. Đây là phát minh của Galbatorix để liên lạc với những kẻ phục vụ lão. Ta đã phải nghiền ngẫm mãi mới hiểu ra: "....gác cổng tại Ithro Zhada phải cho kẻ cầm thư này và thuộc hạ của hắn được qua. Chúng sẽ ăn ngủ cùng đồng loại khác và vì..., nhưng chỉ khi hai phe không gây nên những cuộc ẩu đả. Dưới quyền chỉ huy của Tarok, Gashz, Durza và Ushnark Tối Thượng." Ushanark chính là Galbatorix, và có nghĩa là Cha Già Tối Thượng trong ngôi ngữ Urgals, một kiểu tâng bốc để lấy lòng lão ta. Và đây nữa: "Phải tìm hiểu chúng thích hợp với việc gì và...Bộ binh phải được tách rời khỏi...không được phân phát vũ khí cho đến khi...", sau đoạn đó ta không đọc được nữa vì chữ quá mờ. - Ithro Zhada ở đâu? Cháu chưa nghe tên này bao giờ. - Ta cũng vậy. Do đó ta ngờ rằng đây là một cái tên Galbatorix tự đặt lại cho một nơi nào đó để ngụy trang. Nhưng giải mã xong thư này, ta tự hỏi hàng trăm Urgals đang làm gì tại nơi cháu đã nhìn thấy chúng ở núi Beor, và chúng di chuyển tới đâu? Rồi còn "ăn ngủ cùng đồng loại khác", vậy thì phải có nhiều nhóm Urgals khác nữa cùng đến điểm tập kết. Chỉ có một lý do để lão vua này tập hợp một lực lượng như thế: lão đang ráo riết thành lập đoàn quân gồm lũ người trời đánh và lũ quái vật tàn bạo để tiêu diệt chúng ta. Nhưng hiện nay chúng ta chỉ biết chờ đợi, vì không có thêm tin tức, ta vẫn không thể biết Ithro Zhada là nơi nào. Tuy nhiên, chúng chưa phát hiện được Farthen Dur, chúng ta vẫn còn hy vọng. Lũ Urgals nhìn thấy nơi này, đã bị chúng ta tiêu diệt hết đêm qua rồi. - Vì sao ông biết chuyện tụi cháu đến đây? Vì một trong hai anh em sinh đôi đã chờ tụi cháu và một ổ phục kích tụi Kull rất kịp thời? Eragon hỏi và nhận thấy Saphira đang chăm chú nghe. Chắc chắn rồi đây cô nàng sẽ góp ý với nó. - Chúng ta có đặt trạm gác trên thung lũng cháu đi qua, hai bên bờ sông Răng Gấu. Họ đã gửi chim bồ câu về báo. Eragon tự hỏi, chắc là con bồ câu Saphira đã bắt hụt. Nó hỏi: - Khi Arya và trứng rồng biến mất, ông có báo cho ông Brom không? Ông ấy bảo không nhận được tin tức gì của Varden. - Ta cố báo cho Brom. Nhưng người đưa tin của ta bị quân triều đình giết chết. Nếu không tụi Ra'zac đâu có tới Carvahall. Sau đó Brom đi cùng cháu, ta không thể liên lạc với ông được nữa. Ta chỉ yên tâm khi nhận được tin do người từ Teirm đưa tới. Ta không ngạc nhiên khi biết Brom đến với Jeod, vì hai người là bạn thân của nhau. Và Jeod sẽ dễ dàng chuyển tin cho ta, vì ông là người vẫn lén lút tiếp tế cho Varden xuyên qua Surda. Tất cả những chuyện này làm nẩy sinh nhiều nghi vấn quan trọng. Tại sao triều đình biết trước để phục kích Arya và sau đó là người đưa tin của ta tới Carvahall? Tại sao Galbatorix nắm được danh sách những nhà buôn ủng hộ Varden? Vì sau khi cháu đi, công việc làm ăn của Jeod, cũng như những nhà buôn khác ủng hộ chúng ta, hoàn toàn bị hủy bại. Con tàu nào của họ ra khơi, cũng đều biến mất. Người lùn không thể tiếp tế cho chúng ta, vì vậy, Varden đang trong tình trạng rất khốn đốn. Ta e trong nội bộ có kẻ phản bội. Bất kể những cố gắng kiểm tra những dối trá trong tư tưởng, ta vẫn chưa tìm ra kẻ đó. Eragon trầm ngâm suy nghĩ về những điều nó biết. Lần đầu tiên, kể từ khi phát hiện ra Saphira, nó mới hiểu rõ những gì đang xảy ra chung quanh. Cuối cùng thì nó đã biết Saphira từ đâu tới và chuyện gì có thể sẽ đến với nó trong tương lai. - Ông muốn gì ở cháu? - Ý cháu muốn hỏi về chuyện gì? - Ý cháu là nơi này đang mong cháu làm gì? Ông và thần tiên lên kế họach cho cháu, nhưng nếu cháu không đồng ý thì sao? Cháu sẽ chiến đấu khi cần thiết, vui chơi khi có dịp, khóc than khi đau khổ, và chết khi số cháu phải chết...nhưng cháu sẽ không để ai bắt cháu làm gì ngược với ý mình. Những bậc Kỵ Sĩ tiền bối là người cân nẩy mực công lý trên và vượt lên những người lãnh đạo họ trong thời đại của họ. Cháu không đòi hỏi địa vị đó...vì cháu tin không ai chấp nhận một sự giám sát như thế, khi người ta đang sống hoàn toàn tự do thoải mía, nhất là đối với một người còn quá ít tuổi như cháu. Nhưng cháu có khả năng, cháu sẽ tận dụng khi cảm thấy thích hợp. Nên điều cháu muốn biết là, kế họach ông định sử dụng cháu như thế nào. Lúc đó cháu mới có thể quyết định đồng ý hay không. Ajihad nhăn mặt nhìn Eragon: - Nếu cháu là một kẻ khách hay ta là một thủ lĩnh khác, thì chắc cháu sẽ phải chết vì lối nói xấc xước đó rồi. Điều gì làm cháu có thể tưởng rằng ta sẽ tiết lộ kế hoạch chỉ vì một lời đòi hỏi của cháu? Eragon đỏ mặt nhưng vẫn không hạ thấp ánh mắt. Ông nói tiếp: - Tuy nhiên cháu có lý. Địa vị của cháu cho cháu quyền được nói ra những điều đó. Trong hoàn cảnh cháu, không thể bỏ qua chuyện chính trị. Cách này hay cách khác, cháu cũng sẽ có ảnh hưởng, thế lực. Ta không muốn thấy cháu trở thành một con cờ thí cho bất cứ một phe nhóm nào. Cháu phải bảo toàn sự tự do của mình. Vì chính đó là sức mạnh thực sự của cháu. Nó cho cháu sự độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ thủ lãnh, vua chúa nào. Quyền lực của ta đối với cháu cũng chỉ sẽ có giới hạn thôi. Điều khó khăn là phải làm sao cho những kẻ có quyền lực, kể cả cháu, biết suy nghĩ chín chắn. Ngoài ra, dân chúng ở đây sẽ có những kỳ vọng vào cháu. Họ sẽ đến kể lể với cháu những vấn đề của họ, xin cháu giải quyết dùm, dù chỉ là những chuyện vặt vãnh tầm thường. Sẽ có những trường hợp, tương lai của người nằm trong tay cháu. Với một lời, cháu có thể làm đổi thay đời họ, đớn đau hay hạnh phúc. Các thiếu nữ xin cháu một lời khuyên, họ nên kết hôn với chàng trai nào, nhiều cô có thể còn ve vãn cháu làm chồng. Các cụ già sẽ tìm đến cháu để hỏi nên cho người con nào hưởng quyền thừa kế. Cháu phải tỏ ra khôn ngoan, ân cần. Không được suồng sã hay trả lời cho xong, không suy nghĩ. Vì những lời nói của cháu gây ảnh hưởng nhiều hơn cháu tưởng. Ajihad dựa lưng ghế, lim dim mắt: - Gánh nặng của cấp lãnh đạo là phải có trách nhiệm đối xử ân cần với nhân dân. Ta đã gắn bó với điều này từ khi được chọn làm thủ lĩnh Varden. Bây giờ cháu cũng sẽ phải làm như vậy. Đừng lo ngại vì tuổi trẻ và thiếu kinh nghiệm, những điều này sẽ qua mau thôi. Nhưng phải thận trọng. Ta không khoan dung những sai trái dưới quyền ta đâu. Eragon chẳng khoái vụ "gỡ rối tơ lòng" cho thiên hạ chút nào, nó áy náy bảo: - Nhưng ông vẫn chưa nói cháu sẽ làm gì ở đây. - Ngay lúc này thì chưa phải làm gì. Cháu đã vượt hơn một trăm năm chục dặm đường trong vòng tám ngày, một việc rất đáng tự hào. Ta tin cháu cần được nghỉ ngơi. Khoẻ khoắn lại, ta sẽ thẩm tra lại toàn bộ khả năng của cháu cả về vũ khí lẫn phép thuật. Sau đó, ta sẽ cắt nghĩa cho cháu biết rõ từng phần công việc, và cháu sẽ tự quyết định. - Còn anh Murtagh? Mặt Ajihad tối lại, ông lấy thanh Zar'roc từ dưới bàn ra. Thanh kiếm tỏa sáng dưới ánh đèn. Ông vuốt ve dấu ấn khắc bằng a-xít: - Nó sẽ ở đây cho tới khi đồng ý cho cặp song sinh xâm nhập vào trí não. - Anh ấy không phạm tội gì, không thể giam anh ấy được. - Ta không thể trả tự do cho nó, khi chưa biết chắc về nó. Vô tội hay không, nó cũng có khả năng gây nguy hiểm cho chúng ta như cha nó. Tuy nghe giọng ông thoáng buồn, nhưng Eragon biết khó lay chuyển nổi. Nó hỏi: - Sao ông nhận ra giọng anh ấy? - Ta gặp cha nó một lần. Cháu không nên đeo thanh kiếm này tại Farthen Dur. Nhiều người ở đây còn căm hận Morzan, nhất là người lùn. Eragon hứa và nhận lại thanh kiếm. Ajihad chợt nói: - Việc này nhắc ta nhớ, ta còn giữ chiếc nhẫn của Brom. Ông đã giao cho kẻ đưa thư để làm tin. Bây giờ ông đã mất, nó sẽ thuộc về cháu. Ta nghĩ đó là điều mong mỏi của Brom. Eragon trân trọng đón nhận. Dấu khắc trên mặt ngọc giống hình xăm trên vai Arya. Đeo nhẫn vào ngón trỏ vừa khít, nó vừa ngắm nghía vừa nói: - Cháu...rất vinh hạnh. Ajihad nghiêm nghị gật đầu, kéo ghế đứng dậy, nhìn Saphira: - Đừng nghĩ ta quên mi, Saphira. Những gì ta nói là vì quyền lợi của mi cũng như của Eragon. Thậm chí ta cần mi hiểu hơn, vì suốt thời gian hiểm nghèo đó, không có mi, chắc chắn Eragon đã bị thất bại rồi. Saphira cúi thấp đầu, cho tới khi mắt nó ngang tầm mắt Ajihad. Cả hai lặng lẽ quan sát nhau. Ajihad phải quay đi trước. Saphira bảo Eragon: "Nói với ông ta, em đã bị ấn tượng cả với thành phố núi và cả với chính ông ta. Triều đình khiếp sợ ông là đúng. Tuy nhiên, nếu ông ta có ý định giết anh, em sẽ phá thành phố này tan tành và xé xác ông bằng chính răng em." Eragon vừa kinh ngạc vừa bối rối vì lời hăm dọa của cô em bé nhỏ, nhưng cũng đành "thông dịch" lại. Ajihad nhìn Saphira nghiêm túc nói: - Ta cũng không mong gì hơn điều đó từ một con rồng cao thượng như mi, nhưng...ta e rằng mi không qua nổi cặp song sinh đâu. Saphira xì một tiếng, Eragon hiểu ngay đó là kiểu cười nhạo của ả. Nó nói với Ajihad: - Vậy là hai người đó mạnh hơn nhiều so với bề ngoài. Cháu cứ tưởng họ chết khiếp khi gặp phải cơn thịnh nộ của rồng chứ? Có thể hai anh em họ hạ được cháu, chứ làm sao hạ nổi Saphira. Ông nên biết, sức mạnh phép thuật của một Kỵ Sĩ ngày càng cao cường, vượt hơn hẳn người thường có phép thuật. Đó là lý do vì sao ông Brom yếu hơn cháu. Cháu nghĩ, vì không có các Kỵ Sĩ nên anh em song sinh đã được đề cao về sức mạnh. Ajihad có vẻ bối rối: - Brom là người mạnh nhất trong số những người biết phép thuật của chúng ta. Chỉ có thần tiên có thể vượt trội hơn ông. Nếu những gì cháu nói là sự thật, chúng ta phải tính toán lại nhiều chuyện lớn. Saphira, ta mừng là chưa ai gây tổn hại nghiêm trọng gì cho cả hai, mi và Eragon. Saphira cúi đầu đáp lễ. Ajihad thẳng người, oai vệ gọi: - Orik. Ông lùn chạy vội vào phòng, khoanh tay đứng trước bàn. Ajihad nhíu mày: - Ông gây cho ta nhiều rắc rối quá. Orik. Suốt buổi sáng này, ta phải nghe một trong cặp song sinh phàn nàn về vụ cãi lệnh của ông. Chúng không chịu yên cho tới khi ông bị phạt. Bất hạnh là chúng có lý. Một vấn đề nghiêm trọng như vậy không thể bỏ qua được. Orik chớp mắt nhìn Eragon, nói thật nhanh: - Tụi Kull gần như vây kín Kóstha-mérna. Chúng bắn tên như mưa vào Ergon, Saphira và Murtagh, nhưng anh em sinh đôi không hề có một phản ứng nào. Dù nghe tiếng Eragon kêu gào khẩu hiệu bên kia thác, chúng vẫn từ chối mở cổng. Kể cả khi Eragon không đủ sức ngoi lên mặt nước, chúng vẫn bất động. Có thể tôi đã sai, nhưng tôi không thể để một Kỵ Sĩ chết được. Eragon nói ngay: - Nếu không có ông Orik kéo lên, cháu đã chết đuối rồi. Ajihad nhìn Eragon, rồi hỏi Orik: - Sau đó, vì sao ông phản đối chúng? - Chúng không được phép xâm nhập vào đầu Murtagh. Tuy nhiên, nếu tôi biết anh ta là ai, tôi đã không ngăn cản chúng. - Ông đã làm đúng, nhưng chuyện sẽ đơn giản hơn nếu ông không làm. Ông quên nơi này bắt buộc kiểm tra tư tưởng mọi người, bất kể là ai sao? Hành động của ông thật đáng quí, nhưng ông đã coi thường lệnh cấp trên. Hình phạt này luôn luôn là cái chết. Orik đờ người. Eragon kêu lên: - Ông không thể giết Orik chỉ vì ông ấy muốn cứu cháu. - Đây không phải chỗ cháu được can thiệp vào. Orik phạm luật thì phải nhận hình phạt. Nhưng, dù sao, cháu có lý. Vì tình huống này, án sẽ được giảm. Kể từ bây giờ, Orik, ông bị thuyên chuyển khỏi tất cả mọi hoạt động quân sự dưới quyền tôi. Hiểu chứ? Mặt Orik tối sầm, nhưng rồi ông chỉ có vẻ bối rối, gật đầu nói: - Vâng, tôi hiểu. - Vì ông không còn trách nhiệm với công việc thường lệ nữa, tôi chỉ định ông hướng dẫn cho Eragon và Saphira trong thời gian họ ở đây. Phải bảo đảm họ được săn sóc đàng hoàng, thoải mái. Saphira ở trên Isidar Mithrim. Eragon thích ở khu nào tùy anh ta chọn. Khi nào sức khỏe Eragon hoàn toàn bình phục, đưa anh ta đến bãi huấn luyện. Mọi người đang rất mong Eragon. Ajihad dặn dò, mắt sáng lên thích thú: - Tất cả có thể lui ra. Bảo cặp song sinh vào đây. Trước khi ra, Eragon cúi đầu hỏi: - Cháu muốn gặp Arya. Tìm cô ấy ở đâu? - Không ai được phép thăm cô ấy. Cháu phải đợi cho đến khi Arya đến gặp cháu. Bàn tay bạc ơi! Xin hãy chúc phúc cho đứa trẻ này Cặp song sinh vào văn phòng Ajihad. Quá mệt mỏi vì phải ngồi quá lâu, Eragon nằm sóng soài trên hành lang, bảo Orik: - Rất tiếc vì tôi mà ông bị rắc rối. - Đừng áy náy. Tôi rất hài lòng với phán quyết của Ajihad. - Ông nói sao? Ông không còn được làm huấn luyện, không được chiến đấu nữa, bây giờ chỉ còn mỗi việc bảo vệ tôi, sao ông có thể hài lòng được? - Ajihad là một nhà lãnh đạo có tài. Ông ấy biết cách giữ đúng kỷ cương. Tuy tôi bị phạt dưới quyền ông ấy, nhưng vẫn là bề tôi của đứa vua Hrothgar. Dưới quyền nhà vua, tôi vẫn là một người tự do. Eragon chợt nhớ ra tình trạng phân quyền tại Tronjheim. - Như vậy là Ajihad đã đặt ông vào một địa vị quyền uy hơn, phải không? - Đúng vậy, và với cách này anh em sinh đôi kia không còn có thể phàn nàn gì được nữa. Ông ấy rất khôn ngoan. Nào, đi thôi chàng trai, tôi biết cậu đói lắm rồi. Còn phải lo chỗ ngủ cho con rồng của cậu nữa chứ. Saphira khịt mũi khó chịu. Eragon phải giới thiệu ngay: - Tên nó là Saphira. - Xin lỗi, Saphira. Ta sẽ nhớ tên mi. Orik lấy ngọn đèn màu cam trên tường, dẫn lối dọc hành lang. Eragon hỏi: - Những người ở Farthen Dur này biết phép thuật cả chứ? Nó phải rảo bước bắt kịp bước chân thoăn thoắt của ông lùn và khéo léo nắm thanh Zar'roc để che đậy dấu khắc trên kiếm. Orik nói: - Ít thôi, nhưng phép thuật của họ chỉ đủ khả năng chữa những vết thương. Tất cả đang xúm vào điều trị cho Arya. - Không có cặp song sinh sao? - Ui cha, Arya đời nào chịu để cho anh em chúng chữa trị. Vả lại, phép thuật của chúng không để trị vết thương. Người tiền nhiệm của Ajihad, ông Deynor đã cho chúng gia nhập Varden, vì tuy chúng hung hiểm, nhưng rất có ích ngoài chiến trận. Họ bước vào một trong những đường hầm chính. Từng đoàn người, có cả người lùn, đi lại trong hầm, tiếng huyên náo chuyện trò vang trên nền đá sáng bóng. Nhưng vừa thấy Saphira, tiếng ồn im bặt, mọi người tròn mắt nhìn. Orik tỉnh bơ rẽ trái, tiến bước về một trong những cổng cuối thành phố núi Tronjheim. Eragon hỏi: - Chúng ta đi đâu? - Ra khỏi những hành lang này, để Saphira có thể bay lên chỗ ở, trên nóc Isidar Mithrim. Hang rồng trên đó không có mái, đỉnh của Tronjheim lộ thiên, giống như Farthen Dur. Đây là nơi ngày xưa các Kỵ Sĩ thường ở mỗi khi đến thăm Tronjheim. Không mưa, không tuyết, lại có những hang bằng cẩm thạch dành cho rồng, đầy đủ tiện nghi. Chỉ sợ là khi những cột nước đá bị rơi, chúng có thể chẻ một con ngựa đứt thành hai khúc. Saphira bảo Eragon: "Yên tâm, em không sao đâu. Một cái hang cẩm thạch còn an toàn hơn những nơi chúng mình đã ngủ nhiều." "Chắc vậy. Em nghĩ anh Murtagh có sao không?" "Theo em, ông Ajihad là một người cao thượng, nếu anh ấy đừng tìm cách bỏ trốn thì chắc không có gì nguy hiểm đâu." - Ngựa của chúng tôi đâu? - Trong chuồng, gần ngoài cổng. Họ ra khỏi Tronjheim bằng chính cái cổng đã đi vào. Mặt trời đã di chuyển từ khi Eragon nói chuyện với Ajihad, ánh sáng không còn rọi qua lỗ hổng trên đỉnh Farthen Dur. Lòng núi tối om nếu không có những ngọn đèn trên vách. Orik chỉ một chóp cao màu trắng: - Thịt tươi, nước mát đang chờ Saphira trên đó. Sau khi chọn được một hang ưng ý, sẽ có người lo làm giường và...không còn ai làm phiền nhiễu gì nữa. - Tôi muốn được ở chung cùng Saphira. - Kỵ Sĩ Eragon, tôi sẽ làm tất cả theo ý cậu. Nhưng nên để Saphira tại đó trong khi cậu đi ăn, vì hầm vào phòng ăn không đủ rộng cho Saphira di chuyển. - Sao ông không đem đồ ăn lên đó cho tôi? - Vì món ăn nấu nướng dưới này. Nếu cậu muốn, một người hầu sẽ bưng lên, nhưng phải chờ đợi vì từ đây lên đỉnh đó không gần. "Tại sao họ chiều chuộng mình quá thế?" Eragon ngạc nhiên tự hỏi, "Hay ông lùn định thử thách mình?" Saphira uể oải nói: "Em mệt rồi. Cái nhà nghỉ của rồng này nghe có vẻ hay đấy. Nhất là không phải sợ thú dữ hay lính triều đình. Anh cứ đi ăn đi." "Em giữ thanh Zar'roc nhé." "Đây rồi, nhưng anh nhớ đem theo cung tên. Những người này tin tưởng được, nhưng phòng xa vẫn hơn." Eragon nói với Orik: - Tôi ăn ở dưới này. Với một cái nhún mình, Saphira bay vọt lên. Trong bóng tối yên tĩnh chỉ có tiếng vỗ cánh của nó vang lên. Orik nhìn theo thở dài: - Ôi! Cậu sướng thật, Kỵ Sĩ. Tôi ước ao một lần được bay bổng trên bầu trời, ngắm nhìn phong cảnh. Eragon theo ông vòng vèo qua nhiều hành lang rồi vào một căn phòng dài, đầy dẫy những bàn đá thấp lè tè chỉ thích hợp với người lùn. Ánh lửa chập chờn trong một lò đá, sau một quầy dài. Orik nói mấy tiếng bằng một ngôn ngữ lạ lùng với một chàng lùn béo ị, mặt tròn xoe. Ngay tức thì, những đỉa bằng đá đầy ú ụ nấm và cá bốc khói được mang ra. Hai người leo qua nhiều cầu thang, tới một hốc đục vào đá tường, có thể nhìn được ra ngoài. Ăn xong, khi Orik khoan khoái mồi tẩu thuốc dài, Eragon nhìn xuống mặt đất hỏi: - Các ông có trồng tỉa gì tại Farthen Dur không? - Không, ánh nắng chỉ đủ cho rong rêu và nấm sống nổi thôi. Tronjheim không thể sống nếu không có tiếp tế từ những thung lũng chung quanh, đó cũng là một lý do vì sao nhiều đồng bào tôi chọn sống ở nơi khác, trong vùng núi Beor. - Như thế là còn nhiều thành phố khác của người lùn nữa? - Không nhiều được như chúng tôi mong muốn đâu. Và Tronjheim là thành phố lớn nhất. Cậu mới chỉ nhìn thấy những từng bên dưới, nên không rõ, hầu hết Tronjheim đều hoang vắng. Có những từng bỏ trống từ nhiều thế kỷ rồi. Suốt bao thế kỷ, chúng tôi đã phá đá mở đường, có thể đi xuyên từ bên này sang bên kia núi.... - Như vật mà không sử dụng tới thì phí quá. - Có người đã bàn tới chuyện bỏ nơi này vì tài nguyên cạn kiệt. Nhưng Tronjheim được thực hiện vì một công việc vô giá khác. - Là gì? - Những khi nguy khốn, nơi này là mái nhà cho tất cả dân tôi. Trong lịch sử đã xảy ra ba lần, toàn dân tộc tôi phải dồn vào đây, khi bên ngoài bị phá hủy hoàn toàn. Đó là lý do nơi này phải được giữ làm nơi phòng trú. - Tôi chưa từng thấy một nơi hùng tráng như thế này bao giờ. - Tôi rất vui thấy cậu cũng nghĩ thế. Dân tộc tôi sống lâu hơn con người bình thường, vậy mà cũng phải bao thế hệ mới tạo dựng lên Tronjheim. Chỉ vì triều đình đáng nguyền rủa của Galbatorix, một số người ngoài mới được phép nhìn thấy sự huy hoàng của thành phố này. - Bao nhiêu người Varden ở đây? - Người thường hay người lùn? - Người thường. Tôi muốn biết có bao nhiêu người chạy trốn triều đình. - Khoảng bốn ngàn. Nhưng đó chỉ là những người mong được chiến đấu, còn những người khác chạy đến để tìm sự bảo vệ của vua Orrin tại Surda. Quá ít, Eragon chán nản tự nhủ. Chỉ riêng quân đội hoàng gia đã gần mười sáu ngàn, chưa kể tụi Urgals. Nó hỏi: - Sao vua Orrin không đánh lại triều đình? - Nếu ông ta công khai chống đối, Galbatorix đã bóp nát Surda rồi. Đó là một lầm lẫn của Galbatorix, lão cho rằng Surda không đáng lo ngại. Nhưng chính nhờ sự yểm trợ của vua Orrin mà Varden mới có hầu hết số vũ khí và tiếp tế trong thời gian qua. Không có ông ta, thì đã không thể kháng cự với triều đình. Nhưng đừng thất vọng vì số Varden ít ỏi tại đây. Số người lùn tại Tronjheim rất đông, đông hơn cậu tưởng nhiều, và họ sẵn sàng chiến đấu khi thời cơ tới. Vua Orrin cũng đã hứa đưa quân tăng cường, khi chúng ta lâm trận với Galbatorix. Thần tiên cũng sằn lòng tiếp tay cho chúng ta. Eragon âm thầm liên lạc với Saphira và thấy cô ả đang say mê chè chén một mình. Rồi Eragon chợt chú ý đến dấu hiệu cái búa và mười hai ngôi sao trên nón sắt của Orik: - Dấu hiệu này có nghĩa gì? Tôi thấy nó trên sàn Tronjheim. - Đây là dấu hiệu của bộ tộc tôi. Chúng tôi là Ingietum, thợ sắt và lò rèn. Một trong mười hai bộ tộc trong guồng máy cai trị. Đức vua Hrothgar là một người trong bộ tộc tôi. Ngài đã làm rạng danh dòng tộc rất nhiều. Khi Eragon cùng Orik đem trả khay cho nhà bếp, đi ngang một người lùn trong hành lang. Ông ta đứng cúi đầu trước mặt Eragon cung kính nói: - Xin chào Argetlam. Nó đỏ mặt vì ngượng, nhưng không khỏi thầm vui thích. Từ bé tới gờ có ma nào cúi đầu chào nó. Eragon cúi sát Orik, hỏi: - Ông ta nói gì vậy? - Đó là một cổ ngữ của thần tiên thường dùng để chào các Kỵ Sĩ. Argetlam nghĩa là Bàn- Tay- Bạc. Eragon nhìn bàn tay đeo găng, nghĩ đến dấu hiệu gedwey ignasia. Orik hỏi: - Cậu có muốn về chỗ Saphira chưa? - Có chỗ nào tắm được không? Lâu lắm rồi tôi chưa được tắm cho ra tắm. Áo quần cũng bết những máu khô và rách bươm cả rồi. Này, có chỗ nào để tôi có thể làm việc kiếm tiền, mua mấy bộ đồ mới không? - Cậu định bêu riếu lòng hiếu khách của đức vua tôi sao, Eragon? Khi nào cậu còn ở trong Tronjheim này, cậu không phải mua sắm gì hết. Cậu sẽ thanh toán bằng...cách khác. Đức vua và Ajihad sẽ lo chuyện này. Nào, tôi sẽ cho cậu biết phải tắm ở đâu. Ông lùn đưa Eragon xuống một cầu thang dài, tận đáy Tronjheim. Những đường hầm như ụp lên đầu nó, vì trần chỉ cao chừng gần hai thước. Đèn chiếu toàn một màu đỏ. Orik cắt nghĩa: - Màu đỏ sẽ không làm cậu mờ mắt khi bước vào trong tối hay trở ra ngoài sáng. Hai người vào một phòng trống trơn, chỉ có một cánh cửa nhỏ. Orik chỉ cánh cửa nói: - Hồ tắm ngay sau cửa. Trong đó đã có sẵn đầy đủ mọi thứ. Cậu để hết quần áo tại đây. Khi trở ra, sẽ có quần áo mới. Eragon cám ơn, rồi cởi quần áo, cảm thấy kỳ kỳ khi một mình trong hầm, với cái trần đá như úp sụp trên đầu. Lạnh run người, Eragon chạy vội qua cánh cửa, tiến vào vùng tối mò mò. Nó lần mò cho tới khi chân chạm làn nước ấm. Thả mình vào hồ nước êm dịu, mằn mặn và rất ấm, Eragon nhắm mắt thoải mái bồng bềnh trong hồ nước chỉ cao tới thắt lưng. Khi trở lại phòng sáng ánh đèn đỏ, Eragon thấy đầy đủ từ khăn tắm, đồ lót và áo quần vừa với nó như in. Sảng khoái, nó bước vào đường hầm. Orik, tay cầm tẩu thuốc, đang đứng chờ. Khi ra khỏi thành phố núi, Eragon liên lạc gọi và Saphira bay xuống bên nó, Eragon hỏi Orik: - Các ông liên lạc với những người ở trên đỉnh kia bằng cách nào? - Vấn đề này chúng tôi giải quyết từ lâu rồi. Nếu để ý, cậu sẽ thấy sau những cửa vòm, một cầu thang uốn quanh sát những bức tường phòng trung tâm Tronjheim. Cầu thang này dẫn thẳng lên nhà nghỉ của rồng, trên đỉnh Isidar Mithrim. Chúng tôi gọi là Vol Turin, Cầu- Thang- Vô- Tận. Lên xuống cấp cứu khẩn không được mau lẹ, tiện lợi. Nên thay vào đó, chúng tôi sử dụng đèn để chuyển tín hiệu. Cùng với Vol Turin, kế bến nó còn một máng trơn bóng, sử dụng như một cầu trượt khổng lồ. Eragon tủm tỉm: - Nguy hiểm không? - Ấy, đừng có chơi dại mà thử nhé. Cầu trượt đó thiết kế cho người lùn thôi. Người cỡ cậu lộn tùng phèo ra khỏi máng không nát xương, cũng bay luôn ra ngoài không gian. Khi Saphira phóng xuống như một cây thương, chào Eragon, dân thành phố Tronjheim xúm quanh bàn tán. Eragon luống cuống nhìn đám đông. Orik nói ngay: - Cậu nên đi đi. Sáng mai tôi đợi cậu tại nơi này. - Làm sao tôi biết trời sáng lúc nào? - Sẽ có người đến đánh thức. Thôi đi đi. Eragon lách qua đám đông vây quanh Saphira, leo lên lưng nó. Nhưng Saphira chưa kịp cất cánh, một bà lão ghì chặt chân Eragon đến nỗi nó không thể nào rút chân khỏi những ngón tay cứng như thép của bà ta. Bà ta hướng bộ mặt nhăn nheo, hai mắt sáng rực nhìn Eragon đầy khẩn khoản. Nó hốt hoảng hỏi: - Bà muốn gì? Bà lão rụt tay về, mở bọc vải ôm khư khư, để lột khuôn mặt một đứa trẻ: - Đứa trẻ này không cha mẹ, không ai chăm sóc ngoài lão. Lão già yếu rồi. Argetlam ơn, xin hãy ban phước lành cho nó. Eragon nhìn Orik cầu cứu, nhưng ông ta chỉ đứng nhìn. Đám đông im lặng chờ phản ứng của Eragon. Bà lão tiếp tục lải nhải: - Ban phước cho nó, Argetlam ơi! Eragon chưa bao giờ chúc phúc cho ai. Tại quê hương nó, đây là một chuyện quan trọng. Vì lời chúc phúc có thể trở thành lời nguyền hơn là đem lại lợi ích, nhất là khi kẻ chúc phúc có ác ý hay thiếu niềm tin. Mình có dám lãnh trách nhiệm này không, nó tự hỏi. Nhưng bất ngờ, nó quyết định lục lọi trong trí những câu thần chú bằng cổ ngữ, rồi nó cúi xuống, tháo găng tay phải, đặt bàn tay lên trán đứa bé, niệm chú: - Atr gulai un ilian tuathr ono un atra ono waisa skolir fra rauthr. Những lời nói vừa ra khỏi miệng, Eragon cảm thấy mỏi mệt đến không ngờ. Nó nói với bà lão: - Nếu những lời chúc phúc của tôi có hiệu quả, em nhỏ này sẽ tránh được những thảm kịch trong đời. - Cám ơn, Argetlam. Bà lão thì thầm, cúi đầu, rồi vừa dợm quay đi, thì Saphira vươn cổ, cúi đầu sát đứa trẻ. Bà già hoảng hốt lùi lại. Saphira nhẹ đặt đầu mũi giữa cặp lông mày con bé. Đám đông như nghẹn thở. Trên chỗ da Saphira vừa chạm tới, hiện lên một vết trắng sáng như bạc, hình ngôi sao giống dấu gedwey ignasia trên bàn tay Eragon. Bà lão lom lom nhìn Saphira bằng đôi mắt đầy sự biết ơn. Thình lình Saphira rướn người nhảy vọt lên, vỗ cánh, gió thổi dạt đám đống. Lên cao rồi, Eragon mới hỏi: "Em đã làm gì vậy?" "Anh cho em bé tương lai, còn em cho nó hy vọng." Dù đang ở bên Saphira, một nỗi cô đơn chợt tràn ngập trong lòng Eragon. Chung quanh nó toàn người xa lạ, lần đầu tiên nó cảm thấy rõ ràng quê nhà đã quá xa xôi. Dù chỉ là hình ảnh một mái nhà tan nát, nhưng tấm lòng nó vẫn chỉ hướng về nơi đó. Nó hỏi Saphira: "Anh đã trở thành cái gì thế này, hả Saphira? Anh mới bước vào tuổi mười sáu, vậy mà đã được lãnh tụ Varden hỏi ý kiến, bị vua Galbatorix truy lùng, lang thang cùng con trai phản đồ Morzan, và bây giờ lại còn chúc phúc cho kẻ khác. Anh đã ban sự khôn ngoan nào cho một đứa trẻ chưa biết gì đây? Những khó khăn nào anh sẽ phải vượt qua để ngăn chặn một đoàn quân? Toàn chuyện điên rồ! Chúng ta nên trở về Carvahall với anh Roran thôi." Một lúc lâu sau, Saphira mới nhẹ nhàng nói: "Một chàng tuổi trẻ, đó là anh hiện nay. Một chàng tuổi trẻ tranh đấu khi bước vào đời. Có thể em nhỏ hơn anh nhiều, nếu tính bằng năm tháng, nhưng tư tưởng của em già dặn hơn anh. Đừng lo lắng trước những chuyện này. Con người thường biết phải làm gì. Anh chỉ việc chỉ cho họ một con đường, như vậy là khôn ngoan. Như việc anh chúc phúc cho em bé, không phải là một chuyện viễn vông đâu. Những gì anh thấy mới chỉ là sự khởi đầu cho một lịch sử mới, một huyền thọai mới. Anh nghĩ xem, với một dấu ấn của rồng và lời chúc phúc của một Kỵ Sĩ, cô bé đó rồi đây có an phận làm một thôn nữ hay phụ việc trong một quán ba không? Anh đánh giá thấp tài năng, sức mạnh của chúng mình rồi." "Tất cả những chuyện đó đều quá nặng nề với anh. Anh cảm thấy như đang sống trong một ảo ảnh, một giấc mơ không có gì là thật. Anh biết, đã có biết bao chuyện đáng kinh ngạc xảy ra thật, nhưng toàn là những chuyện của người khác, ở đâu đó, trong một thời gian xa tít mù. Nhưng còn việc anh tìm thấy trứng, được một Kỵ Sĩ dạy dỗ, rồi quyết đấu với Tà Thần, những việc đó không phải là của một thằng bé nông dân như anh, nó làm anh thay đổi quá." "Đó là định mệnh của anh. Thế hệ nào cũng cần một thần tượng. Cậu nông dân mang tên vị Kỵ Sĩ đầu tiên đâu phải không có một nguyên nhân. Cái tên chỉ là sự khởi đầu, bản thân anh hiện nay là sự tiếp nối. Hoặc là sự kết thúc." "Càng nói càng thêm lẩn quẩn. Nếu điều gì cũng do tiền định, sự lựa chọn của ta trên đời này không có nghĩa gì sao? Cứ cúi đầu cam nhận số mệnh thôi sao?" "Eragon, em đã chọn anh từ khi em còn trong trứng. Anh đã ở trong hoàn cảnh có thể dẫn đến cái chết, anh có ân hận vì điều đó không? Anh hãy tỉnh táo suy nghĩ kỹ đi. Mọi chuyện xáo trộn từ sau khi ông Brom chết. Chính em cũng không yên tâm." Bay tới đỉnh Tronjheim, Eragon liếc nhìn qua lỗ hổng xuống nền nhà nghỉ của rồng: Isidar Mithrim- Tảng ngọc hình ngôi sao. Nó biết phía dưới là phòng trung tâm khổng lồ. Saphira nhẹ nhàng đáp xuống sàn. Eragon hỏi: "Em có làm trầy sàn đá không?" "Chắc không. Thứ ngọc này rất khác thường." Gian phòng tròn, đường kính khoảng ba mươi thước, cao ba mươi thước. Chung quanh tường là những hang tối rộng như một căn nhà, với những bậc thang dẫn lên tận những hang cao nhất. Căn phòng có một cửa vòm mở ra ngoài. Eragon nằm sấp, áp mặt trên nền ngọc mát lạnh, ráng nhìn nhìn xuyên qua những vân đá long lanh màu sắc. Nhưng nó không thể nào nhìn thấy gì trong gian phòng cách một dặm dưới kia. Nó hỏi: "Anh ngủ ở đâu." Saphira nhún mình nhảy lên một miệng hang cao chừng sáu thước. "Lên đây. Trong hang này có một cái giường dành cho anh." Eragon theo mấy bậc thềm bước lên. Cái hang càng vào sâu càng rộng hơn Eragon tưởng. Những vết đẽo đục, lồi lõm tạo ấn tượng một hang động thiên nhiên. Cuối hang, một tấm nệm lớn đủ để dành cho Saphira. Kế bên, một cái giường đục sâu vào tường. Một ngọn đèn có chao rọi ánh sáng dịu khắp hang. Eragon nhận xét: "Có vẻ rất an toàn, anh thấy thích nơi này quá." Nó ngả mình trên nệm, thở dài hỏi Saphira: "Em nghĩ sao về thành phố ngầm này và ông Ajihad?" "Eragon ạ, dường như chúng ta bị cuốn vào một cuộc chiến...kiểu mới. Dao kiếm, móng vuốt trở thành vô dụng, nhưng chỉ lời nói và những mối đồng minh mới đem lại kết quả. Cặp song sinh không ưa chúng ta, phải thận trọng vì có thể chúng toan tính điều gì. Số người lùn tin tưởng ta cũng không nhiều. Thần tiên không muốn con người trở thành một Kỵ Sĩ, vì vậy chắc chắn họ sẽ phản đối anh. Vì thế, cách tốt nhất là, chúng ta phải mau chóng tìm hiểu và kết bạn với họ." "Em nghĩ mình có thể độc lập giữa những người lãnh đạo khác nhau này không?" "Ajihad ủng hộ sự tự do của chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ khó sống nếu không tỏ ra trung thành với một nhóm nào đó. Sớm muộn gì ta cũng phải chọn một con đường." Gặp lại ma mèo và phù thủy Eragon thức dậy trong hang ấm. Saphira vẫn say sưa ngủ. Lần đầu tiên, kể từ khi vào lòng núi Farthen Dur, Eragon mới cảm thấy yên tâm và tràn trề hy vọng. Ăn ngon, ngủ kỹ. Trong nó không còn cảm giác căng thẳng, sự căng thẳng từ khi ra khỏi thung lũng Palancar, và nhất là từ sau cái chết của ông Brom. Nhưng tuy được Ajihad ưu ái, lương tâm nó không ngừng day dứt vì Murtagh. Nó không thể chấp nhận việc ông giam cầm Murtagh như thế. Nó nhìn mái hang, mơ màng nghĩ đến nàng tiên Arya. Nhưng vừa trở mình nhìn ra: một con mèo lớn tướng ngồi lù lù ngay cửa hang, đang thản nhiên liếm láp bộ móng. Đôi mắt con mèo đỏ rực nhìn Eragon. "Solembum hả?" "Chính xác." Con ma mèo há mồm ngáp nhe ra những cái nanh nhọn hoắt, vươn vai nhảy xuống sàn: "Theo ta." Saphira đã thức, nhìn Eragon thì thầm: "Đi đi, em không sao đâu." Con ma mèo đứng chờ ngay cửa vòm. Eragon vừa nhảy xuống sàn, Solembum biến ngay sau cửa. Vội vàng đuổi theo, Eragon gặp đầu Cầu - Thang - Vô - Tận. Và đó là con đường độc nhất. Nó chạy xuống cầu thang. Xuống tới tầng dưới, nó thấy mình đang đứng trên con đường uốn quanh, dẫn xuống phòng trung tâm. Kế bên cầu thang là một máng trượt, gần đó đặt sẵn một chồng những miếng da dùng để lót khi trượt xuống. Bên phải Eragon, một hành lang dẫn qua những căn hộ cùng tầng. Con ma mèo đang đủng đỉnh vừa đi vừa ve vẩy đuôi. Eragon chạy theo, cho tới khi Solembum ngừng trước một cánh cửa, nghêu ngao mấy tiếng. Hình như đó là một mật hiệu. Cánh cửa bật mở. Solembum lách vào, cửa đóng lại ngay. Eragon bối rối đưa tay định gõ, cánh cửa bung ra tức thì. Nó bước vào một căn hộ hai phòng, trang trí xa hoa, bàn ghế chạm trổ, nhiều bó cây lủng lẳng trên tường. Những ngọn đền từ trần và các bức tường, chiếu sáng một đống đồ lộn xộn trên sàn. Giữa phòng, bà phù thủy thầy bói Angela, đang ngồi trên một cái ghế da. Eragon bật hỏi: - Bà làm gì ở đây vậy? - Chỉ có một cái ghế độc nhất thôi, cháu chịu khó ngồi xuống sàn đi, rồi mụ nói cho nghe. Eragon ngồi xuống giữa hai cái bình sóng sánh nước thuốc màu xanh. Angela cúi nhìn nó: - Thì ra cháu là một Kỵ Sĩ. Mụ đã nghi, nhưng cho đến hôm qua mụ mới biết chắc. Mụ tin là Solembum biết từ lâu, nhưng nó không nói. Đáng lẽ mụ phải đoán ra ngay từ khi cháu nhắc đến Brom. Saphira...mụ thích cái tên này quá, rất hợp với một con rồng.... - Ông Brom đã chết. Tụi Ra'zac đã giết ông. Angela giật mình, vén lọn tóc đen, nhẹ nhàng nói: - Mụ rất tiếc, thật tình rất tiếc. Eragon cười cay đắng: - Nhưng không ngạc nhiên, phải không? Bà đã đoán trước cái chết của ông ấy mà. - Mụ không biết đó là cái chết của ai. Nhưng không...mụ không ngạc nhiên thật. Mụ đã gặp Brom một vài lần. Ông ta không quan tâm đến chuyện bói toán...tầm phào của mụ. Nó chỉ làm ông khó chịu. - Ở Teirm, bà đã cười nhạo số mệnh của ông ấy và bảo mệnh số của ông như một trò đùa. Vì sao vậy? - Nhớ lại, mụ thấy định mệnh quả đã đùa giỡn với ông ta cây nghiệt quá. Tại sao mụ nói thế ư? Ông ta như bị lời nguyền. Cả đời thất bại, chỉ trừ một lần. Không phải lỗi của Brom. Mà do định mệnh. Ông ta được tuyển làm Kỵ Sĩ, nhưng rồng lại bị giết. Yêu một người đàn bà, nhưng không được đền đáp lại. Rồi được chọn làm người dìu dắt, huấn luyện cho cháu, ông ấy lại thất bại vì cái chết. Chỉ một lần thành công, là giết chết Morzan. Một việc đáng lẽ ông ta không làm thì tốt hơn. - Ông Brom chưa hề nhắc đến một người đàn bà với cháu. - Ta nghe chuyện này từ một người...không thể nói dối. Nhưng thôi, chuyện này nói vậy đủ rồi. Đời sống vẫn tiếp tục, đừng để cái chết làm chúng ta rầu rĩ mãi. Bà cúi nhặt bó rơm, tiếp tục bện lại với nhau. Eragon đàn phải hỏi qua chuyện khác: - Vậy bà bỏ Teirm đến đây làm gì? - Sau khi nghe cháu nhắc đến tên Brom, mụ nhớ lại những chuyện xảy ra tại Alageasia. Thiên hạ xầm xì chuyện triều đình đang truy lùng một Kỵ Sĩ. Lúc đó ta hiểu ra, trứng rồng của Galbatorix chắc đã nở. Vậy là mụ đóng cửa hiệu đi tìm hiểu thêm. - Bà cũng biết chuyện trứng rồng? - Tất nhiên là biết. Mụ đâu có ngu. Mụ từng đi nhiều nơi cháu không thể ngờ nổi đâu. Chẳng chuyện lớn nhỏ nào qua khỏi mắt mụ lang này. Dù sao mụ cũng phải đến chỗ Varden càng sớm càng tốt, vì vậy mụ đã đến đây cả tháng rồi, mặc dù mụ không ưa nổi nơi này, vừa xa xôi vừa mốc thếch. Người nào ở đây cũng quá nghiêm túc, quá quí phái. Tuy nhiên số mạng của toàn thể dân Farthen Dur là chết thảm. Angela thở dài, mặt thoáng vẻ diễu cợt. Eragon cười hỏi: - Vậy bà còn ở lại đây làm gì? - Vì mụ muốn có mặt tại tất cả những nơi có những sự kiện trọng đại xảy ra. Hơn nữa, nếu mụ ở lại Teirm, Solembum vẫn cứ đi một mình, mà mụ muốn luôn gần gũi nó. Nào, kể cho mụ nghe, từ ngày đó cháu đã phiêu lưu ra sao nào. Trong một tiếng đồng hồ, Eragon kể lại chuyến đi trong hai tháng rưỡi của nó. Angela lặng lẽ nghe, nhưng khi nó nhắc tới tên Murtagh, bà ta bật kêu lên: "Murtagh?" Eragon gật đầu bảo: - Đúng vậy, chính anh ta cho cháu biết anh ta là ai. Nhưng để cháu kể hết, bà hãy phán xét về anh ấy. Khi Eragon kể xong, Angela ngồi trầm ngâm suy nghĩ. Solembum nhảy tót lên lòng bà, hau háu nhìn Eragon. Angela vuốt ve con ma mèo, nói: - Thú vị thật. Galbatorix liên minh với Urgals. Murtagh xuất đầu lộ diện...Dù cháu chắc đã tiên đoán được những điều nguy hiểm, nhưng ta cũng khuyên cháu phải coi chừng Murtagh. - Murtagh tỏ ra là một người bạn chung thủy và một đồng minh quả quyết. - Dù sao cũng vẫn phải rất thận trọng. Còn vấn đề Tà Thần nữa. Mụ nghĩ, sau Galbatorix, Tà Thần Durza là mối đe dọa lớn nhất của Varden. Mụ ghê tởm Tà Thần, chúng luyện những phù phép yêu mị nhất, bằng cách chiêu mộ âm binh. Ta muốn được móc tim chúng bằng que sắt rỉ, quăng cho lợn ăn. Eragon ngạc nhiên vì giọng cay độc của bà phù thủy kiêm thầy bói: - Ông Brom bảo, Tà Thần là phù thủy, sử dụng âm binh để hoàn thành những công việc theo ý chúng. Nhưng cháu không hiểu sao chúng quá độc ác vậy? - Không, không đúng. Phù thủy thông thường, chẳng xấu hơn hay tốt hơn tất cả chúng ta. Họ dùng sức mạnh phép thuật để điều khiển âm binh và sức mạnh của âm binh. Còn Tà Thần buông thả sự kiểm soát hầu tìm kiếm những phép thuật, sức mạnh lớn hơn. Chúng để cho thân xác điều khiển bởi âm binh. Bất hạnh là chỉ những âm hồn độc ác nhất mới có thể trở thành quỉ ám con người, và một khi chúng đã nhập vào rồi, chúng sẽ không buông tha, không chịu xuất ra khỏi thân xác đó nữa. Tình trạng này có thể xảy ra vì tai nạn, khi một phù thủy để một âm hồn mạnh hơn nhập vào. Vấn đề là, khi một tà thần được tạo ra, việc tiêu diệt nó là một điều cực kỳ nan giải. Mụ tin cháu đã biết, chỉ có hai người sống sót sau khi giết Tà Thần: thần tiên Laetri và Kỵ Sĩ Irnstad. - Cháu đã được nghe chuyện này. Sao bà lên tận trên đỉnh này để ở, vừa biệt lập vừa bất tiện? - Nói thật nhé, ta đi trốn. Vì ta chỉ yên ổn được mấy ngày đầu khi tới đây. Một tên gác bép xép tiết lộ ta là ai, thế là đám phù thủy tép riu xúm vào làm phiền ta, nằng nặc mời ta gia nhập vào cái hội bí mật của chúng. Nhất là lại do loài dòi bọ như cặp sinh đôi điều khiển. Cuối cùng ta dọa sẽ biến chúng thành cóc, à xin lỗi, thành ếch ráo. Thế mà chúng đâu có nản lòng. Nửa đêm, ta chuồn lên đây. Chuyện lên tận đây sống, đối với mụ không khó khăn như cháu tưởng đâu. - Bà có phải để cặp song sinh xăm nhập vào tâm trí để kiểm tra không? - Hai anh em nó không dám làm chuyện đó với mụ đâu. Chúng biết sẽ bị mất hết công lực và hóa điên khùng. Vả lại, ta từng đến đây, trước khi Varden bày ra vụ kiểm tra tư tưởng này. Bà ta liếc về cuối phòng, bảo: - Buổi nói chuyện thật thú vị, nhưng chắc cháu cũng phải đi thôi. Mụ đang luyện một môn thuốc đặc biệt bằng độc thảo và lưỡi thằn lằn. Đó, nước thuốc sôi rồi. Lúc nào rảnh hãy tới chuyện trò với mụ nhé. Đừng cho ai biết mụ ở đây. Mụ chán di chuyển lắm rồi, bực mình lắm. Mà cháu thì chắc không muốn làm mụ...bực mình, phải không? - Cháu sẽ giữ bí mật. Mèo ma hướng dẫn Eragon trở về phòng, rồi ngoe ngẩy đuôi quay đi. Cung điện của vua lùn Eragon thức dậy đã thấy một người lùn đứng chờ. Sau khi cúi chào, anh ta lắp bắp: - Thưa Argetlam, Knurla Orik đang chờ ngài. Anh ta vừa lui ra, Saphira nhảy xuống sàn, cắp thanh Zar'rac trao cho Eragon: "Đeo vào. Anh là một Kỵ Sĩ, phải đeo một thanh kiếm của Kỵ Sĩ. Có thể thanh Zar'rac này có một lịch sử đẫm máu, nhưng hãy hãnh diện mà đeo nó, tạo cho nó một lịch sử mới." "Em quên Ajihad khuyên đừng đeo Zar'rac sao?" "Nếu anh muốn vượt lên khỏi những thế lực ở đây, đừng để họ điều khiển từng hành động của anh. Cứ đeo nó đi." Eragon miễn cưỡng đeo thanh kiếm. Trong khi bay xuống thành phố trong lòng núi, nó kể cho Saphira nghe chuyện gặp bà phù thủy Angela. Vừa hạ xuống một cổng thành Tronjheim, ông lùn Orik chạy lại, nói ngay: - Đức vua Hrothgar của chúng tôi đang chờ cả hai. Xuống đi, chúng ta cùng đi bộ vào. Vừa rảo chân theo Orik qua một hành lang đầy người dòm ngó, Eragon vừa hỏi: - Chúng ta gặp đức vua tại đâu? - Trong cung điện. Bên dưới thành phố này. Đức vua cho cậu được triệu kiến riêng, để chứng tỏ một hành động....rất otho, nghĩa là sự chân thành. Cậu không phải thi lễ theo triều nghi, nhưng hãy nói năng tôn kính. Đức vua rất nóng tính, nhưng rất anh minh, vì vậy phải thận trọng trong từng lời nói. Tới phòng trung tâm, Orik đi trước, hướng dẫn Eragon và Saphira xuống một cầu thang bên phải, rồi tới một lối đi có mái vòm dài chừng ba mươi thước, chấm dứt trước hai cánh cửa lớn bằng đá hoa cương. Một vương miện được khắc trùm trên bề mặt hai cánh cửa. Trước mặt họ là một tiền sảnh tối. Triều đình là một hang động thiên nhiên, dọc hai vách hang là những hàng thạch nhũ, từ trên rũ xuống, và từ nền mọc lên, cao lớn hơn một con người. Những ngọn đèn rải rác tỏa một nguồn ánh sáng âm u. Nền đá nâu và nhẵn bóng. Cuối hang, một bóng người ngồi bất động trên chiếc ngai màu đen. - Đức vua đang chờ. Orik cúi đầu nói rồi quay ra. Eragon nắm chặt chuôi kiếm tiến bước bên Saphira. Cánh cửa phía sau khép lại. Tiếng bước chân của nó và Saphira vang vọng khi cả hai đi qua những bức tượng đặt trong hốc giữa những hàng thạch nhũ. Mỗi bức tượng là một vị vua của người lùn, đội vương miện, ngồi trên ngai vàng, đôi mắt nghiêm khắc hướng về cõi xa xăm. Dưới chân tượng là hàng chữ khắc tên của vị vua. Qua hai hàng tượng của hơn bốn chục vị tiên vương, tới những hốc còn bỏ trống, dành cho các vua sẽ qua đời trong tương lai, Eragon và Saphira ngừng trước ngai vàng. Ông vua lùn ngồi im lìm trên ngai tạc bằng nguyên khối đá đen, chẳng khác gì một bức tượng. Chiếc ngai không trang trí, không được tạo theo một hình dáng nào, tỏa ra một sức mạnh, sức mạnh gợi nhớ lại thuở xa xưa, khi những người lùn cai trị Alageasia, không có bàn tay của thần tiên hay con người thường can thiệp vào. Vua Hrothgar đội một mũ đính hồng ngọc và kim cương thay cho chiếc vương miện. Mặt ông trang nghiêm hằn những kinh nghiệm của những năm dài cai trị. Dưới vầng trán nhăn, đôi mắt sâu sáng rực. Một tấm giáp sắt che trước ngực. Chòm râu bạc phủ xuống tận thắt lưng và trên đùi ông là một cay búa với biểu hiệu của bộ tộc, giống như trên nón sắt của Orik. Eragon cúi đầu, quì gối. Nhà vua nhích người, như vừa tỉnh giấc, cất giọng sang sảng nói: - Kỵ Sĩ hãy đứng lên. Ngươi không phải thủ lễ với ta. Eragon đứng thẳng dậy. Hrothgar chăm chăm nhìn rồi nói: - Âz knurl deimi lanok. Đó là một châm ngôn cổ. Coi chừng đá đổi thay...Nhưng ngày nay đá đổi thay mau chóng thật. Ta không thể gặp nhà ngươi sớm hơn vì buộc phải giải quyết cho xong một số việc với những kẻ chống đối trong các bộ tộc. Họ xin ta không cho nhà ngươi ẩn trú và trục xuất ra khỏi Farthen Dur. Ta đã phải cố gắng thuyết phục để họ đồng ý chuyện nhà ngươi ở lại vương quốc này. - Đa tạ bệ hạ. Thần không ngờ đã gây ra nhiều phiền toái thế. - Hãy nhìn kìa, Kỵ Sĩ Eragon. Đó là bốn mươi mốt đấng tiên vương của ta. Ta là vua thứ bốn mươi hai của vương quốc. Khi ta dời bỏ trần gian này để về cùng chư thần, tượng của ta cũng sẽ được đặt lên cùng các tiên vương. Bức tượng thư nhất kia giống hệt đại tổ Korgan của ta, chính đại tổ đã rèn nên cây chùy Volund này. Suốt tám thiên niên kỷ - từ buổi bình minh của nòi giống chúng ta - dưới lòng núi Farthen Dur hùng vĩ này đều do người lùn cai trị. Chúng ta là xương của đất, lâu đời hơn những thần tiên cao nhã và loài rồng man rợ. Saphira hơi rướn mình lên. Vua Hrothgar trầm giọng tiếp: - Ta đã già, già đủ để thấy những tháng năm huy hoàng của Kỵ Sĩ, để chuyện trò cùng Varel, người Kỵ Sĩ lãnh đạo cuối cùng của họ, khi ông ta tới đây triệu kiến ta chính trong bốn bức tường này. Vẫn có vài kẻ còn sống, có thể làm chứng cho điều ta nói. Ta còn nhớ những sự can thiệp của Kỵ Sĩ vào triều đình của ta, nhưng ta cũng vẫn nhớ nền hòa bình họ đem lại, để có thể bình yên đi bộ từ Tronjheim tới Narda. Giờ đây, nhà ngươi - một truyền thuyết đã mai một, lại hồi sinh - đứng trước mặt ta. Hãy thành thật cho ta biết, vì sao nhà ngươi tới Farthen Dur này. Ta đã nghe những việc làm nhà ngươi phải trốn chạy triều đình Galbatorix. Nhưng hiện nay mục đích của nhà ngươi là gì? - Hiện nay thần và Saphira chỉ mong bình phục trong những ngày tá túc tại đây. Thần không đến đây với ý định gây rối, mà chỉ xin được ẩn trốn khỏi những hiểm nghèo đã gặp trong mấy tháng qua. Có thể ông Ajihad sẽ chuyển thần và Saphira sang với thần tiên, nhưng cho tới khi đó, thần cầu mong được ở lại quí quốc. - Như thế là nhà ngươi chỉ có một nhu cầu là được sống yên thân tại đây và....bỏ qua hết những gì triều đình Galbatorix đã gây ra cho nhà ngươi? Eragon lắc đầu, kiêu hãnh nói: - Nếu bệ hạ đã nghe ông Ajihad tâu trình, hẳn bệ hạ đã biết những thống khổ của hạ thần. Dù tan thây nát thịt, thần vẫn quyết đấu cùng Galbatorix. Hơn thế nữa, tâm nguyện của thần là phải cứu giúp những con người chưa thoát khỏi vòng kiềm tỏa của ông ta, trong số đó có người anh họ Roran của thần. Nhà vua tỏ ra hài lòng vì câu trả lời của Eragon. Ông quay qua Saphira hỏi: - Rồng, mi nghĩ sao về vấn đề này? Lý do gì mi tới đây? Saphira nhếch mép gầm gừ: "Nói với ông ta, em khát máu kẻ thù và đang sôi gan chờ ngày ra trận để choảng nhau với Galbatorix. Em không thể có cảm tình đối với quân phản bội, những kẻ đã đập vỡ trứng rồng như lão vua giả đó. Lão đã giam giữ em suốt bao thế kỷ. Thậm chí đến bây giờ, còn hai anh em của em trong tay lão. Em phải giải phóng cho họ. Và anh cũng nói cho nhà vua biết, em thấy là anh cũng đã sẵn sàng." Eragon nhăn nhó, nhưng cũng đành chuyển lại lời của Saphira. Ông vua già thích thú cười nhăn cả mặt: - Ha ha ta thấy bao nhiêu thế kỷ rồi loài rồng vẫn chẳng hề thay đổi. Các ngươi biết vì sao ngai vàng này được đẽo chẳng ra hình dáng gì, mà lại gồ ghề thế này không? Để không ai có thể thoải mái ngồi yên trên nó. Ta cũng vậy, khi phải từ bỏ ngai vàng, ta không tiếc nuối gì. Eragon, điều gì đã thúc dục, nhắc nhở ngươi tới trách nhiệm vậy? Có phải vì ngai vàng của Galbatorix hay không? - Thần không cố gắng để được ngai vàng hay quyền lợi. Trách nhiệm của một Kỵ Sĩ đã quá đủ rồi. Không, thần sẽ không dành vương miện của kinh đô Uru'baen...trừ khi không có người kế vị hay không ai đủ tài đức để lãnh trách nhiệm này. - Chắc chắn ngươi sẽ là một nhà vua đức độ hơn Galbatorix, nhưng không một đất nước nào nên có một người trị vì còn ít tuổi và muốn dẹp bỏ ngai vàng. Thời đại Kỵ Sĩ qua rồi, Eragon ạ. Họ sẽ không bao giờ thành công như xưa đâu. Cho dù hai cái trứng rồng của Galbatorix có nở ra. Mặt ông tối lại khi nhìn bên sườn Eragon: - Ta thấy ngươi đang đeo thanh kiếm của kẻ thù. Ta cũng được nghe kể, ngươi đi cùng con trai của một phản đồ. Lòng ta không vui khi thấy thanh kiếm đó, nhưng đưa ta nhìn kỹ xem sao. Eragon tháo kiếm, dâng lên, chuôi kiếm đưa lên trước. Nhà vua ngắm nghía màu đỏ của thanh kiếm rực sáng dưới ánh đèn. Vừa vuốt ve lưỡi kiếm, ông vừa gật gù nói: - Tuyệt hảo! Quả là bậc thầy tôi luyện kiếm. Thần tiên chỉ chuyên sử dụng cung tên, thương giáo, nhưng khi họ đã rèn kiếm thì cũng không ai bì kịp. Đây là một thanh kiếm bất hạnh, ta không muốn thấy nó trong vương quốc của ta. Nhưng nếu muốn, ngươi cứ đeo, biết đâu số phận của nó đã được đổi thay. Ông trao lại thanh Zar'rac và hỏi: - Cháu ta có tận tình giúp đỡ ngươi không? - Thưa....là ai? - Orik. Con trai quận chúa út của triều đình. Orik phục vụ Ajihad để chứng tỏ việc ta ủng hộ Varden. Tuy nhiên, hình như Orik đã trở lại dưới quyền ta. Ta rất hài lòng chuyện ngươi đã lên tiếng bênh vực cho Orik. Eragon hiểu đây lại thêm một dấu hiệu otho - chân thành - nữa. Nó cúi đầu thưa: - Orik đã giúp thần rất tận tình - Tốt. Nhưng ta không thể chuyện trò với nhà ngươi lâu hơn nữa. Còn nhiều vấn đề chờ ta giải quyết. Tuy nhiên, ta có lời khuyên: nếu muốn có được sự ủng hộ của người lùn trong vương quốc của ta, trước hết hãy tự chứng tỏ mình. Đừng hấp tấp quyết định. Lời nói chẳng là gì, phải chứng tỏ bằng hành động. - Thần xin ghi nhớ. - Các ngươi được phép lui ra. Orik đứng chờ sẵn bên ngoài. Vừa ra tới phòng trung tâm, ông lùn lo lắng hỏi: - Mọi chuyện tốt đẹp không? - Tôi nghĩ là tốt đẹp, nhưng đức vua của ông thận trọng lắm. - Nhờ vậy ngài mới có thể sống lâu đến thế. Saphira nhận xét: "Em không muốn nhà vua nổi giận với chúng mình." "Anh cũng vậy. Khó đoán được ông ta nghĩ gì về em. Hình như ông ta không có cảm tình với rồng, nhưng không nói ra." Orik nói: - Việc chúc phúc cho đứa trẻ hôm qua làm huyên náo cả phe Varden. Dấu vết của Saphira để lại trên trán con bé làm nó được đón chào như một vị anh hùng tương lai. Bà bảo mẫu và nó được cấp mấy căn phòng đẹp nhất. Mọi người đều bàn tán về "phép lạ" của Saphira. Các bà mẹ đang tìm cả hai để xin chúc phúc cho con cái họ. Eragon lo lắng nhìn quanh: - Tôi phải làm sao bây giờ? - Tránh mặt đi. Mọi người đang xúm đầy gần cửa lên nhà nghỉ của rồng. Trời còn sớm, Eragon cũng chưa muốn trở về. Nó muốn cùng Saphira khám phá Tronjheim, nhưng có Saphira lại khó tránh được mọi người. "Em tính sao, Saphira?" "Em về trước. Vì em có khách chờ. Anh cứ đi đi." "Được, nhưng ai chờ em?" Cô ả chỉ nháy đôi mắt thô lố làm duyên rồi quay đi. Eragon nói với Orik: - Tôi muốn đi ăn sáng rồi tham quan thành phố. Ngày mai hãy ra bãi tập, tôi chưa cảm thấy hoàn toàn khoẻ hẳn. - Cậu có muốn thăm thư viện không? Rất nhiều sách có giá trị. Cậu sẽ thích thú tìm hiểu lịch sử Alageasia khi chưa bị bàn tay Galbatorix làm ô uế. Lúc này Eragon mới nhớ lại ông Brom đã từng dạy nó đọc ra sao. Không biết nó còn nhớ gì không. Lâu quá rồi Eragon không để mắt tới một con chữ nào. Điểm tâm xong, hai người tới thư viện. Gian phòng làm Eragon nhớ những khu rừng. Những hàng cột vươn lên trong bóng tối, đỡ một mái trần năm tầng phía trên. Giữa những hàng cột, những kệ đá đen đối lưng nhau, ngồn ngộn sách. Nhiều băng đá dài và bàn kê sát tường. Orik cắt nghĩa: - Nơi này đúng thật là di sản của cha ông chúng tôi. Ở đây lưu giữ những trang viết của những vị vua, những học giả vĩ đại nhất từ thượng cổ tới ngày nay. Cả những ghi chép, sưu tầm những bài ca, truyện cổ của những nghệ nhân. Tuy nhiên, không phải tất cả đều là tác phảm của chúng tôi, ở đây cũng có những tác phẩm của con người thường. Giống người các cậu, tuy đời sống ngắn ngủi, nhưng rất phong phú. Thư viện này rất ít, hay gần như không có những gì của thần tiên. Họ giữ gìn rất bí mật. - Tôi có thể ở lại đây chừng bao lâu? - Tùy cầu. Cần gì thì lại tìm tôi. Eragon hăm hở lục tìm những quyển sách có những tên hấp dẫn hay bìa đẹp. Nó không ngờ chữ viết của người lùn cũng giống người thường. Nhưng nó hơi nản vì phải chật vật để nhớ ra mặt chữ. Dần dần nó đi sâu mãi về cuối thư viện. Khi Eragon đang lẩm nhẩm mấy vần thơ dịch từ một bài thơ của vị vua thứ mười, chợt nó nghe bước chân lạ sau kệ sách. Nhưng nó cười thầm vì biết trong thư viện không có ai. Tuy nhiên, Eragon cũng nhẹ nhàng đặt quyển sách xuống, lắng nghe. Tiếng chân lại nổi lên, không phải một, mà là hai người. Nó nhìn quanh cố nhớ Orik ngồi chỗ nào. Bước qua một góc phòng, Eragon giật thót người: cặp song sinh đứng lù lù trước mặt. Chúng đứng vai sát vai, mặt trơ trơ. Bốn con mắt rắn đen ngòm chiếu thẳng vào Eragon. Hai tay chúng thu trong vạt áo. Cả hai cúi đầu, nhưng với bộ dạng đầy vẻ nhạo báng xấc xược: - Chúng tôi tìm cậu khắp nơi. - Để làm gì? Eragon cố nén rùng mình, hỏi. Vì giọng chúng gai góc khó chịu giống giọng tụi Ra'zac. Nó vội phóng tư tưởng liên lạc với Saphira. Một tên lên tiếng, vẫn bằng giọng lễ phép giả tạo, nhưng Eragon không thể nào bắt bẻ: - Từ sau hôm cậu gặp thủ lĩnh Ajihad, tôi muốn...có dịp xin lỗi vì những hành động đã qua. Hôm nay anh em chúng tôi đến để tỏ lòng tôn kính. Eragon đỏ mặt tức giận khi cặp song sinh cúi rạp người như làm trò hề. Nghe Saphira nhắc nhở: "Thận trọng." Ráng nén tức, nhưng không thể để cho anh em nhà này trêu chọc mãi, Eragon cười cười: - Tôi mới là người phải nhớ ơn hai anh chứ. Các anh không cho phép, làm sao tôi vào được nơi này. Nó cúi đầu đáp lễ rồi ngạo mạn quay đi. Cặp song sinh thoáng vẻ bất mãn, nhưng vẫn nói: - Chúng tôi rất hân hạnh vì được một người rất....quá quan trọng ban cho những lời vàng ngọc đó. Chúng tôi mong được trả ơn này.... - Tôi sẽ nhớ những lời anh vừa nói, khi nào cần thiết. Saphira nổ ngay với Eragon: "Anh cương quá rồi đấy. Chúng sẽ ghim thái độ của anh, đợi dịp trả thù cho mà xem." "Đừng ý kiến ý cò nữa. Bực lắm rồi." Cặp song sinh tiến lại gần hơn. Giọng chúng chợt hòa nhã vui vẻ: - Chúng tôi tìm cậu còn vì một lý do khác nữa. Kỵ Sĩ, một số người biết phép thuật tại thành phố ngầm này đã thành lập một nhóm, với tên gọi là Du Vrangr Gata, nghĩa là.... - Đường Phiêu Lãng, tôi biết. Nó nhớ lại Angela đã kể về vụ này. Một trong hai tên lên tiếng nịnh: - Sự am tường của Kỵ Sĩ về ngôn ngữ cổ thật sâu rộng. Và cũng vì tài trí và những chiến công hiển hách của Kỵ Sĩ mà chúng tôi được cử đến mời Kỵ Sĩ gia nhập nhóm Du Vrangr Gata. Chúng tôi có thể hướng dẫn cậu....những câu thần chú mà chúng tôi đã khám phá được. Không gì vinh hạnh cho chúng tôi hơn là góp chút tài mọn trên đường tiến tới vinh quang của cậu. Chúng tôi không dám đòi hỏi gì. Nhưng....nếu có thể, cậu san sẻ cho chúng tôi chút ít hiểu biết của cậu, chúng tôi không dám quên ơn... - Các anh tưởng tôi là thằng ngốc sao? Vì những gì ông Brom dạy tôi, các anh đã không thể làm gì được tôi. Các anh tức điên lên vì vậy. Tôi không học hành, chia sẻ gì với hai anh hết. Nụ cười biến mất ngay trên mặt chúng: - Chúng ta không đùa đâu, nhóc. Chính anh em ta sẽ kiểm tra khả năng phép thuật của mi. Nhớ cho kỹ, chỉ một chút "sơ xảy" cố ý của ta là mi mất mạng. Cho dù mi là Kỵ Sĩ, nhưng hai anh em ta cộng lại vẫn mạnh hơn mi. Eragon cố bình thản nói: - Ta sẽ cân nhắc lại lời mời. Nhưng... - Tốt. Chúng tôi sẽ đợi câu trả lời vào ngày mai. Hãy suy nghĩ kỹ và...trả lời sao cho nghe được. Chúng cười lạnh tanh, quanh lưng, đi về cuối thư viện. Eragon cho Saphira biết: "Dù chúng làm gì, anh cũng không gia nhập cái nhóm mắc dịch đó." "Anh nên nói chuyện này với bà Angela. Bà đã từng đụng độ với hai tên này rồi. Có thể bà ấy cũng sẽ có mặt khi chúng kiểm tra anh, như vậy may ra anh tránh khỏi bị chúng âm mưu hãm hại." Eragon tìm thấy Orik đang ngồi lau chùi cây rìu chiến đấu. Ông dẫn Eragon ra khỏi thư viện, tới nơi Saphira đang chờ sẵn. Đám đông chưa kịp tụ tập tới, Saphira đã bay vút lên. Vừa đậu trên Ngôi Sao Ngọc, Saphira nói ngay: "Phải giải quyết vấn đề này gấp. Anh không thể để chúng nó hăm dọa mãi được." "Anh biết. Nhưng anh không muốn làm chúng giận." "Vậy là anh định nhập nhóm với chúng à?" "Không, ngày mai anh sẽ cho chúng biết là anh từ chối." Saphira vào hang, còn Eragon đi tới đi lui suy nghĩ. Nó muốn gặp bà Angela, nhưng không nhớ đường. Ra hành lang, đi lung tung, chỉ gặp những gian phòng bỏ trống, Eragon trở lại nhà nghỉ của rồng. Nó chợt nghe trong phòng có tiếng người nói. "Saphira, ai ở trong đó vậy?" "Một cô gái...vẻ có uy lắm. Để em làm cho cô ấy chú ý tới em, cho anh vào nhé." Eragon thắc mắc, vì chính Orik cho biết, không ai được lên đây, nếu không được mời. Eragon nắm chặt kiếm, bước vào. Một thiếu nữ đứng giữa phòng, đang tò mò nhìn cái đầu khổng lồ của Saphia ló ra khỏi hang. Ánh sáng từ ngôi sao ngọc tỏa xuống làn da sẫm màu như da của Ajihad. Cô ta chừng mười bảy tuổi. Áo nhung màu rượu nho. Chuôi dao găm nạm ngọc ló khỏi bao da cô đeo bên mình. Eragon đứng khoanh tay, chờ cô gái quay lại. Nhưng cô vẫn chăm chú ngắm Saphira, rồi duyên dáng nghiêm mình, ngọt ngào hỏi: - Làm ơn cho biết Kỵ Sĩ Eragon đang ở đâu? Đôi mắt láu cá của ả rồng sáng lên thích thú. Eragon mỉm cười lên tiếng: - Tôi đây. Bàn tay đặt ngay vào dao găm, cô gái quay phắt lại. Đôi mắt hình trái hạnh, cặp môi đầy đặn, gò má tròn. Cô gái lại nghiêng mình mình chào, nói: - Tôi là Nasuada. - Chắc cô đã biết tôi là ai. Nhưng cô cần gì? - Cha tôi, ông Ajihad, có tin nhắn cho anh. Anh nghe chứ? Thủ lãnh Varden có vợ con không làm Eragon ngạc nhiên, nó chỉ tự nhủ, người đàn bà nào lọt vào mắt Ajihad chắc phải là một người đặc biệt. - Vâng, tôi sẵn sàng nghe đây. - Cha tôi rất hài lòng với những gì anh đã làm. Nhưng ông cảnh giác anh về những chuyện như vụ chúc phúc hôm qua. Nó tạo ra nhiều vấn đề khó khăn hơn là làm dịu tình thế. Ông cũng hối thúc anh mau ra bãi tập để kiểm tra càng sớm càng tốt. Cha tôi muốn biết khả năng toàn diện của anh, trước khi ông liên hệ với thần tiên. - Cô leo cầu thang suốt từ dưới đó lên tận đây sao? Nó nghĩ đến chiều dài thăm thẳm của cầu thang vô tận. Cô ta lắc đầu: - Tôi lên bằng một ròng rọc vẫn chuyển lương thực và đồ đạc lên đây. Có thể nhắn tin bằng tín hiệu, nhưng tôi muốn tự gặp anh để chuyển lời cha tôi. Eragon chỉ vào hang Saphira: - Cô muốn ngồi một chút không? - Không, tôi còn việc ở nơi khác nữa. Cha tôi cũng cho phép anh đến thăm Murtagh, nếu anh muốn. Giọng cô ta chợt thoáng buồn: - Murtagh rất mong được chuyện trò cùng anh. Anh nên đến thăm anh ấy. Hình như Murtagh...cô đơn lắm. Nasuada chỉ đường tới phòng giam Murtagh cho Eragon. Nó cám ơn rồi hỏi thăm về Arya. Cô gái cười tinh quái: - Cũng như những thần tiên khác, Arya bình phục rất nhanh. Chưa ai được phép vào thăm Arya, trừ đức vua, cha tôi, và các thầy thuốc. Đức vua và cha tôi đã biết hết những chuyện thời gian Arya bị giam cầm. Bây giờ tôi phải đi, anh có điều gì muốn tôi chuyển lại cha tôi không? - Cho tôi gửi lời cám ơn tất cả nhiệt tình ông đối với chúng tôi. Và tôi mong mỏi được thăm Arya. - Tạm biệt, Kỵ Sĩ Eragon. Mong sớm gặp lại. Khi Nasuada đi khỏi, Eragon thắc mắc: "Chẳng lẽ cô ta lặn lội lên tận đây chỉ nói vài chuyện phiếm đó sao?" "Ôi dào, suy luận cho rách việc" Saphira lèm bèm rồi thụt đầu vào hang. Eragon vừa lên tới nơi, chợt kinh ngạc thấy Solembum đang cuộn mình trong cái hốc kế bên đầu Saphira. Cả con ma mèo và ả rồng đều trố mắt nhìn Eragon như hỏi: "Thì sao nào?" Eragon cười sằng sặc hỏi: "Saphira, khách chờ em là Solembum hả?" Cả hai đứa đều chớp mắt trả lời: "Chính xác." Eragon lắc đầu thú vị. Cặp này kết bạn với nhau là đúng quá rồi, cá tính giống nhau, cùng là sinh vật của phép thuật. Nó hỏi: "Solembum, mi biết bà Angela đang ở đâu không?" "Ở đâu đó trong thành phố này." "Bao giờ bà trở lại? Ta cần hỏi ý kiến bà ngay hôm nay." "Bà ấy chưa về sớm thế đâu." Con mèo ma trả lời xong im thin thít, không chịu nói thêm gì nữa. Eragon chán nản nằm xuống cạnh Saphria tự nhủ, ngày mai mình phải đi thăm Murtagh. Cuộc thử thách của Arya Buổi sáng ngày thứ ba tại Tronjheim, Eragon thức dậy với một tinh thần sảng khoái, sức khoẻ tràn trề. Đeo thanh Zar'rac, cung tên rồi nó cùng Saphira bay tà tà vào Farthen Dur. Khi gặp Orik, Eragon hỏi về Nasuada. Orik khó chịu liếc mắt nhìn thanh Zar'rac, trả lời: - Nasuada là một cô gái hiếm có. Cô ấy hoàn toàn tận tâm tận lực với cha. Tất cả thời gian của cô đều dành cho công việc giúp Ajihad. Tôi nghĩ, cô ta làm nhiều việc hơn là Ajihad tưởng. Nhiều khi cô ta thu xếp, điều khiển địch thù chính trị của ông bố, mà không hề lộ diện. - Mẹ cô ấy là ai? - Điều đó thì tôi không biết. Ajihad một mình đem theo Nasuada tới đây, khi cô ấy mới ra đời. Ông ta chưa bao giờ cho biết từ đâu tới. Vậy là cô ta cũng lớn lên mà không biết mẹ là ai, Eragon nghĩ. Nó bảo: - Tôi bồn chồn quá, phải hoạt động cho cơ thể làm việc một chút. Bây giờ phải đến đâu để qua vòng "kiểm tra" của ông Ajihad đây? - Tuy bãi tập chỉ cách đây nửa dặm, nhưng khuất núi nên không thấy được. Đó là một vùng rất rộng, cả người lùn cũng tập tại đó. Saphira bảo: "Em cũng đi." Eragon nói lại ý nó, Orik vuốt râu ngần ngại: - Có lẽ không nên. Bãi tập rất đông người, Saphira sẽ làm mọi người chú ý. Saphira la toáng lên: "Tôi cứ đi. Rách việc!" Gần tới bãi tập đã nghe tiếng người cười nói, la hét, tiếng vũ khí bằng sắt, bằng gỗ bình bịch, loảng choảng chạm nhau. Toán bộ binh đang tập đấu với khiên và rìu có cán dài. Kế bên họ là bãi tập của hàng trăm chiến binh với đủ thứ vũ khí: chùy, giáo, gậy...và đủ lọai mộc, khiên, giáp. Hầu hết chiến binh đều đội mũ sắt và áo giáp cũng đan bằng sắt. Người lùn rất đông, nhưng tập thành riêng một nhóm. Đám xạ thủ đang tập bắn vào hình nộm bằng những bao vải. Eragon đang ngơ ngác chưa biết phải làm gì, một người rậm râu tiến lại. Mũ vải phủ từ đầu xuống vai, áo quần da bò còn phủ đầy lông, tay ông ta lăm lăm thanh gươm to, dài gần bằng thanh Zar'rac của Eragon. Ông ta liếc mắt như đánh giá Eragon và Saphira, rồi càu nhàu Orik: - Anh đi đâu lâu thế. Ở đây chẳng còn tay nào chịu đấu với tôi. - A, vì anh đập chúng te tua, tất cả đều bị bầm dập từ đầu đến chân rồi, còn tay nào dám làm đối thủ của anh nữa. - Có chứ, còn anh đó, Orik. - Vì tôi lanh lẹ hơn một chàng khổng lồ như anh. Ông ta quay lại Eragon: - Tôi là Frederic, tôi được lệnh tìm hiểu khả năng của cậu. Cậu khoẻ cỡ nào? - Dạ, cũng tạm được. Tôi được lệnh thử đấu bằng phép thuật. - Phép thuật không có chỗ tập ở đây. Tôi nghĩ là những trận đánh cậu đã tham dự chỉ kéo dài mấy phút. Điều chúng tôi quan tâm là, sức chịu đựng của cậu tới đâu trong những trận đánh kéo dài nhiều giờ, thậm chí nhiều tuần. Ngoài cung và kiếm ra, cậu còn sử dụng vũ khí gì? - Chỉ...có quả đấm thôi. Frederic ha hả cười: - Câu trả lời hay lắm. Tốt, chúng tôi sẽ thử tài bắn cung của cậu trước tiên. Sau đó khi bãi tập trống, chúng ta sẽ.... Ông ta chợt ngừng nói, nhìn phía sau Eragon, giận dữ rủa mấy tiếng. Cặp song sinh đang lừ lừ lại gần. Hai cái đầu hói nhợt nhạt, trái ngược hẳn với màu đỏ tía của hai cái áo choàng. Orik cũng vừa rút cây rìu ra vừa lẩm bẩm một tràng cổ ngữ. Frederic tiến lên đầy vẻ khiêu khích: - Tao đã bảo hai anh em mày tránh xa bãi tập này ra. Trước thân hình hộ pháp của ông, cặp sinh đôi trông yếu hẳn, nhưng chúng vẫn ngạo nghễ nói: - Tôi được lệnh Ajihad kiểm tra khả năng phép thuật của Eragon, trước khi....ông làm cậu ta hết hơi vì những thanh sắt của ông. - Sao không để người khác kiểm tra Eragon? - Vì không ai đủ sức. Saphira nhảy lại gần, phì một luồng khói đen. Cặp sinh đôi làm ngơ, ra lệnh cho Eragon: - Theo chúng tôi. Eragon nhún vai, cùng Saphira đi theo chúng. Phía sau, nó nghe Frederic nói với Orik: - Mình phải ngăn cản trước khi chúng đi quá đà. Và tiếng Orik: - Tôi biết, nhưng tôi không thể can thiệp vào. Đức vua đã ban lệnh sẽ không che chở cho tôi một lần nữa. Eragon cố chống lại nỗi sợ hãi. Hai anh em thằng hói này có thể phép thuật cao cường hơn nó. Tuy vẫn nhớ lời ông Brom, phép thuật của một Kỵ Sĩ mạnh hơn người thường, nhưng liệu nó có đấu lại với hai tên này khi chúng cùng hiệp lực lại không? Saphira bảo: "Đừng lo lắng quá. Còn có em. Mình sẽ cùng hiệp lực lại." Cặp song sinh nhìn Eragon hỏi: - Sao, Kỵ Sĩ, trả lời lời mời hôm qua chứ. Nhận hay không? - Không. Chúng nhếch mép, cúi xuống vẽ trên mặt đất một ngôi sao, rồi cả hai bước vào chính giữa. Một tên cất giọng đầy hiểm độc: - Vậy thì chúng ta bắt đầu. Mi chỉ phải làm đúng theo những gì chúng ta yêu cầu. Đơn giản vậy thôi. Móc túi lấy ra một viên đá bằng nắm tay Eragon, hắn đặt xuống đất bảo: - Nâng cao viên đá lên ngang tầm mắt. "Trò trẻ." Eragon nói với Saphira, rồi niệm: - Sternr reisa! Viên đá run rẩy, rồi nhẹ nhàng bay bổng lên khỏi mặt đất. Nhưng mới chỉ được chừng ba mươi phân, một sức mạnh vô hình giữ nó lơ lửng, không lên cao hơn được nữa. Anh em sinh đôi lại nhếch mép cười. Eragon điên tiết trừng trừng nhìn chúng. Hai thằng này quyết tâm làm cho Eragon thất bại, vì nếu bị kiệt sức trong cuộc đọ sức đầu tiên này, Eragon sẽ không còn đủ khả năng tỉ thí trong những môn đòi hỏi nhiều sức lực hơn. Chúng đang dương dương tự đắc, tin rằng hai anh em phối hợp sẽ hạ Eragon một cách dễ dàng. Nhưng ta đâu chỉ một mình. "Saphira, bắt đầu." Nội lực của Saphira truyền sang cho Eragon. Hòn đá rướn mình vọt lên, lơ lửng đúng ngang tầm mắt. Cặp song sinh rít lên: - Hay lắm. Bây giờ hãy vận chuyển cho hòn đá xoay vòng. Một lần nữa, Eragon và Saphira lại vượt qua thử thách dễ dàng. Buổi thử nghiệm tiếp tục tăng dần, càng lúc càng phức tạp, khó khăn hơn. Eragon phải cố nhớ những câu chú chính xác. Trong khi đó mặt anh em chúng vẫn tỏ ra bình thản tung ra những màn đấu phép ác liệt hơn. Không có sự âm thầm tiếp sức của Saphira, chắc chắn Eragon đã lăn đùng trên mặt đất. "Saphira, tại sao chúng kéo dài cuộc kiểm tra này lâu thế? Chúng đã thấy rõ khả năng anh rồi mà. A, anh nghĩ ra rồi, chúng lợi dụng việc này để moi móc và học tất cả những câu thần chú anh biết." "Niệm chú nhỏ thôi, đừng để chúng nghe được. Và nhớ chỉ dùng câu đơn giản nhất." Từ lúc này, Eragon đọc thật nhỏ và dùng những câu thật ngắn, nhưng phối hợp cho chúng có hiệu quả như một câu thần chú dài. Eragon tiếp tục chiến thắng và làm hai tên đầu hói tức tối co rúm mặt, vì không thể nào hiểu nổi những câu thần chú của Eragon. Hơn một tiếng trôi qua, nhưng cặp sinh đôi chưa tỏ một dấu hiệu nào ngưng lại cuộc khảo sát. Eragon vừa nóng vừa khát. Tiếp tục: phân chất nước, nhóm lửa, thu hình ảnh từ xa, làm đông lạnh các vật thể, điều khiển đường bay của một mũi tên....Sau cùng, chúng đưa tay lên nói: - Chỉ còn một việc đơn giản nữa thôi: hãy rút ra phần tinh túy của bạc trong cái nhẫn này. Chúng đưa ra một cái nhẫn bạc. Eragon bối rối nhìn. Tinh túy của bạc là cái quái gì? Chưa bao giờ nó biết tên thật của bạc bằng cổ ngữ. Saphira cũng không biết. Tuy nhiên Eragon biết argetlam có phần chỉ về bạc, như người ta thường nói về bàn tay chiếu sáng của nó. Nó đành phối hợp từ ethgri (chiêu hồn) với từ arget. Vừa thu hết nội lực, đứng thẳng người, mở miệng nói lời niệm chú, một tiếng nói trong như tiến chuông, vang vào tai nó: - Ngừng lại! Giọng nói du dương, quen thuộc đến lạ lùng, cả người nó như gặp luồng gió mát. Eragon từ từ quay lại: một mình đứng sau nó, chính là...Arya. Trên trán buộc dải dây da, mái tóc đen thả sau lưng, phủ trên đôi vai, bềnh bồng như dòng suối. Thanh gươm mảnh mai đeo bên hông, cung khoác phía sau lưng. Y phục da đen đơn sơ khoác lên một nhan sắc quá mĩ miều. Nàng cao hơn nhiều người đàn ông khác. Gương mặt không còn lưu chút dấu vết nào của những ngày tù đầy gian khổ. Đôi mắt ngọc bích của Arya rực sáng, nhìn như xoắn vào ánh mắt khiếp đảm của cặp song sinh. Khoan khoái bước tới, nàng cất giọng nhẹ nhàng: - Các ngươi không nhục ư? Nhục vì đòi hỏi ở anh ta những khả năng chỉ có những bậc đại sư phụ mới có thể làm. Nhục vì các ngươi đã dùng phương pháp hèn hạ đó. Nhục vì các ngươi đã báo cáo với Ajihad là chưa biết khả năng của Eragon, nên cần phải kiểm tra. Bây giờ đã biết tài năng của anh ta rồi, sao chưa xéo khỏi đây? Nàng nhíu đôi mày lá liễu, chỉ ngón tay lên chiếc nhẫn bạc trên tay Eragon, hô lớn: - Arget! Màu bạc sáng rực lên. Một hình ảnh ma quái biến thành vật chất nằm cạnh chiếc nhẫn. Hai nhẫn giống hệt nhau. Nhưng mặt nhẫn hiện hình mặt quỉ trong trẻo hơn, rọi chiếu một màu trắng nóng. Vừa thoáng nhìn, cặp song sinh vùng bỏ chạy. Chiếc nhẫn quỉ biến mất. Trên tay Eragon chỉ còn lại chiếc nhẫn bạc bình thường. Orik và Frederic lo lắng nhìn Arya. Saphira rướn mình sẵn sàng hành động. Arya nhìn khắp mọi người, rồi đôi mắt đẹp của nàng dừng lại Eragon. Khi nàng tiến vào giữa bãi tập, các chiến binh buông vũ khí. Tất cả im lặng như tờ, bàng hoàng trước nhan sắc nàng tiên. Eragon đi theo như bị hớp hồn. Saphira léo nhéo trong đầu, mà nó có hiểu cô em rồng nói gì đâu. Một vòng người vây quanh Arya, nhưng nàng chỉ nhìn Eragon, rồi lên tiếng: - Ta dành quyền được thử thách tài năng sử dụng vũ khí của Eragon. Rút kiếm ra. Nàng có ý quyết đấu với ta? Eragon ngỡ ngàng thầm nhủ. Nhưng Saphira hí hởn nói ngay: "Nhưng cô nàng chả dám làm anh đau đâu, anh nhóc ạ. Trổ tài đi cho em thưởng thức." Eragon miễn cưỡng tiến ra. Nó không thích chuyện này chút nào. Vừa hết hơi trong cuộc thử thách phép thuật, vừa có quá nhiều người chung quanh. Hơn nữa, tình trạng Arya chưa thể giao đấu được, nàng mới chỉ uống thuốc giải độc được hai ngày. Eragon thầm nhủ: ta sẽ nhẹ tay để không làm nàng bị đau. Giữa vòng tròn đầy các chiến binh, hai người đứng đối diện nhau. Arya rút kiếm bằng tay trái. Mũi lưỡi Zar'rac đỏ rực chúc xuống đất. Tiên và người im lặng nhìn nhau. Eragon thoáng nghĩ đến biết bao trận luyện kiếm cùng ông già Brom. Ông luôn chủ động ra chiêu trước. Nó thận trọng tiến lên. Một thoáng chuyển động, Arya đã đưa kiếm tới sát sườn nó. Eragon vung kiếm đỡ. Những đốm sáng tỏa ra như mưa khi hai vũ khí chạm nhau. Arya không tận dụng lợi thế đường khai kiếm, nàng xoay mình sang phải, làn tóc thơm bay tung trong gió, trong khi một đường kiếm của nàng nhanh như chớp đến sát người Eragon. Nó chỉ kịp đưa kiếm đỡ, sững sờ vì sự lanh lẹ và đường kiếm dữ dội của Arya. Nó chợt nhớ lời ông Brom, một thần tiên yếu nhất cũng vẫn mạnh hơn con người. Lần này, Arya lướt kiếm thẳng trên đầu nó, Eragon thụp xuống, né lưỡi kiếm bén như lưỡi dao cạo của nàng. Arya định giở trò gì đây? Rồi nó nhận ra nàng đang muốn biết khả năng của nó. Nghĩ vậy, Eragon bắt đầu tung ra hầu hết những chiêu lắt léo, đầy biến ảo mà nó từng học được. Chuyển từ thế này sang thế khác, không ngừng kết hợp, biến đổi để các đường kiếm trở nên hư ảo khôn lường. Nhưng biến chuyển cách nào, đường kiếm của Eragon cũng không thể đến gần nàng được. Arya vẫn bình thản, duyên dáng phá bỏ những chiêu kiếm của Eragon không chút tỏ ra ráng sức. Cuốn lấy nhau như một vũ điệu thần tiên, thân thể họ nhịp nhàng lui, tiến trong ánh thép loang loáng vây quanh. Nhiều lúc, hai làn da chỉ cách nhau bằng sợi tóc. Thân thể họ uốn éo, vờn lượn, bện lấy nhau như một sợi thừng bằng khói, sắp tung bay theo làn gió. Eragon không còn nhớ nổi đã thi đấu bao lâu. Dường như không còn thời gian nữa, chỉ còn công và phản công. Thanh Zar'rac nặng trĩu trong tay. Cuối cùng, Eragon vừa đưa kiếm về phía nàng, Arya chuyển mình sang một bên, mũi kiếm của nàng đã dí sát cằm Eragon lanh lẹ phi thường. Eragon đờ người khi mũi thép lạnh ngắt chạm vào da. Nó mơ hồ nghe tiếng kèn của Saphira, tiếng hoan hô của các chiến binh. Arya tra kiếm vào bao, nàng nói nhỏ như gió thoảng trong tiếng cổ vũ náo nhiệt chung quanh: - Chàng đã vượt qua cuộc khảo thí rồi. Frederic đến, vỗ lưng Eragon thùm thụp: - Tuyệt hảo! Những chiêu thức biến ảo đến không ngờ. Tôi cũng học lóm được vài chiêu của hai người. Nhưng thật tình là mình đã thua, Eragon thầm nghĩ. Orik nhìn nó toét miệng cười, đầy khâm phục. Nhưng lúc này Eragon chỉ còn nhìn thấy một mình Arya. Nàng thoáng đưa ngón tay về một gò đất cách xa chừng một dặm, rồi quay lưng bước đi. Tất cả đều im lặng, tách ra khi nàng bước qua. Eragon nói với Orik: - Tôi phải đi. Sẽ trở lại nhà nghỉ sau. Nó xách kiếm nhảy vội lên Saphira. Khi Saphira cất cánh, cả biển người trên bãi tập ngửa mặt nhìn theo. Eragon nghiêng mình nhìn xuống: Arya đang khinh công vun vút phía dưới. Saphira mát mẻ: "Hình như anh thấy cô ta xinh đẹp lắm thì phải?" "Hơi bị quá đẹp đấy." "Khuôn mặt kể ra cũng hơn nhiều người, nhưng....dài như mặt ngựa ấy nhỉ. Áo quần trông...như đồ dở hơi." "Ê, em ghen tị hả?" "Hứ, tôi mà thèm ganh tị? Không bao giờ có chuyện đó đâu." Eragon cười sằng sặc: "Có mà, thú thật đi." Saphira đáp xuống gò đất đến bịch một cái làm Eragon suýt ngã. Nhưng nó không quan tâm vì còn mải nhìn Arya đã tiến đến gần. Nàng ung dung bước lên gò, hơi thở vẫn điều hòa. Thình lình lưỡi Eragon cứng lại, không thốt nổi một lời, chỉ ngẩn ra nhìn nàng. Arya đến bên Saphira, nói rất nhanh một tràng cổ ngữ. Eragon chỉ biết loáng thoáng vài từ, nhưng rõ ràng Saphira hiểu hết. Nó xếp cánh nhìn Arya lom lom rồi hậm hực gật đầu. Arya mỉm cười. Lúc này Eragon mới lắp bắp được mấy tiếng: - Thấy nàng bình phục, tôi mừng quá. Chỉ lo nàng không sống nổi. - Đó chính là lý do ta tới đây hôm nay. Chàng đã cứu mạng ta. Món nợ đó làm sao không trả được. Mãi mãi ta sẽ không quên. Giọng nàng du dương, những âm bổng trầm mang hơi hướm ngoại lai. Eragon lại lắp bắp: - Có...có gì đâu. Vì...vì sao nàng bị bắt vào Gil'ead? Vẻ mặt đau khổ, Arya nhìn xa xa, nhỏ nhẹ nói: - Mình đi dạo một chút. Hai người cùng bước xuống con đường mòn quanh co, dẫn về núi Farthen Dur. Saphira lặng lẽ đi bên cạnh. Một lúc lâu sau, Arya lên tiếng: - Ajihad cho ta biết chàng có mặt trong rừng khi trứng của Saphira xuất hiện? - Đúng vậy. - Vậy thì chàng phải biết điều này: ngay lúc chàng trông thấy quả trứng đó, cũng là lúc ta bị Durza bắt. Chính nó đã chỉ huy lũ Urgals phục kích và giết hai cộng sự của ta. Ta bị đánh thuốc mê và đưa về Gil'ead. Theo lệnh Galbatorix, Durza phải làm mọi cách để tìm hiểu bằng được ta đã chuyển trứng rồng đến nơi nào và tất cả những gì ta biết về hoàng cung Ellesmera. Suốt mấy tháng nó tra khảo ta rất dã man. Nhưng sau khi dùng đủ mọi phương pháp tra tấn không thành công, nó đã ném ta cho tụi lính muốn làm gì tùy thích. Không may cho chúng là ta vẫn còn đủ sức đánh vào tâm trí chúng, làm chúng bị suy nhược, mất hết sức khoẻ. Cuối cùng, Galbatorix hạ lệnh đưa ta về kinh đô Uru'baen. Ta đã khiếp đảm khi nghe được tin này. Vì ta lo sợ cả tinh thần và thể chất đều không đủ sức chống lại lão vua tàn ác đó. Nếu không có chàng kịp giải thoát, chỉ trong vòng tuần lễ ấy, ta đã bị đưa đến trước ngai vàng của Galbatorix rồi. Eragon rùng mình, những vết thương kinh khủng của nàng như vẫn còn hiển hiện như in trong trí. Nó dịu dàng hỏi: - Vì sao nàng cho tôi biết tất cả những chuyện này? - Để chàng biết rằng ơn cứu tử của chàng đối với ta to tát đến nhường nào. Eragon cúi đầu, ngập ngừng: - Bây giờ nàng định làm gì? Trở lại hoàng cung Ellesmera? - Chưa được. Ở đây còn nhiều việc phải làm. Ajihad cần ta giúp, không thể bỏ mặc Varden. Hôm nay ta đã thấy tài nghệ chàng, cả phép thuật và vũ khí. Brom đã huấn luyện chàng rất khả quan. Như vậy là chàng đã đủ khả năng để tiếp tục theo đuổi những bài tập mới. - Nghĩa là tôi sẽ đến hoàng cung Ellesmera? - Đúng vậy. Eragon hơi bực, vì không ai báo chuyện này cho nó và Saphira biết. - Bao giờ đi? - Chuyện này chưa được quyết định. Nhưng chỉ trong vòng vài tuần. - Lúc nãy cặp song sinh định bắt tôi làm gì vậy? - Một việc mà chính anh em chúng cũng không làm được. Đọc thần chú tên thật của một vật và đem nó về nguyên thể. Một công việc phải bỏ công phu nhiều năm luyện tập rất khắc nghiệt. Nhưng nếu thành công, có thể điều khiển được mọi sự vật. Đó là lý do tên thật luôn được giữ kín. Vì nếu một kẻ tà tâm biết được, nó sẽ hoàn toàn chế ngự được ta. - Có một chuyện thật kỳ lạ. Trước khi gặp nàng tại Gil'ead, tôi đã gặp nàng trong mơ nhiều lần. Thậm chí....tôi đã thu được hình ảnh nàng. - Có nhiều lúc, ta cảm thấy dường như có người hiện diện quanh ta, nhưng ta tưởng đó chỉ là mê sảng vì những cơn sốt nóng. Kỳ lạ thật, ngay trong truyền thuyết, ta cũng chưa hề nghe nói tới việc có thể thu được những hình ảnh từ xa trong khi ngủ. Xoay xoay chiếc nhẫn của ông Brom trên ngón tay, Eragon hỏi: - Khi trị vết thương, tôi vô tình thấy vết xăm trên vai nàng, giống như dấu hiệu trên chiếc nhẫn này của ông Brom. Nó có ý nghĩa gì? - Chàng có chiếc nhẫn với dấu yawe? - Phải. Của ông Brom. Đây, nàng xem đi. Arya quan sát mặt ngọc, rồi nói: - Đây là một kỷ vật chỉ được trao cho những người bạn quí của thần tiên. Những chiếc nhẫn này rất có giá trị, vì nhiều thế kỷ rồi, không còn thấy nữa. Ta không ngờ Nữ Hoàng Islanzadi quí trọng ông Brom đến thế. - Vậy thì, có lẽ tôi không nên đeo. - Đừng, chàng hãy giữ lấy. Nó sẽ bảo vệ chàng, khi chàng gặp dân ta, và có thể chàng sẽ chiếm được lòng quí mến của nữ hoàng khi gặp mặt. Đừng cho ai biết về vết xăm của ta. Điều đó không nên tiết lộ. - Tôi hiểu. Eragon mong sao buổi nói chuyện với Arya đừng bao giờ chấm dứt, vậy mà cũng đến lúc phải chia tay. Trên đường cùng Saphira xuyên qua Farthen Dur, mặc cho Eragon năn nỉ, Saphira nhất định không cho nó biết Arya đã nói gì. Rồi chợt nhớ lời khuyên của Nasuada về việc đi thăm Murtagh. Eragon bảo: "Anh đi ăn một chút, sau đó đi thăm anh Murtagh. Em đợi anh cùng về được không?" "Được, em đợi." Eragon vui vẻ đi ăn, rồi theo chỉ dẫn của Nasuada, tìm tới một cửa phòng màu xám, có một người lính và một người lùn đứng gác. Biết ý định của Eragon, người lùn cười thân mật, gõ cánh cửa ba lần rồi mở chốt. Phòng giam ấm áp, sáng sủa. Góc phòng kê một bàn rửa mặt và một bàn viết đầy đủ bút giấy. Trần trang trí nhiều hình ảnh điêu khắc. Sàn lót thảm. Murtagh đang nằm đọc sánh trên một chiếc giường rộng. Anh ta nhìn Eragon đầy ngạc nhiên, rồi vui mừng kêu lên: - Eragon! Tôi mong cậu quá. - Tôi cứ tưởng.... - Cậu tưởng tôi bị giam trong một ổ chuột, gặm lương khô chứ gì? Thật ra mình cũng ngỡ vậy. Nhưng Ajihad cho mình hưởng tất cả những thứ này, chừng nào mình chứng tỏ không là nguyên nhân gây rắc rối. Ăn uống thịnh soạn, sách vở ê hề. Không giữ gìn, mình sẽ trở thành một học giả béo ị mất. Eragon cười lớn ngồi xuống bên Murtagh: - Nhưng anh không bực tức vì vẫn chỉ là một tên tù sao? - Ồ, lúc đầu thì có đấy. Nhưng càng nghĩ, mình càng thấy, nơi này tốt nhất cho mình. Dù Ajihad có trả tự do cho mình, mình cũng sẽ ở trong phòng suốt ngày. - Vì sao? - Cậu quá biết rồi mà. Biết sự thật về mình, những người chung quanh làm sao có thể thoải mái, yên tâm được?! Ấy là chưa kể những con mắt, những câu nói đầy thù hận, căm ghét nữa. Thôi, cho mình biết tin tức bên ngoài đi. Eragon lần lượt kể lại những sự việc hai ngày qua, cả chuyện nó đụng độ với anh em sinh đôi trong thư viện. Murtagh lặng im nghe, sau cùng lên tiếng: - Mình e rằng Arya là nhân vật quan trọng hơn anh em ta tưởng. Thử nghĩ lại những gì cậu biết: cô ta là tay kiếm bậc thầy, phép thuật cao cường, điều đáng chú ý nhất là được chọn làm người bảo vệ trứng rồng. Cô ấy không phải là một thần tiên bình thường đâu. Eragon đồng ý với những nhận xét của Murtagh. Anh tiếp: - Cậu biết không, mình cảm thấy hoàn toàn thư thái trong phòng giam này. Lần đầu tiên trong đời, mình không lo sợ. Dù biết chỉ là tạm thời, nhưng không khí nơi này làm mình yên ổn. Đêm ngủ rất ngon. - Tôi hiểu. Nasuada bảo cô ấy đã đến thăm anh. Cô ta có cho biết chuyện gì không? - Không, cô ấy chỉ muốn gặp tôi. Trông cô ấy như một nàng công chúa, đúng không? Khi cô ấy vừa bước vào phòng, tôi tưởng là một quí phu nhân của triều đình Galbatorix. Tôi từng thấy những phu nhân của các vị công hầu, bá tước, nhưng so sánh với Nasuada, họ chẳng đáng gì. Nghe những lời tán dương của Murtagh, Eragon dường như đã hiểu lòng anh. Song nó lại tự nhủ, chắc không có gì đâu, mình kết luận quá vội vàng. Nó hỏi: - Anh định ngồi tù đến bao giờ đây? Làm sao anh trốn tránh mãi được? - Lúc này tôi rất yên phận nghỉ ngơi tại đây. Chẳng có lý do gì phải tìm chỗ khác hay hiến mình cho anh em thằng hói làm trò thí nghiệm. Có thể rồi tôi sẽ chán nơi này, nhưng....hiện nay tôi rất hài lòng. Quỉ dữ tràn lan - Ui cha! Eragon kêu lên, ngồi bậy dậy vì bị Saphira húc mạnh vào người. Trong hang tối om, chỉ có chút ánh sáng tù mù của ngọn đèn có chao bao phủ. Bên ngòai, tảng ngọc ngôi sao phản chiếu ánh đèn phát ra hàng ngàn màu sắc khác nhau. Một người lùn bồn chồn đứng ngoài cửa hang, rối rít: - Agretlam, xin đi ngay. Ajihad mời ngài. Mau mau, gấp lắm rồi. - Chuyện gì vậy? - Xin đi ngay cho, gấp lắm rồi. Eragon đeo kiếm, vơ vội cung tên. Saphira nhảy xuống sàn, lèm bèm: "Rách việc, đang ngủ ngon." Eragon leo lên, nó uể oải cất cánh. Orik, mặt nghiêm trọng, đang đứng chờ. Ông thúc dục, rồi tất cả cùng đi vội vào văn phòng Ajihad. Trên đường đi, trả lời những câu hỏi của Eragon, ông già lùn chỉ nói: - Tôi không rõ lắm, chờ gặp Ajihad sẽ biết. Hai lính gác cao lớn đứng ngoài cửa văn phòng mở rộng. Ajihad đứng sau bàn, chăm chú nhìn bản đồ. Arya đứng bên một người đàn ông lực lưỡng. Ajihad ngẩng lên nói: - Tốt, cháu tới rồi. Eragon, hãy làm quen với Jormundur, chỉ huy phó của ta. Hai người chào nhau, rồi cùng quay lại chăm chú nghe lãnh tụ Varden lên tiếng: - Ta đánh thức mọi người vào giờ này vì tất cả chúng ta đang gặp nguy hiểm ngặt nghèo. Nửa giờ trước, một người lùn vừa chạy thoát từ một đường hầm bỏ hoang, dưới thành phố Tronjheim này. Máu me đầm đìa, gần như mê sảng, nhưng hắn còn đủ trí để báo cho những người lùn biết kẻ nào rượt đuổi theo hắn: một đoàn quân Urgals, có thể cách đây một ngày đường. Cả văn phòng bàng hoàng im lặng. Rồi Jormundur và Orik cùng lên tiếng ồn ào hỏi. Ajihad giơ tay: - Trật tự. Còn nữa. Urgals không tiến tới...trên, mà là "dưới" mặt đất. Chúng ở trong những đường hầm. Như vậy có nghĩa...chúng ta sẽ bị tấn công từ lòng đất. Eragon hỏi: - Sao người lùn không biết tin này sớm hơn và bằng cách nào tụi Urgals khám phá ra những đường hầm? - Chúng ta biết được kịp thời thế này là quá may rồi. Hàng trăm đường hầm dưới núi Beor bị bỏ hoang từ khi khai thác mỏ. Chỉ những người lùn lập dị, dở hơi, không muốn giao thiệp với bất kỳ ai, mới chui vào đó ở. Nếu không, giờ này chúng ta vẫn chưa thể biết tin tức gì. Ajihad chỉ tay lên tấm bản đồ. Eragon thấy bản đồ này không giống của nó. Thay vì miền nam Alageasia trống trơn, bản đồ này vẽ từng chi tiết của rặng núi Beor kéo dài tới biên giới phía đông vương quốc Surda. - Người lùn vừa thoát nạn khẳng định hắn đến từ đây. - Orthiad! Orik kêu lên. Nhìn vẻ dò hỏi trên mặt Jormundur, ông nói thêm: - Đó là nơi xa xưa chúng tôi trú ngụ, trước khi hoàn tất thành phố Tronjheim. Thời gian đó Orthiad là thành phố lớn nhất. Nhưng nhiều thế kỷ rồi, không còn ai ở đó nữa. Ajihad nhận xét: - Và nó cũng đủ lâu đời để có thể nhiều đường hầm bị sụp. Chúng ta chỉ còn cách phỏng đoán, vì vậy mà những đường hầm này bị khám phá ra từ trên mặt đất. Ta nghĩ, chính Orthiad là nơi bây giờ chúng gọi là Ithro Zhada. Từ Ithro Zhada chúng có thể tỏa đi các nơi trong rặng Beor và chúng có đủ khả năng để tiêu diệt cả Varden và người lùn. Jormundur chăm chú quan sát bản đồ: - Ông có biết quân số Urgals là bao nhiêu không? Quân của Galbatorix có kết hợp cùng chúng không? Chúng ta không thể lên kế hoạch phòng thủ, nếu không biết rõ quân của chúng đông đến cỡ nào. - Chúng ta không nắm chắc cả hai điều đó. Nhưng sự sống của chúng ta tùy thuộc vào việc Galbatorix có tăng cường quân đội triều đình cho tụi Urgals không. Nếu không, vì Galbatorix vẫn muốn che giấu mối liên kết này, thì chúng ta có thể thắng. Cả vua Orrin ở Surda và thần tiên đều không thể giúp chúng ta trong giờ phút cấp bách này. Tuy nhiên, tôi đã cho người đi thông báo về tình trạng của chúng ta. Ít nhất họ sẽ không bị bất ngờ, nếu chúng ta thất bại. Ông vuốt bàn tay lên vầng trán đen thui: - Tôi đã thưa chuyện cùng đức vua Hrothgar, và chúng tôi đã đồng ý chương trình hành động. Hy vọng duy nhất của chúng tôi, là cầm chân lũ Urgals trong ba đường hầm lớn và lùa chúng vào Farthen Dur, như vậy tránh được việc chúng tràn vào Tronjheim như bầy châu chấu. Eragon, ta cần cháu và Arya giúp người lùn đánh sập những đường hầm bên ngoài. Công việc quá lớn nếu dùng những phương tiện thông thường. Hai nhóm người lùn đang làm việc đó: một bên ngoài Tronjheim, một bên dưới thành phố. Eragon, cháu làm việc với nhóm ngoài. Arya giúp nhóm dưới đất. Orik sẽ hướng dẫn hai người tới nơi làm việc. Eragon hỏi: - Sao không đánh sụp hết, chỉ để lại một đường hầm chính thôi? Orik cắt nghĩa: - Vì như vậy, Urgals sẽ bắt buộc phải dọn đường, và chúng sẽ tìm ra đường nào dễ nhất để tiến công. Thêm vào đó, nếu chúng ta cắt hết lối vào, chúng sẽ tấn công những thành phố khác của người lùn. Ajihad lên tiếng: - Còn một lý do nữa. Đức vua đã cảnh giác ta, thành phố Tronjheim này nằm trên một hệ thống chằng chịt đường hầm. Nếu một số hầm bị yếu, nhiều nơi trong thành phố sẽ có nguy cơ lún sập. Jormundur chăm chú nghe, rồi hỏi: - Ông nói tìm cách lùa Urgals ra khỏi thành phố, vào Farthen Dur. Như vậy sẽ không có những trận đánh trong Tronjheim? - Đúng vậy. Thành phố quá lớn, chúng ta không đủ lực lượng bảo vệ. Đóng chặt những hành lang và cổng vào thành phố, bắt buộc Urgals phải lọt vào khoảng trống chung quanh, nơi quân ta có đất tung hoành. Nếu để Urgals lọt vào những đường hầm dưới thành phố, tình hình sẽ cực kỳ nguy hiểm. Chúng sẽ đục đá, ngoi lên khỏi mặt sàn. Lúc đó chúng ta sẽ bị tấn công hai ngả: từ trong ra và từ ngoài vào. - Còn gia đình chúng ta? Tôi không muốn thấy cảnh vợ con bị chết dưới tay lũ quái vật đó. Những vết nhăn hằn sâu trên mặt Ajihad: - Tất cả đàn bà, trẻ con đang được chuyển đến những thung lũng quanh đây. Nếu chúng ta bị hạ, họ sẽ có người đưa đến Surda. Trong tình hình này, tôi chỉ có thể làm được vậy thôi. - Thưa ngài, cô Nasuada cùng đi với họ? - Nó không vui, nhưng vẫn phải đi. Mọi con mắt đổ dồn vào Ajihad khi ông thẳng người, dõng dạc tuyên bố: - Lũ quỉ dữ Urgals đang tiến gần. Chúng ta biết quân số của chúng nhiều và mạnh, nhưng bằng mọi giá ta phải giữ được Farthen Dur. Thất bại đồng nghĩa với sự suy tàn của người lùn, là cái chết của Varden, và sau đó là thảm bại của Surda và thần tiên. Đây là một cuộc chiến chúng ta không có quyền thất bại. Bây giờ các bạn hãy đi làm tròn nghĩa vụ của mình. Jormundur, sẵn sàng chiến binh vào trận. Ra khỏi văn phòng, mỗi người đi một ngã: Jormundur tới doanh trại, Orik và Arya tới cầu thang xuống lòng đất, Eragon và Saphira vào một trong bốn hành lang chính của Tronjheim. Trời còn rất sớm nhưng thành phố núi đã tràn ngập người như một tổ kiến. Mọi người ồn ào ôm từng bó hành trang, vừa chạy vừa thông báo tin tức cho nhau. Trước đây Eragon từng đánh và giết kẻ thù. Nhưng trận chiến sắp diễn ra làm nó sợ đến tức ngực. Đối diện với dăm ba đối thủ, vài con quái Urgals, nó có thể tự tin vào thanh Zar'rac và phép thuật. Nhưng với một trận đánh lớn như thế này, làm sao biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Ra khỏi Tronjheim, Eragon và Saphira đi tìm toán người lùn đang chờ được giúp sức. Không chút trăng sao, lòng chảo tối tăm của Farthen Dur chỉ có những ngọn đèn chập chờn soi tỏ. Lướt một vòng bên ngoài thành phố, cho đến khi thấy nhiều cây đèn rọi sáng một vùng, Saphira bay thẳng tới đám người lùn đang bận rộn bới đào. Thấy họ giật mình hốt hoảng vì Saphira, Eragon vội vàng giải thích. Một người lùn mũi nhọn hoắt bảo: - Ngay dưới chân chúng ta chừng bốn thước là một đường hầm. Có cách nào giúp được thì hay quá. - Các ông dọn dẹp trên bề mặt đi, rồi để tôi tính. Thay vì cho hầm nổ tung, Eragon định dùng phép thuật làm mặt hầm sụp xuống, để còn dành sức cho những công việc tiếp theo. Giữ nhịp thở điều hòa, nó lẩm bẩm: "Thrysta deloi!", đồng thời phóng ra một luồng kình lực vào nền đất. Ngay lập tức, sức mạnh ý chí của Eragon tiếp xúc với mặt đá, nó đẩy luồng kình lực xuống sâu hơn, cho đến khi cảm thấy khoảng trống của hầm. Nó bắt đầu lần tìm và mỗi khi phát hiện một vết nứt của trần đường hầm, nó tăng kình lực kéo dài vết nứt. Nhưng trên mặt đất dường như không nhìn thấy gì. Eragon kiên nhẫn tiếp tục cho đến khi nghe những tiếng răng rắc dội lên, rồi mặt đất sụp xuống, tạo thành một hố dài, rộng chừng bảy thước. Trong khi những người lùn reo hò tạo dựng tường quanh miệng hố bằng đá vụn, Eragon và Saphira tiếp tục đánh sụp thêm nhiều hầm trong vòng mấy tiếng. Xong xuôi, Eragon quay nhìn cảnh nhộn nhịp đang diễn ra. Một đoàn người tán cư: đàn bà, trẻ con, những người già của Varden từ thành phố Tronjheim đổ ra. Người nào cũng tay xách nách mang đồ đạc, quần áo. Một toán chiến binh hộ tống những đứa con trai và người già có địa vị cao hơn. Tuy nhiên, hầu hết sự hoạt động tập trung dưới chân thành, nơi Varden và người lùn đang tập hợp quân sĩ. Đoàn quân chia thành ba tiển đoàn. Mỗi tiểu đoàn đều mang theo cờ hiệu của Varden: Con rồng trắng cầm một bông hồng trên nền thanh kiếm màu đỏ tía. Tóc xõa dưới những chiếc nón sắt, nhiều chiến binh chỉ cầm gươm và khiên, nhưng nhiều toán cầm giáo và thương. Phía sau là những xạ thủ sẵn sàng cung nỏ. Những người lùn trong những bộ giáp nặng nề bằng chỉ thép, phủ xuống tới gối. Tay trái là chiếc khiên tròn có huy hiệu của từng bộ tộc, tay phải họ cầm cây cúp hoặc rìu, dưới lưng đeo thanh kiếm ngắn. Một người bé nhỏ chạy vội từ tiểu đoàn đến bên Eragon và Saphira. Đó là Orik. Ông ta mặc giống những người lùn khác. - Việc đánh sập đường hầm xong rồi. Ajihad bảo cậu và Saphira trở lại đơn vị. Bữa ăn đã sẵn sàng. Eragon và Saphira theo ông lùn đến một cái lều, đầy đủ nước, bánh mì cho Eragon và thịt khô cho Saphira. Ăn uống xong, Orik bảo Eragon chờ, rồi chạy biến vào tiểu đoàn. Khi ông trở lại, theo sau là một hàng người lùn khệ nệ ôm từng chồng những miếng kim loại. Orik lấy mấy chồng đặt trước Eragon. Nó ngạc nhiên hỏi: - Cái gì vậy? - Quà tặng của đức vua. Bộ giáp này đã có từ lâu đời, từ thời đại các Kỵ Sĩ, để trong kho tàng của hoàng gia. Không ai có thể chiến đấu với bộ giáp quá nặng nề này, Eragon tự nhủ. Nó hỏi: - Nhưng để làm gì? - Tất nhiên là để cho Saphira. Cậu tưởng rồng không cần giáp khi ra trận sao? Một bộ hoàn chỉnh thế này bây giờ hiếm lắm. Hy vọng Saphira mặc vừa. Saphira tò mò đánh hơi mấy mảnh thép sáng bóng. Eragon hỏi: "Em thấy sao?" "Thì cứ mặc thử xem." Sau một hồi vất vả, Eragon và Orik lùi lại ngắm nghía thành quả. Trừ mấy cái gai sau gáy, cổ Saphira cuốn gọn trong lớp giáp. Phần bụng được bảo vệ bằng những miếng thép nặng nhất, những miếng nhẹ hơn che chở phần đuôi. Hai cánh để trần. Trên đầu cũng được che kín, chỉ chừa lại hàm dưới để nó có thể nhai và đớp mồi. Saphira thử vươn cổ, nhúc nhích thân mình, bảo: "Bộ giáp này sẽ làm em chậm chạp hơn, nhưng đỡ tên rất tốt. Trông em thế nào?" "Oai lắm." Nghe Eragon nói, cô ả phởn ra mặt. Orik nhặt lên những miếng còn lại, đưa cho Eragon, nói: - Bột này của cậu. Chúng tôi ít khi chế binh giáp cho người thường và thần tiên. Không biết bộ này làm cho ai, nhưng còn mới tinh, chưa ai dùng. Chắc vừa với cậu. Bộ giáp dài tới gối Eragon, như một cái váy. Mỗi cử động lại kêu lên lẻng kẻng. Trên đầu là một mũ da, phủ ra ngoài là lớp đan bằng chỉ thép và lớp trên cùng, một mũ bằng vàng và bạc. Đôi găng tay cũng bằng chỉ thép. Orik trao cho Eragon một cái khiên lớn, trên mặt có hình một cây sồi. Biết đây là những món quà quí giá của vua Hrothgar, Eragon nói: - Cám ơn ông rất nhiều và tôi cũng vô cùng đội ơn đức vua. - Chờ khi nào những bộ giáp này cứu được mạng hai người hãy cám ơn. Đoàn quân bắt đầu di chuyển. Ba tiểu đoàn tách làm ba ngả. Orik cùng Eragon và Saphira đi theo một tiểu đoàn. Eragon hỏi về lũ quái Urgals, Orik cho biết, quân thám báo dưới đường hầm báo về chưa nghe động tĩnh gì. Tiểu đoàn ngừng trước một hầm đã được đánh sập. Những người lùn đã đánh đống những mảnh đá đổ nát, để lũ quái vật dễ dàng leo lên. Saphira nhận xét: "Chắc đây là một trong mấy điểm họ dồn Urgals lên mặt đất." Hàng trăm ngọn đèn mắc trên những cột cao, rọi ánh sáng như giữa ban ngày. Dọc hai bên đường hầm sập, ánh lửa bập bùng dưới những chiếc nồi khổng lồ nấu nhựa thông sôi sùng sục. Eragon ghê tởm quay đi. Bất kỳ giết vật gì, cho dù là lũ quái Urgals, bằng cách này cũng kinh khủng quá. Từ miệng hầm tới những ụ tua tủa cọc nhọn, đã được cắm đầy những cái chông. Eragon phụ những người lùn đào những cái rãnh giữa hàng chông. Saphira sốt sắng dùng móng bới đất đá. Orik điều khiển toán đắp chướng ngại vật và cũng là bảo vệ của xạ thủ. Eragon khoan khóai nâng vò rượu lần lượt chuyền tay từng người. Nó và Saphira đang ngồi nghỉ thì Orik đến nhập bọn: - Toàn thể Varden và người lùn đã ra chiến trường. Các cửa vào thành phố đã đóng chặt. Đức vua chỉ huy tiểu đoàn cánh trái, Ajihad chỉ huy tiểu đoàn phía trước chúng ta. - Ai chỉ huy tiểu đoàn này? - Jormundur. Bỗng Saphira huých Eragon, bảo: "Trông kìa." Murtagh, tay cầm kiếm, đội mũ sắt, khoác khiên của người lùn, đang ngồi trên lưng Tornac tiến tới. Orik đứng bật dậy, nhưng Murtagh nói ngay: - Yên tâm đi, Ajihad thả tôi rồi. - Tại sao ông ta làm vậy chứ? - Ông ấy bảo đây là dịp cho tôi chứng tỏ lòng thành. - Làm sao tin nổi là người thành thật. - Vì tôi đã nói là tôi thành thật. Murtagh tỉnh bơ trả lời Orik. Còn Eragon hớn hở ra mặt. Murtagh là người nó mong có ở bên mình trong chiến trận. Anh ta là một chiến binh dũng cảm tuyệt vời. Ajihad, giáp che ngực, cầm cây kiếm chuôi ngà, tiến lại. Ông đặt tay lên vai Eragon dìu nó ra xa: - Tốt, Orik trang bị cho cháu hả? - Dạ. - Một trong hai anh em sinh đôi đang ở trong thành phố. Nó sẽ quan sát trận chiến từ nhà nghỉ của rồng, rồi chuyển tin tức xuống cho người anh em nó, để báo cho ta. Ta biết cháu có thể nói thông qua tư tưởng, vì vậy ta cần cháu hãy cho anh em chúng biết tất cả, bất cứ điều gì cháu thấy là bất thường trong khi chiến đấu. Đồng thời, ta cũng có những lệnh truyền cho cháu. Cháu hiểu chứ? Ý nghĩ phải liên kết với anh em sinh đôi làm Eragon ghê tởm, nhưng nó biết đây là sự cần thiết của công việc. - Dạ, cháu hiểu. - Cháu không phải là bộ binh hay quân kỵ mã, cũng không thuộc dạng bất cứ chiến binh nào ta từng chỉ huy, nhưng ta nghĩ cháu và Saphira sẽ an toàn hơn khi tác chiến trên mặt đất. Bay trên không, dễ làm mục tiêu cho những xạ thủ của Urgals. Cháu định sẽ tác chiến trên lưng rồng chứ? - Cháu cũng chưa biết tính sao. Cháu chưa từng chiến đấu trên lưng ngựa và mới chỉ bay cao cùng Saphira để giết một quái vật Kull thôi. - Ta sợ rằng lần này tụi Kull rất đông. Ta khuyên cháu một điều: cố tránh những mạo hiểm không cần thiết. Mất cháu, Varden không đủ sức đương đầu với chúng đâu. Nói rồi, ông quay trở lại hàng quân. Eragon trở lại ngồi chờ đợi bên Orik, Murtagh và Saphira. Chung quanh họ, hàng trăm chiến binh cũng căng thẳng đợi chờ. Mặt trời chỉ còn mấp mé vành đai lòng chảo, ánh sáng trong Farthen Dur giảm dần. Eragon nhìn quanh trại quân, nó bỗng lạnh người, tim đập rộn ràng. Cách chừng mươi thước: Arya đang ngồi lặng lẽ với cây cung để trên đùi. Dù biết là vô lý, nhưng nó vẫn thầm hy vọng nàng đã di cư khỏi đây cùng đám phụ nữ rồi. Nó vội vàng chạy lại: - Nàng tham chiến sao? Arya trầm tĩnh trả lời: - Ta làm điều phải làm thôi. - Nhưng quá nguy hiểm.... - Thần tiên huấn luyện tác chiến cho nam nữ như nhau. Ta không giống những tiểu thư yếu đuối của con người, chưa gặp hiểm nguy đã bỏ chạy. Dù bị thất bại, nhưng ta từng được giao trách nhiệm gìn giữ trứng rồng. Gia đình ta sẽ mất danh dự, hơn nữa, sẽ bị mang nhục nếu ta không bảo vệ được chàng và Saphira trên mặt trận này. Chàng quên là phép thuật ta cao cường hơn tất cả những người ở đây, kể cả chàng sao? Nếu Tà Thần xuất hiện, ai sẽ hạ nó, nếu không phải là ta? Và....còn ai có lý do chính đáng để làm chuyện đó hơn nữa? Biết Arya có lý, nhưng Eragon vẫn không muốn chấp nhận việc nàng xông pha trong trận chiến quá nguy hiểm này. Nó bật nói bằng cổ ngữ: - Hãy bảo trọng...vì hạnh phúc của tôi. Arya bối rối quay đi, mặt nàng khuất sau mái tóc đen. Nàng vuốt ve cây cung, thì thầm: - Định mệnh ta là ở lại chốn này. Ân đền oán trả. Khi Eragon trở lại, Murtagh tò mò hỏi: - Cô ta nói gì vậy? - Không có gì. Thời gian chậm chạp trôi qua, những người phòng thủ vẫn căng thẳng đợi chờ. Vài ánh đèn chập chờn cũng những bếp lửa nấu nhựa thông. Eragon hết ngắm nghía những đường nối trên bộ giáp lại liếc nhìn Arya. Orik vuốt ve viên đá mài trên lưỡi rìui. Murtagh yên lặng dõi đôi mắt vào cõi xa xăm. Thỉnh thoảng mấy tay liên lạc chạy vào doanh trại, mọi người lại vội vàng xô lại, nhưng vẫn chưa có tin tức gì. Loán thoáng đã nổi lên vài tiếng nóng nảy cãi cự nhau, rồi tất cả lại chìm trong yên lặng. Không một chút gió, Farthen Dur ngột ngạt đầy những khói. Đêm tối dần, ngòai chiến trường im phăng phắc. Eragon cố nhướng đôi mắt nặng nề nhìn ra bóng đêm. Cuối cùng Orik lên tiếng: - Chúng ta ngủ chút đi. Có gì, những người kia sẽ gọi. Eragon nằm sát Saphira, gối đầu lên tấm khiên. Khi đôi mắt khép lại, Eragon còn thấy Arya vẫn đang ngồi, lặng lẽ nhìn về phía nó. Những giấc mơ đầy những hình ảnh lũ quái vật đầu sừng hiện ra, và nó liên tục nghe một giọng trầm trầm lên tiếng hỏi: "Mi đã sẵn sàng chưa?" Rồi nó chìm trong giấc ngủ mệt mỏi đầy những hình ảnh lộn xộn cho đến khi giật mình tỉnh dậy vì một vật chạm mạnh vào cánh tay. Trận chiến trong lòng núi - Bắt đầu rồi. Arya buồn rầu nói. Những đội quân vũ khí tuốt trần, cảnh giác. Orik vung vẩy cây rìu. Arya rút tên đặt lên cung. Murtagh báo cho Eragon: - Một thám báo mới chạy từ đường hầm về cho biết Urgals đang tiến tới. Mọi người không rời mắt khỏi miệng hầm đen ngòm giữa những hàng chông nhọn hoắt. Một, hai rồi ba phút trôi qua. Mắt vẫn hướng về đường hầm, tay cầm thanh Zar'roc, Eragon leo lên yên rồng. Murtagh lên lưng Tornac. Bỗng tiếng một người la lên: - Tôi nghe thấy chúng rồi. Các chiến binh gồng mình nắm chặt vũ khí. Tất cả bất động, nín thở. Tiếng gào của lũ Urgals như xé không gian, rồi những bóng đen nhô lên khỏi miệng hầm. Vừa được lệnh, những thùng dầu sôi khổng lồ đổ ào ào xuống cái miệng chết khát của đường hầm. Những con quái vật rú lên đau đớn. Một cây đuốc được ném xuống lớp nhựa thông bập bềnh, dìm lũ Urgals vào hỏa ngục. Choáng váng, Eragon liếc qua những miệng hầm khác. Hai tiểu đoàn kia cũng đang sáng ngời ánh lửa. Nó tra kiếm vào bao, đặt mũi tên lên cung. Những con quái thú lớp sau nhồi đám đồng đội bị thương vào đống dầu thông, đạp qua chúng, để leo lên khỏi miệng hầm. Chúng sát cánh nhau, thành một bức tường cứng rắn. Sau những ụ phòng thủ, hàng xạ thủ đầu tiên bắn tên ra như mưa. Eragon và Arya bắn trợ lực cùng họ. Những ngọn giáo bay tới làm hàng ngũ Urgals gục lả tả. Bức tường thịt của lũ quái hơi chao đảo, nhưng rồi chúng dùng khiên, mộc che kín thân mình. Trong làn mưa tên, lũ Urgals tiếp tục tràn lên mặt đất. Eragon khiếp đảm, không ngờ chúng đông đến thế. Bắn tên kiểu này để giết từng đứa một sao? Thật điên rồ! Nhưng còn may là chưa nhìn thấy bóng dáng quân triều đình của Galbatorix. Chợt giữa những lá cờ hiệu tơi tả giơ cao trong đoàn quái thú, tiếng tù và thúc trận vang lên. Toàn thể tụi Urgals gầm thét tấn công. Chúng ném những cái xác của nhóm tiên phong lên những cọc chông làm ụ phòng thủ. Hàng loạt tên đen rào rào bắn về phía những người đang cố bảo vệ Farthen Dur. Eragon thụp người sau tấm khiên. Saphira cúi vội đầu. Những mũi tên tanh tách chạm vào giáp nó, rồi lả tả rơi xuống đất. Lợi dụng giây phút đó, đám Urgals ào ạt tiến lên, tiếng gầm thét thúc quân rền vang như sấm. Hàng loạt ngọn giáo tua tủa đâm vào những con quái thú, nhưng không ngăn cản được đoàn quân Urgals tràn ngập vượt qua bãi chông. Hàng phòng thủ trên cùng bị vỡ. Lần đầu tiên hai lực lượng cuốn lấy nhau trong một trận giáp lá cà. Tiếng la thét chói lói của ba tiểu đoàn phòng thủ nhào vào cuộc chiến làm Saphira hăng máu, nó rống lên, nhảy vào xé tan thây một con quái Urgals. Những cái nanh của nó còn độc địa hơn cả gươm đao. Cái đuôi cô ả như một cây chùy khổng lồ. Từ trên lưng rồng, Eragon vung kiếm gạt đường búa của con Urgals đầu đàn, đang bổ xuống cánh Saphira. Thanh Zar'rac đỏ rực, sáng lên như hả hê vì máu quái vật. Eragon thoáng thấy Orik chặt đầu một Urgals bằng cây rìu vô cùng dũng mãnh. Kế bên ông lùn, Murtagh, trên lưng Tornac, nghiến răng giận dữ, vung kiếm tả xung hữu đột. Vừa lúc Saphira xoay mình, Eragon thấy Arya nhảy vọt qua xác một địch thủ. Một con quái thù lăn qua một người lùn bị thương, chặt mạnh chân trước Saphira, nhưng thanh kiếm của nó trượt trên mặt giáp thép, toé lửa. Eragon bổ một nhát lên đầu Urgals, thanh Zar'rac kẹt cứng vào sừng con quái, tuột khỏi tay nó. Eragon nhảy xuống đất, ôm đầu con quái thù, nghiền nát mặt nó bằng cái khiên. Vừa kịp rút thanh Zar'rac khỏi sừng con vật, Eragon vội vàng nhảy tránh một Urgals khác nhào lại tấn công. "Saphira, cứu anh!" Nhưng Saphira đã bị cuốn sâu vào cuộc chiến hỗn loạn. Thình lình một quái Kull, giơ cao cây chùy, xông tới. Không kịp đưa khiên lên đỡ, Eragon bật nói "Jierda!" Một tiếng "rắc" vang lên, cổ con quái bị gãy, đầu bật ra sau. Eragon liên tiếp xuất chiêu, thêm bốn tên Urgals gục dưới thanh Zar'rac khát máu. Ngay lúc đó, Murtagh phóng ngựa đến sát bên Eragon, một lũ Urgals bám theo. - Lên mau. Vừa nói Murtagh vừa kéo Eragon lên ngựa, phóng về phía Saphira. Mười hai tên Urgals đang vây quanh Saphira. Chúng đang tới tấp đâm vào hai cánh nó, máu tung toé trên mặt đất. Mỗi lần Saphira định tấn công một tên, cả bầy xúm lại đâm vũ khí vào mắt nó. Nó xoè móng vuốt chụp những cây giáo, thì lũ Urgals nhảy bật ra sau, né tránh. Nhìn máu Saphira, Eragon giận điên lên. Gầm lên một tiếng, nó nhảy xuống ngựa, vung kiếm đâm xuyên qua ngực một con quái gần nhất. Lũ quái dạt ra. Chỉ một cú đá, Saphira hất một con quái bay bổng lên không. Eragon nhảy lên lưng Saphira. Murtagh ngoắc tay, rồi lăn xả vào cuộc chiến. Saphira bay vút lên, lượn vòng vòng để nó và Eragon lấy lại sức, rồi nó nhè nhẹ lướt là là tới sau một bầy xạ thủ Urgals. Lũ quái thú chưa kịp biết chuyện gì xảy ra, Eragon đã lia kiếm chặt đứt đầu hai tên. Saphira cũng giúp ba tên hồn lìa khỏi xác, rồi bay vội đi vừa lúc chúng í ới báo động và những mũi tên đen được bắn ra. Tiếp tục chiến thuật đột kích đó, cùng với tốc độ phi thường của Saphira và ánh sáng lù mù, những sườn khác của kẻ thù đều bị tấn công bất ngờ. Những lúc Saphira bay trên không, Eragon sử dụng cung tên. Vì vậy chẳng bao lâu nó không còn mũi tên nào. Nhưng Eragon vẫn chưa dùng phép thuật, để dành sức cho khi nào tối cần thiết. Saphira bay cao hơn để Eragon quan sát toàn diện diễn tiến trận đánh. Ba mặt trận, quanh ba cửa đã bị đánh sập của ba đường hầm. Điểm bất lợi của Urgals là chúng bị phân tán và không đủ khả năng dốc toàn bộ lực lượng lên mặt đất cùng một lúc. Tuy vậy, cả quân Varden và người lùn đều không thể ngăn nổi sức tấn công của chúng, họ đang bị ép dần về thành phố Tronjheim. Quân phòng thủ dường như không đủ sức chống lại khối lượng khổng lồ của Urgals tiếp tục tăng dần. Urgals chia làm nhiều đoàn, mỗi đoàn tụ tập quanh một cờ hiệu của mỗi bộ lạc khác nhau. Nhưng Eragon không thể biết kẻ nào là tổng chỉ huy những đoàn quân của chúng. Dường như chúng nhận chỉ thị từ một nơi nào khác, các bộ lạc không hề lưu tâm tới nhau. Eragon ước sao biết tổng chỉ huy của chúng là ai, nó và Saphira sẽ tìm cho ra để tiêu diệt. Nhớ chỉ thị của Ajihad, Eragon chuyển tin về cho cặp sinh đôi. Chúng hỏi cặn kẽ việc Urgals không có mặt kẻ chỉ huy trực tiếp, rồi chuyển lại lệnh của Ajihad: "Hãy đến giúp đức vua, trận tuyến phía đó đang lâm nguy." Saphira bay vội đến nơi những người lùn đang bị bao vây. Rực rỡ trong bộ giáp vàng, nhà vua của người lùn đứng giữa một nhóm hoàng tộc. Ông đang vung cây Volund, cây búa của tổ tiên. Thấy Saphira, mắt ông lấp lánh cái nhìn khâm phục, chòm râu bạc sáng rực dưới ánh đèn. Saphira phủ phục bên những người lùn, hướng về lũ Urgals đang ồ ạt xông lên. Tên Kull can đảm nhất cũng phải thất kinh chùn bước trước vẻ dữ tợn của Saphira. Chớp cơ hội, những người lùn lao tới. Eragon cố sức bảo vệ cho Saphira, vì bên trái nó có những người lùn, nhưng bên phải và phía trước là một biển kẻ thù hung dữ. Vừa sử dụng kiếm vừa dùng phép thuật, Eragon chém Urgals như chẻ tra. Một mũi giáo trượt qua tấm khiên, làm vai trái nó đau nhói. Eragon điên tiết bổ thanh Zar'rac, chẻ sọ một con quái thú làm hai. Nó kinh ngạc, không ngờ ông vua già khú khụ, sống từ bao nhiêu thế hệ trược, mà vẫn còn uy dũng phi thường. Không một tên Urgals nào, kể cả Kull, đến gần nhà vua và hàng bảo vệ của ông mà thóat khỏi chết. Mỗi lần cây búa Volund vung lên, lại như tiếng cổng báo tử cho một kẻ thù. Một chiến binh bị rớt cây thương, nhà vua cầm thương của mình, phóng thẳng đến tay người lính đó, cách xa hai mươi thước. Eragon chém hụt một tên Kull hơi quá tầm tay, suýt bị nhào khỏi lưng Saphira. Ngay lập tức con quái khổng lồ lách tới, vung gươm. Đường gươm của nó đi ngay đỉnh mũ sắt của Eragon. Tiếng sắt thép chạm nhau, làm Eragon hoa mắt, choáng váng. Lưỡi gươm của tên Kull loang loáng chuyển xuống ngực Eragon. Nhưng bỗng con quái rú lên, bật ngửa trên mặt đất. Đứng ngay tại đó là: Angela. Bà phù thủy mặc một áo choàng đỏ dài lượt thượt, bên trong là một bộ giáp lạ lùng thêu thùa sặc sỡ. Tay cầm một vũ khí còn lạ lùng hơn: cán bằng gỗ, hai đầu là hai lưỡi kiếm. Angela tinh quái nháy mắt với Eragon, rồi vừa bước đi, vừa quay tít thanh kiếm hai đầu, như làm trò ảo thuật. Theo sát sau bà, chính là Solembum dưới lốt một thằng bé tóc rối bù. Con ma mèo cầm một lưỡi dao đen, nhe hàm răng nhọn hoắt. Vẫn còn choáng váng, Eragon cố ngồi thẳng trên yên. Saphira lại vươn mình bay lên không, để Eragon phục hồi sức lực. Nhưng, từ trên nhìn xuống, Eragon khiếp đảm thấy cả ba cánh quân của Ajihad, Jormundur và vua Hrothgar đều đang thất thế trước lũ Urgals tràn ngập. Biết rõ giới hạn của mình, nếu Eragon dùng phép thuật tiêu diệt hết lũ Urgals, chẳng khác nào nó tự tử vì làm một chuyện quá sức. Nhưng chỉ còn cách đó, may ra mới thắng được đám quái vật này. Cuộc chiến kéo dài như bất tận, Eragon và Saphira vừa diệt được một Urgals, lập tức con quái khác tiến lên. Toàn thân đau nhức, đầu như búa bổ, Eragon đuối sức dần sau mỗi lần dùng phép thuật. Saphira, dù bị những vết thương nhỏ trên cánh, nhưng tình trạng sức khoẻ khá hơn. Vừa đưa kiếm đỡ một đòn, giọng anh em sinh đôi khẩn cấp trong đầu, Eragon bắt liên lạc ngay: "Nhiều tiếng động lớn dưới lòng thành phố. Cùng Arya trở vào Tronjheim, cho sập ngay những đường hầm Urgals đang đào." Vừa đánh, Eragon vừa mở đường đến chỗ Arya đang chiến đấu. Eragon với tay gọi lớn: "Lên ngay." Arya không chút lưỡng lự, nhảy lên Saphira. Một tay nàng ôm ngang Eragon, một tay chùi vết máu trên kiếm. Saphira vừa nhún mình, một con quái thú gầm lên, xông tới bổ cây rìu ngay ngực rồng. Saphira rú lên đau đớn. Nâng mình khỏi mặt đất, xoè cánh, ráng sức giữ thăng bằng, nhưng nó vẫn bị chao đảo, đầu cánh phải lệt xệt xuống đất. Phía dưới, một quái Urgals vung cây rìu để phóng lên. Arya vội giơ tay phóng ra một chưởng, một quả cầu xanh ngọc bắn ra từ lòng bàn tay nàng, giết chết ngay con quái. Saphira thở hổn hển khi bay ngang chiến trường. Eragon không biết Saphira bị thương ở đâu, lo lắng hỏi: "Em có sao không?" "Còn sống. Nhưng áo giáp trước ngực bị vỡ, đau lắm." "Đưa anh và Arya về nhà nghỉ rồng, nổi không?" "Để thử xem." Eragon cho Arya biết tình trạnh của Saphira. Arya hứa khi tới nơi sẽ cùng Eragon chữa trị cho nó. Sau những phút vất vả ráng sức, Saphira nặng nề hạ cánh xuống Khối Ngọc Ngôi Sao. Nhưng thay vì gặp cặp song sinh có mặt tại đó để quan sát trận địa, Eragon thấy chung quanh trống trơn. Nó nhảy xuống sàn, thăm vết thương của Saphira. Những miếng kim khí che trước ngực nó đã bị Urgals làm bẹp dúm, vì thế Saphira rất đau và khó thở. Eragon để Saphira ở lại với Arya, chạy ra ngòai cửa vòm. Nhưng nó đứng sững lại. Mải lo lắng vì vết thương Saphira, Eragon quên khuấy là nó đang ở trên đỉnh Vol Turin, cầu thang vô tận. Làm sao xuống kịp Tronjheim trong khi Urgals đang đào đường xâm nhập?! Nhìn đường máng hẹp kế bên cầu thang, Eragon vơ vội cái đệm, lót lên máng, rồi leo vào nằm. Lòng máng bằng đá trơn láng như gỗ sơn mài. Eragon trôi xuống với một tốc độ khủng khiếp, vách máng loang loáng lướt qua và mỗi đường rẽ lại làm thân hình Eragon nẩy lên như sắp vọt ra ngoài. Gió vù vù lùa vào mũ sắt như cuồng phong. Tuy lòng máng rất hẹp, nhưng nó khép chặt chân tay, nên vẫn được an toàn. Dù tốc độ xuống rất nhanh, nhưng mười phút sau, Eragon mới tới mặt sàn mã não hồng. Eragon chóng mặt đến không thể nào bước đi nổi. Hai tay ôm đầu, nó chờ cho đến hết cơn buồn nôn, chóng mặt. Tỉnh táo lại, Eragon nhìn quanh. Gian phòng mênh mông lặng lẽ, hoang vắng. Ánh sáng hồng lọc qua khối ngọc Isidar Mithrim. Bây giờ nó phải làm gì? Eragon cố gắng, nhưng vẫn không bắt liên lạc được với anh em sinh đôi. Bỗng nó lạnh người khi nghe tiếng nện ình ình vang vọng khắp Tronjheim. Một tiếng động như xé không gian. Sàn mã não phồng lên một đường dài hơn chục thước. Mảnh đá vụn bay tung lên, rồi ào ào đổ xuống. Eragon nhảy lùi lại, sững sờ nắm chặt chuôi kiếm. Từ lỗ hổng trên sàn, những hình thù vặn vẹo của những con quái Urgals xuất hiện. Eragon bối rối: chạy hay ở lại đánh sập cửa hầm? Lỡ chúng còn xuất hiện tại nhiều điểm khác, làm sao cứu kịp thành phố? Hay phá toang cổng thành để Varden và người lùn xông vào tái chiếm? Chưa kịp quyết định, một thân hình cao lớn trong bộ giáp toàn đen và chiếc áo choàng da rắn, từ đường hầm nhô lên, nhìn thẳng vào nó. Chính là Durza! Tà Thần cầm thanh kiếm xanh còn hằn vết chém của Ajihad. Một chiếc mộc tròn với dấu hiệu đỏ chót trên cánh tay. Chiếc mũ sắt của hắn trang trí như mũ của một vị tướng quân. Đôi mắt màu hạt dẻ sáng quắc vẻ điên rồ, cái điên rồ của một kẻ đam mê quyền lực và tự tìm kiếm cho mình vị thế để sử dụng quyền lực đó. Eragon biết không đủ sức, cũng không đủ nhanh nhạy để tẩu thoát khỏi tay con quỉ sứ này. Nó báo động cho Saphira, dù biết với tình trạng hiện nay, Saphira cũng không thể đến cứu được. Nó cấp tốc ôn lại những lời dạy của ông Brom: đấu với một kẻ có phép thuật, phải xâm nhập được vào đầu nó mà nắm bắt quá khứ và ý định của nó. Và Ajihad đã nói: muốn tiêu diệt Tà Thần phải đâm xuyên qua tim chúng. Durza khinh khỉnh nói: - Kar jitierl trazhid! Otrag bagh. Lũ quái Urgals nhìn Eragon đầy ám muội, rồi tản ra vây quanh phòng. Durza, vẻ đắc thắng từ từ tiến lại Eragon: - Vậy là mình lại gặp nhau, hay quá, chàng Kỵ Sĩ trẻ trung. Mi đã quá ngu ngốc khi tẩu thoát tại Gil'ead. Điều đó chỉ gây cho ta phải xử tệ hơn với mi thôi. - Mi không bắt sống được ta đâu. - Vậy sao? Ta không thấy "anh bạn" Murtagh yêu quí của mi quanh quẩn gần đây để giải thoát cho mi. Lần này mi không thóat nổi ta đâu. Không còn kẻ nào có thể cứu mi được nữa. Eragon cố nén sợ, làm cách nào Tà Thần biết được tên của Murtagh? Nhưng nó vẫn lấy giọng diễu cợt hỏi: - Mi có khoái mũi tên Murtagh bắn mi không? Mặt Durza sa sầm: - Món nợ đó ta sẽ đòi bằng máu. Nào, nói đi, con rồng của mi đang trốn ở đâu? - Không bao giờ. - Vậy thì ta phải bắt buộc moi từ đầu óc mi ra. Kiếm của hắn rít lên trong không khí. Cùng lúc mũi kiếm vừa chạm áo giáp Eragon, một luồng tư tưởng ào ào xâm nhập, mò mẫm vào tư tưởng nó. Eragon ráng sức bảo vệ tiềm thức, không để Durza xâm nhập. Nó phóng tư tưởng phản công. Hết sức bình sinh phấn đấu, nó ráng len lỏi qua vòng rào sức mạnh tinh thần, che chở quanh ý chí Tà Thần, nhưng không đạt kết quả. Eragon phóng thanh Zar'rac xỉa một mũi vào Tà Thần. Hắn nhẹ nhàng đỡ, gạt phăng đường kiếm. Rồi nhanh như chớp đâm một nhát, xé toạc một đường áo giáp của Eragon. Hắn chủ tâm làm ERagon hoảng loạn, để dễ bề xâm nhập vào trí não và kiểm soát nó. - Không! Eragon gào lên, quăng mình vào Durza. Nó nghiến răng, túm chặt Tà Thần, đấm mạnh vào tay hắn cầm vũ khí. Durza đưa kiếm cắt bàn tay Eragon, nhưng găng tay sắt làm lưỡi kiếm trượt ra ngoài. Bị Eragon đá tới tấp vào chân, Durza vung cái khiên đập nó gục xuống sàn. Eragon liếm máu đang ứa ra, lăn mình, quăng cái khiên sắt nặng chịch của nó trúng chân Tà Thần. Durza vừa loạng choạng trượt chân, Eragon xả một đường Zar'rac, cánh tay Tà Thần nhuộm máu. Eragon vận công thúc đẩy luồng tư tưởng vào ý chí đang suy kiệt dần của Tà Thần. Một đợt sóng tràn ngập những hình ảnh như bất ngờ nhấn chìm nó, ào ạt trôi vào tiềm thức nó. "Durza là một đứa trẻ con, sống lang bạt cùng cha mẹ, trên một cánh đồng hoang vắng. Gia đình nó bị bộ tộc bỏ rơi, họ gọi cha nó là "kẻ bội thề." Chỉ có điều, khi đó nó không phải là Durza, tên nó là Carsaib, cái tên mẹ nó nựng nịu mỗi khi chải đầu cho nó...." Tà Thần lảo đảo, mặt co rúm vì đau đớn. Eragon ra sức kiểm soát những ký ức của hắn đang tràn ngập trong tâm trí hắn. "Một mình đứng trước mồ cha mẹ trên đồi, nó nức nở khóc vì sao những kẻ kia không giết nó luôn cùng cha mẹ. Rồi nó điên loạn chạy vào sa mạc..." Eragon phấn đấu khép kín tư tưởng, không để đôi mắt đỏ vằn lên nét căm hờn khủng khiếp của Durza phóng sức mạnh ý chí vào tiềm thức nó. "Lão già xót xa nhìn Carsaib thoi thóp nằm trên đụn cát. Những ngày Carsaib dần hồi phục và nỗi khiếp đảm của nó khi khám phá ra ân nhân của nó là một phù thủy. Những khi nó nài nỉ lão truyền dạy cho phép triệu âm binh. Lão Haeg chấp thuận và đặt tên cho nó là Chuột Sa- mạc...." Eragon đã đứng hẳn dậy. Durza cố tấn công, nhưng hắn như điên lên vì bị cây khiên của Eragon làm văng kiếm của hắn ra ngoài. "Những ngày tu luyện dưới cái nắng như thiêu đốt của mặt trời sa mạc. Phép thuật mạnh dần, nó tự tin và hãnh diện. Những tuần lễ nó săn sóc sư phụ bị tẩu hỏa nhập mà vì một câu thần chú. Niềm vui sướng khi sư phục hồi phục....Rồi sư phụ nó bị một toán cướp hạ sát giữa đêm khuya. Carsaib điên cuồng phẫn nộ, chiêu gọi âm binh để phục thù. Nhưng lũ âm binh mạnh hơn nó tưởng. Chúng điều khiển ngược lại nó. Xâm chiếm linh hồn và thể xác nó. Nó bị quỉ ám! Carsaib gào lên: TA LÀ DURZA!" Một mũi kiếm xuyên qua áo giáp đâm thẳng vào lưng Eragon. Nó đau đớn quị xuống, những hình ảnh bị bôi xóa hết trong đầu. Eragon, nước mắt đầm đìa, ngước nhìn trời, lòng tràn ngập niềm thống khổ. Tất cả đã thất bại rồi! Nó đã bị hạ. Varden và người lùn bị tiêu diệt. Saphira sẽ đầu hàng để cứu nó. Arya sẽ bị bắt lại và bị giết. Vì sao lại kết cục như thế này? Công lý ở đâu? Tất cả chỉ là vô nghĩa. Nó ngước nhìn Khối Ngọc Hoa Hồng, một tia sáng làm nó chói mắt, rồi căn phòng bỗng rung chuyển rầm rầm. Nó dụi mắt, không tin nổi. Khối ngọc đã nứt ra. Một đường tròn khổng lồ lớn dần, những mảnh lớn như những lưỡi dao, rụng rào rào xuống sàn. Giữa phòng, Saphira phóng đầu xuống trước. Hàm mở rộng, phu ra những tia lửa vàng loáng thoáng đốm xanh. Trên lưng nó là Arya: tóc tung bay, bàn tay giơ cao sáng ngời hào quang màu ngọc bích. Thời gian dường như chậm lại khi Eragon nhìn Durza ngước mắt lên trần. Kinh ngạc rồi giận dữ làm mặt hắm co rúm lại. Hắn cười ngạo nghễ đưa cao tay chỉ thẳng Saphira, miệng lẩm bẩm niệm chú. Nội lực còn tiềm ẩn trong Eragon, bất ngờ cuồn cuộn dâng trào. Thu hết thành công lực, tay nắm chặt dốc kiếm, nó sử dụng toàn bộ sức mạnh phép thuật, tất cả đau đớn, căm hờn gom hết vào một câu thần chú: "Brisingr!" Thanh Zar'rac sáng sực màu máu, ánh lửa chờn vờn quanh thân kiếm. Eragon phóng mạnh. Lưỡi kiếm bay vút đi, xuyên qua tim Durza. Tà Thần ngỡ ngàng nhìn thanh kiếm cắm trên ngực. Miệng hắn há hốc, nhưng thay vì là những câu thần chú, thì chỉ bật ra tiếng rú. Hắn buông kiếm. Đưa những ngón tay đờ đẫn lên nhổ thanh Zar'rac, nhưng bất lực. Thế rồi, làn da Durza chuyển dần thành trong suốt. Dưới làn da, không có thịt xương, chỉ có một khối u tối cuồn cuộn quay cuồng. Với một tiếng gào, toàn thân Tà Thần bị xé nát từ đầu tới chân, bóng đen u ám thoát ra ngoài, chia làm ba khối, bay xuyên qua những bức tường của thành phố trong lòng núi. Tà Thần biến mất. Eragon kiệt sực, nằm vật ngửa, giang rộng hai tay. Phía trên nó, Saphira và Arya đã gần tới sàn. Nhưng mắt Eragon mờ dần: Arya, Saphira và vô vàn mảnh ngọc đang rơi...tất cả dường như ngừng lại, bất động, lơ lửng trên không. Tiếng gọi xa xôi Những mảnh ký ức của Tà Thần còn loáng thoáng trong trí Eragon. Những sự kiện u tối quay cuồng trong nó như một con trốt, làm nó gần như mê muội đi. Không còn biết mình là ai, đang ở đâu. Nó không còn đủ sức xua tan những hình ảnh lạ lùng như đám mây mù tràn ngập trong tâm trí. Những hình ảnh dã man, tàn nhẫn, ngập ngụa máu trong quá khứ của Tà Thần hiển hiện trước mắt Eragon, làm linh hồn nó phải đau đớn hét lên. Từng núi xác người bị giết dưới lệnh Tà Thần. Nhiều làng bị tiêu diệt sạch bằng gươm dao và phù phép. Chung quanh Eragon không một người chạy thoát. Nó đứng không vững trước những bằng chứng của tội ác đầy man rợ. Nó cầu xin ai đó đưa nó ra khỏi cơn ác mộng này. Hoặc ai đó giúp cho nó nhớ lại nó là ai: con trai hay đàn ông, thằng vô lại hay một vị anh hùng, Tà Thần hay Kỵ Sĩ; tất cả như rối bời xoắn xuýt vào nhau. Thình lình một chùm ký ức của chính nó loé sáng trong đám mây u ám của Tà Thần còn sót lại. Hình ảnh những sự việc từ khi nó phát hiện trứng của Saphira. Những thành công và thất bại. Nó mất bao điều yêu dấu, nhưng bù lại định mệnh đã ban cho nó những món quà quí giá hiếm hoi. Nó cảm thấy hãnh diện vì nó là chính nó. Nhưng như để chống lại niềm tự tin vừa loé lên trong nó, một lần nữa màu đen hắc ám của Tà Thần lại tấn công. Tri giác của nó lại trở về cõi trống không cùng nỗi hãi hùng. Nó là ai mà dám thách đố quyền lực của Galbatorix? Tư tưởng hắc ám của Tà Thần mạnh dần lên. Eragon lẩm nhẩm thần chú ráng sức chống lại. Nó đau đớn nhận biết sự sống của nó đang bị hủy diệt, nhưng dường như có ai đó đang níu sự sống lại cho nó. Vẫn còn chút sáng suốt, nó tự hỏi, mình sẽ đi về đâu? Không còn ông Brom, ai sẽ dìu dắt mình? "Hãy đến với ta." Nó rúm người, khi một tư tưởng lạ tiếp xúc với tiềm thức. Eragon nhận ra đây là người đã níu sự sống của nó lại. Giống như tâm trí Arya, tâm trí người này nhẹ nhàng thanh thoát. Nó rụt rè hỏi: "Ông là ai?" "Là người đến giúp." Lời nói bằng tư tưởng, xa xôi nhẹ nhàng đó quét sạch ảnh hưởng của Tà Thần trong nó. "Ta đã cố bảo vệ con, nhưng con ở xa xôi quá, ta chỉ có thể tránh cho lương tâm con những điều đau đớn." "Nhưng ông là ai mà lại giúp con?" "Ta là Osthato Chetowa, một Hiền Nhân Sám Hối, và ta cũng là Togira Ikonoka, một người Tàn Mà Không Phế. Hãy đến cùng ta, Eragon. Ta sẽ trả lời tất cả những thắc mắc của con. Con sẽ không được an toàn cho đến khi nào gặp ta." "Nhưng làm sao gặp được vì con không biết ông là ai?" "Hãy tin tưởng Arya và theo cô ấy về hoàng cung Ellesmera. Ta sẽ ở đó. Ta chờ con quá lâu rồi, đừng trì hoãn nữa, kẻo quá muộn....Eragon, con vĩ đại hơn con tưởng. Hãy nghĩ lại những việc con đã làm, con đã tiêu diệt tội ác, con đã hoàn thành một việc chưa ai làm được. Nhiều người mang ơn con." Ông ta có lý, nó đáng được tự hào vì những việc đã làm. Dù sau này có ai lên án nó điều gì, nó cũng không bao giờ là một công cụ cho trò chơi quyền lực. Nó đã vượt qua được chuyện đó. Nó đã trở thành điều Ajihad mong muốn: không lệ thuộc vào bất cứ vua chúa hoặc thủ lãnh nào. Từ xa xôi truyền vào trí não nó những sắc màu rực rỡ, rồi từ từ kết tụ thành hình ảnh một người gù trong bộ áo trắng, đang đứng trên một triền đá. "Eragon, con nghỉ đi. Khi tỉnh lại, đừng cho ai biết về ta. Hãy nhớ, con phải đến với thần tiên. Ngủ đi." Mặt ông ta chìm khuất trong vầng hào quang bạc. Ông đưa tay như chúc phúc cho nó. Một nỗi êm ả, thanh thoát truyền khắp người Eragon. Ý nghĩ sau cùng của Eragon là ông già Brom hẳn đã hãnh diện vì nó. - Dậy đi, dậy đi, Eragon. Ngủ nhiều quá rồi. Nó cố mở mắt và thấy đang được nằm trên giường nệm chăn ấm áp. Bà phù thủy ngồi ghế kế bên, đang chăm chăm nhìn nó. - Cháu cảm thấy sao rồi? - Cháu....không biết nữa. - Thế thì cứ nằm im để giữ sức. Eragon thấy bà ta vẫn mặc áo giáp. Vì sao vậy? Nó bỗng nổi cơn ho, khắp mình ê ẩm. Angela đưa cho nó một cái sừng đựng nước: - Uống đi, cháu. Nước mát làm nó tỉnh táo. Nó tự hỏi sao mình lại ở đây? Mình đang ngoài mặt trận...bên mình đang thua...rồi Durza và...Saphira! Eragon ráng ngồi dậy nhưng không nổi. - Còn Saphira và Arya sao rồi? - Còn sống. Tất cả đang chờ cháu tỉnh lại. Cháu muốn gặp họ bây giờ không? Eragon gật, bà ra mở cửa và Arya, Murtagh cùng bước vào. Chỉ riêng Saphira thò được mỗi cái đầu to đùng qua cửa. Mắt cô ả long lanh mừng rỡ. Eragon mỉm cười đón luồng ý nghĩ của Saphira: "Thấy anh khoẻ lại, em vui quá, anh nhóc ạ." "Anh cũng mừng vì em còn sống. Nhưng tại sao?" "Để mọi người cắt nghĩa." "Anh thấy em phun lửa được rồi. Giỏi quá." Ả hãnh diện trả lời: "Chính xác. Hơi bị...quá hay." Arya và Murtagh đều bị băng bó. Arya, cánh tay. Murtagh, băng cuốn trên đầu. Eragon hỏi: - Chuyện gì đã xảy ra vậy? Arya có vẻ buồn. Murtagh lên tiếng: - Chúng ta đã thắng. Không thể ngờ được. Khi linh hồn của Tà Thần, nếu có thể gọi đó là linh hồn, thoát ra khỏi Farthen Dur, thì lũ Urgals giảm cường độ chiến đấu. Rồi như chúng cũng thoát ra khỏi lời bùa chú, các bộ lạc quay lại đánh lẫn nhau. Chỉ trong mấy phút, toàn quân Urgals tan tác. Chúng ta dẹp chúng không mấy khó khăn. - Chúng chết hết rồi sao? - Không, còn một số đông chạy xuống đường hầm. Varden và người lùn đang tiếp tục tiêu diệt chúng. Tôi cũng tham gia cùng họ, cho đến khi ăn một chùy của Urgals lên đầu, nên được đưa về đây. - Họ không bỏ anh vào tù nữa chứ? Murtagh buồn rầu nói: - Ngay lúc này chưa biết chính xác được điều gì. Cả Varden và người lùn đều bị chết rất nhiều. Những người còn sống vẫn còn đang ngoài mặt trận. Nhưng dù sao cậu có lý do để vui mừng. Cậu đã là một người hùng. Tất cả mọi người đều nói về việc cậu tiêu diệt Tà Thần. Không có cậu, chúng ta đã thua rồi. - Anh em sinh đôi đâu? Tôi cố liên lạc với chúng nhiều lần mà không được. - Tôi nghe nói chúng phải ngăn cản một nhóm Urgals xâm nhập rất vất vả, nên không liên lạc được với cậu. Eragon cảm thấy lý do này có điều rất khó tin, nhưng nó chưa hiểu tại sao. Quay qua Arya, đôi mắt rực rỡ của nàng chăm chăm nhìn nó suốt từ lúc vào phòng, Eragon hỏi: - Vì sao nàng và Saphira.... Thấy Eragon còn mệt, Arya nhỏ nhẹ nói luôn: - Khi....khi...chàng báo cho Saphira, tôi còn đang tháo bộ giáp khỏi thân nó. Xong việc thì không còn thời gian vượt qua cầu thang. Lo sợ chàng bị Durza giết trước khi tôi kịp cứu, vì thế đành phải phá vỡ ngôi sao bằng ngọc. - Nhưng tại sao không mảnh ngọc nào làm tôi và nàng bị thương? - Tôi không cho phép. Khi tôi và Saphira hạ xuống gần tới sàn, tôi đã làm cho tất cả bất động trong không gian. Angela mát mẻ: - Phải, nếu không có tôi thì mấy người chết ráo rồi. Eragon cảm thấy vết thương sau lưng nó không có vết băng: - Tôi được đưa về đây bao lâu rồi? Bà Angela trả lời: - Một ngày rưỡi rồi. Cháu may mắn vì ta ở đây ngay lúc đó, nếu không cũng phải vài tuần vết thương mới lành. Eragon, cháu nên hiểu cho ta, ta không có phép thuật cao cường như cháu và Arya. Ta chỉ nhờ vào dược thảo và thuốc nước thôi. Vì thế khả năng của ta rất giới hạn, nhất là với một vết thương lớn như thế, nên.... Eragon đưa tay ra sau, sờ soạng vết thương. Một đường thịt phồng lên dài từ vai trái xuống lưng. Tà Thần đã để lại trên lưng nó một vết sẹo dài. Arya thì thầm: - Chàng đã phải trả giá cho hành động của mình, Eragon - với- dấu - ấn - của - Tà - Thần ạ. Murtagh cười ha hả: - Cái tên mới rất tuyệt. Bây giờ cậu cũng mang dấu vết giống hệt như mình. Eragon mệt mỏi nhắm mắt, rồi nó nhớ lại hình ảnh đã thấy trong lúc hôn mê....người mặc áo trắng...tàn nhưng không phế, Togira Ikonoka. Ông đã bảo nó: "Hãy nghĩ đến những gì con đã làm, con đã tiêu diệt tội ác. Con đã hoàn tất một việc không ai làm nổi. Nhiều người đã mang ơn con...." "Hãy đến cùng ta, Eragon, vì ta sẽ là người trả lời những thắc mắc của con." Một sự hài lòng êm ả vỗ về Eragon. "Dạ, con sẽ đến." “Bài hát dành cho người chết là những khúc ai ca của sự sống” Vừa thầm nghĩ, Eragon vừa bước qua những các xác không toàn vẹn của tụi quái đầu sừng Urgal, vừa lắng nghe giọng ngân nga buồn thảm của những người đàn bà đang di chuyển thi hài của những người thân yêu khỏi mặt đất ngập ngụa máu trong lòng Farthen Dur. Phía sau nó, Saphira nhẹ nhàng vòng qua những xác chết. Những chiếc vảy lóng lánh của cô rồng cái là nguồn sáng duy nhất trong hầm núi âm u này. Ba ngày đã trôi qua kể từ trận chiến của Varden và người lùn chống lại Urgal, để bảo vệ lãnh thổ Tronjheim - một thành phố ẩn trong lòng Garthen Dur – nhưng chiến trường vẫn còn vương vãi đầy xác chết. Xa xa, sát vách núi, nơi thiêu xác Urgal, ngọn lửa khổng lồ buồn rầu cuồn cuộn bốc lên. Từ khi tỉnh lại và biết vết thương đã được bà Angela chữa lành, Eragon đã ba lần cố gắng giúp đỡ mọi người, nhưng mỗi lần ráng sức, nó lại cảm thấy đau khủng khiếp như xương sống bị vỡ vụn ra. Các thầy thuốc cho nó uống đủ loại dược thảo. Arya và bà Angela bảo nó đã hoàn toàn bình phục, tuy nhiên Eragon vẫn cảm thấy đau. Saphira cũng không giúp được gì, chỉ chia sẻ nỗi đau với nó bằng tinh thần của hai đứa kết nối với nhau. Xoa tay lên mặt, Eragon ngước nhìn những vì sao tỏa sáng qua đỉnh Farthen Dur dày đặc khói đen tỏa lên từ lò thiêu xác. Ba ngày đã qua! Ba ngày kể từ khi nó giết tà thần Durza; từ khi mọi người gọi nó bằng cái tên mới: Khắc-Tinh của Tà-Thần; từ khi những dư âm của luồng tư tưởng ma quái xâm nhập vào ý thức nó và nó được giải thoát một cách thần bí bởi một nhân vật tự xưng là Togira Ikonoka - Người Tàn Mà Không Phế. Ngoài Saphira, nó không cho ai biết chuyện này. Chiến đấu với Tà Thần và những trò yêu mị đen tối đã ám ảnh nó, làm nó thay đổi. Tuy vậy, Eragon không biết chắc, sự thay đổi này sẽ tốt hơn hay tệ hại hơn. Nó cảm thấy yếu tới nỗi, dường như chỉ một đụng chạm thình lình cũng sẽ làm cả thân xác và ý chí rã rời thành từng mảnh. Nhìn kết quả của những gì đã xảy ra sau cuộc chiến, Eragon không thấy gì ngoài sự hiện diện của cái chết cùng với cảnh điêu tàn. Nó không hề thấy chút men chiến thắng nào, như nó từng mong đợi, trong những bản hùng ca. Nếu Eragon chứng kiến cảnh tàn bạo diễn ra giữa con người, Urgal và người lùn trước khi cậu Garrow bị Ra’zac tàn sát, chắc chắn nó đau khổ vô cùng. Giờ đây trước cảnh này, nó chỉ cảm thấy tê dại. Cùng Saphira, Eragon đã nhận ra: con đường duy nhất để vững vàng trong cảnh đớn đau này là phải hành động. Hơn nữa, nó không còn tin rằng đời sống có ý nghĩa bất di bất dịch. Nhất là từ sau khi chứng kiến tụi Kull - một giống Urgal khổng lồ - phanh thây xé thịt những người vô tội, mặt đất ngập máu làm ướt sũng cả đôi giày của nó. Eragon đi đến kết luận, nếu còn chút danh dự nào trong chiến tranh, thì đó là chiến đấu để tránh khổ đau cho người khác. Eragon cúi nhặt một cái răng hàm, tung hứng trên bàn tay, rồi cùng Saphira len lỏi qua những đống hỗn tạp trên mặt đất. Cả hai ngừng lại khi thấy Jormundur – phó tướng của thủ lãnh Ajihad đang từ phía Tronjheim tiến tới. Lại gần Eragon, Jormundur trịnh trọng cúi thấp đầu, một hành động Eragon chưa từng thấy trước đây. - Thủ lãnh Ajihad đang trở về, ông mong gặp cậu khi về tới đây. Các người khác đã sẵn sàng đón ông tại cửa tây Tronjheim. Chúng ta hãy cùng đến đó cho kịp. Eragon gật đầu vịn tay lên Saphira cùng tiến sang cửa tây. Suốt ba ngày qua Ajihad mải miết truy đuổi những tên Urgal tẩu thoát qua các địa đạo chằng chịt như tổ ong của người lùn, trong lòng rặng núi Beor. Trong thời gian chiến đấu, Eragon chỉ thấy ông một lần – lúc đó ông đang tức giận vì Nasuada đã không tuân lệnh di tản cùng đàn bà và trẻ em trước trận đánh. Trái lại, cô âm thầm ở lại tác chiến bên cạnh các xạ thủ Varden. Murtagh và cặp anh em sinh đôi hộ tống Ajihad trong cuộc truy lùng Urgal. Vị thủ lãnh cần cặp sinh đôi bảo vệ vì chúng có phép thuật, còn Murtagh thì muốn chứng tỏ anh ta không có tà ý gì với phe Varden. Eragon ngạc nhiên nhận thấy thái độ của mọi người đối với Murtagh đã thay đổi, vì trước đó dù là con trai của phản đồ Morzan, anh ta đã tỏ ra rất chân thành với Eragon nhưng vẫn không được những người trong phe Varden tin cẩn. Eragon mong mỏi gặp lại Murtagh để kể lại với anh về những chuyện này. Một toán người với những ngọn đèn lồng xuất hiện trước cánh cổng gỗ. Trong số họ có Arya và ông lùn Orik đang cố lạch bạch trên đôi chân ngắn ngủn. Một dải băng trắng buộc vết thương trên cánh tay Arya phản chiếu ánh sáng lên mái tóc nàng. Như mỗi khi thấy nàng, một mối cảm xúc kỳ lạ lại tràn ngập trong Eragon. Đôi mắt màu xanh lục của nàng sáng lên khi thấy Eragon và Saphira, rồi lại tiếp tục hướng mắt tìm Ajihad. Bằng cách đập vỡ Isidar Mithrim - tảng ngọc lam hình bông hồng đường kính hai mươi mét – Arya đã giúp Eragon giết tà thần Durza, và nhờ vậy đem về chiến thắng. Tuy nhiên người lùn đã phẫn nộ vì nàng phá hủy tài sản quí giá nhất của họ. Họ nhất định không dọn dẹp những mảnh vỡ, để nguyên từng đống ngọc vụn trong đại sảnh trung tâm của Tronjheim. Bước qua đống đổ nát, Eragon cũng phải thông cảm và chia sẻ niềm tiếc nuối bảo vật tuyệt đẹp này với người lùn. Cùng Saphira ngừng trước Orik, Eragon ngước mắt nhìn khoảng đất trống quanh Tronjheim kéo dài tới chân Farthen Dur, mỗi bề khoảng năm dặm, hỏi: - Thủ lĩnh Ajihad tới bằng ngả nào? Orik chỉ tay về một chùm lồng đèn xúm quanh trước một cửa hầm cách xa chừng vài dặm: - Người sắp tới rồi đó. Eragon đứng đợi, lặng lẽ trao đổi ý nghĩ với Saphira. Sự tĩnh lặng lúc này thuật thích hợp với nó. Nửa giờ sau, ánh đèn thấp thoáng từ đường hầm và một toán người leo lên mặt đất, rồi quay lại kéo những người lùn lên. Một người trong nhóm – Eragon đoán là Ajihad – đưa cao một cánh tay và những chiến binh xếp thành hai hàng nghiêm chỉnh sau ông. Đội hình kiêu hãnh đó tiến về Tronjheim. Họ mới đi được chừng năm mét, cửa hầm họ vừa ra khỏi bỗng tràn ngập những thân hình ào ạt nhảy vọt lên. Eragon nhíu mày, khoảng cách quá xa, nó không nhìn rõ chuyện gì xảy ra. Toàn thân Saphira căng như một sợi dây cung. Nó hét lên: - Quái thú Urgal! - Urgal! Eragon kêu lên, vừa nhảy lên mình Saphira vừa tự trách đã bỏ thanh Ra’zoc lại phòng. Không ai ngờ tụi Urgal đã bị truy đuổi hết có thể quay lại tấn công. Vết thương Eragon đau nhói khi Saphira nâng đôi cánh màu xanh, vội vàng cất mình lên cao. Phía dưới, Arya xải dài đôi chân chạy theo Saphira về phía đường hầm. Ông lùn Orik cùng một số người khác cố bám theo nàng, trong khi phó tướng Jormundur chạy gấp về doanh trại cầu cứu viện binh. Eragon bất lực nhìn lũ Urgal tiến sát những chiến binh sau Ajihad; với khoảng cách quá xa như thế này, nó không thể sử dụng phép thuật được. Lợi thế bất ngờ, lũ quái thú hạ ngay được bốn chiến binh; bắt buộc những chiến binh còn lại, kể cả người và người lùn, xúm xít quanh Ajihad để bảo vệ. Kiếm và rìu tua tủa vung lên. Thấp thoáng đường kiếm như tia chớp từ tay một trong hai anh em sinh đôi, một quái Urgal đổ gục. Trong một phút, dường như những người chống giữ có khả năng đánh bật Urgal, nhưng ngay lúc đó một cơn gió xoáy trong không khí, giống như một làn sương mỏng phủ lên những người đang chiến đấu. Làn sương tan, chỉ còn bốn chiến binh đứng vững vàng: Thủ lĩnh Ajihad, cặp sinh đôi và Murtagh. Urgal xiết vòng vây quanh họ, ngăn chặn tầm nhìn của Eragon. Nó khiếp đảm trợn mắt nhìn. KHÔÔÔNG! Trước khi Saphira tới nơi, lũ quái Urgal đã kịp rút trở vào địa đạo, để lại phía sau những thân người sóng soài trên mặt đất. Eragon nhảy vội xuống khi Saphira vừa hạ cánh. Đau khổ, phẫn uất tràn ngập tràn ngập trong lòng. Cảnh tượng này như tái hiện trong tâm trí khi nó trở về trang trại chỉ để kịp nhìn thấy cậu Garrow hấp hối. Cố chống lại nỗi khiếp đảm, nó lần mò tìm kiếm người sống sót. Giữa cảnh thê lương ngập máu tươi, thủ lãnh Ajihad nằm thoi thóp. Mảnh giáp thép trước ngực ông tan nát, chung quanh ông là xác năm quái Urgal đã bị chính tay ông hạ thủ. Eragon quỳ gối bên ông, cúi mặt để nước mắt đừng rơi trúng vùng ngực rách toang của viên thủ lãnh. Không ai còn có thể chữa lành được những vết thương này. Chạy lại, Arya sững người, đau đớn khi thấy tình trạng Ajihad hết phương cứu chữa. - Eragon! Tiếng gọi thoát ra như tiếng thở dài từ miệng viên thủ lãnh. - Cháu đây. - Nghe này, Eragon… Ta có một lệnh cuối cùng cho cháu. Eragon cúi gần hơn, lắng nghe từng tiếng thì thào của người hấp hối: - Phải hứa với ta… không được để Varden tan rã. Họ là hy vọng duy nhất để chống lại triều đình… Làm cho họ dũng mạnh. Hứa đi… - Cháu xin hứa. - Vậy thì… cầu cháu được bình an…Eragon Khắc-Tinh của Tà Thần… Hắt ra hơi thở cuối cùng, Ajihad khép mắt, khuôn mặt cao quý của vị thủ lãnh bình thản lại, ông nhẹ nhàng đi vào cõi chết. Eragon cúi đầu, sự đau khổ quá sức chịu đựng làm nó gần như ngộp thở. Arya rì rầm chúc phúc cho Ajihad bằng cổ ngữ, rồi cất giọng ngân nga, nàng nói: - Than ôi! Cái chết của ông sẽ gây nên nhiều xung đột bất đồng. Ajihad nói đúng, chàng phải tìm mọi cách để tránh một cuộc tranh giành quyền lực. Ta sẽ trợ giúp chàng với khả năng của mình. Nhìn những thi thể chung quanh, Eragon muốn đổi tất cả để ở một nơi khác, để không phải thấy cảnh này. Saphira đưa mũi gần một xác Urgal, than thở: “Tại sao lại xảy ra chuyện khủng khiếp này, khi chúng ta đã cận kề sự an toàn và chiến thắng?” Nó bỗng nhớn nhác nhìn quanh hỏi: “Murtagh và anh em sinh đôi đâu? Họ không có trong đống xác chết này.” “Em nói phải.” Eragon hốt hoảng phóng lại cửa đường hầm. Những vũng máu đặc quánh trên những bực thang bằng đá hoa cương, trông như những tấm gương màu đen bóng lộn. Nó truyền ý nghĩ cho Saphira: “Chắc họ đã bị Urgal bắt rồi. Không thể, vì Urgal không giữ tù binh và con tin. Nhưng trước mắt, chưa có viện binh, chúng ta không thể đuổi theo. Em không qua lọt cửa hầm này đâu.” “Có thể họ còn sống. Mình bỏ rơi họ sao?” “Anh làm được gì bây giờ? Địa đạo của người lùn chằng chịt như lưới nhện, mà anh không thể chạy bộ theo lũ Urgal. Chỉ Arya có thể làm chuyện này.” “Vậy thì nhờ cô ấy đi” Arya! Eragon bối rối, vừa muốn nhờ nàng hành động, vừa sợ đặt nàng vào hoàn cảnh hiểm nguy. Nhưng trong số những người đứng về phe Varden, nàng là người duy nhất có khả năng làm việc này. Eragon thở dài, cắt nghĩa tình hình cho Arya nghe. Cặp mày xếch hơi nhíu lại, nhưng rồi nàng bảo: - Vô lý thật. Murtagh và cặp sinh đôi biến vào đâu? - Nàng sẽ truy tìm họ chứ? Arya lặng lẽ nhìn Eragon một lúc sau mới lên tiếng: - Wiol ono. Câu cổ ngữ đó có nghĩa: “Vì chàng”. Rồi loang loáng ánh thép của kiếm trong tay, Arya tiến qua cửa hầm, biến vào lòng đất. Ngồi khoanh chân bên Ajiad, Eragon nhìn trừng trừng thi hài ông, cay đắng nghĩ: không thể ngờ cùng một lúc mất cả vị thủ lãnh và Murtagh. Đôi khi Eragon đã cầu mong Murtagh đi khỏi nơi này vì những nghi kỵ chung quanh. Nhưng lúc này, sự mất mát đó để lại trong lòng nó một nỗi trống vắng đến không ngờ. Nó ngồi bất động khi Orick và mấy người nữa lại gần. Vừa thấy thi thể Ajihad, ông lùn giậm chân, phẫn nộ rủa lớn, vung cây rìu bổ xuống một xác Urgal. Xoa hai tay dính đầy bùn đất, ông than vãn: - Ôi! Barzuln (bất hạnh)! Cánh chim đầu đàn không còn nữa! Sau vụ này, còn đâu cảnh êm ấm giữa chúng tôi cùng những người Varden! Eragon, cậu có kịp nghe ông trăng trối gì không? Eragon nhìn Saphira: “Anh sẽ đợi, khi nào gặp đúng người mới lập lại những lời nói sau cùng của ông Ajihad.” “Em hiểu”. Phó tướng Jormundur cùng mười hai chiến binh cấp bậc cao xuất hiện. Ông ra lệnh cho họ đứng lùi lại, riêng ông tiến tới nắm vai thi thể vị thủ lãnh, cất tiếng than: - Sao định mệnh tàn nhẫn vậy, lão hiền hữu ơi! Phái chi tôi đến kịp, chúng ta đâu phải chịu cảnh tang thương vào giây phút chiến thắng như thế này. Eragon ôn tồn cho ông biết về sự mất tích của cặp sinh đôi và Murtagh, cùng chuyện Arya đang tìm kiếm họ. Jormundur đứng thẳng người lên, nói: - Đáng lẽ cô ấy không nên đi như thế. Nhưng lúc này, chúng ta chưa thể làm gì được, vì ít nhất một tiếng nữa quân do thám của người lùn mới có thể phát hiện, nếu có cuộc đụng độ nào dưới địa đạo. Orik đề nghị: - Tôi tình nguyện dẫn đầu toán do thám. Jormundur quay nhìn thành phố Tronjheim xa xa trong lòng đất: - Không được. Đức vua Hrothgar đang cần ông lúc này. Hãy để người khác làm việc đó. Eragon, tôi rất tiếc, nhưng tất cả những nhân vật quan trọng sẽ không được rời khỏi đây cho đến khi người kế nhiệm thủ lãnh Ajihad được bầu xong. Arya phải tự lo thôi, vì dù sao chúng ta cũng sẽ không thể đuổi kịp cô ấy nữa. Eragon gật đầu. Jormundur nhìn quanh rồi cao giọng nói với tất cả: - Thủ lãnh Ajihad đã chết như một chiến binh dũng mãnh. Hãy nhìn năm quái thủ Urgal bị chết dưới tay ông. Nếu là một người kém bản lãnh hơn, chắc chắn chỉ cần một tên Urgal cũng đủ bị hạ gục rồi. Chúng ta hãy nghiêng mình tôn vinh ông và cầu xin linh hồn ông yên nghỉ bên các thần linh. Hãy dùng khiên và vai, rước ông và các chiến hữu của chúng ta về Tronjheim… và đừng ngại ngùng xấu hổ khi nước mắt các người tuôn trào, vì hôm nay là một ngày đau buồn mà tất cả chúng ta luôn phải ghi nhớ mãi. Cầu xin chúng ta sớm đâm mũi kiếm xuyên suốt những con quái vật đã tàn sát thủ lãnh của chúng ta. Các chiến binh quỳ gối, cúi đầu, tỏ lòng tôn kính Ajihad. Rồi họ nhẹ nhàng đặt ông lên những tấm khiên, trang trọng nâng lên vai. Nước mắt lã chã rơi, ướt đầm những chòm râu rậm rì, các chiến binh Varden vẫn uy nghiêm tiến bước về Tronjheim. Saphira và Eragon đi giữa đoàn người bi hùng, lặng lẽ. Eragon lăn mình ra mép giường, ngồi dậy, nhìn quanh căn phòng lờ mờ trong ánh đèn lồng đã được phủ bên ngoài. Nó lặng lẽ ngắm Saphira đang ngủ. Hai bên mạn sườn cô ả căng lên xẹp xuống mỗi khi buồng phổi khổng lồ hít thở không khí qua hai lỗ mũi đầy vảy màu xanh. Thật đáng sợ mỗi khi nhìn ngọn lửa nóng đến có thể làm tan chảy cả kim loại phun ra từ miệng, mà lưỡi và những cái răng trắng như ngà của cô ả không hề hấn gì. Từ sau lần đầu Saphira nhào từ đỉnh Tronjheim xuống, phun lửa chiến đấu với tà thần Durza, cô nàng hãnh diện ra mặt vì tài năng mới đó của mình. Mỗi khi có dịp trổ tài, ả lại biểu diễn làm cho đồ vật tỏa sáng. Vì Isidar Mithrim đã bị vỡ, Eragon và Saphira không còn có thể trú ngụ trong phòng dành cho rồng phía trên tảng ngọc khổng lồ đó nữa. Người lùn phải bố trí để cả hai ở trong một khu bảo vệ cũ, nằm dưới tầng một của Tronjheim. Đó là một căn phòng rộng, nhưng trần thấp và những bức tường u ám. Nhớ lại những sự việc xảy ra hôm qua, Eragon lại cảm thấy đau khổ dâng trong lòng. Nó ngửa tay hứng giọt nước mắt đang ứa ra. Chiều tối qua, Arya - mệt mỏi, lo lắng và hai chân đau buốt - từ địa đạo lên, đưa ra một trong hai tấm áo choàng màu tía, tả tơi, bết máu của cặp sinh đôi và cái áo lót cùng đôi găng tay da của Murtagh, bảo: “Tất cả những thứ này rải rác trên sườn vực. Không một đường hầm nào thông tới đáy vực tối om om đó hết. Chắc tụi Urgal đã lấy áo giáp và vũ khí, rồi ném xác họ xuống vực sâu. Ta đã cố thu hình ảnh họ, nhưng chỉ thấy bóng tối mịt mù như địa ngục. Rất tiếc, Eragon, họ đã chết cả rồi.” Eragon không ngờ cảm giác đau khổ, nhớ thương nguời bạn gần gũi thân thiết suốt mấy tháng qua khủng khiếp đến thế. Nhìn giọt nước mắt nhỏ sáng ngời trên lòng bàn tay, nó quyết định tự thu hình ảnh Murtagh và cặp anh em sinh đôi. Dù nó biết là vô vọng, vì với tài nghệ và phép thuật cao cường, Arya cũng đã chẳng phát hiện đuợc điều gì. Nhưng nó vẫn muốn thử, muốn biết chắc là Murtagh không còn nữa, dù chỉ được thoáng thấy thi thể anh tan nát dưới đáy vực núi Farthen Dur. Eragon thì thầm câu thần chú: “Draumr kópa”. Lập tức bóng tối bao phủ, biến giọt nước thành một chấm màu đen trên Bàn-tay-bạc của nó. Một hình ảnh chập chờn thoáng di chuyển, như một bóng chim vụt qua đám mây bao phủ mặt trăng, rồi… không còn gì nữa. Nước mắt lại nhỏ giọt trên bàn tay. Eragon ngồi thẳng người, ráng bình tĩnh lại. Từ khi vết thương gây ra bởi tà thần bình phục, nó nhận ra chiến thắng của mình hoàn toàn nhờ may mắn. Eragon tự nhủ: “Muốn chiến thắng thực sự khi đụng độ với một Tà Thần khác, hay Ra’zac hoặc chính bạo chúa Galbatorix thì mình phải mạnh hơn tình trạng này nhiều. Mình biết ông Brom có thể dạy mình nhiều điều nữa, nhưng nay ông đã không còn, chọn lựa duy nhất bây giờ chỉ còn hy vọng vào thần tiên.” Saphira thở gấp, mở mắt thao láo, ngoác mồm ngáp rồi đủng đỉnh bảo: “Chúc buổi sáng tốt lành, tiểu huynh.” “Tốt lành gì? Khủng khiếp thì có… Murtagh và Ajihad đều đã mất… Lý do gì lính gác dưới địa đạo không báo cho chúng ta biết sự xâm nhập của Urgal? Vì sao Urgal có thể theo dõi đoàn người của Ajihad mà lại không bị phát hiện? Arya rất đúng khi bảo chuyện đó vô lý quá.” Saphira đứng dậy, cánh chạm nóc trần: “Có thể không bao giờ chúng ta biết được sự thật này. Tốt hơn hết là anh cần phải ăn chút gì đã, rồi chúng ta đi tìm hiểu xem Varden đang tính toán gì. Đừng chần chờ nữa, thủ lãnh mới sắp được bầu lên chỉ trong vài giờ nữa thôi.” Eragon đồng ý. Nó nhớ lại công việc của mọi người khi chia tay chiều qua. Orik chạy vội đi tấu trình tin tức cho vua Hrothgar, Jormundur đưa thi hài thủ lãnh Ajihad đến nơi quàn tạm, trước khi cử hành tang lễ. Còn Arya lặng lẽ đứng một mình, nhìn những gì đang diễn ra. Nó đứng dậy đeo cung và thanh Za’roc, rồi cúi nhặt yên cương. Một cơn nhói đau buốt xuyên suốt thân mình làm nó ngã vật xuống sàn. Thân thể nó có cảm giác như bị cưa làm hai khúc. Saphira rên lên khi cảm giác đau đớn chuyền qua nó. Nó ráng dỗ dành, nhưng vẫn không thể làm Eragon bớt đau. Mấy phút sau, cơn đau dịu dần, Eragon hổn hển thở, mồ hôi ướt đầm mặt. Nó ngoái tay ra sau rờ vết thẹo. Vết thẹo nóng rát. Saphira đặt nhẹ mũi lên cánh tay Eragon: “Ôi, tội nghiệp anh bé nhỏ.” “Lần này đau hơn những lần trước.” Gượng đứng dậy, Eragon dựa mình vào Saphira, vuốt mồ hôi trên mặt, rồi lê bước về phía cửa. “Anh đi nổi không?” “Không nổi cũng phải đi. Là rồng và kỵ sĩ, chúng ta bắt buộc phải để dư luận thấy sự tôn trọng vị thủ lãnh mới, và thậm chí chúng ta còn có thể ảnh hưởng tới việc tuyển chọn này nữa. Anh sẽ không bỏ qua sức mạnh của địa vị chúng ta trong tổ chức Varden. Rất may, anh em sinh đôi không có mặt để nắm bắt quyền lực trong dịp này.” “Phải. Nhưng đừng quên Tà Thần Durza phải chịu đau đớn hàng ngàn năm nữa, vì những gì anh đã gây ra cho hắn.” “Vậy thì em luôn phải ở sát bên anh.” Cả hai đi xuyên qua Tronjheim, tới thẳng khu nhà ăn. Trong hành lang rộng, mọi người ngừng chuyện trò, cúi đầu chào, miệng thì thầm: “Bàn-tay-bạc” hoặc “Khắc tinh của Tà Thần”. Một số người lùn cũng chào và gọi Eragon như vậy. Nó bàng hoàng vì vẻ ủ rũ thẫn thờ của những con người trong những bộ trang phục toàn một màu đen buồn thảm. Nhiều phụ nữ còn trùm mạng đen kén mặt. Eragon lấy một khay đá đựng đồ ăn, rồi ngồi bên một bàn thấp. Saphira chăm chú quan sát, đề phòng có kẻ bất ngờ tấn công Eragon. Nhiều người định tiến lại gần, nhưng bị cô rồng cái gầm gừ đe dọa. Eragon lẳng lặng ăn, tảng lờ như không biết chuyện gì. Để thoát khỏi những ý nghĩ về Murtagh mãi luẩn quẩn trong đầu, Eragon âm thầm chuyện trò của Saphira: “Không còn Ajihad và cặp song sinh, em nghĩ ai sẽ có đủ khả năng điều khiển Varden?” Saphira ngập ngừng: “Rất có thể là anh, nếu những lời cuối cùng của Ajihad chính là lời chúc phúc cho vị thủ lãnh tương lai. Chắc sẽ không kẻ nào phản đối anh. Tuy nhiên, theo em, lãnh trách nhiệm này hình như không khôn ngoan lắm đâu. Em thấy toàn là rắc rối.” “Đồng ý. Hơn nữa, Arya sẽ không chấp thuận, mà một khi đồng ý, nàng ta sẽ là một kẻ thù nguy hiểm nhất. Thần tiên không nói dối khi sử dụng cổ ngữ, nhưng Arya sẽ chối bỏ những lời trối trăng của Ajihad, nếu điều đó có lợi cho ý đồ của nàng ta. Không, anh chẳng hề ham muốn địa vị đó chút nào.... Còn ông Jormundur thì sao?” “Ajihad gọi ông ta là cánh tay mặt, nhưng chúng ta mới tới đây chưa được bao lâu, hiểu biết quá ít về ông ta cũng như những thủ lãnh khác. Những nhận xét về họ, chỉ là cảm tính, không có gì là xác thực cả.” “Đừng quên nhà vua Hrothgar và những bộ tộc người lùn, họ sẽ không im lặng trong vụ bầu chọn này đâu. Trừ Arya, vì thần tiên không có tiếng nói trong buổi họp. Chỉ sau khi có quyết định, họ mới được thông báo. Trái lại người lùn sẽ không bỏ qua. Vì vậy, dù Hrothgar có cảm tình với Varden, nhưng nếu các bộ tộc phản đối, rất có thể nhà vua sẽ xoay chiều, ủng hộ một kẻ bất tài theo sự thúc giục của các bộ tộc.” “Vậy kẻ đó sẽ là ai?” “Một kẻ dễ điều khiển. Là bất cứ kẻ nào sống dưới lòng Farthen Dur này.” Eragon ngả người dựa ghế, khép mắt trả lời. Cả hai im lặng chìm trong sự đắn đo tính toán những vấn đề đang phải đối mặt. Một lúc lâu sau, Saphira bảo: “Eragon, có người muốn gặp anh. Hắn lì lợm lắm, em không đuổi đi đuợc.’ “Hả?” Eragon mở hé mắt vì chói sáng. Một chú bé xanh xao đứng bên bàn. chú bé lén lén nhìn Saphira như sợ bị cô ả ăn thịt. Eragon càu nhàu hỏi: - Chuyện gì vậy? Chú bé giật thót mình, đỏ mặt, cúi đầu lí nhí; - Thưa Bàn-tay-bạc, ngài được mới tới nói trước Hội-đồng Tiền-bối. - Hội-đồng Tiền-bối là ai? Câu hỏi càng làm chú nhóc thêm bối rối: - Là… là những vị tiền bối… Varden…. tuyển chọn đại diện của chúng tôi… Là… những cố vấn tin cẩn của thủ lãnh Ajihad. Được… được ra mắt các vị đó là… vinh dự lớn lắm đó… - Cậu đưa chúng ta đi? - Dạ, đúng vậy. Saphira nhìn Eragon dò hỏi. Nó nhún vai, bỏ dở đĩa đồ ăn, ra hiệu cho chú bé dẫn đường. Chú nhóc liếc nhanh thanh Zar’roc, mắt sáng lên đầy khâm phục. Eragon hỏi: - Tên cậu là gì? - Jarsha, thưa ngài. - Tên hay lắm. Cậu là một liên lạc viên rất cừ. Chú nhóc hớn hở tiến lên phía trước. Khi Jarsha đẩy cánh cửa đá, Eragon và Saphira thấy một căn phòng hình tròn, mái vòm màu xanh da trời, trang trí những chòm sao. Giữa phòng là một cái bàn cũng hình tròn bằng đá cẩm thạch. Mặt bàn khảm huy hiệu Durgrimst Ingeitum (một cây búa với mười hai ngôi sao bao quanh). Hiện diện bên bàn là Jormundur và hai người đàn ông, một cao lều khều, một to ngang; một người đàn bà miệng mím chặt, hai mắt như sát vào nhau; người đàn bà thứ hai có mái tóc bạc xù xù một đống trên khuôn mặt của một quý phu nhân đoan trang đức hạnh, nhưng lại lấp ló chuôi dao găm lòi ra ngoài ngực áo. Jormundur ra lệnh cho Jarsha: - Cho mi lui. Chú nhóc vội cúi chào rồi quay ra. Biết mọi người đang chăm chú nhìn, Eragon quan sát, rồi ngồi xuống giữa một hàng ghế trống, để bắt buộc các thành viên hội đồng phải quay lại, hướng về phía nó. Eragon cảm thấy hơi thở nóng hổi của Saphira phả trên đầu. Cô ả ngồi chồm hổm ngay sau lưng nó. Jormundur hơi nhổm người cúi chào, rồi ngồi xuống nói: - Eragon, cám ơn cậu đã tạm dẹp nỗi buồn riêng để tới dự buổi họp này. Ông ta lần lượt giới thiệu, trước tiên là người đàn ông cao lêu khêu tên là Umérth, người to ngang là Fallberd, hai người đàn bà là Sabrae và Elesssari. Eragon nhẹ nhàng cúi đầu, rồi lên tiếng hỏi: - Còn cặp sinh đôi? Anh em họ có là thành viên trong Hội đồng không? Sabrae lắc mạnh đầu, gõ những móng tay dài thượt lên bàn: - Chúng không liên quan gì đến hội đồng này. Đó là đồ rác rưởi, tệ hơn thế nữa, chúng là những con đỉa ti tiện, chỉ hành động vì tư hợi, không hề có chút nhiệt thành phục vụ quân cách mạng Varden. Vì vậy chúng không có chỗ đứng trong hội đồng này. Từ đầu bàn bên kia, mùi nước hoa nồng gắt của bà ta phả đến tận mũi Eragon. Nó tủm tỉm cười nghĩ: “Y như mùi hoa thối rữa.” Jormundur vội lên tiếng: - Đủ rồi. Chúng ta không ngồi đây để bàn cãi chuyện cặp sinh đôi. Một cuộc khủng hoảng đang chờ chúng ta giải quyết thật cấp kỳ và hiệu quả. Nếu không bầu ngay một người kế nhiệm thủ lãnh Ajihad, kẻ khác sẽ nắm thời cơ. Nhà vua Hrothgar đã chuyển lời phân ưu tới chúng ta. Trong khi chứng tỏ sự hòa hảo như vậy, chắc chắn nhà vua đang lên kế hoạch riêng, trong khi chúng ta chỉ ngồi bàn cãi suông thôi. Chúng ta cũng không thể coi thường Du Vrang Gata – Con- đường Lãng-du, tổ chức của những pháp sư. Dù hầu hết trong số họ đều trung thành với Varden, nhưng khó mà đoán được hành động của họ, kể cả trong những thời điểm tốt đẹp nhất. Vì quyền lợi của họ, họ có thể quyết định chống lại thế lực của chúng ta. Đó là lý do vì sao chúng tôi cần đến sự trợ giúp của cậu, Eragon, để đưa ra đề nghị hợp lý nhất, ai sẽ thay thế thủ lãnh Ajihad. Falberd vươn người, đặt bàn tay mập mạp lên bàn: - Cả năm chúng tôi đều nhất trí đó là nguời chính đáng nhất. Nhưng… truớc khi để cậu biết nguời đó là ai, chúng tôi muốn cậu phải lấy danh dự mà thề, dù đồng ý hay không, không một lời nào trong cuộc thảo luận này bị tiết lộ ra ngoài. Eragon hỏi Saphira: “Vì sao vậy, Saphira?” “Em không biết… nhưng có thể là một cái bẫy. Tuy nhiên anh thấy không, họ đâu bắt em thề bồi gì? Hừ, lũ ngốc quên là em thông minh chẳng thua gì loài người. Được, như vậy càng dễ, thay vì anh, em vẫn có thể nói lại với Arya những gì nghe được trong buổi họp này.” Eragon cảm thấy thoải mái vì ý tưởng đó của Saphira, nó lên tiếng: - Đồng ý, tôi hứa. Bây giờ xin cho biết, quí vị chọn ai làm người đứng đầu Varden? - Nasuada. Thật bất ngờ đối với Eragon. Vì cô ta còn quá trẻ, chỉ hơn Eragon vài tuổi. Hội-đồng Tiền-bối chọn cô ta với ý đồ gì? Họ có lợi gì trong vấn đề này. Nhớ lại những lời chỉ giáo của ông Brom, Eragon biết nó phải cấp tốc phân tích vấn đề từ mọi góc cạnh, để có sự quyết định tức thì. Saphira nhận xét: “Nasuada có sự cứng rắn giống như cha cô ấy vậy.” “Có thể, nhưng ngoài ra họ còn lý do nào để chọn lựa cô ấy không?” Để kéo dài thời gian, Eragon hỏi: - Tại sao lại không là ông, ông Jormundur? Thủ lãnh Ajihad vẫn bảo: ông là cánh tay mặt của người. Như vậy chẳng có nghĩa là ông sẽ là người kế nhiệm sao? Một làn sóng bất an lan suốt phòng họp: Sabrae, nắm chặt hai tay, ngồi thẳng người lên; Umérth và Falberd nét mặt sa sầm, đưa mắt nhìn nhau; trong khi Elessari chỉ nhếch mép cười, chuôi dao găm đung đưa trước ngực. Jormundur thận trọng lựa lời: - Những lời nói đó của thủ lãnh… chỉ thuần túy là về vấn đề quân sự. Hơn nữa, tôi là một thành viên trong hội đồng, chỉ được quyền ủng hộ một người khác ngoài hội đồng thôi. Một thành viên tự đề cao, đặt mình lên trên những thành viên khác là một sự khờ dại, đầy nguy hiểm. Ông ta vừa dứt lời toàn hội đồng như trút được gánh nặng. Elessari vỗ cánh tay Jormundur khen ngợi. Saphira nhận xét: “À, đám kia không ủng hộ, ông ta khó lòng mà nắm quyền được. Nhìn ánh mắt họ kìa. Jormundur như lạc giữa một bầy sói.” “Không, phải nói là, Jormundur là con sói lạc giữa bầy linh cẩu mới đúng chứ.” Eragon hỏi: - Các vị thấy là Nasuada đã có đầy đủ kinh nghiệm trong nhiệm vụ này? Elessari lên tiếng ngay: - Khi Ajihad gia nhập Varden, tôi đã có mặt tại đây được bảy năm rồi. Tôi đã chứng kiến Nasuada từ một cô gái nhỏ dễ thương lớn lên thành một thiếu nữ trưởng thành. Đôi khi hơi nông nổi, nhưng cô ta xứng đáng là người lãnh đạo Varden. Mọi người sẽ yêu quý cô ấy… Mụ vỗ mạnh lên ngực, hăng hái tiếp: - Bây giờ tôi và các chiến hữu đây sẽ luôn có mặt để hướng dẫn tiểu thư Nasuada vượt qua giai đoạn khó khăn này. Do đó sự thiếu kinh nghiệm sẽ không còn là rào cản ngăn cô ấy nhận địa vị chính đáng của mình. Vậy là Eragon đã hiểu. Họ muốn có một con rối trong tay. Umérth cắt ngang: - Tang lễ Thủ Lãnh sẽ tổ chức trong hai ngày. Ngay sau đó, chúng ta tuyên bố tiểu thư Nasuada là thủ lãnh mới. Dù chúng ta chưa hỏi ý kiến, nhưng chắc chắn cô ấy sẽ không phản đối. Eragon, chúng tôi mong cậu sẽ có mặt trong buổi Nasuada nhận nhiệm vụ mới – không ai, kể cả đức vua Hrothgar phàn nàn gì về chuyện đó được. Nhân dịp này cậu sẽ tuyên thệ trung thành cùng Varden. Điều này sẽ đem lại niềm tin đang bị giao động của mọi người từ sau cái chết của thủ lãnh và cũng để ngăn ngừa kẻ nào có ý định chia rẽ nội bộ của tổ chức. “Tuyên thệ!” Saphira góp ý ngay: “Thấy gì không? Họ không muốn anh tuyên thệ với Nasuada, mà với Varden.” “Đúng, và họ muốn là những người đứng ra chỉ định cô ấy làm thủ lãnh. Điều đó chứng tỏ hội đồng có quyền lực lớn hơn thủ lĩnh mới. Họ có thể yêu cầu chúng ta hoặc Arya làm lễ bổ nhiệm cho Nasuada, nhưng như vậy sẽ có nghĩa chúng ta và Arya vượt cao hơn họ. Bằng cách tự đứng ra bổ nhiệm Nasuada, họ sẽ nắm quyền điều khiển cô ấy, điều khiển cả chúng ta, xuyên qua vụ tuyên thệ trung thành. Hơn thế nữa, đối với dư luận, họ còn có lợi thế là Nasuada được một hiệp sĩ rồng hỗ trợ.” Eragon lên tiếng hỏi: - Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu tôi từ chối lời đề nghị của quý vị? Falberd thoáng bối rối: - Có.. có.. gì đâu. Tất nhiên không có gì xảy ra cả. Nhưng sẽ là một sự ngạo mạn khủng khiếp nếu cậu vắng mặt trong buổi bầu chọn Nasuada. Người hùng trong trận Farthen Dur không thèm tới dự! Cô ấy sẽ nghĩ sao? Kỵ sĩ rồng khinh thường Nasuada và thấy tổ chức Varden không xứng đáng để tham gia phục vụ? Ai có thể chịu đựng nổi sự nhục nhã như vậy chứ? Thông điệp quá rõ ràng! Họ cố tình gây sức ép. Tay nắm chặt chuôi thanh Zar’roc dưới gầm bàn, Eragon chỉ muốn gào vào mặt những con người này, không cần kiểu ép buộc như vậy, nó vẫn sẵn lòng ủng hộ Varden. Nhưng lúc này, với thái độ của họ, Eragon sẽ chống đối đến cùng để thoát khỏi cái còng họ muốn choàng vào nó. Nó bật nói: - Nếu quả tình các kỵ sĩ rồng được trọng vọng như vậy, tôi thấy mình có thể ráng sức tự điều hành Varden. Không khí trong phòng căng thẳng hẳn. Một lúc sau Sabrae mới lên tiếng: - Điều đó… không khôn ngoan lắm đâu. Saphira góp ý: “Ajihad mất rồi, chúng ta không thể giữ thế độc lập với các phe nhóm, như mong muốn của ông ấy được đâu. Không nên chọc giận Varden, vì ngay sau khi Nasuada kế vị, hội đồng này ngay lập tức điều khiển cô ta. nên nhớ, hành động của họ cũng là cách tự đề phòng, như chúng ta vậy. Xoa dịu họ đi.” “Nhưng sau khi nắm được ta trong tay, họ sẽ còn bắt chúng ta làm gì nữa? Họ có sẽ tôn trọng thỏa hiệp với thần tiên và gửi chúng ta tới Ellesméra để huấn luyện không? Jormundur đối xử với anh như một người đáng trọng, nhưng còn những thành viên khác trong hội đồng? Không thể nào đoán được ý họ.” “Hãy đến dự buổi lễ kế nhiệm của Nasuada, còn chuyện tuyên thệ để sau hãy tính. Biết đâu từ nay đến khi đó tình hình có thể đổi thay.” Eragon gật đầu, lên tiếng: - Theo đề nghị của quý vị, tôi sẽ có mặt trong buổi lễ bổ nhiệm Nasuada. Jormundur nhẹ nhõm hẳn: - Tốt, tốt rồi. Vậy thì chúng ta chỉ còn một vấn đề thảo luận trước khi cậu rời đây. Đó là, sự chấp thuận của tiểu thư. Chúng ta đã đầy đủ tại đây, không nên trì hoãn nữa. Tối sẽ cho đi mời tiểu thư ngay bây giờ. Cả Arya nữa… vì chúng ta cần sự tán thành của thần tiên, trước khi công khai thông báo. Không có gì khó khăn đâu, Arya không thể chống lại hội đồng này hay cậu được, Eragon. Cô ta sẽ phải đồng ý với phán quyết của chúng ta. Elessari chiếu đôi mắt sắc như thép vào Eragon: - Khoan…Kỵ sĩ hứa chứ? Hứa sẽ tuyên thệ trong buổi lễ? Falberd nói thêm: - Đúng, cậu nên làm vậy. Varden sẽ mang nhục nếu không bảo vệ an toàn cho cậu bằng mọi cách. Eragon thầm nghĩ: “Khéo nói lắm”. Saphira bảo: “Em e là anh chẳng còn sự lựa chọn nào khác nữa đâu.” “Họ không dám làm hại chúng ta, nếu anh từ chối.” “Không, nhưng họ sẽ không ngừng gây phiền phức cho ta. Em khuyên anh chấp nhận là vì anh. Biết bao hiểm nguy rình rập, em không thể bảo vệ hết được cho anh. Eragon, đương đầu với bạo cua Galbatorix, anh cần đồng minh, chứ không phải tìm thêm kẻ thù. Chúng ta không đủ khả năng hòa hoãn cùng lúc với cả Triều Đình và Varden.” Sau cùng Eragon lên tiếng: - Tôi sẽ tuyên thệ. Nhưữngnguời quanh bàn thở phào nhẹ nhõm. Eragon bảo Saphira: “Họ sợ chúng mình.” Saphira nói ngay: “Sợ là phải.” Jormundur gọi Jarsha, ra lệnh cho chú nhóc đi mời Nasuada và Arya. Trong khi chờ đợi, các thành viên hội đồng vẻ mặt căng thẳng, thì thầm với nhau. Không quan tâm tới họ, Eragon tập trung suy nghĩ, tìm cách thoát khỏi tình trạng tiến thoái lưỡng nan này. Nghe tiếng mở cửa, tất cả đều quay lại. Nasuada đi trước, mắt nghiêm nghị, cằm ngẩng cao. Bộ váy dài thêu còn đen thẫm hơn cả màu da của cô, chỉ một vệt màu đỏ tía kéo dài từ vai xuống tận lưng. Sau cô là Arya, bước đi êm dịu uyển chuyển như một con mèo. Sau cùng là vẻ mặt cởi mở, tươi roi rói của Jarsha. Jormundur cho cậu bé lui ra, rồi dìu Nasuada tới chỗ ngồi. Eragon vội vàng kéo ghế mời Arya, nhưng cô lẳng lặng đứng cách xa bàn họp. Eragon thúc giục Saphira: “Em cho nàng biết tất cả những gì đã xảy ra đi. Anh nghĩ hội đồng sẽ không cho nàng biết chuyện họ đã ép buộc anh tuyên thệ trung thành vơớiVarden đâu.” Jormundur gật đầu chào Arya, rồi quay lại Nasuada: - Thưa Tiểu thư Nasuada, ái nữ của thủ lãnh Ajihad, toàn thể Hội-đồng Tiền-bối xin thành thật chia buồn cùng tiểu thư trong sự mất mát chung quá to lớn này của tất cả chúng ta. Ông hạ thấp giọng hơn: - Tất cả chúng ta đều biết một thành viên trong gia đình bị chết dưới lưỡi gươm của triều đình đau đớn như thế nào. Mỗi cá nhân chúng tôi đều vô cùng quý trọng tiểu thư. - Cám ơn quý vị. Hạ thấp đôi mắt bồ câu, Nasuada khe khẽ nói. Cô ngồi lặng lẽ. Vẻ ngại ngùng, khiêm tốn như một con người rất dễ bị tổn thương của Nasuada khác hẳn với cô gái sôi nổi nhiệt tình Eragon gặp trước trận chiến, làm nó chỉ muốn ngỏ mấy lời khích lệ, an ủi cô. Jormundur tiếp tục: - Dù lúc này còn là thời gian tang chế, nhưng trước một tình hình khó khăn nhất thiết cần phải có cô giải quyết. Vì hội đồng này không thể lãnh đạo Varden và chỉ ngay sau lễ tang phải có người kế nhiệm cha cô, nên chúng tôi yêu cầu cô hãy nhận lãnh trách nhiệm đó. Cô là người thừa kế của thủ lãnh, địa vị này được trao cho cô là vô cùng chính đáng… Toàn thể chiến hữu Varden trông cậy vào cô. Hai mắt long lanh, Nasuada cúi thấp đầu, giọng trầm buồn: - Tôi không ngờ được mời tới đây để thay thế cha tôi, vì tôi còn quá trẻ. Tuy nhiên… tôi xin đón nhận trách nhiệm này… nếu quý vị tin rằng đó là bổn phận của tôi. Các thành viên hội đồng mặt mày rạng rỡ vì kết quả như ý muốn. Jormundur nói: - Chúng tôi thật sự tin như vậy. Vì điều đó vừa tốt cho tiểu thư vừa có ích cho tổ chức. Những thành viên còn lại đều lên tiếng nhiệt tình ủng hộ. Nasuada, buồn rầu mỉm cười, đón nhận từng lời của họ. thấy Eragon chỉ ngồi lặng lẽ, Sabrae hầm hầm nhìn nó. Trong khi đó Eragon chăm chú quan sát phản ứng của Arya. Trước những tuyên bố của hội đồng và thông tin nó nhờ Saphira chuyển lại, Arya vẫn bình thản. Tuy nhiên Saphira thông báo: “Arya muốn nói chuyện với chúng mình sau buổi họp này.” Ngay lúc đó Falberd quay sang Arya: - Theo cô, thần tiên có gì phản đối không? Arya trừng mắt nhìn thẳng Falberd cho đến khi ông ta phải quay đi, cô mới lên tiếng trả lời: - Tôi không thể nói thay cho Nữ Hoàng của chúng tôi, nhưng riêng tôi thấy không có gì cần phản đối. Xin chúc phúc lành cho tiểu thư Nasuada. Eragon chua chát nhủ Saphira: “Nàng còn có thể phản ứng cách nào được nữa, sau khi biết những thông tin của chúng mình? Tất cả chúng ta đều bị dồn vào ngõ bí.” Những lời nói của Arya rõ ràng làm các thành viên hài lòng. Nasuada cám ơn nàng tiên, rồi hỏi Jormundur: - Chúng ra còn điều gì cần thảo luận nữa không? Tôi mệt mỏi quá rồi. Jormundur lắc đầu: - Không, những chuyện còn lại chúng tôi sẽ thu xếp. Cho đến giờ tang lễ, chúng tôi sẽ không dám làm phiền tiểu thư nữa đâu. - Một lần nữa xin đa tạ. Bây giờ xin quý vị để tôi được một mình. Tôi cần thời gian suy tính việc lễ tang cha tôi và trách nhiệm phục vụ Varden. Hình như Umérth định phản đối vì cuộc họp ngưng tại đây, nhưng Falberd ngoắt tay ra hiệu cho lão ngồi xuống, nói với Nasuada: - Vâng, thật sự lúc này tiểu thư cần được yên tĩnh. Nhưng bất cứ khi nào cần gì, xin cứ gọi, chúng tôi luôn sẵn sàng phục vụ. Lão ra hiệu cho tất cả theo lão ra khỏi phòng. Bỗng Nasuada lên tiếng: - Eragon, Kỵ sĩ có thể nán lại một chút được không? Giật mình, Eragon từ từ ngồi lại xuống ghế. Các thành viên hội đồng quay lại nhìn nó bằng ánh mắt đầy cảnh giác. Falberd ngập ngừng trước ngưỡng cửa, rồi chậm rãi bước đi. Arya là người cuối cùng ra khỏi phòng. Trước khi khép cửa, đôi mắt nàng nhìn Eragon với một vẻ lo âu mà trước đây nàng không để lộ bao giờ. Ngồi hơi chếch Eragon và Saphira, Nasuada nói: - Vậy là chúng ta lại gặp nhau. Kỵ sĩ vẫn chưa lên tiếng chào hỏi tôi. Tôi có làm điều gì buồn lòng kỵ sĩ không? - Không. Nhưng tôi sợ thốt lên những lời nói ngốc nghếch không thích hợp trong hoàn cảnh này… Cảnh giác bị nghe lén, Eragon lục lọi trong trí và phép thuật, ngâm nga: - Atra nosu wáise vardo fra eld hómya… Nào, bây giờ chúng ta có thể chuyện trò thoải mái, không sợ bất kỳ kẻ nào nghe trộm nữa. Thái độ Nasuada dịu hẳn xuống: - Cám ơn Eragon. Anh không thể tưởng tượng sự thận trọng đó là món quà quý giá đến ngần nào đâu. Giọng cô rắn rỏi và tự tin hơn lúc trước. Từ sau ghế của Eragon, Saphira thận trọng nhẹ nhàng vòng qua trước mặt Nasuada, cúi thấp cái đầu khổng lồ cho đến khi một bên mắt màu ngọc của nó gặp đôi mắt đen láy của Nasuada. Nó nhìn thẳng Nasuada một lúc rồi nhẹ nhàng chuyển ý cho Eragon: “Hãy nói là em thật sự đau buồn vì mất mát của cô ấy. Hãy nói, khi cô quyết định kế nhiệm thủ lãnh Ajihad, thì sức mạnh của cô ấy phải trở thành sức mạnh chung của Varden. Họ rất cần một sự hướng dẫn đầy sáng suốt.” Eragon lập lại, rồi nói thêm: - Thủ lãnh Ajihad là một con người vĩ đại, tên tuổi ông sẽ còn được nhớ mãi… Có một điều tôi cần phải nói. Trước lúc lâm chung ông đã ủy thác và ra lệnh cho tôi phải giữ sao để tổ chức Varden không bị xáo trộn. Arya cũng chứng kiến những lời nói sau cùng đó của thủ lãnh. Tôi giữ kín chuyện này vì những mâu thuẫn hiện nay. nhưng tiểu thư là người cần được biết. Tôi không biết rõ ý ông hay chính xác ông mong muốn điều gì, nhưng tôi có thể biết chắc một điều: tôi sẽ mãi mãi bảo vệ Varden với tất cả khả năng của mình. Tôi mong tiểu thư biết rằng không bao giờ tôi ham muốn chiếm đoạt địa vị thủ lãnh Varden. Nasuada cười giòn tan: - Nhưng vai trò thủ lãnh cũng không phải dành cho tôi, đúng không? Không còn vẻ e dè thận trọng, Nasuada bình tĩnh tiếp: - Tôi biết vì sao Kỵ sĩ có mặt tại đây trước tôi và Hội-đồng Tiền-bối đang cố gắng làm gì. Kỵ sĩ tưởng suốt những năm tháng tôi phục vụ bên cha, cha con tôi không hề lên kế hoạch cho những sự cố như thế này sao? Tôi đã chờ mong hội đồng hành động chính xác như những gì đã xảy ra. Và bây giờ mọi chuyện đều như dự trù, để tôi có thể điều khiển Varden. - Tiểu thư không có ý định để họ điều khiển mình chứ? - Không. Nhưng hãy giữ bí mật chỉ thị của cha tôi. Phổ biến chuyện đó lúc này là thiếu khôn ngoan. Mọi người sẽ có cớ cho rằng thủ lãnh muốn Kỵ sĩ là người kế nhiệm ông, để có thể làm giảm quyền hạn của tôi. Điều đó sẽ dẫn đến sự xáo trộn, mất ổn định trong tổ chức. Dù phải chết, tôi cũng sẽ hoàn thành công việc của cha tôi. Tôi mong anh hiểu điều này, Kỵ sĩ Eragon. Tất cả kế hoạch của thủ lãnh Ajihad, tất cả chiến thuật, chiến lược, mục đích của ông bây giờ thuộc về tôi. Tôi sẽ không làm ông thất vọng vì sự yếu đuối của mình. Đế quốc phải bị đập tan, bạo chúa Galbatorix sẽ bị truất phế và…một nhà nước hợp pháp sẽ được hình thành. Một giọt nước mắt lăn trên má Nasuada. Lúc này Eragon mới thấu hiểu nhiệm vụ của cô cam go đến thế nào và con người thật của cô hôm nay nó mới nhận ra. - Còn tôi, Nasuada, tôi sẽ làm gì trong Varden? Cô nhìn thẳng mắt Eragon: - Làm bất cứ điều gì anh muốn. Các thành viên hội đồng thật ngốc nghếch, nếu họ nghĩ rằng có thể kiểm soát được anh. Đối với tộc người lùn, anh là một nguời hùng. Thậm chí khi nghe được tin anh chiến thắng tà thần Durza, thần tiên cũng sẽ hân hoan đón mừng anh. Nếu anh có ý định chống lại hội đồng hay chính tôi, chúng tôi buộc phải đầu hàng, vì mọi người sẽ nhiệt liệt ủng hộ anh. Lúc này, anh là người quyền uy nhất trong tổ chức Varden. Tuy nhiên, nếu anh chấp nhận để tôi lãnh đạo, tôi sẽ đi theo con đường cha tôi đã vạch: đó là, anh sẽ cùng Arya tới xứ sở của thần tiên, sẽ được huấn luyện tại đó, rồi sẽ trở lại với Varden. Eragon thắc mắc: “Vì sao cô ta thành tật với chúng mình như vậy? Nếu cô ta nói dúng, chúng ta có thể từ chối những đề nghị của hội đồng đã đưa ra được không?” Ngẫm nghĩ một lúc Saphira mới trả lời: “Dù sao cũng quá muộn rồi. Anh đã chấp thuận những lời đề nghị của họ. Em nghĩ, Nasuada tỏ ra chân thật vì anh biết phép thuật, thần chú. Cũng có thể là vì cô ấy muốn thu phục sự trung thành của anh, thay vì anh trung thành với hội đồng.” Một ý tưởng chợt hiện lên trong đầu, nhưng Eragon chỉ hỏi Saphira: “Chúng ta có thể tin cô ta sẽ giữ lời không? Điều này rất quan trọng đấy.” “Tin được.” Eragon cho Saphira biết ý định sẽ làm. Nàng rồng đồng ý. Vì vậy, nó rút thanh Zar’roc, tiến bước lại gần Nasuada. Mặt thoáng nét hãi hùng, cô liếc vội ra phía cửa, một tay lùa vào, nắm chặt một vật bên trong áo. Tới trước mặt Nasuada, Eragon quỳ gối, cầm ngang lưỡi kiếm, cất cao giọng nói: - Tiểu thư Nasuada, Saphira và tôi mới chỉ ở nơi này trong một thời gian ngắn. Nhưng trong khoảng thời gian đó cũng đủ để chúng tôi kính trọng thủ lãnh Ajihad, và bây giờ chúng tôi quý trọng cô. Cô đã chiến đấu dưới lòng Farthen Dur trong khi những người khác bỏ chạy, kể cả hai nữa thành viên của Hội-đồng Tiền-bối. Hơn nữa thay vì dối gạt, cô đã rất cởi mở thật lòng với chúng tôi. Vì vậy tôi xin dâng tiểu thư thanh kiếm này cùng lời tuyên thệ trung thành của một Kỵ sĩ Rồng. Eragon thốt những lời thân thành tự đáy lòng. Nó biết, nếu là trước cuộc chiến, trước khi chứng kiến cảnh máu đổ thịt rơi làm quan điểm của nó đổi thay, Eragon sẽ chẳng bao giờ mở miệng nói những lời này. Chống lại triều đình không còn là chuyện riêng tư của nó nữa, mà la đại sự của Varden và tất cả những người dân đang khốn khổ dưới ách thống trị của Galbatorix. Mặc dù biết đây sẽ là cuộc chiến lâu dài, nó nguyện làm tất cả để hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, chuyện Eragon và Saphira hứa trung thành với Nasuada là một sự liều lĩnh - mặc dù Hội-đồng Tiền-bối không thể phản đối, vì Eragon đã hứa tuyên thệ thật, nhưng không hứa tuyên thệ với ai. Thật ra Eragon và Saphira không thể đảm bảo Nasuada sẽ là một lãnh đạo tài giỏi, nhưng Eragon quyết định: "Thà tuyên thệ với một người bất tài nhưng thành thật, còn hơn một kẻ tài giỏi mà giả dối.” Thoáng vẻ ngạc nhiên, Nasuada cầm chuôi Zar’rac, nâng cao thanh kiếm, lom lom nhìn màu đỏ thắm của lưỡi kiếm, rồi đặt nhẹ mũi kiếm lên đầu Eragon: - Tôi vinh hạnh nhận lời tuyên thệ của Kỵ sĩ. Kỵ sĩ đã chấp nhận hoàn thành những nhiệm vụ sẽ được trao, vậy hãy nhận lại thanh kiếm và đứng dậy như một người thân cận của tôi. Eragon cầm kiếm đứng dậy nói: - Giờ thì tôi có thể cởi mở thật lòng với tiểu thư, như nói với thủ lãnh của mình. Hội đồng đã ép tôi đồng ý tuyên thệ với Varden ngay sau khi cô được bổ nhiệm. Saphira và tôi chỉ còn cách này mới qua mặt được họ. Nasuada bật cười: - A, Kỵ sĩ đã học hỏi được luật chơi của chúng tôi rồi đấy. Nhưng, là một cận thần mới nhất và duy nhất của tôi, anh có thể lập lại lời tuyên thệ trước mọi người, khi hội đồng yêu cầu anh tuyên thệ không? - Tất nhiên là được. - Tốt lắm. Cho đến lúc đó, xin để tôi một mình, vì tôi còn nhiều việc phải làm. Eragon, hãy nhớ rằng, mối liên kết mới thành lập giữa chúng ta là một liên kết sòng phẳng. Tôi chịu trách nhiệm những hành động của anh, còn trách nhiệm của anh là phục vụ tôi. Đừng làm gì để tôi phải hối tiếc. - Mong tiểu thư cũng vậy. Im lặng một lúc, Nasuada nhìn thẳng vào mắt Eragon, dịu dàng nói: - Xin chia buồn cùng anh, Eragon. Trong khi tôi mất một người cha, thì anh đã mất một người bạn. Tôi rất mến Murtagh, tôi rất buồn vì anh ấy đã qua đời… Tạm biệt Eragon. Eragon gật đầu, miệng đắng chát khi cùng Saphira ra khỏi phòng. Trong hành lang vắng ngắt, dài thăm thẳm, nó ngửa cổ thở ra một hơi dài. Ngày mới chỉ bắt đầu, nhưng những cảm xúc dồn dập tới, làm nó như kiệt sức. Saphira đẩy nó đi: “Lối này”. Không cắt nghĩa gì thêm, ả rồng lù lù dẫn lối xuống địa đạo bên phải, móng gõ lóc cóc trên sàn. Vừa đi theo, Eragon vừa nhăn nhó hỏi: “Đi đâu thế này?” Cô ả tỉnh bơ, ve vảy đuôi, tiến bước. Eragon năn nỉ: “Đi đâu? Làm ơn nói đi nào. Mọi chuyện rối tung lên, chẳng biết ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì… chắc lại toàn buồn rầu, đổ máu…” “Chúng ta mới có một chiến thắng lớn, không mừng thì thôi, rên rẩm gì”. Saphira bực tức rít lên, một tia lửa bắn ra từ mũi, làm cháy sẽm vai áo Eragon. “Ui cha! Em nướng anh đấy à?” “ÔI! Em đâu cố ý. Cũng như những lần anh vô tình đưa cao tay lại có tia chớp bắn ra vậy mà. Em.. em.. đang muốn chứng minh cho anh thấy, kể cả Nasuada cũng không thể bắt buộc anh làm bất cứ điều gì.” “Nhưng anh đã nhân danh một Kỵ sĩ khi đưa ra lời tuyên thệ.” “Coi là vậy đi, nhưng nếu cần phải bội thề để bảo vệ anh, hoặc để làm một điều hợp lý, em sẽ không ngần ngại đâu. Với em đó là chuyện nhỏ. Vì em liên kết với anh, danh dự của em cũng lệ thuộc vào lời thề của anh. Nhưng trên phương diện một cá nhân, em không bị ràng buộc, vì em có thề bồi gì với cô ta đâu. Nếu cần, em sẽ lại bắt cóc anh.” “Đừng bao giờ làm vậy. Nếu phải sử dụng những trò ma mãnh đó để làm những việc em cho là phải, sẽ làm mất lòng tin của Nasuada và Varden.” Saphira bỗng ngừng lại trước vòm cửa trạm trổ của thư viện Tronjheim. Căn phòng rộng lớn, dường như khoảng trống giữa những kệ sách không một bóng người. Ánh sáng từ những ngọn đèn lồng tỏa sáng những ngăn chìm trong vách dành cho người đọc. Lách qua những hàng kệ, Saphira hướng dẫn Eragon tới một ngăn có Arya đang ngồi, một tay nắm chặt chuôi kiếm bên sườn. Chưa bao giờ Eragon thấy nàng có vẻ bất an như vậy. Arya hỏi, giọng hằn học đến không ngờ: - Chàng đã làm gì? - Là sao? - Chàng đã hứa hẹn gì với Varden? Chàng đã làm gì? Mấy câu cuối như xuyên vào tâm trí Eragon. Nó thoáng sợ hãi, khi thấy hình như Arya đã mất bình tĩnh. - Chúng tôi chỉ làm những gì phải làm. Tôi không thông thạo phong tục của thần tiên, nếu có điều gì sơ suất, mong nàng bỏ qua, đừng giận. - Ngốc! Chàng không hề biết gì về ta. Suốt bảy mươi năm, ta đại diện nữ hoàng tại đây. Mười lăm năm trong thời gian đó, ta đã mang trứng của Saphira đi về giữa Varden và Thần Tiên. Ta đã phấn đấu, củng cố, bảo đảm sao cho tổ chức Varden có được những lãnh đạo khôn ngoan, tài giỏi, dũng mãnh. Những con người có khả năng đương đầu với Galbatorix và tôn trọng ý nguyện của chúng ta. Brom giúp ta tạo một thỏa hiệp liên quan tới một kỵ sĩ mới – chính là chàng. Ajihad đã ủy thác cho chàng phải giữ thế độc lập, như vậy sự cân bằng quyền lực sẽ không bị xáo trộn. Bây giờ chàng lại ngả về phe Hội-đồng Tiền-bối, do vô tình hay cố ý, để điều khiển Nasuada! Chàng đã làm sụp đổ công lai của một đời người! Chàng đã làm gì vậy? Thất kinh, Eragon cắt nghĩa thật ngắn gọn lý do phải đồng ý trước những đề nghị của hội đồng và việc nó cùng Saphira đã làm cách nào để qua mặt họ. Nghe xong, Arya thốt lên: - Thì ra vậy? Bảy mươi năm! Dù biết thần tiên sống lâu đến lạ lùng, nhưng không bao giờ Eragon ngờ nàng tiên Arya của nó… già đến thế. Không, chắc chắn phải già hơn, vì bảy mươi năm chỉ là thời gian “nàng” hoạt động tại nơi này. Vậy mà trông Arya như một cô gái mới gần hai mươi. Dấu hiệu tuổi tác duy nhất trên khuôn mặt không một vết nhăn kia chỉ là đôi mắt. Đôi mắt thăm thẳm, từng trải, uy nghi. Arya dựa lưng ra sau, quan sát Eragon, nói: - Địa vị của chàng hiện nay, tốt đẹp ngoài cả hy vọng của ta. Ta đã quá nóng nảy và thất lễ. Saphira… và chàng…hiểu biết nhiều điều hơn là ta tưởng. Thỏa hiệp của chàng với họ sẽ được thần tiên chấp thuận, dù vậy đừng bao giờ quên, chàng còn món nợ về Saphira. Sẽ không có kỵ sĩ nào, nếu không có công lao của thần tiên. - Ân nghĩa đó luôn bỏng cháy trong máu và trên bàn tay tôi. Eragon trả lời, rồi ngập ngừng hỏi để tìm hiểu thêm về Arya: - Sống xa Ellesméra lâu như vậy, nàng không nhớ sao? Hay quê hương nàng ở một nơi nào khác? Hai mắt Arya nhìn về một hướng xa xôi: - Ellesméra đã và sẽ mãi mãi là quê hương ta. Ta xa gia đình từ khi ra đi để sống cùng tổ chức Varden. Những lần trở về chỉ là một thoáng, kỉ niệm cứ nhạt nhòa dần. Một lần nữa, Eragon lại nhận thấy hương thơm từ nàng tỏa ra phảng phất như mùi lá thông, làm tinh thần nó như được gột rửa; thư thái, tươi tỉnh hơn. - Sống giữa tộc lùn và con người, thiếu vắng đồng loại, chắc nàng gặp nhiều khó khăn? - Chàng nói về con người như họ không phải đồng loại của chàng vậy. - Có lẽ… có lẽ tôi là một sự pha trộn giữa hai loài. Saphira sống trong tôi, cũng nhiều như tôi sống trong nó. Chúng tôi chia sẻ cảm xúc, giác quan, tư tưởng; gần như chúng tôi chỉ là một. Saphira cúi đầu đồng ý, cái mũi to đùng suýt làm vỡ mặt bàn. Arya lên tiếng: - Chỉ khi nào hoàn tất khóa huấn luyện, chàng mới hiểu việc trở thành một kỵ sĩ có những ý nghĩa gì. Nhưng tất cả đành phải chờ sau tang lễ Ajihad. Cầu xin những vì sao bảo hộ chàng. Nói xong, Arya đứng dậy, đi khuất vào vùng tối của thư viện. Eragon chớp mắt tự hỏi: “Hôm nay mình khó chịu hay mọi người đều kỳ cục? Như Arya, vừa giận dữ phút trước, phút sau lại nồng nhiệt chúc phúc cho mình.” Roran mệt mỏi lê từng bước lên đồi. Ngước nhìn mặt trời qua mớ tóc lòa xòa trước mắt, anh thầm nhủ: “Mình không thể ở đây lâu được, ít nhất năm tiếng nữa mặt trời mới lặn.” Thở dài, Roran tiếp tục đi dọc theo những hàng cây phong du, qua những bụi cỏ hoang mọc lan tràn. Từ khi cùng chú Horst và sáu dân làng Carvahall thu gom những gì còn sót lại của ngôi làng bị thiêu rụi điêu tàn, đây là lần đầu tiên – sau gần năm tháng – Roran mới trở lại thăm mảnh đất này. Tới đỉnh đồi, anh khoanh tay nhìn xuốn tàn tích ngôi nhà của tuổi thơ mình. Tất cả đã thành bình địa chìm dưới cỏ dại, chỉ còn sót lại một góc tường xiêu vẹo, đổ nát. Không còn thấy một chút gì của chuồng gia súc. Thửa vườn canh tác hàng năm, giờ ngập trong cỏ, bồ công anh và cải dại. Lác đác mấy cây cải đường, cải trắng còn sống sót. Cuối khu đất, hàng cây dày đặc che khuất dòng sông Anora. Tay nắm chặt, hai hàm răng nghiến lại, Roran cố chống lại sự phẫn nộ và đau khổ. Anh đứng như chôn chân xuống đất suốt nhiều phút, mỗi một kỷ niệm hạnh phúc ngày xưa trở lại trong tâm trí, làm toàn thân anh run rẩy. Nơi đây từng là cả cuộc đời mình, cả quá khứ và tương lai. Cha anh thường bảo: “Đất đai là một thứ vô cùng quý giá. Chăm sóc nó, nó sẽ chăm sóc lại con.” Roran đã tâm niệm làm theo đúng lời cha, cho đến giây phút thế giới của anh như sụp đổ khi Baldor lén nhắn tin cho anh… Thở dài, Roran trở ra đường cái. Nỗi bàng hoàng khi nhận được tin nhắn vẫn còn hôi hổi trong anh. Mất tất cả những người thương yêu cùng một lúc làm anh thay đổi và chắc sẽ không bao giờ nguôi ngoai được. Sự việc đó thấm đẫm vào con người Roran từ thái độ đến diện mạo. Nó bát anh phải suy nghĩ nhiều hơn, suy ngẫm đến cả những điều mà trước kia anh chưa hề tưởng tượng tới. Chẳng hạn, có thể anh không thể trở thành một nông dân được, hoặc cái công lý - đầy rẫy trong những bài ca và truyện cổ - là điều quá hiếm hoi trong đời sống thật. Ra tới đường cái, Roran đi về hương bắc, xuyên qua thung lũng Palancar, để trở lại làng Carvahall. Những khe núi hai bên đường vẫn đầy tuyết, dù cỏ xanh báo hiệu mùa xuân đã phủ tràn thung lũng từ mấy tuần trước. Trên cao một dải mây xám lững lờ trôi về đỉnh núi. Vừa xoa tay leê cằm lởm chởm râu, Roran vừa nghĩ: “Eragon là nguyên nhân của tất cả chuyện này… Chính vì nó và cái tính tò mò trời đánh của nó… Hừ, tha hòn đá quỷ quái đó từ núi Spine về nên mới gây nên chuyện.” Roran đã nghe những mẩu chuyện của dân làng, nhiều lần nhờ bà lang Gertrude đọc lá thư ông Brom để lại cho anh, nên Roran đã kết luận: “Dù hòn đá đó là gì, chính nó là đầu mối hấp dẫn những kẻ lạ kéo tới nơi này.” Riêng chuyện đó cũng đủ để Roran tin rằng cái chết của cha có lỗi của Eragon. Nhưng anh không giận thằng em họ vì chuyện đó. Anh biết nó không cố ý. Roran giận Eragon vì đã bỏ lại ông Garrow mà trốn khỏi thung lũng Palancar, trốn trách nhiệm mà phóng theo ông già kể chuyện. Biết bao lần Roran tự hỏi: “Nó bỏ đi vì sợ? Vì cảm thấy có tội? Hay bị ông Brom dụ dỗ vì những chuyện lẩm cẩm hoang đường? Tại sao nó có thể nghe lời ông ta mà bỏ đi trong lúc gia đình khốn khổ như vậy được? Bặt tin tức… đến nổi cho đến bây giờ mình cũng chẳng biết nó sống chết ra sao.” Roran cố bình tâm suy nghĩ về lá thư của ông Brom. Chưa bao giờ Roran nghe những lời mù mờ ẩn dụ kỳ quái thế. Chỉ một điều duy nhất rõ ràng là: hãy tránh xa những kẻ lạ. Hừ, ông lão điên rồi. Nghe tiếng động, Roran quay lại. Khoảng mười hai con nai - một con mới nhú sừng non – đang thon thót nhảy vào rừng. Anh ghi nhớ địa điểm để ngày mai quay lại. Dù không có tài bằng Eragon, nhưng Roran cũng hãnh diện vì có thể săn bắn đủ nuôi thân trong nhà chú Horst. Sau khi ông Garrow mất, Roran đã bỏ việc tại nhà máy xay của ông Dempton ở Therinsford, để trở lại Carvahall. Chú Horst cho anh ở nhờ, rồi mấy tháng sau cho anh một việc làm trong lò rèn của ông. Phiền muộn đã làm Roran chẳng thiết gì đến tương lai, cho đến hai hôm trước đây anh mới quyết định bắt tay vào việc. Lý do Roran tới làm trong nhà máy xay tại Therinsford là vì anh muốn kiếm tiền để cưới Katrina, con gái lão chủ cửa hàng thịt. Nhưng nay, không nhà cửa, ruộng vườn, tài sản; lấy gì để nuôi vợ đây? Roran không còn tâm trí nào để hỏi cưới cô nữa. Danh sự không cho phép anh làm điều đó. Vả lại, Roran nghĩ, không đời nào lão Sloan chấp nhận một thằng rể tương lai mù mịt như Roran. Ngay khi tình hình còn sáng sủa, Roran đã khó lòng thuyết phục lão đồng ý gả con gái cho anh, huống hồ bây giờ. Cũng không thể cưới Katrina mà không có sự thấp thuận của lão Sloan, trừ khi anh và Katrina chấp nhận cô bị đuổi ra khỏi nhà và chấp nhận dân làng nguyền rủa vì đã phạm thuần phong mĩ tục. Và nhất là sẽ châm ngòi cho mối thâm thù, có thể gây đổ máu với lão Sloan. Suy đi tính lại, dường như chỉ còn một cách là Roran phải xây dựng lại trang trại nhà cửa, dù với hai bàn tay trắng. Khi ổn định cuộc sống, anh mới có thể ngẩng cao đầu tới gặp ông bố vợ tương lai. Sớm nhất cũng phải tới mùa xuân năm sau. Roran biết Katrina có thể đợi… ít nhất thì cũng trong một thời gian nữa! Roran tiếp tục đi cho đến chiều mới thấy ngôi làng. Từ xửa sổ những ngôi nhà nho nhỏ, giăng mắc đầy dây phơi quần áo. Đàn ông từ cánh đồng lúa mì lũ lượt trở về. Sau làng vn, ngọn tháp Igualda cao nửa dặm, rực rỡ trong nắng chiều, ầm ầm đổ từ núi Spine xuống dòng Anora. Roran cảm thấy ấm lòng khi nhìn hình ảnh quen thuộc đó. Rời đường cái, Roran tiến lên gò cao, nơi ngôi nhà của gia đình chú Horst quay mặt về hướng núi. Anh bước qua cánh cửa mở sẵn, theo tiếng chuyện trò đang rôm rả, tiến vào bếp. Chú Horst, hai tay áo xắn cao, đang đẩy cái bàn gỗ mộc vào góc nhà. Vợ chú, thím Elain, tủm tỉm cười mãn nguyện. Trước mặt ông bà là hai cậu con trai, Albriech và Baldor. Lúc Roran vào, Albriech đang nói: - …mà lúc đó con chưa ra khỏi lò. Nhưng Thane nhất định thề là thấy con, trong khi con còn đang ở đầu kia thị trấn… - Chuyện gì vậy? Vừa bỏ ba-lô xuống Roran vừa hỏi. Nhưng thím Elain nói ngay: - Để thím lấy chút gì cho cháu ăn đã. Trong khi đặt bánh mì và một tô thịt hầm lên bàn, thím nhìn Roran hỏi: - Sao rồi? - Những gì bằng gỗ đều bị cháy hay mục nát hết. Chỉ cái giếng là còn tốt. Nếu muốn có một chỗ chui ra chui vào trong vụ mùa này, cháu phải hạ một số cây để lấy gỗ, càng sớm càng tốt. Nhưng nhà ta đang có chuyện gì vậy? Chú Horst lên tiếng: - À, chuyện tào lao. Thane mất cái liềm, cứ đổ cho thằng Albriech đã lấy. Albriech càu nhàu: - Chắc ném vào bụi cỏ, rồi quên đem về chứ ai thèm lấy. Roran cắn miếng bánh, nói: - Sao lại đổ cho cậu ấy được? Nếu cần, nhà này rèn cả chục cái liềm còn được mà. - Mình biết chứ. Nhưng thay vì đi tìm hắn cứ la toáng lên là thấy một người giống mình ra khỏi ruộng nhà hắn. Như vậy kẻ lấy cái liềm… phải là mình. Thật tình thì chẳng có ai trông giống Albriech được. Thừa hưởng thân hình to lớn của cha và mái tọc màu mật ong của mẹ, trong anh ta kỳ dị nhất Carvahall, một nơi toàn người tóc nâu. Baldor tóc đen và gầy hơn anh. Baldor thủng thỉnh nói: - Tức làm gì. Trước sau gì cũng rõ trắng đen thôi. - Mày nói thì dễ lắm. Roran hỏi chú Horst: - Mai chú có cần cháu làm gì không? - Cũng chẳng có gì. Chú mới bắt tay làm cái xe ngựa cho Quinby. Chưa xong bộ khung mà. Roran vui mừng nói: - Tốt. Vậy là mai cháu đi săn được rồi. Có một bầy nai trong thung lũng, trông khá ngon lành. Baldor hớn hở nói: - Cậu muốn có bạn cùng săn không? - Quá tốt. Sáng sớm mai chúng mình đi. Ăn xong, Roran rửa mặt, rửa tay, rồi ra ngoài đi lang thang cho đầu óc tỉnh táo. Nửa đường vào trung tâm thị xã, tiếng chuyện trò sôi nổi trước cửa quán rượu Bảy Bó Củi làm Roran chú ý, tò mò lại gần. Một người đàn ông trung niên, áo choàng da vá víu, ngồi ngay ngoài cổng quán. Bên cạnh ông ta là một bó bẫy thú bằng thép. Hàng chục dân làng xúm xít chung quanh, chăm chú nghe người đan ông vừa vung tay vừa nói: - Vì vậy mà tới Therinsford tớ đến ông Neil ngay lập tức. Một người đàng hoàng, tốt cực nhé. Tớ làm phụ nông cho ông Neil trong suốt vụ xuân hè. Roran gật gù, đúng vậy, dân bẫy thú ở trong núi hết mùa đông, đầu xuân mới trở về làng để bán da thú cho những lò thuộc và kiếm việc làm, thường là phụ nông. Vì Carvahall là làng nằm về cực bắc của núi Spine, nên dân bẫy thú thường qua làng, và đó cũng là một trong những lý do Carvahall có quán rượu, lò rèn và một lò thuộc da. - Sau khi làm mấy cốc bia cho miệng lưỡi trơn tru – vì các bác biết rồi đó, nửa năm ở rừng, miệng câm như hến, chỉ lâu lâu để sổng mất con mồi mơi bật ra một tiếng chửi thề. Tớ đến ông Neil, râu ria còn dính bọt bia là bắt đầu huyên thuyên, hỏi ông đủ thứ chuyện trên đời cho đã thời gian ở rừng không được nói. Từ tin tức nhà vua, đến chuyện triều đình, chuyện xóm làng ai còn ai mất… Rồi… các bác thử đoán xem ông ta cho tớ biết những chuyện gì nào? Ông ấy bảo tớ ông ổng cái miệng vừa vừa thôi, tin đồn tùm lum từ Dras-Leona và Gil’ead đủ thứ chuyện kỳ lạ đang xảy ra khắp nơi tại Alagaesia này. Những vùng dân cư, thình lình biến sạch lũ Urgal, nhưng không ai biết tại sao và chúng biến đi đâu? Việc buôn bán tại đế quốc giảm xuống phân nửa, vì những cuộc đột kích, tấn công… mà… không chỉ do tụi thảo khấu đâu. Vì những cuộc tấn công xảy ra khắp nơi, rất tinh vi, rất có tính toán. Hàng hóa không bị cướp, chỉ thiêu hủy. Mà đâu chỉ có vậy… Gã thợ bẫy thú, nâng bầu rượu bằng da tu ừng ực, rồi tiếp: - Người ta thì thầm với nhau, vùng đất phía bắc, có một tà thần lảng vảng. Có người nhìn thấy nó gần Du Weldenvarden và Gil’ead. Họ bảo răng nó nhọn hoắt, mắt tím đỏ như rượu nho, tóc đỏ lòm như máu. Tệ hơn nữa là những chuyện đang xảy ra sẽ làm hao tổn tiền bạc của chính chúng ta. Vì nhà vua đã nổi trận lôi đình… Mới năm hôm trước, một gã múa rối trên đường từ miền nam tới Ceunon, đã ghé lại Therinsford. Hắn bảo quân lính rầm rập di chuyển chẳng biết đi đâu. Nhún vai, tay thợ săn triết lý: - Ngay từ ngày tớ còn bú tí mẹ, cha tớ đã bảo “nơi nào có khói, ở đó có lửa.” Khói lửa này rất có thể là quân Varden. Hoặc cũng có thể là nhà vua không còn chịu đựng, nhân nhượng mãi cho cái gai là đất nước Surda. Ít ra triều đình còn biết Surda ở đâu để mà tấn công, không như quân cách mạng Varden. Trong khi mọi người nhao nhao tranh nhau hỏi. Roran chau màysuy nghĩ, khó tin vào những lời đồn về tà thần, chắc lại là chuyện bịa đặt của mấy lão tiều phu say xỉn. Nhưng còn những chuyện khác, nếu quả đúng thật thì rất đáng lo. Surda? Rất ít thông tin về đất nước xa xôi này, nhưng ít nhất Roran biết một điều: Surda và Đế quốc sống trong nền hòa bình giả tạo, Surda vẫn luôn nớp nớp lo sợ nuớc láng giềng hùng mạnh hơn xâm chiếm. Người ta đồn rằng, đó là lý do nhà vua Orrin của Surda đã tài trợ cho phe Varden. Nếu tin tức về vua Galbatorix của người bẫy thú này chính xác, chiến tranh tàn khốc sẽ xảy ra, và kéo theo là sưu cao thuế nặng, cưỡng bách tòng quân… Giọng người bẫy thú thì thầm nghiêm trọng: - Chưa, chưa hết đâu. Còn chuyện này nữa mới mê ly hấp dẫn. Nghe này: một kỵ sĩ rồng xuất hiện tại Alagaesia… HA HA HA! Hắn bật ngửa người, vỗ bụng cười hô hố. Roran cũng phì cười. Năm nào chẳng có chuyện kỵ sĩ rồng xuất hiện. Mấy lần đầu người ta còn hồ hởi quan tâm, rồi sau chẳng ai buồn tin những lời đồn nhảm nữa. Chỉ là những đồn đãi của những kẻ quá mơ màng đến một tương lai sáng sủa hơn. Vừa định quay đi, Roran chợt thấy Katrina đứng nơi góc quán. Cô mặc áo màu nâu đỏ, thắt giải băng xanh. Hai người đắm đuối nhìn nhau. Tiến lại gần, anh nhẹ vuốt vai Katrina, rồi cùng cô bước đi. Tới cuối làng, họ ngừng lại ngước nhìn bầu trời lóng lánh đầy sao. Katrina dựa đầu lên vai Roran thì thầm hỏi: - Hôm nay anh đã làm gì? - Anh trở về nhà. - Nhà cửa sao rồi anh? - Kinh khủng lắm… Hương tóc cô thơm nồng nàn, thấm vào Roran như an ủi, khích lệ anh nói tiếp: - Nhà cửa, chuồng trại, ruộng vườn tan nát hết. Nếu chưa từng quen thuộc, anh không thể nào nhận ra nơi trước kia từng là nhà mình. Katrina ngước nhìn Roran. Mặt cô buồn rầu, mắt cô lóng lánh ánh sao. Hôn nhẹ lên môi Roran, Katrina kêu lên: - Ôi! Roran! Anh đã chịu mất mát quá nhiều, vậy mà vẫn đầy nghị lực. Anh sẽ trở lại trang trại chứ? - Anh còn biết làm gì khác nữa? - Còn em? Roran bối rối. Từ khi yêu nhau, tuy không nói ra, nhưng cả hai đều quyết định sẽ cưới nhau. Ý định đó của Roran rõ như ban ngày, vì vậy câu hỏi của Katrina lúc này làm anh bứt rứt. Đáng lý anh phải là người ngỏ lời - trước là với cha nàng, sau tới nàng. Nhưng với hoàn cảnh hiện nay… - Katrina… anh không thể tới gặp cha em như dự tính. ông sẽ cười vào mặt anh, và ông có lý. Chúng ta phải đợi thôi. Ngay sau khi anh lo được một chỗ ở cho hai chúng ta và sau vụ thu hoạch mùa đầu tiên, anh sẽ đến thưa chuyện cùng cha em. Cô lại ngửa mặt nhìn trời thì thầm nho nhỏ. Roran phải hỏi: - Em nói gì? - Em nói, anh sợ cha em phải không? - Tất nhiên là không, nhưng anh… - Vậy thì hãy đến gặp ông ngay ngày mai. hãy làm ông hiểu rằng, dù lúc này anh chẳng có gì, nhưng rồi anh sẽ cho em một mái ấm và sẽ là một người con rể xứng đáng làm cho ông hãnh diện. Chúng ta yêu thương nhau thế này, sao phải chờ đợi thêm vài năm nữa? - Anh không thể. Lúc này anh chưa thể lo cho em được… Katrina tách rời khỏi Roran: - Roran, em yêu anh. Anh không hiểu sao? Em muốn được ở bên anh, thuộc về anh. Nhưng cha em đã muốn định nơi khác cho em. Theo ông, có nhiều người đủ tư cách hơn anh. Nếu anh lần lữa, ông càng có dịp thúc giục em nhận lời một bà mối đã đến ngỏ lời. Ông sợ em thành gái già. Em cũng sợ. Cô ngước đôi mắt đầm đìa nước mắt nhìn Roran, rồi chạy vội về nhà. Roran bàng hoàng đứng lặng người. Cô bỏ đi làm anh đau đớn như khi nhìn trang trại điêu tàn, thình lình cả thế giới quanh Roran lạnh lẽo và cô quạnh quá. Dường như cô đã đem theo một nửa hồn anh. Mấy tiếng đồng hồ sau, Roran mới trở về nhà chú Horst, lẳng lặng chui vào giường. Tiếng đất sỏi lạo xạo dưới những bước chân Roran khi cậu đang lần mò xuống thung lũng. Sáng sớm tinh mơ, trời lạnh ngăn ngắt. Baldor theo sát phía sau. Cả hai đều sẵn sàng cung tên trên tay, lặng lẽ tìm kiếm dấu vết của bầy nai. Baldor chỉ tay về hướng cây mâm xôi sát mí sông Anora, nhỏ giọng: - Kìa. Roran gật đầu, lần theo dấu chân thú, rõ ràng bầy nai đã qua đây từ hôm trước, những dấu chân đã khô mặt rồi. Không cần thiết phải giữ im lặng nữa, Roran lên tiếng hỏi: - Baldor, cậu có thể cho mình một lời khuyên được không? - Được chứ, nhưng chuyện gì? - Ông Sloan định gả Katrina, nhưng không phải… gả cho mình. - Cô ấy nghĩ sao về chuyện này? - Cô ấy là con, không thể cãi lời ông bố mãi. Trong khi người cô ấy thương yêu không chịu tiến tới… - Người ấy là cậu? - Ừ. - Và đó là lý do hôm nay cậu dậy quá sớm? Thật ra, đêm qua Roran lo lắng đến không thể nào ngủ được, suốt đêm suy tính tìm một giải pháp cho hoàn cảnh khó khăn của hai người: - Mất cô ấy, mình sẽ không chịu nổi. Nhưng với hoàn cảnh hiện nay của mình, chắc chắn ông ta sẽ không đời nào chấp thuận. - Mình cũng nghĩ vậy. Nhưng cậu muốn mình khuyên cậu gì đây? - Bằng cách nào có thể thuyết phục ông ta? Bằng cách nào mình có thể giải quyết chuyện này mà không gây nên mối thâm thù giữa ông ta và mình? Mình phải làm gì, Baldor? - Cậu chưa nghĩ ra được cách nào sao? - Có. Nhưng mình thấy không vui vẻ gì. Mình định hai đứa tuyên bố đại là đã đính hôn, để đặt ông ta vào chuyện đã rồi. Baldor nhíu mày, thận trong bảo: - Có thể ông ta đành chấp thuận. Nhưng cả làng sẽ không để các cậu yên thân đâu. Hơn nữa, chuyện bắt Katrina phải chọn giữa cậu và cha cô ấy là điều không tốt đẹp gì. Sau này cô ấy sẽ oán trách cậu. - Mình biết, nhưng đâu còn cách nào khác nữa? - Trước khi phải sử dụng đến giải pháp đó, mình đề nghị: cậu nên cố lấy lòng ông ta. Rất có thể cậu sẽ thành công. Dù sao, ông Sloan cũng sẽ phải hiểu làm gì có thằng nào chịu đi rước một cô dâu ủ rũ thất tình. Nhất là cậu vẫn còn quanh quẩn trong làng, sẵn sàng cắm một cái sừng lên đầu anh chồng đó. Thấy Roran nhăn nhó nhìn mặt đất, Baldor cười lớn: - Còn nếu thất bại, cậu cứ tiến hành mọi chuyện theo ý mình. Biết cậu ta đã cố gắng mọi cách để xin cưới hỏi đàng hoàng mà không được, dân làng sẽ không trách việc cậu phạm cổ lệ, mà sẽ trách Sloan là lãi già gàn bướng, cố chấp hơn. Ngoài ông Sloan, cậu phải dè chừng những người khôn ngoan, đàng hoàng như chú Quimby. Họ không ưa những kẻ phá lệ làng đâu. - Mình hiểu. Roran gật đầu, anh biết những mối hiềm thù có thể âm ỉ hàng nhiều năm tại Carvahall. Được chuyện trò với Baldor, Roran cảm thấy thoải mái hơn. Anh nhớ có lần Eragon đã nói: “Tâm sự với nhau như anh em ruột thịt, được có người lắng nghe, được biết có người sẵn lòng giúp đỡ mình không ngại gian nguy là một niềm an ủi lớn.” Baldor ngừng lại, đưa bầu nước bằng da lên miệng tu, rồi tiếp tục bước theo Roran. Qua chừng vài chục thước, bỗng Roran đứng khựng lại. Thoang thoảng mùi thịt nướng và củi thông cháy trong không khí. Hít mạnh một hơi, Roran quay quanh tìm hướng tỏa ra mùi thơm đó. Một cơn gió thổi mạnh từ đường cái vào chỗ hai người đang đứng, kéo theo làn khói nóng, ngào ngạt mùi thức ăn. Roran ra dấu cho Baldor rảo bước tới bên, thì thầm hỏi: - Ngửi thấy gì không? Baldor gật. Cả hai đi ngược lại đường cái. Chừng gần trăm mét, vòng qua một lùm cây, Roran và Baldor đã nghe rõ tiếng người rì rầm qua làn sương mai dày đặc. Qua khỏi lùm cây, Roran chậm bước lại, phần vì không muốn làm cánh thợ săn kia giật mình khi thấy hai người, một phần anh cảm thấy không an tâm. Hình như bọn người này đông hơn một toán thợ săn, giọng nói rất lạ, không phải người làng Carvahall. Tách khỏi đường cái, Roran rón rén qua những bụi cỏ bên đường. Baldor thì thầm: - Cậu làm gì vậy? Roran đưa ngón tay lên môi, rồi nhè nhẹ bò dọc theo đường. Qua khỏi khúc quanh, cả hai như chết sững. Trên bãi cỏ bên đường là một trại lính. Ba mươi cái mũ sắt sáng ngời trong nắng sớm. Đám lính lố nhố, đứa xé thịt gà nhai ngồm ngoàm, đứa đun đun nấu nấu trên những đống lửa. Người ngợm, quần áo chúng lem nhem đầy bụi đường, nhưng biểu hiệu của Galbatorix vẫn còn thấy rõ trên nền áo đỏ - ngọn lửa cuồn cuộn thêu bằng chỉ vàng. Dưới lớp áo ngắn tay màu đỏ là áo giáp da đóng đinh bằng thép. Đa số bọn chúng đeo kiếm bản to, chừng năm sáu đứa là xạ thủ, năm sau đứa trang bị kích dài. Giữa đám lính, hai thân thể màu đen ngồi lom khom, cổ rụt giữa hai vai. Nhớ lại những lời diễn tả của dân làng từ khi ở Therinsford về, Roran nhận ra ngay đây chính là hai kẻ lạ, dị hình dị dang, đã tàn phá trang trại của cha con anh. Đúng là hai bầy tôi trung thành của bạo chúa Galbatorix rồi! Máu sôi lên, Roran với tay ra sau lưng lấy mũi tên. baldor vội níu áo Roran, kéo anh ngã xuống cỏ. - Đừng. Cậu muốn chết cả hai à. Roran nho nhỏ rít lên: - Quân khốn kiếp… Chúng đã… trở lại. - Roran, bình tĩnh. Chúng là quân triều đình. Dù trốn thoát, ở đâu cậu cũng bị coi là kẻ phạm pháp. Hơn nữa… tại họa sẽ đổ lên đầu dân làng Carvahall. - Chúng lại muốn gì nữa đây? - Nếu chúng chưa lấy được vật chúng cần lấy từ cha cậu, và Eragon thì đã trốn theo ông Brom, điều chúng muốn bây giờ là… bắt cậu. Việc cấp bách lúc này là chúng ta phải báo cho mọi người biết. Sau đó cậu hãy trốn đi. Chỉ hai tên kì lạ kia có ngựa, chúng ta có thể kịp chạy về làng trước chúng. Qua bụi cây, Roran trừng trừng nhìn đám lính. Tim đập rộn ràng vì căm phẫn, anh khao khát nhả hai mũi tên xuyên qua lồng ngực hai tên sứ giả của tử thần kia, dù có phải gục chết ngay sau giây phúc trút bỏ hết bao đau đớn căm hờn đó. Nấc lên một tiếng, Roran nắm chặt hai tay, gục đầu thầm nhủ: “Mình không thể bỏ lại Katria”. Anh đứng lặng, hai mắt nhắm nghiền, thì thầm với Baldor: - Về thôi. Không đợi Baldor trả lời, Roran chui qua những bụi cây. Ngay khi khuất dạng nơi đám lính cắm trại, anh băng băng chạy trên con đường đất nhỏ, trong lòng ngổn ngang căm phẫn, hãi hùng, giận dữ… Sau chừng nửa dặm đường, hai anh em nghỉ chân uống chút nước, Roran bảo Baldor: - Cậu đi báo cho mọi người, mình tới chú Horst. Qua khỏi mấy ngọn đồi thấp, vừa nhìn thấy làng, Roran chia tay Baldor để chạy tới xưởng lò rèn. Bước vào cửa, Roran vẫn nung nấu trong đầu ý định tìm cách thủ tiêu hai kẻ sát nhân mà không gây thù oán với triều đình. Chú Horst đang vừa ráp trục xe vừa nghêu ngao hát: …Dô hầy! Chan chát chan chát! Sắt già bướng bỉnh thách ta! Chan chát chan chát! Mấy búa bổ xuống! Sắt thua ta rồi! Dô hầy! Chợt thấy Roran hốt hoảng chạy vào, ông ngừng tay hỏi: - Chuyện gì? Thằng Baldor bị thương à? Roran vừa hồng hộc thở vừa tóm tắt những gì mới thấy, điều quan trọng nhất là, bây giờ đã rõ ràng hai kẻ lạ lùng quái dị kia là tay sai của triều đình. Chú Horst nói ngay: - Cháu phải rời đây ngay. Lấy đồ ăn trong nhà, tới Ivor lấy con ngựa của chú, anh ta đang dùng nó để kéo cây đó. Cứ trốn dưới chân núi, khi nào rõ ý định của tụi lính, chú sẽ bảo Albriech hay Baldor đến cho cháu biết. - Chú sẽ nói sao, nếu tụi lính hỏi về cháu? - Bảo là cháu đi săn, chẳng biết bao giờ về. Roran gật đầu, chạy đến nhà chú Horst, vơ vội dây cương ngựa, ba lô, ít đồ ăn và một cái nồi sắt nhỏ. Chỉ kịp cắt nghĩa qua loa tình hình để thín Elain biết, rồi anh hộc tốc chạy tới trang trại của Ivor. Ivor đang đứng sau nhà, tay cầm roi bện bằng cành liễu, quát tháo con ngựa cái bướng bỉnh, không chịu kéo bật rễ cây phong du khỏi đất. Roran tới gần cho biết lý do phải mượn ngựa. Ivor càu nhàu: - Cứ khi nào có việc cần tới ngựa, lại có kẻ quấy rầy. Roran đóng yên cương nhảy lên mình ngựa, năn nỉ: - Xin lỗi, chuyện chẳng đặng dừng, có ai muốn thế này đâu. - Nói vậy thôi, đừng áy náy, miễn sao mày đừng để tụi nó tóm được là tốt rồi. Roran vừa phóng đi, Ivor nói với theo: - Đừng trốn trong khe núi gần nhà tao. Roran lắc đầu cười, cúi rạp mình trên mình ngựa. Chẳng bao lâu sau đó, Roran cho ngựa lần đường lên rặng núi Spine nằm về phía cực bắc của thung lũng Palancar. Tới một sườn núi, nơi có thể kín đáo quan sát về làng, Roran xuống ngựa, rùng mình nhìn cảnh núi tăm tối chung quanh. Anh chẳng thích thú gì chuyện gần gũi rặng núi ghê gớm Spine như thế này. Ít kẻ ở Carvahall dám mon men lên núi, còn những kẻ liều lĩnh lên đây cũng hiếm khi trở lại làng. Rồi Roran cũng thấy đám lính xếp hàng hai, dẫn đầu là hai kẻ phủ kín toàn một màu đen, tiến bước trên đường. Tới đầu làng, chúng bị một toán người rách rưới, tay cầm cuốc xẻng chặn lại. Không biết hai bên nói gì, nhưng rồi hằm hè như chờ nhau ra tay trước. Một lúc lâu sau, dân làng tránh sang một bên, nhường đường cho tụi lính. “Chuyện gì đang xảy ra đây?” Roran thầm hỏi. Buổi chiều, đám lính dựng trại trên cánh đồng kế bên làng. Những cái lều xám xịt của chúng phần phật trong gió, trong khi đó đám lính gác rảo quanh vòng ngoài. Chính giữa trại, khói cuồn cuộn bốc lên từ một đám lửa lớn. Lúc này, cũng đã dựng trại xong cho mình, Roran ngồi nhìn xuống quang cảnh dưới làng ngẫm nghĩ. Anh vẫn tưởng, những kẻ lạ mặt sau khi phá hủy trang trại, đã lấy được vật mà chúng muốn, đó là viên đá Eragon đem từ núi Spine về. nhưng bây giờ, Roran cho rằng chắc chắn tụi chúng chưa tìm thấy và có lẽ Eragon đã bỏ trốn cùng viên đá đó. Chắc Eragon nghĩ phải tìm đến một nơi an toàn để bảo vệ viên đá. Chuyện nó bỏ trốn thật là khó hiểu. Nhưng bất kì là lý do gì, viên đá chắc phải là một tài sản quý giá lạ thường, nên nhà vua mới phải điều động quân sĩ nhiều đến thế, để thu hồi lại. Nhưng viên đá đó quý giá ở điểm nào? Hay đó là một vật có phép thuật? Roran hít hà vì không khí giá lạnh, lặng nghe tiếng một con cú rúc. Bỗng thấp thoáng có vật lay động, Roran nhìn chăm chăm xuống núi: một bóng người đang thoăn thoắt tiến lên. Nấp vội sau tảng đá, Roran rút tên, ngồi chờ. Anh huýt nhẹ tiếng sáo khi nhận ra Albriech. Lại gần, Albriech quăng một cái ba lô căng phồng trên vai xuống, thở phào: - Tưởng không thể tìm ra cậu chứ. - Cậu cũng làm mình ngạc nhiên đấy. - Lang thang qua rừng vào giờ này khiếp thật. Tớ chỉ sợ đụng đầu với một chú gấu, hay có khi còn gặp chuyện gì tệ hại hơn… Núi Spine chứ đâu phải chuyện đùa… - Cậu biết lý do tụi lính đến làng mình làm gì chưa? - Để bắt cậu. Chúng sẵn lòng chờ cho đến khi nào cậu “đi săn” về. - Chúng có nói vì sao hay nhắc gì đến viên đá không? Albriech lắc đầu: - Chúng chỉ luôn nhắc đi nhắc lại là… công tác mật của đức vua. Suốt ngày nay, chúng đặt đủ thứ câu hỏi về cậu và Eragon. Hình như chúng chgỉ quan tâm tới hai anh em cậu… Ngập ngừng, Albriech nói tiếp: - Mình muốn ở lại đây với cậu, nhưng sợ ngày mai chúng sẽ phát hiện là mình vắng mặt. Chăn mền, lương thực đầy đủ, mình đem cả thuốc men của bà lang Gertrude gửi cho cậu, phòng xa lỡ cậu bị thương. Roran gượng cười: - Cảm ơn mọi người đã giúp đỡ mình. Albriech ôm vai Roran: - Ai cũng phải làm vậy thôi. À, cậu biết không, tụi lính gọi hai kẻ lạ kia là… Ra’zac. Sau buổi họp cùng Hội-đồng Tiền-bối, Eragon đang lau chùi bộ yên rồng thì Orik tới thăm. Ông lùn lẳng lặng chờ Eragon xong việc mới hỏi: - Hôm nay cậu khá hơn rồi chứ? - Vâng, có khá hơn một chút. - Tốt, tất cả chúng ta đều cần sức khỏe. Tôi tới hỏi thăm và cũng vì đức vua Hrothgar muốn nói chuyện cùng cậu… nếu cậu rảnh. Eragon cười nói: - Đức vua hẳn quá rõ, lúc nào được gọi, tôi cũng sẵn sàng vào chầu. Orik cũng cười ha hả: - Nhưng hỏi trước vẫn phải phép hơn chứ. Trong khi Eragon đóng yên cương, Saphira vươn mình về phía Orik, chào bằng một tiếng gừ gừ thân mật. Ông lùn cúi đầu đáp lễ. Orik hướng dẫn Eragon và Saphira qua một trong bốn hành lang chính của Tronjheim, tới phòng trung tâm và hai cầu thang bằng gương cuốn xuống lòng đất, nơi thiết triều của vua lùn. Phải mất mấy giây, Eragon mới nhận ra Orik dùng đường tắt để tránh phải nhìn thấy sự đổ nát của Isidar Mirthrim. Khi họ ngừng trước hai cánh cửa đã chạm trổ một mũ triều thiên bảy đỉnh, mỗi bên cửa có bảy người lùn mặc giáp, đồng loạt nện cán cuốc xuống nền đá. Tiếng thình thịch vang lên và hai cánh cửa nhẹ nhàng mở vào trong. Eragon gật đầu với Orik, rồi cùng Saphira tiến vào gian phòng lờ mờ sáng. Qua dãy dài những hírna uy nghi - tượng các đấng tiên vương của người lùn - tới trước bệ ngai vua bằng gỗ đen như mun, Eragon cúi thấp đầu. Vua lùn nhẹ cúi mái đầu bạc trắng đáp lễ, những viên ngọc dính trên mũ vàng long lanh tỏa sáng. Vua Hrothgar lên tiếng: - Khắc-Tinh của Tà-Thần, từ sau lần chúng ta gặp nhau, nhà ngươi đã làm được rất nhiều việc. Vì vậy, dường như ta đã tỏ ra sai lầm về thanh Zar’roc. Kể từ nay, khi nào nhà ngươi còn đeo, thanh kiếm của Morzan vẫn còn được đón nhận tại Tronjheim này. - Đa tạ bệ hạ. - Còn điều này nữa. Ta muốn nhà ngươi hãy giữ bộ áo giáp đã mặc trong trận chiến đấu vừa qua. Ngay lúc này, các thợ tài giỏi của ta đang sửa chữa bộ áo giáp đó. Bộ giáp rồng cũng đang được tu sửa. Saphira có thể sử dụng cho đến khi nó lớn lên không mặc vừa nữa. Đó là điều ít ỏi ta có thể làm để tỏ lòng biết ơn hai ngươi. Nếu không vì cuộc chiến với Galbatorix, chúng ta đã mở tiệc chúc mừng hai người rồi… nhưung đành phải chờ đến một thời gian thích hợp hơn. Cả Eragon và Saphira đều tỏ ra hài lòng. Eragon lên tiếng: - Bệ hạ rộng lượng hơn cả mong ước của hạ thần. Đó là những món quà chúng thần sẽ gìn giữ suốt đời. Nhà vua chợt nhíu mày, thấp giọng: - Tiếc là ta không được vui trọn vẹn, Các tộc trưởng vây quanh ta, đòi hỏi ta phải làm điều gì đó trong vụ chọn người kế nhiệm Ajihad. Hôm qua, khi Hội-đồng Tiền-bối công bố ủng hộ Nasuada, đã tạo nên một sự ồn ào ta chưa từng thấy từ khi ta lên ngôi. Các cấp chỉ huy phải quyết định chấp thuận Nasuada hay không. Đa số đồng ý để cô ta làm thủ lãnh Varden. Nhưng… Eragon, ta muốn biết ý nhà người, nhà người đứng về phía nào - phản đối hay đồng ý - trước khi ta đưa ra lời quyết định sau cùng. Eragon hỏi Saphira: “Có thể cho ông ta biết tới đâu? Nghĩ lẹ lên.” “Nhà vua luôn đối xử đàng hoàng với chúng ta, nhưng không biết ông ta hứa hẹn với những phe phái khác những gì. Tốt nhất là cứ thận trọng cho tới khi Nasuada thật sự nắm quyền lực.” Eragon nói: - Hạ thần và Saphira đã đồng ý giúp Nasuada. Chúng thần không có gì phản đối cô ấy. Cúi mong bệ hạ cũng sẽ giúp tiểu thư Nasuada; vì Varden không thể chiến đấu một mình, họ cần phải có đồng minh. - Cha chả, nhà người ăn nói oai vệ lắm. Nhưng đó là một đề nghị đúng, tuy nhiên ta vẫn còn một câu hỏi: Chọn Nasuada là vì nhà người tin cô ta sẽ là một lãnh đạo khôn ngoan, hay còn động cơ nào khác nữa? Saphira cảnh giác: “Đó là một cách thăm dò đấy. Nhà vua muốn biết vì sao chúng ta ủng hộ cô ta.” Eragon mỉm cười: - Hạ thần trộm nghĩ, qua năm tháng tiểu thư sẽ càng khôn ngoan và thận trọng. Nasuada sẽ là một lãnh đạo có tài. - Đó là lý do nhà người ủng hộ cô ta? - Tâu vâng. Hrothgar gật gù, vuốt ve chòm râu bạc: - Điều đó khiến ta yên tâm. Gần đây người ta quá ít nghĩ đến điều phải trái, mà chỉ tìm cách thu vén quyền lợi riêng tư. Thấy những trò ngu xuẩn đó làm sao ta nén giận cho được. Không khí bỗng chìm trong im lặng nặng nề. Eragon hỏi cho có chuyện: - Muôn tâu, liệu một khu nhà ở khác cho rồng có được xây dựng không, thưa bệ hạ? Lần đầu tiên đôi mắt nhà vua buồn bã, những nếp nhăn hằn sâu quanh mắt. Chưa bao giờ Eragon thấy một người tộc lùn gần như sắp ứa nước mắt khi cất tiếng nói: - Còn nhiều điều phải bàn trước khi làm việc đó. Chuyện gây ra bởi Arya và Saphira thật là khủng khiếp. Có thể đó là điều cần thiết, nhưng khủng khiếp quá. Isidar Mithrim – trái tim của Tronjheim - đổ vỡ, con tim của chúng ta cũng tan nát theo. Nhà vua đặt nắm tay lên ngực, từ từ mở ra, rồi hạ xuống nắm chặt cán da của cây Volund – cây búa của chiến tranh. Eragon cảm thấy những xúc động của Saphira truyền sang nó, nhưng điều làm Eragon ngạc nhiên nhất, là mối ân hận và mặc cảm tội lỗi của ả rồng. Saphira thật sự ân hận vì sự mất mát Isidar Mithrim, cho dù đó là một sự bắt buộc. “Eragon, giúp em. Em cần nói với nhà vua. Hãy hỏi ông ta: liệu người lùn có khả năng tái tạo lại Isidar Mithrim không?” Nghe Eragon lập lại lời Saphira, vua lùn lẩm bẩm mấy câu bằng ngôn ngữ của ông ta, rồi nói: - Chúng ta có sự khéo léo, nhưng để làm gì? Công việc đòi hỏi nhiều năm, mà kết quả sẽ chỉ là sự chắp vá những mảnh vỡ của một báu vật vô cùng diễm lệ, đã từng làm vẻ vang cho Tronjheim. Ta không muốn thấy sự chắp vá thô thiển đó. Saphira vẫn nhìn nhà vua không chớp mắt. “Hãy nói với ông ta, nếu thu lượm hết những mảnh vụn của Isidar Mithrim, em tin sẽ hoàn tất lại như cũ.” Eragon há hốc miệng nhìn Saphira, chẳng cần biết nhà vua đang kinh ngạc nhìn nó. “Saphira! Việc đó đòi hỏi rất nhiều nội lực. Chính em từng bảo, em không thể sử dụng phép thuật bằng ý chí được sao? Vì sao em tin là có thể làm nổi chuyện này? “Em có thể làm khi thật sự cần thiết. Đây là món quà em tặng người lùn. Còn nhớ ngôi mộ của ông Brom không? Đừng há hốc miệng ra thế kia, ghê quá, ông vua già đang ngắm anh kìa.” Khi Eragon chuyển lại những lời nói của cô rồng, nhà vua ngồi thẳng người, kêu lên: - Hả, làm được sao? Đến thần tiên cũng không có khả năng làm chuyện đó. - Saphira rất tin vào khả năng của nó. - Ôi, như vậy là chúng ta sẽ tái thiết Isidar Mithrim, cho dù mất cả trăm năm. Trái tim của Tronjheim sẽ trở lại như xưa. Ta sẽ triệu tập người, thu lượm từng mảnh nhỏ li ti, dù có phải đập vỡ những tảng đá lớn để thu hồi từng mảnh ngọc vụn kẹt trọng đó. Xong việc thu gom, nhà người sẽ đến chứ, đến để chữa lành cho tảng ngọc ngôi sao? - Chúng thần sẽ tới. Hrothgar nhếch miệng cười, nụ cười của ông vua già như vết nứt trên bức tường đá: - Saphira, niềm vui mi mang cho ta làm ta cảm thấy thêm một lý do để sống và trị vì. Nếu mi thành công, người lùn ở khắp nơi sẽ vinh danh mi đến muôn đời. Hãy ra về với lời chúc phúc của ta. Bây giờ ta sẽ thông báo cho thần dân ta biết tin vui này. Không phải đợi cho đến khi ta chính thức loan báo, hãy chuyển tin này cho tất cả những người các ngươi sắp gặp. Cầu mong niềm hân hoan sẽ lan tỏa tới khắp thần dân của ta. Eragon và Saphira lại cúi đầu trước khi quay ra, để lại ông vua lùn ngồi lại trên ngai, môi vẫn chưa tắt nụ cười. Ra ngoài, Eragon kể lại cho Orik. Orik vội vàng cúi hôn mặt nền trước mặt Saphira rồi đứng dậy nắm tay Eragon, hớn hở cười nói: - Thật phi thường! Đây mới đúng là niềm hy vọng chúng tôi cần thiết để phấn khởi đấu tranh với những biến cố gần đây. Đêmmay phải uống mừng. - Nhưng sáng mai là tang lễ thủ lãnh Ajihad. - Ngày mai, đúng vậy. Nhưng đừng để những buồn phiền làm giảm tin vui này. Nào, theo tôi. Nắm tay Eragon, ông lùn kéo nó tới một phòng đại tiệc. rất nhiều người lùn đang ngồi quanh những chiếc bàn đá. Orik nhảy phóc lên một bàn, gạt hết chén đĩa xuống sàn, rồi gào lên thông báo nguồn tin về Isidar Mithrim. Orik vừa dứt lời, những tiếng hoan hô, reo hò chói lọi làm Eragon gần như bị điếc tai. Từng nguời lùn chen lấn nhau tới trước Saphira hôn mặt sàn giống như Orik đã làm. Sau đó mọi người bỏ hết món ăn, rót bia và mật ong lên men đầy tràn những cốc lớn. Eragon tham gia cuộc vui, và trong lòng nó có phần giảm bớt buồn phiền. Nhưng nó quyết không để quá chén. Eragon muốn đầu óc phải tỉnh táo trong nhiệm vụ ngày mai. Thấy Saphira có vẻ thích thú khi nhấp chút mật ong lên men, mất người lùn lăn ra cho nó nguyên một thùng. Vục ngay cái mõm khổng lồ vào thùng, ực ba hơi dài hết sạch, rồi cô nàng hứng chí ngửa đầu, phun một ngọn lửa xanh lè lên trần. Saphira càng chếch choáng, cảm xúc và ý nghĩ của nó càng chuyền sang Eragon mạnh hơn. Gần như Eragon không còn điều khiển tâm trí mình nổi nữa: những hình ảnh màu sắc luôn thay đổi, thậm chí những mùi vị nó ngửi thấy lúc đó trở nên gay gắt, mãnh liệt hơn. Khi những người lùn bắt đầu ca hát, Saphira cũng lắc lư thân hình đồ sộ ư ử ồ ề theo. Mỗi đoạn ngắt câu, cô nàng gầm lên một tiếng rất sành điệu. Eragon vừa mở miệng hát theo, bỗng giật bắn mình. Thay vì những ca từ, cổ nó lại phát ra tiếng cò cử gầm gừ của… một con rồng. “Mình xỉn đến thế sao?” Eragon tự hỏi “Thây kệ, giọng rồng cũng hát” và nó tiếp tục cất cao giọng ồm ồm như bò rống. Người lùn tiếp tục tràn vào phòng sau khi tin tức về Isadar Mithrim được loan truyền. Hàng trăm người chen chúc trên những bàn quanh Eragon và Saphira. Theo lệnh Orik, đoàn nhạc công tiến vào một góc phòng. Tiếng đàn sáo véo von hòa trong tiếng ồn ào của đám đông. Mấy tiếng sau, tiếng ồn và sự hưng phấn mới giảm dần. Orik lại leo lên bàn, tay cầm cốc rượu hét toáng lên: - Nghe đây, nghe đây. Sau cùng thì chúng ta cũng mở tiệc mừng như dự định. Urgal đã rút lui, Tà Thần đã chết, và… chúng ta đã thắng. Tiếng đập bàn thình thình tán thành: bài diễn văn vừa ngắn gọn vừa đủ ý. Nhưng Orik chưa chấm dứt, ông lùn nâng cao cốc rượu, gào to: - Chúc mừng Eragon và Saphira! Tiếng đập bàn và hoan hô lại rầm rầm vang lên. Eragon đứng dậy, cúi đầu trước mọi người. Cử chỉ đó lại làm tiếng hoan hô càng nồng nhiệt hơn. Bên cạnh nó, Saphira bỗng vươn cao thân mình, một chân trước đặt ngang ngực. Cô ả định bắt chước hành động lịch thiệp của tiểu huynh, nhưng thân hình khổng lồ lảo đảo, làm những người lùn hết hồn nháo nhào chạy ra xa. Đúng lúc đó, cô rồng say xỉn hét lên một tiếng, bật ngửa mình, lăn kềnh lên đống bàn đá. Bị đuôi Saphira quất mạnh, Eragon chỉ kịp cảm thấy lưng đau buốt, rồi mê man bất tỉnh. - Dậy mau, Knurlhiem. Đừng ngủ nữa. Tất cả đang chờ, không có mặt chúng ta, họ sẽ không khởi hành đâu. Eragon cố mở mắt, đầu nhức và toàn thân ê ẩm. Thấy mình đang nằm trên bàn đá lạnh ngắt, nó nhăn nhó hỏi: - Cái gì? - Chúng ta phải có mặt trong đám tang Ajihad. - Không, tôi hỏi ông gọi tôi là gì vậy? - Knurlhiem, là Đầu Đá, vì tôi lay gọi cậu cả tiếng rồi mà cậu cứ nằm ì ra như tảng đá vậy. Saphira lờ đờ nhìn quanh phòng tiệc vắng ngắt, chỉ còn nó, Eragon và ông lùn Orik. Xuống khỏi bàn, Eragon loạng choạng đến gần Saphira hỏi: “Em khỏe không?” “Bình yên vô sự… ấy là em đoán thế. Chỉ cái cánh hơi kỳ kỳ, chắc bị em nằm đè lên. Đầu thì như bị hàng ngàn mũi tên nóng hổi bắn trúng vậy.” Eragon lo lắng hỏi Orik: - Cú ngã của Saphira có làm ai bị thương không? Orik cười phát sặc: - Chỉ mất tay cười quá lăn đùng khỏi ghế là bị thương thôi. Một cô rồng say xỉn còn cố làm điệu cúi chào! Ha ha, chuyện này còn được truyền tụng hàng chục năm nữa. Saphira, mi làm gã bếp trưởng phát khiếp. Hắn chỉ sợ mi ực hết kho rượu quý thôi. Đưa cho Eragon một bó quần áo, Orik nói: - Mặc vào. Bộ này thích hợp với lễ tang hơn. Lẹ lên, chúng ta không còn nhiều thời gian đâu. Eragon xúng xính trong bộ đồ ông lùn mới đưa: sơ mi trắng, vét đỏ thêu chỉ vàng, quần đen, bốt đen bóng lộn, mũ cát-két, và sợi thắt lưng da bình thường vẫn đeo thành Zar’roc được thay bằng một thắt lưng trang trí hoa văn rất đẹp. Nó vỗ nước lên mặt và cố vuốt cho mái tóc thẳng thớm hơn. Vừa đi thoăn thoắt trên hai chân ngắn ngủn, Orik vừa thúc giục Eragon và Saphira ra khỏi phòng, tiến về cửa nam của Tronjheim. - Chúng ta phải tới đó vì đó là nơi quàn thi hài Ajihad ba hôm nay. Lễ chuyển cữu không được gián đoạn, nếu không, linh hồn ông ấy sẽ không được yên nghỉ. Saphira nhận xét: “Phong tục kỳ cục.” Eragon gật đầu đồng ý. Vì tại Carvahall, người chết thường được chôn trong trang trại của họ. Những người sống trong làng, khi chết được chôn trong một nghĩa trang nhỏ của làng. Nghi lễ chỉ là vài ban đồng ca hát lễ, sau đó một bữa tiệc được tổ chức cho thân nhân và bạn bè người quá cố. Nhìn dáng đi hơi xiêu vẹo của Saphira, Eragon hỏi: “Em ráng được tới suốt buổi lễ không?” “Em chỉ thèm ngủ thôi. Nhưng lại còn lễ bổ nhiệm Nasuada nữa chứ.” Eragon quay lại hỏi Orik: - Ajihad sẽ được chôn ở đâu? - Đó là vấn đề đã được thảo luận giữa các bộ tộc. Khi một người lùn qua đời, chúng tôi tin rằng người đó phải được táng trong lòng đá, nếu không linh hồn người chết sẽ không bao giờ về với tổ tiên được… Đó là một điều rất phức tạp, chúng tôi khó có thể cắt nghĩa hết cho người ngoài hiểu… nhưng từ bao đời nay chúng tôi đã tin như vậy. Gia đình hay bộ tộc nào chôn cất thân nhân dưới lớp đất thấp kém là một điều ô nhục. Trong lòng Farthen Dur có một nơi an nghỉ dành cho người lùn. Ajihad sẽ được đưa tới đó. Vì ông ta là một con người, nên không được nằm cùng mồ với chúng tôi, nhưng đã có một ngăn huyệt gần kề, dành cho ông ấy. Những người Varden có thể đến viếng mà không làm kinh động đến chốn thiêng liêng của chúng tôi. - Đức vua của ông tỏ ra rất ưu ái Varden. - Có kẻ cho rằng đức vua đã quá ưu ái họ. Cánh cổng to lớn đã được những dây xích ngầm kéo lên. Ánh nắng sớm yếu ớt rọi vào lòng núi Farthen Dur. Trước những hàng người nghiêm chỉnh, thi hài thủ lãnh Ajihad được đặt trên một cái giá bằng đá, do sáu người mặc giáp đen khiêng. Trên đầu ông là cái mũ gắn đá quý. Hai tay ông đặt dưới cằm, nắm chặt chuôi kiếm bằng ngà. Thanh kiếm ẩn dưới tấm khiên phủ từ ngực tới chân. Áo giáp bạc phủ tứ chi, lòa xòa chung quanh giá. Nasuada trong tang phục đen, đứng sau thi hài cha, vẻ rắn rỏi nghiêm trang, nhưng nước mắt đầm đìa trên mặt. Đứng bên cô, vua lùn Hrothgar cũng mặc áo choàng đen, rồi tới Arya, Hội-đồng Tiền-bối. Sau cùng là đoàn người tang chế kéo dài cả dặm. Tất cả những cửa của đại sảnh cao bốn tầng, dẫn đến trung tâm Tronjheim, đều mở rộng và chật cứng người. Khi Eragon và Saphira tiến vào, làn sóng người lao xao tiếng thở dài và những tiếng thì thầm. Eragon và Saphira bước lại phía Jormundur khi thấy ông nhẹ vẫy tay. Lách qua giữa những đội hình, hai đứa tới đứng bên ông. Sabrae nhìn theo đầy bất mãn. Còn Orik tới đứng sau nhà vua. Tất cả im lặng chờ đợi. Mặc dù Eragon không biết họ chờ đợi cái gì. Tất cả đèn lồng đều được che đi một nửa, tỏa ra một làn ánh sáng dịu dàng, thanh tịnh. Trong một thoáng giây, mọi người dường như bất động, nín thở. Từ trên giá đá một làn khói hương nhẹ nhàng uốn éo vươn lên mái trần mờ mờ ẩn hiện trên cao. Từ trong lòng thành phố ngầm Tronjheim âm vang tiếng trống. THÙNG! Tiếng trống trầm buồn như xuyên tới xương tủy mỗi người, rung động vách núi, tiếng vọng dội từ vách này sang vách khác. Đoàn người bắt đầu tiến bước. THÙNG! Tiếng trống thứ hai hòa tiếp âm vang của tiếng trống trước, rồi những hồi thùng thùng tiếp theo dồn dập cất lên. Âm thanh trầm hùng như cuốn những bước chân đi. Đầu óc mọi người như trống rỗng với những hồi trống bổng trầm như thúc giục cảm xúc lên đến tột cùng, làm nước mắt phải trào dâng… THÙNG! Cuối đường hầm, những người khiêng giá ngừng lại giữa hai cây trụ bằng mã não, trước khi rẽ vào đại sảnh trung tâm. Trước cảnh tượng đổ vỡ của Isidar Mithrim, Eragon thấy những người lùn càng tỏ ra sầu thảm hơn. THÙNG! Đám tang tiến qua nghĩa trang của ngọc vụn. Những mảng ngọc chất cao như tháp quanh dấu hiệu cây búa và những ngôi sao năm cánh. Nhiều mảnh ngọc lớn hơn cả thân hình Saphira. Màu ngọc lấp lánh. Nhiều mảnh còn nguyên hình dạng cánh hoa hồng. THÙNG! Đám tang qua những cầu thang xuống đường hầm. Qua nhiều hang động, qua nhiều ngôi nhà đá lố nhố trẻ con lùn đang bám chặt áo mẹ, trố mắt nhìn… Cuối cùng đám tang ngừng dưới những trụ thạch như rủ từ mái trần xuống một hầm mộ khổng lồ với những ngăn hốc ngay hàng thẳng lối. Mỗi ngăn là mỗi ngôi mồ với tên và huy hiệu bộ tộc của người quá cố. Hàng ngàn – hàng trăm ngàn - người đã được an táng tại nơi đây. Những ngọn đèn lồng đỏ là ánh sáng duy nhất trong chốn âm u này. Thi hài Ajihad được chuyển vào một phòng nhỏ kế bên. Chính giữa phòng, trên một bệ nhô cao, ngôi mộ đá với những hàng chữ khắc sâu: Tộc người lùn, người thường và thần tiên Luôn ghi nhớ công ơn con người cao quý, cương cường và đầy khí phách này. Guntera Aruna Thi hài của vị thủ lãnh từ từ hạ huyệt. Những người thân tín lần lượt tiến lên vĩnh biệt ông. Eragon và Saphira trong hàng thứ năm, sau Arya. Bước lên thềm đá để nhìn ông lần cuối, ruột Eragon quặn thắt, vừa xót thương nguời thủ lãnh, vừa cảm thấy như đây chính là đám tang của Murtagh. Đứng bên mộ, Eragon lặng lẽ nhìn: trông Ajihad bình thản, thảnh thơi hơn bao giờ hết. Dường như thần chết cũng cảm phục sự vĩ đại của ông và đã tôn vinh ông bằng cách xóa hết những dấu vết hệ lụy của cõi đời trên diện mạo ông. Eragon mới chỉ biết ông trong một thời gian ngắn, nhưng cũng đủ để cảm phục con người ông và những điều tiêu biểu nơi ông: đòi tự do cho những con người bị thống trị. Hơn nữa Ajihad là người đầu tiên cho Eragon và Saphira một nơi ẩn náu an toàn từ khi rời khỏi thung lũng Palancar. Eragon cố tìm một điều ý nghĩa nhất mà nó có thể làm để vinh danh ông. Sau cùng những lời thì thầm bật ra khỏi miệng nó: - Thủ lãnh Ajihad, cháu xin thề là tên người sẽ được ghi nhớ mãi về sau. Xin người yên nghỉ và biết rằng Nasuada sẽ tiếp tục sự nghiệp. Triều đình sẽ bị lật đổ vì những gì những đã hoàn thành. Eragon cùng Saphira lui ra nhường chỗ cho Jormundur. Khi tất cả mọi người đã tỏ lòng tôn kính thủ lãnh Varden, Nasuada cúi xuống dịu dàng cầm tay cha. Rên lên một tiếng đầy đau khổ, cô cất tiếng ca ai oán vang vọng khắp mộ phần. Rồi mười hai người lùn đẩy nhẹ tấm cẩm thạch, phủ kín mặt huyệt. Eragon đưa tay che miệng ngáp khi dòng người vẫn đang lũ lượt đổ vào hí trường trong lòng đất. Hội trường lớn rộng ồn ào tiếng bàn bạc về lễ tang vừa qua. Eragon ngồi trên bực thềm thấp nhất, ngang tầm diễn đài, cùng Orik, Arya, nhà vua Hrothgar và Hội-đồng Tiền-bối. Saphira ngồi giữa lối đi của những hàng bực. Orik nghiêng qua Eragon, nói: - Kể từ thời Korgan, các đời vua của chúng tôi đều được bầu chọn tại nơi này. Varden làm lễ bổ nhiệm người kế thừa tại đây là rất thích hợp. Chưa chắc, Eragon nghĩ, nếu buổi chuyển giao quyền lực này êm ả thì mới có thể nói là thích hợp. Trong lòng nó ngổn ngang mối buồn rầu sau lễ tang, xen lẫn những lo âu về vai trò của nó trong những sự kiến sắp diễn ra. Cho dù mọi chuyện đều tốt đẹp, thì nó và Saphira cũng sẽ tạo ra những kẻ thù đáng gờm. Mấy phút sau khi hí trường đầy người, Jormundur bước lên diễn đài, sang sảng nói: - Hỡi các chiến hữu Varden, mười lăm năm trước, sau khi thủ lãnh Deynor qua đời, chúng ta đã chúng có mặt tại đây. Người kế nhiệm ông, thủ lãnh Ajihad, đã cống hiến nhiều hơn những bậc tiền nhiệm trong việc đối đầu với triều đình của bạo chúa Galbatorix. Trong vô vàn trận đánh ác liệt, ông đã chiến thắng lực lượng lớn mạnh hơn của kẻ thù. Tà thần Durza suýt mất mạng dưới tay ông. Trên lưỡi kiếm của Durza còn hằn sâu vết chém của ông. Và… hành động dũng cảm nhất: ông đã mở rộng vòng tay đón Kỵ sĩ Eragon và Saphira vào Tronjheim. Tuy nhiên, vì ông đã ra đi, chúng ta bắt buộc phải bầu lên một vị thủ lãnh mới. Một người có khả năng mang thêm vinh quang về cho Varden của chúng ta. Trong đám đông nhiều tiếng nói vang lên: - Khắc-Tinh của Tà Thần. Eragon cố tỏ ra bình thản, nó mừng vì thấy Jormundur cũng thản nhiên, thậm chí không hề chớp mắt khi cao giọng tiếp: - Có thể… nhưng là trong nhiều năm sau này. Vì hiện tay Kỵ sĩ Eragon còn nhiều bổn phận và trách nhiệm phải hoàn tất. Hội-đồng Tiền-bối đã cân nhắc, bàn bạc rất kỹ vấn đề này: chúng ta cần một người thấu hiểu những mong ước, những nhu cầu của chúng ta là gì, một người từng sống, từng chịu đựng gian khổ cùng chúng ta. một người đã không chạy trốn khi trận chiến cận kề. Một cái tên qua hàng ngàn tiếng rì rầm rào rào khắp hội trường và sau cùng bật ra từ miệng Jormundur. - Nasuada. Nói xong, Jormundur cúi đầu, đứng sang một bên. Arya tiến ra diễn đàn, nhìn khắp khán phòng, lên tiếng: - Toàn thể thần tiên xin vinh danh thủ lãnh Ajihad. Là một đại diện của Nữ Hoàng, phần tôi xin công nhận sự kế nhiệm của tiểu thư Nasuada và sẽ ủng hộ cô với cảm tình thân hữu, như trước kia tôi đã từng đối với phụ thân của cô. Cầu chúc những vì sao phù hộ cho tiểu thư. Vua lùn Hrothgar bước lên diễn đàn tuyên bố: - Trẫm và các bộ tộc cũng ủng hộ tiểu thư Nasuada. Tới lượt Eragon. Trước hàng ngàn đôi mắt lom lom nhìn Eragon và Saphira chờ đợi, nó dõng dạc nói: - Chúng tôi ủng hộ tiểu thư. Saphira gầm lên, gật đầu xác nhận. Hội-đồng Tiền-bối đứng thành hàng trên diễn đàn. Jormundur đứng đầu. Dáng vẻ đầy kiêu hãnh, Nasuada tiến tới quỳ trước mặt Jormundur. Ông cất cao giọng nói: - Chiếu theo luật thừa kế và ủy nhiệm, chúng ta bầu chọn Nasuada. Chiếu theo công lao thành quả của phụ thân cô cũng như tài sức của chính cô, chúng ta bầu chọn Nasuada. Xin hỏi: quý vị có đồng ý với sự bầu chọn này không? Tiếng la hét rầm rầm hội trường: - Đồng ý. Jormundur gật đầu: - Vậy thì với quyền lực của Hội-đồng Tiền-bối, chúng tôi trao những trách nhiệm và quyền hạn từng thuộc về cố thủ lãnh Ajihad cho người con duy nhất của người, tiểu thư Nasuada. Nhẹ đặt cái vòng nhỏ bằng bạc lên đầu Nasuada. Rồi nắm tay dìu cô đứng dậy, ông tuyên bố với đám đông: - Xin gửi đến tất cả: tân thủ lãnh của chúng ta. Tiếng hoan hô của người lùn và phe Varden kéo dài suốt mười phút. Ngay cả khi tiếng huyên náo lắng xuống, Sabrae ra hiệu cho Eragon, thì thầm: - Nào, giờ là lúc kỵ sĩ hoàn tất lời hứa rồi đó. Ngay giây phút đó mọi tiếng động dường như ngưng bặt, để nhường cho Eragon lên tiếng. Mọi e ngại cũng biến hết, nó lẳng lặng cùng Saphira tiến gần Nasuada và Jormundur. Mỗi bước chân như kéo dài vô tận, Eragon nhìn trừng trừng Sabrae, Ellssari, Umérth và Falberd: trên mặt họ thoáng nụ cười tự mãn, nhưng riêng Sabrae còn ẩn vẻ khinh thường. Đứng sau Hội-đồng Tiền-bối, Arya nhẹ gật đầu khuyến khích. Saphira bảo: “Chúng ta sắp làm đổi thay lịch sử đây” Eragon: “Chúng ta tự quăng mình xuống vực, mà chẳng hiểu vực sâu đến cỡ nào” Saphira: “A, nhưng… cuộc chiến này cũng vẻ vang lắm chứ.” Liếc nhìn vẻ mặt điềm tĩnh của Nasuada, Eragon cúi đầu quỳ gối. Rút thanh Zar’roc khỏi vỏ, nó đặt thanh kiếm nằm trên bàn tay, rồi nâng lên như sắp dâng cho Jormundur. Trong thoáng giây, thanh kiếm ngập ngừng giữa Jormundur và Nasuada. Eragon cảm thấy như nghẹn thở giữa hai bờ định mệnh: chỉ một chọn lựa đơn giản mà có thể dẫn đến sự quyết định của một cuộc đời. Không chỉ một cuộc đời, hơn vậy nữa, là sự sống còn của một con rồng, một ông vua và một đế quốc. Eragon hít không khí đầy lồng ngực, quay sang Nasuada: - Với tấm lòng quý trọng sâu đậm và sự thấu hiểu những khó khăn trở ngại và tiểu thư đang phải đối mặt… Tôi, Eragon, kỵ sĩ đầu tiên của Varden, Khắc-tinh của Tà-Thần, và đồng thời cũng là Bàn-tay-bạc, xin trao thanh kiếm này cùng sự trung thành của tôi vào tay tiểu thư Nasuada. Tất cả người Varden và người lùn sững sờ câm lặng. Mấy bộ mặt hí hởn, tự mãn, khinh khỉnh của các thành viên Hội-đồng thoắt biến thành giận dữ, bất lực. Những ánh nhìn hừng hực như trút nọc độc căm thù lên những kẻ phản bội. Chỉ mình Jormundur, sau thoáng ngỡ ngàng, dường như chấp nhận lời tuyên bố của Eragon với vẻ trầm tĩnh. Nasuada mỉm cười, cầm thanh Zar’roc, đặt mũi kiếm lên trán Eragon giống như lần trước: - Rất hân hạnh được kỵ sĩ ngỏ lời phục vụ ta. Kỵ sĩ rồng, ta chấp thuận, cũng như kỵ sĩ chấp thuận mọi trách nhiệm trong cương vị của kỵ sĩ. Hãy cầm kiếm và đứng dậy như một cận thần của ta. Khi Eragon và Saphira rời diễn đài, đám đông đứng bật dậy hoan hô. Người lùn nện giày đinh theo nhịp rầm rầm trên sàn. Các chiến binh Varden đập kiếm và khiên sắt vào nhau loảng xoảng. Trở lại giữa diễn đàn, Nasuada ngước mắt, rạng rỡ cười, nhìn toàn thể đám đông: - Các chiến hữu Varden! Tiếp bước phụ thân, tôi xin hứa sẽ hiến đời mình cho các bạn và chính nghĩa. Tôi nguyện chiến đấu cho đến khi toàn thắng quái thú Urgal, bạo chúa Galbatorix phải đền tội và đất nước Alagaesia sẽ lấy lại tự do. Và tôi muốn nói cùng các bạn, đã tới thời điểm để chúng ta bắt tay hành động. Sau bao lần liên miên đụng độ trong cuộc chiến tranh kéo dài – chúng ta đã vừa chiến thắng trận huy hoàng nhất ngay trong lòng Farthen Dur này. Đã đến lúc chúng ta chống trả. Sau tổn thất lớn lao vừa qua, triều đình bị suy kiệt. Vì vậy, tôi lập lại, đây là thời điểm để chúng ta hành động, sẽ không còn cơ hội nào tốt hơn thời điểm này để giành chiến thắng thêm lần nữa. Sau những phát biểu của đủ mọi thành phần - kể cả ý kiến của Falberd đầy vẻ hậm hực - hội trường bắt đầu chỉ còn thưa thớt vài người. Eragon vừa định bước ra về, Orik nắm tay nó kéo lại: - Eragon, cậu đã sắp đặt tất cả chuyện này từ trước, phải không? Eragon đắn đo một chút rồi gật đầu: - Đúng vậy. Ông lùn lắc đầu thở dài: - Một pha thật ngoạn mục, đầy dũng cảm. Chính cậu đã giúp cho Nasuada một địa vị vững mạnh để khởi sự. Tuy nhiên không kém phần nguy hiểm, nếu Hội-đồng Tiền-bối đưa ra những phản ứng yêu cầu phán quyết lại. Arya có được biết trước và chấp thuận vụ này không? - Arya đã đồng ý đó là chuyện cần làm. Orik chăm chú nhìn Eragon trầm ngâm: - Tôi cũng chắc vậy. Eragon, cậu vừa làm thay đổi sự cân bằng quyền lực. Vì chuyện đó, sẽ không còn ai có thể đánh giá thấp cậu được nữa. Nhưng hãy trận trọng. Hôm nay cậu đã tạo ra một số kẻ thù đầy sức mạnh đó. Vỗ mạnh vai Eragon, rồi Orik bước đi. Nhìn theo ông lùn, Saphira bảo Eragon: “Chúng ta sửa soạn đi khỏi Farthen Dur thôi. Chắc chắn Hội đồng đang khao khát trả thù anh em mình. Tránh xa họ càng sớm càng tốt.” Chiều tối hôm đó vừa đi tắm về, Eragon ngạc nhiên thấy một cô gái cao lớn đang chờ nó trong phòng. Cô ta có mái tóc đen, mắt xanh long lanh sáng và cái miệng đầy vẻ khiêu khích châm chọc. Quanh cổ tay cô là một vòng vàng hình dáng như một con rắn đang vươn cổ rít lên. Eragon hy vọng cô ta không đến để vấn kế nó, như đa số thành viên Varden. Cô gái yểu điệu cúi chào: - Xin chào Bàn-tay-bạc. Eragon cũng cúi đầu đáp lễ: - Tôi giúp gì được cô đây? - Hy vọng là có đấy. Tôi là Trianna, pháp sư của Du Vrangr Gata – Con-đường Lãng-du. - Một pháp sư? Thật vậy sao? - Một pháp sư, một thuật sĩ ngoài mặt trận và là một điệp viên. Nói chung là đủ thứ mà Varden cần thiết. Chúng tôi không đủ người có thể sử dụng phép thuật, nên mỗi chúng tôi phải kiêm nhiệm nhiều việc lắm. Cô ta mỉm cười khoe hàm răng trắng nõn: - Và… đó là lý do tôi tới đây hôm nay. Chúng tôi rất hân hạnh nếu được kỵ sĩ nhận lời làm chỉ huy nhóm của chúng tôi. Chỉ có kỵ sĩ mới có thể thay thế cặp sinh đôi. Gần như không nhận ra là mình đang cười rất tươi, vì cô gái này duyên dáng và thân thiện quá, Eragon không muốn từ chối lời đề nghị đó chút nào, nhưng cũng nói: - Tôi e rằng không thể, vì tôi và Saphira sắp rời Tronjheim. Hơn nữa, dù sao tôi cũng phải xin ý kiến của Nasuada trước. Nó nghĩ thêm: “Mình không muốn ràng buộc thêm vào những chuyện chính trị nữa… nhất là một nhóm người từng do cặp anh em sinh đôi chỉ huy.” Trianna nũng nịu cắn môi, tiến gần Eragon thêm một bước: - Nghe vậy em… buồn quá. Có lẽ mình nên gặp nhau một chút trước khi anh rời khỏi nơi này. Em có thể hướng dẫn anh cách chiêu dụ và sai khiến âm binh… Điều đó rất có ích cho cả hai ta. Mặt Eragon chợt nóng hổi: - Rất cám ơn, nhưng thật sự hiện giờ tôi đang rất bận. Mắt cô ta bừng lên giận dữ, rồi lập tức bình thường lại, đến nỗi Eragon tự hỏi mình có nhìn lầm không. Trianna nhẹ thở dài: - Em hiểu rồi. Vẻ tuyệt vọng của cô làm Eragon bứt rứt nhủ thầm: “Chuyện trò với cô ta vài phút thì có hại gì đâu.” Nó vội hỏi cô gái. - Tôi hơi tò mò một chút, cô đã học phép thuật thế nào? Trianna tươi hẳn lên: - Mẹ em là một bà lang ở Durda. Bà biết chút phép thuật, nên dạy lại cho em theo lối cổ. Tất nhiên là không thể so sánh với quyền lực cao cường của một kỵ sĩ rồng. Không có ai trong Con-đường Lãng-du có thể một mình hạ nổi Tà Thần Durza như anh. Quả là một hành động kiêu hùng. Bối rối, Eragon chỉ biết di di giày trên đất: - Nếu không có Arya thì tôi đã không thể sống sót được. - Anh quá khiêm tốn đấy, Bàn-tay-bạc ạ. Chính anh mới là người đâm mũi kiếm chí tử. Tuyệt chiêu đó xứng đáng so sánh với cố thủ lãnh kỵ sĩ Vardel. Cô ả nghiêng người về phía nó, mùi nước hoa nồng nàn làm tim nó đập rộn lên. - Anh có nghe những bài hát ca tụng anh chưa? Hằng đêm, quanh bếp lửa, người Varden vẫn hát vang những bài ca đó. Họ còn bảo, anh xuất hiện để giành ngai vàng của Galbatorix. Đó là thứ lời đồn Eragon không thể chấp nhận được. Nó vội nói ngay: - Không, có thể là những đồn đại của họ. Chẳng biết định mệnh sắp đặt thế nào, riêng tôi không ham muốn ngôi vị đó. - Anh tỏ ra rất khôn ngoan tỉnh táo. Vì thật ra, một ông vua là gì? Chỉ là một tù nhân của trăm ngàn trách nhiệm, đúng không? Đó chỉ là một phần thưởng nghèo nàn dành cho kỵ sĩ cuối cùng và con rồng của anh ta. Không, tài trí của anh là tự do bay bổng và làm những gì anh muốn. Nói rộng hơn là định hình một tương lai cho Alagaesia. Anh… còn gia đình trong nước không? - Còn một người anh họ thôi. - Vậy là anh chưa có… hôn thê? Câu hỏi làm nó cảnh giác, vì chưa ai hỏi nó như vậy bao giờ: - Chưa, tôi chưa đính hôn. - Nhưng… chắc anh cũng phải quan tâm đến ai rồi chứ? Trianna tiến sát hơn, những dải băng trên cánh tay áo ả chạm nhẹ lên cánh tay Eragon, làm nó luống cuống, run cả giọng: - Tôi không thân với ai ở Carvahall, vả lại tôi đã đi xa từ lâu… Trianna hơi ngả người ra sau, nâng cao cổ tay, để chiếc vòng hình con rắn ngang tầm mắt Eragon, hỏi: - Anh thích chú nhỏ này không? Eragon chớp mắt gật đầu, nhưng rõ ràng nó đang bị bối rối nhiều hơn. Ả lại thỏ thẻ: - Em gọi chú bé này là Lorga. Nó vừa là bạn vừa là vệ sĩ của em. Cúi xuống thổi lên cái vòng, ả thì thầm: - Sé orúm thornessa hávr sharjalví lífs. Với một tiếng xào xạc khô khan, con rắn rùng mình sống động. Eragon đờ đẫn trừng trừng nhìn cái vòng uốn éo trườn mình quanh cổ tay Trianna, rồi cái đầu rắn ngóc lên chiếu đôi mắt bằng hồng ngọc thẳng vào nó, trong khi cái lưỡi mảnh như sợi dây nhỏ luôn thè ra thụt vào. Hai mắt con rắn dường như cứ lồi ra mãi cho đến khi lớn bằng nắm tay của Eragon. Nó cảm thấy đang bị hút vào hai con mắt nóng như lửa đỏ đó; dù cố hết sức bình sinh Eragon vẫn không thể nhìn đi nơi khác được. Chỉ với một mệnh lệnh, con rắn thoắt trở lại nguyên hình chiếc vòng đeo tay. Trianna dựa tường thở dài một mỏi: - Ít người hiểu công việc của những pháp sư tụi em là gì. Nhưng anh nên biết rằng, chúng em luôn sẵn lòng giúp những người như anh khi có thể. Vô tình, Eragon đặt tay lên bàn tay Trianna. Chưa bao giờ nó có ý gần gũi mội người nữ như thế này. Như bị bản năng thôi thúc, Eragon hăng hái nói: - Nếu cô muốn, chúng ta cùng đi ăn. Có một phòng ăn không xa đây lắm đâu. Cô ả nhẹ rút bàn tay mát lạnh và mềm mại khỏi bàn tay Eragon. Những ngón tay thanh mảnh dịu dàng, khác hẳn những bàn tay chai ráp nó từng nắm trước đây. - Em rất thích. Chúng ta sẽ có thể… Trianna suýt ngã sấp mặt khi cánh cửa sau lưng bật mở. Nữ pháp sư quay ngoắt lại, vừa kịp đối diện với Saphira. Saphira đứng trơ trơ, chỉ nhếch mép để lộ ra hàng răng nhọn hoắt. Rồi nó gầm lên một tiếng. Tiếng gầm kỳ quái – vừa đe dọa vừa khinh thị - vang vọng khắp phòng, kéo dài cả phút. Trianna, mặt tái nhợt, hai tay xoắn vặn tà áo, vội vàng cúi chào Saphira rồi chạy khỏi phòng. Eragon trừng trừng nhìn Saphira trong khi cô em khổng lồ của nó tỉnh bơ đưa chân lên nhấm nháp mất cái móng, làm như chẳng có chuyện gì xảy ra. Không còn nhịn nổi, Eragon hét toáng lên: “Làm trò gì vậy? Tại sao xía vào chuyện của tôi?” Saphira vẫn tỉnh queo: “Anh cần em giúp mà.” “Giúp gì? Nếu cần tôi đã gọi.” Saphira nghiến hàm trèo trẹo, rồi quát lại: “Đừng la lối om xòm lên như thế chứ. Em không để anh bám theo đứa con gái bẩn thỉu đó đâu. Nó chỉ xoắn lấy Eragon, một Kỵ sĩ rồng, chứ không phải vì anh là một con người.” Eragon giận dữ đấm tay thình thịch lên tường, gào lên: “Im đi. Cô ấy không phải là một cô gái bẩn thỉu. Saphira, anh là một người đàn ông, không phải một thày tu khổ hạnh. Em không thể bắt anh… nhắm mát trước những cô gái, chỉ vì… chỉ vì chuyện anh là ai. Ít ra anh cũng có quyền chuyện trò vui vẻ với cô ta, bất cứ chuyện gì, ngoài chuyện về những thảm kịch chúng ta vừa trải qua. Em luôn ở trong đầu anh, sao không biết anh đang buồn khổ đến thế nào? Tại sao em có thể bắt anh chịu thiu thỉu một mình, không được chuyện trò cùng ai cho khuây khỏa?” Saphira tránh mắt Eragon, ngập ngừng bảo: “Anh không hiểu đâu.” “Không hiểu! Em định ngăn anh không bao giờ được có vợ con sao?” Cuối cùng Saphira nhướng con mắt to đùng nhìn thẳng Eragon: “Chúng ta đã liên kết chặt chẽ với nhau. Nếu anh theo đuổi một mối liên hệ nào, và trở nên… gắn bó với người đó thì… cảm giác của em sẽ có ảnh hưởng đến cả anh và em.” “Và ngược lại, nếu em ghét ai, anh cũng sẽ có cảm giác giống em?” Saphira lại nhấm nháp móng chân nhỏ nhẻ: “Có lẽ vậy.” Bây giờ đến lượt Eragon gầm gừ, nó lấy thanh Zar’roc, vượt qua mặt Saphira ra khỏi phòng. Lang thang khắp Tronjheim, Eragon cố tránh gặp bất cứ ai. Dù đau đớn, nhưng nó không thể phủ nhận sự thật trong những câu nói của Saphira. Trong tất cả mọi vấn đề hai đứa thường chia sẻ, thì đây là chuyện tế nhị, khó dẫn đến sự đồng ý nhất. Đêm đó - lần đầu tiên từ khi bị bắt tại Gil’ead – Eragon ngủ một mình trong doanh trại của người lùn. Sáng hôm sau gặp lại nhau, Eragon và Saphira đều tránh không nhắc lại vấn đề đó nữa. trong lúc Saphira đang xé cái chân nai trong bữa ăn trưa cùng Eragon thì cậu bé Jarsha xuất hiện. - Chuyện gì vậy? Nó tưởng các thành viên trong hội đồng cần gặp, vì từ sau đám tang nó chưa hề gặp lại họ. Chú nhóc lom lom nhìn Saphira cạp thịt nai còn dính trên xương, một lúc sau mới quay lại trả lời: - Thưa kỵ sĩ, tiểu thư Nasuada muốn gặp ngài. Tiểu thư đang ngồi chờ trong thư phòng của cố thủ lãnh Ajihad. Ngài! Eragon suýt phì cuời. Gần đây quá nhiều người gọi nó bằng ngài. Eragon quay hỏi Saphira: “Em xong chưa?” Eragon đứng dậy: - Jarsha, cậu có thể đi. Chúng tôi biết đường rồi. Lòng vòng trong lòng núi gần nửa tiếng Eragon và Saphira mới tới nơi. Thời Ajihad, cửa thư phòng cũng được canh gác, nhưng thay vì hai lính gác, cửa phòng của tân thủ lãnh có nguyên một tiểu đội chiến binh túc trực. Dù đã nhận ra Eragon và Saphira, sau khi có lệnh của Nasuada họ mới tách ra, nhường lối cho cả hai tiến vào. Eragon nhận ra ngay một sự thay đổi nhỏ: một bình hoa đặt trên bàn làm việc. Những bông hoa nho nhỏ màu tím hương thơm dịu dàng làm không khí trong phòng trở nên ấm cúng. Với Eragon, hương hoa còn gợi nó nhớ lại những ngày hái dâu, gặt lúa dưới năng hè. Hít sâu một hơi, Eragon thầm cảm phục sự tinh tế của Nasuada: vẫn mang dấu ấn của riêng cô, nhưng không làm phai mờ những kí ức về Ajihad. Vẫn trong bộ tang phục màu đen, Nasuada lên tiếng chào Eragon rồi nói tiếp: - Mấy ngày qua tôi đã kiểm tra lại tình hình thực tế của Varden. Không sáng sủa lắm, Eragon ạ. Chúng ta nghèo, tổ chức quá tải, trong đơn vị lại có mấy tên tân binh từng là lính của triều đình. Chúng ta phải sắp đặt lại. Người lùn không thể tại trợ mãi cho chúng ta. Chính họ cũng đang bị thiếu hụt lương thực, vì mùa màng thất bát. Tôi đang suy tính chuyện này: di chuyển lực lượng Varden tới Surda. Đó là một vấn đề khá gay go, nhưng tôi tin đó là sự cần thiết để chúng ta được an toàn. Khi tới được Surda là chúng ta đã gần tới mục tiêu: tấn công trực tiếp vào đế quốc của Galbatorix. Eragon thật sự ngỡ ngàng: - Khó khăn lắm. Mấy tháng trời chưa chắc đã chuyển hết đồ đạc tới Surda, chưa kể tới người. Ngoài ra, còn chuyện bị tấn công dọc đường. Hơn nữa, theo tôi, vua Orrin chưa dám công khai đối đầu với Galbatorix đâu. Nasuada mỉm cười; - Sau chiến thắng của chúng ta với đoàn quân Urgal, quan điểm của ông ta đã thay đổi rồi. Nhà vua sẽ đồng ý cho chúng ta tá túc và còn tiếp tế, chiến đấu bên ta nữa. Hiện nay, cũng đã có nhiều người Varden ở Surda. Đa số là trẻ con đàn bà không thể tác chiến, tuy nhiên, họ cũng có thể tiếp tế, nếu không tôi sẽ khai trừ ra khỏi tổ chức. - Bằng cách nào cô đã liên lạc với vua Orrin mau lẹ vậy? - Người lùn sử dụng một hệ thống gương và đèn, chuyển tin tức thông qua các đường hầm. Họ có thể chuyển một thông điệp từ đây tới phía tây của rặng núi Beor không tới một ngày. Sau đó, người đưa thư sẽ chuyển tiếp tới Aberon, thủ đô của Surda. Tuy nhiên, qua vụ Galbatorix bất ngờ đổ quân Urgal tấn công, gần một ngày sau bên ta mới phát hiện được, thì phương pháp truyền tin đó vẫn còn quá chậm. Tôi dự tính tìm một phương pháp hữu hiệu hơn nhiều, xuyên qua những pháp sư của đức vua Hrothgar và nhóm Du Vrangr Gata – Con-đường Lãng-du. Mở ngăn kéo bàn, lấy ra một cuộn giấy, Nasuada nói: - Varden sẽ khởi hành từ Farthen Dur trong vòng một tháng. Vua Hrothgar đã đồng ý cung cấp cho chúng ta lối đi an toàn xuyên hầm. Hơn thế nữa, nhà vua còn cử một lực lượng tới Orthíad để truy quét tàn quân Urgal, đồng thời khóa kín những cửa địa đạo khác, hầu ngăn chặn, không để kẻ nào có thể xâm nhập lãnh địa người lùn bằng những ngả đường đó nữa. Vì tất cả những việc này vẫn chưa đủ đảm bảo cho sự sống còn của Varden, nên… tôi muốn xin Kỵ sĩ một đặc ân. - Tôi sẵn sàng đợi lệnh. Nasuada thoáng nhìn Saphira: - Đây không phải là lệnh. Tôi nói rồi, một đặc ân, suy nghĩ kỹ rồi hãy trả lời. Tôi… Để giúp tập trung mọi sức mạnh ủng hộ Varden, tôi sẽ phổ biến rộng rãi khắp vương quốc nguồn tin: một Kỵ sĩ rồng mới xuất hiện, có thể là Eragon-Khắc-Tinh-của-Tà Thần và con rồng của anh ta, Saphira, đã tham gia chính nghĩa cùng chúng tôi. Tuy nhiên, trước khi làm điều đó, tôi mong được phép của anh, Eragon. Saphira phản đối ngay: “Điều đó quá nguy hiểm!” Eragon lý luận: “Trước sau gì tin chúng ta có mặt tại đây cũng tới tai triều đình. Varden cần phô trương thanh thế về cái chết cảu tà thân Durza. Vì vậy, dù chúng ta đồng ý hay không, chuyện đó cũng xảy ra. Thôi, đồng ý cho êm đẹp.” “Em rất ngại Galbatorix. Cho đến bây giờ chúng ta vẫn chưa công khai cảm tình với phe nào.” “Hành động của chúng ta quá rõ ràng rồi.” “Đúng, nhưng anh quên sao, ngay cả khi chiến đấu với anh trong Tronjheim, tà thần Durza cũng không cố tình giết anh. Nếu chúng ta công khai vị thế của mình với triều đình, Galbatorix sẽ không còn quá rộng lượng với anh như thế nữa đâu. Làm sao biết được sức mạnh và những mưu ma chước quỷ của lão, bằng mọi giá phải thu phục được chúng ta. Cứ lửng lơ con cá vàng, lão còn để ta yên.” “Thời gian mập mờ đó đã qua rồi. Chúng ta đánh đuổi Urgal, giết chết tà thần, và anh đã tuyên thệ trung thành với thủ lãnh Varden. Nào, cho phép đi, để anh trả lời chấp nhận đề nghị của Nasuada.” Im lặng rất lâu, Saphira mới gật đầu bảo: “Tùy anh.” Eragon đặt tay lên Saphira, quay lại nói với Nasuada: - Nếu đó là cách tốt nhất để làm tăng sức mạnh của Varden, tiểu thư cứ cho tiến hành. - Cảm ơn Eragon. Tôi biết là mình đã đòi hỏi quá nhiều. Bây giờ, như chúng ta đã theo rluận trước tang lễ, tôi mong anh lên đường tới Ellesméra để hoàn tất việc huấn luyện. - Đi cùng Arya? - Tất nhiên. Thần tiên đã từ chối liên hệ với cả loài người và người lùn từ khi Arya bị bắt. Arya là người duy nhất có thể thuyết phục họ xuất hiện trở lại. - Arya không thể sử dụng phép thuật báo cho họ biết công việc cô ấy đang theo đuổi sao? - Rất tiếc là không thể. Sau sự sụp đổ của thời đại Kỵ sĩ, thần tiên rút vào Du Weldenvarden và thiết lập một hệ thống kỳ bí, ngăn chặn từ tư tưởng, tin tức cho đến mọi sinh vật đều không thể lọt qua. Đó là theo lời Arya đã cho tôi biết. Vì vậy Arya phải đích thân tới Du Weldenvarden để nữ hoàng Islanzadí biết cô ta còn sống, biết về anh và Saphira, cũng như những sự kiện xảy ra cho Varden những tháng vừa qua. Trao cho Eragon cuộn giấy được niêm phong một dấu ấn bằng sáp, Nasuada nói: - Trong thư này tôi trình lên nữ hoành tình hình cuả Varden và những kế hoạch của riêng tôi. Hãy bảo vệ thư này dù bằng tính mạng, vì nếu để lọt vào tay kẻ khác sẽ tai hại khó lường. Hy vọng sau tất cả những gì đã xảy ra, nữ hoàng sẽ vui lòng nối lại bang giao với chúng ta. Sự hỗ trợ của bà rất có ý nghĩa trong việc thành bại của Varden. Arya biết điều đó và đã hứa sẽ thúc đẩy cho công việc được tốt đẹp. Tôi muốn anh nắm rõ tình hình, để kịp hành xử khi có cơ hội. Eragon nhét cuộn giấy vào trong tấm áo nịt bằng da, hỏi: - Chừng nào chúng tôi đi? - Sáng mai… nếu anh còn chương trình gì khác, thì… - Không. Chúng tôi sẵn sàng. - Tốt. Anh cũng nên biết, còn một người nữa đi cùng… Nhà vua Hrothgar cho rằng, để thật sự công bằng, thì phải có đại diện của người lùn chứng kiến việc huấn luyện của anh, vì công việc đó cũng có ảnh hưởng tới họ. Do đó, nhà vua đã phái Orik cùng đi. Phản ứng đầu tiên của Eragon là áy náy: Saphira có thể tải nổi ba người trên đôi vai của nó không? Nó biết nhà vua rất khôn ngoan trong yêu cầu này. Điều quan trọng với Eragon và Saphira là phải giữ thái độ dung hòa giữa các phe phái khác nhau. Nó mỉm cười: - A, chúng ta phải chiều theo ý nhà vua thôi, dù chuyến đi sẽ bị chậm hơn. Thật ra, tôi rất vui khi có ông Orik làm bạn đồng hành. Vượt qua Alagaesia với một mình Arya cũng… hơi ớn. Cô ấy… - Cô ấy khác thường? Nasuada cười hỏi. Nhưng Eragon nghiêm mặt đổi đề tài: - Cô thật sự tính tấn công vào đế quốc? Trong khi lại cho rằng Varden đang gặp khó khăn? Tại sao chúng ta không đợi… - Nếu chúng ta chờ đợi, chỉ làm cho Galbatorix mạnh thêm. Đây là lần đầu, từ sau khi phản đồ Morzan bị giết, chúng ta mới có chút cơ hội tấn công khi lão chưa kịp trở tay. Lão không ngờ chúng ta có thể đẩy lui Urgal - điều này chúng tôi rất nhớ công ơn của anh – vì vậy – lão sẽ hoàn toàn bị bất ngờ khi chúng ta tiến chiếm vương quốc. “Xâm lăng vương quốc?” Saphira kêu lên “Giết Galbatorix bằng cách nào đây? Cô ta quên là tên bạo chúa có thể bay vù vù đi tiêu diệt kẻ thù bằng phép thuật sao?” Nghe Eragon nói lại ý Saphira, Nasuada lắc đầu: - Từ những gì chúng tôi đã tìm hiểu về Galbatorix, thì lão sẽ không ra tay nếu thủ đô Uru’baen của lão chưa bị đe dọa. Nếu chúng ta tàn phá cả nửa vương quốc, đối với lão vẫn chưa là vấn đề gì. Việc gì lão phải bận tâm? Lão đợi chúng ta tiến gần, đụng tới lão, lão sẽ ra tay bóp nát quân ta một cách dễ dàng hơn nhiều. - Cô vẫn chưa trả lời câu hỏi của Saphira, giết Galbatorix cách nào? - Vì tôi chưa thể nói lúc này. Đây sẽ là một chiến dịch vận động lâu dài. Cuối chiến dịch, chúng ta có thể đủ mạnh để đánh bại Galbatorix, hoặc thần tiên sẽ tham gia cùng chúng ta. Những pháp sư của họ là những tay pháp thuật cao cường nhất Alagaesia. Dù sao chúng ta không thể trì hoãn nữa. Đây là thời điểm chúng ta phải mạo hiểm xông vào những việc mà không kẻ nào ngờ ta dám làm. Varden đã ẩn mình trong bóng tối quá lâu rồi. Chỉ còn một con đường: thách đấu với Galbatorix hay khuất phục và chịu chết. Những ý kiến của Nasuada làm Eragon lo lắng. Quá mạo hiểm, chẳng khác nào lăn vào một cuộc phiêu lưu đầy rẫy những hiểm nguy rình rập. Tuy nhiên, địa vị nó không thể quyết định và nó đành chấp nhận. Eragon nới với Saphira: “Chúng ta phải tin tưởng vào những phán đoán của cô ta lúc này.” Rồi nó nói với Nasuada: - Còn cô thì sao, Nasuada? Cô có được an toàn sau khi chúng tôi đi không? Tôi đã tuyên thệ, trách nhiệm của tôi là phải bảo đảm an toàn cho cô. Miệng mím chặt, Nasuada chỉ tay ra phía những chiến binh ngoài cửa: - Anh đừng lo; tôi được bảo vệ rất an toàn. Nhưng tôi phải thú nhận một điều, lý do chuyển đến Surda là vì vua Orrin biết tôi từ lâu và ông ta sẽ sẵn lòng che chở cho tôi. Tôi không thể ngồi chờ tại đây khi anh và Arya vắng mặt trong khi Hội-đồng Tiền-bối vẫn còn nhiều quyền lực. Họ sẽ không chấp nhận tôi là lãnh đạo của họ thật sự, cho đến khi tôi chứng tỏ một cách thuyết phục: Varden thuộc quyền điều hành của tôi, không phải họ. Rồi gom hết sức lực, Nasuada ngồi thẳng, cằm ngẩng cao, trông cô dường như xa cách hẳn mọi người: - Giờ thì đi đi, Kỵ sĩ Eragon. Hãy sẵn sàng lương thực và ngựa. Rạng sáng phải có mặt tại cửa bắc thành. Eragon cúi đầu chào, rồi cùng Saphira lui ra. Sau bữa ăn tôi, Eragon bay cùng Saphira. Từ trên cao nhìn xuống thành phố Tronjheim, những mảnh băng đóng chung quanh vách núi Farthen Dur, trông như một dải băng trẳng khổng lồ. Đêm chưa xuống, nhưng trong lòng núi đã tối om om. Eragon ngửa mặt đón làn không khí mát lạnh. Nó nhớ gió - những cơn gió rào rào qua cỏ rối, xô đẩy những đám mây. Nó nhớ những ngọn gió đem mưa bão tới, kép rạp những thân cây. Eragon thầm nhủ: “Mình cũng nhớ cây cối nữa. Farthen Dur kỳ ảo thật, nhưng không một bóng cây một con vật, nó trống vắng như ngôi nhà mồ của ông Ajihad vậy.” Saphira đồng ý ngay: “Hình như người lùn cho rằng đá quý có thể thay thế được cỏ hoa. Thôi, muộn rồi, chúng mình về nhé.” Nó liệng vòng trên Tronjheim rực sáng như ngọn đèn pha giữa trung tâm Farthen Dur. Bỗng Saphira quay đầu nhìn lại, bảo: “Trông kìa”. Eragon nhìn theo hướng mắt Saphira: “Cái gì?” Saphira lẳng lặng đảo cánh, hướng về bên trái, rồi từ từ bay thấp xuống một trong bốn con đường nằm theo trục đông tay nam bắc. Khi Saphira hạ cánh, Eragon thấy một dải vải trắng trên gò đất gần đó. Miếng vải phất phơ một cách kỳ lạ, như ngọn nến bập bùng cháy, rồi thoắt hiện hình thành bà phù thủy Angela trong cái áo choàng trắng. Angela xách một cái giỏ đan bằng nhánh dương liễu, chất đầy ụ đủ thứ nấm rừng. Khi bà phù thủy lại gần, Eragon hỏi: - Bà đang hái nấm cóc phải không? Vừa cười lớn, Angela vừa đặt cái giỏ xuống đất, nhặt lên từng cánh nấm: - Chào. Ồ, không đâu. Nấm cóc quá bình thường. Nhưng đừng gọi là nấm cóc, thật sự tên chúng là nấm ếch. Còn đây là nấm lưu huỳnh, cái này là nấm bình mực, đây là mũ hải quân, nấm này là nhẫn máu… Chỉ một tai nấm với những khía màu hồng, vàng, xanh nhạt, bà giới thiệu: - Đây là gã đại bịp. Tuyệt vời hả? Chỉ một cái nấm cuống xanh, vạch vàng cam, chóp đen, Eragon hỏi: - Còn gã này? Angela nhìn tai nấm đầy trìu mến: - Người lùn gọi nó là Fricai Andlát. Cuống nấm có thể gây tử vong cấp kỳ, nhưng tai nấm lại là thuốc giải được nhiều chất độc. Fricai Andlát chỉ mọc trong các hang hốc tại Du Weldenvarden và Farthen Dur. Tại đây, Fricai Andlát sẽ chết ngay, nếu người lùn chuyển phân gia súc tới nơi khác. Eragon quay nhìn lại cái gò, lúc đó nó mới nhận ra đó là một ụ phân gia súc. Angela tiến lại vỗ nhẹ mũi Saphira: - Sao, khỏe không Saphira? Ả rồng điệu đàng chớp mắt, vui mừng ve vẩy đuôi. Ngay lúc đó Solembum nhảy ra, miệng ngậm chặt một con chuột. Chẳng thèm để ý tới ai, con ma mèo say mê đánh chén con mồi. Angela vén mái tóc bù xù, hỏi: - Vậy là cháu sắp đi Ellesméra? Eragon gật. Không cần hỏi, nó cũng đã biết hầu như không chuyện gì qua mắt được bà phù thủy này. Thấy nó im lặng, Angela lèm bèm: - Nào, đừng rầu rĩ như đưa đám vậy chứ. Đó là một nhiệm vụ phải thi hành, đúng không? - Cháu hiểu. - Vậy thì tươi lên. Trông cháu mềm nhũn như con chuột chết của Solembum vậy. Mềm nhũn! Ta dùng từ chính xác tuyệt vời quá hả? Đồng ý không? Rất may tình cờ gặp cháu tối nay, vì cháu sửa soạn đi, còn ta sẽ tháp tùng Varden để cùng tới Surda. Như đã từng nói, ta rất thích chứng kiến những sự kiện xảy ra, và… Surda chính là nơi đó. Bà nhún vai, nghiêm giọng tiếp: - Phải thận trọng khi ở Du Weldenvarden. Hãy nhớ rằng, thần tiên không để lộ xúc cảm, không có nghĩa họ không biết căm phẫn giận hờn như loài người chúng ta đâu. Điều nguy hiểm nhất, chính là họ che dấu những cảm xúc đó thậm chí hàng nhiều năm trời. - Bà đã từng đến đó? - Một lần, nhưng đã lâu lắm rồi. - Bà nghĩ sao về kế hoạch của Nasuada? - Mệnh số cô ta u ám khắt khe lắm. Cháu cũng vậy. Tất cả bọn họ cũng vậy, u ám quá! Tuy nhiên ta không rõ chuyện gì sẽ xảy ra. Chắc ta sẽ không gặp lại cháu cho đến lúc cháu đi, vậy chúc cháu gặp nhiều may mắn. Hãy tránh xa phiền muộn, lạc quan mà sống. Ma mèo tha con mồi ăn dở phóng theo bước chân bà phù thủy. Eragon đứng lại, ngẩn ngơ chớp mát, chẳng hiểu bà ta định nói gì. Khi Eragon và Saphira tới cổng bắc Tronjheim, trời đã rạng sáng. Cổng nặng nề kéo lên đủ để Saphira qua lọt, vì vậy tất cả đều vội vàng ra theo rồi đứng chờ trong một cái hang rộng với những trụ vân thạch và những hình quái thú được khắc giữa những bệ đá. Xa xa, hai con linh sư bằng vàng oai vệ ngồi gác hai bên cổng của thành phố ngầm Tronjheim. Eragon nắm chặt dây cương Hỏa Tuyết. Con tuấn mã đã được chải chuốt, đóng yên và hai bên yên là những bao căng đầy lương thực. Cả tuần nay, không được Eragon cưỡi, con ngựa bồn chồn liên tục cào móng trên mặt đất. Một lúc sau mới thấy ông lùn Orik xuất hiện, một ba lô lớn sau lưng, tay ôm một bọc to đùng. Eragon ngạc nhiên lên tiếng hỏi: - Ngựa đâu? Chẳng lẽ chúng ta phải cuốc bộ suốt từ đây tới Du Weldenvarden? - Chúng ta sẽ ngừng lại Tarnag, gần đây thôi. Từ đó, sẽ dùng bè xuôi. Az Rangi tới Hedarth, một tiền trạm mua bán trao đổi hàng hóa với thần tiên. Vì vậy sẽ không cần ngựa. Tôi đi bộ được mà. Orik quăng gói đồ xuống đất làm vang lên những tiếng kêu lẻng xẻng. ông mở gói để lộ ra bộ giáp của Eragon. Cái khiên đã được sơn lại, làm nổi bật hình khắc cây sồi ngay chính giữa. Chiếc áo đan bằng thép bóng lộn, không còn chút dấu rách do Tà Thần Durza gây ra khi chém vào lưng Eragon. Mũ vải, mũ sắt, bao tay, xà cạp đều đã được tân trang như mới. Ông lùn nói với Saphira: - Saphira, bộ giáp của mi cũng đã được tân trang. Nhưng chúng ta không thể mang theo trong chuyến đi này, nên đã gửi lại, nhờ những người Varden bảo quản. “Cám ơn ông ta dùm em đi.” Eragon chuyển lời cảm ơn của Saphira tới Orik, rồi đeo găng, bó xà cạp và cất những thứ khác vào ba lô. Nó với tay đỡ cái mũ sắt ông lùn vẫn đang ôm khư khư, nhưng Orik xoay xoay cái mũ trên hai tay, bảo: - Đừng vội, Eragon. Còn một việc cậu phải làm trước đã. - Việc gì vậy? Nâng cái mũ sắt lên, Orik mở khung che mặt bằng thép. Lúc này Eragon mới nhận ra sự thay đổi của chiếc mũ nó từng đội: khắc sâu trên mặt thép là dấu Ingeitum, dấu hiệu bộ tộc của vua Hrothgar và Orik: Cây búa và những ngôi sao. Giọng Orik đầy trịnh trọng: - Tặng vật này chứng tỏ tình thân hữu của đức vua Hrothgar đối với Kỵ sĩ, đồng thời tặng vật này cũng để biểu tỏ lời chuẩn y từ nay Kỵ sĩ là một thành viên của hoàng tộc. Eragon sững người nhìn món quà của nhà vua. “Điều này phải chăng có nghĩa là từ nay mình trở thành một quần thần dưới quyền sai khiến của ông ta? Phải chăng bắt đầu từ bây giờ mình phải hoàn toàn trung thành và phục tùng mệnh lệnh của triều đình Hrothgar?” Saphira góp ý: “Tốt nhất là anh đừng đội cái mũ đó.” “Như vậy là bất kính với nhà vua sao? Chúng ta lại bị kẹt rồi.” “Có thể chỉ là một quà tặng, một otho - dấu hiệu tin tưởng thôi. Em đoán ông ta cám ơn chúng ta vì đã tái tạo Isidar Mithrim.” “Đúng. Nhưng anh nghĩ chuyện này cũng để lấy lại thế cân bằng quyền lực, sau khi anh tuyên thệ trung thành với Nasuada. Người lùn không vui gì khi những sự kiễn xoay chiều như vậy.” Eragon quay lại Orik đang nóng lòng chờ đợi, hỏi: - Chuyện như thế này có thường xảy ra không? - Với loài người? Không bao giờ. Nhà vua đã phải tranh luận với hoàng tộc suốt một ngày đêm mới đạt được kết quả này. Nếu cậu ưng thuận mang huy hiệu này của chúng tôi, cậu sẽ có đầy đủ quyền lợi như mọi thành viên trong bộ tộc. Được tham dự và lên tiếng trong các buổi hội họp. Và… nếu muốn, khi qua đời, cậu sẽ được quyền an táng bên những người quá cố của chúng tôi. Lần đầu tiên Eragon thật sự xúc động vì cử chỉ hào phóng của nhà vua. Vì chưa bao giờ người lùn ban vinh dự lớn lao đó cho một con người. Nâng mũ đặt lên đầu, Eragon nói: - Tôi vinh hạnh nhận ân sủng này của Đức Vua. - Vậy hãy cầm lấy Knurlnien – Trái tim của đá – này. Nắm tay lại, phải, như vậy đó. Hãy cắt mạch máu, làm thấm viên đá với vài giọt máu của cậu.. Xong rồi. Bây giờ đọc theo tôi: Os il domqirânu carn dur thargen, zetmen, oen grimst vor formv edaris rakskilfz Narho is belgond… Đó là bài thơ rất dài, càng dài hơn vì Orik vừa đọc vừa dịch từng đoạn. Sau cùng Eragon niệm thần chú làm lành vết cắt. Orik tươi tỉnh nói: - Từ nay cậu sẽ được toàn thể các bộ tộc kính nể. Ha! Bây giờ chúng ta cùng bộ tộc rồi, cậu là anh em kết nghĩa của tôi. Đúng ra, đích thân nhà vua trao món quà này cho cậu trọng một buổi lễ long trọng, để kỷ niệm ngày cậu trở thành một hoàng thân quốc thích. Nhưng mọi sự kiện xảy ra nhanh quá, chúng ta không còn đủ thời gian. Tuy nhiên, khi nào cậu và Saphira trở lại Farthen Dur, chắc chắn sẽ có tiệc mừng địa vị mới này của cậu. - Tôi rất mong tới ngày đó. Eragon vẫn chưa hiểu hết những mối dây liên hệ quá nhiều của những chi phái trong hoàng tộc. Dựa lưng vào một trụ đá, Orik xoay xoay cây rìu trong tay, nhìn về Tronjheim nói: - Giờ này vẫn chưa thấy ai! Arya bảo cô ta sẽ đến ngay. Vậy mà… Hừ, thần tiên luôn luôn trễ hẹn. Eragon hỏi: - Ông có thường giao dịch với họ không? - Eta. Chỉ một mình Arya thôi. Mà cũng không thường xuyên, vì cô luôn phải đi xa. Trong bảy thập kỷ, tôi học được một điều: đừng bao giờ thúc giục một thần tiên. Càng cố gắng hối thúc, càng đập búa lên dũa, chỉ làm gãy chứ không cong. - Người lùn không giống vậy sao? - A, người lùn là đá. Nếu kiên trì, đá sẽ đổi thay được chứ. Lắc đầu thở dài, Orik tiếp: - Trong tất cả các loài, thần tiên ít thay đổi nhất. Đó là lý do tôi rất ngại khi phải đi chuyến này. - Nhưng chúng ta cần phải gặp nữ hoàng Islanzadi và biết đâu còn bao nhiêu chuyện khác đang chờ nữa? Chúng ta cũng được thăm phong cảnh Ellesméra. - Phong cảnh thì quan trọng gì. Trong khi còn bao chuyện như dầu sôi lửa bỏng ở Tronjheim và các thành phố khác, vậy mà tôi chỉ có việc ăn cho mập ú, ngồi xem cậu tập luyện. Mà ít ỏi gì, cũng phải mất cả năm! “Cả năm! Nhưng không sao, nếu cần thiết như vậy để có thể hạ những tà thân và tụi Ra’zac, mình vẫn sẵn sàng.” Eragon thầm nghĩ. Saphira nhận xét: “Không tới cả năm đâu. Em nghĩ, Nasuada chỉ để anh em mình ở lại Ellesméra nhiều nhất là mấy tháng thôi. Như những gì cô ấy đã nói với chúng mình, họ rất cần chúng ta về sớm.” Orik bỗng đứng bật dậy: - Cuối cùng thì họ cũng tới rồi. Nasuada đi đầu, rồi tới Jormundur. Sau cùng là Arya đeo một ba lô giống như Orik. Cô mặc cái áo choàng bằng da đen và đeo thanh kiếm như lần đầu Eragon gặp cô. Tới lúc này Eragon mới giật mình: rất có thể Arya và Nasuada sẽ không chấp nhận chuyện nó trở thành một nhân vật trọng hoàng tộc. Đáng lẽ nó nên hỏi ý Nasuada trước. Còn Arya? Eragon rùng mình nhớ lại cơn giận dữ của nàng ngay sau lần đầu nó dự buổi họp với Hội-đồng Tiền-bối. Nasuada ngừng lại bên Eragon, nó e ngại tránh ánh mắt cô. Nhưng Nasuada chỉ nói nhẹ nhàng: - Anh đã được chấp thuận. Bây giờ thì người lùn có thể tuyên bố, anh phải phụng mạng vì là một thành viên trong hoàng tộc. Thần tiên sẽ huấn luyện - ảnh hưởng của họ có thể là mạnh nhất, vì cả anh và Saphira đều bị ràng buộc với phép thuật của họ - và… anh đã tuyên thệ trung thành với tôi, một con người. Có lẽ, tốt nhất là chúng tôi chia sẻ lòng trung thành của anh. Trước sự ngỡ ngàng của Eragon, Nasuada mỉm cười ấn vào tay nó một túi nhỏ tiền kim loại, rồi đứng sang một bên. Eragon hơi ngạc nhiên khi Jormundur tiến lên đưa tay bắt: - Eragon, chúc đi đường bằng an. Bảo trọng. Arya bước qua mọi người, tiến vào vùng tối trong lòng núi: - Đi thôi, trời sắp sáng rồi, mà đường còn xa lắm. Orik lấy từ ba lô ra một cây đèn đỏ, sửa soạn lên đường. Nasuada nhìn tất cả, nói: - Cá nhân tôi và toàn thể Varden cầu chúc mọi người đi đường bằng an. Eragon và Saphira, đừng quên gánh nặng mong mỏi và hy vọng của chúng tôi, hãy chu toàn trách nhiệm trong danh dự. Eragon hứa: - Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức mình. Giật cương Hỏa Tuyết, Eragon đi theo Arya. Tiếp theo là Orik, rồi tới Saphira. Eragon thấy khi Saphira đi qua Nasuada, nó nhẹ liếm má cô, rồi mới sải chân bước theo mọi người. Sau cùng, khi tới sát chân núi Farthen Dur, mọi người thấy hai cánh cửa khổng lồ, cao mười mét, đã mở sẵn chờ đợi họ. Ba lính gác người lùn cúi đầu chào, rồi dạt sang hai nên. Qua khỏi hai cánh cửa là một đường hầm với hai hàng cột treo đèn, kéo dài mười lăm mét đầu. Qua khỏi vùng sáng đó là bước vào khoảng vắng lặng, im lìm như vào một nhà mồ. Nơi này giống hệt lối vào bên cổng tây, nhưng Eragon biết đường hầm này khác hẳn. Thay vì được đào xuyên qua chiều dày một dặm dưới chân núi, rồi thoát ra ngoài, đường hầm này tiếp tục xuyên từ núi này sang núi khác, cho tới tận thành phố Tarnag của người lùn. Orik nâng cao ngọn đèn: - Lối này. Arya bước theo Orik qua ngưỡng địa đạo, nhưng Eragon chợt lưỡng lự dừng lại. Nó không sợ bóng tối, cũng chẳng thích thú gì bị bao phủ bởi màn đêm triền miên cho tới khi đến được Tarnag. Nhưng ngay khi bước vào địa đạo âm u này, là một lần nữa Eragon tự quăng mình vào những điều hoàn toàn xa lạ, bỏ lại những gì nó đã bắt đầu quen thuộc giữa những người Varden, để đổi lấy một định mệnh mịt mù chẳng biết ra sao. Saphira hỏi: “Chuyện gì vậy?” “Không có gì hết.” Eragon thở dài tiến bước, mặc cho lòng núi đen ngòm nuốt nó vào vùng sâu thăm thẳm. Ngày thứ ba, kể từ khi đám lính và Ra’zac tới vùng này, Roran bồn chồn tới lui, luẩn quẩn quanh nơi trú ẩn trên núi Spine. Sau lần Albriech lên thăm, Roran không nhận thêm được thông tin nào nữa. Quan sát xuống Carvahall và khu lều trại của đám lính, anh cũng chẳng thể biết được chuyện gì đang xảy ra. Buổi trưa Roran vừa ăn chút lương khô vừa tự nhủ: “Chúng có thể chờ đợi được bao lâu? Nếu đây là một cuộc thi gàn, mình quyết không chịu thua.” Để qua ngày giờ, Roran tập bắn cung, mục tiêu là một thân cây mục, rồi lại bước tới lui trên đoạn đường mòn từ một tảng đá tới chỗ ngủ. Chợt nghe tiếng động, Roran chộp mũi tên, ẩn mình nghe ngóng, thấy hình ảnh Baldor đang nhấp nhô tiến tới, Roran thở phào, vẫy tay. Ngồi bên nhau, Roran hỏi bạn: Mấy hôm nay sao không có ai lên đây? Baldor lau mồ hôi trán: - Không đi được. Tụi lính bám sát dữ lắm. Có dịp là mình vọt lên đây ngay, nhưng không ở lại lâu được đâu. Ngước nhìn lên đỉnh núi, Baldor rùng mình: - Cậu gan thật, mình không đợi nào dám qua đêm ở đây. Sao, có bị thú dữ rình rập, tấn công không? - Ổn cả, không có gì hết. Nghe ngóng gì được từ tụi lính không? - Tối qua, một thằng khoe với chú Morn, tiểu đội nó được tuyển chọn rất kỹ để làm công tác này. Tụi nó quậy dữ lắm. Đêm nào cũng có mấy thằng xỉn, quậy tưng luôn. Ngay hôm đầu tiên, đã có mấy thằng đập tanh bành căn phòng của chú Morn. - Chúng nó có bồi thường không? - Đừng có mơ. Roran nhướn mình nhìn xuống làng: - Mình vẫn không thể hiểu vì sao, triều đình lại phải gởi quân đến tận nơi xa xôi hẻo lánh này chỉ để bắt mình? Họ cần gì? Mình có gì đâu? - Không biết kẻ nào ton hót, tụi lính biết cậu và Katrina thân nhau, vì vậy hôm qua hai tên Ra’zac đã cật vấn cô ấy. Chúng hỏi Katrina có biết cậu đi đâu không. Roran hốt hoảng nói: - Cô ấy có sao không? - Không. Katrina rất bình tĩnh. Baldor trả lời rồi ngập ngừng nói: - Có lẽ… cậu phải ra mặt thôi. - Cái gì? Roran đứng bật dây, bước mạnh chân trên con đường mòn nhỏ hẹp: - Cậu quên là chúng đá tra khảo cha mình tới chết thế nào ư? Cậu muốn mình chui đầu vào rõ của chúng sao? Nắm cánh tay Roran, Baldor bảo: - Nhưng nếu cậu cứ tiếp tục trốn ở đây, và chúng không chịu bỏ cuộc, không đi khỏi làng thì sao? Chúng sẽ cho rằng dân làng nói dối, che đậy cho cậu thì sao? Triều đình sẽ không đời nào tha tội cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ bị kết tội phản nghịch. Roran gạt tay Baldor, ngồi phịch xuống. “Nếu mình không xuất hiện, Ra’zac sẽ trút tội lên những người trong tầm tay chúng. Nếu mình không tìm cách dụ chúng ra khỏi làng thì…” Nhưng Roran không lanh lợi, khéo léo như Eragon để có thể luồn lách, đánh lừa được ba mươi tên lính và hai tên Ra’zac kia. Roran nhìn Baldor, nói: - Mình không muốn bất kỳ ai bị hại vì mình. Nhưng trước mắt hãy thử chờ, nếu chúng không còn kiên nhẫn nổi và đe dọa dân làng… mình sẽ tính… - Tình hình khắp làng rối ren lắm rồi. Baldor trở về ngay sau đó. Còn lại một mình, Roran tiếp tục lui tới quanh chỗ ngủ không biết bao nhiêu lần. Vầng trăng lưỡi liềm vừa nhú trên trời đêm, Roran thấy một đám huyên náo dưới làng. Những ánh đèn lồng nhấp nhô ẩn hiện sau những ngôi nhà. Những đốm vàng tụ tập giữa làng như bầy đom đóm, rồi để về đầu làng, nơi sáng trưng hàng đuốc trong trại của đám lính. Suốt hai tiếng, Roran thấy hai phe đối diện nhau. Những ánh đèn leo lét dường như bất lực trước những ngọn đuốc ngùn ngụt cháy. Sau cùng, đám đông với những ngọn đèn lồng phân tán và trở về nhà. Một lúc sau, khi không còn gì khác đáng chú ý nữa, Roran mở túi ngủ, trườn mình dưới lớp chăn. Ngày hôm sau, làng Carvahall rộn rịp một cách khác thường. Những bóng người từ nhà nọ chạy sang nhà kia. Hơn nữa, Roran còn ngạc nhiên khi thấy những người phóng ngựa tới những trang trại khác nhau. buổi trưa, anh thấy hai người đàn ông vào trại lính, rồi ở lại trong lều của hai tên Ra’zac gần một tiếng. Không biết chuyện gì đang xảy ra, Roran bồn chồn suốt ngày hôm đó. Cho đến khi anh đang ăn tối, Baldor mới xuất hiện. Hai mắt thâm quầng, Baldor thở dài nói: - Quimby chết rồi. Roran buôn rơi chén đồ ăn: - Vì sao? - Mấy thằng lính chọc ghẹo thím Tara, vợ chú Morn. Thím làm lơ, quay qua dọn ăn cho bàn khác, mấy thằng lính nổi sùng nhào vào đánh đám khách này. Lúc đó anh Quimby đang phục lăn mấy thùng tượu cho chú Morn, vội vào can. Một tên lính quăng bình rượu trúng thái dương Quimby làm anh chết tức thì. Roran gật đầu. Tính cách của Quimby là vậy, sẵn sàng can thiệp và giúp đỡ mọi người. Nhưng không thể tin nổi Quimby không còn nữa. Quimby - người nông dân và cũng là người ủ bia của Carvahall - chẳng khác nào là một phần máu thịt của làng, như phong cảnh núi non hùng vĩ bao bọc quanh đây. Roran không bao giờ nghĩ có một ngày Carvahall lại thiếu vắng Quimby. Anh hỏi Baldor: - Tụi lính có bị trừng phạt không? - Ngay sau khi Quimby chết, tụi Ra’zac tới quán rượu trộm xác và kéo về lều của chúng. Đêm qua chúng tôi đã cố lấy xác về, nhưng chúng không thèm trả lời một tiếng. Hôm nay ông già mình và Loring đến gặp tụi Ra’zac điều đình và… khi mình sửa soạn lên đây thì xác Quimby được trả về. Cậu thử tưởng tượng vợ anh ta đã nhận được gì? Toàn xương! - Xương?! - Từng mẩu xương đều bị gặm sạch thịt, còn rõ những dấu răng. Nhiều khúc xương còn bị đập để hút hết tủy. Roran vừa ghê tởm đến lộn mửa, vừa khiếp đảm cho phần số của Quimby. Vì ai cũng biết rằng linh hồn người chết sẽ không được yên nghỉ, khi thi hài chưa được chôn cất đàng hoàng. Anh hỏi Baldor: - Kẻ nào hay vật gì ăn thịt anh ấy? - Chính tụi lính cũng khiếp đảm. Vậy thì chỉ có thể là hai tên Ra’zac thôi. Mình nghĩ chúng không phải là người. Không ai thấy rõ mặt chúng, vì chúng luôn phủ kín mặt bằng một tấm choàng đen, nhưng hơi thở của chúng hôi thối gớm ghiếc vô cùng. Cậu biết rồi đó, lưng chúng vặn vẹo, cong vòng. Hai đứa chúng nó trao đổi với nhau bằng những tiếng tắc lưỡi. Đám lính tỏ ra sợ hãi hai tên cầm đầu dị dạng này lắm. Roran trầm ngâm hỏi: - Không là người, không là Urgal. Vậy thì chúng thuộc loài gì? - Làm sao biết được. Một nối hãi hùng khác hẳn đè nặng lên Roran: mối hãi hùng trước một sức mạnh siêu nhiên, ma mị. Anh cũng nhìn thấy sự sợ hãi đó trên mặt Baldor. Trong tất cả những chuyện về hành động độc ác ghê tởm của Galbatorix, vẫn ẩn chứa trong từng ngôi nhà sự bàng hoàng ghê rợn những trò yêu quái của tên bạo chúa. Nghĩ lại hoàn cảnh mình, Roran nhận ra anh đang bị cuốn vào những thế lực mà trước đây chỉ từng biết qua chuyện kể và những bài ca. Roran lẩm bẩm: “Bắt buộc phải làm một điều gì đó.” Ban đêm trời ấm dần, và tới buổi trưa, không khí trên thung lũng Palancar oi nồng một cách bất ngờ. Dưới bầu trời trong xanh, ngôi làng Carvahall trông thật hiền hòa. Nhưng Roran cảm thấy sự hiền hòa êm ả chỉ như một miếng vải căng phồng trong gió, che dấu bên dưới là mối phẫn uất căm thù của dân làng. Dù nôn nao chờ đợi, nhưng cả ngày hôm đó Roran không biết làm gì ngoài việc chải chuốt cho con ngựa. Đêm xuống, anh nằm nhìn những ngôi sao mờ tỏ trên trời. Chúng dường như gần đến nỗi Roran cảm thấy mình bềnh bồng giữa những vì sao và đang từ từ rơi xuống khoảng không đầy u tối. Roran bật thức giấc khi trăng sắp tàn. Cổ họng nghẹn khói, anh ngồi nhổm dậy, ho sặc sụa, dàn dụa nước mắt. Khói ngập ngụa làm anh như nghẹt thở. Roran vơ chăn mền, đóng yên cương con ngựa đang co rúm lại vì sợ. Thúc ngựa lên cao hơn để tránh khói, nhưng Roran chợt nhận ra khói cũng đang cuồn cuộn cuốn lên theo hướng này. Anh vội cắt ngang đường tắt, cho ngựa đi xuyên rừng. Sau nhiều phút lần mò trong bóng tối, cuối cùng người ngựa tới một mỏm núi lồng lộng gió, không vẩn chút khói nào. Hít đầy buồng phổi làn không khí trong lành, Roran nhìn xuống thung lũng và phát hiện ngay đám cháy từ đâu. Khói lửa ngùn ngụt bốc lên từ vựa cỏ của làng Carvahall. Run bắn người, Roran chỉ muốn gào lên, chạy về làng cứu chữa. Ngay lúc đó, một tia lửa rơi xuống nhà Delwin và chỉ vài giây sau, mái nhà tranh nổ tung thành một con sóng lửa. Roran vò đầu bứt tóc nguyền rủa, nước mắt đầm đìa trên mặt. Hỏa hoạn hay tụi lính đốt nhà? Hay Ra’zac trừng phạt dân làng vì tội che dấu mình? Tiếp ngay sau đó là mái nhà của Fisk bừng sáng, những lưỡi lửa quay cuồng bốc lên, hòa cùng cơn bão lửa chung quanh. Sững sờ, Roran không thể nào quay mặt đi chỗ khác, nhục nhã vì cảm thấy mình sao quá ư hèn nhát. Tới sáng, những đám cháy lụi dần, không biết được dập tắt hay tự lụi tàn. Dù sao toàn thể những ngôi nhà trong làng quá may mắn nên mới thoát khỏi bị hủy hoại vì cơn hỏa hoạn này. Roran chờ cho tới khi không còn nhìn thấy chút khói lửa nào nữa, mới quay trở về nơi ẩn trốn nằm nghỉ. Từ sáng tới chiều tối hôm đó, Roran chập chờn trong những cơn ác mộng. Mỗi khi tỉnh giấc, anh chỉ còn biết ngóng chờ có người lên núi đưa tin. Lần này là Albiech với vẻ mặt đầy nghiêm trọng: - Về với mình. - Cái gì? Roran bàng hoàng hỏi lại. Anh thầm nghĩ: “Họ định trao mình cho bọn lính sao. Nếu mình là nguyên nhân của vụ cháy, mình biết dân làng sẽ đồng ý để mình bị bắt và mình cũng sẵn lòng chấp nhận, nếu thật sự cần phải làm vậy. Chẳng có lý do nào bắt mọi người phải hy sinh vì mình. Nhưng như vậy không có nghĩa là mình để cho họ trao mình cho tụi Ra’zac. Sau những gì hai con quái vật đó đã làm với Quimby, mình sẽ chếin đấu với chúng cho tới chết, chứ không đời nào để thành tù binh của chúng.” Albriech lên tiếng: - Chính tụi lính đã gây nên vụ cháy. Chú Morn ngăn không cho chúng vào quán, nhưng chúng vẫn có rượu riêng. Một thằng trên đường về trại, đã ném cây đuốc vào vựa cỏ. - Người làng có ai bị thương không? - Có mấy người bị phỏng đang được bà Gertrude săn sóc. Chúng tôi đã tới thương lượng với hai tên Ra’zac, nhưng chúng nhổ toẹt vào lời đề nghị yêu cầu được bồi thường của chúng ta. Thậm chí mấy thằng lính có tội gây ra vụ hỏa hoạn làm cháy mấy căn nhà vẫn nhởn nhơ, chẳng bị giam giữ gì hết. Chúng tôi cần cậu chung sức để đánh đuổi chúng. Không thể để mọi người liều mạng vì mình cậy được. Chuyện này lên quan tới toàn thể dân làng. Ít ra, cậu cũng nên về gặp cha mình và mọi người, để biết quan điểm của họ chứ. Vả lại, mình nghĩ, cậu cũng nên mừng vì được ra khỏi rặng núi đáng sợ này. Roran đắn đo suy nghĩ trước đề nghị của Albriech. “Cứ về, sau đó, nếu cần mình vẫn có thể trốn đi.” Thu dọn đồ đạc, Roran dắt ngựa theo Albriech xuống thung lũng. Càng gần tới làng, họ càng phải chậm bước và ẩn núp sau những gốc cây bụi cỏ. Ép mình sau một cái thùng, Albriech quan sát con phố vắng ngắt, rồi ngoắt tay ra hiệu cho Roran. Cả hai bò từ vùng tối này qua khoảng tối khác, cố tránh những điểm gác san sát của lính triều đình. Tới xưởng rèn của Horst, Albriech mở hé cổng đủ cho Roran và con ngựa lẻn vào. Trong xưởng chỉ leo lét một cây nến tỏa ánh sáng chập chờn trên những khuôn mặt căng thẳng vây quanh. Bộ râu rậm rì của chú Horst nổi bật bên cạnh Delwin, Gedric và Loring. Đám trẻ còn lại là ba cậu con trai của Loring, Parr và đứa con trai mười ba tuổi của Quimby. Mọi người đều quay lại khi Roran bước vào. Chú Horst lên tiếng hoi: - A, cháu đã về. Có gặp rủi ro gì trong núi không? - Dạ không. - Vậy thì chúng ta bắt đầu được rồi. Vừa buộc con ngựa vào cái đe, Roran vừa hỏi: - Nhưng chính xác là chuyện gì ạ? Loring, bác thợ giày mặt mũi nhăn nheo trả lời: - Chúng ta đã cố thử nói chuyện phải quấy với mấy tên Ra’zac… Ông ngừng lại để thở, thân hình gầy guộc rúm lại vì những tiếng khò khè trong lồng ngực: - Nhưng… những quân trời đánh này không biết phải trái là gì. Chúng làm hại tất cả dân làng mà cứ tỉnh bơ như chẳng có chuyện gì xảy ra sất. Chúng phải… cút khỏi làng mình. Đồ súc sinh đó… Roran nói ngay: - Không, sau vụ Quimby, phải gọi chúng là tụi cẩu trệ vô thần mới đúng. Mọi người gật gù đồng ý. Delwin lên tiếng: - Vấn đề là, mạng sống của mỗi người đều đang bị đe dọa. Nếu vụ cháy vừa rồi lan rộng hơn, thì đã có hàng chục người bị chết, còn ai chạy thoát thì cũng mất hêt stài sản. Vì vậy chúng ta quyết định phải tống khứ tụi Ra’zac và đám lính ra khỏi làng. Cháu có tham gia không? Roran ngập ngừng hỏi: - Nhưng nếu chúng trở lại với quân tiếp viện, ta phải làm sao? Chúng ta đâu đủ sức chống lại triều đình. Chú Horst nghiêm trang nói: - Đúng vậy. Nhưng chúng ta cũng không thể câm lặng để chúng tiếp tục hủy hoại xóm làng, tài sản và giết chết chúng ta. Tức nước thì phải vỡ bờ thôi. Loring ngửa cổ cười, hóm hỉnh thì thầm: - Củng cố lực lượng, đắp thành lũy, rồi choảng một trận ra trò, cho chúng biết thế nào là lễ độ với dân làng Carvahall này. Hì hì… Sau khi Roran đồng ý tham gia, chú Horst bắt đầu phân phối cuốc, xẻng, bừa cào… bất cứ thứ gì có thể dùng làm vũ khí để đánh đuổi đám lính và Ra’zac. Roran nâng cây xà beng lên rồi lại đặt xuống. Dù không hề quan tâm đến những chuyện kể của ông già Brom, nhưng có một chuyện, chuyện trường ca Gerand, mỗi lần nghe anh lại cảm thấy nôn nao. Trường ca kể về Garand, một chiến binh vĩ đại nhất trong thời đại của ông. Ông đã từ biệt thanh gươm để lo cho vợ con và ruộng vườn. Tuy vậy ông không được yên thân, vì một lãnh chúa ganh ghét, nuôi lòng hận thì và tấn công gia đình ông. Một lần nữa, Gerand lại phải ra tay. Nhưng ông đã không chiến đấu với thanh kiếm mà ông đã thề từ bỏ, Gerand sử dụng một cây búa. Tới bên tường, Roran vầm lên một cây búa cán dài, thử tung hứng từ tay này sang tay kia, rồi hỏi chú Horst: - Cháu dùng cái này được không ạ? - Được chứ. Horst trả lời, rồi quay lại mọi người: - Các bạn nghe kỹ đây. Ta dọa cho chúng sợ, chứ không giết. Nếu muốn, các bạn đập cho chúng què chân gãy tay, nhưng đừng đi quá xa. Đừng ham đánh lâu. Hãy nhớ chúng là lính nghề, đã được huấn luyện hẳn hoi. Sau khi được trang bị vũ khí, đoàn nông dân âm thầm tiến về trại lính. Trong trại im lặng như tờ. Lính tráng đã đi ngủ hết, chỉ còn bốn thằng gác đi vòng vòng quanh trại. Hai con ngựa của Ra’zac được cột bên đám lửa liu riu. Horst lẳng lặng truyền lênh: Albriech và Delwin phục kích hai lính gác. Parr và Roran phục kích hai tên còn lại. Roran nín thở tiến gần gã lính gác, rồi núp sau một góc tối, chờ hiệu lệnh của chú Horst. Với một tiếng thét, Horst vùng ra khỏi chỗ núp, dẫn đầu đoàn người xông vào những tấm lều. Roran nhào tới, vung búa, bổ xuống vai tên lính gác. Một tiếng rắc vang lên. Gã lính rú lên, buông rơi cây kích. Roran nện thêm một núa vào lưng làm tên lính loạng choạng, rồi vừa vùng chạy vừa kêu cứu. Roran phóng theo. Vừa gào thét vừa nện búa vào bất cứ thứ gì lục đục sau những tấm lều. Thoáng thấy một cái mũ sắt ló ra từ lều kế bên, Roran giáng ngay một búa. Hai thứ kim loại chạm nhau vang lên như tiếng chuông. Chỉ kịp thấy Loring vọt qua mặt, Roran đã thấy ông lão đâm cây chĩa xuyên qua một tên lính. Khắp chung quanh náo loạn những thân thể ôm vật, đâm chém nhau. Vừa quay mình, Roran phát hiện một gã lính đang ghì cây nỏ. Roran nhảy tới, nện một búa, cây nỏ gỗ vỡ làm hai. Tên lính hoảng hồn co giò chạy. Từ một căn lều, hai tên Ra’zac tay cầm kiếm, rít lên lanh lảnh, xông ra. Chúng chưa kịp trở tay, Baldor thúc hai con ngựa ào tới, tách hai thân hình quái dị ra hai ngả. Ngay lập tức, chúng bật về lại bên nhau, nhưng chỉ để cùng chạy theo đám lính đang bỏ chạy tán loạn. Cuộc náo loạn chấm dứt. Roran thẫn thờ nắm chặt cán búa một lúc, rồi tiến qua những cửa lều tơi tả, tìm chú Horst. ông thợ rèn toét miệng cười dưới chòm râu rậm: - Bao nhiêu năm nay mới được oánh lộn một trận đã đời như vậy. Trong khi đó, dân làng Carvahall thức giấc bàn tán như cãi nhau, không biết nguyên nhân những tiếng huyên náo rầm rầm là chuyện gì. Đang nhìn về những cửa sổ sáng ánh đèn, Roran quay phắt lại khi nghe tiếng khóc. Thằng bé Nolfavrell quỳ gối, vừa tới tấp đâm lên ngực xác một tên lính, vừa nức nở khóc. Gedric và Albriech vội chạy lại, kéo nó ra khỏi cái xác. Roran bảo: - Đáng lẽ không nên cho nó tới đây. Nhưng chú Horst nhún vai nói: - Nó có quyền cháu ạ. Roran nhìn quanh xem có ai bị thương không. Chỉ Delmin bị một vết thương trên cánh tay và ông ta đã tự băng bó bằng vải áo. Anh nói với Horst: - Chúng ta phải làm rào cản trên đường và khoảng cách giữa các nhà, ngăn chúng tấn công bất ngờ. Tập họp tất cả, Horst ra lệnh cho hai con trai, Albriech và Baldor, trở lại xưởng lấy cái xe của Quimby. Ba con trai của ông Loring và Parr trở lại làng xem có gì dùng làm vật cản đường được không. Lúc đó một số dân làng đã tụ tập kéo đến. Họ trợn mắt sững sờ nhìn trại lính tan hoang và những xác chết. Fisk kêu lên: - Chuyện gì thế này? Ông già Loring nhào tới, nhìn vào ngay mắt lão thợ mộc: - Chuyện gì à? Tụi này mới dọn đống phân đấy. Quất cho chúng nó một trận, cha con chúng cúp đuôi chạy như chó cả rồi. - Đáng đời quân khốn kiếp! Một tiếng nói mạnh mẽ vang lên. Birgit, người đàn bà tóc nâu đang ôm khuôn mặt đầm đìa máu và nước mắt của thằng bé Nolfavrell, lên tiếng: - Chúng đáng phải chết như những quân hèn nhát vì cái chết của chồng tôi. Dân làng thì thầm đồng ý, nhưng Thane lên tiếng: - Horst, ông có điên không? Ông có thể hù cho tụi Ra’zac và đám lính trở lại làng này. Triều đình không bao giờ bỏ cuộc, nếu chưa bắt được Roran. Tiếng lão Sloan rin rít: - Nộp nó cho triều đình là êm chuyện. Chú Horst giơ cao tay: - Tôi đồng ý. Không cá nhân nào đáng quý hơn toàn thể Carvahall. Nhưng nếu chúng ta giao nộp Roran, các ông có nghĩ là triều đình sẽ bỏ qua, không trừng phạt chúng ta vì đã dám chống cự lại họ không? Dưới mắt nhà vua, chúng ta chẳng khác gì quân phiến loạn Varden đâu. Thane hỏi ngay: - Đã biết thế, tại sao ông còn tấn công Ra’zac và tụi lính. Ai cho ông quyền quyết định chuyện này? ÔNg hại tất cả chúng tôi rồi! Birgit đứng bật dậy. Xòe hai bàn tay dính đầy máu và nước mắt, chị nghiến răng hỏi Thane: - Anh sẽ để chúng giết vợ anh sao? Anh nhắm mắt cho chúng đốt nhà chúng tôi sao? Tình người của anh ở đâu, hả anh thợ hồ? Thane cúi mặt, tránh ánh nhìn của chị. Lúc đó Roran mới lên tiếng: - Chúng đã thiêu hủy trang trại nhà tôi, ăn tươi nuốt sống Quimby, suýt tàn phá cả làng Carvahall. Tội ác đó không thể nào không bị trừng phạt. Chúng ta cam chịu nhục nhã chấp nhận những hành động ngang ngược tàn bạo của chúng mãi sao? Không. Chúng ta có quyền tự vệ chứ. Thấy Albriech và Baldor đang đẩy xe tiến tới, Roran nói lớn: - Chúng ta sẽ bàn cãi vấn đề này sau. Bay giờ chúng tôi phải sửa soạn phòng thủ. Ai đồng ý tham gia? Hơn bốn mươi người xung phong tình nguyện. Roran làm việc không nghỉ tay: đóng hàng rào dá từ nhà này sang nhà khác, lăn những thùng chất đầy đá làm rào chắn, chất thân cây ngang con lộ chính. Hai xe bò nằm chặn ngang hai đầu đường. Đang tất bật chạy từ điểm này qua điểm khác, bất chợt Roran bị Katrina ngăn lại trong một con hẻm. Cô ôm lấy anh, nghẹn ngào: - Anh trở về bình an, em mừng quá. Roran hôn cô, nói: - Katrina… ngay sau khi xong việc, anh có chuyện cần nói với em. - Vâng, em hiểu. Em thật ngốc mới quấy rầy anh lúc này. Nhưng mỗi giây phút chúng ta gần nhau hiếm hoi quá, em không muốn để phí thời gian, trong khi định mệnh khắt khe lúc nào cũng rình rập ngăn cách chúng ta. Roran đang tưới nước lên mái tranh nhà Kiselt để tránh bắt lửa, thì nghe tiếng Parr kêu lớn: - Ra’zac! Quăng vội xô nước, Roran chạy vào khoang xe, chộp cây búa. Ngay lúc đó anh thấy một tên Ra'zac đang từ cuối đường phóng ngựa tới. Tuy ở ngoài cả tầm tên bắn, nhưng anh thấy tay trái tên Ra’zac đưa cao ngọn đuốc, tay phải vòng ra sau như lấy đà để ném một vật gì. Roran cười lớn: - Hình như nó định ném đá vào chúng ta. Xa như thế mà… Roran chưa nói hết câu, một lọ thủy tinh nhỏ bay vèo vèo trúng chiếc xe bò kế bên anh. Chỉ thoáng giây, một quả cầu lửa bắn tung chiếc xe cồng kềnh lên không, tiếng nổ hất Roran bật ngửa vào tường. Lồm cồm bò dậy, tiếng rít lanh lảnh và tiếng vó ngựa chói lói trong tai Roran. Anh gượng đứng lên vừa kịp nhảy tránh sang một bên, khi Ra’zac phóng qua khoảng trống của chiếc xe cháy, tiến vào Carvahall. Ngồi trên mình ngựa, chúng loang loáng vung kiếm chém xuống những người rải rác chung quanh. Roran thấy ba dân làng gục chết, lúc đó chú Horst và ông Loring mới xuất hiện, cố đẩy lui Ra’zac bằng hai cây chĩa. Dân làng chưa kịp hoàn hồn, đám lính ùa ra từ những phòng tuyến bị chọc thủng. Trong đêm tối, chúng chém giết tới tấp, điên cuồng. Roran bất ngờ nhảy tới, giáng một búa ngay mặt một tên lính. Tên lính rũ xuống, không thốt được một tiếng kêu. Đồng bọn của nó ùa tới, Roran giật tấm khiên từ xác chết, vừa kịp đưa lên đỡ một nhát gươm. Vừa giật lùi về phía Ra’zac, Roran vừa đỡ một đường kiếm, rồi tức thì vung ngược cây búa ngay cằm đoói thủ. Tên lính lăn đùng xuống đất. Né một mũi đâm, Roran gào lớn: - Theo tôi. Hãy bảo vệ gia dình các bạn. Theo tôi. Baldor là người đầu tiên hưởng ứng, rồi tới Albriech. Mấy giây sau ông Loring và một số nữa tham gia. Hai bên đường, đàn bà trẻ con tới tấp tấn công đám lính bằng gạch đá. Roran la lớn: - Hãy đoàn kết lại. Sát cánh bên nhau. Chúng ta đông hơn. Đám lính chùn tay khi dân làng trước mặt chúng mỗi lúc một thêm dày đặc. Với hơn một trăm đnà ông, trai tráng trong làng làm hậu thuẫn, Roran từ từ tiến tới. Tránh một mũi chĩa của Loring, một tên Ra’zac rít lên ra lệnh cho thuộc hạ: - Lũ ngu, tấn công đi. Nhưng chỉ có một mũi tên bắn về phía Roran và bị anh dùng khiên đỡ được. Hai tên Ra’zac gầm gừ phẫn nộ. Chúng trừng trừng nhìn đám đông dân làng qua lớp vải mũ trùm đầu đen ngòm ngòm. Thình lình Roran cảm thấy như bị hôn mê, tứ chi rã rời không cử động nổi. Thậm chí đầu óc anh như không còn suy tính gì được nữa. Rồi như từ cõi xa xôi, anh nghe tiếng kêu lanh lảnh của Birgit. Thoáng giây sau, một hòn đá chạm nhẹ qua đầu anh, rồi lướt tới tên Ra’zac. Chỉ một cái vặn mình với tốc độ phi phàm, quái nhân nhẹ nhàng tránh khỏi. Trong thoáng giây tên Ra’zac bị rối trí, Roran bỗng thoát khỏi cám giác hôn mê. Anh thầm hỏi: “Có phải mình bị ma thuật không?” Buông cái khiên, Roran nắm chặt cán búa bằng cả hai. Đưa búa cao lên khỏi đầu, như khi chú Horst đập sắt trên đe, Roran kiễng chân, toàn thân ngả ra sau, rồi thẳng cánh bổ xuống. Lưỡi búa rít trong không khí, nẩy khỏi tấm khiên của Ra’zac, để lại một vết lõm. Hai cú tấn công bằng đá và búa đủ làm hai tên Ra’zac ngụt nhuệ khí. Dân làng thừa thắng xông lên, miệng gào la làm chúng càng mất tinh thần. Quay đầu ngựa, chúng rin rít ra lệnh cho đám lính: - Rút lui. Những tấm áo choàng đỏ rụt rè ra khỏi làng. Chỉ khi chúng đã xa hẳn hai cái xe bò cháy, chúng mới dám ngoái nhìn lại phía sau. Roran thở dài, nhặt búa lên. Anh vuốt ve những vết trầy trên lưỡi búa, rồi treo lại lên tường. Nhìn thi thể Parr chết vì tiếng nổ, Roran buồn rầu cúi đầu. Lại thêm chín người chết. Lại thêm những người mẹ, những nguời vợ khóc than đau khổ. Vì sao tai họa lại giáng xuống làng này? - Mọi người lại đây. Nghe tiếng kêu, Roran chạy ra giữa đường với Baldor. Cách khoảng hai nươi mét, một tên Ra’zac ngồi lom khom như con bọ hung trên mình ngựa, khoằm ngón tay chỉ mặt Roran: - Mi… mi bốc mùi giống hệt thằng em họ của mi. Ta không bao giờ quên một mùi nào đã qua mũi của ta. - Các ngươi muốn gì? Vì sao lại đến làng này? Tên Ra’zac cười khùng khục: - Chúng ta muốn… tin tức. Ngoái nhìn đồng bọn đã đi xa, nó quay lại nhìn dân làng la lên: - Trao Roran cho chúng ta, các ngươi sẽ được bán làm nô lệ. Bảo vệ nó, chúng ta sẽ ăn thịt tất cả các ngươi. Nghĩ kỹ câu trả lời khi chúng ta quay lại. Khi hai cánh cửa vừa được mở ra, ánh sáng ùa vào, Eragon phải nhắm nghiền hai mắt. Sống quá lâu dưới lòng đất, mắt nó chưa quen được với anh sáng ban ngày. Nhưng Saphira lại rít lên, vươn cổ để nhìn rõ hơn cảnh trí xung quanh. Eragon cảm thấy hai ngày đi xuyên địa đạo, từ Farthen Dur, dài dằng dặc. Chỉ toàn bóng tối và sự yên lặng vây quanh. Suốt cuộc hành trình tất cả mọi nguời chỉ trao đổi với nhau vài lời. Nó đã hy vọng sẽ tìm hiểu thêm về Arya trong chuyến đi, nhưng chỉ đành lẳng lặng quan sát cô thôi. Trước đây, Eragon chưa từng ăn chung với Arya, nên nó giật mình khi thấy cô mang theo đồ ăn riêng và… chẳng có miếng thịt nào. Đáp lại câu hỏi tại sao, cô chỉ đơn giản nói: - Sau khi được huấn luyện, chàng cũng sẽ không bao giờ ăn thịt nữa. Hoặc nếu có thì cũng rất hiếm có dịp. - Vì sao tự nhiên tôi lại phải bỏ ăn thịt? - Ta không thể cắt nghĩa bằng lời được, nhưng tới Ellesméra chàng sẽ hiểu ngay. Lúc này Eragon quên hết chuyện thịt thà, chạy vội qua ngưỡng cửa địa đạo, nhìn nơi mới tới. Nó thấy mình đang đứng trên một nền đá hoa cương nhô cao hơn ba mươi mét, bên dưới là mặt hồ tím nhạt long lanh dưới mặt trời miền đông. Giống như Kostha-mérna, mặt nước trải dài từ chân núi này tới núi khác, mênh mông tânj cuối thung lũng. Xa xa, dòng Az Rangi chảy về phương bắc, uốn lượn giữa những ngọn núi, cho đến khi ào ạt đổ vào những cánh đồng phía đông. Bên phải Eragon, núi non trơ trụi, chỉ thấy mấy con đường mòn, nhưng bên trái, chính là thành phố Tarnag của người lùn. Nơi đây người lùn đã cải tạo Beor, rặng núi tưởng như không thể nào thay đổi nổi, trở thành hàng loạt ruộng bậc thang, nhà cửa… Tầng thấp nhất là ruộng vườn, trang trại, loáng thoáng những ngôi nhà thấp lè tè. Eragon đoán những ngôi nhà đó hoàn toàn bằng đá. Bậc này lên tiếp bậc khác là những ngôi nhà nối tiếp nhau, kéo dài đến đỉnh cao nhất là một mái vòm khổng lồ màu trắng và hoàng kim. Toàn thành phố dường như không có gì ngoài những bực thang dẫn lên tới mái vòm. Cái mái hình chóp đó lóng lánh như một tảng nguyệt thạch sáng bóng, một chuỗi hạt trắng như sữa, bồng bềnh trên ngọn kim tự tháp bằng đá đen. Orik bảo Eragon: - Đó là Celbedeil. Ngôi đền lớn nhất của người lùn và là mái nhà của Durgrimst Quan - tộc người Quan. Họ vừa là bề tôi vừa là người rao giảng ý của thần linh. Saphira hỏi: “Họ cai trị nơi này, phải không?” Nghe Eragon lập lại câu hỏi, Arya tiến lên trả lời: - Ồ không. Dù tộc Quan mạnh, nắm quyền uy về chuyện kiếp sau và… vàng, nhưng dân số ít, tộc Ragni Hefthyn - Cận - vệ Thủy - thần – cai trị nơi này. Trong khi tạm trú tại đây, chúng ta sẽ ở với Undin, tộc trưởng của họ. Vừa bước theo nàng tiên Arya qua khu rừng rậm rạp, Orik vừa thì thầm với Eragon. - Đừng nghe lời cô ấy. Từ nhiều năm rồi, mỗi lần đến Tarnag, có dịp chuyện trò với một tu sĩ, cô ấy tranh cãi khiếp lắm. - Arya hả? - Phải. Tôi ít được chứng kiến, nhưng nghe nói cô ấy rất bất đồng ý kiến với những giáo lý của tộc Quan. Hình như… thần tiên không ưa vụ… “gửi những lời lẩm nhẩm vào không khí để cầu xin cứu giúp.” Eragon nhìn sau lưng Arya, tự hỏi những lời nói của Orik có đúng sự thật không, và nếu đúng vậy, thì đức tin của Arya là gì? Hít mạnh một hơi, Eragon dẹp bỏ chuyện đó khỏi đầu. Trở lại bên ngoài thật tuyệt vời biết bao: mùi rêu tươi, cây cỏ, ánh nắng ấm áp, ong bướm dập dờn bay lượn. Qua con đường nhỏ xuống bờ hồ, rồi lại đi dần lên cao, tiến về phía hai cánh cổng mở rộng của thành Tarnag, Eragon hỏi: - Làm sao các ông có thể che dấu Tartag khỏi con mắt của Galbatorix? Orik cười: - Che dấu? Làm sao che giấu được. Không đâu. Sau sự sụp đổ của các kỵ sĩ, chúng tôi bắt buộc phải bỏ những thành phố trên mặt đất, rút vào các đường hầm, để trốn Galbatorix và thập tam phản đồ, vì chúng thường bay tới Beor này, chém giết bất kỳ ai mà chúng gặp. - Tôi tưởng người lùn chỉ sống trong lòng đất. Orik nhíu mày: - Vì sao? Chúng tôi gắn bó với đá thật đó, nhưng cũng thích không khí ngoài trời như thần tiên hay loài người vậy. Tuy nhiên chỉ khoảng mười lăm năm trước, sau khi Morzan bị giết, chúng tôi mới dám trở lại Tarnag và những thành phố khác của chúng tôi. Có thể Galbatorix có sức mạnh phi phàm, nhưng lão không thể một mình tấn công cả một thành phố. Dĩ nhiên, nếu muốn, lão và con rồng của lão có thể triền miên quấy nhiễu chúng tôi, nhưng gần đây lão hiếm khi ra khỏi Uru’baen, dù chỉ là một cuộc hành trình ngắn. Lão cũng không thể kéo quân tới đây mà không gặp phải sự kháng cự của Buragh hoặc Farthen Dur. Saphira lèm bèm: “Lão suýt nuốt chửng Farthen Dur rồi đó thôi.” Đứng trên một mô đất, Eragon giật mình kinh ngạc khi thấy một con vật phóng từ bụi rậm ra đường. Con vật kỳ lạ đó trông giống loài sơn dương ở núi Spine, nhưng lớn hơn nhiều và cặp sừng to lớn xoắn vặn hai bên má, làm nguời ta thấy cặp sừng của Urgal chỉ tí teo như tổ chim én. Kỳ lạ hơn nữa là bộ yên cương trên lưng nó có một người lùn oai vệ ngồi, tay đang kéo căng dây cung. Gã lùn cưỡi dê gào lớn: - Hert durgrimst? Fild rastn? Orik líu lo một tràng trả lời: - Orik Thrifkz menthiv oen Hrethcarach Eragon rak Durgrimst Ingeitum. Wharn, az vanyali-caharug Arya. Néoc Undinz Grimstbelardn. Con dê lấm lét nhìn Saphira. Eragon thấy đôi mắt con thú sáng láng, thông minh, dù bộ rây rậm làm mặt anh chàng vừa hề vừa đạo mạo. Nó suýt phì cười khi chợt nhớ tới vua Hrothgar. “Phải công nhận chú dê này rất giống người lùn.” Gã lùn cưỡi dê nói với Orik: - Azt jok fordn rast. Rồi không rõ hắn ra lệnh cách nào, con dê rướn người phóng lên, tung mình qua một khoảng cách dài trông như bay, cả hai biến sau những lùm cây. Eragon ngẩn người hỏi: - Nó là con gì vậy? - Đó là con Feldunost, một trong năm loài vật độc đáo của rặng núi này. Mỗi bộ tộc lấy theo tên một loài, tuy nhiên có lẽ tộc Durgrimst Feldunost là tộc dũng cảm nhất và được tôn kính nhất. - Lý do? - Chúng tôi lệ thuộc vào sữa, thịt và lông của chúng để làm len. Không có nguồn cung cấp đó, chúng tôi không thể sống trong núi Beor này. Ngay cả khi Galbatorix và các tên phản đồ khủng bố chúng tôi, chính bộ tộc Durgrimst Feldunost vẫn chăn nuôi và canh tác, không ngại hiểm nguy. Cho đến bây giờ họ cũng vẫn tiếp tục công việc đó. Vì vậy, tất cả chúng tôi đều mang ơn họ. - Tất cả người lùn đều cưỡi Feldunost sao? - Chỉ ở trên núi thôi. Fuldunost chịu đựng gian khổ và leo trèo giỏi. Nhưng chúng thích hợp với núi non hơn là dưới đồng bằng. Saphira dúi mũi vào Eragon, làm con Hỏa Tuyết loạng choạng: “Nếu có thời gian đi săn mấy con dê này, hơi bị sướng đấy.” Eragon phản đối ngay: “Xin cô đi. Đừng gây rắc rối với những người lùn ở đây.” “Em sẽ xin phép họ đàng hoàng chứ bộ.” Qua hết con đường dài rợp bóng cây, lúc này mọi người đã bắt đầu tiến vào một khoảng trống bao la, bao quanh Tarnag. Nhiều nhóm người lùn túm tụm trên cánh đồng tò mò đứng nhìn. Giữa lúc đó, bảy con Feldunost yên cương tề chỉnh từ thành phóng ra. Bảy người ngồi trên lưng dê giương cao ngọn giáo. Những lá cờ đuôi nheo buộc trên đầu giáo phần phật bay trong gió. Người dẫn đầu ghìm cương, nói: - Chào mừng quý khách tới Tarnag. Với sự tin tưởng của Undin và Gannel, tôi – Thorv – con trai Brokk, xin dành nơi nghỉ ngơi an toàn nhất trong nhà chúng tôi cho quý vị. Orik đáp lại: - Và với sự tin tưởng của đức vua Hrothgar, chúng tôi, thuộc tộc Ingeitum, xin đón nhận lòng hiếu khách của quý vị. Arya tiếp lời: - Còn tôi, sứ thần của nữ hoàng Islanzadi cũng xin hân hạnh đón nhận lòng hiếu khách của quý vị. Vẻ hài lòng, Thorv phất tay ra hiệu, sáu người kia giật cương những con Feldunost xếp thành hai hàng, dẫn lối cho nhóm của Eragon tiến qua cổng thành Tarnag. Vành đai ngoài là những bức tường dày hơn mười mét, tạo thành một đường hầm râm mát, dẫn vào những trang trại đầu tiên bao quanh Tarnag. Thêm năm vành thềm nữa - mỗi vành thềm có một cổng pháp đài phòng ngự - đoàn người đi qua những ruộng lúa rồi tiến vào thành chính. Tương phản hẳn với tường rào phòng thủ quá dày, những ngôi nhà bên trong, dù bằng đá, nhưng hình dáng tinh xảo, tạo một cảm giác nhẹ nhàng duyên dáng. Những ngôi nhà và các cửa hàng được trang trí bằng hình ảnh những con thú, nét khắc rất điêu luyện. Nhưng nổi bật nhất chính là những vân đá màu sắc sống động: từ màu đỏ rực rỡ tới màu xanh lục chìm ẩn qua từng lớp đá. Khắp thành phố đều treo những ngọn đèn chưa thắp sáng, như để báo trước ban đêm của Beor sẽ kéo dài. Không giống như Tronjheim, Tarnag được xây dựng chỉ dành riêng cho người lùn, không dự trù cho những khách như thần tiên, loài người hay rồng. Lối vào cao nhất cũng chỉ tới một mét sáu; thường thường chỉ một mét ba. Chiều cao của Eragon trung bình thôi, nhưng lúc này nó cảm thấy mình như một người khổng lề bị đẩy lên sân khấu của những con rối. Đường phố rộng và tấp nập người. Đủ mọi tộc người lùn đi lại hoặc xúm xít quanh những gian hàng. Nhiều người mặc những bộ đồ rất lạ. Một nhóm người lùn tóc đen trên đầu sùm sụp những cái nón bằng bạc, hình dạng giống hệt đầu cho sói. Eragon chú ý nhất đến những phụ nữ lùn, vì kho còn ở Tronjheim nó chỉ thoáng thấy họ. Phụ nữ lùn to ngang hơn đàn ông. Mặt họ nặng nề, tuy nhiên đôi mắt rất sáng và họ có mái tóc bóng mượt. Nhưng đôi tay họ bồng ắm những đứa con nhỏ xíu xiu rất dịu dàng. Những người đàn bà này chỉ trang điểm sơ sài bằng mấy cái trâm cài đầu nhỏ bằng đá và kim loại. Nghe tiếng móng Feldunost xiết trên đường, những người lùn quay nhìn những người mới đến. Họ không hoan hô như Eragon đã tưởng, mà chỉ cúi đầu lẩm bẩm: “Khắc-tinh của Tà-Thần”. Nhưng ngay khi họ nhìn thấy dấu hiệu cây búa và ngôi sao trên mũ sắt của Eragon, sự quý trọng lập tức chuyển thành kinh ngạc; nhiều người còn tỏ ra phẫn nộ. Một nhóm quá khích xúm lại, hết trừng trừng nhìn mấy con Feldunost lại hầm hầm nhìn Eragon, miệng tuôn ra những lời nhục mạ. Tóc gáy của Eragon dựng ngược. Nó thầm nhủ: “Hình như việc làm của vua Hrothgar đối với mình không được sự đồng ý của mọi người?” Saphira đồng ý: “Đúng vậy, nhà vua nắm được anh, nhưng lại chuốc lấy sự oán ghét của nhiều người lùn. Mau chuồn thôi, tình hình này dám xảy ra đổ máu lắm.” Thorv và những cận vệ của ông ta bình tĩnh như không hề quan tâm tới đám đông, thản nhiên vượt qua họ, lên tiếp bảy vành đai bậc thang nữa, cho đến khi lên tới cánh cổng ngăn cách với đám đông. Rẽ trái, Thorv tiến tới một đại sảnh dựa lưng vào núi; mặt tiền được bảo vệ bởi một pháo đài với những lỗ châu mai và hai tháp canh. Gần tới đại sảnh, một toán người lùn trang bị vũ khí từ những ngôi nhà ùa ra, chặn ngang đường. Trên đầu họ phủ khăn tím, che kín mặt, rủ xuống tận vai. Đám cận vệ mặt căng thẳng, ghìm ngay dây cương. Eragon hỏi: - Chuyện gì vậy. Nhưng Orik chỉ im lặng lắc đầu. Rồi tay nắm chặt cán rìu, ông tiến gần nhóm người lùn bịt mặt. Một gã đưa cao nắm tay, la lớn: - Etzil nithgech! Formv Hrethcarach... formv Jurgencarmeitder nos eta goroth bahst Tarnag, dur encesti rak kythn! Jok is warrev az barzulegur dur durgrimst, Az Sweldn rak Anhuin, môgh tor rak Jurgenvren? Né udim etal os rast knurlag. Knurlag ana... Gã liên tục tuôn ra một tràng đầy phẫn nộ. - Vrron! Thorv quát, rồi cùng gã đó lớn tiếng tranh luận. Dù cà hai tỏ ra rất gay gắt, nhưng Eragon thấy Thorv có vẻ trọng nể người kia. Bỗng gã lùn bịt mặt nín lặng, đâm nhẹ cây giáo vào mũ sắt của Eragon, ghê tởm kêu lên: - Knurlag qana qirâu Durgrimst Ingeitum! Qarzul ana Hrothgar oen volfild… Orik vung cây rìu, ngắt ngang lời gã kia: - Jok is frekk durgrimstvren? Eragon lo ngại nhìn Arya nhưng cô đang chăm chú theo dõi hai người lùn đối đầu nhau, nó âm thầm buông tay, nắm chặt chuôi thanh Zar’roc. Người lùn kia hầm hầm nhìn Orik, rút từ trong túi ra một cái nhẫn sắt. Nhổ ba sợi râu, buộc vào cái nhẫn, gã quăng mạnh cái nhẫn lên mặt đường, phun một bãi nước bọt lên trên. Không nói thêm một lời, nhóm người lùn trùm mặt bằng vải tím tức giận quay đi. Thorv, Orik và mấy cận vệ sững sờ khi chiếc nhẫn kêu leng keng trên đường đá. Ngay cả Arya dường như cũng giật mình. Hai tay cận vệ còn trẻ, mặt tái nhợt, đặt tay lên đốc kiếm, vội buông ra ngay khi nghe Thorv quát: “Eta!” Phản ứng của họ làm Eragon còn lo lắng hơn cả khi họ to tiếng cãi nhau. Thấy Orik nhặt cái nhẫn, bỏ vào túi, Eragon hỏi: - Tại sao ông ta ném nhẫn? Ý nghĩa gì vậy? - Nghĩa là… cậu đang có những kẻ thù. Tất cả vội vàng đi qua pháo đài vào một sân rộng rãi với ba bàn tiệc được trang trí bằng cờ và đèn lồng. Ngồi quanh mấy cái bàn là những người lùn, trong số đó nổi bật lên là một người lùn râu bạc, choàng một tấm da sói. Ông già râu bạc giang rộng hai tay nói: - Chúc mừng đến Tarnag, ngôi nhà của Durgrimst Rangi Hefthyn. Eragon Khắc-Tinh của Tà-Thần, chúng ta đã được nghe rất nhiều lời ca ngợi cậu. Ta là Undin, con trai của Derund và là trưởng bộ tộc. Một người lùn, hai vai và ngực căng cứng như một chiến binh, hai mắt đen sắc như mắt chim ưng không rời khỏi Eragon, tiến lại nói: - Còn tôi, Gannel, con trai của Orm Búa-Máu, là tộc trưởng và tu sĩ của tộc Quan. - Rất hân hạnh được làm khách của quý vị. Eragon cúi đầu nói. Nó cảm thấy cô rồng đang khó chịu vì không được ai ngó ngàng tới. Cố mỉm cười, Eragon, thì thầm: “Kiên nhẫn nào, cô bé.” Cô ả bất mãn càu nhàu trong khi các tộc trưởng chào hỏi Arya và Orik. Nhưng tất cả bỗng sững sờ khi Orik xòe tay đưa ra chiếc nhẫn. Mở to hai mắt, Undin rón rén nhón chiếc nhẫn bằng ngón cái và ngón trỏ như đụng vào một con rắn độc vậy. - Kẻ nào đưa cho ông vật này? - Chính Az Sweldn rak Anhuin. Nhưng không phải dành cho tôi, mà là Eragon. Vẻ sợ hãi thoáng hiện lên trên mặt những người lùn. Nỗi lo lắng trước khi bước vào nơi này lại tràn ngập trong lòng Eragon. Nó thấy trên mỗi gương mặt của người lùn như vừa gặp cả đám quái thú Urgal khổng lồ. Chiếc nhẫn chắc chắn phải tượng trưng một điều rất khủng khiếp mới làm họ hãi hùng đến thế. Undin nhíu mày lắng nghe các cố vấn của ông thì thầm rồi lên tiếng: - Chúng tôi cần phải bàn kỹ chuyện này. Eragon, một bữa tiệc đã được tổ chức để đón mừng cậu. Cho phép người hầu của chúng tôi hướng dẫn cậu về phòng, tắm rửa, nghỉ ngơi. Sau đó chúng ta cùng nhập tiệc. Eragon gật đầu, trao cương con Hỏa Tuyết cho một người lùn đang chờ sẵn, rồi theo gã hướng dẫn vào đại sảnh. Khi bước qua cửa, Eragon ngoái lại nhìn: Arya và Orik đang hấp tấp đi bên các tộc trưởng, nghiêng đầu vào nhau thì thầm nghiêm trọng. Nó bảo Saphira: “Anh không đi lâu đâu.” Lom khom qua dãy hành lang thấp lè tè của người lùn, Eragon nhẹ cả người khi thấy căn phòng họ dành cho nó cũng đủ đứng ngồi thoải mái. Gã người hầu cúi đầu nói: - Tôi sẽ trở lại khi nào Grimstborith Undin sẵn sàng. Eragon thở phào nhẹ nhõm vì được ở một mình trong yên lặng, nhưng cuộc đụng độ với những người lùn trùm mặt vẫn luẩn quẩn trong tâm trí, làm nó khó có thể thoải mái nghỉ ngơi. “Cũng may mình sẽ không phải ở lại đây lâu.” Lột bỏ găng tay, Eragon tới bên thau rửa mặt bằng đá đặt dưới sàn, kế bên cái giường thấp chủm. Vừa nhúng tay vào nước, nó hét lớn, rụt vội lên. Nước bỏng rát như nước sôi. Chắc đây là tập quán của người lùn. Ngồi chờ cho nước nguội bớt, Eragon kỳ cọ từ mặt tới cổ thật sạch. Tươi tỉnh lại, nó trút bỏ quần áo đang mặc, tròng vào bộ đồ hôm dự đám tang Ajihad. Không dám xách theo thanh Zar’roc sợ buổi tiệc sẽ mất vui, Eragon quyết định chỉ đeo con dao đi săn. Lấy mật thư của Nasuada gửi nữ hoàng Islanzadí trong ba lô ra, Eragon đắn đo suy nghĩ không biết phải giấu vào đâu. Để mất hay kẻ nào đọc được lá thư quan trọng này là điều vô cùng nguy hiểm. Sau cùng, Eragon nhét cuộn thư vào trong ống tay áo, thầm nghĩ: “Trừ khi mình phải đánh nhau, cất chỗ này là an toàn nhất. Tên người hầu trở lại khoảng hai giờ trưa, nhưng mặt trời đã khuất dạng sau dãy núi, Tarnag bắt đầu chạng vạng tối. Ra khỏi đại sảnh, Eragon bàng hoàng vì vẻ đổi thay của thành phố. Trong tình trạng đêm tới sớm, những ngọn đèn chứng tỏ khả năng thật sự của người lùn. Nguồn sáng trong veo, không hề rung động tỏa khắp đường phố và làm bừng sáng toàn thung lũng. Undin và những người lùn khác đã tụ tập ngoài sân. Saphira chiễm chệ ngồi đầu bàn. Hình như không ai tỏ ý phản đối việc cô rồng chiếm chỗ ngồi danh dự đó. Eragon hỏi cô em khổng lồ: “Có gì mới không?” “Undin tập hợp thêm chiến binh, rồi ra lệnh đóng các cổng thành.” “Như vậy chứng tỏ ông ta lo ngại có điều gì xảy ra.” Chỉ cái ghế bên phải mình, Undin nói với Eragon: - Mời ngồi. Khi vị tộc trưởng cùng Eragon an tọa, mọi người đều ngồi xuống ghế dành cho mình. Eragon mưừngrỡ thấy Orik và Arya xuất hiện, nhưng chưa kịp hỏi ông lùn về vụ chiếc nhẫn, trưởng tộc Undin đã vỗ tay xuống mặt bàn ra lệnh: - Ignh az voth. Đám người hầu tràn ra từ đại sảnh với những mâm vàng đầy ắp thịt, bánh ngọt và trái cây. Chúng tách thành ba hàng, mỗi hàng phục vụ một bàn. Lần lượt súp nóng, thịt nướng, những ổ bánh nóng hổi, bánh dâu rưới mật ong được bày lên bàn. kế bên mâm rau xanh tươi roi rói, những con luơn nấu sốt ngóc đầu tuyệt vọng hướng về bình phô-mát như ước ao trở lại với sông hồ. Mỗi bàn đều có một con thiên nga hầm, chung quanh là những con đa đa, vịt và ngỗng. Chưa bao giờ Eragon thấy nhiều loại nấm đến thế, thậm chí có những nụ nấm trắng tinh, lớn bằng cả nắm tay của nó. Rồi món chính của bữa tiệc được đưa ra: một con heo quay khổng lồ vàng tươm nước sốt. Ít ra theo Eragon đó là một con heo rừng, vì phải cần tới sáu người lùn mới khiêng nổi con vật to lớn bằng con Hỏa Tuyết đó. Nanh con vật dài bằng cánh tay, còn mõm nó ngang ngửa bằng cái đầu của Eragon. Orik thì thầm: - Nagra, loài heo khổng lồ. Eragon, tối nay Undin thật sự đã tỏ ra rất quý trọng cậu. Chỉ những nguời lùn can đảm nhất mới dám săn bắn Nagra, và nó chỉ dùng để phục vụ những người có công lao anh dũng nhất. Như vậy, theo tôi, ông ta chứng tỏ sẽ bảo vệ cậu, coi trọng cậu hơn bộ tộc Nagra. Eragon ghé sát ông, hỏi nhỏ: - Vậy đây là một con vật độc đáo nữa của Beor? Còn những con khác là gì? - Sói rừng đủ to lớn để bắt một con Nagra, và đủ lanh lẹ để chộp một con Feldunost. Gấu hang, chúng tôi gọi là Urzhadn và thần tiên gọi là Beorn. Chính cái tên đó đã được dùng để đặt tên rặng núi này. Nhưng chúng tôi lại không gọi núi này bằng tên đó. Tên núi là một bí mật, chúng tôi không bao giờ tiết lộ với những loài khác. Và… Nhưng ngay lúc đó Undin mỉm cười cùng các thực khách, rồi ra lệnh: - Smer voth. Đám người hầu lập tức lấy ra những con dao nhỏ, chia phần phịt Nagra lên từng đĩa của các thực khách trừ Arya. Saphira được miếng to nhất. Undin lại tủm tỉm cười, rút con dao găm, cắt một miếng thịt Nagra. Eragon cầm cán dao của nó, nhưng Orik ngăn lại: - Khoan đã. Undin nhóp nhép nhai, gật gù tán thưởng, nuốt xong mới khoan thai nói: - Ilf gauhnith! Quay lại bàn tiệc đang râm ran trò chuyện lại, Orik nói: - Nào, chúng ta bắt đầu thưởng thức chứ. Chưa bao giờ Eragon được nếm một miếng thịt heo như thế: mềm, ngọt ngào, thơm lừng gia vị. Hình như món thịt này đã được ngâm ướp trong mật ong và rượu trái cây. Nó bảo Saphira: “Không hiểu họ làm cách nào mà chín nổi một con heo khổng lồ như vậy được.” Saphira đang say sưa nhấm nháp thịt Nagra, ậm ừ trả lời: “Nướng từ từ, rất từ từ chứ sao.” Orik vừa nhai vừa cắt nghĩa cho Eragon: - Một phong tục có từ thời đầu độc chưa bị kiềm chế giữa các bộ tộc, đó là chủ nhân phải nếm trước món ăn để thực khách yên tâm là món đó an toàn. Quá nhiều món ăn, Eragon vừa thưởng thức từng món vừa chuyện trò của Orik, Arya và những người lùn cho đến xế chiều món cuối cùng mới được dọn ra. Khi những người hầu dọn bàn, Undin hỏi Eragon: - Cậu ăn vừa miệng chứ? - Ngon tuyệt vời. - Rất vui là cậu thấy ngon. Tôi cho dọn tiệc ngoài sân là để cho con rồng có thể ăn cùng chúng ta. Ông ta vừa nói vừa nhìn lom lom Eragon. Nó lạnh cả người. Không hiểu do vô tình hay cố ý, Undin đã đối xử với Saphira không khác gì một con vật. Nó định hỏi riêng ông về những người trùm mặt, nhưng lại sợ làm ông ta khó chịu, nên chỉ nói đơn giản: - Tôi và Saphira rất cám ơn ông. Thưa ông, vì sao chiếc nhẫn lại được quăng vào chúng tôi? Một thoáng yên lặng nặng nề bao trùm khắp sân. Eragon thấy Orik nháy mắt, nhưng Arya lại tủm tỉm cười như hiểu Eragon định làm gì. Undin đặt con dao găm xuống bàn: - Đám người cậu gặp là một bộ tộc rất thê thảm. Trước thời gian kỵ sĩ suy tàn, họ thuộc những gia đình cổ nhất, giàu có nhất trong vương quốc của chúng tôi. Nhưng rồi hai sự sai lầm dẫn họ đến cảnh mạt vận là: họ sống tại sườn phía tây của núi Beor, và tình nguyện đưa những chiến binh dũng cảm nhất phục vụ cho Vardel, thủ lãnh của các kỵ sĩ rồng. Giọng ông bừng bừng phẫn nộ: - Galbatorix và những tên phản đồ khốn kiếp đã tàn sát họ ngay trong thủ đô Uru’baen của cậu. Sau đó chúng bay tới để giết rất nhiều người của chúng tôi. Bộ tộc khốn khổ đó chỉ còn Grimstcarvlorss Anhuin và các cận vệ của bà sống sót. Chẳng bao lâu sau Anhuin cũng qua đời vì quá đau buồn. Các cận vệ của bà tự hội nhóm người còn sống sót là Az Sweldn Rak Anhuin – nghĩa là Nước mắt Anhuin. Họ trùm mặt để luôn tự nhắc nhở đến những gì đã mất và quyết tâm phải phục thù. Eragon cố bình thản, nhưng mặt vẫn nóng bừng vì xấu hổ. Undin tiếp tục: - Vì vậy, hơn một thập kỷ qua họ đã cố công gây dựng lại bộ tộc, chờ ngày phục hận. Thế rồi cậu tới đây với dấu hiệu của vua Hrothgar. Cho dù cậu đã từng phục vụ tận tình tại Farthen Dur, nhưng họ vẫn cảm thấy bị sỉ nhục. Do đó chiếc nhẫn mang ý nghĩa một sự thách đấu, và cũng có nghĩa là Nước Mắt Anhuin sẽ chống lại cậu bằng mọi cách. Họ tự đặt mình là những kẻ thù không đội trời chung cùng cậu. - Có nghĩa là… là tôi sẽ bị ám hại? Undin lẳng lặng nhìn quanh cho đến khi gặp ánh mắt của tu sĩ Gannel, ông lắc đầu cười lớn. Tiếng cười ha hả không được bình thường: - Không đâu, Khắc-Tinh của Tà-Thần ơi, họ không dám đụng vào một người khác. Điều đó bị cấm. Họ chỉ muốn cậu biến, biến khỏi đây thôi. Tuy thấy Eragon vẫn còn thắc mắc, nhưng Undin nói ngay: - Xin vui lòng chuyển đề tài đi, đừng nói đến chuyện kém vui này nữa. Gannel và tôi mở bữa tiệc thân mật này đâu phải để nói về những chuyện đó, đúng không? Eragon chỉ còn biết nói: - Vâng, tôi rất hiểu điều đó. Saphira nghiêm túc nhìn Eragon “Anh biết không? Họ sợ. Sợ và thấy bị xúc phạm vì bị ép buộc chấp nhận sự trợ giúp của một kỵ sĩ rồng.” “Đúng vậy. Họ có thể chiến đấu cùng chúng ta, nhưng sẽ không chiến đấu vì chúng ta đâu.” Sáng hôm sau, khi bước vào khu nhà chính của Undin, Eragon nghe tiếng ông ta đang nói với Orik bằng ngôn ngữ của người lùn. Thấy Eragon, Undin lên tiếng hỏi: - A, Khắc-Tinh của Tà-Thần. Cậu ngủ ngon chứ? - Vâng. - Tốt. Chúng tôi đang bàn về việc khởi hành của cậu. Tôi đã hy vọng cậu sẽ ở lại với chúng tôi lâu hơn, nhưng với tình thế này, hình như tốt nhất là cậu nên lên đường vào sáng sớm mai, để tránh những rắc rối ngoài đường phố. Các vật dụng cần thiết và phương tiện chuyên chở đã sẵn sàng. Theo lệnh đức vua Hrothgar, quân hộ tống sẽ bảo vệ cậu tới Ceris. Tôi đã cho tăng cường từ ba lên bảy chiến binh. - Vậy thì hôm nay tôi phải làm gì? - Tôi đã định mời cậu tham quan những kỳ quan của Tarnag, nhưng lúc này để cậu đi quanh thành phố quả là không nên. Tuy nhiên nếu cậu ưng thuận, Grimstborrith Gannel đã nhờ tôi chuyển lời mời cậu thăm đền Celbedeil hôm nay. Eragon thầm nhủ, hình như lão tộc trưởng này đã quên lời đoan chắc hôm qua, là Az Sweldn rak Anhuin - Nước Mắt Anhuin sẽ không làm hại một vị khách. - Cám ơn. Tôi rất vui lòng được đi thăm đền. Khi ra tới bên ngoài, Eragon hỏi Orik: - Mối oán thù này là sao? Tôi cần phải biết sự thật. Vẻ miễn cưỡng, Orik chậm rãi nói: - Trong quá khứ, những vụ hận thù đến gây đổ máu từ thế hệ này qua thế hệ khác là chuyện bình thường. Nhiều gia đình bị tiêu diệt vì chuyện trả thù liên miên lẫn nhau. Nước-mắt Anhuin thật dại dột khi làm sống lại hủ tục này, vì từ sau chiến tranh các bộ tộc lần cuối cùng, không ai khơi gợi lại cách thức không hay đó nữa… Nhưng cho đến khi họ chưa tuyên bố hủy bỏ lời thề, cậu phải đề phòng sự phản phúc của họ có thể xảy ra trong vòng một năm, thậm chí trong vòng một thế kỷ. Tôi rất tiếc, không ngờ sự thân thiết của cậu với vua Hrothgar lại gây cho cậu mối nguy này. Nhưng, Eragon ạ, cậu không đơn độc đâu. Bộ tộc Ingeitum chúng tôi luôn bên cậu. Eragon vội vã tới bên Saphira đang cuộn mình nằm ngủ ngoài sân. “Em có ngại khi anh đi thăm đền Celbedeil không?” “Việc cần phải đi thì anh cứ đi, nhưng nhớ đem theo thanh Zar’roc”. Eragon nghe theo lời Saphira, đồng thời lấy cuộn mật thư của Nasuada dấu kỹ trong mình. Khi Eragon tới cổng rào, năm người lùn mở cổng, rồi đứng quanh nó, tay nắm chặt rìu và kiếm, mắt chăm chăm quan sát đường phố. Năm gã bảo vệ theo sau khi Eragon bắt đầu trở lại con đường hôm qua đã dẫn nó vào thành Tarnag. Đường phố vắng lặng đến bất thường làm Eragon hơi rùng mình. Cửa sổ, cửa ra vào các nhà đều đóng chặt. Thưa thớt vài khách bộ hành đầu cúi gằm hoặc nhìn sang hướng khác, vội vã tránh xuống những con đường nhỏ. Eragon thầm nghĩ “Rõ ràng những người này sợ bị bắt gặp đi gần mình. Rất có thể họ biết Nước - mắt Anhuin sẽ báo thù bất kỳ ai giúp đỡ Eragon.” Mong mau thoát khỏi con đường vắng ngắt, Eragon rảo chân tới, đưa tay lên, nhưng chưa kịp gõ, một cánh cổng đã mở vào trong và một người lùn mặc áo chùng đen đứng cúi chào. Thắt lại đai kiếm, Eragon bước vào, để đám bảo vệ đứng ngoài. Ấn tượng đầu tiên trong Eragon là màu sắc. Màu xanh mướt của bãi cỏ bao quanh những khối trụ nâng đỡ Celbediel, trông như một tấm áo choàng phủ lên ngọn đồi gìn giữ ngôi đền. Dây trường xuân rủ từ những bức tường cổ kính, sương long lanh trên những cuống lá xanh mơn mởn. Vượt lên tất cả là mái vòm trắng khổng lồ cẩn vàng. Ấn tượng thứ hai là mùi hương. Hoa và nhang hòa quyện với nhau thành một mùi hương vô cùng thanh khiết. Eragon cảm thấy như nó có thể sống chỉ bằng mùi hương này. Sau hết là âm thanh. Vì dù hàng đoàn tu sĩ đi lại trên mặt sàn đá quý muôn màu sắc, nhưng âm thanh duy nhất Eragon nghe được là tiếng vỗ cánh nhẹ nhàng của một con quạ bay cao trên đầu. Người lùn lại cúi đầu, ra dấu cho Eragon theo xuống một đại lộ dẫn tới Celbedeil. Qua những mái hiên, Eragon ngẩn ngơ vì sự giàu sang và những nét tinh xảo phô bày quanh nó. Những bức tường gắn đá quý đủ màu sắc và không một chút tì vết. Vàng đỏ chói lọi viền từ trần, tới tường và nền đá. Bạc và ngọc trai điểm xuyết khắp nơi. Thỉnh thoảng, người lùn lại đưa Eragon qua một bức bình phong cẩn toàn ngọc bích. Ngôi đền không được trang trí một chút vải vóc nào, thay vào đó người lùn đã tạc rất nhiều tượng diễn tả những trận thư hùng giữa ác quỷ và thần linh. Sau khi vượt qua nhiều tầng lầu, Eragon được dẫn qua một cánh cổng bằng đồng chạm nổi, đề vào một gian phòng sàn lát gỗ. Giáp trụ treo kín các bức tường. Trong những giá vũ khí có những thanh gươm biểu hiện quyền uy, giống như thanh kiếm Angela đã sử dụng khi chiến đấu tại Farthen Dur. Tộc trưởng kiêm tu sĩ Gannel đang luyện kiếm cho ba người lùn còn rất trẻ. Vạt áo chùng của ông được xắn cao tới thắt lưng, vũ khí thô sơ bằng gỗ trên tay ông luôn phóng tới như con ong vò vẽ đang cố tình chọc giận. Ba người đệ tử tới tấp tung trả những đường gươm, nhưng chỉ đủ chạm vào vũ khí của thầy. Thép và gỗ chạm nhau chan chát. Một đường loang loáng của Gannel, vũ khí bằng gỗ của ông quét qua đầu và chân ba đệ tử, làm ba chú lùn học trò lăn đùng lên sàn gỗ. Thấy Ergon, Gannel cho các đệ tử lui. Khi ông đang đặt lại vũ khí lên giá, Eragon hỏi: - Tất cả bộ tộc Quan đều là cao thủ kiếm thuật sao? Tu sĩ mà lại có tài năng này cũng là chuyện lạ. - Chúng tôi có quyền tự vệ chứ, đúng không? Rất nhiều kẻ thù dòm ngó mảnh đất này. Eragon gật đầu, rồi nhìn giá vũ khí nói: - Những thanh kiếm kia độc đáo thật. Tôi chưa từng thấy thanh nào giống như thế trừ một lần tôi thấy thanh kiếm của một bà lang trong trận đánh tại Farthen Dur. Tu sĩ Gannel xì hơi qua kẽ răng, chua chát nói: - Angela. Bà ta có được thanh kiếm đó nhờ thắng một tu sĩ trong trò giải câu đố. Đó là một trò bịp xấu xa, vì chỉ chúng tôi mới được phép sử dụng huthvím. Hừ, bà ta và Arya… Ông nhún vai, tới bên một bàn nhỏ, rót hai ly rượu lúa mạch. Đưa một ly cho Eragon, ông nói: - Hôm nay tôi mời cậu đến đây là thể theo yêu cầu của vua Hrothgar. Nhà vua căn dặn tôi, sau khi cậu chấp thuận đề nghị trở thành một thành viên trong tộc Ingeitum, bổn phận của tôi là hướng dẫn cho cậu quen với những phong tục của người lùn. Eragon lẳng lặng nhấp rượu lắng nghe ông nói tiếp: - Trước đây, chưa bao giờ một người ngoài được hướng dẫn về những đức tin huyền bí của chúng tôi. Thậm chí không được nói đến những điều đó với một người thường hay một thần tiên. Nhưng nếu không hiểu biết những điều này, cậu sẽ không thể xác định được ý nghĩa khi trở thành một knurla là gì. Bây giờ cậu đã là một Ingeitum: cậu là máu, là thịt xương, là danh dự của chúng tôi. Cậu hiểu chứ? - Tôi hiểu. - Lại đây. Một tay cầm ly rượu, một tay Gannel dắt Eragon từ phòng luyện kiếm qua năm hành lang rộng, rồi ngừng trước một phòng khói hương nghi ngút. Trước mắt họ là một bức tượng sừng sững từ sàn lên đến tận trần. Một tia sáng yếu ớt rọi trên khuôn mặt trầm ngâm của pho tượng đá. Eragon rụt rè hỏi: - Ai vậy? - Guntera. Vua của các thần linh. Ngài là một chiến binh, đồng thời cũng là một nhà thông thái, nhưng tâm tính lại thất thường. Vì vậy, chúng ta phải dâng hương cầu ngài quan tâm vào những dịp tang ma, hiếu hỉ, gieo trồng. Gannel đưa tay bắt quyết, cúi đầu trước tượng: - Trước mỗi trận đánh, chúng ta phải cầu xin ngài, vì chính ngài đã tạo dựng nên đất này bằng xương của một người khổng lồ và lập nên trật tự trên thế giới. Mọi vương quốc đều là của Guntera. Rồi Gannel hướng dẫn cho Eragon cung cách hành lễ; cắt nghĩa từng câu từng dấu hiệu sử dụng trong việc tỏ lòng tôn kính thần linh. Ông giải mã ý nghĩa những vòng khói hương – chúng tượng trưng cho hạnh phúc và đời sống như thế nào – rồi ông ôn lại những truyền thuyết về Guntera. Ngài đã ra đời ra sao vào lúc sao lên, đã chiến đấu với những quái vật và những người khổng lồ như thế nào để chiếm được một nơi chốn cho dòng giống tại Alagaesia, và bằng cách này ngài đã cưới được Kílf, một nữ thủy thần. Ông đưa Eragon tới trước tượng nữ thần Kílf được tạc bằng đá xanh. Tóc nữ thần bồng bềnh bay, rủ quanh cổ và đóng khung quanh đôi mắt vui tươi màu ngọc tím. Tay bà cầm một đóa thủy cúc và một khúc đá màu đỏ lỗ chỗ những lỗ nhỏ. Eragon chỉ phiến đá hỏi: - Cái gì vậy? - San hô lấy từ đáy biển chung quanh Beors. - San hô? Gannel uống ngọm rượu rồi nói: - Thợ lặn của chúng tôi đã tìm thấy nó khi lặn tìm ngọc trai. Dường như trong nước mặn có những loại đá mọc lên như cây vậy. Những bằng chứng hiển nhiên này chứng tỏ chỉ cần muối và nước cũng làm đá phát triển. Điều đó cắt nghĩa vì sao đá đã tiếp tục xuất hiện trên đồng ruồng của nó tại thung lũng Palancar, dù sau mỗi vụ mùa đều đã được dọn sạch sẽ không còn một cục đá nào. Cả hai tiến qua tượng Urur, thần không khí và thiên đàng, kế ngay bên là tượng Morgothal, thần lửa và là em trai của thần Urur. Chỉ pho tượng màu đỏ thắm, ông tu sĩ lùn kể về tình anh em khăng khít của hai vị thần. Morgothal đốt lâu đài trên trời vào ban ngày, để những tia sáng xuất hiện đầu chúng ta vào ban đêm. Còn thần Urur phải luôn nuôi ăn người em ruột. Hai tượng cuối cùng là: Sindri - mẹ của đất, và Helzvog. Tượng Helzvog khác biệt hẳn với những pho tượng khác. Vị thần khỏa thân khom mình, những ngón tay ve vuốt một tảng đá đen có khuôn khổ cỡ một người lùn. Những bắp thịt trên lưng thần vồng lên như đang cố quá sức mình, tuy vậy vẻ mặt thần lại dịu dàng như đang ở trước một đứa trẻ sơ sinh. Giọng Gannel trầm đục hẳn: - Dù Guntera là vua của các thần linh, nhưng chính Helzvog mới là vị thần dành trọn trái tim của chúng tôi. Chính ngài đã cảm thấy rằng, sau kho các người khổng lồ biến hết, đất đai phải dành cho loài người. Các vị thần khác không đồng ý. Nhưng thần Helzvog bỏ qua lời họ, âm thầm tạo ra người lùn đầu tiên từ đá núi. Khi việc làm của ông bị phát hiện, các thần nổi trận lôi đình. Trong cơn ganh tị, thần Guntera tạo ra thần tiên để kiểm soát Alagaesia cho chính ông. Rồi Sindrri tạo ra những con người đầu tiên từ đất. Kết hợp kinh nghiệm của các thần kia, anh em thần Urur và Morgothal cho rồng xuất hiện. Chỉ riêng nữ thần Kìl không tham gia cuộc ganh đua này. Những loài đầu tiên xuất hiện trên mặt đất như vậy đó. Eragon lắng nghe từng lời và tin vào sự thân thật của ông, nhưng nó không khỏi bật ra câu hỏi: Vì sao ông biết những điều này. Tưởng ông tu sĩ sẽ bực mình khi nghe hỏi, tuy nhiên ông chỉ lẳng lặng gật đầu rồi nói: - Vì đó là những giáo điều chỉ dẫn cho chúng tôi những nghi lễ quan trọng nhất. Tôi biết Orik đã nói với cậu rồi… như… tất cả người lùn khi chết phải được an táng trong đá, nếu không linh hồn sẽ không được về bên Helzvog. Chúng tôi không là đất, không khí hay lửa. Chúng tôi là đá. Là một người thuộc tộc Ingeitum, trách nhiệm của cậu là phải bảo đảm một nơi chôn cất chính đáng cho bất kỳ người lùn nào qua đời trong đơn vị của cậu. Nếu không lo tròn việc đó – có thể vắng mặt vì bị thương hay bị kẻ thù bắt - cậu sẽ bị Hrothgar trục xuất và tất cả mọi người lùn chỉ được biết tin về cậu sau khi cậu qua đời. Cậu còn phải học hỏi nhiều, nhưng hãy nhớ kỹ những gì tôi nói hôm nay và hãy thi hành thật tốt. - Tôi sẽ không quên những lời chỉ dạy của ông. Vẻ mặt hài lòng, Gannel dẫn Eragon lên một cầu thang xoắn ốc. Vừa bước lên ông vừa lấy trong vạt áo chúng ra một sợi dây chuyền luồn qua cán một cái búa nhỏ xíu bằng bạc. Trao dây chuyền cho Eragon, ông cắt nghĩa: - Đây cũng là việc nhà vua nhờ tôi. Đức vua e ngại Galbatorix có thể cóp nhặt thông tin từ tâm trí Tà Thần, Ra’zac hoặc binh lính - tất cả những kẻ đã từng gặp cậu - để biết hình dung của cậu. - Chuyện đó có gì đáng sợ? - Có chứ. Vì Galbatorix sẽ thu được hình ảnh cậu. Rất có thể lão đã làm rồi. Eragon lạnh người, tự trách: “Đáng lẽ mình phải nghĩ đến chuyện này từ trước rồi.” Gannel tiếp: - Khi nào cậu còn đeo sợi dây chuyền này thì không kẻ nào có thể thu được hình ảnh cậu và con rồng. Đích thân tôi đã làm phép và niệm chú, vì vậy nó sẽ ngăn được những kẻ ý chí mạnh mẽ nhất muốn thu hình ảnh hoặc len lỏi vào tâm trí cậu. Nhưng phải nhớ một điều: khi hoạt động, sợi dây này sẽ hút sức lực cậu cho đến khi được gỡ ra hoặc sự nguy hiểm đã chấm dứt. - Vậy khi tôi ngủ, nếu chó chuyện xảy ra và dây chuyền này hoạt động, nó sẽ hút hết nội lực của tôi sao? - Ồ không. Nó sẽ đánh thức cậu chứ. Eragon vân vê cái búa nhỏ xíu, ngẫm nghĩ: “Rất khó thoát khỏi bùa chú của kẻ khác, nhất là bùa chú của Galbatorix. Nếu ông tu sĩ này có khả năng chống lại chuyện đó, không biết trong món quà này của ông ta có còn ẩn chứa những thứ bùa gì nữa không?” Nó chợt nhận ra một hàng chữ cổ trên cán búa. Astim Hefthyn. Lên hết cầu thang, Eragon hỏi: - Vì sao người lùn cũng viết chữ cổ giống như người thường? Lần đầu tiên từ khi gặp gỡ, Eragon mới thấy ông tu sĩ già cười. Tiếng cười ha hả sảng khoái vang dội khắp ngôi đền. - Trái lại, loài người sử dụng chữ viết của chúng tôi. Khi tổ tiên của cậu xuất hiện tại Alagaesia, họ đều mù chữ. Không bao lâu sau, họ đã quen với chữ của chúng tôi. Thậm chí trong ngôn ngữ của loài người có những từ xuất phát từ ngôn ngữ của người lùn. Như chữ father (cha) nguyên gốc là farthen. - Như vậy thì Farthen Dur nhĩa là… - Cha của chúng ta. Eragon theo Gannel qua một gian phòng uốn cong, ngay dưới mái vòm. Từ đây có thể nhìn bao quát cảnh núi non bao la hùng vĩ sau Tarnag cùng những tầng bậc thang của thành phố xa xa phía dưới. Eragon chỉ liếc qua phong cảnh bên ngoài, vì trên bức tường trong gian phòng là một bức tranh dài tưởng như bất tận, một minh họa khổng lồ, diễn tả từ thời người lùn được tạo dững dưới bàn tay thần Helzvog. Những khuôn mặt và sự kiện hiển hiện sống động như thật trong từng chi tiết. Eragon mê mẩn nhìn: - Bức tranh này được làm bằng cách nào vậy. - Mỗi cảnh dược chạm trên những miếng nhỏ, tráng men rồi ghép lại. - Sao không vẽ bằng sơn thông thường có phải dễ hơn không? - Dễ hơn nhưng không thể tồn tại nhiều thế kỷ. Thậm chí cả thiên niên kỉ mà vẫn không giảm vẻ rực rỡ sống động như sơn dầu. Như cảnh đầu tiên này đã được khắc chỉ mười năm sau khi phát hiện ra Farthen Dur, trước cả giai đoạn thần tiên đặt chân lên Alagaesia. Ông nắm tay Eragon từ từ đi dọc bức tranh. Mỗi bước như đưa hai người trở về từ muôn năm lịch sử. Eragon thấy đã có thời người lùn là những du mục trên những cánh đồng bao la bất tận, cho đến khi đất đai nóng đến nỗi trở nên khô cằn hoang vu, họ bắt buộc phải di chuyển về phía nam, tới rặng Beor. Nó bàng hoàng nhận ra, đó là nguyên nhân thành hình của sa mạc Hadarac. Eragon cũng được thấy từ quá trình thuần hóa loài dê Feldunost ra sao, tới công trình chạm trổ tảng ngọc Isidar Mithrim, buổi họp đầu tiên giữa người lùn và thần tiên, những lễ đăng quang của các vua người lùn. Hình ảnh rồng thường xuyên xuất hiện trong những cảnh phun lửa đốt nhà và tàn sát người lùn. Eragon không thể dằn lòng không tức giận. Eragon chậm bước khi tới trước cảnh diễn tả một sự kiện mà nó đang hy vọng được thấy: chiến tranh giữa thần tiên và loài rồng. Đây là cảnh người lùn hiến tặng một khoảng không mênh mông trên đầu trời Alagaesia cho hai loài - rồng và thần tiên - thỏa thích hủy hoại nhau. Nó rùng mình khiếp đảm trước những hình ảnh đầu rơi máu đổ. Đoạn tranh này kéo dài nhiều thước, càng về sau cảnh tượng càng kinh khủng hơn những hình ảnh trước. Rồi màu sắc tươi dần dẫn đến hình ảnh một chàng trai thần tiên trẻ tuổi quỳ bên dốc đá, hai tay ôm một quả trứng rồng màu trắng. Eragon thì thầm: - Đó là… - Đó là Eragon. Là vị kỵ sĩ rồng đầu tiên. Đây là bức chân dung giống nhất trong lần ông đồng ý ngồi làm mẫu cho các họa sĩ của chúng tôi. Eragon cúi sát bức tranh ngắm nghía khuôn mặt người trùng tên với nó, nghĩ thầm: “Mình cứ tưởng ông ấy già hơn nhiều.” Nhìn đôi mắt xếch, cái mũi khằm và cái cằm nhọn, Eragon thấy nét mặt giữ dằn này hoàn toàn khác hẳn nó. Nhưng đôi vai nhô cao, căng thẳng, gợi nó ngớ lại khi phát hiện trứng của Saphira. Vuốt ve nền men trắng, Eragon nhủ thầm: “Tôi và ông không quá khác nhau đâu. Khi tai tôi giống như ông, chúng ta thật sự sẽ thành đôi huynh đệ vượt thời gian… Tôi đang tự hỏi, ông có tán thành những hành động của tôi không?” Ít nhất Eragon cũng thấy nó và vị thần tiên đó đã có cùng một chọn lựa giống nhau: cả hai đều đã giữ lại trứng rồng. Nghe tiếng cửa mở, Eragon quay lại. Arya tiến từ đầu phòng lại, đôi mắt cô liếc qua bức tranh với vẻ dửng dưng mà từng thấy kho cô đối đầu với Hội-đồng Tiền-bối. Arya cúi đầu trước Gannel: - Chào tộc trưởng. - Chào Arya. - Tộc trưởng đang giáo dục Eragon bằng mớ chuyện thần thoại của các ông phải không? Gannel mỉm cười nói ngay: - Người ta ai cũng phải hiểu biết đức tin của các xã hội mà mình là một thành viên chứ. - Nhưng hiểu biết không đồng nghĩa với đức tin. Chỉ một trụ đá đỡ mái vòm chạm trổ, Arya nói tiếp: - Cũng không có nghĩa là những hy sinh của bộ tộc đã làm, để an ủi và đem sự bình an tâm hồn cho những người anh em của chúng tôi sao? - Tôi không từ chối gì hết, chỉ hỏi vì sao những việc làm tốt lành như chia sẻ sự giàu có của quý vị với những con người khốn khổ, đói khát, không cửa nhà, hay thậm chí tiếp tế cho Varden lại không được làm. Trái lại, quý vị phung phí tiền bạc trong việc trang trí lâu đài, đền thờ… dành cho những khát vọng của riêng mình. - Đủ rồi. Ông tu sĩ già nắm chặt tay, mặt đỏ bừng. Arya vẫn tươi cười nói: - Không có chúng tôi, ruộng vườn chết khô vì hạn hán. Không có chúng tôi, lũ lụt khắp nơi, gia cầm gia súc lăn đùng ra chết dịch, trời đất sụp đổ vì sự giận dữ của thần linh. Chỉ có những lời cầu nguyện của chúng tôi mới tránh được những tiên tai ghê gớm đó. Nếu không cầu thần Helzvog thì… Eragon rối cả trí, không hiểu nổi những lời bóng gió của Arya ngụ ý gì. Chỉ qua những câu trả lời một cách gián tiếp của ông tu sĩ lùn, nó lờ mờ đoán ra Arya muốn ám chỉ là những vị thần của người lùn không có thật. Sau cùng Arya đưa tay ngăn lời Gannel: - Đó là sự khác biệt giữa chúng ta, thưa tộc trưởng. Ông đã hiến mình cho những điều ông tin là có thật nhưng không thể chứng minh. Còn chúng tôi lại không thể đồng ý như vậy được. Quay qua Eragon, nàng tiên nói: - Nước-mắt Anhuin đang kích động người dân Tarnag chống lại kỵ sĩ. Tộc trưởng Undin , và cả tooi, tin rằng tốt nhất là kỵ sĩ nên ở trong khuôn viên của ông cho đến khi chúng ta rời khỏi nơi này. Eragon muốn được thấy và tìm hiểu hơn nữa về ngôi đền, nhưng nếu có rắc rối, nó nên ở gần Saphira thì hơn. Nó cúi đầu chào Gannel và xin lỗi vì phải chia tay quá sớm. Ông bảo: - Tôi hiểu mà, Khắc-Tinh của Tà-Thần. Cậu không cần phải xin lỗi. Còn cô, Arya, cứ làm điều cần làm. Cầu xin Guntera phù hộ cô. Mười hai chiến binh hộ tống Arya và Eragon xuyên qua thành phố. Trên đường đi, Eragon nghe những tiếng la thét giận dữ từ một bậc thang phía dưới. Một cục đá vèo vèo ném trúng mái nhà gần ngay chỗ nó đi qua. Về tới phòng, Eragon vội mặc áo giáp, đeo găng, cuốn xà-cạp, đội mũ sắt và vơ cái khiên cùng túi hành trang, rồi chạy ra sân, tới ngồi bên Saphira. Cô rồng nhận xét: “Tarnag nháo nhào lên như ong vỡ tổ vậy.” Một lát sau Arya xuất hiện cùng lúc với một toán năm chục người lùn trang bị vũ khí. Đám chiến binh này tụ tập giữa sân vừa thì thầm bàn tán vừa nôn nóng nhìn những cánh cổng gài kín và những rặng núi phía sau. Ngồi xuống bên cạnh Eragon, Arya cũng thì thầm: - Họ sợ đám đông ngăn cản chúng ta tới nơi neo bè. - Saphira vẫn có thể đưa chúng ta tới đó mà. - Còn Hỏa Tuyết và đám lính bảo vệ thì sao? Không, nếu bị ngăn cản, chúng ta phải đợi cho đám đông nguôi ngoai đã. Nhìn bầu trời đang tối dần, cô nói nhỏ: - Không may là chàng đã làm mất lòng quá nhiều người lùn. Nhưng dù sao, có lẽ cũng không thể tránh khỏi điều dó. Vì bản chất người lùn bao giờ cũng có chuyện để gay go; được lòng người này, thì lại mất lòng người khác. - Phải chi tôi từ chối đề nghị của vua Hrothgar. - A, cả đề nghị của Nasuada nữa chứ. Không. Chàng không đáng trách. Nếu có lỗi, thì chính là lỗi tại Hrothgar. Đáng lẽ ông ta phải tiên đoán được những phản ứng của một số người lùn chứ. Im lặng một lúc, Eragon hỏi: - Nàng có gia đình ở Du Weldenvarden không? Lẳng lặng một lúc lâu, Arya mới trả lời: - Tôi không còn người thân nào hết. - Vì… vì sao lại thế? Nàng ngập ngừng: - Họ phản đối việc tôi quyết định làm sứ thần của nữ hoàng. Khi tôi bỏ qua những lời phản đối đó và xăm dấu hiệu yawe lên vai - một minh chứng tự hiến mình cho sự nghiệp cao cả của giống nòi – cũng như trường hợp chàng nhận chiếc nhẫn từ ông Brom vậy, gia đình đã từ tôi. - Nhưng chuyện đó xảy ra từ… hơn bảy mươi năm trước rồi mà. Arya quay đi, giấu mặt sau làn tóc rủ. Eragon cố tưởng tượng vì sao nàng từ bỏ gia đình để đến chung sống với hai loài hoàn toàn khác biệt nhau. Nó hỏi: - Còn thần tiên nào cũng sống ngoài Du Weldenvarden không? - Ba chúng tôi được đưa ra khỏi hoàng cung Ellesméra. Faolin và Glenwing thường đi cùng tôi trong những chuyến luân chuyển trứng rồng giữa Du Weldenvarden và thủ phủ Tronjheim. Chỉ mình tôi sống sót trong lần bị Tà Thần Durza phục kích. - Họ như thế nào? - Họ là những chiến binh kiêu hãnh. Glenwing thích chuyện trò với chim bằng tâm tưởng. Anh ta có thể đứng suốt mấy giờ trong rừng giữa bầy chim lắng nghe chúng hót. Sau đó Glenwing hát lại cho chúng tôi nghe những bài ca rất dễ thương của loài chim. - Còn Faolin? Arya không trả lời, chỉ nắm chặt chuôi thanh kiếm. Eragon hỏi sang chuyện khác: - Sao nàng có vẻ không ưa tu sĩ Gannel lắm? Nàng quay lại, rồi bất ngờ đưa ngón tay nhẹ nhàng vuốt má Eragon làm nó ngạc nhiên đến ngẩn người: - Chuyện đó để dịp khác hãy nói. Rồi Arya đứng dậy bỏ đi. “Vậy là sao? Chẳng hiểu gì cả!” Eragon bối rối nghĩ thầm. Ả rồng có vẻ khoái chí vươn cổ và đuôi cuốn lấy Eragon rồi tỉnh bơ ngủ khì. Khi tia sáng đầu tiên xuất hiện trên nền trời (tuy nhiên dưới thung lũng trời vẫn âm u tới tận trưa) Eragon đánh thức Saphira dậy. Những người lùn đang bận rộn đóng gói vũ khí để có thể âm thầm đi qua Tarnag. Tộc trưởng Undin còn yêu cầu Eragon lấy vải cuốn quanh móng của Hỏa Tuyết và Saphira. Khi tất cả đã sẵn sàng, Undin và các chiến binh bao bọc quanh Eragon, Arya và Saphira. Cánh cổng - những bản lề đều đã được thoa dầu - nhẹ nhàng mở, không gây một tiếng động nhỏ nào. Cả đoàn lặng lẽ tiến về hướng bờ hồ. Tarnag dường như còn say ngủ, thành phố vắng hoe. Eragon chỉ thấy một vài người lùn im lặng ngó theo, rồi bỏ đi êm ru như bóng ma biến vào ánh sáng chạng vạng. Tại những cổng của mỗi bậc thang, tên lính gác vẫy tay cho qua, không hỏi han gì. Không bao lâu, họ đã xuống tới bậc cuối của Tarnag, để tiến tới bờ kè đá sát mé nước đen ngòm. Hai chiếc bè lớn buộc cạnh bờ chờ sẵn. Trên chiếc bè thứ nhất có ba người lùn, chiếc thứ hai có bốn người. Eragon phụ những người lùn trên bờ bịt mắt Hỏa Tuyết, rồi kéo con ngựa bướng bỉnh xuống chiếc bè thứ hai. Hỏa Tuyết bị trói quỳ hẳn xuống. Trong khi đó Saphira đã lặn xuống hồ, chỉ để ló đầu trên mặt nước. Undin nắm cánh tay Eragon: - Chúng ta chia tay tại đây. Những người của tôi sẽ đi cùng cậu tới Du Weldenvarden. Eragon vừa mở miệng, ông ta chặn ngay: - Đừng, cậu không phải nói lời cám ơn. Đây là bổn phận của tôi. Tôi chỉ cảm thấy ngượng ngùng vì thời gian cậu ở đây đã bị vẩn đục vì lòng thù oán của Az Sweldn rak Anhuin. Eragon cúi chào, rồi cùng Orik và Arya lên chiếc bè thứ nhất. Dây neo được tháo gỡ và những người lùn đẩy sào cho bè đã bềnh bồng bên Saphira vào cửa sông Az Ragni. “Triều đình đã xâm hại quê hương mình!” Roran vừa nghĩ vừa lắng nghe những tiếng rên la đau đớn của những người bị thương vì cuộc chiến đêm qua. Sợ hãi và căm phẫn làm anh rùng mình lạnh khắp người. Dường như những hành động của hai tên Ra’zac đã hủy hoại hoàn toàn sự hồn nhiên còn lại của tuổi thơ anh. Roran cảm thấy một nỗi buồn thăm thẳm tràn ngập tâm hồn. Để bà lang Gertrucde săn sóc những người bị thương, Roran lang thang tới nhà chú Horst. Nhìn những chướng ngại vật rát rác khắp nơi, những miếng ván, những chiếc thùng, những đống đá và hai sườn xe cháy sém, anh thấy sao chúng mong manh tội nghiệp quá. Mấy dân làng đi qua anh với đôi mắt lờ đờ vì bàng hgoàng, đau đớn và kiệt sức. Roran cảm thấy chưa từng bao giờ mệt mỏi như lúc này. Hai đêm rồi, anh không hề chợp mắt. Chân tay rã rời đau nhức vì chiến đấu. Bước vào nhà, anh thấy thím Elain đang đứng ngoài cửa phòng ăn, lắng nghe những tiếng bàn cãi gay gắt từ trong phòng. Thím vẫy Roran lại. Sau khi đánh bại sự phản công của Ra’zac, những nhân vật tai mắt trong làng bàn tính phải làm gì và quyết định chú Horst có nên bị trừng trị vì đã gây ra cớ sự không. Họ đã thảo luận suốt buổi sáng. Roran ngó vào phòng. Ngồi quanh chiếc bàn dài gồm có Birgit, Lorin, Sloan, Gedric, Delwin, Fisk, Morn và một số người khác nữa. Chú Horst ngồi đầu bàn. Kselt đang chống khuỷu tay khẳng khiu lên bàn, nói lớn: -… và tôi phải nói thẳng rằng như vậy là ngu ngốc và bất cẩn. Không có lý do gì để liều mạng… Chú Morn ngoắt tay nói: - Chúng ta đã nói về vấn đề này rồi. Dù chuyện đã xảy ra nên làm hay không cũng không nên bàn thêm nữa. Vấn đề Qiumby là bạn tôi, tôi cũng là bạn của mọi người tại đây. Nghĩ đến những con quái vật đó sẽ làm gì Roran như đã làm với Quimby, tôi không khỏi rùng mình ghê sợ… Lão Sloan hộc lên: - Dễ ợt, giết ráo tụi lính đi. - Rồi sau đó thì sao? Chúng sẽ đưa thêm quân đến và chúng ta tắm trong biển máu? Còn vấn đề giao nạp Roran cũng không mang lại kết quả tốt đẹp gì. Các anh không nghe Ra’zac nói gì sao? Chúng sẽ giết chúng ta nếu ta bảo vệ Roran, nhưng nếu chúng ta nộp mạng Roran, chúng sẽ cho chúng ta được làm… nô lệ. Có thể quý vị nghĩ khác, nhưng riêng tôi thà chết chứ không làm nô lệ suốt đời. Morn ngừng lại, rồi lắc đầu, nghiến răng nói: - Làm nô lệ chúng ta cũng không sống sót nổi đâu. Fisk lên tiếng: - Hay chúng ta bỏ đi. Kiselt nói ngay: - Đi đâu? Phía sau là núi Spine. Trước mặt là con đường đã bị lính ngăn chặn và… trên tụi nó là toàn thể triều đình. Thane bỗng chỉ tay thẳng chú Horst thét lên: - Tất cả chuyện này là do lỗi tại anh. Chúng sẽ đốt nhà, giết hại vợ con chúng tôi là vì anh. Chính anh! Chú Horst đứng bật dậy, làm chiếc ghế đổ ra sau. - Danh dự con người của anh đâu? Anh có thể ngồi im nhìn chúng ăn thịt chúng tôi sao? - Đánh lại chúng chẳng khác nào tự tử. Thane vừa nói vừa nhìn mọi người rồi hầm hầm vượt qua Roran, ra khỏi phòng. Thấy Roran, Gedric ngoắt tay: - Vào đi, chúng ta đang chờ cháu. Nhìn những chặp mắt đang soi và mình, Roran e dè hỏi: - Chờ cháu làm gì ạ? Gedric nói: - Chú thấy mọi người đã đồng ý là sẽ không giao cháu cho quân triều đình. Việc duy nhất phải làm lúc này là sửa soạn nghênh chiến với chúng. Horst sẽ lo rèn mũi giáo và một số vũ khí khác, Fist đã nhận lời làm khiên, rất may là xuởng mộc của ông ấy không bị cháy. Cần có người lo vấn đề phòng thủ. Chúng ta muốn cháu lãnh nhiệm vụ này. Sẽ có nhiều người phụ với cháu. Roran gật đầu: - Cháu sẽ cố gắng. Thím Tara đứng bên chú Morn, cao vượt hẳn chồng. Tara to con, tóc đen, đôi tay rắn chắc, dư sức kéo phăng hai gã đàn ông đang đánh nhau, quăng mỗi anh mỗi nẻo nhẹ nhàng như bẻ cổ gà. Thím bảo Roran: - Ráng làm cho đàng hoàng, nếu không lại thêm cả đống người chết đấy. Quay qua Horst, thím nói: - Trước hết hãy lo chuyện chôn cất đã, rồi còn chuyện chuyển trẻ con đến trại nhà Cawley cho an toàn. Chị cũng nên đi, Elain ạ. Elain bình tĩnh nói: - Tôi sẽ không rời anh Horst. - Nhưng đây không phải chỗ dành cho người mang bầu năm tháng. Chị sẽ mất đứa nhỏ nếu cứ chạy đôn chạy đáo khắp nơi như thế này. - Nhưng ở xa, không biết chuyện gì đang xảy ra tại đây còn làm tôi khổ hơn. Tôi sẽ ở lại như những người vợ khác trong làng ở lại. Chú Horst đến bên vợ, dịu dàng cầm tay thím nói: - Anh cũng mong em ở bên anh, nhưng trẻ con thì nên đi. Cawley có thể săn sóc chúng. Tuy nhiên, trước hết chúng ta phải rõ đường từ đây tới đó có được an toàn không. Buổi họp chấm dứt, mọi người tản ra khắp làng Carvahall, để rồi sau đó họ - cùng hầu hết người làng - đều tề tựu trong một nghĩa trang nhỏ phía sau nhà bà lang Gertrude. Mười tử thi cuốn vải trắng đặt bên mười ngôi huyệt. Trên ngực họ là một nhánh độc cần và cổ được đeo một giải bùa bằng bạc. Bà Gertrucde đứng hàng đầu ngân nga đọc tên từng người quá cố: Parr, Wyglif,Ged, Bardrick, Farols, Hale, Kelby, Melkolf và Albem. Bà đặt lên mắt người chết những viên sỏi màu đen, vươn hai tay lên cao, ngửa mặt nhìn trời, rồi cất tiếng run run giọng cầu hồn. Giọng bà bỗng vút cao và những giọt nước mắt trào ra từ đôi mắt khép chặt. Râm ran tiếng thở dài não nuột trong đám dân làng. Bà hát về trần gian, về đêm tối, về nỗi đau khổ triền miên của kiếp người. Khi tiếng ngân buồn thảm cuối cùng chìm vào tĩnh lặng, tang gia cất giọng nhắc nhở những hành vi dũng cảm, những tình cảm sâu đậm của người quá cố. Sau đó là lễ hạ huyệt. Roran vừa lắng nghe vừa lẳng lặng nhìn sang những nấm mồ vô danh của ba người lính triều đình. “Một người bị Nolfavrell giết, còn hai người chết bởi tay mình.” Anh tưởng như còn nghe tiếng răng rắc của xương dưới lớp thép của búa. Roran cố nén để không ói mửa trước mọi người. “Mình chính là kẻ hủy hoại hai sinh mạng.” Chưa bao giờ Roran nghĩ đến chuyện giết người, vậy mà anh là kẻ giết người nhiều hơn bất kỳ dân làng Carvahall nào khác. Hình như trên trán anh đã được đánh dấu bằng máu. Roran hấp tấp tời đám tang, thậm chí không dừng lại để gặp Katrina, để leo lên một điểm cao, hầu có thể quan sát toàn cảnh Carvahall. Nhà cửa trong làng nằm cách xa nhau, rất khó lập vành đai bảo vệ. Anh thầm nhủ: Bảo vệ sườn phía tây đã có dòng Anora, nhưng tất cả phần còn lại của Carvahall đều bỏ trống. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, lấy gì để có thể lập nên một tuyến phòng thủ vững chắc đây? Chạy vội về giữa làng, Roran la lớn: - Tất cả ai đang ở không, làm ơn giúp một tay chặt cây nào. Từ những ngôi nhà, một số đàn ông thanh niên chạy ra. Roran vẫn luôn miệng thúc dục: - Lẹ lên, lẹ lên. Càng đông càng tốt. Darmmen, một cậu con trai của ông Lorring, chạy lại hỏi: - Kế hoạch của cậu là gì vậy? Roran nói lớn để mọi người cùng nghe: - Chúng ta cần một tường rào bảo vệ quanh làng, một tường rào càng dày càng hiệu quả. Tôi tính, nếu chúng ta chặt cây đặt ngang đường, vạt nhọn các cành, thì Ra’zac sẽ khó vượt qua nổi. Orval hỏi: - Chừng bao nhiêu cây mới đủ? Roran nhẩm tính chu vi quanh làng rồi nói: - Ít nhất là năm mươi. Sau mươi càng tốt. Khoan… Anh đếm số người có mặt: bốn mươi tám người. - Nếu mỗi người chặt được một cây trong vòng một tiếng nữa, coi như ổn rồi. Có thể được không? Orval phản đối: - Này, cậu hơi coi thường tớ rồi đó. Năm lên mười tớ đã chặt một cây chưa đến một tiếng. Darmmen hỏi: - Sao không lấy cây mâm xôi phủ lên? Kẻ nào leo qua nổi những cành gai góc như thế được chứ? Roran cười: - Hay, ý kiến rất tuệt. Nào, còn chú bác nào có con trai, bảo các anh em dùng ngựa kéo cây về. Tất cả vội vàng chạy đi lấy cưa, rìu bắt tay vào việc. Roran níu Darmmen lại nói: - Nhớ để nguyên cành để đẽo nhọn, đừng tỉa. - Còn cậu đi đâu? - Mình sẽ đi lo thêm tuyến phòng thủ khác. Nói xong Roran chạy đến nhà Quimby. Birgit đang dùng gỗ đóng chặn bên trong cửa sổ, thấy Roran, chị ta hỏi: - Chuyện gì? Cắt nghĩa vắn tắt vấn đề về tường rào cây, rồi Roran bảo: - Em muốn đào một chiến hào bên trong hàng rào cây, để gây thêm khó khăn cho kẻ nào muốn đột nhật vào làng. Chúng ta sẽ cắm chông nhọn dưới hào và… Birgit nhíu mày: - Nhưng sao lại là tôi? - Vì, cũng như em, chị căm hờn tụi Ra’zac. Em biết chị sẽ làm mọi cách để ngăn chặn chúng. - Hay lắm. Tôi sẽ làm theo ý cậu. Nhưng, nghe cho kỹ Roran Garrosson, tôi sẽ không bao giờ quên chính gia đình cậu đã gây nên cái chết của chồng tôi. Chị ta bước vội đi, không để Roran kịp trả lời. Roran đành chấp nhận lời oán trách của Birgit. Với nỗi đau đớn vì chồng chết thảm, chị ta không đòi máu trả nợ máu đã là may mắn lắm rồi. Lắc đầu, Roran chạy ra cửa ngõ chính dẫn vào Carvahall. Đây là yếu điểm của làng, cần phải lập rào phòng thủ gấp đôi. Không thể để Ra’zac một lần nữa cho nổ tung rào cản. Gọi thêm Baldor, rồi cùng cậu ta, Roran bắt đầu đào một hố sâu ngang đường. Vừa đào Baldor vừa bảo: - Mình không giúp cậu lâu được đâu, ông già cần mình phụ một tay trong xưởng rèn. Không ngẩng lên, Roran chỉ ậm ừ đồng ý. Vì trong trí anh đang tràn ngập hình ảnh những người lính bị giết đêm qua. Ánh mắt họ nhìn khi bị đâm và cái cảm giác skhủng khiếp khi anh nện cây búa xuống một thân xác con người như đó là một thân cây mục, làm anh cảm thấy buồn nôn. Roran ngừng tay, lắng nghe tiếng huyên náo của dân làng đang rộn rịp thu xếp, sẵn sàng chờ đợi một cuộc tấn công. Sau khi Baldor đi, Roran tiếp tục đào hố sâu tới ngang hông, rồi mới tới xưởng mộc của Fisk. Ông thợ mộc cho ngựa kéo năm khúc gỗ dài tới hố Roran đã đào. Roran chôn mấy khúc gỗ dựng đứng trong hố, tạo thành một bức tường khó thể vượt qua. Đang nện đất cho chặt những chân rào, Darmmen chạy lại: - Có cây rồi, mọi người đang đặt cho đúng vị trí. Roran cùng Darmmen chạy tới phía bắc làng. Mười hai người đang hì hục kéo bốn cây thông cành lá còn xanh, xếp thành hàng, trong khi đó có một bầy ngựa chạy ngược lên đồi dưới tiếng roi quất đen đét của một chú nhóc. Darmmen bảo: - Tụi mình kéo cây về, còn đa số ở lại chặt thêm. Đám đó chặt khí thế lắm. - Tốt. Càng nhiều càng tốt, còn nhiều chuyện phải làm. Chỉ đống cây mâm xôi bên bờ ruộng nhà Fisk, Darmmen bảo: - Mình cắt dọc sông Anora đó. Còn bao la, cậu cứ dùng thoải mái. Quay về hướng đông, Roran thấy một dãy dài đàn bà, trẻ em và cả đàn ông đang đào đất. Lại gần, anh nhìn Birgit đang oang oang vừa ra lệnh như một vị tướng, vừa phân phát nước uống cho mọi người. Chiến hào rộng chừng thước tám, sâu gần một thước. Khi Birgit ngừng tay để thở, Roran bảo: - Phục chị thật. Không nhìn Roran, chị vén mớ tóc lòa xòa trước mắt nói: - Dễ mà, tụi này cày một đường trước rồi mới đào. - Chị còn cái xẻng nào cho em mượn không? Birgit chỉ đống nông cụ đầu kia chiến hào. Tiến lại gần, Roran chợt thấy, trong đám lưngh nhấp nhô của những người đào đất, mái tốc màu đồng của Katrina. Kế bên cô, lão Sloan đang nóng nảy hầm hầm hất tung đống đất mềm. Mắt lão hoang dại, hai hàm răng nhe ra như hăm dọa ai giữa cặp môi lem nhem bùn đất. Roran bước vội qua lão Sloan, tránh đôi mắt đỏ ngầy như máu của lão. Vơ một cây xẻng, anh cắm cúi xúc đất, cố quên những lo âu tràn ngập trong lòng. Cả ngày trôi qua trong sự tất bật của mọi người. Không ai ngừng tay để ăn hay nghỉ ngơi. Hố chiến hào càng lúc càng sâu hơn, kéo dài tới bờ sông Anora. Đất đào lên được đắp thành ụ bờ trong hào. Kẻ nào lọt xuống hố cũng khó có thể leo lên. Bức tường rào bằng thân cây hoàn tất vào buổi trưa. Roran bỏ xẻng, chạy lại phụ với mọi người vạt nhọn những cành cây, rồi phủ những bụi mâm xôi đầy gai lên trên. Thỉnh thoảng họ lại phải kéo cây, mở lối cho những người, chẳng hạn như Ivor, lùa gia súc về làng. Tới chiều tối, Roran không ngờ hàng rào phòng thủ lại bề thế và vững chắc đến như vậy được. Tuy nhiên mọi người vẫn phải làm việc thêm mấy tiếng mới hoàn chỉnh theo đúng ý của anh. Ngồi trên mặt đất, nhai mẩu bánh mì, Roran ngước hai mắt mệt mỏi nhìn những vì sao. Một bàn tay đặt lên vai anh, cùng tiếng nói của Albriech: - Này, của cậu đó. Albriech đưa cho Roran một cái khiên bằng gỗ ghép và một cây giáo dài gần hai thước, rồi tiếp tục đi phân phối vũ khí cho những người khác. Roran vào nhà chú Horst lấy thêm cây búa, rồi chạy l chỗ Baldor đang đứng cùng hai người canh gác lũy phòng thủ: - Chừng nào muốn nghỉ, cứ đánh thức mình. Dặn dò Baldor xong, Roran ngả mình xuống bãi cỏ ngay dưới mái hiên của một ngôi nhà gâầnđó. Đặt vũ khí sát bên mình, Roran vừa nhắm mắt; trong bóng tối, ngay bên trái, bỗng có tiếng thì thầm: - Roran. - Katrina? Roran ngồi bật dậy, trong khi cô mở hé ngọn đèn đặt bên cạnh anh. Roran hỏi: - Em ra đây làm gì? - Em muốn gặp anh. Trong bóng tối lờ mờ đôi mắt cô đầy bí ẩn nổi bật trên màu da xanh xao. Nắm tay Roran, Katrina kéo anh ra khỏi tầm nghe của Baldor và hai người kia. Roran mệt mỏi và lo lắng tới nỗi không đáp lại nụ hôn dịu dàng của người yêu. Cô lùi lại nhìn anh đăm đăm: - Có chuyện gì vậy, Roran? Roran bật lên tiếng cười khan: - Chuyện gì? Chuyện gì ư? Mỗi khi cố nghỉ ngơi thư giãn, anh lại thấy mấy người lính đầm đìa máu dưới lưỡi búa của mình. Và những đôi mắt, những đôi mắt của những con người anh đã giết… nhìn anh. Katrina, họ biết là họ sắp chết, một cái chết không thể nào tránh được. Họ biết… Anh biết… Nhưng không thể nào làm khác được. Không thể… Những câu nói nhỏ dần cùng những giọt nước mắt lăn trên má Roran. Katrina ôm đầu người yêu, nhẹ đong đưa như ru em bé, trong khi Roran tấm tức khóc. Anh khóc cho người cha thương yêu, cho đứa em họ côi cút, khóc cho người cha thương yêu, cho đứa em họ côi cút, khóc cho Parr, Quimby và những người đã chết khác; khóc cho chính mình và khóc cho số phận nghiệt ngã của Carvahall. Roran khóc cho đến khi mọi xúc cảm trong anh khô cạn, anh thấy mình héo hắt, trống rỗng như một cọng rơm. Roran hít một hơi dài, ngước nhìn Katrina. Mặt cô cũng đầm đìa nước mắt. Roran đưa ngón tay vuốt những giọt lệ như những hạt kim cương long lanh trong đêm tối: - Katrina, tình yêu của anh. Anh không có gì ngoài tình yêu dành cho em. Nhưng… anh vẫn phải hỏi. Katrina… em… em đồng ý làm vợ anh không? Trong ánh sáng nhạt nhòa của ngọn đèn lồng mở hé, Roran thấy mặt cô đang tràn ngập niềm vui, bỗng tần ngần lo lắng. Chưa được phép của cha, việc Roran đường đột hỏi hay việc cô chấp nhận đều có lỗi. Nhưng lúc này, điều quan trọng nhất đối với Roran: anh cần được biết Katrina có đồng ý cùng anh chia sẻ cuộc đời? Rồi tiếng cô dịu dàng nói với Roran: - Dạ, em đồng ý. Đêm hôm đó trời mưa. Lớp lớp mây đen bao phủ bầu trời thung lũng Palancar, vây bọc núi non và toả ra làn không khí nặng nề, mịt mờ giá buốt. Từ trong nhà, Roran nhìn ra cảnh nước đổ ào ào trên những mái tranh và tuôn xối xả xuống chiến hào đục ngầu bùn đất. Tất cả cảnh vật như biến dạng, nhạt nhoà trong cơn báo hiệu của trận cuồng phong. Gần trưa cơn giông dịu dần, nhưng vãn còn mưa lất phất trong sương lạnh. Đầu tóc, quần áo Roran ướt sũng khi anh đi thăm rào phòng thủ trên đường chính vào làng. Ngồi thu mình bên những khúc cậy dựng đứng, Roran rũ áo choàng, kéo mũ trùm khỏi mặt. Trái với thời tiết bên ngoài giá lạnh, trong lòng Roran ấm áp, chan chứa niềm vui vì lời chấp thuận của Katrina. Vậy là hai người đã đính hôn. Giờ phút này, với Roran, trước tình yêu của hai người thì Ra’zac, lính tráng, thậm chí cả triều đình chẳng nghĩa lý gì. Nhưng tuy ngất ngây vì hạnh phúc, tâm trí anh vẫn hoàn toàn tập trung vào bài toán nan giải nhất:l àm sao bảo đảm an toàn mạng sống cho Katrina, làm cách nào để cô thoát khỏi cơn thịnh nộ của bạo chúa Galbatorix. Nhìn con đường mờ mịt, Roran tự nhủ: “Tốt nhất là để Katrina tới nhà Cawley, nhưng chắc cô nàng sẽ nhất định không chịu xa nơi này… trừ khi ông Sloan lên tiếng. Mình sẽ ráng thuyết phục ông ta và mình tin rằng ông Sloan lo cho tính mạng Katrina cũng nhiều như mình lo cho nàng.” Roran còn đang tính toán tìm cách gợi chuyện với lão chủ hàng thịt, mây đen bỗng dày đặc và mưa lại như trút nước xuống làng. Từ những vũng nước chung quanh Roran, nhưũng hạt mưa dội ngược lên như những con cào cào nhảy ra khỏi hố. Đói bụng cồn cào, Roran trao phiên gác lại cho Larne, con trai út của ông Loring. Nhảy từ hàng hiên này qua hàng hiên khác, Roran vừa định rẽ vào nhà tìm đồ ăn, chợt ngạc nhiên thấy Albriech giận dữ lớn tiếng cãi nhau với một số người ngay trước cổng. Ridley quát lên: -… mày mù rồi. Cứ theo hàng gòn mà đi, làm sao chúng phát hiện được. Sao phải lựa con đường mắc dịch đó? -Nếu thích mày cứ đi dưới mấy cây gòn. - Tao sợ gì. - Chắc mày khoái được ăn mấy mũi tên. Thane xía vào: - Có thể, nhưng chúng tao không ngốc như mày. Albriech quát lại: - Miệng mày hôi như óc mày vậy. Tao không ngu đến nỗi liều mạng cả gia đình dưới mấy cái lá cây bông gòn đó. Mắt Thane trợn ngược, mặt đỏ bừng. Albriech châm chọc: - Sao? Ngọng rồi à? Thane gầm lên, vung tay đấm vào mặt Albriech. - Ha ha! Yếu xìu như đàn bà mà cũng giở trò. Vừa nói Albriech vừa xấn tới, nắm vai Thane quăng khỏi cổng. Thane nằm ngay đơ trên đống bùn. Cầm cây giáo như một cái gậy chỉ huy, Roran nhảy đến bên Albriech, ngăn Ridley và mấy người kia động thủ. Anh la lớn: - Thôi đi. Để sức mà đánh với kẻ thù. Sẽ có một buổi họp để quyết định ai đúng ai sai. Nhưng cho đến lúc đó, không ai được đánh nhau nữa. Ridley hùng hổ: - Mày nói dễ lắm, vì mày chưa có vợ con. Nói xong, hắn kéo Thane đứng dậy, rồi cả bọn bỏ đi. Nhìn vết bầm dưới mắt phải của Albriech, Roran hỏi: - Chuyện gì mà gây gổ vậy? Albriech nhăn mặt, xoa cằm, nói: - Mình và Darmmen đi một vòng quan sát. Thấy Ra’zac cho lính đóng quân trên nhiều ngọn đồi. Chúng có thể nhìn suốt qua sông Anora, khắp thung lũng. Một vài người lớn có thể, có thể thôi, lén lút bò qua tầm quan sát của chúng. Nhưng không thể đem trẻ con vượt qua những đoạn đường đó mà có thể tránh khỏi đụng độ với lính. Như vậy chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này. Tụi Ra’zac phát hiện ra ngay chúng ta đưa đám trẻ đi đâu. “Mình phải làm sao đây?” Roran khiếp đảm nghĩ, rồi choàng vai Albriech, bảo: - Nào, cậu hãy đến để bà Gertrude săn sóc cho. Albriech gạt tay Roran: - Còn nhiều người bị nặng cần bà ấy săn sóc hơn mình. Rồi hít mạnh một hơi như sắp lặn xuống sông, Albriech lầm lũi đi dưới trời mưa tầm tã, hướng về phía lò rèn. Roran nhìn theo, rồi lắc đầu, vào nhà. Thím Elain đang cùng đám trẻ ngồi dưới sàn, mài mũi giáo bằng đá mài và dũa. Anh vẫy thím qua phòng bên cạnh, kể lại chuyện vừa xảy ra. Thím Elain bật miệng rủa – Roran kinh ngạc, vì chưa bao giờ anh nghe một tiếng chửi rủa từ người đàn bà hiền lành này. Thím hỏi Roran: - Liệu Thane có lấy chuyện này làm cái cớ để thề… đòi nợ máu không? - Có thể. Cả hai đều nhục mạ lẫn nhau. Nhưng… Albriech có nặng lời hơn. Tuy vậy, Thane là kẻ đánh trước. Thím cũng có thể tuyên bố đòi nợ máu. Choàng tấm khăn lên vai, Elain quả quyết: - Chuyện này để hội đồng trọng tài giải quyết. Nếu có phải mất món tiền phạt mà tránh đổ máu là tốt rồi. Tay cầm cây giáo đã hoàn tất, thím xăng xái bước ra cổng. Roran bồn chồn ngồi mài lưỡi giáo cùng mấy đứa trẻ. Ngay khi Felda - mẹ của một đứa - tới nơi, Roran giao tất cả cho bà ta, rồi mệt mỏi tiến bước về con đường chính của làng. Đang bì bõm lội trong bùn, anh chợt thấy một tia nắng rọi qua đám mây, chiếu sáng làn mưa, làm những hạt mưa long lanh như pha lê. Giật mình hoảng hốt, Roran nhìn trừng trừng mặc cho mưa tạt dạt dào trên mặt. Vệt sáng lớn dần thành một tia chớt khổng lồ trên bầu trời phía tây thung lũng Palancar. Khung cảnh sũng nước, một bên đen thẫm, một bên rực sáng làm cánh đồng, lùm cây, bụi cỏ, núi non chan hoà màu sắc diệu kỳ. Dường như cả thế giới chuyển thành một bức điêu khắc bằng kim loại rực sáng. Ngay lúc đó một chuyển động làm Roran chú ý. Nhìn xuống cuối đường, anh thấy một tên lính đang đứng, áo giáp của hắn như miếng nước đá rực sáng. Tên lính há hốc mồm kinh ngạc trước những tường luỹ phòng thủ mới của làng Carvâhll, rồi quay người chạy ngược trở lại vào màn mưa mù mịt. - Ê! Roran cố rút chân, lảo đảo trên bãi bùn. “Ước gì trong tay mình có cây cung lúc này.” Đàn ông đàn bà nháo nhào chạy ra, tụ tập dọc chiến hào, cố nhìn qua khe hở của những thân cây dựng đứng. Bất ngờ, Roran chợt nhận ra mình đang đứng cạnh… bố vợ tương lai. Tay trái ông hàng thịt cầm tấm khiên bằng gỗ, tay phải nắm con dao chặt thịt hình bán nguyệt. Trên thắt lưng lão ít nhất là một tá dao, con nào cũng to đùng và bén như lưỡi dao cạo. Lão và Roran phấn khởi gật đầu với nhau, rồi lại chăm chú nhìn về hướng tên lính vừa biến mất. Không đầy một phút sau, giọng ma quái như hú hồn của Ra’zac kéo lướt thướt trong màn mưa: -Đào luỹ đắp rào như thế là tụi bay tự đào hố chôôôn… mììình rồồồi đóóó. Ông già Loring đáp lại liền: -Có ngon hãy ló bản mặt dòi bọ của mi ra. Đồ chấy rận, cân xi-cà-que, lưng xoắn ốc, mắt rắn ráo kia. Một vật đen ngòm bay vèo về phía dân làng, theo sau là tiếng ngọn giáo và mạnh vào cánh cửa, ngay sát cánh tay trái Gedric. Tiếng chú Horst hô vang: - Thận trọng. Roran quỳ sau tấm khiên, dòm qua kẽ hở của những khe gỗ, vừa kịp thấy năm ngọn giáo vọt qua bức tường gỗ, phóng về phía đám dân làng đang ngồi co cụm lại với nhau. Những tiếng kêu la thống thiết vang lên. Tim Roran đập rộn lên vì đau khổ. Thở hổn hển, tay ướt đẫm mồ hôi, Roran lắng nghe tiếng cỏ xào xác phía bắc của làng… rồi một tiếng nổ chát chúa và tiếng gỗ răng rắc gãy. Cùng quay ngược lại, Roran và lão Sloan phóng mình chạy xuyên làng… Sáu tên lính đang kéo dọn những thân cành còn sót lại của tường rào. Phía sau chúng, nhợt nhạt như ma hiện hình dưới màn mưa, hai tên Ra’zac ngồi trên hai con ngựa màu đen. Không chút chần chừ, Roran đâm ngọn giáo vào tên lính gần nhất. Hai lần bị tên lính đưa cao cánh tay chống đỡ, Roran nắm hông tên lính, đưa mũi giáo trúng ngay cuống họng. Lão Sloan gầm rú như con thú nổi điên, vung cao con dao chặt thịt, bổ xuống một cái mũ sắt. Đầu tên lính vỡ toang. Hai tên lính khác xách gươm xông tới. Lão cười lớn, nghiêng mình đưa khiên lên đỡ. Một lưỡi gương kẹt cứng vào thành khiên. Lão Sloan kéo tên lính lại gần hơn, rồi lão rút con dao nhỏ từ thắt lưng, đâm ngập mũi dao vào mắt địch thủ. Rút con dao chặt thịt thứ hai, lão hàng thịt vờn quanh gã lính. Với nụ cười điên dại, hai mắt đỏ ngầu hoan hỉ, lão hỏi: - Muốn tao móc ruột hay cắt gân mày? Roran bị mất giáo khi đụng độ với hai tên lính khác và anh rút búa vừa kịp đỡ một đường gươm lia xuống chân. Lúc này, tên lính đã giựt được ngọn giáo trong tay Roran, nhắm thẳng ngực anh, phóng mạnh. Roran buông búa, tung mình bắt ngọn giáo từ trên không – cú bắt chính xác làm chính anh cũng kinh ngạc như hai tên lính, rồi xoay mũi giáo, Roran đâm qua áo giáp, thấu xương sườn kẻ vừa lao ngọn giáo đó. Không còn vũ khí, Roran bắt buộc phải rút lui trước sức tấn công của mấy tên lính còn lại. Vướng một xác lính, Roran vấp ngã và bắp chân bị một vết gươm lia trúng. Anh lăn người tránh mấy cú đấm của một tên lính khác. Quơ tay trong lớp bùn ngập tới mắt cá chân, Roran cố tìm bất cứ một thứ gì có thể dùng làm vũ khí. Vớ được một chuôi kiếm, Roran rút lên chặt xuống bàn tay cầm vũ khí của một tên lính, làm ngón cái của hắn bị đứt lìa. Tên lính còn đang bàng hoàng nhìn lóng xương còn lại, đã bị Roran vung kiếm chặt đứt đầu. Tên lính cuối cùng hốt hoảng co giò chạy về phía hai tên Ra’zac đang trơ trơ bất động như hai bóng ma trước những lời chửi rủa thậm tệ của lão Sloan. Bỗng Roran lạnh người khiếp đảm khi nhìn hai tên Ra’zac ngồi trên lưng ngựa, nghiêng mình xuống người lính vừa chạy tới. Rồi hai bàn tay xoắn vặn nắm lấy cổ anh ta. Những ngón tay tàn bạo bóp chặt yết hầu người lính. Anh ta rú lên tuyệt vọng, co quắp, nẩy người lên, rồi toàn thân rũ liệt. Một tên Ra’zac đặt xác người lính sau yên, rồi cả hai quái nhân quay đầu ngựa phóng đi. Roran rùng mình, nhìn lão Sloan đang lau chùi lưỡi dao, nói: - Chú chiến đấu tuyệt quá. Anh không bao giờ tưởng tượng lão hàng thịt hung bạo đến thế. Lão Sloan làu bàu: - Chúng đừng hòng túm được Katrina. Không bao giờ. Dù có phải lột da tất cả chúng nó, phải đánh với hàng ngàn Urgal, kể cả nhà vua… tao chơi tuốt. Trước khi chúng làm con gái tao trầy một vết nhỏ thôi, tao cũng bắt chúng nó ngập chìm trong máu. Lão nghiến răng, gài nốt con dao cuối cùng vào thắt lưng, rồi kéo mấy cây phòng thủ về chỗ cũ. Trong khi đó, Roran lăn xác những người lính chết trong bùn ra khỏi rào phòng thủ. “Vậy là mình đã giết tới năm người!” Vừa nghĩ, Roran vừa đứng thẳng lên nhìn thành quả chung quanh. Anh bỗng bối rối khi thấy ngoài tiếng mưa, tất cả hoàn toàn tĩnh lặng. Roran tự hỏi: “Vì sao không một người nào ra tiếp tay với mình và ông Sloan?” Lo sợ có chuyện xảy ra, Roran và lão Sloan trở lại nơi khởi điểm vụ tấn công. Xác hai người lính lủng lẳng vướng trên cành của những cây phòng thủ, nhưng đó không phải là điều làm Roran chú ý. Anh nghẹn thở khi thấy chú Horst và dân làng quỳ chung quanh một cái xác còn nhỏ. Đó là Elmund, con trai của Delwin. Đứa trẻ mười tuổi bị một ngọn giáo đâm suốt qua sườn. Cha mẹ nó ngồi trong vũng bùn kế bên nó. Cả hai người mặt nhợt nhạt trơ trơ như tạc bằng đá. Roran chống cây giáo, quỵ xuống, thầm nhủ: “Phải làm gì chứ.” Cũng có những đứa trẻ lìa bỏ cuộc đời lúc năm sáu tuổi. Nhưng mất đứa con trai đầu lòng, trong khi ôm ấp bao dự định tương lai cho nó, quả là đau đơn quá. “Katrina ơi! Trẻ con tội tình gì? Tất cả trẻ con đều phải được chở che, bảo vệ. Nhưng ở đâu?… Nơi chốn yên lành đó ở đâu? Ở đâu?” Ngày đầu tiên rời Tarnag, Eragon cố gắng học thuộc tên những chiến binh của Undin. Đó là Âm, Tríhga, Hedin, Ekksvar, Shrrgnien (dù biết tên này có nghĩa là Tim-Sói, nhưng Eragon chịu thua không thể phát âm), Duthmét và Thorv. Mỗi bè có một phòng nhỏ ngay chính giữa. Nhưng Eragon thích được ngồi trên một khúc cây, ngắm canh rặng núi Beor trôi ngược về phía sau. Chim bói cá và cò đầu xám bay loang loáng trên mặt nước trong veo. Trong khi đó, những con diệc màu xanh dương lò dò như đi cà khêu trên lớp bùn gần bờ, rải rác những vũng nước loáng ánh sáng rọi qua những nhánh phỉ, dẻ gai, dương liễu. Từ bãi cỏ đuôi chồn, thỉnh thoảng tiếng ễnh ương ồm ồm vang dội. Eragon nói với ông Orik vừa ngồi xuống bên cạnh nó: - Đẹp quá! - Đẹp thật. Orik trả lời rồi mồi tẩu thuốc, lặng lẽ hút. Eragon lắng nghe tiếng cót két của gỗ và dây thừng mỗi khi Tríhga đưa đẩy mái chèo nơi cuối bè. - Ông Orik, ông có thể cho tôi biết vì sao ông Brom đã gia nhập Varden không? Tôi biết rất ít về ông Brom. Trước kia, tôi chỉ tưởng ông ấy là một người kể chuyện trong làng. Gạt tàn thuốc lên mặt nước, Orik chậm rãi nói: - Ông chưa từng gia nhập Varden, mà chỉ giúp thành lập lên tổ chức đó thôi. Sau khi Galbatorix tự đăng quang làm vua, ngoài mấy tên phản đồ, ông Brom là kỵ sĩ duy nhất còn sống sót. - Nhưng khi đó ông Brom không còn là kỵ sĩ rồng nữa, vì con rồng của ông đã bị giết trong trận Doru Araeba. - A, nhưng ông vẫn là một kỵ sĩ từng được huấn luyện đàng hoàng. Chính ông đã đứng lên kết hợp thân hữu, đồng minh của các kỵ sĩ - những người đã bắt buộc phải tự lưu đày xa xứ. Chính ông đã thuyết phục đức vua Hrothgar cho phép Varden sống trong lòng Farthen Dur và cũng chính ông đã tìm được sự trợ giúp của thần tiên. Im lặng một lúc, Eragon lại hỏi: - Vậy sao ông Brom lại không làm thủ lãnh? - Có lẽ vì… ông chưa bao giờ thích địa vị đó. Những chuyện đó xảy ra từ trước khi Đức vua nuôi tôi, vì vậy tôi ít có dịp được gặp ông Brom tại thủ phủ Tronjheim… Ông ấy luôn đi xa, chiến đấu với những phản đồ hoặc có những việc ở những nơi khác. - Orik, song thân ông mấy hết rồi sao? - Cha mẹ tôi qua đời vì bệnh đầu mùa từ khi tôi còn nhỏ. Đức vua đã rủ lòng thương đưa tôi về nuôi nấng. Vì người không có con nên đã nhận tôi là người thừa kế. Nghĩ đến dấu hiệu của bộ tộc Ingeitum trên mũ sắt, Eragon tự nhủ: “Nhà vua cũng rất thương mình.” Trời chạng vạng tối, những người lùn đem treo những chiếc đèn trên bốn mạn bè. Đứng bên Arya, nhìn những nguồn sáng trong veo không hề run rẩy trước gió, Eragon hỏi nàng: - Những ngọn đèn này được tạo ra bằng cách nào, nàng biết không? - Được tạo ra bằng một câu thần chú mà thần tiên đã chỉ dẫn cho người lùn từ rất lâu rồi. Eragon vuốt má và cằm, cảm thấy những cọng râu bắt đầu mọc. - Trong lúc đi đường, nàng có thể dạy tôi thêm về phép thuật không? - Đó không phải là bổn phận của ta. Một sư phụ đang chờ chàng tại Ellesméra rồi. - Vậy thì, nếu có thể, cho tôi biết tên thanh kiếm của tôi nghĩa là gì? Giọng Arya êm như ru: - Tên nó là… Bất Hạnh. Vì vậy nó chuyên đem đến niềm bất hạnh, cho đến khi vào tay chàng. Eragon gớm ghiếc trừng trừng nhìn thanh Zar’roc. Càng biết thêm về món vũ khí của mình, dường như nó càng chán ghét, cứ như chính bản thân thanh kiếm có đầy đủ trí khôn để tạo ra sự bất hạnh. Không chỉ vì Morzan đã tàn sát các kỵ sĩ bằng thanh kiếm này, riêng cái tên Zar’roc - Bất Hạnh cũng đủ khiếp sợ rồi. Nếu không vì chính ông Brom đã trao nó cho Eragon, và nếu không vì sự thật hiển nhiên là Zar’roc không bao giờ cùn nhụt, không thể bẻ gãy, Eragon đã quăng ngay nó xuống dòng sông rồi. Trước khi trời tối hẳn, Eragon bơi lại gần Saphira. Đây là lần đầu tiên, từ khi ra khỏi Tronjheim, hai đứa mới cùng bay, Saphira xoải cánh trên dòng Az Ragni. Không khí thật nhẹ nhàng và phía dưới chỉ còn là một sọc màu tím nhạt. Không có yên cương, Eragon quặp thật chặt hai đùi vào Saphira, cảm thấy vảy của con rồng cọ xát lên những vết thẹo cũ. Ngay lúc Saphira nghiêng sang trái, vươn thẳng mình lên cao, Eragon chợt thấy ba đốm màu nâu phóng mình ra từ sườn núi phía dưới, rồi vụt bay lên. Lúc đầu Eragon tưởng là ba con chim ưng, nhưng khi chúng lại gần hơn, nó nhận ra những con vạt này dài gần bảy thước với bộ đuôi mỏng manh và những cặp cánh như bằng da. Thật ra, trông chúng giống như rồng, nhưng thân hình nhỏ hơn, gầy hơn và có vẻ giống loài rắn hơn là giống Saphira. Những vảy của chúng cũng không rực rỡ, mà lốm đốm hai màu nâu và xanh lục. Eragon rối rít hỏi: - Chúng có phải là rồng không? - Em không biết. Saphira thả mình bềnh bồng tại chỗ, quan sát những kẻ mới tới bay lượn chung quanh. Chúng có vẻ bối rối khi thấy Saphira, chí choé nhào vào vồ vồ chụp chụp rồi lại bay tránh lên cao. Eragon hí hởn cười, phóng tư tưởng, ráng bắt liên lạc với chúng. Ngay tức thì, ba con vật lạ rúm nmình, rít lên hoảng sợ. Mõm chúng mở toang hoác như những con rắn đói mồi. Tiếng rít của chúng the thé, như xuyên suốt cả thân xác lẫn tâm trí Eragon. Saphira cũng cảm thấy giống như vậy. Vừa tiếp tục tiếng rít như tra tấn, như có ý định làm Eragon bị tê liệt tinh thần, chúng vừa vươn móng vuốt sắc bén như dao cạo, nhào vào tấn công. - Bám chặt vào. Vừa cảnh gáic Eragon, Saphira vừa xếp cánh phải, xoay nửa vòng, tránh hai con vật lạ, rồi lập tức vỗ cánh vượt lên trên con thứ ba. Trong lúc đó, Eragon cố sức ngăn chặn tiếng rít. Ngay khi tâm trí ổn định, Eragon định sử dụng phép thuật, Saphira cản lại: “Đừng giết chúng. Em muốn rút kinh nghiệm.” Dù những sinh vật kia khéo léo lanh lẹ hơn Saphira, nhưng lợi thế của cô nàng là đồ sộ và mạnh mẽ hơn. Một con nhào xuống Saphira. Saphira vội trở mình, nằm ngửa trên không, vừa thả mình rơi tự do vừa tung cú đá trúng ngực sinh vật lạ. Tiếng rít giảm cường độ khi một địch thủ rút lui vì bị thương. Saphira dang cánh, trở mình lại, giữa lúc đó hai địch thủ còn lại xông tới. Nó vươn cổ, Eragon nghe rõ tiếng sôi ùng ục giữa những xương sườn của ả rồng, rồi vòi lửa phun ra từ mõm Saphira. Một vầng hào quang xanh ngắt phủ trên đầu và làm những cái vảy giống như ngọc của Saphira sáng rực lên cho đến khi nó phun ra những tia lửa rực rỡ. Hai con vật giống rồng hoảng sợ, rít lên, bay dạt sang hai bên. Sự tác động đến tinh thần Eragon và Saphira giảm hẳn khi mấy con vật kia bay trở xuống núi. Lỏng tay ôm cổ Saphira, Eragon bảo: “Em suýt cho anh lộn nhào xuống hồ.” Saphira vênh váo: “Suýt thôi chứ có bị đâu.” “Ha ha! Đúng vậy, cô em.” Khi Saphira hớn hở vì chiến thắng, hạ cánh xuốngmặt nước, ông lùn Orik hỏi lớn: - Có bị thương không? Saphira bơi tới sát bè, hai chân Eragon ướt sũng nước lạnh. Khi Orik kéo nó lên bè, Eragon trả lời: - Không bị thương. Những… chúng cũng là một loài độc đáo nữa của núi Beor, phải không? - Chúng tôi gọi chúng là Fanghur. Không thông minh, không phun lửa được như rồng, nhưng chúng cũng là một địch thủ đáng gờm đấy. - Điều đó thì chúng tôi vừa biết rồi. Eragon day hai thái dương vì đầu vẫn còn nhức nhối, nói: - Tuy nhiên, Saphira đáng nể hơn nhiều. Cô rồng vươn cổ nhìn nó: “Chứ sao.” Orik cắt nghĩa: - Chúng săn mồi bằng cách dùng ý chí làm tê liệt con mồi trước khi tấn công. Saphira dùng đuôi rảy nước lên Eragon: “Hay! Lần tới đi săn em sẽ thử phương pháp này.” Eragon gật: “Đúng, tác chiến bằng phương pháp này rất dễ chiếm thế thượng phong.” Arya lại gần nói: - Ta mừng là Saphira không giết chúng, Fanghur hiện nay là loài rất quý hiếm. Ngồi trong ca-bin, Thorv làu bàu: - Ba con quỷ đó cũng đủ sức xực gần hết gia súc của chúng tôi rồi. Rồi hắn bước ra ngoài, tay vằn xoắn bộ râu, bực bội nói với Eragon: - Khi nào còn trong khu vực núi Beor này, cậu đừng bay nữa. Giữ an toàn cho cậu trên bè đã khó rồi, đừng nói chi đến chuyện cậu và con rồng cứ bay vù vù như gió vậy. - Tôi hứa sẽ chỉ bay khi chúng ta tới đồng bằng. - Tốt. Khi ngừng lại nghỉ đêm, những người lùn buộc hai cái bè vào mấy gốc dương, ngay cửa một nhánh sông nhỏ. Ama nhóm lửa. Eragon cùng Ekksvar đẩy con Hoả Tuyết lên bãi cỏ. Thorv chỉ huy dựng sáu căn lều lớn. Duthmer đem đồ từ bè lên, bắt đầu nấu nướng bữa ăn tối. Arya đứng nhìn Ekksvar, Ama và Tríhga làm việc. Eragon lại ngồi bên đống lửa với Orik và Shrrgnien. Khi Shrrgnien rút găng, hơ tay trên lửa, Eragon lom lom nhìn những mẩu thép sáng bóng ló ra từ những khớp ngón, trừ ngón vái của hắn. Nó kinh ngạc hỏi: - Cái gì khiếp vậy? Shrrgnien nhìn Orik ha hả cười: - Đây là Ascudgamln… là… “bàn tay sắt” của tôi. Rồi quay người, hắn đấm mạnh lên thân cây dương để lại bốn lỗ đối xứng nhau. Vẫn cười sằng sặc, hắn hỏi Eragon: - Ngon lành không? Vừa ganh tị vừa tò mò, Eragon hỏi: - Làm cách nào gắn những cái gai sắt đó vào tay được? Shrrgnien bối rối tìm từ: - Một thầy thuốc…à… ừ làm cho mình ngủ mê, để cho mình không cảm thấy đau đớn gì hết. Rồi một cái lỗ được… ừ… khoan. Khoan? Đúng không? Khoan vào những lóng ngón tay… à… Hắn líu lo một tràng ngôn ngữ người lùn với Orik. Ông lùn cắt nghĩa tiếp: - Một hốc sắt được đặt vào mỗi lỗ. Rồi với phép thuật, người ta khép kín những vết đó lại. Khi người chiến binh toàn toàn bình phục, những gai sắt đủ kích cỡ sẽ được vặn chặt vào những hốc đó. Shrrgnien cười cười, thận trọng, nhẹ nhàng vằn rồi tháo rời núm sắt trên ngón đeo nhẫn bàn tay trái, đưa cho Eragon. Eragon thích thú vê vê núm sắt, rồi trao trả lại hắn: - Kể ra mình có bàn tay sắt thế này cũng thích. Orik nói ngay: - Nguy hiểm lắm. Ngay người lùn chúng tôi cũng ít người làm Ascudgamln, vì rất dễ bị liệt bàn tay nếu lưỡi khoan đi quá sâu. Ông đưa bàn tay cho Eragon nhìn: - Xương chúng tôi dày hơn xương của cậu. Phương pháp này không áp dụng cho người bình thường được. Cậu phải nhớ điều đó. - Tôi nhớ. Tuy nói vậy, Eragon vẫn không thể ngăn mình tưởng tượng, nếu có một nắm đấm bằng sắt như vậy, giáp sắt của tụi Urgal cũng coi như đồ bỏ. Ăn xong, Eragon trở về lều. Ánh lửa chập chờn rọi bóng Saphira khoanh tròn như một hình ảnh được cắt bằng giấy đen, rồi dán lên vách vải. Chăn phủ trên hai chân, Eragon ngồi lặng lẽ. Mắt đã ríu lại, nhưng nó chưa muốn ngủ. Tự nhiên Eragon cảm thấy nhớ quê nhà quá. Chẳng biết giờ này anh Roran, chú Horst và mọi người trong làng Carvahall đang làm gì? Thời tiết thung lũng Palancar có ấm áp để nông dân gieo hạt cấy trồng chư? Với tay lấy cái bát gỗ trong ba lô và bầu nước bằng da, Eragon đổ chút nước vào bát. Tồi nó tập trung vào hình ảnh Roran, miệng thì thầm niệm chú: -Draumr kópa! Nước chuyển thành màu đen, rồi sáng dần lên, hiện ra đối tượng mà nó muốn thu hình. Roran đang ngồi một mình trong phòng ngủ chập chờn ánh nến. Nó nhận ra đây là trong nhà chú Horst. Chắc Roran đã bỏ việc ở Therinsford. Anh họ nó ngồi bó gối, mắt nhìn xa xôi, vẻ mặt anh ta đủ để Eragon đoán biết Roran đang gặp chuyện khó khăn. Nhưng chỉ một thoáng đó cũng đủ làm nó yên tâm vì người anh họ vẫn được bình an. Một phút sau Eragon thu hồi phép thuật, mặt nước trong bát trở lại bình thường. Đổ bát nước, Eragon nằm xuống kéo chắn tới cằm. Nó nhắm mắt, chìm vào khoảng cách lơ mơ giữa sự tỉnh táo và giấc ngủ. Cái khoảnh khắc thực tế quay vòng vòng trong ý nghĩ lẫn lộn với những điều không có thực. Rồi nó đi vào giấc ngủ không mộng mị cho tới trước khi nó thức giấc, những hình ảnh chợt đến, rõ ràng, sống động y như lúc nó còn đang thức. Eragon thấy một bầu trời vần vũ, tràn ngập khói đen và đỏ thắm. Từng bầy quạ và diều hâu quay cuồng trên những mũi tên vù vù bay qua bay lại trong một chiến tường rộng lớn. Một người đàn ông sóng soài trên bãi bùn nứt nẻ, mũ sắt vỡ toang, áo giáp đẫm máu, mặt người đó bị một bàn tay che khuất. Bàn tay với bao tay sắt đó sát tầm nhìn của Eragon, che phủ gần hết khung cảnh phía sau. Như một cái máy vô hình tàn nhẫn, bàn tay nắm chặt, riêng ngón trỏ chỉ thẳng con người vừa bị hạ gục, với tất cả quyền uy của định mệnh. Ra khỏi lều, hình ảnh đó vẫn còn tràn ngập tâm trí Eragon. Tới gần saphira đang nhai một con mồi, nó kể lại những gì đã thấy. Ả rồng ngừng nhai, vươn cổ nuốt miếng thịt rồi mới nói: “Lần trước, chuyện như thế này cũng đã xảy ra, và nó chứng tỏ là anh đã biết trước những sự kiện ở đâu đó. Anh có nghĩ tại Alagesia đang xảy ra chiến tranh không?” “Anh không chắc… Nhưng ông Brom bảo người ta chỉ có thể thu hình ảnh con người, nơi chốn đã từng nhìn thấy. Vậy mà, địa điểm anh mới thấy, anh chưa từng biết bao giờ. Cũng như lần đầu tiên anh thấy Arya trong mơ khi còn ở thành Teirm vậy.” “Có lẽ chỉ Togira Ikonoka mới cắt nghĩa được chuyện này.” Khi sửa soạn lên đường lại, những người lùn có vẻ phấn chấn hơn vì đã cách Tarnag khá xa. Vừa đẩy cây sào, Ekksvar vừa cất giọng trầm trầm hát: Thả xuôi dòng nước đỏ ngầu như máu Chúng ta lướt đi trên con bè gỗ Nhân danh gia đình, Danh dự, giống nòi. Lìa xa tổ ấm Chúng ta ra đi Tìm miền đất lạ … Những người lùn hoà giọng cùng Ekksvar, rồi họ chuyển qua những lời ca bằng ngôn ngữ người lùn. Giọng ca trầm hùng của họ đi theo Eragon tới lúc nó đến bên Arya đang ngồi khoanh chân sát mũi bè. - Tôi đã gặp… một ảo ảnh trong giấc ngủ. Arya ngước lên chăm chú lắng nghe khi Eragon thuật lại những gì đã thấy. Rồi nó hỏi: - Đó có phải là thuật thu hình? - Không. Ta vẫn hằng suy nghĩ về chuyện chàng đã thấy ta trong nhà tù ở Gil’ead, và ta tin rằng khi đó, trong cơn hôn mê, hồn ta đã cố tìm kiếm một sự giúp đỡ bất kỳ từ đâu mà ta có thể giao tiếp được. - Nhưng sao lại là tôi? - Vì suốt mười lăm năm canh gác trứng Saphira, ta đã quen với sự hiện diện của nó. Ta tìm kiếm bất cứ điều gì cảm thấy quen thuộc, và do đó đã giao tiếp với giấc mơ của chàng. - Nàng thật sự mạnh tới nõi có thể từ Gil’ea mà bắt liên lạc với ai đó đang ở tận Teirm sao? Nhất là trong khi đang bị thuốc mê? Một nụ cười bí hiểm thoáng qua môi Arya: - Ta có thể đứng ngay tại cổng thành Vroengard mà vẫn nói chuyện được với chàng như lúc này. Im lặng một lúc, Arya tiếp: - Nếu khi từ Teirm, trong mơ, chàng đã thấy ta đang mê man tại nhà tù Gil’ead không do thuật thu hình; thì giấc mơ mới đây của chàng cũng vậy, chắc là một điềm báo mà thôi. Điều đó thường xảy ra với những loài có tri giác, đặc biệt là với những người biết phép thuật. - Nếu những điều tôi thấy đó sẽ xảy ra, làm cách nào để có thể đổi thay những sự việc đó? Có vấn đề lựa chuyện ở đây không? Nếu ngay bây giờ tôi nhảy khỏi bè và chết chìm, có thay đổi được gì không? - Ngày xưa, một vị thần tiên tên là Maerzadí có điềm báo trước là ông sẽ vô tình giết chết con trai ngoài mặt trận. Ông đã tự tử để cứu mạng con và đồng thời cũng để chứng minh rằng tương lai không được an bài trước. Tuy nhiên tự tử cũng không hoàn toàn thay đổi được định mệnh, vì không biết sự chọn lựa nào sẽ dẫn người ta đến đúng thời điểm mà người ta đã thấy. Chúng ta biết là có thể thay đổi tương lai – như các nhà tiên tri thường có thể biết được đường đời của một người – nhưng chúng ta không thể sàng lọc những tiên đoán đó để có thể biết chắc chắn điều gì, khi nào, ở đâu chuyện đó xảy ra. Nghe những khái niệm đó, Eragon chỉ thấy rắc rối và càng thêm thắc mắc. Sau cùng nó tự nhủ: “Cho dù định mệnh và số phận con người có thật, mình chỉ mong vui hưởng hiện tại và sống đàng hoàng trong danh dự.” Tuy nhiên nó vẫn hỏi tiếp: - Vậy điều gì ngăn cản được tôi sử dụng phép thuật để thu hình lại những sự việc tôi đã thấy trong điềm báo đó? - Nếu chàng còn quý mạng mình, đừng dại dột thử làm chuyện đó. Trước kia đã có nhiều pháp sư tự nguyện, liều lĩnh tìm cách chiến thắngnhững bí ẩn của thời gian như vậy. Họ chỉ thấy những hình bóng lờ mờ xuất hiện, rồi không thể ngăn nội lực cuồn cuộn thoát ra cho đến chết. Chúng tôi không bao giờ thí nghiệm lại vấn đề đó nữa. Cúng có những người đưa ý kiến, phép thuật sẽ mạnh hơn và thành công, nếu nhiều pháp sư cùng cộng tác, nhưng không ai hưởng ứng công việc đầy nguy hiểm đó và lý thuyết đó vẫn chưa được chứng minh. Thu hình quá khứ cũng có giới hạn thôi. Đối với tương lai, muốn đạt mục đích thì phải biết chính xác mình muốn thu lượm thông tin gì, ở đâu, lúc nào. Vì sao người ta lại có những điềm báo trong khi ngủ vẫn còn là một điều bí ẩn. Điềm báo có thể liên quan đến một sự kiện rất tự nhiên hay là một sự sắp đặt của phép thuật… hoặc có thể được truyền lại một cách tương tự từ ký ức của tổ tiên loài rồng. Điều đó chúng ta không thể biết. Còn nhiều bí ẩn của phép thuật chưa được khám phá ra. Hãy thận trọng, đừng để bị… tẩu hoả nhập ma! Buổi sáng, khi hai con bè tiến tới khoảng trống giữa hai ngọn núi, thung lũng đã rộng dần ra. Tới buổi trưa, họ đã thấy những đồng cỏ lờ mờ xuất hiện về hướng bắc. Rồi những con sóng đẩy họ vượt qua những sườn núi hiểm trở phủ sương mù, để lộ ra trước mắt là bầu trời bao la và chân trời bằng phẳng. Ngay lập tức không khí ấm áp hẳn lên. Dòng sông Az Ragni uốn về phương bắc, một bên là chân núi, một bên là cánh đồng. Khung cảnh bao la dường như làm những người lùn không yên tâm, họ lưu luyến nhìn lại những sườn núi cao thăm thẳm và thì thầm với nhau. Nhưng Eragon lại thấy ánh nắng như liều thuốc hồi sinh. Thật buồn tẻ khi phải sống ba phần tư ngày trong ánh sáng chạng vạng. Phía sau, Saphira ngụp lặn trong nước, rồi bay vút về phía đồng cỏ cho đến khi nó chỉ còn là một đốm đen trên bầu trời xanh ngọc. Eragon truyền ý nghĩ hỏi: - Thấy gì không? - Từ đông qua bắc chỉ thấy toàn nai. Phía tây là sa mạc Hadarac. Vậy thôi. - Không có gì khác nữa sao? Urgals, nô lệ hay dân du mục? - Chẳng có gì hết. Chỉ có chúng ta thôi. Chiều hôm đó, Thorv chọn một vùng nhỏ để neo bè. Trong khi Duthmér lo bữa ăn tối, Eragon dọn dẹp một khoảng trống sau lều, rồi rút thanh Zar’roc, đứng đúng thế kiếm mà ông già Brom đã chỉ dạy trong buổi đầu luyện kiếm. Nó biết, nếu so sánh với thần tiên, chắc chắn là nó không thể bằng họ, nhưng không muốn tỏ ra quá thấp kém khi đến Ellesméra tập luyện. Rất khoan thai, Eragon đưa kiếm khỏi đầu, rồi chém mạnh xuống bằng cả hai tay như chẻ lên mũ sắt của kẻ thù. Xoay người sang phảo - đảo mũi thanh Zar’roc lia một đường vào một kẻ thù tưởng tượng - rồi trở về thế đứng, hai tay buông theo người. Thoáng thấy Orik, Arya và Thorv đang chăm chú nhìn, nhưng Eragon chỉ chú tâm vào lưỡi kiếm đỏ rực trong tay. Nó nắm chặt chuôi kiếm, như đó là một con rắn có thể bất ngờ vặn mình, mổ ngược lên cánh tay cảu nó. Lần lựôt Eragon xuất chiêu, phóng ra những đường gươm biến ảo, từ nhẹ nhàng chậm chạp, rồi nhanh dần, mạnh dần vù vù như vũ bão. Lúc này trong tư tưởng, Eragon như đang ở giữa một bầy Urgal và Kull dã man tàn bạo. Những đường gươm thấp thoáng chém ngang, chẻ dọc, đâm tới, xỉa lui. Giống như trong trận chiến tại Farthen Dur, Eragon quay cuồng không còn nghĩ đến bản thân, tả xung hữu đột với kẻ thù tưởng tượng. Eragon tung thanh Zar’roc, định đổi tay cầm, nhưng thanh kiếm rơi thẳng xuống đất, vì bỗng lưng nó đau như bị dãn ra. Eragon lảo đảo ngã xuống. Loáng thoáng nó nghe tiếng nói của Arya và mấy người lùn, rồi nó chỉ còn thấy những ngôi sao nhạt nhòa màu đỏ, giống như một tấm khăn đẫm máu phủ kín hết thê giới chung quanh. Ngoài cảm giác đau đớn, Eragon không còn biết gì nữa, chỉ còn như một con thú hoang dã gào lên, cầu cứu. Khi tỉnh táo đủ để nhìn quanh, Eragon thấy mình đang nằm trong lều, cuốn chặt dưới mấy lớp chăn mền. Arya ngồi bên nó, còn Saphira đang ló cái đầu to đùng qua cửa lều. Eragon hỏi Arya: - Tôi bị ngất lâu không? - Không lâu lắm. Sau cùng thì chàng đã ngủ được một chút. Tôi đã cố gắng tiếp cận tâm trí chàng, để làm chàng giảm đau. Nhưng vì chàng bị mê man nên kết quả không được bao nhiêu. Eragon lại khép hai mắt. Toàn thân run rẩy, hít mạnh một hơi, nó mở mắt nhìn Arya hỏi nhỏ: - Với thân thể thế này, làm sao tôi có thể tập luyện, chiến đấu, sử dụng phép thuật đây? Mặt nó già hẳn đi khi bật ra lời nói đó. Arya nhẹ nhàng trả lời: - Chàng có thể ngồi quan sát, lắng nghe và đọc. - Nó thấy trong giọng nói của Arya thoáng chút lo lắng, thậm chí cả sợ hãi nữa. Eragon trở mình, tránh ánh mắt của cô, vì cảm thấy xấu hổ để cô nhìn thấy sự tuyệt vọng của mình. - Bằng cách nào Tà Thần đã làm tôi đến nỗi này? - Tôi không biết trả lời sao, Eragon. Vì tôi không phải là một thần tiên thông thái nhất, mạnh mẽ nhất. Nhưng chàng đừng lo, không ai có thể trách cứ chàng. Chúng ta đã cố gắng hết sức mình rồi. Có thể thời gian sẽ làm vết thương của chàng bình phục. Arya đặt mấy ngón tay lên trán Eragon, lẩm bẩm: - Sé mor’rant ono finna. Rồi cô lặng lẽ ra khỏi lều. Eragon ngồi dậy, nhăn nhó vì bắp thịt dãn ra nhức nhối. Nó nhìn trừng trừng hai bàn tay, thầm hỏi: “Không biết vết thương trên lưng Murtagh có đau đớn như mình không?” Saphira nhỏ nhẻ: “Em không biết.” Im lặng một lúc, Eragon bảo: “Anh sợ.” “Vì sao?” “Vì… vì… dù bằng cách nào, anh cũng không thể tránh khỏi những vụ tấn công khác nữa. Không biết bao giờ, ở đâu chuyện đó sẽ xảy ra, nhưng chắc chắn không thể nào tránh khỏi. Vì vậy anh vẫn chờ đợi. Nhưng bây giờ anh sợ nếu anh chỉ nâng một vật quá nặng, hay xoay trở mình không đúng cách, anh sẽ lại bị đau ngay. Chính thân xác anh đã trở thành kẻ thù của anh rồi.” Cô rồng nhỏ nhẻ triết lý: “Cuộc sống có cả niềm vui lẫn nỗi đau. Nếu đâu là cái giá anh phải trả cho những giờ phút anh được hưởng niềm vui thì có đáng gì.” Eragon phát bực: “Phải. Cô nói hay lắm.” Nó tung chăn, vượt qua ả rồng, lảo đảo tiến ra chỗ Arya và mấy người lùn đang ngồi quanh đống lửa, hỏi: - Còn có gì ăn không? Duthmér lẳng lặng lấy một tô đồ ăn đầy, cung kính đưa cho Eragon. Thorv hỏi: - Sức khỏe Khắc-Tinh-Tà-Thần khá hơn chưa? - Khá. Eragon trả lời cụt lủn rồi tới bên một cái lều, ngồi trong bóng tối. Vừa lẩm bẩm rủa, Eragon vừa tức bực chắn miếng thịt hầm. Ngay lúc đó tiếng ông lùn Orik sát bên: - Cậu không nên cư xử với họ như vậy. Eragon liếc nhìn Orik trong bóng tối: - Sao? - Thorv và những người của hắn được cử đi bảo vệ cho cậu và Saphira. Nếu cần họ sẵn sàng chết vì cậu và họ tin tưởng cậu sẽ chôn cất họ theo đúng lễ nghi. Dừng bao giờ quên điều đó. Nhìn mặt sông thẫm đen miên man chảy, Eragon bảo: - Ông nói đúng. Tôi đã mất bình tĩnh. Orik cười, hàm răng trắng sáng trong bóng đêm: - Đó là bài học cấp chỉ huy nào cũng phải thuộc nằm lòng. Không bao giờ tôi quên những lời giáo huấn của đức vua sau vụ tôi đá một gã vì tội để vũ khí bừa bãi. - Ông đá hắn à? - Đá sặc máu mũi luôn. Cả ông lùn và Eragon đều phá lên cười. Nó nín cười bảo: - Tôi sẽ nhớ mãi bài học của ông. Nghe tiếng kim khí lách cách chạm vào nhau, rồi Eragon thấy ông lùn lấy từ trong túi vải ra một núi thòng lọng xoắn xuýt những cái nhẫn vàng đặt vào lòng bàn tay nó: - Trò này chúng tôi dùng để thử thách sự lanh lẹ và khéo léo. Tất cả gồm tám vòng. Nếu cậu sắp xếp đúng nó sẽ thành một cái nhẫn thôi. Khi nào có chuyện bực mình, chăm chú vào trò này cũng có ích lắm đấy. - Cám ơn ông. - Nếu cậu sắp xếp thành một cái nhẫn được, cậu có quyền giữ nó luôn. Trở vào lều, Eragon nằm sấp, trong ánh sáng rọi qua cửa lều, nó chăm chú quan sát tám vòng vàng nhỏ xíu thắt gút vào nhau. Thử đủ cách những Eragon không thể nào sắp xếp cho chúng thành một cái nhẫn được. Mê mải với trò chơi đầy thử thách này, nó quên khuấy sự khiếp đảm vì cơn đau mới trải qua. Trước hừng đông, Eragon đã thức giấc. Dụi hai mắt còn ngái ngủ, Eragon ra khỏi lều, thoải mái thư giãn chân tay. Hơi thở nó tỏa ra màu trắng trọng làn không khí trong lành của buối sớm mai. Gật đầu chào Sgrrgnien đang ngồi gác bên đống lửa, Eragon ra bờ sông rửa mặt. Nó giật thót mình vì nước sông lạnh ngắt. Nhận ra tín hiệu của ả rồng, Eragon đeo thanh Zar’roc, len lỏi qua những cây giẻ gai mọc trên bờ sông Az Ragni, tiến tới chỗ cô rồng. Mặt và tay Eragon ướt đẫm sương đếm từ cành lá rậm rạp của những bụi anh đào. Nó cố gạt những cành cây quấn quít như tổ chim, lách mình qua một đồng cỏ là một ngọn đồi. Trên đỉnh đồi - giống như hai bức tượng cổ - là Arya và Saphira. Cả hai đều hướng mặt về phía đông, nhìn ánh sáng đang từ từ dâng trên bầu trời, làm đồng cỏ bóng lên như hổ phách. Khi nguồn sáng trong trẻo rọi lên hai hình dáng đó, Eragon nhớ lại hình ảnh Saphira ngắm mặt trời lần đầu chỉ vài giờ sau khi ra khỏi trứng. Lúc đó trông nó như một con diều hâu, mắt long lanh dưới sống mũi xương xẩu, toàn thân gầy yếu đến thảm hại. Thời trổ mã, cô ả trở thành một nữ thợ săn đầy tài năng với vẻ đẹp đầy hoang dã. Nét mặt đầy góc cạnh và vẻ duyên dáng như một con báo của Arya hoàn toàn tương xứng với con rồng đứng kế bên. Cả hai không hề có chút tương phản nào với nhau dưới ánh nắng ban mai rạng rỡ. Niềm vui tràn ngập trong lòng, Eragon tự nhủ: “Là một kỵ sĩ, mình thật sự thuộc về cảnh quan này. Với những chuyện xảy ra tại Alagaesia, mình may mắn biết bao mới được thuộc về đây.” Sự kỳ diệu của những điều đã xảy ra trong đời làm Eragon ứa nước mắt vui mừng. Những giọt nước mắt cuốn trôi hết những sợ hãi, lo âu nghi hoặc trong tâm trí nó. Nụ cười không tắt trên môi, Eragon leo lên đồi, đứng bên Saphira cùng chiêm ngưỡng ngày mới đang ló dạng. Bắt gặp ánh mắt Arya đang nhìn mình, Eragon bỗng cảm thấy xốn xang, mặt đỏ bừng mà chẳng hiểu vì sao. Nhưng Eragon có cảm giác nàng tiên này thấu hiểu nó hơn tất cả mọi người, hơn cả Saphira. Suốt ngày hôm đó, Eragon luôn tưởng nhớ lại khoảnh khắc làm nó sung sướng mỉm cười với những cảm xúc lẫn lộn xốn xang trong lòng. Gần như cả ngày, Eragon ngồi dựa ca-bin trên bè loay hoay với những vòng nhẫn của Orik, rồi lại ngắm cảnh hai bên bờ đang tiếp tục đổi thay. Gần trưa, họ vượt qua một cửa thung lũng và một con sông khác hòa cùng dòng Az Ragni, làm mặt sông như rộng gấp đôi. Dòng nước cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Tất cả những người lùn mới có thể cùng nhau giữ cho hai cái bè trên dòng nước xiết khỏi bị lật úp hay trôi dạt vào những thân cây bập bềnh trên mặt sông. Qua khỏi khúc sông hai dòng hợp lưu chừng một dặm, Az Ragni chảy theo hướng bắc, trôi qua một ngọn núi phủ mây, đứng chơ vơ một mình tách biệt hẳn với rặng Beor. Trông ngọn núi đơn lẻ đó như một tháp canh khổng lồ đứng gìn giữ thâu đêm nhưng đồng cỏ bao la phía dưới. Tất cả những người lùn trên hai bè đều kính cẩn cúi đầu khi thấy ngọn núi. Orik bảo Eragon: - Đó là Moldun Kiêu-Hãnh. Ngài là ngọn núi cuối cùng chúng ta nhìn thấy trong chuyến đi này. Khi hai chiếc bè neo lại nghỉ đêm, Eragon thấy Orik mở gói bao một hộp đen dài, viền bạc và cẩn toàn ngọc trai, ngọc bích. Ông lùn mở nắp hộp, để lộ ra một cây cung chưa lắp dây, đặt trên nền nhung đỏ. Cánh cung đen bóng như gỗ mun, cẩn đầy hoa lá, muông thú và những hàng chữ cổ bằng vàng. Eragon thắc mắc nghĩ: “Ai dám sử dụng thứ vũ khí xa hoa đến thế này.” Orik gắn dây – cây cung cao gần bằng ông ta, nhưng cũng chỉ lớn hơn cây cung của một đứa trẻ con loài người - rồi tuyên bố: - Tôi đi kiếm chút thịt tươi đây. Nói xong là ông biến ngay sau những bụi cây rậm rạp. Thorv lèm bèm không đồng ý, nhưng cũng không ngăn cản. Chưa đến một tiếng sau, ông lùn trở lại, trên vai lủng lẳng một xâu ngỗng. Ném chiến lợi phẩm cho Duthmér, ông bảo: - Tôi bắt gặp cả một bầy. Eragon hỏi: - Cây cung của ông làm bằng gỗ gì vậy? - Ha ha! Gỗ? Không có thứ gỗ nào làm được một cây cung ngắn cỡ này mà có thẻ bắn mũi tên xa tới hai mươi thước nổi. Cánh cung không bị gãy thì dây cũng đứ sau vài lần bắn. Không đâu, đây là sừng của Urgal. Eragon nhìn ông lùn dầy nghi hoặc. Hừ, chắc chắn là ông ta “hù” mình. - Sừng không đủ độ dẻo và có sức co dãn để có thể làm cung được. - A, vì vậy mới phải biết cách làm. Trước kia chúng tôi thử với sừng dê Feldunost, nhưng sừng Urgal là chiến nhất. Người ta chẻ dọc đôi cái sừng, rồi đẽo gọt sao cho đúng độ dày thích hợp. Nấu với nước sôi, chà xát bằng cát trước khi gắn vào một bọng tần bì bằng một thứ keo làm từ vảy cá và hàm cá hương. Sau đó phủ lên nhiều lớp gân. Bước sau cùng là trang trí. Hoàn tất toàn bộ công đoạn này chỉ cần… gần mười năm. Eragon ngẩn người, thấy cây cung của nó chỉ còn như.. con dao chẻ củi. - Chưa từng nghe cách làm cung như vậy bao giờ. Bắn được xa không? - Cậu thử đi. Vừa nói Orik vừa trao cây cung cho Eragon. Rút một mũi tên trong ống, đưa cho nó, ông bảo: - Vậy là cậu nợ tôi một mũi tên đấy nhé. Eragon gắn tên, nhắm dòng sông Az Ragni, kéo dây. Nó kinh ngạc vì chiều dài cây cung chỉ hơn nửa thước, nhưng nặng hơn cung của nó rất nhiều. Sức nó chỉ đủ kéo sợi dây. Mũi tên vút đi quá nửa chiều ngang dòng sông rồi cắm mặt xuống mặt nước sủi bọt. Ngay lập tức, Eragon gom nội lực, sử dụng phép thuật bật ra câu thần chú: - Gath sem oro un lam iet. Chỉ vài giây sau, mũi tên phóng lên không, bay vèo vèo trở lại bàn tay Eragon đang xòe ra đón. Trao lại mũi tên cho ông lùn, nó bảo: - Đây tên của ông. Vậy là hết nợ, phải không? Orik đặt nắm tay giữ chặt mũi tên lên ngực, hớn hở cúi đầu: - Tuyệt vời! Vậy là tôi vẫn còn nguyên một tá. Nếu không, phải đợi tới trạm Hedarth mới mua lại được. Ông gỡ dây, rồi đặt cây cung vào hộp, dùng vải bao bọc đàng hoàng. Thấy Arya đang nhìn, Eragon hỏi: - Chắc thần tiên cũng dùng cung bằng sừng. Cung gỗ sẽ tan tành dưới sức mạnh của họ mất. - Chúng tôi hát để cung mọc từ cây ra. Trong nhiều ngày họ bềnh bồng qua những vùng cỏ xuân mơn mởn và rặng núi Beor mờ khuất dần sau bức tường sương trắng. Hai bên bờ sông thường bao phủ cả bầy hươu hay nai đỏ đứng ngơ ngẩn nhìn theo hai con bè và Saphira. Không còn ngại những con Fanghur nữa, Eragon luôn cùng bay với Saphira. Đây là cơ hội đầu tiên từ sau khi bị bắt tại Gil’ead, hai đứa mới được thỏa sức bay bổng trên không, và cả hai cảm thấy đã tiến bộ rất nhiều. Hơn nữa, Eragon rất mừng được rời con bè chòng chành, luôn cảm thấy vụng về ngượng nghịu mỗi khi ở gần Arya. Đoàn lữ hành của Eragon xuôi theo dòng Az Ragni, cho tới khi con sông này hợp vào sông Edda, rồi lững lờ uốn khúc về hướng đông vô định. Tại nơi hợp lưu của hai con sông này, họ đã lên thăm Hedarth, một trạm thương mại của người lùn, và đổ phương tiện di chuyển từ bè sang cưỡi lừa. Vì chiều cao “khiêm tốn”, người lùn không bao giờ sử dụng những con ngựa cao lênh khênh. Arya từ chối cưỡi lừa. Cô bảo; - Tôi không trở về đất tổ của mình trên lưng một con lừa dược. Thorv nhăn mặt: - Làm sao cô có thể theo kịp chúng tôi? - Được. Cứ để tôi chạy thử coi. Nói là làm, cô chạy thật. Hỏa Tuyết và mấy con lừa xoải vó phóng hết sức, nhưng đến một ngọn đội hay một gò đất tiếp theo đã gặp Arya dang ngồi đợi. Tuy vậy, khi tất cả ngừng lại nghỉ đêm, cô không tỏ ra một dấu hiệu mệt mỏi nào, nhưng trong suốt những bữa ăn tối hay điểm tâm cô rất ít lời. Càng tiến gần điểm đến, dường như cô càng căng thẳng hơn. Từ trạm Hedarth họ tiến về hướng bắc, ngược sông Edda, để đi về hồ Eldor. Trong vòng ba ngày họ đã thấy Du Weldenvarden. Lúc đầu rừng cây hiện ra như một cái gò mờ mờ nơi chân trời, rồi bất ngờ nới rộng thành một đại dương xanh ngát những cây sồi, cây giẻ gai, cây phong du cổ thụ. Từ trên lưng Saphira, Eragon thấy rừng cây chạy dài tới chận trời, cả hướng tây và hướng bắc. Nó biết dải rừng bất tận này còn trải tới hết chiều dài đất nước Alagaesia. Với Eragon, bóng râm âm u dưới những tán cây rừng rậm rạp kia dường như càng bí ẩn và quyến rũ bao nhiêu, thì lại càng nguy hiểm bấy nghiêu, vì đây chính là nơi thần tiên sinh sống. Ẩn mình đâu đó trong trái tim của Du Weldenvarden là hoàng cung Ellesméra – nơi nó sẽ phải hoàn tất chương trình tập luyện – cũng như Osilon và những thành phố khác của thần tiên. Đó là tất cả những nơi rất hiếm có người ngoài được bước chân vào, kẻ từ sau sự sụp đổ của các kỵ sĩ. Eragon cảm thấy cánh rừng mênh mông này là chốn con người khó dung thân, vì chắc chắn đầy rẫy phép thuật và những sinh vật lạ lùng. Nhìn đôi bướm hiện ra từ cõi tối tăm của rừng già rồi bay lượn quấn quít bên nhau, Eragon thầm nghĩ: “Cứ như mình lạc vào một thế giới khác vậy.” Saphira đang bận tâm một vấn đề thực tế hơn: “Em chỉ hy vọng có có chỗ đủ rộng cho em nghỉ. Bay hoài sao chịu nổi.” “Anh chắc trong thời đại kỵ sĩ, họ đã có chỗ nghỉ thích hợp cho rồng rồi.” Đêm đó, Eragon vừa định mở chăn mền, Arya xuất hiện ngay bên cạnh nó, như một bóng ma hiện ra từ không khí, làm nó nhảy dựng lên. Chưa kịp lên tiếng hỏi, ý tưởng nàng đã liên lạc ngay với tâm trí nó: “Lẳng lặng theo ta.” Sự liên lạc bằng ý nghĩ làm nó sững sờ. Cả hai đã dùng cách này khi nàng còn hôn mê trong chuyến bay tới Farthen Dur, nhưng từ khi Arya bình phục, Eragon không muốn tiếp cận với ý nghĩ của nàng tiên, nó sợ mối liên kết đó sẽ để lộ cho Arya biết những cảm xúc của nó đối với cô. Eragon theo Arya qua những chiếc lều, thận trọng tránh Tríhga đang gác ca đầu và tránh những người lùn khác có thể nghe tiếng bước chân. Trong ý thức của Eragon, Saphira đàn rình rập từng diễn tiến, sắn sàng nhảy ra nếu cần thiết. Arya ngồi xuống một thân cây phủ rêu, hai tay khoanh trên gối, không nhìn Eragon, bắt đầu lên tiếng: - Trước khi tới Ceris và Ellesméra, có những điều chàng cần phải biết, để tránh làm nhục cả ta lẫn chàng. - Chẳng hạn chuyện gì? Ngồi đối diện cô, Eragon áy náy hỏi. Arya ngập ngừng nói: - Những năm tháng làm sứ thần cho nữ hoàng, ta nhận thấy người thường và người lùn rất giống nhau. Họ có cùng đức tin và khát vọng. Nhiều người thường sống thoải mái giữa người lùn, vì anh ta hay cô ta có thể hiểu nền văn hoá của người lùn cũng như họ có thể hiểu văn hoá của người thường. Cả hai loài đều yêu thương, thèm muốn, căm hờn, tranh đấu và có những hành động giống nhau. Tình thân hữu đối với Orik và sự chấp thuận trở thành một thành viên bộ tộc Ingeitum của chàng là một thí dụ điển hình. Dù không hoàn toàn đồng ý, Eragon thấy vẫn nhiều khác biệt giữa hai loài, nhưng nó vẫn gật đầu. Arya tiếp: - Nhưng… thần tiên không giống những loài khác. Eragon lập lại câu Arya đã nói với nó khi ở Farthen Dur: - Nàng nói như chính nàng không phải là một thần tiên. - Ta đã sống cùng Varden bấy nhiêu năm, đủ để quen với tập quán của họ. - À… như vậy ý nàng là, thần tiên không có những cảm xúc giống như người và người lùn sao? Tôi không tin. Tất cả mọi sinh vật đều có những khát khao, nhưng nhu cầu căn bản chứ? - Tôi không có ý nói như vậy. Arya đặt những ngón tay lên thái dương, nhắm mắt thở dài tiếp: - Vì thần tiên sống quá nhiều năm trên mặt đất này, nên chúng tôi coi lễ nghi là đức hạnh cao quý nhất trong xã hội. Không ai đủ sức công kích, nhục mạ mãi, khi mối hận thù có thể kéo dài hàng mười năm, thậm chí có khi hàng trăm năm. Vì vậy, lễ nghi là phương cách duy nhất để tránh những mối thù nghịch như thế khỏi chất chồng lên mãi. Phương cách đó không phải bao giờ cũng thành công, nhưng nó đã gắn chặt vào tập quán của chúng tôi một cách rất nghiêm khắc. Vì nó bảo vệ chúng tôi khỏi đường cùng. Thần tiền không sinh sản nhiều, vì vậy vấn đề sinh tử của chúng tôi là tránh xung đột với nhau. Nếu mức độ phạm tội của chúng tôi cũng như người lùn và người thường, chúng tôi sẽ sớm bị tiêu diệt. Nghĩ một lúc, Arya nói: - Tới Ceris, chào hỏi lính gác một cách, khi ra mắt Nữ Hoàng lại có những kiểu mẫu cung cách theo đúng triều nghi. Còn hàng trăm cách chào hỏi những người khác, nếu không biết, chàng nên giữ im lặng thì tốt hơn. - Với tất cả những tập quán đó, dường như thần tiên càng dễ dàng khiển trách mọi người. Arya nhếch môi cười: - Có thể. Nhưng chàng và ta điều biết, chàng sẽ bị phán xét với những tiêu chuẩn cao nhất. Nếu chàng phạm một sai lầm, thần tiên sẽ cho rằng chàng làm vậy với một ý đồ. Nhưng nếu họ khám phá ra sai lầm đó vì ngu dốt lại rất tai hại. Thà vô lễ mà có khả năng, còn hơn đã thô lậu lại bất tài. Đường lối chính trị của chúng tôi vừa khôn khéo vừa rắc rối trong vòng luẩn quẩn. Sẽ có ngày, chàng thấy hay nghe được một hành động rất nhỏ trong chiến lược của một người lùn, hãy nhớ rằng chiến lược đó liên quan tới hàng thiên niên kỉ trước và sẽ ảnh hưởng tới cách cư xử của chúng tôi đến mai sau. Đó là lối sống của chúng tôi, một lối sống mà chàng sắp phải hoà nhập. Bây giờ thì hẳn chàng đã nhận ra, vì sao tôi nói: thần tiên không giống những loài khác. Người lùn cũng sống rất thọ, nhưng họ sinh sản nhiều hơn chúng tôi. Còn loài người… - Loài người làm hết sức mình có thể, để hưởng những gì được ban cho. - Đúng vậy. - Vì sao nàng không cho Orik biết những điều này? Vì ông ta cũng sẽ ở lại Ellesméra như tôi. - Dù sao Orik cũng đã quen với những nghi thức của chúng tôi rồi. Tuy nhiên, là một kỵ sĩ, chàng phải chứng tỏ có kiến thức hơn hẳn ông ta. - Tôi phải học những gì? Arya bắt đầu hướng dẫn Eragon, và qua nó, cả Saphira cũng am hiểu cách ứng xử tinh tế trong xã hội thần tiên: Khi hai thần tiên gặp nhau, họ đưa ngón trỏ và ngón giữa kên môi, biểu hiện “chúng ta không làm sai lệch sự thật khi trò chuyện.” Sau đó sẽ nói câu: “Atra esterni ono thelduin” và người kia sẽ đáp lại “Atra du evarínya ono varda”. Arya nói: - Nếu muốn tỏ ra trân trọng hơn thì nói thêm “Un atra mor’ranr lífa unin hjarta onr”, nghĩa là “Cầu chúc tâm hồn bạn luôn thanh thản”. Đây à những câu được trích trong bài Chúc-phúc của một con rồng đặt ra khi chúng tôi hoàn tất bản thỏa hiệp với loài rồng. Nguyên văn như sau: “Atra esterni ono thelduin Mor’ranr lífa unin hjarta onr Un du evarínya ono varda” Nghĩa là: Cầu chúc vận may uôn bên bạn, tâm hồn bạn luôn được thảnh thơi và nhưũng vì sao luôn phù hộ bạn. - Khi gặp nhau, làm sao biết ai sẽ lên tiếng trước? - Khi gặp người có địa vị cao hơn, hay khi muốn tìm vinh dự cho một thuộc cấp, chàng sẽ lên tiếng trước. Gặp người địa vị kém hơn, chàng sẽ nói sau. Nhưng nếu không rõ địa vị của nhau, hãy nhường người kia lên tiếng, nếu họ giữ im lặng, chàng có quyền nói trước. Saphira hỏi Eragon: - Vụ này có áp dụng cả với em không? Arya nhặt chiếc lá khô, bóp nát trong bàn tay. Sau cô, lều bạt mờ mờ trong bóng tối, vì người lùn đã dập tắt lửa và phủ một lớp đất mỏng lên, để giữ than âm ỉ cháy cho tới sáng. Nhìn Saphira, Arya nói: - Không loài nào được coi trọng hơn rồng trong văn hóa của chúng ta. Kể cả nữ hoàng cũng không được quyền đòi hỏi mi giữ lễ. Nếu muốn, mi được nói và làm bất cứ điều gì. Mi không hề ràng buộc vào quy luật của thần tiên. Sau đó, Arya hướng dẫn cho Eragon biết cách vặn vẹo bàn tay trái rồi đặt lên xương ức: - Đây là cung cách khi chàng ra mắt nữ hoàng Islanzadí. Cử chỉ này chứng tỏ lòng trung thành và thần phục của chàng. - Và tôi cũng bị ràng buộc như khi tuyên thệ với Nasuada. - Không, chỉ là chút lễ nghi thôi. Eragon cố ghi nhớ rất nhiều kiểu chào hỏi được Arya chỉ dẫn: cách chào của đàn ông với đàn bà, người lớn với trẻ con, con trai và con gái cũng như giữa những cấp bực và uy thế khác nhau. Khi Eragon gần thuần thục, Arya đứng dậy nói: - Cứ nhớ vậy mà tập rồi chàng sẽ quen. Cô vừa nói vừa quay đi. Eragon với tay định kéo cô lại, nói: - Khoan. Nó vội rụt tay về, khi Arya ngoái lại, đôi mắt đen lánh trừng trừng nhìn nó như chất vấn. Bụng Eragon đau thắt, cố tìm cách nói ra những điều ôm ấp trong lòng, nhưng nó chỉ lắp bắp thốt được mấy câu: - Arya, nàng khỏe chứ? Hình như từ lúc chúng ta rời trạm Hedarth, nàng có vẻ bất an. Mặt Arya đanh lại như một chiếc mặt nạ không hồn. Eragon biết đã chọn không đúng lúc, nhưng cũng không hiểu vì sao câu hỏi lại làm nàng có thái độ chống đối đến như vậy. Arya lạnh lùng nói: - Khi chúng ta ở Du Weldenvarden, ta mong chàng đứng nói với ta bằng giọng điệu thân thiết quá như vậy, trừ khi chàng muốn chuốc lấy sự khinh thường. Nói xong, Arya rảo bước đi ngay. Saphira kêu lên: “Chạy theo cô ta đi.” ”Sao?” ”Chúng ta không thể để cô ta giận anh được.” ”Không. Lỗi cô ta, đâu phải tại anh.” “Xin lỗi cô ta ngay. Nếu không, em quăng thịt thối vào lều anh bây giờ. Nói thật đó, không giỡn đâu.” “Nhưng… xin lỗi bằng cách nào?” Suy nghĩ một giây, Saphira dạy cho ông anh biết cách xin lỗi nàng tiên. Eragon vội chạy tới trước mặt Arya làm cô phải dừng bước. Arya ngạo mạn nhìn Eragon. Đặt hai ngón tay lên môi, Eragon áp dụng ngay cung cách vừa mới học: - Arya Svit-kona – thưa công nương Arya – tôi đã cư xử không phải, cầu xin công nương lượng thứ. Tôi và Saphira đều quan tâm tới sự an toàn cua công nương, Sau tất cả những gì công nương đã làm cho chúng tôi, ít nhất chúng tôi cũng phải làm điều gì khi có thể. Mặt Arya dịu hẳn, cô nhỏ nhẹ nói: - Ta cảm tạ sự quan tâm của chàng. Chính ta cũng đã cư xử không phải với chàng. Eragon, điều gì làm ta bất an ư? Nếu thật tình chàng muốn biết, ta sẽ nói… Giọng cô êm ru, nhẹ hẫng như sợi tơ bay trong gió: -Vì… ta đang lo sợ. Eragon đờ người không thốt lên lời, trong khi Arya bước đi để nó đứng lại một mình trong đêm tối. Buổi sáng ngày thứ ba, khi eragon đang sóng ngựa bên Shrrgnien, người lùn bỗng lên tiếng nói: - Bàn-tay-bạc, xin cho tôi biết, có đúng là loài người có mười ngón chân không? Vì thực sự trước đây chưa bao giờ tôi ra khỏi biên giới của người lùn. - Tất nhiên là chúng tôi có mười ngón chân. Eragon vua ngạc nhiên nói vừa co chân, cởi ủng và bít tất, đưa bàn chân phải lên trước đôi mắt kinh ngạc của Shrrgnien, hỏi: - Chân các anh không giống thế này sao? - Ồ, không. Thần Helzvog tạo cho chúng tôi mỗi bàn chân có bảy ngón. Năm thì ít quá, còn số sáu là số không tốt, vì vậy bảy là đúng nhất. Hắn kiếc bàn chân eg lần nữa, rồi thúc lừa vượt lên, líu ríu nói với Âm và Hedin. Ngay lập tức, hai gã kia móc túi đưa cho Shrrgnien một nắm tiền bằng bạc. Vừa xỏ giầy vớ, Eragon vừa nghĩ: “Chắc chắn họ đem mình ra để cá cược.” Chẳng hiểu sao, ả rồng lại tỏ ra hí hởn, khoái chí vì chuyện này. Khi mặt trăng tròn vành vạnh lên cao, sông Edda đã gần tới ranh giới Du Weldenvarden. Họ men xuống một đường mòn, xuyên qua những bụi hồng và trúc đào nở đầy hoa. Không gian ngào ngạt hương hoa nồng ấm . Nhìn những vạt rừng tăm tối, Eragon háo hức vì biết đã bước vào lãnh địa của thần tiên và rất gần với Ceris. Saphira cũng nôn nóng không kém. Đuôi không ngừng ve vẩy, cô ả chạy vượt lên phía trước. Eragon có cảm giác như đang lạc vào giấc mọng. “Dường như không có gì là thật.” Ả rồng phán tỉnh bơ: “Hứ, đây là nơi huyền thoại còn sờ sờ trên mặt đất mà.” Sau cùng họ tiến tới một đồng cỏ nhỏ nằm giữa núi và dòng sông. Arya thấp giọng, nói: - Ngừng lại. Một mình cô bước lại giữa bãi cỏ xanh tươi, cất tiếng kêu bằng cổ ngữ: - Ra đi, các huynh đệ. Đừng sợ. Arya của hoàng cung Ellesméra đây. Những người đồng hành cùng tôi là bạn và đồng minh; họ không làm hại chúng ta đâu. Suốt mấy phút chỉ nghe tiếng sông rì rào sau lưng, rồi dưới những cành lá im phăng phắc, một tràng tiếng nói bằng ngôn ngữ của thần tiên líu lo đến nỗi eg không hiểu nổi một từ nào. Arya trả lời: - Tôi biết mà. Chỉ với một tiếng xào xạc, hai thần tiên đã đứng ngay bìa rừng, hai vị khác nhẹ nhàng xuất hiện trên những nhánh sồi. Hai thần tiên dưới đất cầm giáo, hai vị trên cây cầm cung. Tất cả đều mặc áo màu rêu và vỏ cây, áo choàng ngoài cài trâm bằng ngà. Một người có bím tóc đen như Arya, ba người kia tóc sáng như ánh sao. Các thần tiên từ trên cây nhảy xuống, ôm lấy Arya, tiếng cười giòn giã trong vắt như pha lê. Rồi họ nắm tay nhau, nhảy vòng quanh nàng như trẻ thơ, vui vẻ hát. Eragon sững sờ ngó, vì chưa bao giờ Arya chứng tỏ cho nó có thể nghĩ rằng: thần tiên cũng thích - thậm chí có thể - cười!? Không những vậy, tiếng cười giọng hát của họ là một âm thanh kỳ diệu, như tiếng tiêu tiếng sáo dặt dìu và làm người ta cảm thấy phấn chấn, hoan hỉ trong lòng. Giữa lúc đó, Saphi rra từ sông nhoi lên, đến đứng bên Eragon. Vừa thấy cô rồng lù lù xuất hiện, các vị thần tiên ngừng múa hát, chĩa ngay vũ khí về phía nó. Arya vội chỉ tay về Eragon, rồi Saphira, nhẹ nhàng nói một hơi dài. Khi cô ngừng lại để thở, Eragon rút găng tay phải, xòe bàn tay để các thần tiên nhìn thấy dấu hiệu Gedwey Inagasia sáng rực dưới ánh trăng và nói những câu đã từng nói với Arya ngày nào: - Eka fricai un Shu’tugal. Tôi là Kỵ sĩ và là một người bạn. Nhớ lại bài học hôm qua, đặt hai ngón tay lên môi, nó nói thêm: - Astra asterrní ono thelduin. Các thần tiên hạ vũ khí, mặt sáng lên mừng rỡ, họ cũng đặt ngón tay lên môi, cúi đầu trước Eragon và Saphira lẩm bẩm mấy câu cổ ngữ. Chỉ mấy người lùn vui vẻ cười cợt, rồi vừa quay bước trở vào rừng, họ vừa vẫy tay nói: - Nào, đi thôi. Eragon đi sau cùng, nó nghe mấy người lùn đi trước làu bàu thì thầm với nhau. Bước dưới nhưnghx vòm cây tăm tối, chỉ loáng thoáng ánh trăng xuyên qua kẽ lá, Eragon nghe tiếng thần tiên nói cười khắp nơi những không thấy bóng dáng họ đâu, tuy thỉnh thoảng lại nghe tiếng họ nhắc nhở mỗi khi Eragon hay những người lùn lạc lối. Phía trước ánh lửa bập bùng sau những hàng cây, đổ những chiếc bóng chập chờn ma quái trên mặt đất phủ đầy những lá. Khi Eragon bước vào vùng sáng, nó thấy ba cái lều cỏ nhỏ dựa sát nhau quanh gốc một cây sồi cổ thụ. Trên cành cao có một chòi canh, từ nơi này người gác có thể quan sát cả sông và rừng. Một cây sào dài gác giữa hai chòi: cành lá treo đầy trên sào như để phơi. Khi bốn thần tiên trở lại từ trong những cái lều, tay họ ôm đầy rau tươi và trái cây, bắt đầu bày tiệc đãi khách. Vừa làm việc họ vừa ư ử hát, đang bài này họ nhảy ngay sang bài khác. Orik hỏi tên thần tiên tóc đen. Ông ta chỉ tay vào ngực trả lời: - Lifaen của dòng tộc Rílvenar. CÒn đây là Edurna, Celdin và Narí. Eragon ngồi bên Saphira, khoan khoái vì được nghỉ ngơi và ngắm nhìn các thàn tiên. Mặc dù tất cả họ đều thuộc phái nam, nhưng mặt họ đều tương tự Arya: vành môi sắc sảo, mũi cao, đôi mắt xếch to sáng rực dưới chân mày. Toàn bộ thân hình họ rất tương xứng với đôi vai hẹp và chân tay thanh mảnh. Tất cả đều nhã nhằn và quý phái hơn bất kỳ con người nào mà nó đã gặp. Eragon tự nhủ: “Ai dám nghĩ có ngày mình được tới xứ sở thần tiên?” Rồi mỉm cười, nó dựa lưng vào lều mơ màng bên ngọn lửa ấm áp. Trong khi đó đôi mắt xanh của Saphira không bỏ sót một cử chỉ nào của các thần tiên. Sau cùng cô ả đưa ra nhận xét: “Loài này nhiều phép thuật hơn loài người và người lùn. Dường như họ không phát sinh từ đá hay đất mà ra, nhưng từ một nơi khác, thoáng hiện thoáng mất, cứ như những cái bóng phản chiếu nhìn qua nước vậy.” Eragon bảo:: “Nhưng quả thật là họ rất duyên dáng.” Đúng vậy, thần tiên di chuyển như nhảy múa, cử chỉ củ họ mềm mại, thanh thoát. Ông Brom đã từng cho Eragon biết, ai nói với con rồng của một kỵ sĩ bằng cách chuyển đạt ý nghĩ, mà chưa được phép là vô lễ, và thần tiên giữ quy luật đó rất nghiêm túc. Họ nói lớn những lời tán tụng Saphira và Saphira có thể trực tiếp chuyển câu trả lời sang họ. Saphira thường hạn chế chuyện tiếp cận với tư tưởng của loài người và người lùn, chỉ để Eragon nói thay cho nó, tuy rất hiếm người thường và người lùn học được cách ngăn chặn kẻ khác xâm nhập vào tâm trí mình. Nhưng thần tiên lại rất vui lòng để Saphira tiếp cận với tư tưởng của họ. Họ rất thích thú với sự hiện diện của cô rồng. Món ăn được đưa ra trong những cái khay như những khúc xương, nhưng thớ gỗ nổi rõ những vết trổ hình hoa và những dây nho. Eragon còn được phục vụ riêng một bình rượu dâu rừng - chiếc bình cũng được làm bằng chất liệu khác thường như những cái khay, nhưng có hình chạm nổi một con rồng cuốn quanh. Đang ăn, Lafaen mang ra một bộ sáo trúc, rồi bắt đầu dạo một khúc trầm bổng véo von. Những ngón tay ông ta bay nhảy trên hàng loạt lỗ sao. Một lúc sau, Narí, tiên ông tóc bạc và cao nhất, cất cao giọng hát: Ô ô ô! Ngày qua rồi; sao đã long lanh; Lá cây ngủ dưới vầng trăng sáng. Hãy cười vang trước những khổ đau và những hận thù Đêm nay con cháu của Menoa được yên bình. Người còn gái của núi rừng đã mất Nàng hy sinh trong cuộc đấu tranh Không còn hãi hùng không còn lửa cháy Nàng cứu chàng kỵ sĩ khỏi bóng tối chập chùng Rồng lại vươn cánh bay cao Chúng ta lại phục thù cho bao nỗi nhọc nhằn Cánh tay dũng mãnh lại vung cao lưỡi kiếm Giờ là lúc chúng ta xử tội hôn quân. Ôiii! Gió dịu dàng, sông sâu thẳm Chim chóc yên ngủ tren cành cao Hãy cười vang trước khổ đau và thù hận Vì… Giờ là lúc chúng ta gặt hái niềm vui. Khi Narí ngưng tiếng hát, Eragon mới thở đièu hòa trở lại. Chưa bao giờ nó đựoc nghe một giọng ca như thế, Dường như ông ta thổ lộ hết can trường bằng giọng hát. Eragon thì thầm: - Tuyệt quá, Narí-vodhr (Narí tiên sinh). - Chỉ là một bài hát thôi thiển thôi mà, Bàn-tay-bạc. Dù sao cũng đa tạ lời khen tặng. Thorv lên tiếng: - Tuyệt thật, thưa thần tiên tiên sinh. Nhưng chúng tôi có vấn đề muốn được hỏi: Chúng tôi có phải dưa kỵ sĩ Eragon xa nữa không? Arya nói ngay: - Không. Các người có thể trở về ngay sớm mai. Chúng ta sẽ bảo đảm Eragon tới Ellesméra an toàn. Thorv gật đầu: - Coi như công tác của chúng tôi đã hoàn tất. Ngả mình lên giường đã được các thần tiên thu xếp sẵn, Eragon cố lắng nghe tiéng nói của Arya loáng thoáng vọng lại từ một căn lều. Dù cô dùng nhiều từ cổ ngữ xa lạ, nhưng Eragon có thể đoán là Arya đang kể lại vụ mất trứng Saphira và những sự kiễn xảy ra từ đó. Im lặng một lúc lâu sau khi cô ngừng nói, rồi tiếng một thần tiên: “Cô trở về là quá tốt đẹp rồi, Arya Drottningu. Nữ hoàng đau buồn đến phát bệnh vì cô bị bắt và vụ mất trứng rồi. Nữ hoàng rất… rất đau lòng.” Một tiếng khác: “Suỵt! Edurna… Dvergar (người lùn) nhỏ bé nhưng tai thínhlắm. Nghe được điều gì chắc chắn họ sẽ tâu lại ngay với vua Hrothgar.” Eragon chỉ còn nghe được những tiếng thì thào rất nhỏ hòa trong tiếng lá cây xào xạc khi nói lơ mơ đi vào giấc ngủ, và bài ca của thầntiên lại chập chờn trong những giấc mơ của nó. Hương hoa ngào ngạt trong không khí khi Eragon thức dậy để thấy một mặt trời Du Weldenvarden sũng nước. những thân cây to lớn đỡ những tán lá rộng đầm đìa nước, nhưng chung quanh gốc chỉ có rêu và loài địa chi phủ tràn mặt đất, loáng thoáng vài cây dại thấp lè tè. Vì vậy, người ta có thể quan sát được một tầm rất xa và thoải mái dạo bước dưới tàn lá rậm rạp. Toán của Thorv đang sửa soạn ra về. Eragon tiến lại nói: - Cám ơn tất cả các anh đã bảo vệ cho tôi và Saphira. Xin chuyển lời cảm ơn của tôi tới Undin nữa. Thorv nắm cchặt tay trước ngực, bối rối ngoái nhìn những cái lều phía sau, rồi nói nhỏ: - Tôi sẽ chuyển lời. Nhưng… thần tiên là một loài… kỳ dị lắm. Đầy bóng tối và ánh sáng lẫn lộn. Buổi sáng họ vừa nhậu nhẹt với mình đó, buổi tối rất có thể họ lụi cho mình một dao. Xin Khắc-Tinh của Tà-Thần ráng bảo trọng. Vì tính khí họ rất bất thường. - Tôi sẽ ghi nhớ điều đó. - À, họ tính di chuyển bằng thuyền tới hồ Eldor. Con Hỏa Tuyết tính sao đây? Chúng tôi có thể đem theo nó tới Tarnag, rồi chuyển về Tronjheim. - Họ định đi thuyền à? Eragon ngạc nhiên kêu lên, vì nó vẫn định đưa Hỏa Tuyết tới Ellesméra. Mỗi khi không thể bay cùng Saphira, có con ngựa rất tiện lợi. Rờ cái cằm lún phún râu, Eragon trầm ngâm nói: - Đành vậy thôi. Nhưng các anh cố gắng săn sóc nó dùm tôi, vì tôi sẽ không chịu nổi, nếu có chuyện không hay xảy ra cho nó. - Xin lấy danh dự hứa, khi trở về kỵ sĩ sẽ thấy Hỏa Tuyết mập mạp mượt mà hẳn ra. Eragon chúc từng người lùn đi đường bằng an, rồi cùng Orik và Saphira đứng nhìn họ thong dong trở về lối cũ. Sau đó Eragon, Orik và Saphira theo các thần tien tới một lùm cây rậm rạp bên bờ sông Edda. Hai con thuyền trắng đã buộc sẵn bên một tảng đá. Eragon bước lên thuyền, ném ba lô xuống dưới chân. Nó ngạc nhiên thấy con thuyền có vẻ nhẹ hẫng; dường như nó có thể nâng bổng lên với chỉ một tay. Lạ lùng hơn, vỏ thuyền hình như toàn bằng những mảnh vỏ cây ghép lại, khéo léo đến không để lộ một đường nối hay kẽ hở nào. Tò mò, nó rờ thủ. Lớp vỏ mát lạnh, rắn chắc và căng cứng. Nó gõ lên vỏ thuyền. Một âm thanh vang lên như tiếng tróng. Eragon hỏi Narí ngồi kế bên: - Tất cả các thuyền của quý vị đều được làm như thế này sao? - Tất cả, chỉ trừ những thuyền cực lớn. Chúng tôi hát cho tới khi những cây sồi và bách hương tốt nhất mọc thành những con thuyền lớn. Trước khi Eragon kịp hỏi rõ thêm thì Orik nhảy xuống thuyền. Arya và Lifaen lên thuyền kia. Cô hướng lên bờ dặn Edurna và Celdin: - Canh gác kỹ lưỡng, đừng để kẻ nào có thể theo dõi. Nhớ đừng cho ai biết sự có mặt của chúng tôi. Việc này phải được tâu lên nữ hoàng trước nhất. Ngay khi tới Sílthrim, tôi sẽ gửi thêm tiếp viện. - Rõ, Arya Drottningu. - Xin các vì sao che chở hai huynh đệ. Narí và Lifaen cúi mình đẩy sào cho thuyền ra xa. Saphira trườn xuống nước, bò trên lòng sông cho tới khi ngang tầm hai con thuyền. Thấy Eragon nhìn, cô ả nháy mắt rồi lặn xuống nước làm một khúc sông vồng hẳn lên. Hai tiên ông ha hả cười, hết lời ca tụng sức mạnh và thân hình đồ sộ của cô nàng. Một tiếng sau, họ đã tới hồ Eldor. Bờ phía tây, hàng đàn chim bướm dập dìu bên những hàng cây; nhưng bờ bắc là dốc thoai thoải lên những đồng cỏ với hàng trăm con nai tha thẩn. Qua khỏi đoạn hồ có sóng, Narí và Lifaen dẹp sào, rồi phân phối mái chèo cho mọi người. Orik và Arya rất quen điều khiển một con thuyền, nhưng Narí phải hướng dẫn cho Eragon: - Thuyền sẽ quay về bất cứ hướng nào mà kỵ sĩ chèo. Vì vậy, nếu tôi chèo bên phải, Orik chèo bên trái, thì kỵ sĩ phải chèo bên này, rồi lại tới bên kia để giữ thăng bằng, nếu không thuyền sẽ bị chìm. Khi đã quen tay chèo, Eragon thoải mái thả hồn mơ mông, chìm đắm vào thế giới kỳ ảo trên mặt nước hồ hây hây gió mát. Khi nghỉ tay chèo, nó lấy cái nhẫn của Orik ra cố gắng sắp xếp. Narí kêu lên: - Cho tôi coi một chút được không? Nhận cái nhẫn từ tay Eragon, ông ta ngồi xoay lưng lại loay hoay tháo gỡ. Chỉ một lát sau, khi Orik và Eragon đang chèo, Narí mừng rỡ đưa cao tay la lớn: - Ngạc nhiên chưa? Những chiếc vòng nhỏ xíu đã kết thành một cái nhẫn hoàn hảo trên lòng bàn tay ông ta. Narí rũ mạnh, những cái vòng lại trở về nguyên dạng cũ, trước khi trao trả lại cho Eragon. Eragon kinh ngạc hỏi: - Sao ông làm quá dễ dàng vậy? Khoan… đừng nói. Tôi muốn tự àm. - Tất nhiên. Đời nào tôi nói. Narí mủm mỉm cười. Suốt ba ngày rưỡi, dân Carvahall tranh luận gay go và trận đụng độ mới nhất, về cái chết thảm của Elmund và về những gì có thể làm để tránh vụ nổ lần thứ ba. Những lời cãi vã đầy giân dữ, cay nghiệt xảy ra trong tất cả mọi nhà làm bạn bè hục hặc nhau, chồng chống lại vợ, con cái cãi lại cha mẹ… Tất cả chỉ tạm lắng xuống mỗi khi cố hòa giải. Mong tìm ra một phương pháp hữu hiệu nhất để sống còn. Người thì bảo, chẳng may Carvahall đến ngày mạt vận, thà giết chết hết hai tên Ra’zac và dám lính, ít ra là còn trả được thù. Kẻ khác lại nói, nếu Carvahall thật sự bị hủy diệt, phương pháp hợp lý nhất là đầu hàng, đành phó mình cho sự nhân từ của triều đình, dù Roran có bị tra khảo tới chết và mọi người phải trở thành nô lệ. Cũng có những người không đưa ra ý kiến gì, chỉ trút căm hờn lên kẻ nào đã mang tai ương này đến với dân làng. Còn nhiều kẻ lại trốn tránh nỗi lo sợ bằng cách uống rượu như hũ chìm. Trong khi đó, rõ ràng Ra’zac thấy với mười một lính mất mạng, chúng không còn đủ lực lượng để tấn công Carvahall, nên đã rút quân về bên kia thung lũng Palancar đóng đồn canh gác và chờ đợi. - Chúng đang chờ những con chí rận đến từ Ceunon hoặc từ Gil’ead. Tôi cam đoan như vậy. Ông già Loring tuyên bố trong một buổi họp. Và Roran lắng nghe tất cả những lời góp ý bàn bạc, lẳng lặng mưu tính, những phương sách nào anh cũng cảm thấy quá nguy hiểm. Anh vẫn chưa nói với lão Sloan về chuyện hứa hôn giữa mình và Katrina. Biết chờ đợi là điên khùng, nhưng Roran sợ phản ứng của lão Sloan khi biết hai người đã vượt vòng lễ giáo, vì như vậy là làm mất mặt lão. Ngoài ra, còn quá nhiều việc khẩn thiết anh phải giải quyết cấp kỳ. Với Roran, việc củng cố hàng phòng ngự cho Carvahall là điều quan trọng nhất lúc này. Kêu gọi mọi người tiếp tay có vẻ dễ dàng hơn anh tưởng. Sau trận đêm qua, dân làng lắng nghe và làm theo yêu cầu của anh nhiều hơn. Tất nhiên đó là những người đã không nguyền rủa anh vì cớ sự khó khăn này. Lúc đầu, Roran ngạc nhiên vì uy tín mới mẻ của mình, nhưng rồi anh nhận ra, sự e dè, kiêng nể và có lẽ cả sợ hãi của mọi người đối với anh là do kết quả anh đã giết mấy tên lính triều đình. Đã có người gọi Roran là Cây-Búa Dũng-Mãnh. Dù sao cái tên này cũng làm Roran vui vui. Khi màn đêm phủ xuống thung lũng, Roran nhắm mắt, đứng dựa góc buồng ăn nhà chú Horst, nghe cuộc bàn luận của cả đàn ông lẫn đàn bà quanh một cái bàn chập chờn ánh nến. Kiselt đang đưa ra vấn đề lương thực: -Chúng ta sẽ không chết đói ngay. Nhưng nếu không thể sớm bắt tay và việc đồng áng và chăn nuôi, thì chẳng khác nào chúng ta tự cắt họng mình vào mùa đông sắp tới này. Bà lang Gertrude lên tiếng: -Tôi cũng muốn nhắc điều này. Trong trận vừa qua, chúng mất mười một mạng, bên ta mười hai tử vọng. Hiện tôi còn đang phải săn sóc cho chín người bị thương nữa. Tình trạng này chứng tỏ ta bị thiệt hại nhiều hơn. Ông thợ rèn đáp lại: -Thêm một lý do để sau này tên chúng ta được nhắc tới. Bà Gertrude lắc đầu buồn bã. Ông Loring đấm tay lên bàn: -Theo tôi chúng ta phải chủ động tấn công, trước khi bị thiệt hại nhiều hơn thế nữa. Chỉ cần mấy người với khiên và giáo, chúng ta đủ sức quét sạch đám vô lại đó. Phải làm ngay trong đêm nay. Roran không thể đứng yên, anh nghe luận điệu này quá nhiều rồi, và sẽ như những lần trước, đề xuất của ông cụ lại làm bùng lên những đôi co rầm rầm như đánh nhau, rồi… ai về nhà nấy. Đúng vậy, nửa tiếng sau, cuộc bàn cãi không đưa ra được một giải pháp hay ý kiến mới mẻ nào, dù suýt xảy ra ẩu đả. Sau cùng Roran khập khiễng bước vội tới bên bàn, dù vết thương nơi bắp chân vẫn còn đau: - Cháu có vài điều muốn nói. Tất cả những đôi mắt - cứng rắn, dịu dàng, giận dữ, trìu mến và cả tò mò - hướng về anh. Roran lên tiếng: - Sự do dự sẽ giết chúng ta chẳng thua gì gươm giáo. Orval trợn mắt, nhưng tất cả những người khác đều lắng nghe Roran nói tiếp: - Cháu không biết chúng ta nên tấn công hay chạy trốn… Kiselt bật nói: - Trốn đâu? -… nhưng cháu biết một điều: những trẻ thơ, những bà mẹ và cả những người đau yếu, già cả của chúng ta cần dược bảo vệ. Ra’zac đã chặn đường chúng ta tới nhà Cawley và những trang trại khác dưới thung lũng. Vậy phải làm sao đây? Chúng ta biết rõ đất này hơn bất cứ kẻ nào trong nước Alagaesia này mà, và… chúng ta biết, còn có một nơi, một nơi mà những người thân yêu của chúng ta sẽ được an toàn. Đó là núi Spine. Roran nhăn mặt vì những tiếng la hét phản đối rầm rầm nổi lên. Tiếng gào của lão Sloan lớn nhất: - Tôi thà bị treo cổ còn hơn đặt chân đến cái núi khốn kiếp đó. Chú Horst cố vãn hồi trật tự rồi nói với Roran: - Cháu cũng như tất cả dân làng đều biết núi Spine là một nơi đầy rẫy hiểm nguy. Đó là nơi… Eragon mang về hòn đá gây nên chuyện Ra’zac đên đây. Trên đó đầy thú dữ và khí hậu thì lạnh giá. Nhắc đến nơi đó làm gì? “Để Katrina được an toàn.” Roran muốn gào lên câu đó, nhưng anh chỉ nói: - Vì… sau lần Galbatorix mất nửa đoàn quân, dù Ra’zac được tăng viện bao nhiêu lính, chúng cũng sẽ không dám mon men tới đó. Morn nghi ngại nói: - Chuyện đó xảy ra quá lâu rồi. Roran vẫn tiếp tục: - Nhưng càng ngày những lời đồn thổi càng đáng sợ hơn. Và đường mòn dẫn lên thác Igualda vẫn còn tồn tại. Việc của chúng ta bây giờ chỉ là đưa trẻ con và mọi người lên đó. Họ sẽ được an toàn, vì chỉ lên tới rìa của rặng núi thôi. Nếu Carvahall bị chiếm, họ sẽ chờ cho đến khi lính rút đi, lúc đó sẽ có thể di tản tới Therinsford. Lão Sloan lại gầm lên: - Quá nguy hiểm! Trời lạnh, thú dữ, đủ thứ hiểm nguy! Không một con người tỉnh táo nào lại đưa gia đình mình lên đó. - Nhưng… Roran cố bình tĩnh trước cơn thịnh nộ của lão chủ hàng thịt. Anh biết lão Sloan căm ghét núi Spine hơn ai hết, vì bà vợ đã trượt chân và chết bên dòng thác Igualda. Anh chỉ hy vọng tình thương yêu con gái làm lão vượt qua thành kiến để bảo vệ cho Katrina. Anh dịu giọng nói: - Tình hình cũng không đến nỗi nào đâu. Trên núi tuyết đã tan. Spine không lạnh hơn dưới này mấy tháng trước. Cháu cũng tin thú dữ không dám tấn công một đoàn người đông đúc như vậy. Những người khác có vẻ đồng ý. Điều đó làm Roran tăng thêm niềm tin vào quyết định của mình. Katrina sẽ chết, nếu anh không lay chuyển được những con người này. Nhìn quanh, Roran tìm những khuôn mặt tỏ ra có cảm tình với anh: - Chú Delwin, cháu biết là nhẫn tâm khi nói ra điều này: nếu Elmund không có mặt tại Carvahall, thì giờ này cậu ấy vẫn còn sống. Chắc chú sẽ đồng ý đây là một hành động đúng đắn, cần làm. Chú sẽ có cơ hội tránh cho những bậc cha mẹ khác gặp phải niềm đau như chú. Mọi người đều im lặng, Roran lê bước tới sau Birgit, nắm dựa ghế của chị cho khỏi ngã: - Còn chị, Birgit. Chị có mong Nolfvrel cũng chịu số phận như cha nó không? Nên để nó đi khỏi đây. Chị không thấy đó là đường an toàn duy nhất của nó sao? Dù cố kìm nén, nhưng nước mắt Roran đã lăn dài trên má, anh phẫn nộ gào lên: - Hãy vì trẻ em mà làm việc đó đi. Delwin là người đầu tiên lên tiếng: - Tôi sẽ không bao giờ đi khỏi Carvahall khi nào những kẻ giết con trai tôi vẫn còn đây. Tuy nhiên tôi không thể chối bỏ sự thật trong những lời cậu nói. Phải bảo vệ trẻ con bằng mọi giá. Tara tuyên bố: - Thì như tôi đã nói từ đầu rồi đó. Lúc đó Baldor mới lên tiếng: - Roran nói đúng. Chúng ta không thể mù quáng vì quá sợ hãi. Hầu hết chúng ta, ít nhất một lần đã lên tới đỉnh thác. Có gì nguy hiểm đâu? Birgit bảo: - Tôi cũng đồng ý. Chú Horst gật gù: - Đúng ra tôi không hoàn toàn đồng ý, nhưng suy đi tính lại thì còn chọn lựa nào khác tốt hơn trong hoàn cảnh này đâu. Sau vài phút, mọi người đều lên tiếng chấp thuận ý kiến của Roran. Lão Sloan đứng bật dậy, chỉ ngón tay ngay mặt Roran: - Làm sao mọi người có đủ lương thực để ở trên đó chờ đợi cho đến khi kết thúc? Làm sao chịu nổi giá lạnh. Vì nếu đốt lửa, họ sẽ bị Ra’zac phát hiện. Không chết vì lạnh cũng bị thú dữ ăn thịt. Nếu không bị chết vì thú dữ, cũng…ngã xuống thác sâu… Roran giang rộng hai tay: - Nếu chúng ta cùng chung sức, họ sẽ có đầy đủ lương thực. Nếu họ di chuyển sâu vào rừng, lửa không thành vấn đề. Và chắc chắn họ sẽ vào sâu trong rừng, vì sát bên bờ thác không có chỗ để dựng trại. Lão Sloan làu bàu: - Toàn nguỵ biện. Morn hỏi: - Vậy ông muốn chúng tôi phải làm gì? - Không phải làm chuyện này. - Vậy thì làm sao? - Làm sao cũng được. Chỉ có điều chuyện này hoàn toàn vô lý. Horst nói ngay: - Thì ông đừng tham gia. - Chắc chắn sẽ không có tôi. Các anh thích thì cứ tiến hành, nhưng tôi cũng như con gái tôi, sẽ không bao giờ đặt chân tới núi Spine khi nào tôi chưa hoá rồ. Lão chộp mũ, bước ra, sau khi ném cho Roran một cái nhìn hằn học. Nhìn ánh mắt thâm hiểm đó, Roran tin chắc sự ngoan cố của lão sẽ gây nguy hiểm cho Katrina. Anh quyết định: “Nếu lão bướng bỉnh không chấp nhận núi Spine là nơi an toàn, mình phải tự lo việc này thôi.” Chú Horst hỏi tất cả: - Nào, nếu đã đồng ý với kế hoạch của Roran, bây giờ chúng ta cần phải sửa soạn những gì đây? Mọi người lo ngại nhìn nhau rồi bắt đầu bàn luận. Roran chờ cho tới khi tin chắc đã đạt mục đích, anh lẳng lặng ra khỏi phòng. Hộc tốc chạy qua con đường làng, Roran đi tìm lão Sloan dọc theo bức tường bảo vệ bằng cây. Thỉnh thoảng anh thấy lão chủ hàng thịt gò mình rụt cổ rảo bước dưới một ngọn đuốc. Roran bỗng ngừng phắt lại, quay mình chạy đến cửa hàng của lão. Katrina đang thu dọn trong bếp, giật mình khi thấy Roran chạy vội vào: - Roran, sao anh đến đây? Nói với cha em rồi sao? - Chưa. Roran tiến lại nắm lấy tay cô. Chỉ những khi ở bên cô anh mới cảm thấy vui và an tâm: - Anh có chuyện quan trọng phải nhờ em. Mọi người đã quyết định đưa trẻ con và một số người lên thác Igualda. Anh mong em sẽ đi cùng họ. Hốt hoảng, Katrina rụt vội tay lại, tới trước cửa bếp, thở dốc. Một lúc lâu sau cô mới lên tiếng nổi: - Từ khi mẹ mất, cha em đã cấm đến gần thác đó. Hơn mười năm trước, trong vùng Spine, em chỉ đến nhà Albem. Đó là nơi gần đây nhất. Cô rùng mình nói tiếp như kết tội Roran: - Sao anh có thể yêu cầu em xa rời cả cha lẫn anh? Ngôi làng này là nhà của chúng ta. Tại sao em phải ra đi khi các thím Elain, Tara, chị Birgit được ở lại? - Katrina, anh van em. Tụi Ra’zac tới đây là để bắt anh, và anh không thể để em bị hại vì chuyện đó. Khi nào em còn trong vòng nguy hiểm, anh không thể tập trung vào những việc phải làm. Đó là: bảo vệ Carvahall, làng của chúng ta. Cô ngẩng cao đầu hỏi: - Còn ai nể nang em, khi em chạy trốn như một kẻ hèn nhát thế? Đứng bên những người phụ nữ trong làng, em sẽ xấu hổ khi tự xưng là vợ của anh. - Sao lại hèn nhát? Săn sóc và bảo vệ trẻ em trên núi Spine là hèn nhát? Phải là người cực kỳ can đảm mới làm được việc đó chứ. Katrina thở dài, nói nhỏ: - Điều khủng khiếp nhất là… hình như người đàn ông sẽ là chồng em không muốn có em ở bên anh ấy… - Không đúng… - Quá đúng! Chuyện gì xảy ra, lỡ anh chết mà em không có mặt? - Đừng nói… - Không. Để em nói. Carvahall rất ít hy vọng sống còn, nhưng nếu chúng ta phải chết, em mong thà chúng ta chết bên nhau, chứ không chỉ mình em sống chui nhủi trên núi Spine. Mặc tụi trẻ con, em không đi đâu hết. Nước mắt đầm đìa trên mặt Katrina. Roran bàng hoàng xúc động, anh nhìn sâu vào đôi mắt đẫm lệ của người yêu: - Chính vì tình yêu của đôi ta mà anh phải để em đi. Anh biết em khổ tâm đến nhường nào, anh biết dù anh hay em thì đó cũng là một hy sinh quá lớn, và lúc này anh xin em hãy hy sinh vì anh mà ra đi. Toàn thân Katrina run rẩy: - Nếu em đồng ý, anh phải hứa với em – ngay bây giờ ngay tại đây - rằng anh sẽ không bao giờ yêu cầu em như thế này một lần nào nữa. Anh phải hứa, dù có đụng độ với chính bạo chúa Galbatorix, và một trong hai ta phải trốn, anh không được bảo em ra đi. Roran đau khổ nhìn cô: - Anh… anh không thể… Katrina kêu lên: - Tại sao anh có thể bắt em làm điều anh sẽ không làm? Em quyết định rồi. Nếu anh không tha thiết với em đủ để tự hy sinh, thì anh đi đi, không bao giờ em muốn gặp lại anh nữa. Dù đau đớn quá sức chịu đựng, Roran cúi đầu lẩm bẩm: - Được, anh hứa. Katrina buông mình xuống ghế, lau nước mắt rồi bình tĩnh nói: -Cha sẽ ghét bỏ em vì chuyện ra đi này. - Em sẽ nói với cha thế nào? - Em sẽ không nói gì hết. Cha không bao giờ cho phép em đặt chân tới đó, nhưng cha phải hiểu đây là quyết định của riêng em. Nhưng cha sẽ không truy đuổi em đâu, vì ông sợ dãy núi đó còn hơn sợ chết. - Ông sợ mất em còn hơn thế nữa. - Hãy chờ xem. Nhưng, nếu khi nào em có thể trở về, lúc đó em mong anh đã cho cha em biết chuyện hứa hôn của chúng ta rồi. Điều đó làm cha có đủ thời gian để quen dần với sự đã rồi. Roran gật đầu, nhưng trong đầu chỉ nghĩ đến một điều: nếu mọi việc đều tốt đẹp, hai người quả là vô cùng may mắn. Sáng sớm Roran thức giấc, nằm ngó lên trần nhà một lúc rồi trở dậy thay quần áo. Vào bếp, anh lấy ổ bánh mì, phết chút phô-mai, rồi lững thững ra cổng vừa ăn vừa ngắm mặt trời lên. Cảnh tĩnh mịch bỗng bị phá tan vì tiếng cười đùa của một bầy trẻ rượt đuổi nhau qua khu vườn bên hàng xóm. Roran trở lại bếp. Thím Elain đã dậy. Bà vui vẻ hỏi: - Ngủ ngon chứ Roran? Đẩy cánh cửa sổ, nhìn bầu trời bà nói tiếp: - Có vẻ như trời lại sắp mưa. Chú Horst vừa bước vào lên tiếng: - Càng mưa nhiều càng tốt. Việc đưa trẻ lên núi, chúng ta càng được kín đáo hơn. - Chúng ta? Ngồi bên Albriech đang dịu hai mắt ngái ngủ, Roran hỏi. Chú Horst gậtd dầu: - Lão Sloan nói rất đúng về vụ lương thựuc và những đồ linh tinh khác. Chúng ta phải phụ khuân lên tác, nếu không sẽ không đủ dùng. - Nhưng vẫn còn người ở lại để bảo vệ làng chứ ạ? - Tất nhiên rồi. Cả nhà ăn sáng xong, Roran phụ với Baldor và Albriech gói thực phẩm, chăn mền, dụng cụ… thành ba bó lớn rồi vác lên vai, theo hướng bắc, đi về cuối làng. Bắp chân Roran nhức nhối, nhưng vẫn còn gượng nổi. Trên đường đi, họ gặp anh em Darmmen, Larne và Hamund cũng đang mang vác nặng nề. Dưới hố hào quanh các ngôi nhà, trẻ con, cha mẹ, ông bà đã tụ tập sẵn sàng cho cuộc di tản. Nhiều gia đình tình nguyện cho mượn lừa để tải hàng và trẻ con. Roran đặt bó hàng xuống, nhìn đám đông. Cụ Svart – bác của Ivor – sáu mươi tuổi đang ngồi trên một kiện quần áo, ngoáy chòm râu bạc chọc ghẹo một đứa bé; Birgit ngồi canh chừng thằng con trai Nolfavrell. Feda, Nolla, Calitha và những bà mẹ khác vẻ mặt đầy lo lắng. Trong đám đông nhiều người miễn cưỡng phải ra đi, Roran thấy Katrina đang lúi húi thắt chặt một cái bao. Cô ngẩng lên mỉm cười với Roran rồi lại tiếp tục công việc. Dường như không có ai điều khiển, Roran phải cố gắng thu xếp đám đông vừa ồn ào vừa lộn xộn. Anh phát hiện không đủ bình da đựng nước, nhưng sau khi lên tiếng yêu cầu cung cấp thêm, cuối cùng lại dôi ra tới mười ba bình. Những chuyện như vậy làm trì hoãn mọi người không kịp khởi hành vào sáng sớm. Đang bàn bạc với ông Loring về vấn đề giày dép mang thêm, Roran ngưng bặt khi thấy lão Sloan xuất hiện. Lão chủ hàng thịt khinh khỉnh bĩu môi nhìn đám đông đang tíu tít bận rộn. Ánh nhìn nhạo báng chuyển thành tức giận khi lão thấy Katrina đang vác một cái bao. Cô cố tỏ ra như chỉ có mặt tại đây để giúp mọi người. Roran vội tiến tới Katrina, nhưng lão mau chân hơn. Lão nắm cái bao trên vai cô lắc mạnh. - Đứa nào bảo mày làm chuyện này? Katrina lắp bắp nói về mấy đứa nhỏ và cố giật khỏi tay lão. Nhưng Sloan bẻ tay cô, quăng mạnh cái bao xuống đất, đồ đạc tung toé khắp nơi. Vừa la hét, lão vừa kéo cô đi. Katrina cố ghì lại, tóc xổ tung. Phẫn nộ, Roran nhào lại tách hai cha con Katrina ra. Anh xô quá mạnh tay làm lão loạng choạng bật ra sau mấy bước: - Chính cháu muốn Katrina ra đi. Nhìn Roran trừng trừng, lão gầm lên: - Mày không có quyền. - Cháu có quyền. Rồi nhìn mọi người đang xúm xít chung quanh, Roran nói lớn: - Tôi và Katrina đã hứa hôn với nhau và tôi không muốn để vị hôn thê của mình bị đối xử như thế. Lần đầu tiên trong ngày hôm đó, dân làng – và cả mấy con lừa – hoàn toàn nín lặng. Vẻ bàng hoàng cùng sự tổn thương đau đớn đến cùng cực làm mặt Sloan co rúm lại, tím tái như củ cải tía. Roran bỗng cảm thấy thương cảm ông bố vợ tương lai. Lão run giọng nói: - Thằng xỏ lá. Đồ hèn. Làm sao mà mày vừa có thể nhìn thẳng mắt tao thưa thưa dạ dạ như một con người đàng hoàng, lại vừa có thể lén lút dụ dỗ con gái tao? Tao đối xử với mày tử tế thế, vậy mà tao mới quay lưng đi là mày chui vào nhà tao để rù quyến nó. - Cháu muốn thu xếp chuyện này một cách đàng hoàng, nhưng những sự việc xảy ra làm cháu không kịp trở tay. Cháu không bao giờ có ý làm chú buồn. Dù chuyện này là ngoài mong muốn của chúng cháu, cháu vẫn cầu xin chú chúc phúc cho chúng cháu. - Tao thà có một con heo nọc làm rể còn hơn là mày. Mày - một thằng không ruộng vườn nhà cửa, tứ cố vô thân – làm sao có thể là rể của tao? Cho mày biết, mày không dính dáng gì tới con gái tao, và con gái tao cũng không có việc gì dính dáng tới cái núi khốn kiếp đó. Lão Sloan bước tới gần Katrina, nhưng Roran chặn ngang trước mặt lão. Mặt lão hầm hầm, hai tay nắm chắc, mặt đối mặt gần như sát vào nhau, cả hai thân thể đều run lên vì xúc động. Mắt lão đỏ ngầu khi ra lệnh: - Katrina, lại đây. Roran lùi lại, tạo thành thế tam giác giữa ba người, đăm đăm nhìn Katrina. Nước mắt rơi lã chã, Katrina hết nhìn người yêu lại nhìn cha. Ngập ngừng tiến một bước, bỗng với một tiếng gào thảm thiết, cô vừa vò đầu bứt tóc vừa la khóc. Lão thảng thốt: - Katrina con! Roran rên rỉ: - Katrina em! Nghe tiếng Roran, Katrina ngừng khóc, rồi đứng thẳng người, bình tĩnh nói: - Thưa cha, con xin lỗi, con đã quyết định lấy Roran. Nói xong, cô bước lại đứng bên anh. Mặt nhợt nhạt, Sloan cắn môi đến rướm máu: - Mày là con gái tao, mày không thể bỏ tao mà đi như thế được. Lão nhào vào con gái, xoè những ngón tay như những cái móc. Roran vội xô mạnh lão bật ra, làm lão lăn xuống đất trước mắt toàn thể dân làng. Sloan chậm chạp đứng dậy, da cổ và mặt đọc gay vì nhục nhã. Khi nhìn lại Katrina, lão như sụm xuống, rồi với giọng thì thầm, lão bảo: - Đời là vậy, những kẻ ta thương yêu nhất chính lại là những kẻ làm ta đau đớn nhất. Con rắn độc kia, mi sẽ không được ta thí cho một đồng hồi môn nào, cũng không được hưởng chút xíu tài sản thừa kế nào của mẹ mi đâu. Lão tấm tức cay đắng khóc, lảo đảo chạy về cửa hàng. Katrina dựa vào Roran, anh choàng tay ôm cô. Đám đông xôn xao vây quanh hai người. Kẻ chê bai, người tán thưởng. Nhưng lúc đó Roran chỉ còn quan tâm đến người con gái anh đang ôm trong vòng tay. Thím Elain lách cái bụng bầu qua đám đông, ôm Katrina và kéo cô khỏi vòng tay Roran: - Ôi! Tội nghiệp cháu tôi! Hai đứa hứa hôn thật rồi sao? Katrina mỉm cười gật đầu, nhưng rồi cô gục đầu lên vai bà khóc như sắp ngất đi. Elain nhẹ nhàng vỗ về Katrina, luôn miệng dỗ dành: - Nào, nào, nín đi chứ. Mỗi lần Roran tưởng cô sắp bình tĩnh lại, Katrina lại khóc dữ dội hơn. Sau cùng, Elain choàng tay ôm đôi vai run rẩy của Katrina, bảo Roran: - Thím đưa nó về nhà. - Cháu cùng đi. - Không. Katrina cần được nghỉ ngơi cho bình tĩnh lại, còn cháu có nhiều việc khác phải làm. Cháu muốn nghe lời khuyên của thím không? Roran gật. - Vậy hãy để Katrina một mình với thím cho tới chiều. Bảo đảm là nói sẽ tỉnh táo lại như thường. Ngày mai nó sẽ đi cùng nhóm khác. Không chờ anh trả lời, bà dìu Katrina vẫn còn nức nở ra về. Roran ngẩn ngơ buông thõng hai tay đứng trông theo. Anh ân hận là đã không báo cho cha cô chuyện của hai người sớm hơn. Ân hận vì đã không thể cùng ông bảo vệ cô khỏi mối hiểm nguy của quân triều đình. Và ân hận vì đã đẩy Katrina vào thế phải tự bỏ gia đình vì anh. Giờ đây trách nhiệm của anh đố với sự an toàn của Katrina tăng gấp bội lần. Bằng bất kỳ giá nào hai người cũng phải làm lễ cưới. Roran thở dài tự nhủ: “Mình đã làm mọi chuyện rắc rối hơn.” Baldor đến gần hỏi: - Sao rồi? Roran gượng cười: - Không êm đẹp như mình hy vọng. Ông Sloan phản đối vụ núi Spine. - Còn chuyện Katrina? - Cũng vậy. Mình… Roran nín bặt khi Loring tiến tới, oang oang: - Táo tợn, táo tợn thật. Ông thợ giày chun mũi, toét miệng cười khoe hàm răng cái còn cái mất: - Nhưng hy vọng hai đứa sẽ gặp nhiều may mắn. Này, Cây-Búa Dũng-Mãnh, may mắn là điều mi cần lắm đó. Thane vừa đi qua, nói góp: - Tất cả chúng ta đều đang cần may mắn đây. Loring phẩy tay: - Dẹp anh đi. Nghe này Roran, suốt bấy nhiêu năm sống tại làng Carvahall, chú đã rút ra được một kinh nghiệm: thà để chuyện đó xảy ra ngay lúc này, còn hơn đợi đến khi cả làng no cơm ấm cật. Baldor gật gù, nhưng Roran thắc mắc: - Là sao, chú? - Ngốc! Rõ như ban ngày mà không hiểu sao? Này nhé, bình thường mà chuyện như thế này xảy ra, cháu và Katrina sẽ là đề tài cho thiên hạ xì xồ đàm tiếu… cả năm. A… còn bây giờ, lo chạy thoát chết không xong, ai còn thèm nhớ đến chuyện hai đứa mày. Vậy là hai đứa sớm được yên thân. Roran nhăn nhó: - Thà bị thiên hạ chửi, còn hơn lấy nhau trong cảnh lũ vô lại ăn thịt người nhởn nhơ như bây giờ. - Ai không biết vậy. Nhưng trong cảnh nào cũng cần phải có tí ti… vui vẻ chứ. Đặc biệt là chuyện cô cậu lấy nhau. Lão khùng khục cười, chỉ mặt Roran: - Coi mặt thằng nhỏ đỏ lên kìa. Roran vừa làu bàu vừa cúi nhặt đồ đạc của Katrina vương vãi trên mặt đất cho đỡ ngượng. Mặc dù chuyến di tản vào khu núi Spine bị chậm trễ, nhưng khi đoàn người và lừa bắt đầu lần mò trên con dường mòn của sườn núi Narnmor, để lên thác Igualda, trời vẫn còn sớm. Vì có trẻ con và những kiện hàng cồng kềnh, sự di chuyển lên con đường dốc rất chậm chạp. Roran luôn đi sau Calitha - vợ của Thane – và năm đứa con của họ. Anh không còn lòng dạ ào nghĩ đến vết thương dưới bắp chân, hay quan tâm đến đường dài, anh chỉ suy nghĩ đến cuộc đụng độ với lão Sloan. Roran tự an ủi: “Ít ra thì Katrina sẽ không ở lại làng lâu hơn nữa.” Vì tự đáy lòng, Roran tin chắc Carvahall sẽ bị thất trận. Thật đau lòng, nhưng không tránh khỏi. Qua được gần hai phần ba đoạn đường, Roran ngồi nghỉ bên một gốc cây, ngắm nhìn cảnh trí trên cao của thung lũng Palancar, cố tìm điểm đóng quân của Ra’zac mà anh biết chỉ quanh quẩn ben tả ngạn sông Anora, nhưng không thể phân biệt được gì, kể cả một ngọn khói. Trước khi nhìn thấy, Roran đã nghe tiếng ầm ầm của dòng thác Igualda. Dòng thác hiện ra trước mọi người như một cái bờm sư tử khổng lồ trắng xoá, ào ào trào ra từ đỉnh núi Narnmor hiểm trở, rồi đổ xuống lòng thung lũng cách nửa dặm bên dưới. Nguồn nước khổng lồ tung toé ra nhiều hướng theo từng đợt gió. Đi khỏi những tảng đá đen nhô ra – nơi con sông Anora như bay bổng xuống một thung lũng nhỏ tràn ngập loài dâu dại, để đổ vào mộtkhoảng trống lớn, có những tảng đá khổng lồ ngăn chặn một bên bờ - Roran đã thấy những người trong nhóm đi trước đang bắt đầu dựng trại. Rừng già vang vang tiếng cười khóc, la hét của những đứa trẻ. Lấy cây rìu buộc trên nóc ba lô xuống, Roran cùng những người khác phạt cỏ và những bụi thấp, để dọn quang bãi đất, rồi chặt cây àm rào quanh trại. Mảnh gỗ tung bay theo những nhát rìu tới tấp vung lên và mùi nhựa thông ngạt ngào trong không khí. Khi hàng rào phòng thủ hoàn tất, trong trại đã dựng xong mười bảy lều bải và bốn cái bếp, mặt người nào cũng rầu rĩ như đưa đám. Người ở người về đều bịn rịn. Đứng nhìn đám con trai nhỏ và mấy ông già đang ôm khư khư mất cây giáo, Roran thầm nghĩ: “Vừa quá thừa lại vừa quá thiếu kinh nghiệm. Lớp các cụ còn biết sử dụng vũ khí, nhưng đám con cháy chẳng biết sẽ làm ăn ra sao đây?” Nhưng nhìn sang phía các bà, họ đang vừa bồng bế nựng nịu con, vừa không xa rời ngọn giáo, anh mỉm cười thấy vẫn còn chút hy vọng. Roran tiến lại gần Nolfavrell. Thằng bé đang ngồi trên một khúc cây, đăm đăm hướng về thung lũng Palancar, nó nhìn lên, nghiêm trang hỏi Roran: - Anh sắp trở lại làng? Roran gật, xúc động vì thái độ trầm tĩnh và dứt khoát của nó. - Anh sẽ ráng sức giết Ra’zac để trả thù cho cha em chứ, phải không? Em rất muốn tự làm chuyện đó, nhưng vì mẹ bảo em còn phải trông nom mấy đứa em nhỏ của em. - Nếu có thể, anh hứa sẽ đem đầu của chúng về cho em. Cằm thằng bé run lên khi nói: - Được vậy thì quá tốt. Roran ngập ngừng: - Nolfavrell, lúc này đây, chỉ có em ở bên anh. Anh đã từng giết một vài tên lính. Điều đó không có nghĩa là chúng ta tốt hơn hay xấu hơn những người khác. Anh chỉ muốn nói để em hiểu là anh tin tưởng ở em, em có thể chiến đâu kiên cười khi chúng ta bị tấn công.Ngày mai chị Katrina lên đây, em có bảo đảm là chị ấy sẽ được bảo vệ tốt không? Nolfavrell ưỡn ngực nói: - Em sẽ sát bên dù bất cứ chị ấy đi đâu. Nhưng… chỉ những lúc em không phải trông nom… - Ồ, em phải lo cho gia đình trước chứ. Nhưng có thể chị Katrina sẽ ở cùng lều với mấy anh em của em. - Tốt rồi. Anh cứ tin ở em. - Cám ơn em. Roran nắm chặt hai vai nó. Anh có thể nhờ người lớn và có khả năng hơn Nolfavrell, nhưng mọi người đều quá bận rộn với việc riêng, không thể bảo vệ cho Katrina như anh mong muốn. Birgit tiến tới bảo Roran: - Đi thôi, tới giờ rồi. Chị ôm hôn con trai rồi theo Roran và những người khác trở lại làng. Sau họ, tất cả những người ở lại trong khu trại nhỏ, xúm xít nhìn theo với những đôi mắt tuyệt vọng, rầu rĩ như những kẻ bị bỏ rơi lại sau hàng rào gỗ. Suốt ngày hôm đó, vưa tiến hành công việc, Roran vừa cảm thấy một sự trống vắng hoang vu của Carvahall. Dường như một phần trong anh đã ở lại núi Spine. Không còn trẻ con, ngôi làng giống như một trại lính. Sự thay đổi dường như làm cho mọi người càng thêm trần mặc ưu tư. Khi mặt trời chìm vào những cái răng tua tủa của núi Spine, Roran bước lên gò, trở về nhà chú Horst. Anh đứng lại, ngập ngừng đặt tay lên chốt cổng, hồi hộp nghĩ: “Sao mình run sợ như sắp ra trận vậy? Có chuyện gì xảy ra cho Katrina không?” Sau cùng, Roran mở cửa, đi men theo hông nhà, tiến thẳng vào căn bếp. Roran đứng khựng lại khi bất ngờ thấy thím Elain đang ngồi bên bàn, vừa đan vừa nói chuyện với Katrina ngồi đối diện. Cả hai quay lại nhìn anh. Roran lắp bắp: - Em… em khoẻ chứ? Katrina đến bên Roran, mỉm cười: - Em khoẻ. Chỉ vì em quá bàng hoàng khi cha… khi cha… À, thím Elain thương em lắm. Thím cho em ở tạm trong phòng của Baldor đêm nay. - Em khoẻ là anh mừng rồi. Roran ôm cô, cố biểu lộ hết tình yêu thương trong cái ôm nhẹ nhàng đó. Thím Elain thu dọn đồ đạc, đứng dậy: - Nào, tối rồi, tới giờ cháu phải đi ngủ rồi đó. Katrina. Roran miễn cưỡng phải rời xa cô. Katrina hôn lên má anh nói: - Sáng mai mình gặp nhau. Roran vừa dợm bước theo, tiếng gọi nghiêm nghị của bà Elain ngăn anh lại: - Roran. - Dạ. Chờ tiếng chân bước lên thang của Katrina không còn nữa, bà mới lên tiếng: - Thím hy vọng những gì cháu đã hứa hẹn với con nhỏ đều nghiêm túc, nếu không, thím sẽ lập một cuộc họp, trục xuất cháu ra khỏi làng. - Tất nhiên là nghiêm túc. Vì cháu yêu cô ấy. Bà nhìn Roran không chớp mắt: - Katrina từ bỏ tất cả những gì nó quan tâm, yêu quý là… vì cháu. Nhưng thím đã từng thấy những người đàn ông vung vãi tình cảm với những cô gái trẻ, như ném thóc cho gà vậy. Tụi con gái thì thở dài, ứa nước mắt hạnh phúc vì tưởng mình được ưu đãi lắm. Tuy nhiên với đàn ông, đó chỉ là một trò đùa, vui chơi chốc lát. Roran, tuy cháu là một thanh niên đàng hoàng, nhưng chỉ một chút đam mê cũng có thể làm thay đổi một người tỉnh táo nhất, đạo mạo nhất thành một gã khờ hay một con chồn quỷ quái, ranh ma. Cháu không giống thế chứ? Vì Katrina không cần một tên khờ khạo hay một tay láu cá, thậm chí nó cũng không đòi hỏi tình yêu. Điều nó cần nhất, trên hết tất cả, là một người đàn ông bảo bọc, lo toan được cho nó. Nếu cháu bỏ nó, nó sẽ trở thành một con người bần cùng hèn mọn nhất làng, phải xa lánh bạn bè, và nó sẽ là một hành khất duy nhất và đầu tiên trong làng Carvahall này. Thím thề sẽ không bao giờ để cho chuyện đó xảy ra. - Cháu cũng vậy. Cháu đâu phải là một đứa nhẫn tâm tồi tệ đến thế đâu. - Đừng bao giờ quên rằng, cháu sắp lấy một cô gái đã mất cả của hồi môn và quyền thừa kế. Cháu có hiểu điều đó có nghĩa gì với Katrina không? Nó ra khỏi nhà không tiền bạc, không tư trang quần áo. Những thứ được chuyền từ những bà mẹ đến con gái kể từ khi chúng ta đặt chân đến đất Alagaesia này. Đó là những thứ xác định giá trị của chúng ta. Một cô gái không có thừa kế giống như… giống như… - Giống như một người đàn ông không ruộng vườn, tiền bạc, nghề nghiệp. - Đúng vậy. Sloan tỏ ra tàn nhẫn khi truất quyền thừa kế của Katrina, nhưng chuyện đã xảy ra rồi. Bây giờ cả hai cháu đều không tiền bạc, tài sản. Đã khó khăn càng khó khăn thêm. Cháu phải bắt đầu với hai bàn tay trắng. Viễn cảnh đó có làm cháu sợ hãi? Có vượt qua nổi không? Vì những lý do đó, thím hỏi cháu lần nữa – và đừng dối lòng, nếu không hai đứa sẽ ân hận suốt đời: cháu lấy nó không có gì miễn cưỡng hay hối tiếc chứ? - Dạ không. Bà Elain thở dài nhẹ lòng, rồi lấy hai cốc sành rót đầy rượu trái cây, đưa cho Roran một cốc. - Vậy thì thím mong rằng, từ nay chính cháu sẽ là mái ấm, tài sản thừa kế của Katrina để nó và các con gái cháu sau này, sẽ không xấu hổ khi đứng chung với đàn bà con gái Carvahall. Nhấp chút rượu, Roran thì thầm: - Nếu chúng cháu được sống tới ngày đó. Vuốt ngược mái tóc vàng ra sau, bà Elain lắc đầu: - A, nhưng cháu đã tự chọn một con đường chông gai quá đấy. - Vì cháu muốn Katrina rời Carvahall để tới một nơi an toàn. - Thì ra vậy. Nhưng sao không cho ông Sloan biết chuyện hứa hôn của hai đứa trước sáng nay? Dù biết cha mẹ thím rất vui lòng nhận lời, vậy mà khi đi hỏi thím, chú Horst cháu đã đem đến nhà thím mười hai con cừu, tám cặp chân nến đấy. Cháu phải nghĩ ra một phương pháp nào khá hơn là chuyện… xô đẩy ông bố vợ tương lai chứ? Roran cười cay đắng: - Có chứ, nhưng với những vụ tấn công liên tục như thế làm gì có thời gian mà… - Gần sáu hôm nay, Ra’zac đâu có tấn công. - Không… nhưng… Ôi, chẳng hiểu vì sao nữa. Roran bực tức đấm nắm tay xuống mặt bàn. Elain đặt cốc rượu xuống, dịu dàng nắm tay anh: - Nếu cháu có thể xua tan mối bất hoà với ông Sloan lúc này, trước khi để trở thành mối hận thù chồng chất, thì cuộc sống của cháu và Katrina sẽ dễ chịu hơn rất nhiều. Sáng mai hãy đến nhà năn nỉ ông ta tha thứ đi. - Cháu không năn nỉ cầu xin tha lỗi, nhất là với ông Sloan. - Roran, nghe lời thím, để gia đình được yên ấm, dù có phải năn nỉ cả tháng cũng đáng chứ cháu. Theo kinh nghiệm của thím, càng hục hặc, chỉ càng làm khổ lẫn nhau thôi. - Ông ta căm thù núi Spine, sẽ không để cháu mở miệng đâu. - Dù sao cũng phải thử chứ. Kể cả ông ta không thèm nghe lời xin lỗi của cháu, thì ít ra không ai có thể trách cháu đã không cố gắng làm điều đó. Nếu cháu yêu Katrina, dẹp tự ái đi và làm những gì phải làm vì nó. Đừng để nó phải đau khổ vì sai lầm của cháu. Nói xong bà tắt nến, trở vào phòng để Roran ngồi một mình trong bóng tối. Mấy phút sau, anh mới đứng dậy, lần mép bàn, mò mẫm lên lầu. Vào phòng, Roran cởi áo, nằm vật xuống giường. Ôm cái gối, Roran lắng nghe những tiếng động của đêm: tiếng sột soạt và tiếng chin chít của một con chuột nhắt trên rầm thương, tiếng gió rì rào nhè nhẹ ngoài cửa sổ, và tiếng… dép lệp xẹp ngoài hành lang, ngay… trước cửa phòng. Roran trừng trừng nhìn cánh cửa hé mở rồi ngập ngừng bất động. Một bóng đen lẻn vào phòng, cánh cửa khép lại như cũ. Rồi Roran cảm thấy một dải tóc vuốt ve mặt anh cùng một đôi môi mềm dịu như những cánh hoa hồng. Katrina! Một tiếng sét làm Roran choàng thức giấc. Ánh sáng chập chờn trước mặt, trong khi anh cố vùng vẫy cho tỉnh táo, như người thợ lặn tuyệt vọng đang cố nhoi lên mặt nước. Mở mắt, Roran thấy một lỗ hổng toang hoác chính giữa cánh cửa phòng. Sáu tên lính và hai tên Ra’zac ùa vào như những bóng ma. Một lưỡi kiếm kề cổ Roran. Katrina rú lên, kéo chăn cuốn quanh người. - Dậy. Ra’zac ra lệnh. Roran đứng lên, tim đập như nhảy khỏi lồng ngực. - Trói lại, đem nó đi. Khi một tên lính tiến lại Roran với sợi dây thừng, Katrina thét lên xông vào đám lính, điên cuồng cào cắn. Mấy tên lính chửi rủa om xòm vì bị những móng tay sắc cào rách măt, máu tuôn xối xả làm hai mắt chúng như mù. Roran khuỵ một gối, vơ vội cây búa trên sàn, rồi đứng bật dây, vừa vung cao búa vừa rống lên như một con gấu. Tất cả mấy tên lính xúm lấy anh, dùng số đông để áp đảo. Nhưng không gì có thể ngăn cản được Roran lúc này, vì Katrina đang bị lâm nguy. Dưới sức mạnh của cây búa, Roran đập rách nát, móp méo từ khiên, áo giáp tới mũ sắt của chúng. Hai tên bị thương, hai tên nằm bất động trên sàn. Tiếng vũ khí chạm nhau đã thức giấc cả nhà: Roran loáng thoáng nghe tiếng kêu gọi của chú Horst và mấy người con ngoài hành lang. Hai tên Ra’zac chin chít ra hiệu với nhau, rồi phóng tới nắm lấy Katrina nâng bổng lên bằng một sức mạnh phi phàm. Katrina rú lên: - Roran! Lấy hết sức bình sinh, Roran hất mạnh hai tên lính còn lại bật sang hai bên, phóng ra hành lang vừa kịp thấy hai Ra’zac thoát qua cửa sổ. Anh nhào tới, nhoài người qua thành cửa, cố bắt được tên chạy sau. Nó vung ngược tay chộp cổ tay Roran, chin chít rít lên vui sướng, phả hơi thở tanh tưởi vào mặt anh. - Đúng, mày mới là đứa chúng tao cần. Roran ráng vặn cổ tay để rút tay về, nhưng con quái càng xiết mạnh hơn. Với tay còn lại, Roran thoi tới tấp lên mặt và vai nó. Tức giận và tuyệt vọng, anh nắm vành mũ vải của Ra’zac kéo mạnh ra sau, mặt nó lộ ra. Bộ mặt – rúm ró gớm ghiếc kề sát mặt anh – rú lên. Lớp da đen bóng nhẫy như vỏ loài bọ hung. Cái đầu bóng nhẵn. Mỗi con mắt không lông mi to bằng một nắm đấm, như một quả cầu bằng than đá, không tròng không hốc mắt. Nơi – thay vì là mũi, mồm, cằm - chỉ là một cái mỏ khoằm nhọn hoắt bập bập lách cách trên một cái lưỡi đỏ lòm. Roran hét lớn, ghì chặt hai chân vào thành cửa sổ, cố vùng thoát khỏi bàn tay sinh vật kỳ quái, trong khi tên Ra’zac đang cố kéo anh ra khỏi nhà. Roran có thể nhìn thấy, dưới đất, Katrina vẫn vừa la hét vừa đánh đạp. Đúng lúc hai đầu gối Roran rã rời, chú Horst xuất hiện ngay bên cạnh, choàng tay ôm ngực anh, ghì lại. Ông chủ lò rèn la lớn: - Đem cây giáo ra đây. Ra’zac kéo mạnh lần cuối nhưng không giật được Roran khỏi tay Horst, nó vươn cổ sát mặt Roran: - Mày là của chúng tao. Roran gào lên đau đớn vì cái mỏ của quái nhân mổ thấu xương bả vai anh, đồng thời xương cổ tay anh bật lên một tiếng “rắc”. Hộc ra tiếng cười đầy hăm doạ, Ra’zac buông tay Roran biến vào đêm tối. Roran và chú Horst nằm sóng soài trong hành lang, anh rên lên: - Chúng bắt Katrina rồi! Hai mắt tối sầm khi Roran chống tay trái ráng ngồi dậy, cánh tay phải tê dại, hoàn toàn vô dụng. Albriech và Baldor nhảy qua những vũng máu và xác chết, cầm giáo chạy ra. Roran nhặt cây búa lảo đảo bước. Bà Elain trong bộ áo ngủ trắng vừa ra tới, trợn mắt hốt hoảng nhìn rồi ấn Roran ngồi xuống cái ghế kê sát tường: - Cháu phải tới bà lang Getrude ngay… - Nhưng… - Cứ để máu chảy mãi thế này cháu ngất xỉu mất. Roran nhìn bên sườn phải đầm đìa máu, nghiến răng cố nén đau, rồi nói: - Phải cứu Katrina… trước khi… trước khi chúng làm hại cô ấy. Ông Horst lên tiếng: - Roran nói đúng đó. Em cố gắng băng bó cho nó, rồi tụi anh đi… Bà chạy vào phòng, mở tủ áo lấy ra xấp vải, rồi trở ra băng bó vai và cổ tay cho Roran. Trong khi đó, Baldor và Albriech lột giáp và kiếm của mấy xác lính. Ông Horst chỉ cầm theo một cây giáo. Elain căn dặn chồng con: - Anh và các con phải hết sức thận trọng. - Má yên tâm, không sao đâu. Bà gượng cười, hôn lên má từng người. Tất cả ra khỏi nhà, chạy tới rìa làng. Bức tường cây bị mở một khoảng rộng, Byrd - người gác – đã bị giết chết. Baldor quỳ xuống quan sát thi thể rồi nghẹn ngào kêu lên: - Vết chém từ sau lưng! Roran chỉ nghe loáng thoáng vì anh chóng mạt đến ù cả hai tai, phải dựa vào một tườg nhà, thở dốc. - Ai đó? Sau tiếng hỏi lớn, từ những chốt gác quanh làng những người xách đèn chạy tới. Ông Horst vắn tắt kể lại mọi chuyện, rồi hỏi: - Ai xung phong đi cùng chúng tôi? Bàn bạc chợp nhoáng, năm người đồng ý nhập bọn, số còn lại tiếp tục nhiệm vụ canh gác. Roran dẫn đầu mọi người lẩn lút qua cánh đồng, rồi xuống thung lũng, tiến tới trại Ra’’zac đóng quân. Dù mỗi bước đi làm Roran đau nhức, nhưng lúc này, không gì đáng kể hơn chuyện giải cứu Katrina. Ra khỏi làng chừng nửa dặm, Ivor đã phát hiện ra tên lính đang đứng gác trên một gò đất, vì vậy tất cả phải đi đường vòng. Vượt thêm đoạn đường vài trăm thước, họ đã thấy ánh đuốc bập bùng. Roran đưa cao cánh tay còn lành lặn, để mọi người đi chậm lại, rồi anh nằm rạp xuống, bò qua những đám cỏ rậm rạp. Tới một đám cỏ đuôi chồn, Roran ngừng lại quan sát. Đám lính còn lại mười ba tên. Katrina ở đâu? Trái với khi mới tới đây, đám lính trông thiểu não, tiều tuỵ với những bộ giáp móp méo, vũ khí sứt mẻ. Hầu hết bọn chúng đều băng bó bằng những miếng vải bám đầy đất cát và máu khô. Quanh đống lửa, một bên là đám lính ngồi sát nhau, một bên là hai tên Ra’zac mũ vải trùm kín mặt. Một gã lính đang hăng hái nói: - … hơn phân nửa anh em tụi này bị giết vì đám nông dân ngớ ngẩn đó. Một lũ không biết phân biệt mũi giáo với mĩu rìu, lưỡi kiếm với lưỡi cày. Vậy mà chúng tôi tan tác dưới tay chúng, chỉ vì đầu óc hai ngươi không bằng một tên lính cầm cờ của chúng tôi. Không cần biết nhà vua o bế hai ngươi đến cỡ nào, tụi này nhất định sẽ không làm bất cứ điều gì nữa, nếu không có một cấp chỉ huy khác. Gã đó gật gù tiếp: - Một cấp chỉ huy là … người. Một tên Ra’zac ngọt ngào: - Thật vậy sao? - Thật chứ chơi à? Tụi này phát ớn vì lệch lạc của những… vật… những kẻ… lưng vặn vẹo rồi. Nghe mãi tiếng xì xì như ấm nước sôi xì hơi của hai người khi chuyện trò với nhau, ớn tận cổ rồi. Không biết hai ngươi đã làm gì với Sardson, sẽ có ngày chúng ta thọc kiếm vào các ngươi để xem các ngươi có máu như chúng ta không. Dù sao các ngươi nên thả cô gái đó ra, cô ta sẽ là… Người lính không kịp nói hết câu, vì tên Ra’zac cao lớn hơn đã nhảy vụt qua đống lửa, phủ lên anh ta như một con quạ khổng lồ. Người lính rú lên, vồ thanh kiếm, nhưng bị cái mỏ sau lớp vải trùm mặt của tên Ra’zac liên tục mổ hai nhát lên cổ làm anh rũ ra, bất động. Núp sau Roran, Ivor thì thầm hỏi: - Chúng ta phải đánh với con quái đó sao? Hai tên Ra’zac liếm láp cổ thi thể người lính, rồi đứng dậy phủi những bàn tay sần sùi, như phủi bụi, rè rè nói: - Được, chúng tao sẽ đi. Nếu thích, tụi bay cứ ở lại chờ quân tiếp viện chỉ vài ngày nữa sẽ tới thôi. Rồi cả hai ngửa mặt cất tiếng hú. Tiếng hú chói lói cao dần, bay bổng lên không. Roran cũng ngửa mặt nhìn lên: lúc đầu không thấy gì, rồi một nỗi khiếp đảm tràn ngập trong anh. Bầu trời trên đỉnh núi Spine, hai bóng đen xù xì xuất hiện, che phủ cả những vì sao. Càng lúc hai bóng đen càng mau chóng lớn dần lên, cho đến khi che khuất nửa bầu trời. Một cơn gió thổi thốc mùi chướng khí nồng nặc lưu huỳnh ào ạt qua mặt đất làm Roran ngộp thở. Những tên lính vừa chửi rủa, vừa lấy tay áo che mặt mũi. Trên không, hai bóng đen ngừng lại rồi nhẹ nhàng buông mình xuống, bao bọc trại lính như một mái vòm đen ngòm đầy hăm doạ. Những ánh đuốc lập loè như sắp tắt, nhưng vẫn đủ soi rõ hai quái vật hạ xuống khoảng trốnggiữa những tấm lều. Thân hình hai quái vật trơn tru không một chút lông – như con chuột mới sinh. Lớp da xám căng thẳng trên lưng, dồn xuống ngực và bụng những nếp nhăn rúm ró. Bề ngoài, chúng như những con chó ốm đói, trừ hai chân sau phồng lên những bắp thịt cuồn cuộn rắn chắc, tưởng như có thể đạp tan nát một tảng đá. Sau hai cái đầu nhỏ xíu nhô lên hai cái chóp nhỏ, trái ngược hẳn với hai cái mỏ dài đen bóng và đôi mắt lạnh lẽo lồi ra, giống hệt mắt Ra’zac. Cặp cánh mọc từ cổ tới vai phe phẩy tạo thành những tiếng rền rỉ trong đêm. Những tên lính khiếp đảm nằm úp mặt trên đất. Từ hai con vật gớm ghiếc toát ra một sự tinh quái khủng khiếp – có thể nói chúng là một loài cổ xưa và mạnh hơn loài người gấp bội. Roran chợt lo sợ nhiệm vụ của anh sẽ bị thất bại. Sau anh, Horst thì thầm căn dặn mọi người phải án binh bất động nếu không muốn chết. Hai tên Ra’zac cúi đầu chào hai quái thú, rồi vào lều dắt Katrina bằng một sợi thừng buộc chặt hai tay cô. Sau Katrina là lão Sloan. Lão chủ hàng thịt – không bị trói – thong dong bước. Roran trừng trừng nhìn, không biết lão Sloan bị bắt bao giờ, bằng cách nào. Vì nhà lão không gần nhà chú Horst. Rồi anh bàng hoàng, nắm chặt cán búa khi sự thật quá khủng khiếp như vỡ oà trong anh. Lão đã phản bội và đã giết chết Byrd! Nước mắt phẫn nộ tuôn trào, trong khi tiếng chú Horst thì thầm bên tai: - Roran, lúc này không thể hành động được. Roran, cháu nghe chú nói không? Anh nghe, nhưng chú tâm hơn đến tên Ra’zac nhảy lên vai một con quái vật, đưa hai tay đón Katrina bị tên cao lớn hơn quăng lên. Lúc này lão Sloan tỏ ra vừa bối rối vừa sợ hãi. Lão bàn cãi gì đó với hai tên Ra’zac, tay chỉ xuống đất. Tên cao lớn vung tay đấm mạnh vào miệng lão. Lão Sloan lăn đùng bất tỉnh. Nhảy lên con quái thú thứ hai, cùng lão chủ hàng thịt nằm vắt trên vai, Ra’zac cao to tuyên bố: - Chúng tao sẽ trở lại. Nếu giết thằng nhóc đó, tụi bay sẽ phải trả giá bằng mạng sống. Hãy nhớ điều đó. Hai con “chiến mã” kỳ quái, co cặp đùi khổng lồ, lấy đà phóng vút lên trời. Một lần nữa, bóng tối lại che khuất những vì sao. Roran không thốt được một lời. Bao hy vọng giải cứu Katrina hoàn toàn tiêu tan hết. Việc còn lại lúc này chỉ là tiêu diệt đám lính. Anh đứng dậy, vung cây búa sửa soạn tấn công… Nhưng vừa mới tiến lên được một bước, đầu anh như nổ tung vì vết thương trên vai nhói đau khủng khiếp. Mặt đất nhoà đi, Roran mê man ngã sấp xuống. Từ khi rời trạm Ceris, thuyền lướt qua hồ Eldo rồi sông Gaena, mỗi buổi chiều đều huyền ảo như trong mơ. Tiếng nước róc rách xuyên qua những rãnh ngầm của rừng thông xanh ngắt, rồi đổ vào Du Weldenvarden. Eragon cảm thấy rất vui làm bạn đồng hành cùng với thần tiên. Narí và Lifaen không ngớt nói cười ca hát, nhất là những khi có mặt Saphira. Tuy nhiên, thần tiên không phải loài người, dù ngoại hình tương tự như nhau. Họ di chuyển quá nhanh và họ thay đổi ý kiến cũng nhanh không kém. Khi chuyện trò, họ hay ví von, dùng những ý tưởng xa xôi bóng gió làm Eragon bối rối. Đang vui vẻ như hoá rồ, bỗng Lifaen và Narí im lặng hàng giờ, vẻ mặt ngời lên vẻ thanh thản, nhìn ngắm chung quanh. Những lúc họ trầm tư như vậy, nếu Orik và Eragon gợi chuyện, họ chỉ ậm ừ vài tiếng. So sánh với Arya, Eragon thấy chuyện trò với cô còn dễ chịu hơn. Thật ra, hình như Arya cũng không cảm thấy thoải mái khi ở gần Lifaen và Narí, cứ như chính cô cũng cảm thấy thiếu tự tin khi đối xử với đồng loại sao cho đúng cách. Từ mũi thuyền, Lifaen ngoái lại hỏi Eragon: - Eragon-finiarel (Eragon công tử), làm ơn cho tôi biết, trong những ngày u tối này loài người ca hát về đề tài gì? Tôi nhớ những bài thơ, những bản anh hùng ca mà tôi đã nghe tại Ilirea… và cả những truyền thuyết về các vua quan, nhưng quá lâu rồi, những chuyện đó chỉ còn lờ mờ trong trí… Eragon cố nhớ và kể lại những chuyện đã được nghe qua ông Brom. Vừa nghe Lifaen vừa lắc đầu buồn bã: - Mất mát quá nhiều! Còn đâu nữa thi ca, nghệ thuật, những trang sử hào hùng!? Giờ chỉ đầy rẫy truyền thuyết, những chuyện hão huyền về Galbatorix. Nhìn Saphira phóng theo một con nai, Eragon ngập ngừng nói: - Có lần tôi được nghe ông Brom kể về sự sụp đổ của kỵ sĩ. - Ông Brom là một người dũng cảm. Chúng tôi cũng hát về sự suy tàn của các kỵ sĩ, nhưng chỉ thỉnh thoảng thôi. Khi thủ lãnh kỵ sĩ Vrael bước vào cõi vĩnh hằng, hầu hết chúng tôi còn sống. Chúng tôi được chứng kiến tất cả, và cho đến tận bây giờ vẫn không nguôi thương tiếc những thành phố của chúng tôi bị thiêu huỷ, những bông hoa cúc đỏ ở Ewayena, pha lê tại Luthivíra và những người thân của chúng tôi đã bị tàn sát. Thời gian không thể làm phai nhạt nỗi đau nhứuc nhối của nhưũng vết thương đó. Dù ngàn năm nữa, dù cho đến khi mặt trời chết đi, cả thế gian này chìm trong đêm tối triền miên, chúng tôi cũng không bao giờ quên nổi. Orik lên tiếng: - Người lùn cũng vậy. Tiên ông hẳn còn nhớ, Galbatorix đã tiêu diệt hoàn toàn một bộ tộc của chúng tôi. - Còn chúng tôi thì bị mất đức vua Evandar. Eragon ngạc nhiên nói: - Tôi chưa hề được nghe chuyện này. Lifaen lái mũi thuyền tránh một tảng đá giữa dòng, gật đầu nói: - Ít người được biết. Đáng lẽ Brom nên kể cho công tử, vì ông ta có mặt tại đó khi mũi tên oan nghiệt đó bắn ra. Trước khi thủ lãnh Vrael bị giết, thần tiên chúng tôi đã đụng độ vưói Galbatorix trên cánh đồng Ilirea, với quyết tâm đánh bại lão. Tại đó, đức vua Evandar… Eragon vội hỏi: - Iliera ở đâu? Orik trả lời: - Đó chính là Uru’baen bây giờ. Ngày xưa là một thành phố của thần tiên. Lifaen tiếp: - Đúng vậy, ngày xưa nơi đó là thành phố của chúng tôi. Chúng tôi rời bỏ Iliera trong cuộc chiến với loài rồng. Nhiều thế kỷ sau, loài người nhận nơi đó là thủ phủ của họ, sau khi vua Palancar bị trục xuất… Eragon lại ngạc nhiên lên tiếng: - Vua Palancar? Ông ta là ai? Có phải người ta đã lấy tên ông để đặt cho thung lũng Palancar không? Lifaen quay lại nhìn Eragon cười: - Bàn-tay-bạc, công tử hỏi quá nhiều đấy. - Ông Brom cũng thường bảo thế. - Hơn tám trăm năm trước, tổ tiên của công tử tới Alagaesia, họ sục sạo khắp để tìm một nơi sinh sống thích hợp. Rồi họ chọn thung lũng Palancar làm nơi định cư – nhưng khi đó chưa được gọi bằng tên này. Tại đây, vua Palancar đã dựng lên một nhà nước hùng hậu. Để mở rộng biên cương, nàh vua tuyên chiến với chúng tôi, dù chúng tôi không hề khiêu chiến. Ba lần tấn công, ba lần triều đình Palancar thất bại. Sức mạnh của chúng tôi làm những nhà quý tộc Palancar khiếp đảm. Họ xin vua cầu hoà, nhưung ông ta bỏ qua những lời khuyên của giới quý tộc. Sau đó các lãnh chúa tìm đến thương thảo và chúng tôi đã cùng nhau âm thầm ký một thoả hiệp, không cho nhà vua biết. Với sự tiếp sức của chúng tôi, Palancar bị hạ bệ và trục xuất. Nhưng nhà vua, hoàng gia và một số cận thần xin được ở lại thung lũng. Chúng tôi cũng không muốn giết họ, nên chỉ dựng lên pháo đài Ristvak để các kỵ sĩ rồng có thể kiểm soát Palancar và bảo đảm nhà vua không bao giờ có thể lấy lại uy quyền như trước, hầu tiấn công phe phái khác tại Alagaesia. Không bao lâu sau, con trai Palancar nóng lòng lên ngôi thay cha, đã giết chết nhà vua. Sau đó những đảng phái chính trị, gồm những kẻ sát nhân, phản bội và cả những kẻ phóng đãng truỵ lạc đã dần dần làm suy tàn triều đình Palancar. Tuy nhiên, dòng máu vua chúa đó vẫn còn lưu lại tới ngày nay tại Therinsford và Carvahall. - Tôi hiểu rồi. - Còn những điều quan trọng mà công tử không thể ngờ được đâu. Chẳng hạn như sự kiện đã thuyết phục Anurin - vị thủ lãnh tiền nhiệm của thủ lãnh Vrael - chấp thuận cho con người được phép trở thành kỵ sĩ rồng, để tránh những xung đột tương tự có thể xảy ra. Đó là một quyết định không được đa số tán thưởng. Cho đến tận bây giờ, nhưũng câu hỏi vẫn còn được đặt ra về vấn đề này. Và đó cũng là nguyên nhân gây ra sự bất đồng giữa Anurin và nữ hoàng Dellanir. Vì vậy, thủ lãnh Anurin đã tách khỏi sự điều hành của chúng tôi, để thành lập đoàn kỵ sĩ Vroengard, như một thực thể độc lập. Eragon hỏi: - Nhưng nếu các kỵ sĩ tách khỏi triều đình của thần tiên, làm sao họ giữ được hoà bình như dự định? - Tất nhiên là không thể. Cho đến khi nữ hoàng Dellanir nhận ra để các kỵ sĩ được hành động tự dó, không bị ràng buộc với thế lực lãnh chúa, vua quan nào, nhưng vẫn giữ mối giao hảo với Du Weldenvarden của thần tiên là phương pháp khôn ngoan nhất. Tuy nhiên nữ hoàng vẫn không bao giờ hài lòng để cho một thế lực nào thay thế chính bà. - Tất cả vấn đề là ở đó? - Đúng và… không. Kỵ sĩ kiểm soát để tránh sự sụp đổ, suy tàn của những chính thể và các giống loài. Nhưng ai kiểm soát những… kiểm soát viên này? Đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ kỵ sĩ. Không ai nhận dẫn đến sự sụp đổ của chế độ kỵ sĩ. Không ai nhận thấy sự rạn nứt trong hệ thống kỵ sĩ. Dó đó họ đã bị diệt vọng. - Sau đó ai kế vị nữ hoàng Dellanir? - Evandar. Sau khi nữ hoàng nhường ngôi để tu luyện phép thuật, Evandar trị vì suốt trăm năm cho đến khi băng hà. Hiện nay vợ của ông, Islanzadí, là nữ hoàng của chúng tôi. Ngập ngừng một lúc, Eragon hỏi: - Có đúng là thần tiên bất tử không? - Đã có thời chúng tôi cũng giống như loài người. Rực rỡ, long lanh, và mau tàn như một giọt sương mai. Bây giờ đời sống chúng tôi kéo dài vô tận. Bất tử, nhưng vẫn có thể bị những vết thương trên cơ thể bằng thịt da này. - Thần tiên trở thành bất tử như vậy bằng cách nào? Thấy Lifaen nín lặng, Eragon hỏi qua chuyện khác: - Arya bao nhiêu tuổi rồi? Đôi mắt Lifaen long lanh nhìn làm nó bối rối: - Arya? Điều gì làm công tử quan tâm đến cô ấy vậy? - Tôi… Thình lình Eragon cũng chẳng rõ thật sự mình quan tâm tới điều gì. Hình như nó bị Arya hấp dẫn vì cô là một tiên nữ và vì… tuổi tác của cô - số tuổi, dù sao cũng quá lớn so với nó. Eragon thầm nhủ: “Chắc cô ấy coi mình như một thằng con nít!”, nó thành thật nói: - Tôi không biết, nhưng cô ấy đã cứu mạng tôi và Saphira, vì vậy tôi muốn được biết thêm về cô. Lifaen cân nhắc từng lời: - Tôi cảm thấy tự ngượng vì đã đặt câu hỏi đó. Đối với chúng tôi đó là một câu hỏi… không tế nhị. Nhưng chỉ vì tôi muốn nói một điều, mà tôi tin Orik cũng sẽ đồng ý: đó là xin Bàn-tay-bạc hãy thận trọng với con tim của mình. Bây giờ không phải thời điểm để con tim rung động. Như có một dòng sáp nóng đang tan chảy trong thân thể làm toàn thân Eragon đỏ bừng. Chưa kịp nghĩ ra câu cải chính, Saphira đã xâm nhập vào tư tưởng nó: “Giờ là lúc anh phải thận trong lời nói đó. Ông ta nói đúng tim đen rồi, trách mọc gì?” Nó cố nén bối rối, hỏi cô em rồng: “Em về phe với họ à?” “Phe phái gì? Em biết trong lòng anh hiện nay tràn đầy tình cảm và anh đang ngóng chờ một đối tượng để sẻ chia. Có tình cảm và anh đang ngóng chờ một đối tượng để sẻ chia. Có gì mà phải mắc cỡ nào. Ông anh? “Em sắp trở lại chưa?” “Em đang bay về đây.” Nhìn quanh Eragon thấy cả tiên ông và ông lùn đều đang chăm chăm nhìn lại nó. - Tôi hiểu sự nhắc nhở của các vị… nhưung tôi muốn được nghe câu trả lời. Lifaen ngập ngừng rồi nói vắn tắt: - Arya… còn rất trẻ. Cô ấy ra đời một năm sau vụ sụp đổ của các Kỵ sĩ. Một trăm năm! Dù đoán trước con số đó, Eragon vẫn không khỏi bàng hoàng. Nó cố giữ vẻ mặt bình thản, trong khi trong đầu ngẫm nghĩ: “Nếu có, thì cháu chắt của Arya cũng đều già hơn mình nhiều!” Để quên đi những gì đang làm nó rối trí, Eragon hỏi: - Ông bảo loài người phát hiện ra Alagaesia tám trăm năm trước. Tuy nhiên theo lời ông Brom, chúng tôi tới đó ba thế kỷ sau khi chế độ Kỵ sĩ được thành lập, như vậy loài người tới Alagaesia từ nhiều ngàn năm trước chứ? Orik lên tiếng: - Hai ngàn bảy trăm lẻ bốn năm, theo tính toán của chúng tôi. Brom nói đúng, nếu tính từ lần một chiếc thuyền chở hai mươi chiến binh cặp vào miền nam, nơi hiện nay là Surda. Chúng tôi gặp nhau khi họ vào đó để mua bán và trao đổi hàng hoá. Sau đó, gần hai thiên niên kỷ, chúng tôi không hề nhìn thấy một con người nào, cho đến khi vua Palancar tới Alagaesia với một đoàn tàu. Lúc đó ngoài nhưũng chuyện mơ hồ về những người-sơn-cước-đầy-lông-lá, ban đêm chuyên săn thịt trẻ con, họ đã hoàn toàn quên chúng tôi. Hừ! Tệ vậy đó. - Các vị có biết vua Palancar từ đâu tới không? Orik nhíu mày, nhấm nhấm đầu mấy cọng râu: - Lịch sử của chúng tôi chỉ kể rằng, quê hương ông ta ở về phương nam, bên kia dãy Beor và ông ta phải di cư vì lý do chiến tranh và nạn đói. Eragon chợt phấn chấn hẳn: - Như vậy chắc phải có những xứ sở có thể giúp chúng ta chống lại Galbatorix? Orik nói: - Có thể. Nhưng khó mà kiếm được những nơi đó, dù là bay trên lưng rồng. Vả lại tôi chắc họ không cùng ngôn ngữ với cậu đâu. Hơn nữa, ai sẽ sẵn lòng giúp chúng ta? Varden không đủ khả năng cầu viện một nước khác. Chuyển quân từ Farthen Dur tới Uru’baen đã quá khó khăn, làm sao có thể đem quân cách xa hàng mấy ngàn dặm. Lifaen nói với Eragon: - Chúng tôi cũng không giúp được gì đâu. - Tôi vẫn… Eragon bỏ dở câu nói khi thấy Saphira đang bay liệng trên sông, phía sau từng đàn sáo và se sẻ điên cuồng xua đuổi nó xa khỏi tổi của chúng. Cùng lúc đó, trong những bụi rậm bên bờ, tiếng choe choé của những con sóc rối rít báo động cho nhau. Lifaen cười vang: - Cảnh tượng mới tránh lệ làm sao! Nhìn những cái vảy của nó lóng lánh ánh nắng kìa. Không ngọc ngà châu báu nào trên đời này có thể sánh bằng. Tiếng tán tụng của Narí cũng vang vọng khắp mặt sông. Orik lèm bèm: - Thật không chịu nổi! Ca tới bến luôn. Eragon mủm mỉm cười. Quả thật, hình như các vị thần tiên này tán dương Saphira không biết mệt. Saphira nhào xuống nước làm tung toé những cột nước khổng lồ. Cô ả đỏng đảnh bảo Eragon: “Cười gì? Được ca tụng chút đỉnh thì có sao nào.” Tất nhiên.” “Anh chọc quê em đó hả?” Eragon không muốn làm cô ả nổi quạu, quay qua nhìn Arya đang chèo con thuyền bên kia. Khuôn mặt bí ẩn, lướt dưới những đốm nắng xuyên qua cành lá, trong u buồn quá; làm Eragon chỉ muốn cất lời an ủi. Nó hỏi nhỏ Lifaen để Orik đằng cuối thuyền không nghe được: - Vì sao Arya luôn có vẻ không vui. Ông và… Lifaen cũng hạ giọng chỉ để mình Eragon nghe: - Chúng tôi rất hân hạnh được phục vụ Arya Drottningu. Cô ấy chịu đau khổ nhiều hơn công tử tưởng. Chúng tôi đã biểu lộ vui mừng với những gì cô ấy làm được với Saphira và để rồi lại khóc trong những giấc mơ vì những gì cô ấy đã hy sinh và… mất mát. Tuy nhiên, đó là nỗi niềm riêng của cô ấy, tôi không thể nói ra khi chưa được phép. Đang ngồi bên đống lửa vuốt ve lớp rêu êm như lông thỏ, Eragon chợt nghe tiếng động xào xạc trong rừng. Trao đổi ánh nhìn với Saphira và Orik, Eragon xách thanh Zar’roc, rón rén tiến tới hướng phát ra tiếng động. Đứng bên bờ con lạch nhỏ, nhìn sang phía bên kia, nó thấy một con chim ưng gãy cánh đang dãy dụa trong bụi dâu dại. Con mãnh cầm nằm bất động khi thấy Eragon, rồi mở to mỏ kêu lên một tiếng thảm thiết. Trong đầu Eragon vang lên ý tưởng của Saphira chuyển tới: “Ôi! Tội nghiệp quá!” Khi Arya tới, cô kéo dây cung, không cần nhắm, bắn mũi tên xuyên qua con chim ưng. Lúc đầu Eragon tưởng cô bắn chim làm thực phẩm, nhưng cô ta không bước tới nhặt con chim hay lấy lại mũi tên. Nó ngẩn người hỏi: - Vậy sao cô lại bắn nó? - Vết thương quá nặng, chỉ đêm nay hoặc sáng mai nó sẽ chết. Ta giúp nó khỏi phải chịu đau đớn thêm mấy giờ. Saphira cúi đầu chạm nhẹ vào vai Arya. Eragon vừa bước theo cô, Orik giật tay áo nó. Eragon cúi xuống nghe ông lùn thì thầm: - Đừng bao giờ yêu cầu một thần tiên giúp đỡ điều gì. Rất có thể họ sẽ quyết định để cho cậu chết còn tốt hơn. Đúng không? Dù còn mệt mỏi vì chuyến đi hôm qua, Eragon cũng ráng dậy trước khi trời sáng. Nó muốn được thấy một thần tiên đang ngủ, hay mới thức, hoặc… họ không hề ngủ bao giờ. Eragon chưa từng thấy một thần tiên nhắm mắt, hôm nay nó quyết khám phá ra điều này. - Chào buổi sáng. Nghe tiếng chào từ phía trên đầu, Eragon giật mình ngửa cổ nhìn lên. Hai tiên ông Narí và Lifaen đang đứng chót vót trên những cành thông cao hơn mười mét. Thoăn thoắt chuyền từ cành này sang cành khác, rồi hai thần tiên nhẹ nhàng nhảy xuống bên Eragon: - Chúng tôi đang canh gác đấy. - Canh gác gì? Từ sau gốc cây, Arya bước ra: - Du Weldenvarden tiềm ẩn rất nhiều bí ẩn và hiểm nguy, nhất là đối với một kỵ sĩ. Chúng tôi đã sống tại đây nhiều ngàn năm; những câu thần chú vẫn còn luẩn khuất tại những nơi không thể nào ngờ được: phép thuật thẫm đẫm không khí, trong đất, trong nước, khắp nơi. Có khi phép thuật nguỵ trang dưới lột thú vật. Thỉnh thoảng lại xuất hiện những sinh vật lạ gầm rú trong rừng, và… không phải tất cả những sinh vật đó đều tỏ ra thân thiện đâu. - Chúng là… Eragon không nói hết câu, vì thình lình dấu gedwey ignasia trên bàn tay bỗng rần rần và ngực nó nóng ran, cùng lúc lá bùa như đang rút dần sinh lực nó. Có người đang cố thu hình ảnh của Eragon. Nó lo sợ tự hỏi: “Hay chính là Galbatorix?” Eragon kéo vội sợi dây chuyền có lá bùa ra ngoài cổ áo, sẵn sàng giật đứt khi cảm thấy quá đuối sức. Saphira phóng tới, chuyền nội lực sang Eragon. Một lát sau, sức nóng của lá bùa hình cái búa nguội dần, Eragon bỏ lại vào trong áo. Saphira bảo: “Kẻ thù đang tìm kiếm chúng ta.” “Kẻ thù? CÓ thể là kẻ nào đó trong Du Vrang Gata – Con-đường Lãng-du?” “Em nghĩ có thể vua lùn Hrothgar đã cho Nasuada biết chuyện ông ta ra lệnh cho Gannel yểm bùa sợi dây chuyền này… Như vậy hẳn cổ ta là người có ý tưởng thử nghiệm đầu tiên.” Arya nhíu mày khi nghe Eragon thuật lại những gì xảy ra. - Chuyện này càng khiến chúng ta phải mau tới Ellesméra để chàng hoàn tất chương trình huấn luyện. Những sự kiện tại Alagaesia đang diễn biến rất nhanh, ta sợ chàng sẽ không đủ thời gian học tập. Tất cả rộn rịp dập lửa, chuyển thuyền xuống nước, tiếp tục vượt sông Gaena. Chừng một tiếng sau, Eragon thấy con sông càng rộng và sâu thêm, rồi hai con thuyền tới phía trên một ngọn thác đang ầm ầm đổ xuống Du Weldenvarden. Thác nước cao khoảng trên ba mươi mét trút xuống một mặt đá nhô ra ngăn lối, không cách nào leo lên nổi. Eragon thầm nhủ: “Làm sao qua nổi đoạn đường này?” Lifaen chỉ một đường mòn xa xa bên trái thác nước. - Chúng ta phải khiêng thuyền và đồ đạc chừng nửa dặm, tới đó dòng sông bình thường lại. Tất cả cởi những bó đồ buộc trên thuyền, nhồi nhét vào ba lô. Eragon vác một ba lô lên. Nặng gấp đôi bình thường. Saphira vừa rũ nước trên mình vừa bảo: “Để em mang tất cả những thứ này, bay qua thác trước.” Eragon lập lại lời đề nghị của cô rồng. Lifaen hốt hoảng: - Không được. Chúng tôi không bao giờ dám sử dụng rồng như một con vật chở hàng. Như vậy là thiếu tôn trọng đối với Saphira và kỵ sĩ Eragon… và làm ô danh lòng hiếu khách của chúng tôi. “Vớ vẩn.” Saphira lèm bèm rồi thở khì một tiếng. Những tia lửa phun ra từ hai lỗ mũi nó làm sôi mặt nước, tạo thành một cụm hơi nóng bốc lên. Vươn cái chân lóng lánh vảy, nó xoè móng vuốt quắp mấy bó đồ, rồi bay bổng trên đầu mọi người. Cổ ả vênh váo thách thức: “Ai giỏi thì bắt tớ coi.” Một chuỗi cười nổi lên, lảnh lót như tiếng hót của hoạ mi làm Eragon sững sờ quay nhìn Arya. Lần đầu tiên nó nghe tiếng cười của cô. Tiếng cười mới dễ thương làm sao chứ! Arya mỉm cười bảo Lifaen: - Huynh cần học tập nhiều, nếu muốn điều khiển một con rồng phải làm gì hoặc không được làm gì. - Nhưng như vậy là phạm danh dự của… - Đây là vấn đề tự nguyện của Saphira. Nào, chúng ta tiếp tục lên đường. Eragon cùng Lifaen nâng thuyền lên vai, thầm mong vết thương không làm nó quá đau. Với cái thuyền sùm sụp trên đầu, Eragon phải lần theo bước chân đi trước của Lifaen. Một tiếng sau, họ đã lên tới đỉnh cao, vượt qua đoạn thác nguy hiểm, tiến vào dòng sông phẳng lặng lại. Saphira đang ngồi đợi. Cô ả vươn cổ như con cò bận rộn bắt bầy cá dưới lòng sông. Arya gọi Saphira lại, rồi nói với cả cô rồng và Eragon: - Qua một khúc quanh nữa là tới hồ Ardwen. Bên tả ngạn của hồ là Sílthrim, một trong những thành phố lớn nhất của chúng tôi. Qua khỏi thành phố đó là một dải rừng mênh mông ngăn cách Ellesméra với bên ngoài. Gần tới Sílthrim chúng ta sẽ gặp nhiều thần tiên. Tuy nhiên, ta không muốn chàng hay Saphira để bất kỳ ai nhìn thấy trước khi ta tâu trình việc này với nữ hoàng. “Sao vậy?” Saphira hỏi Eragon. Giọng Arya trầm bổng: - Sự hiện diện của chàng và Saphira tiêu biểu cho sự đổi thay to lớn nhất và cũng ghê gớm nhất trong vương quốc của chúng tôi. Vì vậy phải vô cùng thận trọng. Nữ hoàng sẽ là người đầu tiên gặp chàng. Vì nữ hoàng là người duy nhất có quyền uy giám sát chuyển biến này. Eragon e dè nói: - Nàng tỏ ra rất tôn kính nữ hoàng. Nghe nó nói, Narí và Lifaen thận trọng đưa mắt nhìn Arya. Mặt cô bình thản, rồi ngẩng lên, kiêu hãnh nói: - Nữ hoàng là một nhà cai trị đầy tài năng… Eragon, tôi biết khi ở Tronjheim, chàng có một cái mũ trùm đầu. Cho đến khi không cần phải giữ gìn nữa, xin chàng hãy sử dụng mũ đó, đừng để kẻ nào nhìn thấy vành tai tròn của chàng. Vì như vậy, chàng sẽ bị phát hiện là một con người. Eragon gật. Arya nói tiếp: - Còn mi, Saphira, hãnh lánh mặt ban ngày và gặp lại chúng ta vào ban đêm. Ajihad cho ta biết mi đã làm như vậy khi còn trong nước. Saphira bực bội nghĩ: “Sao tôi ghét cái trò này thế không biết.” - Chỉ hôm nay và ngày mai thôi. Sau đó chúng ta đã xa khỏi thành phố Sílthrim và không còn gì phải lo ngại nữa. Saphira ngước đôi mắt màu xanh ngọc nhìn Eragon: “ Khi trốn thoát khỏi Alagaesia, em đã thề sẽ luôn ở bên anh để bảo vệ. Vì mỗi lần vắng em là đủ thứ chuyện xảy ra: Nào là Yazuac, Daret, Dras-Leona rồi tới chuyện những người nô lệ.” “Nhưng ở Teirm có gì xảy ra đâu?” “Em không đi đâu hết, nhất là trong lúc cái lưng anh vặn vẹo thế kia.” “Yên tâm mà, còn có Arya và hai vị kia.” “Được. Nhưng em không đợi quá đêm mai đâu. Dù lúc đó anh đang ở trung tâm thành phố Sílthrim, em cũng hạ cánh xuống đấy.” Arya lên tiếng: - Ta hiểu rồi. Nhưng dù bay trong đêm tối, mi cũng phải rất thận trọng. Nếu để thần tiên nào vô tình thấy mi, mi có thể bị tấn công bằng phép thuật đó. Saphira hậm hức: “Càng thích!” Trong khi Orik và hai tiên ông thu xếp lại đồ đạc lên thuyền, Saphira và Eragon tiến vào khu rừng âm u tìm một chỗ kín đáo để Saphira ẩn náy. Tới một cái hố khô ráo phủ đầy lá thông êm dịu, và có những tảng đá bao bọc chung quanh, Saphira cuốn tròn trên mặt nệm lá thông, bảo: “Đi đi, em không sao đâu.” Eragon ôm cổ cô em rồng, miễn cưỡng trở ra bờ sông. Nó trùm mũ vải che kín mặt, rồi lên thuyền tiếp tục chuyến đi. Trời đứng gió khi hồ Ardwen hiện ra trước mắt. Mặt nước mênh mông êm ả, bằng phẳng như một tấm gương rọi bóng cây cỏ, mây trời. Hình ảnh ảo hoàn hảo tới mức Eragon tưởng như đang nhìn một thế giới khác qua khung cửa sổ, và nếu cứ tiếp tục tiến lên, hai con thuyền sẽ rơi mãi mãi vào bầu trời phản chiếu kia. Ý nghĩ đó làm nó chợt rùng mình. Xa xa, tấp nập những con thuyền thân cây bạch phong lao vun vút bằng sức mạnh chèo chống của thần tiên. Eragon vội kéo mũ che kín mặt. Càng tiến xa, mối giao cảm giữa Saphira và Eragon càng giảm dần. Dường như càng ráng sức thì tinh thần nó càng bị giới hạn hơn. Trời vừa sụp tối, chừng một dặm phía trước, nhưũng chùm ánh sáng trắng toả ra từ những ngọn đèn đặt trên những ngọn cây cao. Ánh sáng đèn hoà cùng ánh trăng vằng vặc, tạo nên một vẻ đẹp huyền hoặc của đêm. Lifaen bảo: - Nơi đó chính là Sílthrim. Từ một chiếc thuyền nhẹ lướt ngược chiều với họ, vọng sang câu nói: - Kvetha Fricai. Arya cho thuyền song song với thuyền của Eragon, nói sang: - Đêm nay chúng ta nghỉ lại đây. Họ cắm trại trên một khoảng đất khô ráo cách xa bờ hồ Ardwen. Bầy muỗi đói lăn xả vào đoàn người mới tới. Arya phải niệm chú xua đuổi, mọi người mới có thể tiếp tục bữa ăn. Ăn xong, tất cả ngồi quanh đống lửa. Eragon dựa đầu vào một thân cây, lẳng lặng ngắm một vệt sáng vừa rạch ngang bầu trời cho đến khi hai mắt nhíu lại thì… ngay lúc đó một giọng nữ mơ hồ lọt vào tai nó. Eragon nhăn mặt cố gắng lắng nghe âm thanh mong manh, thì thầm như bồng bềnh từ Sílthrim tới. Một niềm hoan lạc hoà quyện cùng nỗi hãi hùng chạy dọc sống lưng và bao phủ ý thức của Eragon. Mê hoặc vì những nốt trầm ma quái làm Eragon nhảy dựng lên, sẵn sàng chạy vào rừng tìm nơi phát ra nguồn âm thanh đó, để được hoà mình vào cuộc vui của thần tiên. Nhưng Arya đã kịp nắm cánh tay, kéo nó quay lại đối diện với cô: - Eragon, tỉnh lại. Nó vùng vẫy, cố thoát khỏi tay cô. Arya âm thầm nói: - Eyddr, eyreya onr. Hãy thanh tẩy tai đi. Mọi âm thanh ngừng bặt, như hai tai nó đều đã bị điếc. Eragon thôi vùng vẫy, nhìn quanh, không biết chuyện gì mới xảy ra. Bên kia đống lửa, Narí và Lifaen đang cố sức vật lộn với Orik. Eragon nhìn Arya đang lẩm bẩm, rồi một tiếng nổ “bốp” vang lên. Nó không còn nghe tiếng ca hát nữa. Ông lùn Orik hét toáng lên: - Buông ta ra. Narí và Lifaen rời tay khỏi ông, nói: - Xin Orik – vodhr (tiên sinh) thứ lỗi. Arya nhìn về hướng Sílthrim lên tiếng: - Tôi đã tính lầm ngày; thật tình tôi không muốn chúng ta đến gần một thành phố đang trong mùa Dagshelgr. Lễ hội cầu đảo này của chúng tôi rất nguy hiểm cho loài người. Chúng tôi hát ngâm bằng cổ ngữ và những vần thi ca sẽ dệt lên những lời thần chú đầy đam mê, say đắm; ngay cả chúng tôi cũng rất khó lòng cưỡng lại. Narí bồn chồn: - Đáng lẽ chúng ta nên đi đường vòng. - Đúng. Nhưng chúng ta phải chờ tại đây để hoàn thành nhiệm vụ. Eragon rùng mình ngồi sát vào đống lửa. Nó tin chắc Saphira, nếu có mặt, đã có thể bảo vệ nó khỏi ảnh hưởng của những giọng hát kia. - Mục đích của Dagshelgr là gì? Nghe hỏi, Arya ngồi xuống bên Eragon, cắt nghĩa: - Lễ cầu đảo này là giữ cho rừng cây xanh tươi trù phí. Mỗi mùa xuân chúng tôi đều ca hát cho cây cỏ, loài vật lớn mạnh, trù phú hơn lên. Nếu không có chúng tôi, diện tích Du Weldenvarden chỉ bằng nửa hiện nay thôi. Như để minh chứng cho những lời nói của cô – chim, nai, sóc, cáo, chồn, thỏ, sói, rùa, cóc nhái… từ những hang ổ nháo nhào chay ra với đủ thứ âm thanh chí choé. Arya nói: - Chúng chạy tìm bạn tình đó. Ngay lúc này, tại mỗi thành phố của Du Weldenvarden, các thần tiên đều đang hát bài ca cầu đảo này. Càng đông, sức mạnh của thần chú càng tăng và Du Weldenvarden càng lớn mạnh. Eragon rụt vội tay khi bị ba con nhím lăn qua đùi. Cả khu rừng tràn ngập tiếng ồn ào của muông thú kêu rít và rượt đuổi nhau. “Vậy là mình đã bước vào xứ thần tiên.” Eragon thích thú thầm nghĩ. Orik đến bên đống lửa nói át những tiếng ồn: - Arya, tôi thề có thần Helzvog, nếu ý chí tôi bị phép thuật khống thế một lần nữa, tôi sẽ trở lại Farthen Dur ngay và cô sẽ phải đối phó với sự phẫn nộ của bộ tộc Ingeitum chúng tôi. - Tôi xin lỗi, dù thật tình tôi không có ý. Tuy nhiên dù tôi có tránh cho ông khỏi lần này, ông cũng không thể tránh mãi được khi đã ở trong vùng đất của Du Weldenvarden, một nơi phép thuật tràn lan cùng khắp. - Miễn sao nó đừng làm đầu óc tôi mê muội đi là được rồi. Vừa nói Orik vừa vuốt ve cán rìu, trong khi mắt đăm đăm nhìn những bóng muôn thú rộn ràng chạy nhảy trong vùng sáng chập chờn phát ra từ đống lửa. Đêm đó không ai ngủ. Orik và Eragon không thể chợp mắt vì tiếng huyên náo kêu rít, rượt đuổi, đùa giỡn của muông thú quanh lều. Còn các thần tiên thì mê mải lắng nghe những bài ca. Narí và Lifaen không ngừng bước đi vòng vòng. Arya lặng lẽ hướng về Sílthrim, làn da nâu như căng thẳng trên hai gò má. Sự náo động kéo dài chừng bốn tiếng thì Saphira từ trên không sà xuống. Mắt nó long lanh, thân hình lảo đảo như say rượu. Cô ả vừa hổn hển thở vừa nói: “Rừng núi hồi sinh. Tất cả đều sống động. Chưa bao giờ máu em sôi lên như thế này. Giống hệt như khi anh nghĩ tới Arya. Bây giờ… em mới hiểu.” Eragon đặt tay lên vai con rồng cái, cảm thấy thân hình Saphira run rẩy khi ư ử hát theo tiếng hát của thần tiên. Móng vuốt nó quắp sâu xuống đất cố sức giữ cho thân hình không chuyển động. Đuôi nó ngoáy loạn lên, như sắp vươn người chồm tới. Arya tiến lại, cũng đặt một tay lên vai con rồng. Cả ba tạo thành ba cái bóng im lìm trong đêm tối. Trời hửng sáng, điều đầu tiên Eragon phát hiện là: tất cả cây rừng đều nhú những lộc non xanh biếc. Cả hoa, dâu dại đã mơn mởn trở mình, trồi lên khỏi mặt đất trong đêm. Rừng cây tinh khôi, tươi mát, sống động, ứ căng mầm sống. Không gian thanh khiết như vừa qua một cơn mưa. Saphira nằm xuống bên Eragon thủ thỉ: “Cơn sốt qua rồi, em đã bình thường lại. Chuyện xảy ra… cứ như thế giới tái sinh, còn em như góp tay tái tạo lại tất cả bằng ngọn lửa trong mình.” “Em cảm thấy ra sao rồi? Ý anh là trong lòng em đó.” “Phải cần một thời gian nữa, em mới hiểu và nói được là mình đã cảm thấy những gì.” Tiếng ca hát không còn nữa, Arya thu hồi phép thuật đã bảo vệ Eragon và Orik, rồi nói: - Narí và Lifaen, hai huynh đệ hãy tới Sílthrim lấy ngựa. Chúng ta không thể đi bộ từ đây về hoàng cung được. Báo với chỉ huy trưởng Damítha là Ceris đang cần tiếp viện. Narí cúi đầu: - Chúng tôi sẽ nói gì, nếu bà ta hỏi vì sao chúng tôi bỏ trạm? - Hãy nói, việc mà có lần bà ấy mong chờ - và sợ hãi – đã xảy ra; con rắn đã tự cắn đuôi nó. Bà ta khắc hiểu. Narí và Lifaen lên đường sau khi đồ đạc đã được chuyển hết lên bờ. Và chỉ ba tiếng sau, Eragon đã thấy họ, ngồi trên lưng hai con ngựa trắng từ trong rừng tiến ra. Bốn con ngựa theo sau họ cũng toàn một màu trắng. Mấy con tuẩn mã di chuyển giữa nhbững hàng cây êm như ru. Màu lông trắng của chúng rực sáng dưới những tán lá xanh như ngọc. Nhưng… không con nào có yên cương. Lifaen nói nhỏ: - Blothr, blothr. Con ngựa ngừng ngay lại, nện những móng đen trên mặt đất. - Con ngựa nào của các vị cũng có dáng vẻ quý phái thế này sao? Vừa hỏi Eragon vừa mon men tiến lại gần một con, mê mẩn vì vẻ đẹp của nó. Mấy con ngựa này chỉ cao hơn ngựa tơ chừng vài gang tay, rất dễ luồn lách qua những cành lá thấp. Chúng không hề tỏ ra sợ hãi khi thấy Saphira. Narí cười cười vuốt mái tóc trắng như bạc: - Đa số thôi, không phải tất cả đâu. Chúng tôi đã gây giống này từ nhiều thế kỉ rồi. - Làm sao tôi cưỡi được? Arya nói: - Ngựa của thần tiên khi nghe lệnh bằng cổ ngữ sẽ lập tức tuân theo. Chỉ việc nói muốn đi đâu, nó sẽ đưa ngay tới đó. Tuy nhiên, không được xử tệ với chúng bằng roi vọt hay chửi mắng. Vì chúng không phải là nô lệ, mà là cộng sự và bằng hữu của chúng tôi. Chúng chỉ phục vụ khi chúng hài lòng, vì vậy có một con ngựa này là một đặc ân. Tôi cứu được trứng Saphira khỏi lọt vào tay Tà Thần Durza cũng là nhờ chúng cảm thấy có điều bất thường, và ngừng lại trước khi lọt ổ phục kích. Chúng không bao giờ làm người cưỡi té ngã, trừ khi người đó cố tình lăn xuống. Chúng còn rất có tài chọn những lối đi nhanh nhất, an toàn nhất, khi phải qua những địa bàn đầy bất trắc. Loài dê Feldunost của người lùn cũng giống như vậy. Orik bảo: - Arya nói đúng đó. Feldunost có thể đưa người ta lên thác xuống ghềnh mà không gây một thương tích nhỏ nào cho người cưỡi. Nhưng… không có yên cương làm sao chở được cả người và đồ đạc đây? Đeo một cái túi nặng, tôi làm sao cưỡi ngựa không yên cương được. Chất một đống ba lô dưới chân Orik, Lifaen chỉ sáu con ngựa: - Ông không phải mang xách gì hết. Sau nửa tiếng thu dọn đồ đạc, rồi chất lên lưng ngựa, Narí hướng dẫn những câu để điều khiển ngựa cho Orik và Eragon: - Gánga fram là tiến tới, blothr là đứng lại, hlaupa là phóng nhanh và gánga aptr là trở lại. Nếu các vị biết thêm về cổ ngữ thì có thể ra nhiều lệnh khác. Dẫn một con ngựa tới trước Eragon, Lifaen nói: - Đây là Folkvír, kỵ sĩ đưa tay ra đi. Eragon đưa tay. Con Folkvír hít hít rồi dụi đầu vào bàn tay Eragon và đứng im khi Eragon vuốt ve bờm nó. Narí khoan khoái nói: - Tốt rồi. Bây giờ xin mời Orik tiên sinh. Khi Eragon leo lên lưng Folkvír, Saphira lại gần. Nhìn cô em rồng, Eragon nhận thấy Saphira vẫn chưa hết bàng hoàng chuyện đêm qua. Nó an ủi: “Em ráng nghe, chỉ một đêm nữa thôi.” “Eragon… em đã nghĩ ra vài điều khi bị áp lực bởi thần chú của thần tiên, những điều mà trước kia em coi là chuyện không đáng kể. Nhưng bây giờ nó lại đè nặng lên em như một quả núi tối tăm. Đó là: mọi sinh vật, hiền lành hay hung dữ, đều có bạn cùng loài. Chỉ riêng em là không. Nghĩ đến điều đó, em cảm thấy cô đơn quá.” Nó rùng mình, khép chặt hai mắt. Nghe Saphira tâm sự, Eragon chợt nhớ, tuy “cô em bé bỏng” mới được tám tháng tuổi, nhưng trong mọi hoàn cảnh, nó chưa hề tỏ ra thơ trẻ - vì ảnh hưởng bản năng di truyền và ký ức. Tuy nhiên, trong cõi tình trường, Saphira còn ngây ngô khờ dại hơn cả Eragon. Cảm thấy tội nghiệp cho Saphira quá, nhưng Eragon vội nghĩ qua chuyện khác, sợ cô rồng bắt được luồn tư tưởng đó, sẽ biết ông anh không giải quyết được chuyện gì mà còn làm cô em não lòng hơn. Vì vậy, Eragon vội nói: “Galbatorix vẫn còn hai trứng rồng. Trong lần đầu triều kiến của Hrothgar, em đã bảo muốn giải cứu hai trứng đó. Nếu chúng ta có thể…” Giọng Saphira đầy cay đắng: “Bao nhiêu năm nữa? Mà cho dù chúng ta lấy được trứng, làm sao em bảo đảm là chúng sẽ chịu nở? Mà nở ra rồng đực hay rồng cái? Nếu là rồng đực thì tụi em có hợp tính nhau không? Định mệnh đã an bài dòng giống em phải bị tuyệt chủng rồi!” Nó nghẹn ngào gần ứa nước mắt. “Em đừng mất hy vọng chứ. Phải kiên nhẫn. Vẫn còn cơ hội cho em tìm bạn mà, vì cho dù hai trứng của Galbatorix không chịu nở, thì đâu đó trên đời này vẫn phải còn có rồng tồn tại chứ. Như con người, thần tiên và… Urgal chẳng hạn. Ngay sau khi chúng ta hoàn thành nhiệm vụ, anh sẽ giúp em tìm kiếm. Được chưa nào? Saphira vươn cổ nhả một làn khói trắng tản mạn lên những ngọn cây: “Đáng lẽ em nên biết gạt bỏ những cảm xúc vớ vẩn đó đi.” “Bậy nào. Em đâu phải gỗ đá mà không có quyền cảm xúc? Hứa với anh, đừng nghĩ vớ vẩn khi ở một mình, nghe không?” ”Nghe.” Hướng đôi mắt ngọc khổng lồ, Saphira chăm chăm nhìn Eragon. Cảm thấy sự biết ơn của Saphira vì đã được an ủi và chia sẻ, Eragon nghiêng mình, đặt tay lên má con rồng. Saphira thì thầm: “Đi đi, anh bé bỏng. Em sẽ gặp lại anh.” Eragon không muốn để Saphira lại trong tình trạng này, nó miễn cưỡng theo Orik và các thần tiên vào rừng, để tiến về trung tâm Du Weldenvarden. Sau cả giờ đắn đo, nó nói cho Arya biết trường hợp của Saphira. Những vết nhăn mờ hằn trên trán, khi Arya nhíu mày nói: - Đó là một trong những tội ác lớn nhất của Galbatorix. Tôi không biết có giải pháp nào không, nhưng chúng ta có thể hy vọng. Chúng ta PHẢI hy vọng. Thời gian dài di chuyển mãi dưới những cây cao thăm thẳm và những cỏ cây tủn mủn dưới hàng tán rợp làm Eragon bắt đầu chán ngán. Những chuyến bay bổng cùng Saphira – bên dưới toàn một màu xanh – cũng không làm nó giảm bớt khát khao những vùng trời nước bao la, phóng khoáng. Nhiều khi cành lá rậm rạp kín mít trên đầu, đến nỗi không thể phân biệt hướng nào mặt trời mọc, phía nào mặt trời lặn. Cảnh trí nhàm chán, đơn điệu làm Eragon bần thần, đãng trí, không nhớ nổi phương hướng trên địa bàn, dù Arya và Orik đã hướng dẫn nhiều lần. Nếu không có mấy thần tiên, chắc chắn Eragon sẽ loanh quanh suốt đời trong Du Weldenvarden, không thể tìm được lối ra. Khi trời mưa, mây và tán lá trở nên tối đen như mực, chẳng khác nào như đang ở dưới mộ sâu thăm thẳm. Nước mưa, từ trên những ngọn thông cao đến bốn năm chục mét, trút xuống như những con thác nhỏ. Những lúc như thế, Arya phải niệm chú làm hiện ra một quả cầu phát ra luồng ánh sáng màu xanh lục, bồng bềnh trên bàn tay cô. Đó là nguồn ánh sáng duy nhất trong khu rừng tối như hũ nút. Càng đi sâu vào Du Weldenvarden, cây cối càng cao và khoảng cách càng xa nhau hơn. Những thân cây sừng sững gần trăm mét, cao hơn tất cả những cây cao nhất Eragon từng thấy trên núi Spine hay núi Beor. Eragon thử đo bằng cách đếm bước quanh một thân cây: hơn hai mươi mét. Eragon nói với Arya, cô gật đầu bảo: - Như vậy là chúng ta đã tới gần Ellesméra. Arya đặt tay đặt nhẹ lên một rễ cây xù xì, âu yếm như đang đặt lên vai người yêu hay người bạn: - Những cây này cùng thời với những sinh vật lâu đời nhất tại Alagaesia. Lần đầu tiên phát hiện ra Du Weldenvarden, thần tiên đã yêu quý loài cây này. Chúng tôi làm mọi cách trong khả năng của mình để giúp chúng luôn phát triển. Một lưỡi dao bằng ánh sáng mỏng manh rạch mấy đường lên những cành cây lấm tấm ngọc xanh, ngay phía trên đầu Arya, rồi tô lên mặt và cánh tay cô bằng chất vàng lỏng long lanh rực rỡ. Arya nói tiếp: - Eragon, chúng ta đã cùng nhau trải qua một cuộc hành trình rất xa, nhưng bây giờ chàng mới sắp bước vào thế giới của ta. Hãy đi đứng nhẹ nhàng, vì đất đai không khí đều ắp đầy kỷ niệm, và… mọi vật tại đây không vô tri như chàng tưởng đâu. Hôm nay đừng bay với Saphira nữa, vì chúng ta đã vào tới những khu vực bảo vệ cho Ellesméra rồi. Eragon gật đầu rồi trở lại với Saphira. Cô ả đang thoải mái nằm dài trên thảm rêu mơn mởn, tiêu khiển bằng trò phun khói rồi thích thú ngắm những sợi khói uốn éo lên cao. “Bây giờ đất đai rộng rãi, em hết phải lo không có chỗ nằm.” “Tốt.” Nói xong Eragon nhảy lên mình Folkvír, theo Orik và các thần tiên đi sâu vào rừng. Saphira đủng đỉnh bò theo. Eragon chợt sững sờ vì vẻ đẹp uy nghi, kỳ lạ chung quanh. Dường như dưới những tán thông xanh này không có gì thay đổi từ ngàn năm trước hay ngàn năm sau nữa. Thời gian như chìm trong giấc ngủ triền miên, không bao giờ thức giấc. Xế chiều, bóng tối bỗng tan đi và trước mắt họ, một nguồn sáng bao bọc quanh một vị thần tiên mặc áo choàng dài, trên trán là một chiếc vòng bằng vạc. Vẻ mặt ông già dặn, cao nhã và trầm tĩnh. Arya nói nhỏ: - Eragon, cho ông thấy bàn tay và chiếc nhẫn của chàng. Eragon đưa cao bàn tay phải để vị tiên nhìn chiếc nhẫn, rồi tới dấu Gedway ignasia. Ông ta mỉm cười, nhắm mắt, giang rộng hai tay như một hành động đón mừng. Arya nói: - Đường được mở rồi. Sau một khẩu lệnh nhẹ nhàng, con ngựa của Arya dẫn đầu tiến bước. Khi tất cả vòng qua ông, đi khuất dạng, ông đứng thẳng người, rồi sau một tiếng vỗ tay, tiên ông và nguồn sáng cùng vụt biến. Saphira hỏi: “Ai vậy?” Arya trả lời: - Đó là Gilderien Khôn-ngoan, Hoàng tử thuộc dòng tộc Miolandra, người nắm quyền Ngọn Lửa Trắng Vándil và đồng thời cũng là người bảo vệ Ellesméra từ thời Du Fyrn Skulblaka, tức là thời chiến tranh của chúng tôi với loài rồng. Chưa được phép của ông, không ai có thể lọt vào Ellesméra. Đi thêm một phần tư dặm, cây cối thưa thớt dần, những đốm nắng đã rọi xuống lòng đường. Qua hai cây trụi lá dựa sát vào nhau, tất cả tiến đến rìa một khoảng rừng trống. Trên cánh rừng trống đó, mặt đất phủ đầy hoa: hồng, cúc, hoa chuông màu ngọc bích… Hương hoa ngào ngạt rù quyến từng đàn ong bướm dập dìu. Bên phải, một dòng suối róc rách uốn mình sau những bụi hoa. Một đôi sóc nô đùa quanh một tảng đá bên dòng suối. Lúc đầu, Eragon thấy nơi này giống như chỗ ngủ đêm của hươu nai, nhưng chăm chú nhìn, nó phát hiện ra lối mòn nho nhỏ ẩn mình giữa những khóm cây bụi cỏ. Cành lá, cỏ hoa đan nhau tạo nên những hình dáng tinh xảo lạ lùng, khó có thể nhận ra do bàn tay con người hay bởi thiên nhiên. Eragon chớp mắt, rồi mọi hình ảnh chợt đổi thay, như nhìn qua một thấu kính khác vậy. A, đó là những lối đi. Kia là những bụi hoa. Nhưng còn những cành lá, cỏ hoa đan kết vào nhau thành những bụi cây to lớn, thật ra là những ngôi nhà vô cùng duyên dáng, “mọc” ra từ những cây thông. Một gốc cây phồng ra thành một ngôi nhà hai tầng trên bộ rễ. Tầng trên nhỏ chỉ bằng nửa tầng dưới, nhưng cả hai đều hình lục giác. Tường và mái nhà bằng vỏ cây phủ rêu xanh và những dây địa y buông lửng từ mái xuống những khung cửa sổ trang trí bằng chau báu. Cửa chính kín đáo lõm sâu dưới một mái vòm chạm khắc những biểu tượng khác nhau. Ngôi nhà khác, cách mặt đất chừng hai mét, ẩn mình như một tổ chim, giữa ba cây thông. Trụ nhà là những cành thông đan kết lại. Kế bên nhà là một cái lồng đèn bằng dây dương liễu và dương đào, nguỵ trang như những cây ký sinh. Mỗi ngôi nhà tách biệt đó đều hoà hợp nhịp nhàng với toàn thể khu rừng chung quanh, hoàn hảo tới mức không thể nói đâu là nhân tạo và đâu là do bàn tay của thiên nhiên. Cư dân Ellesméra thấp thoáng xuất hiện trước mắt Eragon, vụt qua như lá thông bay trong gió. Rồi nó thấy một khuôn mặt trắng, một đôi chân mang dép và một cánh tay đưa cao. Lần lượt từng vị, các thần tiên e dè xuấ hiện, những đôi mắt hình trái hạnh chăm chăm nhìn Eragon, Arya và Saphira. Phái nữ cài hoa tươi trên mái tóc màu bạc hoặc đen bỏ xoã xuống lưng. Phái nam trái ngược hẳn: Gò má cao, mũi thẳng, mí mắt nặng nề. Trang phục của nam và nữ đều bằng vải thô màu xanh lá hoặc nâu, viền nâu hay màu cam. “Đúng y như trong truyện cổ tích.” Vừa nghĩ Eragon vừa đặt hai ngón tay lên môi chào họ. Tất cả cúi thấp mình đáp lễ. Rồi những nụ cười hớn hở nở trên môi. Và từ trong đám đông một giọng nữ vút cao: Gala O Wyrda brunhvitr, Abr Berundal vandr-fódhr, Burthro laufsbladar ekar undir, Eom kona dautheikr… Eragon vội bịt chặt hai tai, sợ bài hát là những câu thần chú giống như nó đã nghe tại Sílthrim, nhưng Arya lắc đầu kéo tay nó xuống. - Yên tâm. Không phải phép thuật đâu. Rồi cô quay qua con ngựa nói nhỏ: - Gánga. Con ngựa khoan thai bỏ đi. Arya bảo Eragon: - Chàng cũng thả ngựa ra để chúng về chuồng nghỉ, chúng ta không cần tới ngựa nữa. Giọng hát càng vươn cao khi Arya tiến vào con đường lát đá, qua những bụi cúc quỳ, những ngôi nhà, trước khi băng ngang một dòng suối nhỏ. Thần tiên nhảy nhót chung quanh những vị khách mới tới. Họ ca hát, cười nói, thỉnh thoảng hứng chí nhảy thót lên những cành cao, í ới xưng tụng Saphira với những mỹ từ: “Móng dài”, “Anh thư”, “Con gái của không gian và lửa.” Eragon sung sướng mỉm cười, mê mẩn. Nó thầm nhủ: “Ta có thể sống lại đây… An toàn, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài…” Quả thật Eragon cảm thấy rất thích thú chốn này, hơn hẳn những thành phố của thần tiên nó đã đi qua. Chỉ một ngôi nhà ẩn sau những cành thông, Eragon hỏi Arya: - Những ngôi nhà này được tạo ra bằng cách nào? - Chúng tôi ca hát và chuyền sức mạnh để rừng mọc lên những hiìn dáng theo ý chúng tôi mong muốn. Nhà cửa, đồ dùng của chúng tôi đều được tạo ra như vậy. Con đường chấm dứt trước những bậc thềm được tạo bằng rễ cây. Tim Eragon đập rộn ràng khi cánh cửa ẩn trong những thân cây sống mở ra, hiển hiện trước mắt nó là một căn phòng lớn bằng cây. Hàng ngàn cánh lá đan vào nhau thành một mái trần như một tổ ong. Bên dưới, sát mỗi vách tường là mười hai cái ghế. Bốn mươi tám thần tiên nam nữ đang ngồi nghiêm chỉnh. Vị nào cũng mi thanh mục tú, da mặt mịn màng, không như những thần tiên Eragon gặp bên ngoài, các vị tại đây đều đeo gươm, cán cẩn ngọc ngà. Trên đầu họ đều có một vòng bằng bạc. Tất cả nắm chặt tay ghế, nghiêng mình chăm chú nhìn đoàn người mới bước vào, vừa ngạc nhiên vừa hy vọng. Và cuối phòng, một cái ngai đan kết bằng rễ cây kê dưới một tấm long đình màu trắng. Ngự trên ngai chính là Nữ hoàng Islanzadí. Bà đẹp như ánh nắng chiều thu, kiêu hãnh và oai vệ với đôi mắt sáng long lanh nằm dưới cặp chân mày xếch như hai cánh chim, đôi môi đỏ thắm như dâu chín, và chiếc vương miện kim cương ôm gọn mái tóc dài đen như trời đêm. Bà mặc áo màu mận chín, thắt một đai thêu chỉ vàng. Tấm áo choàng nhung rủ từ trên hai vai xuống sàn nhà. Mặc dù diện mạo uy nghi, nữ hoàng dường như không được khoẻ, hình như bà đang phải cố che dấu một nỗi đau nào đó. Bên trái nữ hoàng, con quạ trắng - đậu trên một nhánh cây – luôn bồn chồn đổi chân đứng. Con quạ nghiêng ngả đầu, ngắm nghía Eragon với đôi mắt khôn ngoan lạ lùng, rồi cất giọng the thé rít leê: “Wyrda!” Tiếng kêu lanh lảnh của nó làm Eragon rùng cả mình. Cánh cửa khép lại phía sau, Eragon, Saphira, Orik bước theo Arya, Narí và Lifaen tiến tới trước ngai. Arya quỳ gối, cúi thấp đầu trên thảm rêu. Tất cả đều làm theo cô. Kể cả Saphira dù nó chưa hề quý gối trước ai bao giờ. Nữ hoàng Islanzadí đứng dậy, bước xuống ngai. Đứng trước Arya, bà đặt hai bàn tay run lẩy bẩy lên vai cô. Giọng bà như lạc hẳn: - Đứng dậy. Arya tuân lệnh. Nữ hoàng chăm chăm nhìn Arya, mặt căng thẳng, như bà đang cố sức hoá giải một thử thách quá khó khăn. Sau cùng nữ hoàng ôm Arya, bật lên tiếng kêu: - Ôi! Con ta. Ta đã bất công với con biết ngần nào! Eragon quỳ gối trước nữ hoàng và các cận thần của bà, trong gian phòng kỳ lạ kết toàn bằng những cây còn tươi sống, trên một vùng đất gần như hoang đường, nhưng trong tâm trí nó dường như chỉ bàng hoàng nghĩ đến một điều: Arya là một vị công chúa! Điều đó cũng đúng thôi, vì cô luôn toả ra một dáng vẻ của một bậc quyền quý, quen ra lệnh. Nhưng nó cảm thấy chua xót trong lòng, vì rào cản giữa hai người tưởng như đã tháo gỡ được phần nào, nay lại càng kiên cố thêm. Nhớ lại lời tiên đoán của bà phù thuỷ Angela, Eragon càng ngao ngán. Bà đã nói, nó sẽ yêu thương một cô gái cành vàng lá ngọc… Nhưng bà cũng cảnh giác là, bà không thấy rõ hồi kết cuộc của mối tình này lành dữ ra sao. Eragon cảm thấy Saphira cũng tỏ ra kinh ngạc, nhưng rồi cô ả có vẻ thích thú chuyện này: “Hay quá há! Anh em mình ngao du với một quý tiểu thư mà mù tịt, chẳng biết gì.” “Sao cô ta không nói cho mình biết?” “Có lẽ cô ta sợ sẽ bị nguy hiểm hơn.” Arya lên tiếng đúng theo nghi lễ: - Xin triều kiến nữ hoàng. Nữ hoàng giật thót người như bị trúng một mũi tên, đưa bàn tay ôm mặt, bà nói bằng cổ ngữ: - Con ơi, ta đã không phải với con, nhưng từ khi bặt tin con, dường như ta không thể nào ăn ngủ nổi. Ta bị số phận con ám ảnh, chỉ sợ không bao giờ gặp lại con. Sai lầm lớn nhất đời ta là đã cấm con gặp mặt ta… Con có tha thứ cho ta không? Các thần tiên xôn xao kinh ngạc. Im lặng rất lâu, Arya trả lời: - Tâu mẫu hoàng, suốt bảy mươi năm, con đã sống và yêu thương, đã chiến đấu và chém giết mà không một lần được chuyện trò cùng mẫu hoàng. Đời sống của chúng ta dài thật, nhưng khoảng thời gian chịu đựng cô đơn đó đâu ngắn ngủi gì. Nữ hoàng đứng thẳng người, mặt ngước cao, toàn thân run rẩy: - Arya, dù sao cũng không thể đổi thay quá khứ, dù ta rất mong làm được điều đó. - Và hạ thần cũng không thể nào quên được những gì mình đã phải gánh chịu. - Tuỳ con, Arya. Nhưng hãy nhớ rằng, ta yêu thương con, con là giọt máu duy nhất của ta. Nếu cần con cứ lại ra đi, nhưng nếu con muốn hoà giải cùng ta, ta sẽ giải hoà với con. Một khoảnh khắc im lặng kéo dài, dường như Arya sẽ im lặng không trả lời, hoặc khủng khiếp hơn, sẽ từ chối đề nghị của nữ hoàng. Eragon thấy cô thoáng bối rối nhìn quanh, rồi cô hơi cúi đầu, nói: - Mẹ ơi! Con không thể ra đi nữa. Nữ hoàng cũng bối rối mỉm cười ôm con gái. Lần này Arya vòng tay ôm chặt mẹ. Và nụ cười rộng mở trên môi tất cả thần tiên có mặt. Con quạ trắng loi choi chảy trên nhánh cây, the thé nói: “Cửa nhà rộng mở. Gia đình đầm ấm. Tràn ngập tình thương.” - Hừ, đủ rồi, Blagden. Nữ hoàng quở con quạ, rồi quay qua Eragon: - Hãy tha lỗi ta chưa kịp chào hỏi kỵ sĩ, một vị khách quan trọng nhất của hoàng cung. Eragon đặt hai ngón tay lên môi, rồi quay bàn tay trái đặt lên xương ức như Arya đã dạy: - Islanzadí Drottning. Atra esterní ono thelduin. - Un atramor’ranr lífa unin hjarta onr. Eragon trả lời, hoàn tất phần nghi lễ. Nó có thể thấy các thần tiên đều bất ngờ về sự thông hiểu lễ nghi triều đình của nó. Trong ý thức, Eragon nghe Saphira đang lập lại những câu chào hỏi rất đúng quy cách. Nữ hoàng hỏi Saphira: - Nhà ngươi tên gì? - Saphira. Trong một thoáng, vẻ mặt nữ hoàng như chợt nhớ lại điều gì, nhưng ba chỉ nói: - Chào mừng mi đã tới Ellesméra. Còn kỵ sĩ quý danh là gì? - Eragon Khắc-Tinh của Tà-Thần, tâu nữ hoàng. Tiếng bàn tán của các thần tiên lại rì rầm sau nó, thậm chí nữ hoàng cũng tỏ ra kinh ngạc: - Đó là một cái tên đầy quyền uy, một cái tên mà chúng tôi không hề dám ban cho chính con cháu của mình. Chào mừng Eragon Khắc-Tinh của Tà-Thần đã tới Ellesméra. Chúng tôi chờ đợi kỵ sĩ từ lâu rồi. Nữ hoàng quay lại chào Orik, rồi bước trở lên ngai: - Eragon, với sự hiện diện của kỵ sĩ tại đây cùng chiếc nhẫn của Brom, không bao lâu sau khi trứng của Saphira bị mất, ta đoán rằng Brom đã qua đời. Như vậy việc huấn luyện của ông ta cho kỵ sĩ chắc chưa hoàn tất. Ta muốn được nghe toàn bộ sự việc, kể cả lý do Brom chết và kỵ sĩ đã gặp con gái ta trong hoàn cảnh nào. Sau đó, Orik, ta sẽ nghe ông trình bày nhiệm vụ của ông khi tới đây. Và, Arya, con sẽ cho ta biết về những gì con đã trải qua từ sau khi bị phục kích tại Du Weldenvarden. Đã nhiều lần phải thuật lại chuyện này, lại thêm có cô em rồng nhắc tuồng, Eragon kể lại từng sự kiện thật lưu loát. Nhưng nó cũng cố tình bỏ qua vài chi tiết. Sau đó, Eragon trình lên nữ hoàng thư của Nasuada. Bà bóc dấu sáp niêm phong, mở ra chăm chú đọc, rồi thở dài, khép hờ đôi mắt: - Bây giờ ta mới thấy mình cạn nghĩ đến ngần nào. Nỗi khổ đau của ta đáng lẽ được chấm dứt từ lâu, nếu ta đừng rút quân về và đừng từ chối tiếp những kẻ liên lạc của Ajihad sau khi được tin Arya lọt ổ phục kích. Đáng lẽ ta không nên oán thù, trút trách nhệim cái chết của con gái ta cho Varden. Từng tuổi này rồi, ta vẫn tỏ ra ngu ngốc quá… Tất cả đều im phăng phắc, không ai dám nói một lời. Lấy hết can dảm, Eragon lên tiếng: - Với việc Arya còn sống trở về, nữ hoàng có đồng ý giúp đỡ cho Varden như trước kia không? Nếu không, thần e Nasuada sẽ không thể thành công được. - Bất đồng giữa ta và Varden giờ chẳng còn ý nghĩa gì. Kỵ sĩ đừng lo, chúng ta sẽ hỗ trợ họ như chúng ta đã từng làm. Vì kỵ sĩ và vì chiến chắng Urgal của họ, chúng ta sẽ giúp họ hơn cả trước kia. Bà đưa tay ra nói: - Eragon, đưa chiếc nhẫn của Brom cho ta, được chứ? Đón chiếc nhẫn từ Eragon bằng mấy ngón tay thanh mảnh, nữ hoàng nói: - Đáng lý kỵ sĩ không được đeo nhẫn này, vì nó không dành cho kỵ sĩ. Tuy nhiên vì những gì kỵ sĩ đã làm cho Varden và hoàng gia chúng ta, ta ban cho kỵ sĩ nhẫn Aren này và từ nay, đối với chúng ta, kỵ sĩ sẽ có một tên mới: Hảo-Bằng-Hữu của Thần Tiên. Bất kỳ tới đâu, tất cả thần tiên đều biết kỵ sĩ Eragon là người bạn đáng tin cậy và sẽ được họ nhiệt tình giúp đỡ. Eragon tạ ơn, đeo lại chiếc nhẫn, nhưng nó vẫn cảm thấy không yên tâm, vì đôi mắt nữ hoàng nhìn nó như dò hỏi, tra vấn. Hình như bà biết hết những gì nó nói hay làm. - Nhiều năm rồi, tại Du Weldenvarden, ta không được nghe những thông tin như kỵ sĩ vừa nói. Chúng ta đã quen với lối sống đạm bạc, đời sống tại đây thấp hơn hầu hết mọi vùng của Alagaesia và nó làm ta bối rối vì quá nhiều biến chuyển mà ta không hề biết. - Còn… chuyện huấn luyện của hạ thần? Eragon đánh bạo hỏi và bắt gặp những ánh mắt của các thần tiên. Nó tự nhủ, trong số này có vị nào là Togira Ikonoka, nhân vật đã thâm nhập vào tâm trí và giải phóng nó thoát khỏi áp lực của Tà-Thần sau trận chiến trong Farthen Dur, và đó cũng chính là nhân vật đã khuyến khích nó tới Ellesméra? Nữ hoàng lên tiếng: - Chuyện đó sẽ bắt đầu khi thời gian đầy đủ. Tuy nhiên ta e rằng chừng nào sức khoẻ kỵ sĩ còn kéo dài tình trạng này, việc huấn luyện sẽ thành vô ích. Chưa hoàn toàn thoát khỏi tà thuật của Durza, kỵ sĩ sẽ dần dần trở thành một hình nộm vật vờ, cho dù vẫn còn hữu ích, nhưng chỉ càn là cái bóng của niềm hy vọng mà chúng tôi hằng ấp ủ hơn một thế kỷ nay… Mỗi lời nói thẳng thắn của nữ hoàng như mỗi nhát búa đập vào Eragon. Vì nó biết bà nói rất đúng. - Tình trạng này không do lỗi của kỵ sĩ và ta rất đau lòng khi phải nói ra sự thật để kỵ sĩ hiểu sự suy nhược đó rất nghiêm trọng. Rồi quay qua Orik, bà nói: - Orik, lâu quá rồi mới có một người lùn bước vào hoàng cung của ta. Kỵ sĩ Eragon đã cắt nghĩa cho biết vì sao ông tới đây, nhưng ông có muốn nói thêm điều gì không? - Thần xin được chuyển lời thăm hỏi từ đức vua Hrothgar lên nữ hoàng và một lời khẩn cầu… nhưng bây giờ không còn cần thiết nữa, vì nữ hoàng đã quyết định nối lại bang giao cùng Varden. Ngoài ra thần tới đây cũng để được biết thoả hiệp do Brom tạo ra giữa nữ hoàng và loài người còn được tôn trọng không? - Dù những lời nói đó được thốt ra bằng ngôn ngữ này hay bằng cổ ngữ, chúng ta vẫn giữ lời hứa. Ta nhận lời chào hỏi của vua Hrothgar và cũng nhờ ông cho ta gửi lời thăm hỏi đức vua. Sau cùng, Eragon cảm thấy, bây giờ mới là phần nữ hoàng nóng lòng muốn biết, bà bảo Arya: - Nào con gái, cho ta biết con đã trải qua những gì. Bằng một giọng bình thản, chậm rãi, Arya thuật lại từ khi cô bị bắt, rồi những ngày bị giam cầm, khảo tra trong nhà tù Gil’ead. Eragon và Saphira đã cố tình bỏ qua những chi tiết cô bị ngược đãi, hành hạ, nhưng Arya dường như không hề e ngại khi thuật lại những khổ nhục cô đã trải qua. Tuy nhiên giọng kể vô cảm đó lại làm sự phẫn nộ sôi sục trong lòng Eragon như lần đầu nó nhìn thấy những vết thương của Arya. Toàn thể thần tiên nín lặng suốt câu chuyện của Arya, nhưng tay họ nắm chặt đốc kiếm và mặt đanh lại, lạnh băng như thép dao. Một giọt nước mắt lăn trên má nữ hoàng Islanzadí. Sau đó, một vị tiên cận thần trong triều, tiến đến trước mặt Arya: - Công nương Arya, những lời nói của tôi là nói thay cho toàn thể hoàng cung: tim chúng tôi bỏng cháy khổ đau vì những thử thách công nương đã phải trải qua. Đó là những tội ác không thể đền bù, hay tha thứ. Galbatorix phải bị trừng trị. Ngoài ra, chúng tôi còn mang nợ công nương, vì công nương đã bảo vệ an toàn cho những thành phố ẩn cư của chúng tôi khỏi bàn tay Tà Thần. Một số trong chúng tôi đã không thể chống cự lại nó quá lâu đến thế. - Đa tạ Dathedr đại nhân. Nữ hoàng cất cao giọng như tiếng chuông rung. - Các khách quý của chúng ta đã đứng mỏi chân rồi, và chúng ta cũng đã nói quá nhiều về những điều bất hạnh. Đừng để những vết thương quá khứ làm hỏi niềm vui hôm nay. Bà nở nụ cười rạng rỡ: - Con gái ta đã trở về. Rồng và kỵ sĩ đã xuất hiện. Chúng ta phải mở đại yến ăn mừng. Bà đứng dậy, cao và uy nghi trong bộ áo đỏ màu mận chín, vỗ tay mấy tiếng. Muôn vàn cánh hồng đỏ, huệ trắng từ trên cao, như những bống tuyết đủ màu sắc toả hương thơm, nhẹ nhàng phất phơ bay xuống. Trong khi vô vàn đoá hoa phủ xuống mọi người, Eragon thấy nữ hoàng vuốt vai Arya nói nhỏ như không để ai nghe: - Con đã không bị khốn khổ như thế, nếu nghe lời khuyên của ta. Ta đã có lý khi phản đối việc con chấp thuận yawe. - Chấp thuận tuyên thệ là do con đã tự quyết định. Nữ hoàng dang tay, gọi: - Blagden. Con quạ trắng bạc bay tới, đậu lên vai bà. Tất cả đều cúi thấp đầu khi nữ hoàng bước qua, tiến về cuối phòng mở tung cửa và nói với mấy trăm thần tiên đang tục trực bên ngoài. Không hiểu những câu nói bằng cổ ngữ của nữ hoàng Islanzadí, Eragon hỏi Narí: - Nữ hoàng nói gì vậy? - Mở kho thực phẩm quý và nổi lửa, sửa soạn đại tiệc tối nay. Nào, đi thôi. Vừa nói ông vừa kéo tay Eragon đi theo nữ hoàng qua những cây thông cành lá xanh tươi. Lúc này, bên ngoài mặt trời đã xuống thấp, rừng câu thấm đẫm một màu vàng như mã não lung linh. Saphira thì thầm: “Anh có nhận ra điều gì không? Ông vua mà Lifaen đã kể với anh em mình, vua Evandar đó, chắc là cha của Arya.” Eragon giật mình suýt vấp chân: “Em có lý. Mà… điều đó cũng có nghĩa là nhà vua đã bị Galbatorix hoặc một trong những phản đồ sát hại.” “Đúng là… vòng luẩn quẩn.” Trên ngọn đồi nhỏ, một nhóm thần tiên đã bày bàn ghế. Âm thanh của rừng chiều rì rào chung quanh. Trời tối dần, rải rác khắp Ellesméra, và gần những bàn tiệc, ánh lửa hồng đã bắt đầu xuất hiện. Eragon được trao một cái cốc làm bằng loại gỗ kỳ lạ mà nó đã thấy tại ceris. Nhấp chất nước trong vắt trong cốc, Eragon gần ngộp thở vì cổ họng nóng như cháy. Chất nước có mùi vị như nước ép trái vây hoà cùng mật ong lên men đó làm hai tai và nhưữngđầu ngón tay nó rần rần, đồng thời tinh thần phấn chấn sảng khoái hẳn lên. Nó hỏi Narí: - Cái gì vậy? Narí ha hả cười: - Laelnirv hả? Đó là nước dâu chín được xay bằng ánh trăng. Một người khỏe mạnh chỉ uống faelnirv, đi ròng rã ba ngày không cần ăn uống gì khác. “Saphira, nếm thử coi.” Saphira thè lưỡi liếm chút xíu, rồi há hốc mồm để Eragon trút hết cốc rượu. Trơn mắt, ngoáy đuôi, cô ả thòm thèm nói: “Đó mới chỉ là nếm thôi à nghe. Còn nữa không?” Eragon chưa kịp trả lời, ông lùn Orik đã nhào vào giữa hai đứa thì thầm: - Ai ngờ cô ta lại là con gái của nữ hoàng! Tôi chỉ muốn về ngay để kể cho đức vua và Nasuada biết chuyện này. Ngồi trên một ghế dựa cao, một lần nữa nữ hoàng vỗ hai tay. Từ trong thành phố, bốn thần tiên tiến ra cùng nhạc cụ. Hai vị với thụ cầm, một vị với bộ sáo bằng ống sậy và vị thứ tư cất cao giọng hát véo von một bài ca vui nhộn. Eragon chỉ hiểu loáng thoáng nhưng cũng đủ làm nó tủm tỉm cười. Đó là câu chuyện về một chú nai nổi sùng vì bị một chị chim câu chọc ghẹo đến nỗi cứ đứng trên bờ ao mà chẳng uống được ngụm nước nào. Vừa nghe Eragon vừa nhìn quanh, chợt bắt gặp đôi mắt sáng rực của một bé gái lấp ló sau lưng nữ hoàng. Tóc con nhỏ không ánh bạc như các thần tiên, mà bạc trắng như tóc người già, mặt nhăn nhúm, quắt queo như quả táo khô. Con nhỏ không phải người lùn hay thần tiên, cũng không thuộc loài người. Nó nhe hàm răng trắng nhởn, nhọn hoắt cười với Eragon. Khi bài ca chấm dứt, chỉ còn lại tiếng đàn sao bổng trầm, Eragon bỗng thấy mình lọt thỏm giữa những thần tiên xúm quanh chào hỏi, - Eragon cảm thấy – đúng ra là họ muốn lại gần thăm hỏi Saphira. Các thần tiên cúi đầu tự giới thiệu, rrồi đặt hai ngón tay lên môi. Eragon liên tục phải cúi đầu đáp lễ và trả lời bằng cổ ngữ những câu hỏi về thành tích của “kỵ sĩ rồng.” Nhưng chủ yếu là họ rối rít chuyện trò cùng Saphira. Lúc đầu Eragon vui vẻ để Saphira tiếp chuyện các thần tiên, vì đây là lần đầu hai đứa đến một nơi mà tất cả mọi người đều muốn được chuyện trò với cô rồng. Nhưng rồi Eragon cảm thấy như bị bỏ quên, làm nó… hơi khó chịu. Eragon chợt nhận ra: “Mình đã quen được mọi người chú ý từ khi gia nhập Varden mất rồi.” Ngay lúc đó mùi thơm của các món ăn tỏa khắp nơi và những thần tiên xuất hiện với những khay đầy cao lương mỹ vị. Bên những ổ bánh mù vàng tươm nóng hổi và những chồng bánh mật ong tròn tròn nho nhỏ, là những đĩa hoa quả, rau xanh. Nhưng nhiều nhất là dâu: canh dâu xanh, sốt dâu đỏ, mứt dâu rừng… Một tô táo cắt lát mỏng, ngâm trong xi-rô đặt bên ổ bánh nấm phủ lá bách lý hương và quả phúc bồn tử. Eragon bối rối vì không tìm thấy một miếng thịt, cá nào. Tại làng Carvahall của nó, hay bất kỳ nơi nào trên toàn nước Alagaesia, thịt là tượng trưng của sự giàu sang quyền quý. Của cải càng nhiều, càng ăn thịt nhiều. Ngay cả giới tiểu quý tộc, mỗi ngày cũng đều ăn thịt. Nếu không, chẳng khác nào tự chứng tỏ sự sa sút của mình. Tuy vậy, thần tiên không tán thành kiểu triết lý đó, dù hiển nhiên là họ giàu có và thừa thì giờ để săn bắn bằng phép thuật. Nữ hoàng Islanzadí ngồi đầu bàn với con quạ Blagden; bên trái là bà Dathedr; bên phải có Arya và Eragon; Orik ngồi đối diện, rồi tới những thần tiên gồm có cả Narí và Lifaen. Đầu bàn kia không đặt ghế, chỉ có một cái đĩa khổng lồ dành cho Saphira. Bữa tiệc diễn ra trong trạng thái mơ hồ của Eragon giữa tiếng cười nói chung quanh. Nó như tan đi trong niềm hoan hỉ với giọng cười tiếng nói bằng một ngôn ngữ xa lạ. Tất cả những âm thanh đó quay cuồng trong đầu, và men rượu faelnirv tỏa hơi ấm kháp toàn thân. Tiếng thụ cầm thì thầm thoang thoảng bên tai làm nó rùng mình xúc đọng. Chỉ đôi khi ánh mắt của đứa con gái nhỏ soi mói nhìn suốt bữa ăn làm nó hơi khó chịu. Eragon lẳng lặng nhìn Arya, tự hỏi thật sự nàngl à ai. Chợt Arya lên tiếng: - Kể cả thủ lãnh Ajihad cũng không hề biết. - Sao? - Bên ngoài Du Weldenvarden, tôi không hề cho ai biết nhân thân của mình. Chỉ Brom biết, vì ông ta đã từng gặp tôi tại đây, nhưng ông đã giữ bí mật theo yêu cầu của tôi. Eragon không biết Arya cắt nghĩa chỉ để cho nó hiểu hay vì ân hận đã giấu nó và Saphira chuyện này. - Có lần ông Brom bảo, những gì thần tiên không nói ra thường lại quan trọng hơn những gì họ nói. - Brom rất hiểu chúng tôi. - Nhưng vì sao nàng phải giấu? - Khi ra khỏi hoàng cung, tôi không muốn nhớ lại địa vị của mình nữa. Dường như địa vị đó cũng không thích hợp cho công việc của tôi với Varden và người lùn. Dù tôi trở thành ai thì có ảnh hưởng gì… với chuyện tôi là ai đâu. Arya liếc nhìn nữ hoàng. Eragon nói: - Đáng lẽ nàng nên cho tôi và Saphira biết. Hình như Arya cố kiềm chế khi nghe giọng trách móc của Eragon: - … Ta có đủ lý do để tin rằng tình trạng giữa ta và nữ hoàng sẽ tốt đẹp hơn, vả lại cho chàng biết cũng không thay đổi được gì. Eragon, tư tưởng của ta là của riêng ta. Eragon đỏ mặt vì ý nghĩa ẩn chứa trong những câu nói của nàng: Lý do gì, cô ta - một trí thức, một công chúa, một nàng tiên, và nhất là… lớn tuổi hơn cả cha và ông nội mình, dù mình chẳng hề biết họ là ai - lại phải giải bày tâm sự với mình, một thằng nhóc mười sáu tuổi của loài người? Nó lẩm bẩm: - Cuối cùng thì nàng đã hòa giải với mẫu hoàng rồi. Arya mỉm cười một cách khó hiểu: - Còn chọn lựa nào khác nữa đâu? Ngay lúc đó, con quạ Blagden nhảy từ trên vai nữ hoàng xuống giữa bàn, quay phải, quay trái gật đầu chào rất hề, rồi tiến tới trước mặt Saphira húng hắng ho, lấy giọng the thé hát: Rồng giống như xa bò Vì cũng có lưng. Rồng giống như cái bình Vì cũng có cổ Nhưng Xe chở rượu Bình đựng rượu Còn rồng… Ăn thịt nai. Các thần tiên lặng người chờ phản ứng của Saphira trước những câu hát lếu láo của con vẹt. Im lặng một lúc, ngẩng lên từ đĩa mứt đang ăn giở, Saphira phun một đám khói trùm kín Blagden, truyền ý nghĩ của nó cho mọi người cùng hiểu: “Rồng còn xực luôn cả mấy con chim nhép nữa đấy. Liệu hồn.” Các thần tiên phá lên cười khi thấy con quạ giật lùi, vỗ phành phạch hai cánh để xua khói. Nữ hoàng nói: - Ta xin lỗi vì những lời nhảm nhỉ của Blagden. Miệng lưỡi nó không biết ngọt ngào là gì, dù đã được tận tình chỉ dạy. Eragon hỏi Arya: - Con quạ này từ đâu tới vậy? - Đã có lần Blagden cứu mạng cha tôi, phụ hoàng Evandar. Trong một trận chiến với Urgal, người bị trượt chân, rơi kiếm. Đúng lúc đó, một con quạ sà xuống mổ mắt Urgal. Không ai biết vì sao con chim làm vậy, nhưng hành động đó đủ làm tên Urgal sơ sẩy và đem chiến thắng về cho cha tôi. Người đã trả ơn con chim bằng cách niệm thần chú cho nó có trí thông minh và được trường thọ. Tuy nhiên phép thuật đó có hai kết quả mà cha tôi không ngờ: Lông nó biến thành màu bạc và nó có khả năng tiên đoán được một số sự việc. - Nó có thể nhìn thấu tương lai sao? - Nhìn? Không đâu. Nhưng có lẽ nó cảm thấy được những chuyện sắp xảy ra. Thường thì nó nói những điều rất khó hiểu như… những câu sấm truyền vô nghĩa. Nhưng nên nhớ, nếu kho nào Blagden tới gần và nói với chàng điều gì, đó không là lời đùa cợt đâu. Lưu tâm đến những gì nó nói rất có ích cho chàng. Ngay sau khi bữa tiệc kết thúc, nữ hoàng đứng dậy nói: - Muộn rồi và ta cũng đã mệt, cần được nghỉ ngơi. Theo ta, Eragon và Saphira. Ta sẽ cho cả hai biết chỗ nghỉ đêm nay. Bà đưa bàn tay về phía Arya, rồi rời khỏi bàn. Arya theo sau. Vừa đi vòng qua bàn, chợt bắt gặp ánh mắt hoang dại của đứa con gái nhỏ, Eragon dừng lại bên nó. Hình dung con nhỏ - từ đôi mắt, mái tóc bù xù tới những cái nanh trắng nhởn - nhắc nhở Eragon đến một hình ảnh: - Mi là ma mèo, phải không? Con nhỏ nháy mắt, nhe nang cười. Eragon tiếp: - Ta đã gặp một đồng loại của mi, Solembum ở Teirm và tại Farthen Dur. Con ma mèo toét miệng cười: - A, cậu ta là một tay khá lắm đó. Nhưng trong khi loài người làm ta phát chán thì cậu ta lại khoái đi theo bà phù thủy Angela. Quay qua Saphira, con ma mèo gừ gừ trong họng những lời tán tụng. Saphira hỏi: - Mi tên là gì? - Này, cô rồng, nên nhớ là tại Du Weldenvarden, tên họ là những gì có khả năng mạnh mẽ nhất. Không ai cho cô biết đâu. Tuy nhiên… với những thần tiên nơi này, ta được biết đếnv ớin hững cái tên như Kẻ-quan-sát, Chân-siêu-tốc, Vũ-nữ-mộng-mơ, nhưng mi có thể gọi ta là Maud. Lắc mái tóc bù xù như cái bờm trắng, mèo ma giục giã: - Đuổi theo cho kịp nữ hoàng đi. Bà ta không ưa những kẻ ngốc nghếch, chậm chạp như rùa đâu. - Rất vui được gặp mi, Maud. Liệc nhìn Orik, Eragon thắc mắc không biết ông lùn được hướng dẫn đi đâu, rồi nó và Saphira rảo chân theo nữ hoàng kịp lúc bà vừa tiến tới một gốc y. Một cầu thang cuốn theo thân cây, dẫn lên những căn phòng hình cầu ẩn dưới tán lá. Nữ hoàng Islanzadí chỉ lên một tổ chim ưng bảo Saphira: - Mi phải bay lên đó thôi, cầu thang này “mọc” lên không có chút khái niệm nào dành cho rồng đâu. Quay qua Eragon: - Nơi này các kỵ sĩ rồng vẫn ở những khi lưu lại Ellesméra. Bây giờ ta trao lại cho kỵ sĩ. Đây là thừa kế dành cho người có tước vị tương xứng nhất. Không đợi Eragon kịp cám ơn, bà đã bước đi cùng Arya. Eragon nhìn theo cho đến khi hai người khuất dạng. “Để coi họ dành cho anh em mình những tiện nghi gì đây.” Nói dứt lời, Saphira cất mình vọt lên không, rồi lượn vòng vọng trên ngọn cây. Vừa bước lên bậc thứ nhất, Eragon thấy nữ hoàng đã nói đúng. Cầu thang “mọc” ra từ cây, dù lớp vỏ dưới chân nó nhẵn bóng, nhưng từ bậc thang tới tay vịn với những đường cong xoắn vào nhau như lưới nhện, cũng chỉ là môt phần của thân cây. Vì cầu thang được thiết kế cho thần tiên nên đối với Eragon là quá dốc, làm bắp chân và hông nó bắt đầu đau nhói. Ráng sức lên hết cầu thang, Eragon phải chống tay lên gối, gập mình thở. Bớt đau, nó đứng thẳng lại, nhìn quanh. Đây là một tiền sảnh hình tròn với một cái đôn đặt ngay chính giữa. Thành đôn xoắn ốc thành hình hai cánh tay chơi vơi, hai bàn tay không chạm được tới nhau. Ba khuôn cửa buông rèm: một dẫn vào phòng ăn đơn sơ, chứa tối đa khoảng mười người; một dẫn vào căn phòng nhỏ có một lỗ hổng trống rỗng trên sàn, Eragon không thể đoán công dụng làm gì; cửa cuối cùng mở vào một phòng ngủ lộ thiên, nhìn ra cảnh trí bao la của Du Weldenvarden. Lấy một cây đèn trên móc, Eragon bước vào phòng ngủ. Bóng nó chập chờn nhảy múa trên sàn. Trong phòng kê một cái giường - nằm ngửa trên giường có thể nhìn ngắm trăng sao -, một lè sưởi bằng gỗ xám lạnh ngắt, một cái tô khổng lồ đặt dưới sàn, giữa đống chăn mền, dành cho Saphira. Eragon đang ngắm nghía nơi nghỉ, Saphira nhẹ nhàng hạ cánh sát mí ngoài của phòng ngủ lộ thiên. Những cái vảy của ả rồng lóng lánh như những vì sao. Phía sau nó, những tia nắng cuối cùng xuyên qua cây rừng, làm những cọng lá thông rực sáng như sắt nung, đấy bóng tối về nơi chân trời màu tím thẫm. Từ trên cao nhìn xuống, thành phố giống như một chuỗi kẽ hở của một tán lá khổng lồ, như những hòn đảo tĩnh lặng trên đại dương mênh mông bất tận. Chu vi thật sự của hoàng cung hiển hiện rõ ràng: Ellesméra trải dài nhiều dằm về hướng tây bắc. Eragon bảo: “Nếu thủ lãnh Vrael đã từng sống tại một nơi bình thường như thế này, anh càng thêm khâm phục các kỵ sĩ. Đơn giản hơn vả những gì anh tưởng.” Như để trả lời, toàn thể ngôi nhà nhẹ đong đưa theo làn gió. Khi buông rèm cửa phòng ngủ, Eragon chợt thấy một cầu thang nơi góc phòng mà lần đầu quan sát nó đã bỏ sót: đó là một cầu thang cuốn dẫn lên một đường ống bằng gỗ đen. Tay cầm đèn, Eragon thận trong lần từng bước lên thang. Qua khỏi chứng sau bảy mét, nó tiền vào một văn phòng được trang trí bằng một bàn viết với bút lông, mực và giấy. Một ổ đệm dành cho rồng. Cuối phòng, một khoảng tường rộng mở để rồng có thể bay qua. “Saphira, tới đây coi nè.” “Cái gì? Cái gì mà rối lên vậy?” Khi những cái móng nặng nề của cô rồng tiến vào, làm những lớp vỏ cây kêu lên răng rắc, Eragon nháy mắt hỏi: “Ngạc nhiên chưa?” Saphira liếc đôi mắt màu ngọc quan sát chung quanh: “Em không biết trong căn phòng trống toang hoác như thế này, làm sao anh chịu lạnh cho nổi.” “Anh cũng chưa biết.” Eragon xem xét cả hai mặt tường, sờ ngón tay lên những hình ảnh khó hiểu mọc ra theo những bài ca của thần tiên. Ngón tay nó ngừng lại trên một khối u chạy dọc trên vỏ cây. Giật mạnh, một lớp vải trong mờ từ bức tường bung ra, Eragon kéo tấm vải sang một bên, nó phát hiện bên trong còn một đường rãnh kẹp chặt đầu miếng vải. Ngay khi miếng vải được cuốn chặt lại, không khí chợt ấm dần lên. Eragon bảo Saphira: “Có câu trả lời cho em rồi đó.” Trở lại phòng ngủ, Saphira cuộn tròn trên nệm, trong khi Eragon mở hành lý, thận trọng thu xếp khiên, bao tay và mũ sắt; rồi cở áo giáp da, áo lót. Ngồi trên giường, Eragon khoan khoái nói: “Chúng ta thành công rồi.” “Sau một chằng đường quá dài, nhưng anh nói đúng: chúng ta đã đạt mục đích rồi.” “Nhưng giờ cũng là lúc chúng ta phải xét lại xem có đáng không? Đôi khi anh tự hỏi: nếu chúng ta dùng thời gian đó ở lại giúp Varden thì có tốt hơn không?” “Eragon, anh biết là chúng ta cần phải huấn luyện thêm nhiều nữa. Ông Brom cũng chỉ mong chờ điều đó. Ngoài ra, chúng ta vượt qua chặng đường dài như thế để được chiêm ngưỡng Ellesméra mà nữ hoàng Islanzadí cũng xứng đáng quá đi chứ.” “Có thể. Em thấy tất cả những chuyện ơ rđây thế nào?” “Em không biết. Thần tiên có nhiều điều bí mật hơn ông br nhiều, họ lại còn có thể tạo ra nhiều thứ bằng phép thuật mà em tưởng như không thể nào làm nổi. Không biết bằng phương pháp nào, họ lại có thể làm cây mọc ra những hình dạng như thế được. Lại còn chuyện nữ hoàng chỉ cần vỗ tay bốp một tiếng, muôn vàn bông hoa là đà xuất hiện. Dễ nể thạt.” Eragon khoan khoái vì không phải chỉ mình nó bị choáng ngợp vì những chuyện đó. “Còn về… Arya?” ” Arya làm sao?” “Thật sự cô nàng là ai?” “Em thấy cô ta có gì thay đổi đâu. Chỉ ý nghĩ của anh về cô ta thay đổi thôi.” Saphira làu bàu, rồi ngả đầu lên hai chân trước. Lúc này bầu trời đã rực rỡ những vì sao, xa xa tiếng cú rúc mơ hồ đâu đó trong thành phố ngàn thông. Toàn thế giới êm đềm tĩnh lặng thiu thiu ngủ. Eragon trườn mình dưới tấm chăn mềm mãi, với tay định kéo chụp đèn xuống, bỗng khựng lại. Nơi nó đang nằm – cách mặt đất mấy chục mét – trong lòng thủ phủ của thần tiên, chính là cái giường thủ lãnh Vrael từng nằm! Ý nghĩ đó là một điều quá sức tưởng tượng với Eragon. Ngồi bật dậy, một tay xách đèn, một tay xách thanh Zar’roc, Eragon bò xuống nềm, nằm sát tấm thân ấm áp của cô rồng. Saphira chỉ thoáng ngạc nhiên rồi ậm ừ trong họng, xòe cánh che bớt ánh sáng, lim dim ngủ tiếp. Cả hai làm một giấc ngon lành giữa lòng hoàng thành Ellesméra. Eragon thức dậy lúc rạng đông. Nó vỗ sườn Saphira, để cô rồng nâng cánh lên. Vuốt tóc bằng mấy ngón tay, Eragon tới dựa vách vỏ cây, nhìn xuống. Ngàn ngàn hạt sương đêm phản chiếu nắng mai trên cành lá, làm cả khu rừng long lanh như một cánh đồng kim cương. Thình lính Saphira phóng vèo qua mặt, làm Eragon giật nảy mình. Cô nàng xoay tít như một con quay dưới tán lá trước khi vụt lên không lượn vòng, hớn hở reo vang: “Sáng rồi, tiểu huynh ơi!” Eragon cũng hớn hở cười, vui lây niềm nvui của cô em rồng. Trở lại phòng ngủ, Eragon thấy hai khay đầy đô ăn – toàn là trái cây. Kế bên là một chồng quần áo và một lá thư. Hơn tháng nay không nhìn mặt chữ, Eragon lẩm nhẩm mãi mới hiểu nổi những chữ được viết bằng đường nét rất bay bổng: “Xin chào Saphira Bjartskular và Eragon Khắc-Tinh của Tà-Thần. Tôi, Bellaen thuộc dòng tộc Miolandra, e dè xin lỗi Saphira vì bữa điểm tâm đạm bạc này. Thần tiên không săn bắn, nên tại hoàng cung hay bất cứ thành phố nào của chúng tôi, đều không có thịt. Nếu muốn, Saphira có thể đi săn như những rồng của các kỵ sĩ tiền bối xưa kia. Chúng tôi chỉ có một yêu cầu: xin để lại chiến lợi phẩm dư thừa lại rừng, để giữ cho nguồn nước và không khí của chúng tôi không vấy máu. Kỵ sĩ Eragon, trang phục này dành cho kỵ sĩ. Đây là quà tặng do chính Niduen thuộc dòng tộc Islanzadí tự tay dệt may. Cầu chúc cả hai: tâm an lành và luôn được các vì sao phù trợ. Ballaen du Hljodhr” Khi Eragon cho Saphira biết nội dung lá thư, cô ả tỉnh bơ: “Đâu có vấn đề gì, sau bữa tiệc đêm qua, em có thể nhịn ăn một thời gian mà. Em đâu phải đứa phàm ăn.” Điểm tâm xong, Eragon trải những quần áo mới lên giường: hai cái áo dài màu dâu xanh, cắt may đơn giản; một cặp bó chân đển Eragon bó bắp chân đau; ba đôi vớ mềm mãi tới nỗi cầm trên tay cứ tưởng như bằng chất lỏng. Chất lượng vải của thần tiên làm những phụ nữ khéo léo của làng Carvahall và những người thợ dệt tài năng của người lùn phải ngượng ngùng. Eragon rất mừng vì món quà này. Quần áo của nó đã tả tơi vì dầm mưa dãi nắng suốt từ khi ra khỏi Farthen Dur. Mặc áo xong, đang thắt dây giày, nghe tiếng gõ ngoài cửa rèm, Eragon cầm thanh kiếm, nói: - Mời vào. Ông lùn Orik vừa bước vào vừa nhín chân thử mặt sàn, rồi ngước nhìn trần bằng lá: - Cứ cho tôi ở trong một cái hang còn sướng hơn một tổ chim như thế này. Sao, đếm qua ổn chứ? - Ngủ ngon lành, còn ông? - Ngủ như chết. Ăn sáng rồi phải không? Vậy hãy theo tôi. Nữ hoàng, Arya và một vị thần tiên đang chờ cậu dưới gốc cây. Này, hình như có chuyện gì đó mà họ không cho mình biết. Tôi không rõ, họ muốn cậu làm gì, nhưng có vẻ quan trọng lắm. Nữ hoàng tỏ ra rất căng thẳng. Tôi… cứ báo cho cậu biết trước thì hơn. Eragon cám ơn rồi cùng Orik tiến ra cầu thang trong khi Saphira bay xuống đất. Trong chiếc áo choàng bằng lông thiên nga, nữ hoàng chào hỏi Eragon rồi bảo: - Theo ta. Vòng qua những con đường dường như ít được sử dụng tới, tất cả theo nữ hoàng tới vùng gần ngoại vi Ellesméra thưa thuớt cửa nhà. Đến trước một gò cao bằng gỗ, nữ hoàng dừng bước và cất tiếng nói bằng một giọng đầy quyền uy: - Trước khi đi xa hơn, cả ba – Orik, Eragon và Saphira - phải thề bằng cổ ngữ: không tiết lộ cho người ngoài biết những gì sắp thấy nếu chưa được phép của ta, Arya hoặc một ai đó sẽ kế vị ngai vàng. Orik hỏi: - Sao tôi lại phải thề? Saphira cũng thắc mắc: - Đúng rồi. Nữ hoàng không tin chúng tôi sao? - Vấn đề không phải là tin tưởng, mà là an toàn. Chúng ta phải bảo vệ chuyện này bằng mọi giá – đó là lợi thế lớn nhất để thắng Galbatorix. Orik đại nhân, nếu ông bị ràng buộc bởi lời thề cổ ngữ, ông sẽ không dám tiết lộ bí mật này. Ông đến đây để giám sát việc huấn luyện Eragon, nhưng nếu ông không tuyên thệ, ông có thể trở về Farthen Dur. - Vì tin rằng nữ hoàng không làm gì thương tổn tới người lùn và Varden, nếu không tôi sẽ chẳng thề bồi gì hết. Xin cho biết tôi phải nói sao đây? Trong khi nữ hoàng tập cho Orik phát âm chính xác những câu cần nói, Eragon hỏi Saphira: “Anh có nên thề không?” ”Còn chọn lựa nào khác nữa đâu?” Eragon nhớ lại câu nói của Arya hôm qua giống hệt vậy và nó chợt hiểu ý cô định nói gì: nữ hoàng không chừa cho ai một kẽ hở nào hò ng thoát khỏi sự điều khiển của bà. Sau Orik, nữ hoàng khẩn khoản nhìn Eragon. Nó ngập ngừng rồi cùng Saphira phát lời tuyên thệ. Tỏ vẻ hài lòng, nữ hoàng lên tiếng: - Ta cám ơn tất cả. Bây giờ chúng ta tiếp tục. Trên đỉnh gò, một thảm cỏ màu đỏ trải dàn tới bờ vực đá. Bề ngang vực đá chừng một dặm, chiều cao mất trăm mét dựng đứng trên khu rừng phía dưới. “Mình biết nơi này.” Eragon bàng hoàng nhớ lại hình ảnh của Togira Ikonoka. Thình thịch. Không gian rung chuyển vì chấn động. Thình thịch. Tiếng động nặng nề chầm chậm đó làm răng Eragon chạm nhau lộp cộp. Thình thịch. Nó vội nhét ngón tay bịt kín hai tai. Các thần tiên bất động. Thình thịch. Cỏ cây rạp xuống trước một cơn gió bất ngờ. Thình thịch. Từ dưới vực, một kỵ sĩ trên lưng con rồng khổng lồ óng ánh sắc vàng xuất hiện. Trong phòng ngủ của Baldor, Roran ngồi trên giường lắng nghe chú Horst nói: - Cháu muốn chú phải làm gì đây? Làm sao chúng ta chiến đấu trong khi cháu đau yếu như thế này? Những người khác cũng hết cả tinh thần tác chiến. Không thể trách họ, vì chính chú gần như cắn cả vào lưỡi khi nhìn thấy những con quái vật đó. Roran, dù không muốn, nhưng chúng ta vẫn lại bị kéo về tình trạng cũ. Nếu muốn, cháu có thể giết những tên lính còn lại, nhưng trước hết phải đợi cho sức khỏe hồi phục hoàn toàn đã. Vẫn còn nhiều người tin tưởng và tình nguyện theo cháu, nhất là từ sau vụ cháu đánh bại đám lính đêm qua. Thấy Roran vẫn lặng thinh, ông thở dài vỗ vai anh rồi ra khỏi phòng. Roran ngồi không chớp mắt. Cho đến giờ phút này, trong đời anh chỉ còn quan tâm đến ba điều: gia đình, nhà cửa và Katrina. Gia đình đã tiêu tan, nhà cửa bị thiêu hủy và Katrina giờ không biết ở đâu. Một tiếng nấc nghẹn ngào bật ra khỏi cổ, anh phải đối đầu với một hoàn cảnh quá ngặt nghèo: cách duy nhất để giải thoát Katrina là phải truy lùng bằng được hai tên Ra’zac. Muốn làm điều đó thì phải ra khỏi thung lũng Palancar này, như vậy cũng có nghĩa bỏ mặc làng Carvahall cho đám lính. Không thể rời xa làng, nhưng cũng không thể quên Katrina. Roran cay đắng nghĩ: “Con tim mình phải vì làng xóm hay vì tình yêu đây?” Những thiếu một trong hai, thì tất cả đều là vô nghĩa. Giết đám lính, có lẽ chỉ tránh được chuyện Ra’zac – có thể cả Katrina - trở lại. Nhưng rồi, khi quân tiếp viện của chúng kéo đến, chắc chắn Carvahall sẽ bị tiêu diệt. Roran cắn chặt răng vì vết thương trên vai nhức buốt. Anh nguyền rủa lão Sloan bằng những lời độc địa nhất. Mắt nhắm nghiền, Roran thầm nhủ: “Ước gì lão bị chúng ta ăn tươi nuốt sống như Quimby.” Anh miên man suy nghĩ: “Dù đi khỏi làng, làm cách nào mình tìm được Ra’zac? Ai biết chúng sống tại đâu? Ai dám chỉ điểm bầy tôi của triều đình?” Roran tưởng tượng mình lang thang, sục sạo trong những thành phố lớn, trong những ngôi nhà, trong những đám đông người xa lạ để tìm một dấu vết, một tia sáng nhỏ nhoi của người anh yêu. Nước mắt thống khổ, hãi hùng đầm đìa trên mặt, Roran như không còn thấy gì, ngoài một thế giới thê lương ảm đạm. Không biết bao lâu sau Roran mới bớt cơn nghẹn ngào nức nở. Anh lau nước mắt và cố thở một hơi dài những vội nhăn mặt đau đớn vì buồng phổi như bị mảnh thủy tinh cào rách. Dựa vào tường, Roran cố gắng bình tĩnh suy nghĩ. “Chắc chắn mình phải tìm ra được một giải pháp. Trước hết, rõ ràng là không thể tìm dấu vết Ra’zac một cách mơ hồ. Phải có ai đó biết chúng ở đâu, mà những người có thể trả lời câu hỏi này, có lẽ không ai ngoài Varden. Nhưng tìm được họ cũng khó như tìm những kẻ sát nhân kia. Anh mơ hồ nhớ lại những tin đồn từ cánh dân buôn và những người chuyên đặt bẫy thú rừng: Surda vẫn bí mật hỗ trợ cho Varden. Surda. Đất nước nằm tận cùng bên dưới vương quốc Alagaesia, nhưng đó chỉ là những gì Roran nghe nói, vì anh chưa bao giờ được thấy bản đồ Alagaesia. Với những điều kiện lý tưởng nhất, cũng phải mất nhiều tuần lễ cưỡi ngựa mới tới được nơi đó. Nhưng phải lẩn tránh lính triều đình, thời gian còn lâu hơn nhiều lần. Đường thủy dọc miền duyên hải là nhanh nhất, nhưng phải qua một chặng đường dài tới sông Toark, rồi từ đó tới Teirm mới có tàu thuyền. Đường quá xa và rất dễ bị lính bắt. Narda là cảng duy nhất anh biết, nằm tại bắc thành Teirm, thì lại phải vượt qua suốt chiều rộng núi Spine; một chuyện chưa hề nghe ai, kể cả dân săn bắn chuyên nghiệp, dám làm. Mọi ngả đường đều như vô vọng, nhưng bằng mọi giá phải cứu dân làng. Vì Roran tin chắc những người ở lại làng sẽ bị tiêu diệt. Nước mắt lại trào ra. “Nhưng nếu… nếu tất cả theo mình tới Narda, rồi Surda thì sao? Mình sẽ đạt được cả hai mục đích cùng một lúc. Cứu dân làng và truy lùng Ra’zac để cứu Katrina.” Ý tưởng táo bạo đó làm Roran choáng váng. Chỉ là thánh thần hay ma quỷ mới có ý tưởng đủ tài thuyết phục nông dân rời bỏ ruộng vườn; nhà buôn xa lìa cửa hiệu… nhưng nếu cố bám lấy ruộng vườn nhà cửa rồi sẽ ra sao? Bị giết hay trở thành nô lệ? Quân cách mạng Varden la những người duy nhất có thể cưu mang những kẻ tẩu thoát khỏi triều đình, và Roran tin chắc họ sẽ vui mừng vì thu phục được cả một làng theo cách mạng, nhất là những người có khả năng chiến đấu. Hơn nữa, việc đưa dân làng đến với Varden, Roran sẽ được họ tin tưởng và sẽ cho anh biết địa điểm của Ra’zac. Có thể họ còn cho anh biết, vì sao Galbatorix quyết tâm lùng bắt anh cho bằng được. Tuy nhiên, để kế hoạch có thể thành công, mọi công việc phải được hoàn tất trước khi quân cứu viện tới làng chỉ trong vài ngày nữa. Vài ngày để tổ chức cho mấy trăm con người ra đi!? Roran biết chỉ lý luận suông không đủ thúc dục bất kỳ ai ra đi; mà phải cần đến một tấm lòng sôi nổi nhiệt tình như một đấng cứu thế, để khuấy động cảm xúc mọi người, làm họ hoàn toàn tự nguyện rời bỏ tài sản để ra đi. Anh phải gây cho dân làng một lý tưởng; làm họ tin rằng, gia nhập Varden, chống lại bạo chúa là một hành động cao quý nhất trong đời. Hành động đó đòi hỏi một ý chí đầy khát vọng, không nề gian khổ, không sợ thiệt thân. Roran tưởng như thấy Katrina đang đứng trước mặt anh, xanh xao với đôi mắt u buồn màu hổ phách. Anh nôn nao nhớ hơi ấm từ làn da, hương thơm từ mái tóc của người yêu. Thấp thoáng sau nàng là gia đình anh, bạn bè, chòm xóm, những người sống và những người đã khuất của làng Carvahall. “Nếu không vì Eragon và… vì mình thì Ra’zac đã không đến đây. Mình phải giải thoát dân làng khỏi bàn tay triều đình, cũng như phải cứu Katrina thoát khỏi bàn tay của những con quỷ ăn thịt người kia.” Viễn ảnh đó như truyền sức mạnh cho Roran. Anh nhổm người khỏi giường, làm vết thương trên vai lại nhói đau. Lảo đảo dựa tường, Roran thầm nhủ: “Không bao giờ mình có thể sử dụng cánh tay phải được nữa sao?” Anh nghiến răng, ra khỏi phòng. Thấy Roran, bà Elain kêu lên: - Roran, cháu định làm gì vậy? - Theo cháu. Roran vừa nói vừa vượt qua bà. Baldor lo lắng đuổi theo: - Cậu mất nhiều máu lắm, còn mệt mà đi đâu… - Theo mình. Roran xuống thang, nghe tiếng chân người hấp tấp phía sau. Chú Horst và Albriech đang nói chuyện trước ngõ, ngạc nhiên ngẩng nhìn. Roran mở cổng vừa bước đi vừa bảo: - Theo tôi. Cả nhà theo Roran tới cuối làng. Gặp ai Roran cũng lập lại câu nói: “Đi theo tôi.” Rồi nhổ một cây đuốc cắm bên đường, Roran quay lại lối cũ, về trung tâm làng. Tay trái đưa cao ngọn đuốc, Roran gào lên: - Tất cả hãy theo tôi. Tiếng anh lồng lộng khắp làng. Mọi người đổ ra từ những ngôi nhà, những con ngõ tối tăm, xúm xít quanh Roran. Nhiều người vì tò mò, người khác vì cảm tình. Có người ngạc nhiên, có người giận dữ. Loring cùng ba người con trai đứng sát nhau. Đối diện mấy cha con ông là Birgit, Delwin và vợ chồng Fisk. Vợ chống chú Morn và thím Tara hấp tấp chạy ra từ quán rượu. Khi hầu hết dân làng Carvahall đều có mặt, Roran im lặng, nắm chặt bàn tay trái, cho đến khi móng tay cắt đứt lòng bàn tay, rồi xòe ra cho mọi người nhìn thấy máu tươi đang nhỏ giọt. - Đây là nỗi đau của tôi. Xin tất cả hãy nhìn cho kỹ, vì nỗi đau này sẽ là của các vị, nếu các vị không chiến thắng nổi cái số phận vô lý đang đè xuống chúng ta. Bạn bè, gia đình các vị sẽ bị xiềng xích, đem làm nô lệ tại những miền đất lạ, hoặc bị giết trước khi kịp nhìn thấy lưỡi gươm tàn bạo của tụi lính vung lên. Galbatorix sẽ đổ muối xuống đất đai của chúng ta, để muôn đời không thể cấy cày được nữa. Điều này tôi đã biết vì đã từng thấy rồi. Cha tôi bị những kẻ ăn thịt người giết chết. Em họ tôi đã phải bỏ trốn. Trang trại nhà tôi bị thiêu hủy. Vợ sắp cưới của tôi bị chính cha ruột cô ấy bắt cóc và chính ông ta đã giết chết Byrd rồi phản bội tất cả chúng ta. Quimby bị ăn thịt, kho cỏ bị đốt, tiếp theo là những cái chết của Parr, Wyglif, Ged, Bardrick, Farold, Hale, Garnet, Kelby, Melkolf, Albem và Elmund. Cũng như tôi, nhiều người trong các vị đã bị thương, không còn đủ khả năng bảo vệ gia đình nữa. Sức lực đó có còn đủ cho chúng ta quần quật khốn khổ trên đồng ruộng để kiếm miếng ăn hàng ngày nữa không? Có đủ để chúng ta đóng những đồng thuế cắt cổ cho triều đình không? Roran ngửa mặt nhìn trời cười sằng sặc như điên dại. Đám đông im phăng phắc. - Bây giờ tôi đã thấy rõ bản chất thật sự của triều đình và Galbatorix: chúng là loài ác quỷ. Galbatorix là một thứ sâu mọt kỳ quái nhất trên đời. Lão hủy diệt các kỵ sĩ và nền thịnh vượng mà chúng ta chưa từng có. Bề tôi của lão là bầy quỷ hiện lên từ đáy địa ngục. Nhưng lão bạo chúa có đủ hài lòng khi chỉ dày xéo chúng ta không? Chưa đủ. Lão đang tìm cách đầu độc khắp nước Alagaesia, làm chúng ta ngạt thở dưới cái áo choàng tàn ác của lão. Con cháu chúng ta sẽ phải sống dưới cái bóng tối tăm hắc ám của lão cho tới chết. Con cháu chúng ta sẽ trở thành những nô lệ, những con giun cái kiến để lại dày xéo, hành hạ cho hả hê. Trừ khi… Roran nhìn như xoáy vào những đôi mắt đang trợn trừng của dân làng. Chưa ai dám nói những lời như anh đang nói. Giọng Roran trầm xuống, nhấn mạnh đầy thách thức: - Trừ khi… trừ khi chúng ta đủ cam đảm chống lại tôi ác. Đúng, chúng ta đã chiến đấu với Ra’zac và quân triều đình. Nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì, nếu chúng ta sẽ phải chết trong âm thầm quên lãng, hay bị bắt đi làm nô lệ. Để điều đó không thể xảy ra, chúng ta không thể tiếp tục ở lại đây, không thể để bạo chúa tiêu diệt tất cả những điều tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta phải sống. Tôi thà cam chịu bị móc mắt, chặt tay, còn hơn phải nhìn thấy Galbatorix đắc thắng. Tôi chọn sự đấu tranh. Tôi chọn bước lên từ nấm mồ, để vùi thây kẻ thù xuống chính nấm mồ đó. Tôi chọn việc đi khỏi làng. Tôi sẽ vượt qua núi Spine để đi thuyền tới Surda và gia nhập quân cách mạng Varden. Đó là những người đã kiên cường tranh đấu để giải phóng chúng ta thoát khỏi vòng áp bức này. Dân làng có vẻ bàng hoàng khi nghe ý kiến táo tợn của Roran. Anh vẫn tiếp tục nói: - Nhưng tôi không muốn đi một mình. Hãy đi cùng tôi. Đi cùng tôi và chúng ta sẽ tìm cơ hội mới cho một cuộc sống tổt đẹp hơn. Hãy vứt bỏ xiềng xích đang ràng buộc các vị tại nơi này. Roran chỉ từng người: - Một trăm năm nữa, các thi nhân, những người kể chuyện sẽ nhắc tới ai? Horst… Birgit… Kiselt… Thane…; họ sẽ kể lại câu chuyện bi tráng này. Họ sẽ cất cao giọng hát “Khúc hùng ca Carvahall”, vì chúng ta là ngôi làng duy nhất đủ can đảm thách thức triều đình. Nước mắt kiêu hãnh long lanh trong mắt Roran: - Còn gì cao quý hơn việc xóa sạch dấu vết Galbatorix trên đất nước Alagaesia này nữa chứ? Chúng ta sẽ không còn phải sống trong phập phồng sự hãi bị giết, thậm chí bị chúng ăn tươi nuốt sống, hay ruộng vườn bị thiêu hủy. Hoa màu chúng ta thu hoạch là của chúng ta. Sông suối núi rừng sẽ trở thành rừng vàng biển bạc. Chúng ta sẽ được an toàn, hạnh phúc và giàu có. Đó mới là số mệnh dành cho chúng ta. Roran nhìn vết thương rỉ máu trên bàn tay, rồi nắm lại. Chờ đợi đám đông lên tiếng. Tất cả đều im lặng. Sau cùng, anh nhận thấy họ muốn anh tiếp tục nói; họ muốn nghe thêm về những nguyên nhân và tương lai mà anh đã gợi ra. Trong trí Roran lại sáng lên hình ảnh Katrina. Khi bóng tối mon men quanh vùng sáng của cây đuố, Roran ráng đứng thẳng người, nói tiếp. Anh thổ lộ hết nỗi lòng. Không giấu diếm điều gì. Roran chỉ cố để mọi người cũng hiểu và chia sẻ những ý nghĩ và cảm xúc của anh, sau cùng anh bảo: - Chúng ta đàn trên bờ vực thẳm. Chúng ta phải tiến tới, tìm một chỗ đứng trong đoàn thể Varden, nếu chúng ta muốn chính mình và con cháu được sống tự do. Giọng Roran vừa phẫn nộ vừa ngọt ngào, nhưng đầy nhiệt tình và thuyết phục cho đến khi thấy mọi người thấu hiểu, anh nhìn bạn bè, hàng xóm cương quyết nói: - Tôi sẽ khởi hành trong vòng hai ngày nữa. Nếu không ai muốn theo, tôi vẫn đi một mình. Nói xong, Roran cúi đầu bước khỏi vùng sáng của ánh đuốc. Vầng trăng khuyết lấp ló sau những đám mây. Một cơn gió nhẹ lướt qua làng Carvahall lặng ngắt. Từu đám đông, Birgit lách mình vào vùng sáng. Chị sửa lại khăn trùm đầu cho bớt bối rối rồi ngập ngừng lên tiếng: - Hôm nay tôi đã thấy… Cười ngượng ngùng, Birgit lắc đầu: - Khó nói quá… nhất là sau khi nghe Roran. Chẳng là… thật tình tôi không thích kế hoạch của cậu, nhưng… tôi lại thấy đó là một điều cần thiết. Tuy nhiên lý do của tôi lại khác: để trả thù cho cái chết của chồng, tôi sẽ quyết săn lùng cho được tụi Ra’zac. Tôi sẽ đi với cậu, đem cả mấy đứa con theo. Nói xong, Birgit bước trở lại đám đông khuất trong tối. Một phút im lặng trôi qua, rồi vợ chồng Delwin – Lenna choàng lưng nhau tiến ra. Lenna nhìn Birgit nói: - Tôi hiểu chị, Birgit. Chúng tôi cũng muốn trả thù, nhưng hơn thế nữa, chúng tôi muốn tất cả con cái chúng ta đều được sống yên ổn. Vì vậy, chúng tôi cũng sẽ đi. Những góa phụ có chồng bị giết đều tiến lên, đồng ý với Lenna. Dân làng rì rầm bàn tán với nhau, rồi tất cả lại đứng im chờ đợi. Dường như không còn ai khác sốt sắng với chuyện ra đi. Roran thông cảm, vì chính anh cũng đang cố suy ngẫm về trách nhiệm của mình. Sau cùng Horst tiến ra, trầm ngâm nhìn ngọn lửa: - Không nên bàn tán thêm nữa… Chúng ta cần có thời gian suy nghĩ. Mọi người phải tự quyết định cho mình. Ngày mai… ngày mai là một ngày mới, có thể mọi chuyện sẽ rõ ràng hơn. Ông lắc đầu, rút cây đuốc, dụi xuống đất, để mọi người tan hàng, tản mát về nhà dưới ánh trăng. Trên đường về, Roran cùng Albriech và Baldor giữ một khoảng cách với ông Horst để thoải mái chuyện trò. Nhưng thấy hai anh em Baldor không nói năng gì, Roran hỏi: - Các cậu nghĩ còn ai đi nữa không? Mình nói năng thế nào? Albriech hô hố cười: - Quá hay. Nhưng Baldor nghiêm giọng nói: - Roran, cậu có thể thuyết phục một quái thú Urgal trở thành nông dân rồi đấy. - Ồ không. - Thật mà. Cậu vừa nói xong, mình như sẵn sàng vồ lấy cây giáo, chạy vào núi Spine với cậu ngay. Không phải riêng mình cảm thấy vậy đâu. Vấn đề không phải là ai sẽ đi, mà là còn ai ở lại không. Những gì cậu nói, mình chưa từng nghe bao giờ. Roran nhăn mặt. Mục đích của anh là thuyết phục mọi người chấp nhận kế hoạch của anh, chứ không phải theo anh vì tình cảm cá nhân. Như trước kia, anh đã cảm thấy khó chịu, nhưng lúc này Roran biết ơn tất cả những gì có thể giúp anh giải cứu được Katrina và dân làng. Baldor bảo Albriech: - Cha chúng mình sẽ mất nhiều dụng cụ đấy. Albriech buồn bã gật đầu. Roran biết đối với người thợ rèn tất cả đều làm thủ công, thì những dụng cụ truyền thống đều là những vật cha truyền con nối, hoặc là vật từ thầy trao lại cho thợ học nghề. Số dụng cụ của người thợ rèn là thước đo sự phát đạt và tài năng của họ. Roran thầm nhủ: “Tuy vậy, những mất mát, chịu đựng của chú Horst cũng như mọi người thôi. Chỉ ân hận một điều, Alriech và Baldor sẽ mất những tài sản đáng lẽ được hưởng thừa kế từ cha.” Về tới nhà, Roran vào ngay phòng Baldor. Nằm trên giường, anh vẫn còn nghe tiếng chuyện trò nho nhỏ của chú Horst và thím Elain. Vừa lơ mơ vào giấc ngủ, Roran vừa tưởng tượng những bàn tán giống như thế đang diễn ra khắp mọi nhà trong làng Carvahall, để quyết định số phận của anh và cũng là của chính họ. Sáng hôm sau, nhìn qua cửa sổ, Roran thấy mười hai người đàn ông trong làng lầm lũi đi lên phía thác Igualda. Anh xuống thang gác, đi vào bếp. Chú Horst đang ngồi bên bàn, tay xoay xoay ly rượu: - Chào. Roran đáp lại, rồi bẻ một miếng bánh mì trên kệ, tới ngồi đối diện với ông. Nhìn đôi mắt đỏ ngầu và hàm râu rối bù của chú Horst, Roran đoán chắc suốt đêm qua ông không hề chợp mắt. - Chú có biết dân làng đi lên thác làm gì không? - Bàn chuyện với gia đình họ. Nhiều người đã đi từ sáng sớm. Đặt mạnh ly rượu xuống bàn, ông nói tiếp: - Roran, cháu không nghĩ là khi đưa ra ý kiến rời bỏ làng là sẽ ra sao? Toàn thể dân làng đang nháo nhác cả lên. Cháu đẩy chúng ta vào chân tường, với chỉ một đường thoát: đó là con đường cháu đã vạch ra. Có người căm cháu vì vậy, tất nhiên một số khác vốn sẵn đã oán trách cháu đem tai họa này vào làng. Roran thầm nghĩ: “Lỗi tại Eragon đã đem viên đá về, đâu phải mình?”, nhưng anh chỉ lẳng lặng hỏi: - Còn những người khác: Horst nhăn mặt nhấp ngụm rượu: - Những người khác rất quý cháu. Không bao giờ chú ngờ có ngày con trai của Garrow làm chú xúc động bằng những lời nói như thế. Thật sự cháu đã làm được điều đó đấy, nhóc ạ. Ông chỉ chung quanh, nói: - Tất cả những thứ này chú gây dựng cho thím và hai đứa con trai của chú suốt bảy năm trời. Thấy cây đà trên cửa kia không? Chú bị dập ba ngón chân mới đưa lên được đó. Vậy mà cháy biết sao không? Chú sắp bỏ lại tất cả chỉ vì những lời nói của cháu đêm qua. Roran nín lặng, vì chính đó là điều anh muốn. Anh không cảm thấy ân hận khi khuyên mọi người bỏ tài sản để ra đi. Chỉ có cách đó mới thoát khỏi ách áp bức của triều đình. Horst chống một khuỷu tay lên bàn, nghiêng người nhìn Roran bằng đôi mắt đen rực sáng: - Nhưng phải nhớ một điều, nếu thực tế trở thành giấc mơ hão huyền của cháu, cháu sẽ phải trả giá. Để mọi người hy vọng, rồi làm người ta thất vọng, họ sẽ hủy diệt cháu ngay. Roran không lo. Anh nghĩ: “Tới được Surda, tất cả sẽ được Varden tiếp đón. Bằng không, tất cả đều chết, xóa hết nợ trần.” Anh hỏi: - Thím đâu? Chú Horst đứng dậy, khoác áo lên đôi vai vạm vỡ, trả lời: - Thím ở sau nhà. Bây giờ chú đến xưởng thu dọn, món nào đem theo món nào cất giấu hay phá bỏ. Không để thứ gì lại cho lính triều đình. - Cháu giúp chú một tay. - Không. Việc này chú chỉ có thể làm với Albriech và Baldor thôi. Cái xưởng đó là tất cả cuộc đời của chú và… hai đứa nó. Vả lại một tay thế kia thì làm sao phụ chú việc nặng được. Ở nhà coi thím có nhờ gì không. Sau khi ông đi, Roran ra sau nhà. Thím Elain đang nói chuyện với bà lang Gertrude bên một đống củi lớn mà chú Horst đã dự trữ cho suốt năm. Bà Gertrude đặt tay lên trán Roran nói: - A, vậy mà ta cứ sợ cháu lên cơn sốt sau những xúc động đêm qua. Những người trong gia đình cháu là những con bệnh mau hồi phục nhất làng này. Ta không thể tin vào mắt mình khi Eragon bị lột hết da chân mà chỉ sau hai ngày đã đi lại được. Nào, để ta coi vai cháu sao rồi. Khi bà Gertrude tháo hết lớp băng vải, Roran từ từ duối thẳng cánh tay cứng đờ sau mấy ngày kẹp giữa hai nẹp hỗ. Mấy ngón tay bà lang khéo léo gỡ lớp thuộc cao. - Ôi trời! Bà Gertrucde kêu lên. Mùi tanh hôi bốc ra làm Roran cũng suýt lộn mửa. Anh nghiến răng, nghiêng đầu nhìn xuống vai: dưới lớp thuốc cao, da trắng bệch, căng phồng lên như một con dòi khổng lồ; vết cắn của Ra’zac nhăn nhúm khép lại theo những mũi khâu, chỉ còn ri rỉ mấy giọt nước trong. Bà lang trơn mắt, le lưỡi nhìn Roran: - Khiếp thật! Gần khỏi hẳn rồi, nhưng ngại là da sẽ làm độc. Không sao, nếu cần, ta sẽ đốt. Nói xong bà Gertrude băng bó lại vết thương. Roran hỏi; - Tay phải cháu hoạt động được rồi chứ? - Khi nào vết thương chưa lành hẳn, tốt nhất là phải thận trọng. - Chiến đấu được chứ ạ? - Nếu cần phải choảng nhau, ta đề nghị cháu tập đánh bằng tay trái cho… chắc ăn. Vừa cười nói, bà vừa âu yếm vỗ lên má Roran, rồi tất bật ra về. “Ôi! Cánh tay của mình!” Roran thầm than khi nhìn cánh tay băng bó như không còn thuộc về mình nữa. Cho đến lúc này anh mới nhận ra vết thương thể chất ảnh hưởng đến tâm lý và công việc đến thế nào. Roran vẫn hãnh diện về cơ thể cường tráng của mình, sự bất lực của cánh tay phải làm anh hoảng hốt, nhất là nếu vết thương này cứ kéo dài mãi. Kể cả khi có thể sử dụng cánh tay phải, thì vết sẹo này luôn là một dấu ấn chẳng tốt đẹp gì. Thím Elain nắm tay Roran dắt vào nhà. Vò nắm lá bạc hà, bỏ vào ấm rồi vừa đặt lên bếp lò, bà vừa hỏi Roran: - Cháu thật tình yêu con nhỏ, phải không? - Ai ạ? Thím mỉm cười: - Katrina chứ ai. Thím đâu có mù. Thím biết hết những gì cháu đã làm vì nó và điều đó làm thím rất hãnh diện. Không phải người đàn ông nào cũng có thể làm được như thế đâu. - Nhưng tất cả cũng sẽ là vô ích, nếu cháu không cứu được cô ấy. - Bằng cách này hay cách khác, thím tin chắc, cháu sẽ làm được. Thôi, bây giờ chúng ta phải bắt đầu sửa soạn cho chuếyn đi. Trong khi thím thu gom đồ làm bếp, cháu lên lầu đem hết quần áo, chăn mùng xuống dùm thím. - Đem xuống đâu ạ? - Để tất cả trong phòng ăn được rồi. Vì đường lên núi quá dốc và rừng thì lại quá rậm rạp, không thể di chuyển bằng xe, nên Roran thấy đồ đạc mang theo chỉ có thể giới hạn với hết khả năng mỗi người, cũng như hai con ngựa của chú Horst. Tuy nhiên một trong hai con ngựa còn phải chở thêm thím Elain đang mang bầu. Suy từ hoàn cảnh nhà này, Roran tin chắc còn nhiều gia đình không đủ ngựa để vận chuyển đồ đạc, trẻ con, người già, người đau yếu. Nhưng vấn đề là cho đến lúc này vẫn chưa biết rõ những ai sẽ ra đi, ngoài Birgit và Delwin. Vì vậy, sau khi đóng gói toàn thức ăn và vật dụng làm lều, thím Elain bảo Roran rảo một vòng xem ai còn chỗ trống có thể gửi thêm một số đồ đạc thím muốn mang theo không. Dù mọi người đang tất bật ngược xuối trên đường làng, nhưng trong những ngôi nhà lại bao trùm một vẻ lặng lẽ khác thường. Người nào cũng cúi gằm mặt trầm ngâm, khi bước qua nhau. Tới nhà Orval, Roran phải gõ cửa tới ba lần, chờ cả phút, cửa mới hé mở. Orval bước ra, xoay xoay tẩu thuốc trong lòng bàn tay, vẻ bối rối: - Ồ, Cây-Búa Dũng-Mãnh hả? Xin lỗi để cậu đợi lâu vì tôi đang mắc bận. Cậu cần gì? Roran tóm tắt việc thím Elain nhờ. Orval ngó trời bảo: - Đồ đạc nhà tôi cũng nhiều lắm, không còn chỗ trống đâu. Thử hỏi quanh đây coi, hoặc nếu cần thì tôi còn hai cái xe bỏ không đó. Roran nghe tiếng bàn ghế xê dịch và tiếng nồi soong loảng xoảng trong nhà. - Anh đang sửa soạn đi? - Ồ… tôi cũng chưa biết… chúng tôi… chúng tôi thu xếp để sẵn sàng… phòng xa lỡ chúng lại tấn công… - À… Roran thất thểu tiến đến nhà Kiselt. Anh thấy ngay là không ai muốn tỏ ra là đi hay ở, mặc dì rõ ràng là họ đang sửa soạn. Và… tất cả đều cư xử với Roran một cách vị nể trong từng cử chỉ nhỏ nhặt làm anh áy náy: họ nói những lời chia buồn vì hoàn cảnh bất hạnh của anh; khi anh đưa ra một ý kiến thì họ lẩm bẩm tán dương; khi anh nói chuyện thì họ trân trọng lắng nghe. Cứ như những việc làm của anh đã làm anh trở thành đáng sợ, xa cách, đối với những con người anh quen biết từ tuổi ấu thơ. “Mình bị đóng dấu rồi.” Vừa thầm nhủ, Roran vừa lõm bõm lội qua con đường đất bùn. Ngừng lại, Roran soi mình trong một vũng nước, thử xem điều gì đã làm anh trở nên khác thường đến thế. Phản chiếu từ mặt nước, Roran thấy một con người quần áo rách rưới, lốm đốm toàn máu khô; lưng gù xuống với cánh tay băng bó treo trước ngực. Râu ria phủ kín từ má tới cổ, tóc bù xù như tổ quạ trên đầu. Nhưng đáng sợ nhất là đôi mắt. Dôi mắt thụt sâu vào hốc, làm diện mạo anh như người bị quỷ ám. Từ trong hai cái hốc u tối đó, anh như người bị quỷ ám. Từ trong hai cái hốc u tối đó, anh như người bị quỷ ám. Từ trong hai cái hốc u tối đó, tia nhìn của anh rực sáng như thép nung, tràn đầy sự ám ảnh của những mất mát, phẫn nộ, khát khao. Một nụ cười nhếch mép làm khuôn mặt Roran càng thêm hắc ám. Anh rất thích hình ảnh này và bây giờ anh hiểu phải làm gì để gây uy thế với dân làng. Nhe hai hàm răng trắng nhởn, Roran tự nhủ: “Mình sẽ dùng hình ảnh này để hủy diệt tụi Ra’zac.” Roran vừa định quay về, Thane bước tới nắm cánh tay anh: - Cây-Búa Dũng-Mãnh, gặp cậu tôi mừng quá. - Thật sao? Roran tự hỏi, chẳng lẽ chỉ qua một đêm mọi người đều thay đổi đến thế sao? Thane sôi nổi nói: - Từ khi chúng ta tấn công bọn lính, phải thú thật là tôi… hãi quá. Lúc nào tim cũng đập như tiếng trống. Chân tay cứ run lên bần bật, người thì rũ ra như sắp chết. Tôi tưởng mình bị kẻ nào đầu độc chứ. Nhưng… sau khi nghe những gì cậu nói tối qua, tôi tỉnh táo ngay, chẳng đau ốm gì sất. Tôi lại còn thấy mục đích và ý nghĩa sống trên đời nữa. Tôi… không thể cắt nghĩa sự khiếp hãi ấy đến thế nào, nhưng… cậu đã cứu tôi thật đấy. Tôi rất mang ơn cậu. Cần gì, cậu cứ bảo, tôi sẽ làm ngay. Roran xúc động, nắm chặt tay Thane: - Cám ơn, cám ơn anh Thane nhiều lắm. Thane cúi đầu, nước mắt lăn trên má, lặng lẽ quay đi để Roran đứng lại giữa đường. Roran tự hỏi: “Mình đã làm gì vậy?” Roran bước vào quán rượu Bảy-bó-củi mù mịt khói của chú Morn. Đứng ngay dưới cặp sừng Urgal gắn trên cửa, anh cố làm quen với bóng tối trong nhà, miệng nói: - Xin chào. Cửa sau bật mở, thím Tara hấp tấp bước ra, theo sau là chú Morn. Cả hai cau có nhìn Roran. Tara chống bàn tay mập ú bên sườn, hỏi: - Đến đây làm gì? Roran nhìn sững, cố tìm hiểu vì sao thím ta tỏ ra ác cảm với mình như vậy. - Chú thím có định đi cùng cháu không? Tara quát lên: - Không phải việc của cậu. Ôi có chứ! Nghĩ vậy, nhưng Roran chỉ nói: - Tùy chú thím. Nhưng thím Elain nhờ cháu hỏi, nếu chú thím định đi, và nếu còn chỗ trống, cho thím ấy gửi thêm ít đồ lặt vặt. Morn cũng lớn tiếng, chỉ lên bức tường sau quầy gắt: - Chỗ trống nào? Mười hai thùng rượu quý ủ suốt mấy tháng đông, mẻ rượu cuối cùng của Quimby đó, để vào đâu? Bỏ lại cho tụi lính triều đình chắc? Ông ngồi phịch xuống rên rẩm: - Trời đất ơi! Mười hai năm quần quật từ khi ông già tao chết, tao chưa một ngày nghỉ bán. Vậy mà mày và thằng Eragon gây ra cớ sự này… Nghẹn ngào gần như không thở nổi, Morn đưa tay áo lên lau mặt. Tara vội choàng tay ôm chồng, chỉ mặt Roran: - Ai cho phép cậu làm loạn làng nước lên bằng những lời giả dối đó. Đi khỏi đây, vợ chồng tôi sống bằng gì. Ông Morn không bò lê trên cánh đồng giống như cậu được. Cũng không có nghề rèn như Horst hay nghề mộc của Gedric. Nếu dân làng đi hết thì vợ chồng tôi cũng chết đói. Đằng nào cũng chết. Cậu hại chúng tôi rồi. Roran lặng nhìn từ khuôn mặt đỏ bừng giận dữ của Tara, tới vẻ ngơ ngẩn thất thần của Morn, rồi mở cửa, thấp giọng nói: - Lúc nào cháu cũng coi chú thím như những người thân, cháu không thể để triều đình sát hại chú thím được. Bước ra khỏi quán, Roran khép chặt áo vét. Suốt dọc đường đi đầu óc anh rối bời suy tính. Tới giếng nhà Fisk, Roran ghé vào uống miếng nước, tình cờ gặp Birgit. Nhìn Roran vật lộn một tay với cái gầu, chị ta giật lấy sợi dây, kéo nước, rồi đưa cho Roran. Anh uống ngụm nước mát lạnh, rồi trao gầu lại cho Birgit: - Tôi rất mừng khi biết chị quyết định cùng đi. - Tôi hiểu cái sức mạnh thúc đẩy cậu ra đi. Vì chính tôi cũng bị sức mạnh đó thôi thúc: đó là, cả tôi và cậu đều mong ước truy lùng tụi Ra’zac. Tuy nhiên, sau khi việc đó hoàn tất, tôi sẽ tính sổ với cậu về cái chết của Quimby, chồng tôi. Roran, đừng bao giờ quên điều đó. Chị ta thả lại cái gầu đầu nước xuống lòng giếng làm vang lên những tiếng lanh canh va chạm vào thành đá. Nhìn Birgit quẩy quả đi, Roran mỉm cười, vui mừng hơn lo ngại. Vì anh biết cho dù tất cả dân làng Carvahall bỏ cuộc hay chết, Birgit vẫn sẵn lòng hợp tác để… truy lùng bằng được Ra’zac, những kẻ đã ăn thịt chồng chị. Rồi, sau đó - nếu… còn sống sót – anh sẽ phải bị Birgit tính sổ hay phải giết chị ta. Đó là cách duy nhất để giải quyết những vấn đề như thế này. Buổi chiều chú Horst và hai con trai về nhà, vác theo hai cái bao nhỏ. Bà Elain hỏi: - Có vậy thôi sao? Horst lẳng lặng gật đầu, đặt hai bao lên bàn, mở lớp vải dính đầy dầu mỡ: bốn cái búa, bốn cái kẹp gắp than, một cái niền sắt, một cái bễ khổ trung, và cái đe hơn một ký. Khi cả nhà ngồi ăn cơm tối, Albriech và Baldor bàn tán là thấy nhiều người lén lút sửa soạn cho chuyến đi, Roran lắng nghe để tìm hiểu ai đi ai ở, ai có thể cho mượn ngựa, lừa, ai cần giúp đỡ. Baldor nói: - Vấn đề lớn nhất là thực phẩm. Chúng ta không thể vận chuyển quá nhiều, săn bắn trên núi Spine khó lòng nuôi nổi mấy trăm con người. Chú Horst xua xua ngón tay, nuốt hết đậu lúng búng đầy miệng rồi nói: - Không săn được. Phải đem gia súc theo. Gom tất cả trừu dê lại, mọi người có thể qua được mấy tháng. Roran bảo: - Nhưng sợ sói ăn thịt. - Chú lại sợ chúng lang thang vào rừng hơn. Tuy nhiên, chuyện chăn giữ gia súc là chuyện vặt. Đừng lo. Roran dành nguyên ngày hôm sau phụ giúp bất cứ người nào cần giúp. Anh nói ít, chỉ chứng tỏ bằng những hành động thiết thực hữu ích cho dân làng. Khuya hôm đó, Roran mệt nhoài lăn lên giường, nhưng trong lòng tràn đầy hy vọng. Sáng tinh mơ, Roran thức giấc với một tinh thần chứa chan kỳ vọng. Anh rón rén xuống thang,ra khỏi nàh, nhìn lên rặng núi im lìm trong sương sơm. Hơi thở Roran tỏa ra những làn khói trắng, nhưng anh vẫn cảm thấy ấm áp vì trong lòng rộn ràng bao ý nghĩ, trong đó có cả sự sôi nổi lẫn lo sợ. Ăn điểm tâm qua loa xong, chú Horst dắt ngựa ra trước nhà. Roran cùng Baldor và Albriech chất đồ lên lưng ngựa. Sau đó, Roran nâng ba-lô đeo lên vai, xuýt xoa khi sợi dây da ghì xuống vết thương. Mấy ngón tay chú Horst ngập ngừng cầm quả nắm khi đóng cửa, rồi chú choàng vai thím Elain nói nhỏ: - Thôi, chúng ta đi nào. Trêm đường qua làng, Roran thấy những gia đình mặt mày ủ dột, đứng quanh những túi đồ chất đống. Trên lưng những con trừu và chó cũng có những túi đồ buộc chặt. Trẻ con, nước mắt nước mũi nhễ nhãi, ngồi trên lưng lừa. Những con gà vỗ cánh rối rít trong những cái lồng treo hai bên hông ngựa. Nhìn thành quả của mình, Roran không biết nên khóc hay cười. Tới cuối phía bắc làng, cả nhà ngừng lại chờ. Mấy phút sau, Birgit xuất hiện cùng Nolfavrel và mấy đứa em của nó. Bên ngoài hàng rào phòng thủ phía đông, gia đình Ridley vừa lùa bầy trừu tiến vào, vừa oang oang nói: - Đem hết chúng ra khỏi làng là hay nhất. Chú Horst đồng ý ngay: - Chính xác. Sau đó là vợ chồng Delwin – Lenna và năm đứa con; gia đình Orval; ông Loring và mấy con trai; nhà Kiselt; vợ chồng Calitha – Thane. Những bà mới trở thành góa phụ thì vây quanh Birgit. Trước khi mặt trời lên tới đỉnh núi, hầu hết dân làng gần như đều có mặt. Tuy nhiên vẫn còn thiếu một số người. Vợ chồng chủ quán rượu, Morn và Tara, cùng nhiều người khác vẫn chưa thấy đâu, và khi Ivor xuất hiện lại không mang theo đồ đạc gì. Roran vội hỏi: - Anh ở lại? Ivor ngập ngừng, rùng mình khoanh hai tay gầy nhom trước ngực cho ấm: - À… ừ… còn ngựa Svart không chịu đi. Nó sợ núi Spine lắm, mà tôi lại không có con để lo cho nó khi lên núi, vì vậy… Vả lại tôi cũng không thể bỏ lại nhà cửa ruộng vườn được. - Nếu tụi lính trở lại, anh làm sao? - Choảng cho chúng một trận nhớ đời chứ sao. Roran cười khan nắm tay Ivor, cả hai đều ngầm hiểu chuyện gì sẽ xảy ra cho những người ở lại. Ngay lúc đó lão Ethlbert gầy gò hộc tốc chạy tới trước đám đông gào lớn: - Lũ ngu! Sao lại nghe theo lời của một thằng điên? Đui mù hay sao mà không thấy nó đưa các người vào chỗ chết? Phải cố lẻn qua tụi lính, tìm đường tới thành phố Therinsforrd chứ, ít ra ở đó còn có dân mình. Surda toàn là tụi dã man nước ngoài, tới đó làm chi? Nhổ toẹt bãi nước bọt xuống đất, Ethlbert quày quả trở về nhà. Roran lo lắng nhìn quanh, sợ những lời nói của Ethlbert làm mọi người bỏ về theo lão. Nhưng tất cả đều vẫn đứng tại chỗ, thì thầm bàn tán. Không muốn kéo dài thời gian để mọi người có thể đổi ý, Roran hỏi chú Horst: - Chúng ta còn phải chờ bao lâu nữa? Ông bảo hai con: - Albriech, con và Baldor chạy một vòng coi còn ai đi nữa. Nếu không, chúng ta lên đường. Hai anh em co giò chạy ngược vào làng. Nửa tiếng sau, Baldor trở lại cùng vợ chồng Fisk – Isold và mấy con ngựa mơi mượn được. Isold rối rít vẫy tay chào mọi người, cười ha hả: - Xin lỗi tất cả, tại ông Fisk nhà mình loay hoay mãi, không biết đem theo bào hay đục. Cứ cầm cái này lên, lại bỏ cái kia xuống. Roran sốt ruột hỏi ông Horst: - Chẳng hiểu Albriech làm gì mà lâu thế? - Nó kia rồi. Albriech xuất hiện như con lạc đà với ba thùng rượu lặc lè trên lưng, làm Baldor và nhiều người phì cười. Vợ chồng Morn và Tara cũng gập mình dưới những bao đồ; lại thêm con lừa và hai con dê, cũng cõng mấy bao nặng, lóc cóc theo sau. Roran vừa ngạc nhiên vừa bực mình: - Thế kia thì làm sao lết nổi một dặm đường. Đồ ăn không mang, mang toàn rượu, lấy gì mà sống? Chú Horst chặc lưỡi: - Thực phẩm thì không phải lo, nhưng rượu cũng là món ăn tinh thần đấy chứ. Rồi cháu sẽ thấy. Roran hỏi anh em Baldor: - Còn ai nữa không? - Đủ rồi! Chỉ có bây nhiêu thôi. Vậy là ngoài Ivor, còn ba gia đình quyết định ở lại thung lũng Palancar: Ethlbert, Parr và Knute. “Đành vậy, mình không thể ép buộc họ được.” Nghĩ vậy, rồi Roran thở dài nói: - Vậy thì không còn gì phải chờ nữa. Chúng ta đi thôi. Đám đông xôn xao hẳn lên, sau cùng thì phút giây rời bỏ làng đã tới. Chú Horst và những người đàn ông xô bức tường rào bằng cây, đặt những tấm gỗ ngang chiến hào để mọi người và gia súc có thể vượt qua. Rồi ông ngoắt tay bảo Roran: - Cháu đi trước dẫn đường. - Khoan. Fisk kêu lên, chạy tới hãnh diện đưa cho Roran một cây gậy bằng gỗ sơn trà đen bóng, dài hơn mét rưỡi, cán cầm là một cục rễ sần, đầu kia được bịt thép bằng phẳng. Anh thợ mộc cười cười: - Mình mới làm đêm qua đó. Chống gậy này, cậu đi lại dễ dàng hơn. - Cám ơn anh. Đẹp quá. Roran nói và biết tất cả mọi người đang hướng về mình, anh ngẩng mặt nhìn lên núi. Sợi đai ba lô xiết trên vết thương. Phía sau là nấm mồ người cha yêu quý và tất cả những gì hằng thân thuộc trong đời. Phía trước, rặng núi sừng sững vươn tới trời xanh như chặn ngang ý chí của anh. Nhưng anh quyết không bỏ cuộc, không quay lưng. Vì Katrina. Ngẩng cao đầu, Roran tiến bước. Tiếng gậy khuya vang trên những tấm gỗ bắc cầu khi anh vượt qua chiến hào, ra khỏi Carvahall, dẫn đầu dân làng tiến tới vùng hoang dã xa xôi… Thình thịch. Con rồng xuất hiện chói chang như mặt trời, đôi cánh khổng lồ phát ra những luồng gió xô dạt Eragon và những người đang đứng bên bờ vực Tel’naeír. Những vẩy vàng trên toàn thân con rồng sáng rực như ánh lửa, rắc vô vàn những đốm sáng lung linh khắp mặt đất, cỏ cây. Nó to lớn hơn Saphira nhiều - lớn đủ để đoán nó phải đến vài trăm năm tuổi - cổ, đuôi và bốn chân đồ số rất tương xứng với thân hình. Trên lưng con rồng vàng đó là một kỵ sĩ trong trang phục trắng. Eragon ngửa mặt, hai gối quị xuống đất. “Mình không còn đơn độc nữa rồi.” Trong lòng vừa thư thái vừa kính sợ, nó cảm thấy từ nay không còn một mình gánh vác trách nhiệm nặng nề phục vụ Varden chống lại Galbatorix nữa. Đây là một trong những chiến sĩ bảo vệ từ xa xưa, nay hồi sinh để hướng dẫn cho nó. Đây là một biểu tượng sống và là một di chúc của truyền thuyết mà nó từng được dạy bảo từ lúc lớn khôn. Và đây chính là sư phụ của nó. Khi con rồng vàng đảo mình hạ cánh, Eragon như nghẹn thở, nước mắt ứa ra: chân trái của rồng bị chặt đứt, chỉ còn trơ lại một mẩu màu trắng. Một cơn trốt cuốn cành lá quay cuồng trên đỉnh đồi, khi còn rồng khép cánh, đầu xuống. Vị kỵ sĩ thận trong xuống khỏi lưng rồng, ở phía chân phải trước còn lành lặn của nó. Hai tay ôm ngực, ông tiến lại Eragon. Đó là một tiên ông với mái đầu màu bạc, không thể đoán được ông già đến ngần nào, vì dấu hiệu tuổi tác chỉ biển hiện bằng vẻ mặt đầy từ bi và u buồn của ông. Eragon lên tiếng: - Thưa Osthato Chetowa - Hiền-nhân sám hối… theo lời người, cháu đã đến đây. Giật mình nhớ lại, Eragon đặt hai ngón tay lên môi, nói tiếp: - Atra eserní ono thelduin. Lão kỵ sĩ mỉm cười, kéo Eragon đứng dậy. Đôi mắt ông nhìn Eragon hiền hậu tới nỗi nó như bị cuốn hút vào đôi mắt thăm thẳm tình nhân ái của ông. - Này, Eragon Khắc-Tinh của Tà-Thần, tên thật của ta là Oromis. Vẻ đau khổ của nữ hoàng Islanzadí chuển thành phẫn nộ, bà cao giọng bảo: - Ông biết chuyện Eragon, nhưng không cho ta biết. Vì sao ông phải giấu ta? Oromis quay nhìn nữ hoàng: - Tôi giữ im lặng là vì không chắc Arya, Eragon và Saphira có sống sót để về tới đây được không; tôi không muốn gây cho nữ hoàng một hy vọng quá mong manh như vậy. Nữ hoàng quay đi, vạt áo lông thiên nga phất phới như đôi cánh: - Ông không được phép dấu diễm ta những tin tức như thế. Nếu biết, ta đã cho quân đi bảo vệ Arya, Eragon và Saphira tại Farthen Dur và hộ tống chúng an toàn về tận đây rồi. Oromis buồn rầu mỉm cười: - Tôi không giấu diếm lệnh bà điều gì, chính lệnh bà đã không muốn nghe, không muốn nhìn gì hết. Nếu lệnh bà thu hình ảnh để quan sát – vì đó là bổn phận của lệnh bà - hẳn lệnh bà đã phát hiện những xáo trộn trên đất nước Alagaesia và đã biết sự thật về Arya và Eragon. Chuyện lệnh bà không quan tâm tới Varden và người lùn vì nỗi buồn riêng, còn có thể thông cảm nổi, nhưng còn Brom? Còn Vinr Alfakyn? Những Hảo-Bằng-Hữu cuối cùng của thần tiên? Nữ hoàng Islanzadí, bà đã nhắm mắt làm ngơ với thế giới chung quanh, bỏ bê triều chính, tôi không thể liều lĩnh để bà đi xa hơn với một sai lầm khác nữa. Hai vai xuôi xuống, mặt nhợt nhạt, nữ hoàng lẩm bẩm: - Ta thật sai lầm. Một làn mây nóng hổi phả lên Eragon khi con rồng vàng cúi thấp đầu, quan sát nó bằng đôi mắt long lanh sáng: “Eragon Khắc-Tinh của Tà-Thần, chúng ta gặp nhau là một duyên lành. Tên ta là Glaedr.” Giọng trầm, rõ ràng là của một anh rồng đực, rầm rầm trong trí Eragon như núi long đá lở. Eragon đặt hai ngón tay lên môi, nói: “Rất hân hạnh.” Glaedr quay qua ngắm Saphira. Cô ả im thin thít, cổ vươn ra cứng đơ khi bị con rồng vàng đánh hơi hai má và đôi cánh: “Cô em toàn hơi hướm loài người. Tất cả những gì em biết về nòi giống mình đều chỉ do bản năng hướng dẫn, tuy nhiên em biết về nòi giống mình đều chỉ do bản năng hướng dẫn, tuy nhiên em có một trái tim thật sự của loài rồng.” Trong khi hai con rồng âm thầm trao đổi, ông lùn Orik tự giới thiệu với Oromis: - Thật tình, sự hội nghộ này vượt ngoài cả mong ước của tôi. Ngài là một niềm vui bất ngờ trong thời đại u tối này, thưa kỵ sĩ. Đặt nắm tay lên trái tim, Orik nói tiếp: - Nếu ngài không kết tội tôi quá đường đột, mạn phép đại diện cho đức vua và dòng tộc, tôi xin ngài một ân huệ. Oromis gật đầu: - Tôi sẵn lòng, nếu điều đó nằm trong quyền hạn của tôi. - Vậy thì, xin ngài cho biết: Vì sao ngài ẩn dật suốt bấy nhiêu năm? Bàn-tay-bạc, ngài biết sự có mặt của ngài là điều cần thiết đến ngần nào mà. - A… quá nhiều nỗi khổ tồn tại trên cõi đời này, một vĩ nhân cũng không đủ khả năng xoa dịu những đau đớn đó. Lý do ẩn dật của tôi, chỉ vì tôi không dám liều mạng, vì lỡ tôi chết trước khi những trứng rồng trong tay Galbatorix nở ra, thì đâu còn ai truyền lại những bí kíp cho những kỵ sĩ mới, và như vậy việc triệt hạ Galbatorix càng thêm gay go gấp bội lần. - Đó là lý luận của ngài. Nhưng những lời đó nên dành cho một kẻ hèn nhát thì hơn. Vì trứng rồng có thể không bao giờ nở. Chẳng lẽ ngài trốn tránh mãi sao? Tất cả đều chết lặng, chỉ còn tiếng nghiến răng ken két của con rồng vàng. Nữ hoàng giận dữ: - Orik, nếu ông không là khác của ta, ta sẽ tự tay chém ông vì tội vô phép đó. Oromis giang hai tay: - Không. Tôi không phản đối những lời thích đáng đó của Orik. Nhưng Orik, ông nên biết một điều: Glaedr và tôi không còn khả năng chiến đấu nữa. Glaedr bị tàn tật, còn tôi… Lão kỵ sĩ đưa tay sờ lên thái dương: - Tôi cũng là một kẻ tật nguyền. Khi bị bắt, những tên phản đồ đã hủy nội công của tôi, vì vậy tôi chỉ có thể dạy và học, không còn sử dụng được phép thuật, trừ những câu thần chú rất tầm thường. Dù có cố gắng vô cùng, nội công hầu như không hồi phuc. Nếu phải lâm trận tôi chỉ trở thành một gánh nặng; còn nếu bị bắt, chúng sẽ dùng tôi để gây sức ép với mọi người. Do đó, tôi tìm cách tránh khỏi ảnh hưởng của Galbatorix là vì mong muốn điều tốt lành cho tất cả, mặc dù tôi luôn khao khát được công khai đối đầu cùng bạo chúa. Eragon lẩm bẩm: - Tàn-Mà-Không-Phế! Orik áy náy cúi đầu: - Xin tha lỗi cho tôi. - Ông đừng ngại, không có chi đâu. Oromis nói với ông lùn, rồi đặt tay lên vai Eragon, quay lại nữ hoàng: - Xin phép lệnh bà. - Đi đi. Hãy làm tròn nhiệm vụ của ông. Glaedr hạ mình sát đất, Oromis lẹ làng leo lên chân, rồi thót lên yên trên lưng con rồng vàng. - Đi nào Eragon, Saphira. Chúng ta còn nhiều chuyện phải bàn. Con rồng vàng phóng mình khỏi miệng vực, rồi bay vút lên cao. Orik và Eragon quyến luyến nắm tay nhau. Ông lùn căn dặn: - Hãy đem vinh dự về cho bộ tộc. Leo lên yên của Saphira, Eragon cảm thấy như sắp lên đường đi xa, và cần phải nói đôi lời chia tay với những người ở lại. Tuy vậy nó chỉ nhìn Arya hớn hở mỉm cười. Cô hơi nhíu mày, vẻ lo lắng. Rồi Eragon biến mất trên bầu trời, sau mấy sải cánh đầy phấn khởi của Saphira. Hai con rồng cùng nhau bay nhiều dặm theo những triền núi trắng, về phương bắc. Niềm hân hoan của Saphira truyền qua, làm cảm xúc của Eragon càng thêm sôi nổi. Tới mặt phẳng trên một bờ vực, có bức tường đá lởm chởm ngăn phía sau, hai con rồng hạ cánh, Từ bờ vực, mmột con đường mòn dẫn tới bực thêm của một căn lều mọc ra từ chính giữa bốn thân cây. Một trong bốn cây đứng bên bờ một dòng suối nhỏ, róc rách từ rừng thẳm tuôn ra. Căn lều bé nhỏ như lọt thỏm giữa những cặp xương sườn khổng lồ của con rồng vàng. Oromis lên tiếng: - Ta sống bên bờ vực tính mịch này để có thể suy nghĩ và luyện tập. Xa khỏi hoàng cung và những phiền muộn của mọi người, tâm trí ta được thư thái hơn. Ông vào lều, rồi trở ra với hai ghế đẩu và hai cốc nước lã trong veo. Eragon nhấp từng ngụm nước, ngắm cảnh chung quanh để che dấu sự bối rối. Nó hồi hộp tự nhủ: “Mình đang được ngồi trước mặt một lão tiền bối kỵ sĩ rồng.” Saphira nằm kế bên, mắt gắn vào Glaedr, móng nhè nhẹ cào trên nền đất. Yên lặng kéo dài mười phút… nửa tiếng… rồi một tiếng… Eragon lẳng lặng nhìn bóng mặt trời trôi qua. Rồi Oromis chợt lên tiếng: - Con đã học được giá trị của sự kiễn nhẫn. Điều đó rất tốt. Một lát say Eragon mới tìm được câu trả lời: - Hấp tấp không thể theo dõi được nau rừng. - Chính xác. Đưa bàn tay cho ta coi. Ta nghe đồn rất nhiều về bàn tay này. Eragon lột găng, để vị tiên ông cầm cổ tay nó bằng những ngón tay gầy gò, khô khốc của ông. Quan sát những vết chai sần trên lòng bàn tay Eragon, ông nói: - Cho ta biết, nếu ta không nói đúng nhé. Con cầm lưỡi hái, cầm cày nhiều hơn cầm kiếm, dù con rất quen sử dụng cung tên. - Dạ. - Ít khi vẽ hoặc viết. Có lẽ chẳng bao giờ viết thì đúng hơn. - Khi ở thành Teirm, ông Brom có dạy chữ cho con. - Hừ, hình như con còn tỏ ra quá bất cẩn với sự an toàn của bản thân mình nữa. - Thưa tiền bối, vì sao người lại nói vậy? - Đừng gọi ta là tiền bối. Con có thể gọi ta là sư phụ bằng ngôn ngữ này, hoặc ebrithil bằng cổ ngữ. Con cũng phải lễ phép với Glaedr vì chúng ta đều là thầy của con. Giọng ông dịu dàng nhưng nghiêm khắc. Eragon cúi đầu: - Con hiểu rồi, thưa sư phụ. - Mi cũng vậy, Saphira. Eragon thấy rõ ràng Saphira phải cố nén tự ái để thốt lên: “Dạ, thưa sư phụ.” Lão tiên gật đầu: - Eragon, bất kỳ ai bị những vết thương như thế, nếu không đau khổ trong tuyệt vọng, cũng chiến đấu như một kẻ điên rồ, hoặc mù quáng đâm đầu vào hiểm nguy. Con có chiến đấu như một kẻ mất trí không? - Thưa không. - Ta thấy con cũng không tỏ ra tuyệt vọng, mà còn ngược lại. Con nghĩ sao? Eragon ôn lại tất cả những gì xảy ra với nó từ khi còn ở quê nhà, tới khi lang thang trên đường thiên lý, để lý giải thái độ của nó: - Con xin thưa là, khi con đã chọn một con đường, hay một công việc thì con phải làm cho trọn với bất cứ giá nào... nhất là khi những người thân yêu của con gặp cảnh hiểm nghèo. - Con có dám đương đầu với những việc đầy thử thách cam go không? - Thưa sư phụ, con rất mong được thử thách. - Vậy là con cảm thấy cần tự đặt mình vào những tai ương để kiểm tra khả năng chính mình sao? - Thưa, con muốn vượt qua thử thách, nhưng con đã từng gặp nhiều cam go, đủ để hiểu rằng làm cho mọi việc trở thành khó khăn hơn là ngu ngốc. - Tuy vật, con đã chọn con đường truy lòng Ra’zac, thay vì con đường nhẹ nhàng hơn, là ở lại thung lũng Palancar. Và… con đã quyết định tới nơi này. - Đó là điều chính đáng, cần phải làm, thưa sư phụ. Lại thêm nhiều phút lặng im. Eragon không thể đoán được đằng sau vẻ mặt bình thản của Oromis, sư phụ nó đang nghĩ gì. Sau cùng ông hỏi: - Khi ở Tarnag, có ai tặng cho con một món gì - một món trang sức nhỏ, cái áo giáp hoặc một đồng tiền xu chẳng hạn. Eragon lần trong áo, lấy ra sợi dây chuyền với cái búa bằng bạc nhỏ xíu: - Gannel làm cái này cho con theo lệnh đực vua Hrothgar, để ngăn không cho ai có thể thu được hình ảnh của con và Saphira. Họ sợ Galbatorix biết được ngoại hình con… Sao… sao sư phụ biết? - Vì ta đã không thể liên lạc được với con. - Khoảng một tuần trước, có người đình thu hình ảnh con. Chắc là sư phụ? Ông lắc đầu: - Từ sau lần đầu tiên thu hình ảnh con và Arya, ta không cần đến phương pháp thô thiển đó để tìm con nữa. Ta liên lạc với con bằng ý chi như khi con bị thương tại Farthen Dur. Cầm lá bùa của Gannel lên, ông lẩm nhẩm nhiều câu thần chú, rồi trao lại cho Eragon: - Ta đã hủy sức mạnh ngăn ta liên lạc với con. Giữ lấy, đây là một món quà quý giá rất có ích cho con. Vì sao con có mặt tại đây, Eragon? - Để hoàn tất việc huấn luyện cho con. - Con nghĩ là còn cần phải học tập thêm những gì? - Học tập thêm về phép thuật và tác chiến, Ông Brom đã không đủ thời gian dạy con tất cả những gì ông biết. - Phép thuật, kiếm thuật và những khả năng khác đều vô ích, nếu con không biết phải ứng dụng khi nào. Điều này ta sẽ dạy con. Nhưng vì quyền năng của Galbatorix biến ảo vô cùng, ta sẽ giúp con và Saphira hiểu rõ phải theo nguyên tắc nào để chống trả. Như vậy, con sẽ không tạo những cơ may thành vận rủi. Con phải tìm hiểu thêm về bản thân mình: Con là ai? Điều gì con có khả năng làm được? Đó là lý do con có mặt tại đây. Saphira hỏi: “Bao giờ chúng con được bắt đầu?” Oromis vừa mở miệng trả lời, bỗng ông cứng người, cái cốc trên tay rơi xuống đất. Mặt ông đỏ bừng, mấy ngón tay nắm chặt vạt áo. Nhưng hiện tượng hãi hùng đó chỉ thoáng qua, Eragon chưa kịp có phản ứng, Oromis đã bình thản lại. Eragon lo lắng, rụt rè hỏi: - Sư phụ có sao không? Gượng cười, Oromis bảo: - Đừng lo, không sao đâu. Thần tiên chúng ta thường tự dối mình là chúng ta bất tử, nhưng chúng ta có tránh nổi những bệnh tật thể xác đâu. Điều đó vượt qua cả sự hiểu biết của phép thuật. Ông thở dài tiếp: - Mấy chục năm qua, ta đã tự phong bế nội thương bằng hàng trăm câu thần chú; lớp này chồng chất lên lớp khác, đến nỗi ta không còn kiểm soát được sức mình. Ta cố sống để chứng kiến sự ra đời của những con rồng cuối cùng và để được dưỡng dục những kỵ sĩ tái sinh từ đống điêu tàn do sai lầm của chúng ta. - Còn được bao lâu… - Còn được bao lâu nữa thì ta chết, phải không? Còn thời gian, nhưng thời gian quý giá đó quá ngắn ngủy cho thầy trò mình, con ạ. Nhất là Varden đang trông ngóng sự giúp đỡ của con. Saphira, thầy trả lời câu hỏi của con đây: chúng ta sẽ bắt đầu chương trình huấn luyện ngay bây giờ. Và các con sẽ phải gấp rút học tập hơn bất cứ một kỵ sĩ nào trong quá khứ hoặc sau này, vì thầy sẽ cô đọng sự hiểu biết trong mấy chục năm để dạy các con trong vòng mấy tháng. Cố vượt qua sự e ngại, bối rối làm hai má đỏ bừng, Eragon ngập ngừng nói: - Sư phụ… sư phụ… nên biết về… khiếm khuyết của con. Con cũng… tàn tật như sư phụ. Ánh nhìn của Oromis đầy thương yêu, nhưng giọng ông rất cứng rắn: - Eragon, người ta chỉ tàn tật, khi người ta tự coi mình là tàn tật. Ta hiểu con đang cảm thấy thế nào, nhưng phải giữ lạc quan. Sống tiêu cực còn nguy hại hơn bất kỳ chấn thương thể chất nào. Ta nói với con những lời này bằng chính kinh nghiệm bản thân. Than thân trách phận, không giúp gì cho con và cả Saphira. Ta và các pháp sư sẽ chẩn bệnh và tìm cách chữa trị cho con, nhưng đồng thời, việc huấn luyện cho con sẽ vẫn tiến hành như thường. - Con đau kinh khủng. Đau có thể chết được, nếu… - Không, Eragon. Con không chết được đâu. Thầy biết rõ sức chịu đựng của con mà. Tuy nhiên chúng ta đều có trách nhiệm. Con có trách nhiệm với Varden. Ta có trách nhiệm với con. Chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm chỉ vì sự đau đớn của một chấn thương. Tuy nhiên, Eragon, con phải lãnh trách nhiệm này một cách hoàn toàn thoải mái tự nguyện. Không có ai hay một điều gì làm con muốn hy sinh cho người đó hay điều đó sao? Ý nghĩ đầu tiên là Saphira, nhưng Eragon làm chuyện này không phải là vì cô em rồng. Cũng không vì Nasuada hay Arya. Vậy điều gì đã thúc dục nó tới đây? Khi phải tuyên thệ với Nasuada, nó mong đó sẽ là một điều tốt cho Roran và những người còn kẹt trong vòng tay của triều đình. Nhưng họ có là lý do đủ cho nó phải trải qua nỗi thông khổ này không? “Có. Họ là lý do chính đáng để mình hy sinh, vì mình là người duy nhất có cơ hội cứu họ, và mình sẽ không bao giờ thoát khỏi cái bóng của Galbatorix, nếu họ chưa được tự do. Và còn vì đó là mục đích duy nhất của mình trong đời. Nếu không, còn gì khác để mình làm nữa đây?” Eragon rùng mình khi mở miệng nói: - Nhân danh những người vì họ mà con chiến đấu: những người đang khốn khổ dưới ách thống trị tàn bạo của Galbatorix. Con tự nguyện chấp nhận trách nhiệm – dù phải chịu gian khổ, đau đớn -, con xin thề sẽ quyết tâm học tập chuyên cần hơn bất kỳ đệ tử nào trước kia của sư phụ. Oromis gật đầu: - Ta không đòi hỏi gì hơn. Đứng dậy, cởi áo cho ta coi vết thương. Saphira vội nói: “Khoan, sư phụ. Ông Brom có được biết sư phụ sống tại đây không?” - Tất nhiên. Hắn là đệ tử của ta từ khi còn là một đứa trẻ ở Ilirea. Ta rất vui mừng vì còn đã làm cho hắn một ngôi mộ đàng hoàng. Brom đã sống một đời bất hạnh, hiếm khi được ai đối xử ân cần như vậy. Ta mong hắn được an lành về cõi vĩnh hằng. Eragon ngập ngừng hỏi: - Hẳn sư phụ cũng biết Morzan? - Hắn là đồ đệ của ta, sư huynh của Brom. - Còn Galbatorix? - Ta chính là một trong những tiền bối đã từ chối cấp cho hắn một con rồng khác, sau khi con rồng của hắn bị giết chết. Nhưng, không. Ta chưa bao giờ có được sự bất hạnh làm sư phụ hắn. Chính hắn đã đích thân truy lùng, lần lượt hạ sát từng vị ân sư của mình. Còn rất nhiều điều muốn hỏi, nhưng Eragon đứng dậy cởi nút áo, bảo Saphira: “Hình như chúng mình khong bao giờ có thể biết hết bí ẩn về ông Brom.” Rùng mình vì lãnh, Eragon đứng thẳng người ưỡn ngực. Oromis đi quanh nó, thảng thốt k kêu lên khi thấy vết sẹo rạch ngang lưng Eragon, rồi hỏi: - Arya và những người Varden không tìm cách nào tẩy xóa dấu vết này đi sao? - Arya đã định làm, nhưng… Ngập ngừng, Eragon không thể diễn tả cảm xúc của mình cho sư phụ hiểu. Sau cùng nó nói: - Bây giờ nó đã trở thành một phần của cơ thể con, cũng như vết sẹo của Murtagh là một phần của anh ấy. - Vết sẹo của Murtagh? - Murtagh cũng có một cái sẹo giống như con. Cha của Murtagh là Morzan đã phóng thanh Zar’roc trúng lưng khi anh ta còn nhỏ. Oromis trầm ngâm nhìn Eragon một hồi lâu rồi mới gật đầu nói: - Cơ bắp của con tốt lắm, người con lại không bị lệch về một bên như những kiếm khách khác. Con thuận cả hai tay sao? - Không hẳn vậy. Sau khi bị gãy cổ tay tại thành Teirm, con đã cố tập tác chiến bằng tay trái. - Tốt. Như vậy sẽ rút ngắn được thời gian tập luyện. Nào, nắm hai tay ra sau lưng, rồi nâng lên càng cao càng tốt. Eragon làm theo lời ông, nhưng tư thế này làm vai nó đau buốt. Nó chỉ có thể để hai bàn tay chạm vào nhau. - Bây giờ cúi xuống trước, giữ đầu gối thật thẳng. Cố chạm hai bàn tay lên mặt đất. Động tác này còn lmà Eragon khổ sở hơn. Nó đứng lom khom như một người gù, gân gót chân như bị lửa đốt, hai bàn tay lửng lơ trên mặt đất. - Ít ra thì con còn có thể co duỗi chân tay, ta không mong gì hơn thế. Rồi con sẽ được tập một số động tác để cơ thể mềm dẻo lại. Quay qua Saphira, Oromis bảo: - Rồng, ta cũng cần biết những khả năng của con. Ông bảo nó tho hành một số động tác phức tạp, như vừa uốn vặn thân hình dài thòng, khúc khuỷu của nó đủ tư thế lạ lùng vừa nhào lộn trên không. Toàn những động tác Eragon chưa từng thấy Saphira thực hành bao giờ. Chỉ có vài động tác – như lượn vòng xoắn ốc, rồi bật ngửa ra sau – là vượt quá khả năng của cô rồng cái. Khi Saphira hạ cánh, Glaedr bảo: “Anh e là chúng ta quá nuông chiều theo ý các kỵ sĩ. Nếu từ khi mới nở, rồng bắt buộc phải tự lo cho mình trong thiên nhiên – như em và tổ tiên chúng ta – thì có lẽ cũng sẽ có được tài năng khéo léo như em.” Oromis nói ngay: - Không. Cho dù nếu Saphira được nuôi dạy theo những phương pháp đã được định hình tại Vroengard, nó vẫn sẽ là một tay cự phách trên không. Ta chưa hề thấy một con rồng nào thích nghi với bầu trời tuyệt vời như vậy. Saphira e lệ chớp mắt lia lịa. Cô ả khép cánh, giấu mặt vào hai chân trước. Oromis đứng thẳng người, rồi suốt mấy tiếng đồng hồ ông cặn kẽ hỏi từng chi tiết về kiến thức của Eragon và Saphira. Từ thực vật tới luyện kim, cho đến vấn đề y học, mặc dù Eragon chỉ có một nhúm kiến thức về lịch sử và cổ ngữ. Cuộc chất vấn làm Eragon nhớ lại những câu hỏi sát hạch của ông Brom trong những ngày dài dong duổi tới Teirm và Dras-Leona. Khi nghỉ ăn trưa, Oromis mời Eragon vào nhà. Nơi ở của ông thật trống trải, chỉ đơn sơ vài vật dụng thật sự cần thiết cho vấn đề ăn uống, vệ sinh và tu dưỡng. Trên hai bức tường là những hốc chứa hàng trăm cuốn giấy. Kế bên bàn, treo một bao kiếm bằng vàng, rực rỡ như những cái vảy của Glaedr, và một lưỡi kiếm long lanh ngũ sắc. Chính giữa mặt sau cửa ra vào, trên miếng ván cao một gang, rộng hai gang tay là phong cảnh một thành phố nằm bên bờ dốc, chìm ngập trong ánh trăng vàng tháng chín. Mặt trăng loang lổ bị đường chân trời cắt đôi và nhô khỏi mặt đất, lớn như quả núi, giống một mái vòm vấy bẩn. Bức tranh sống đồng từng chi tiết, lúc đầu Eragon tưởng đây là một cửa sổ ma thuật. Nó hỏi: - Cảnh này ở đâu, thưa sư phụ? Thoáng một giây căng thẳng, Oromis nói: - Con phải cố ghi nhớ lấy cảnh này, vì chính đây là trung tâm sự khốn khổ của con. Hình ảnh con đang nhìn đã từng là thành phố Ilirea của chúng ta. Nó bị thiêu hủy và bỏ hoang trong Du Fyrn Sklblaka - Chiến tranh với loài rồng - rồi trở thành thủ đô của vương quốc Broddring, và bây giờ là thành phố hắc án Uru’baen. Ta làm cái fairth này trong đêm chúng ta bắt buộc phải ra đi trước khi Galbatorix tới. - Chính sư phụ đã vẽ cái… fairth này? - Ồ, không phải là vẽ. Fairth là hình ảnh được ghép lên bề mặt một phiến đá, bằng phép thuật. Phong cảnh trên cánh cửa kia chính xác là Ilirea khi ta niệm thần chú. - Còn… vương quốc Broddring là gì? Oromis trợn mắt kinh ngạc: - Con không biết sao? Eragon lắc đầu. Ông hỏi như quát: - Sao lại không biết? Xét từ hoàn cảnh hãi hùng của người dân nước con dưới ách thống trị của Galbatorix, ta có thể hiểu con đã phải lớn lên trong tối tăm ngu muội. Nhưng ta không ngờ Brom lại xao lãng, không dạy bảo con về những vấn đề đơn giản liên quan đến lịch sử mà những đứa trẻ của thần tiên, thậm chí cả người lùn đều biết. Đám trẻ con của Varden còn biết nhiều về quá khứ hơn con. - Ông Brom quan tâm đến sự sống của con hơn là dạy con về những người đã chết. Những lời nói của Eragon làm Oromis trầm ngâm một lúc, rồi mới nói: - Thầy xin lỗi. Ta không phản đối sự tính toán của Brom. Nhưng ta lo ngại, nếu kiến thức của con quá thiếu, e không đủ thời gian học hỏi. Lấy bánh mvì à một bát trái cây từ một kệ khuất sau tường, ông đặt lên bàn, rồi nhắm mắt, vừa nhai vừa thủng thẳng nói: - Vương quốc Brodding là quê hương của loài người trước khi kỵ sĩ suy tàn. Sau khi Galbatorix hạ sát Vrael, hắn bay tới Ilirea với các phản đồ và truất phế vua Angrenost, rồi tự xưng vương. Vương quốc Brodding trở thành cái nôi cho cuộc chinh phục của Galbatorix. Hắn sát nhập Vroengard và những vùng đất khác vào vương quốc Alagaesia bây giờ. Tên vương quốc Brodding chỉ còn trên giấy tờ mà thôi. Tuy Eragon chăm chú ăn, nhưng Oromis biết nó đang có điều thắc mắc: - Con làm ta nhớ tới Brom khi ta mới nhận hắn làm đệ tử. Lúc đó hắn mới lên mười, còn ít tuổi hơn con bây giờ, nhưng suốt cả năm trời ta luôn phải nghe hắn liên tục hỏi: Thế nào? Cái gì? Bao giờ? Và nhất là… tại sao? Con thắc mắc gì, đừng ngại hỏi: - Thưa…con thắc mắc nhiều thứ lắm. Như… sư phụ là ai? Sư phụ từ đâu tới? Quê hương ông Brom ở đâu? Morzan là người như thế nào? Và… con muốn biết tất cả những gì về Vroengard và các kỵ sĩ. Có thể những hiểu biết đó sẽ giúp con tìm cho mình một hướng đi rõ ràng hơn. Oromis bỏ một vốc dâu vào miệng, lặng lẽ nhai. Mật dâu làm đôi môi ông đỏ hồng lên. Ăn xong, Oromis phủi hai tay vào nhau, nói: - Vậy thì ta cho con biết: ta ra đời cách nay mất thế kỷ, tài thành phố Luthivíra. Đó là một thành phố nằm trong một khu rừng bên hồ Tudosten. Năm hai mươi tuổi, cũng như những tiên đồng khác, ta được đưa tới trước những cái trứng mà loài rồng đã trao tặng cho các kỵ sĩ. Glaedr đã nở ra cho ta. Từ đó, gần một thế kỷ, ta đã cùng Glaedr bay khắp thế giới để hoàn thành những công tác thủ lãnh Vrael giao phó. Sau đó, ta được trao nhiệm vụ truyền dạy kinh nghiệm cho thế hệ tiếp theo, huấn luyện những tân kỵ sĩ tại Ilirea, cho đến khi Galbatorix hủy diệt chúng ta. - Còn ông Brom? - Brom đến từ một gia đình tại Kuasta. Cha là Holcomb, mẹ là Nelda. Do núi Spine ngăn cách, Kuasta biệt lập hẳn với Alagaesia. Đó là một nơi hoàn toàn dị biệt, đầy rẫy mê tín và những phong tục lạ lùng. Khi mới tới Ilirea, Brom vẫn còn thói quen: trước khi ra hay vào đều gõ cửa ba lần. Hắn bị các bạn đồng mên trêu chọc cho đến khi hắn bẻ hẳn những tập quán cũ ở quê nhà. Còn Morzan… Nó là một thất bại lớn trong đời ta. Nhưng Brom rất sùng bái nó. Hắn không rời Morzan nửa bước, không bao giờ cãi lại Morzan, không dám giấu Morzan một điều gì. Morzan biết Brom coi nó như thần tượng, nó không bỏ lỡ cơ hội lợi dụng Brom bằng trăm phương ngàn kế. Càng ngày càng kiêu ngạo và tàn nhẫn. Ta chưa kịp phân cách hai đứa thì xảy ra vụ Morzan tiếp tay Galbatorix bắt trộm con rồng mới nở, Shruikan. Sau đó Morzan bỏ trốn cùng Galbatorix, chính thức mở màn ngày tàn của chúng ta. Nếu không hiểu tình cảm của Brom đối với Morzan sâu đậm đến thế nào, thì con không thể hiểu ảnh hưởng chuyện Morzan phản bội đối với Brom ra sao. Vì vậy khi Galbatorix xuất đầu lộ diễn và tên phản đồ Morzan giết chết con rồng của Brom, Brom đã trút hết bao đau đớn căm hờn lên kẻ mà hắn nghĩ là có trách nhiệm đối với sự hủy hoại thế giới của hắn. Oromis ngừng nói. Một lát sau ông nghiêm trang hỏi: - Eragon, con có biết vì sao nếu rồng bị giết, hay ngược lại, kỵ sĩ bị giết, thường gây nên cái chết cho kẻ còn lại không? - Con có thể đoán được điều đó. Vừa trả lời, Eragon vừa phát hoảng khi nghĩ đến nó và Saphira. - Sự đau khổ là rất lớn, vẫn chưa hẳn là nguyên nhân, nguyên nhân thật sự gây nên cái chết là cái cảm giác một phần cả hồn lẫn xác mình không còn nữa. Khi chuyện đó xả ra, ta đã lo sợ Brom sẽ hóa điên. Vì vậy sau khi ta bị bắt rồi trốn thoát, ta đã đưa Brom tới Ellesméra. Nhưng hắn không chịu sống an toàn tại đó, một mình tìm đường đến đồng bằng Ilirea, nơi vua Evandar đã bị giết. Lúc đó tình hình vô cùng phức tạp: Galbatorix lo củng cố quyền uy bằng mọi giá, người lùn trên đường rút vào bóng tối, miền tây nam chiến tranh bùng nổ khắp nơi, vì loài người nổi dậy đấu tranh để lập nên một nước Surda tự trị, còn chúng ta thì vừa bị mất một quân vương. Thúc dục bởi lòng khao khát phục thù, Brom sử dụng sự hỗn loạn thời cuộc làm lợi thế. Hắn tập hợp rất đông những người phải rời bỏ quê hương, những tù nhân vượt ngục và lập nên đoàn quân cách mạng Varden. Brom lãnh đạo tổ chức này mấy năm, rồi trao lại cho người khác, để tiếp tục theo đuổi niềm đam mê thật sự của hắn: chứng kiến ngày tàn của Morzan. Chính tay Brom đã hạ sát ba tên phản đồ, trong đó có Morzan và năm người khác nữa. Suốt đời gần như Brom không có hạnh phúc, tuy nhiên hắn là một người tốt và một kỵ sĩ có tài. Ta rất hãnh diện khi nhận Brom là đệ tử. - Con chưa bao giờ nghe tên ông Brom liên quan đến những cái chết của phản đồ. - Galbatorix không muốn phổ biến tên bất kỳ kẻ nào còn sống đã hạ gục được đệ tử của nó. Hầu hết sức mạnh của nó nằm trong vỏ ngoài bất khả xâm phạm đó. Lại một lần nữa, Eragon phải xét lại quan niệm về Brom: từ một ông già kể chuyện trong làng, tới một chiến binh biết phép thuật, rồi một kỵ sĩ, và bây giờ nó lại được biết thêm ông còn là một kẻ sát nhân, một con người khơi dậy ngọn lửa căm hờn, một lãnh đạo cách mạng. Làm cách nào tất cả những vai trò đó hòa hợp trong một con người. Nhưng nó chỉ còn biết gật đầu đồng ý với Oromis. - Dạ, đúng vậy, ông Brom là một người tốt. Nhìn qua một khung cửa sổ tròn hướng ra bờ vực, Eragon nhìn thấy hình như cả Saphira và Glaedr đều đang tỏ ra e ngại thẹn thùng. Cô em rồng của nó hết uốn éo vờ vịt ngắm cảnh chung quanh, lại khép cánh mon men lết gần anh rồng đực. Đuôi cô nàng ngoáy tít như sửa soạn phóng tới, vồ một con nai. Saphira làm Eragon tưởng như đang nhìn một cô miu đang cố dụ khị chú chuột già vui đùa cùng nó. Nhưng mặc cô rồng giở đủ trò õng ẽo, anh rồng vàng cứ tỉnh bơ, nằm lù lù một đống. “Saphira.” Đáp lại tiếng gọi của Eragon, cô em chỉ hơi ngúng nguẩy, như chẳng nghe thấy gì. “Saphira, trả lời anh đi chứ.” “Cái gì?” “Anh biết em… sốt ruột rồi, nhưng đừng tỏ ra ngốc vậy chứ.” “Xì! Biết bao lần anh còn tỏ ra hơi bị ngốc hơn tôi nhiều. Dẹp đi, đừng dạy đời” Eragon sững người, không ngờ miệng lưỡi cô em rồng ngoa ngoắt chẳng thua con người. Quay lại, nó bắt gặp đôi mắt đầy hiểu biết của Oromis đang nhìn nó. Eragon gượng cười, hất đầu ra ngoài: - Dù có mối liên hệ tinh thần chặt chẽ, con vẫn không thể đoán trước những gì nó làm. Càng tìm hiểu con càng thấy chúng con khác biệt nhau. - Những kẻ ta thương yêu, thường lại khó hiểu nhất đố với ta. Eragon thấy lời nói của sư phụ quá là chính xác. Ông lặng lẽ tiếp: - Cả hai con còn quá trẻ. Ta và Glaedr sống bên nhau mấy chục năm mới hoàn toàn hiểu nhau. Sự gắn bó giữa một kỵ sĩ và con rồng của anh ta giống như bất cứ mối liên hệ nào, sẽ tiến triển theo thời gian. Con có tin tưởng Saphira không? - Con tin như mạng sống của con. - Nó có tin tưởng con không? - Thưa có. - Vậy thì hãy làm cho nó vui. Con lớn lên là một đứa trẻ mồ côi. Nó lớn lên trong niềm tin: nó là cá thể độc nhất còn lại của loài rồng. Bây giờ nó phát hiện ra là mình đã lầm. Đừng ngạc nhiên là nó sẽ còn bận tâm nhiều đến Glaedr mấy tháng nữa, rồi mới trở lại bình thường với con. Vân vê trái dâu trên mấy ngón tay, Eragon hỏi: - Vì sao thần tiên không ăn thịt? - Vì sao chúng ta phải ăn thịt? Chúng ta cần gì, muốn gì, kể cả thức ăn, chỉ việc hát cho cây mọc ra. Thật man rợ, khi bắt loài vật phải chịu đau khổ, chỉ để thêm vài đĩa thịt trên bàn ăn. Từ xa xưa, tinh thần chúng ta đã cao cả hơn loài người của con rồi. Vụ này Eragon không thể đồng ý với sư phụ được. Thịt luôn là món khoái khẩu và nó chẳng tha thiết gì chuyện ăn chay suốt thời gian ở Ellesméra. - Sư phụ không thèm thịt sao? - Người ta sẽ không hề thèm một món chưa từng nếm qua bao giờ. - Nhưng còn Glaedr đây có thể sống hoàn toàn bằng cỏ? - Không. Nhưng kể cả nó cũng không gây ra những sự đau đớn không cần thiết. Mỗi chúng ta đều cố gắng sống với những gì được thiên nhiên ban tặng. - Còn nữ hoàng? Áo choàng của bà bằng lông thiên nga… - Đó là những chiếc lông rụng được tích góp qua nhiều năm. Không con chim nào bị giết để làm áo cho nữ hoàng. Ăn xng, Eragon phụ Oromis lau chùi chén đĩa bằng cát, ông chợt hỏi: - Sáng nay con đã tắm chưa? Câu hỏi làm nó giật mình nhưng cũng bảo là chưa. Ông nói: - Vậy thì sáng mai phải tắm và nhớ tắm mỗi ngày. - Mỗi ngày? Nước lạnh buốt như thế, con sẽ bị cảm mất. - Làm cho nước ấm lên chứ. - Con chưa đủ sức làm nước của cả một con suối ấm lên bằng phép thuật. Căn lều vang dội tiếng cười của Oromis, làm anh rồng vàng phải tò mò vươn đầu nhìn qua cửa sổ. Ông cố nín cười hỏi: - Đêm qua con quan sát chỗ ở rồi chứ? - Dạ. - Con có thấy căn phòng nhỏ với một lỗ hõm trên sàn không? - Con tưởng đó là… để giặt quần áo. - Ha ha! Để… giặt con thì đúng hơn. Phía trên lỗ hõm đó, có hai cái núm ẩn trong tường. Hãy mở ra, nước sẽ tự điều hòa nhiệt độ theo ý con. Còn chuyện này nữa… Ông chỉ vào cằm Eragon: - Là đệ tử của ta, ta mong con cạo phéng những sợi râu lún phún này đi. Chừng nào râu ria đầy đủ, muốn để hãy để. Thần tiên thì không cạo râu, nhưng ta sẽ kiếm gương và dao cạo cho con. Eragon nhăn mặt vì hơi bị quê, nhưng đành gật đầu tuân lệnh. Oromis cùng Eragon trở ra ngoài. Con rồng vàng bảo Eragon: “Chương trình huấn luyện cho kỵ sĩ và Saphira đã sẵn sàng. Sáng mai hãy trở lại đây đúng một tiếng sau lúc mặt trời lên.” Oromis nói thêm: - Saphira, nhớ đem theo cái yên Brom đã làm cho con. Còn bây giờ cứ thoải mái thưởng thức cảnh quan kỳ diệu của Ellesméra đi. Eragon bảo Glaedr: “Tôi sẽ nhớ đến đúng giờ.” Rồi nó cúi đầu trước Oromis: - Thưa sư phụ, con vô vàn biết ơn sư phụ đã cứu mạng sau lần con giết tà thần tại Tronjheim. Không có sự bổ trợ đó của sư phụ chắc con đã chết rồi. Saphira cũng cúi đầu: “Cả hai anh em con đều nhớ ơn sư phụ.” Tiên ông hiền hòa gật đầu, tủm tỉm cười Oromis và con rồng vàng vừa khuất dạng, Saphira hí hởn: “Eragon, ai ngờ lại có một rồng khác nữa. Anh cũng không thể nào tin nổi, đúng không?” Eragon vỗ về cô em rồng, bảo: “Anh cũng thấy điều đó thật diệu kỳ.” Từ cao nhìn xuống Du Weldenvarden, dấu hiệu dân cư của rừng giả chỉ là những cụm khói là đà trên những lùm cây rồi tản mạn vào làn không khí trong lành. Saphira tiếp tục thì thầm: “Không bao giờ em ngờ gặp được một rồng khác ngoài con con rồng Shruikan của Galbatorix, hoặc giải cứu được mấy cái trứng còn trong tay bạo chúa. Nhưng… chuyện đó xa vời quá. Vậy mà bây giờ lại gặp Glaedr! Thật khó tin! Anh chàng rồng vàng này… trên cả tuyệt vời. Lớn tuổi, mạnh mẽ, những cái vảy… long lanh lóng lánh… lóng lánh long lanh… Tuyệt vời! Anh ta lớn gấp hai, không, gấp ba em. Anh có nhìn những móng vuốt không? Chúng… Cô ả trổ tài hùng biên, thao thao ca tụng những đặc tính của anh rồng vàng. Eragon cảm thấy trong lòng cô em đang sôi nổi tình cảm lẫn lộn, vừa kính trọng vừa yêu thương. Dù biết đầu óc Saphira đang bay bổng trên mây, Eragon cố gắng kể lại những gì đã nghe được từ sư phụ Oromis, nhưng vẫn không thể lái cô ả qua đề tài khác. Nó lặng lẽ ngồi sau lưng Saphira nhìn xuống màu cây xanh ngăn ngắt phía dưới, và cảm thấy mình là người cô đơn nhất trên đời. Trở về chỗ nghỉ, Eragon mệt lả vì những sự kiện trong ngày và vì mấy tuần lễ đi đường. Vì vậy, trong khi Saphira ngồi nhòm nhõm trên ổ, lảm nhảm về anh rồng vàng thì Eragon bắt đầu khám phá những bí mật của một phòng tắm theo kiểu thần tiên. Buổi sáng, Eragon nhận được gương và dao cạo như Oromis đã hứa. Tắm nước nóng xong, cầm gương lên ngắm mặt mình, Eragon thầm nhủ: “Trông mình già hơn trước nhiều. Già và mệt mỏi.” Không chỉ vậy, mặt nó có góc cạnh hơn, trông giống như một người tu khổ hạnh. Dù không phải là thần tiên, nhưng bất kỳ ai quan sát nó thật kỹ, khó có thể bảo nó mang dòng máu thuần túy của loài người. Vén tóc để lộ hai tai, thêm một bằng chứng mối liên hệ giữa nó và Saphira đã biến đổi thể xác nó đến thế nào: Eragon rờ ngón tay lên vành tai đã bắt đầu hơi nhọn. Dù biết sự biến đổi tất nhiên phải xảy ra - để dần dần hoàn toàn trở thành một kỵ sĩ rồng – nhưng Eragon vẫn cảm thấy khó chấp nhận nổi chuyện này. Không được biết trước cơ thể mình đổi thay ra sao làm nó thấy như bị xúc phạm, tuy nhiên nó cũng háo hức chờ đợi những gì sắp xảy ra. Một điều nó biết rất rõ, nó vẫn đang ở giữa chính bản thân mình - một thanh niên của loài người – và những bí mật cam go của một vương quốc mà cái thân xác đó phải phục vụ. “Bao giờ mình mới biết chính xác mình là ai? Là cái gì?” Bắt chước cậu Garrow vẫn thường làm, Eragon đặt dao lên má, cạo nhè nhẹ. Râu bị xén lởm chởm cọng cao cọng thấp. Nó đổi chiều cầm dao và thấy khả quan honư. Nhưng khi vứa kéo lưỡi dao xuống cằm, khóe miệng nó bị cứa một đường dài. Máu chảy xuống tận cổ. Eragon bật lên nói: “Wáise heill.” Vết thương khép ngay lại, không còn chút đau đớn nào nữa. “Eragon!” Saphira kêu lớn, húc đầu mở tung cửa phòng, đánh hơi mùi máu. Eragon vội trấn an cô rồng: “Anh còn sống mà.” “Làm ơn thận trọng một chút. Cứ để chòm râu dê cho đỡ rách việc, bầy dặt làm bảnh chi không biết nữa.” “Thôi đi, anh có làm sao đâu.” Saphira càu nhàu rụt đầu, trở ra ngoài. Eragon lom lom nhìn lưỡi dao cạo, nói: - Dẹp mày qua một bên. Nó bình tĩnh ôn lại tất cả những từ cổ ngữ đã biết, chọn lựa những từ cần thiết, rồi lầm bầm niệm chú. Từ mặt nó bay ra một làn bụi màu đen và da mặt nó trở nên hoàn toàn nhẵn nhụi. Ngay sau khi Eragon khoan khoái leo lên yên, Saphira bay vút lên không, thẳng tiến đến bờ vực Tel’náeir. Oromis và Glaedr đã đang đứng chờ trước cửa lều. Trước hết, ông xem xét từng chi tiết bộ yên của Saphira, từ sợi dây cương, tới mỗi cái móc, rồi ông quả quyết đây là một món đồ thủ công: - Brom bao giờ cũng rất khéo tay. Các con cứ tiếp tục sử dụng yên này những khi cần bay với tốc độ cao. Nhưng để an toàn hơn thì… Ông trở vào lều rồi vác ra một cái yên lớn, trang trí những hình ảnh mạ vàng từ yên tới bàn đạp: - … hãy dùng cái này. Nó đã được làm tại Vroengard và đã được yểm bùa nhiều lần. Rất an toàn, không bao giờ làm các con thất vọng khi nguy cấp. Eragon lảo đảo khi đón cái yên từ tay sư phụ. Trông nó cũng tương tự như cái yên của ông Brom làm, với hai hàng móc để giữ chân ổn định. Nhưng chỗ ngồi sâu hơn để người cưỡi – dù ngồi thẳng hay rạp người xuống cổ rồng - vẫn có thể bay liền nhiều giờ rất thoải mái. Ngoài ra, những sợi dây quanh ngực Saphira được khoan rất nhiều lỗ, để có thể nới ra khi cô rồng lớn hơn. Một loạt móc dây trên đầu cái yên làm Eragon chú ý. Trả lời câu hỏi về mục đích của những sợi móc đó, Oromis nói: - Đó là những móc an toàn cho cổ và cánh tay của con. Con sẽ không chết khiếp khi Saphira cần phải sử dụng những đường bay phức tạp. Sau đó, ông cùng Eragon tháo bộ yên cương trên lưng Saphira xuống: - Saphira, hôm nay con có thể đi cùng Glaedr, để ta làm việc với Eragon tại đây. “Xin tuân lệnh.” Saphira hí hửng nói rồi cất cánh bay theo con rồng vàng. Oromis hướng dẫn Eragon vào một khoảng đất nện cứng, vuông vắn dưới gốc một cây dương liễu. Đứng đối diện với đệ tử, ông chậm rãi nói: - Eragon, những gì thầy sắp dạy con, thuộc về Rimgar, nghĩa là Xà-Hạc quyền. Đó là những thế đánh được trang bị cho các chiến binh của chúng ta khi lâm trận, nhưng ngày nay tất cả thần tiên đều luyện tập để giữ gìn sức khỏe. Rimgar gồm bốn đẳng cấp. Cấp sau khó hơn cấp trước. Bây giờ chúng ta bắt đầu từ cấp một. Eragon nắm chặt hai tay, gồng người đứng thẳng trong khi vết thương rần rần nhức nhối sau lưng. Oromis nhẹ nhàng nói: - Thả lỏng ra. Eragon mvơr nắm tay, nhưng hai tay ãn cứng ngác khép chặt hai bên sườn. - Eragon, thầy bảo con thả lỏng ra. Con không thể luyện Rimgar với thân hình cứng ngắc như một thân cây được. - Con hiểu rồi, thưa sư phụ. Eragon nhăn mặt cố gắng thả lỏng cơ bắp, khớp xương nhưng bụng nó vẫn còn căng cứng. - Hai bàn chân đặt sát bên nhau. Hai tay buông xuôi theo thân hình. Mắt nhìn thẳng. Bây giờ con hãy hít vào thật sâu, trong khi từ từ đưa hai tay khỏi đầu, cho đến khi hai bàn tay úp vào nhau… Đúng rồi. Thở ra, cúi xuống, hai bàn tay úp trên mặt đất. Hít vào và… nhảy ra sau. Tốt. Hít vào, ngửa ra sau, nhìn lên trời, thở ra… Eragon bắt đầu yên tâm. Mấy thế tập nhẹ nhàng không làm chấn động vết thương, tuy nhiên cũng đủ làm trán nó lấm tấm mồ hôi. Bất chợt nó nhoẻn cười, sung sướng vì sức khỏe như đang dần hồi phục. Bao lo lắng hầu như tan biết hết, nó thoải mái vượt qua mọi tư thế, cùng với lòng tự tin, nội lực cũng tăng dần. Từ sau trận chiến trong lòng Farthen Dur, chưa bao giờ Eragon có được niềm sáng khoái như lúc này. Oromis đứng tấn, rồi bắt đầu cùng đệ tử đi bài Xà-Hạc quyền. Những thế võ vừa mạnh mẽ vừa uyển chuyển của ông làm Eragon kinh ngạc, nhất là đối với một người tuổi tác như ông. Oromis có thể chạm trán xuống tận mấy ngón chân. Đi suốt bài quyền, ông vẫn tỏ ra thanh thản, chẳng khác nào như chỉ đang dạo chơi trong vườn hoa. Những lời chỉ giáo của ông nhẹ nhàng, kiên nhẫn hơn ông Brom, nhưng vẫn đầy uy lực. Không một lỗi nhỏ nào qua khỏi mắt ông. Tập xong, Oromis bảo: - Nào, đi rửa ráy cho sạch mồ hôi chứ. Hai thầy trò ra con suối nhỏ bên nhà, cởi áo. Eragon lén nhìn, tò mò không biết một thần tiên khỏa thân sẽ ra sao. Sư phụ của nó gầy nhom, nhưng dưới làn da, cơ bắp hoàn hảo, rắn chắc như loài gỗ quý. Với Eragon, thân thể ông dường như có vẻ khác thường nếu so sánh với dân làng Carvahall, vì toàn thân ông trơn tru không có một cọng lông. Tuy nhiên tấm thân đó lại có một vẻ cao nhã kỳ lạ, như một con mèo rừng dẻo dai, mềm mại. Sau đó ỏm dẫn đệ tử tới một khoảng trống, cây cối chung quanh mọc ngả vào trong, cành lá đan nhau che kín bầu trời. Chân hai thầy trò lún trong lớp rêu dày tới mắt cá. Chung quanh hoàn toàn tĩnh mịch. Chỉ một thân cây màu trắng, ngọn bằng phẳng và sáng bóng, mọc giữa khoảng trống, Oromis bảo Eragon: - Ngồi lên đó. Eragon ngồi lên thân cây. Ông nói tiếp: - Khoanh chân, nhắm mắt lại. Eragon làm theo, trong mắt nó chỉ còn một màu đen, bên phải tiếng sư phụ thì thầm: - Eragon hãy khai tâm mở trí ra. Mở trí ra mà lắng nghe thế giới chung quanh, lắng nghe ý nghĩ của từng sinh vật trong khoảng trống dưới lùm cây này. Từ con kiến trên cành, tới con giun trong lòng đất. Hãy lắng nghe cho đến khi con hiểu được tất cả bản chất và mục đích của chúng. Khi nào con không còn nghe thêm được điều gì nữa, hãy đến cho ta biết con đã tìm hiểu được những gì. Thế rồi, cả khu rừng chìm vào im lặng. Không biết sư phụ đã rời đi chưa, nhưng Eragon thử nới ý chí bao quanh tư tưởng để giao tiếp với tri thức của mình, giống như những lần muốn liên lạc với Saphira từ xa. Lúc đầu, chung quanh nó chỉ là một hố đen thăm thẳm, rồi những tia sáng ấm áp lóe lên, mạnh dần cho đến khi nó thấy mình đang ngồi giữa một chòm sao lóng lánh. Mỗi điểm sáng là hiện thân của một đời sống. Trước đây, mỗi lần muốn liên hệ với một sinh vật – như hai con ngựa Cadoc và Hỏa Tuyết hoặc ma mèo Solembum – tri thức nó tập trung vào đối tượng nó muốn giao tiếp, nhưng…lần này… dường như nó đứng bất lực giữa một đám đông, tiêng rào rào trò chuyện chung quanh như những dòng sống đang ào ạt cháy. Eragon bỗng cảm thấy bất an. Ngay lúc này nếu kẻ nào muốn nhảy vào tâm trí nó, để điều khiển, thật quá dễ dàng. Một cách vô thức, nó rút vào nội tại: tất cả những gì nó mới nghe thấy đều biến hết. Nhớ lại một bài dạy của thầy, Eragon giữ nhịp thở điều hòa êm ả lại, cho đến khi hòan toàn thoải mái mở lại ý thức. Cho đến lúc này, những sinh vật nó có thể nhận ra, hầu hết là côn trùng. Bầy đàn của chúng làm Eragon khiếp đảm. Hàng chục ngàn con trên một thước vuông rêu; hàng triệu con lúc nhúc khắp khoảng trống nhỏ dưới lùm cây; hằng hà sa số nữa ở bên ngoài. Vì Eragon chỉ biết một vài giống côn trùng, trong đó có những loài sư phụ đã nhắc tới, nên Eragon tập trung vào những đội quân kiến đỏ đang lũ lượt từng hàng leo lên một thân cây hoa hồng dại. Những gì thâu lượm được, cho Eragon thấy bộ não của chúng quá đơn sơ, hầu như không thể suy nghĩ, nhưng… lại rất khẩn trương: khẩn trương tìm kiếm lương thực, khẩn trương tránh những thương tổn, khẩn trương bảo vệ lãnh địa và khẩn trương phối giống. Vừa bắt đầu quan sát bản năng của chúng, Eragon đã bị bối rối bởi những hành động lạ lùng của loài kiến. Chỉ vài chú kiến lang thang ngoài bầy, còn tất cả đều biết chính xác mục tiêu tiến tới. Không biết nhờ cơ quan nào điều khiển, đội quân kiến theo đúng lộ trình từ tổ tới nơi có lương thực, rồi trở lại. Nguồn lương thực của chúng lại càng đáng ngạc nhiên hơn. Eragon vẫn tưởng kiến giết và ăn những giống côn trùng khác, nhưng bầy kiến này đang cố gắng thẳng tiến tới… vùng canh tác… một thứ gì đó lốm đốm trên cây hồng. Eragon phải ráng hết sức tập trung tư tưởng vào những đốm li ti đó, và rồi nó bật cười ha hả khi khám phá ra: những chấm nhỏ đó chính là một loài rệp cây. Những chú kiến này đang làm công việc của dân chăn bò: chăn dắt, bảo vệ và “vắt sữa” bằng cách dùng râu vuốt ve bụng những con rệp vừng. Một khám phá quá bất ngờ, nhưng càng quan sát, Eragon càng tin chắc đó là sự thật. Nó theo dấu bầy kiến vào những mê lộ rắc rối trong lòng đất và quan sát chúng săn sóc cho một con cùng loài, nhưng to lớn nhiều lần hơn những con bình thường. Tuy nhiên, Eragon không biết mục đích chúng định làm gì, chỉ thấy chúng tận tụy lần lượt vây quanh con kiến to đùng kia, giữ một khoảng cách với nhau rất có trật tự. Một lúc sau, Eragon cảm thấy những tìm hiểu về loài kiến như vậy là đã đủ, ngay khi nó vừa định thu hồi luồn tư tưởng, một con sóc nhảy vào khoảng trống. Hình ảnh con sóc, cũng như bầy kiến, như một luồn sáng hòa vào dòng tư tưởng Eragon. Bàng hoàng, Eragon chợt thấy trong lòng nó tràn ngập những cảm giác của con sóc. Nó đánh hơi rừng bằng cái mũi của sóc. Cảm thấy vỏ cây dưới bộ móng sóc. Gió phe phẩy cái đuôi nhổng cao của sóc. So sánh với loài kiến, con sóc cũng khẩn trương nhưng thông minh hơn. Sau khi con sóc thoăn thoắt nhảy biến vào rừng. Eragon mở mắt. Rừng u tối và tĩnh mịch hơn lúc Eragon mới ngồi lên gốc cây này. Hít sau một hơi, rồi nhìn quanh, lần đầu tiên nó hiểu rõ hơn về sự sinh tồn trên mặt đất. Duối hai chân tê cóng, Eragon bước tới bên cây hồng dại. Trên cành lá, Eragon thấy những con “bò sữa” và đám “chắn dắt” màu đỏ. Gần gốc hồng một ụ lá thông với lối vào tổ kiến. Nhìn bằng mắt thường, không thể nào thấy được những gì Eragon đã chứng kiến lúc nãy với vô vàn những hoạt động của chúng trong lòng đất. Ghi nhớ tất cả vào tâm trí, Eragon ra khỏi lùm cây, tự hỏi không biết dưới bước chân này những loài nào đang bị dẫm đạp lên. Bên ngoài, mặt trời đã xuống. Eragon đoán, có lẽ nó đã ngồi tại đây ba tiếng đồng hồ rồi. Bước vào túp lều, Eragon thấy syư phụ đang viết bằng một cây bút lông ngỗng. Viết xong dòng cuối cùng, ông ngẩng đầu lên hỏi: - Con đã nghe được những gì, Eragon? Eragon cao giọng hãnh diện kể rành mạch từng chi tiết đã thu lượm được. Khi nó nói xong, Oromis nhướng cao một chân mày, hỏi: - Tất cả chỉ có vậy thôi sao? - Dạ… - Còn những sinh vật khác trong lòng đất, trên không trung? Con có thể cho ta biết chúng làm gì trong khi bầy kiến của con vỗ về đàn bò của chúng không? - Dạ… không. - Sai lầm của con là ở đó. Con phải tìm hiểu tất cả mọi điều. Đừng che hai bên mắt, để chỉ tập trung vào một vấn đề. Cho đến khi nào con chưa làm chủ được bài học quan trọng đó, hàng ngày con phải ngồi trên thân cây kia mà suy ngẫm trong một tiếng đồng hồ. - Làm cách nào con biết đã làm chủ được bào học đó? - Khi con nhìn một nhưng biết mười. Ông ra hiệu cho Eragon ngồi xuống bên bàn, rồi đặt trước mặt nó bút mực và một tờ giấy mới: - Cho đến lúc này con vẫn còn thiếu hiểu biết rất nhiều về cổ ngữ. Không phải ai cũng thông thạo tất cả các từ của ngôn ngữ này. Nhưng ít ra con cần phải quen với văn phạm và cách cấu trúc của cổ ngữ. Vì như vậy sẽ tránh cho con khỏi tai nạn tự sát vì sai lầm khi chia không đúng một động từ hoặc vì những lỗi tương tự khác. Ta không hy vọng con nói trôi chảy như thần tiên – làm được điều đó, con phải học hỏi cả đời -, nhưng ta mong con có thể đạt được khả năng vô thức. Nghĩa là con phải có khả năng nói ngay mà không cần suy nghĩ. Con phải học đọc, học viết. Không chỉ để nhớ từ, mà phải nói trôi chảy những câu dài khi cần thiết. Tất cả những loài khác – như loài người và người lùn - đều phát triển chữ viết của họ từ nguyên mẫu cổ ngữ. Tuy nhiên đó chỉ là những phương pháp bất đắc dĩ, không thể diễn tả hết tự tinh tế của ngôn ngữ bằng Liduen Kvaedhí của chúng ta. Liduen Kvaedhí - Bản gốc thi ca – là những vần thơ khúc chiết, thanh cao, diễm lệ. Tập thơ đó gồm bốn mươi hai khổ thơ với những âm thanh khác biệt. Từng chữ từng câu đều thâm trầm ý nghĩa, tạo cảm hứng vô bờ cho những nét chạm khắc như nét khắc trên thanh Zar’roc hay trên chiếc nhẫn của con… Nào, bây giờ ta bắt đầu: những nguyên âm căn bản của cổ ngữ là gì? - Dạ… Khi đi cùng ông Brom, ông chỉ tập trung làm sao cho Eragon nhớ và phát âm chuẩn xác được những câu thần chú để sống còn. Ngoài ra, nó đâu biết phân biệt một quán từ phủ định hay xác định. Trước sự mất căn bản của Eragon, Oromis vẫn bình thản kiên trì hướng dẫn lại cho nó từ đầu. Đang học Eragon bỗng nói với thầy: - Con chưa bao giờ cần sử dụng nhiều từ trong một câu thần chú. Ông Brom bảo, chỉ với một câu “brisingr” mà con đã có thể làm được nhiều điều, là do thiên bẩm. Lần con sử dụng nhiều từ cổ ngữ nhất, là khi liên hệ qua tư tưởng với Arya và khi con chúc phúc cho một đứa trẻ mồ côi tại Farthen Dur… Oromis lo lắng ngắt lời nó: - Con đã chúc phúc cho một đứa trẻ bằng cổ ngữ ư? Con có nhớ mình đã nói gì không? - Dạ có. - Nói lại cho ta nghe. Khi Eragon lập lại lời chúc phúc, Oromis kêu lên khiếp đảm: - Con nói skolir, chắc không? Hay Skoliro? Eragon nhăn mặt: - Skolir mà. Skolir mới có nghĩa là che chở chứ. Cầu chúc mi được che chở khỏi những điều bất hạnh. Đó là một lời chức thật tốt lành. - Đó không phải là một lời chúc, mà là một lời nguyền. Tiếp vĩ ngữ “o” đổi những đồng từ tận cùng với “r” và “i” thành quá khứ. Skoliro nghĩa là được chở che, còn Skolir lại có nghĩa là che chở cho. Những lời con nói, thay vì chúc phúc, lại trở thành lời nguyền đứa trẻ đó phải hy sinh, nhận hết mọi bất hạnh để… che chở cho kẻ khác tránh khỏi khổ đau. Không, không thể như vậy được. Eragon cuống cuồng cải chính: - Tác dụng của một câu thần chú không chỉ quyết định vì những câu nói, mà từ ý định trong tâm người nói… Con không có ý định làm hại đứa trẻ đó… - Con không thể cãi lại sự ấn định của tạo hóa đã dành cho một từ ngữ. Không thể vi phạm giới hạn của nó để biểu thị một ý hoàn toàn ngược lại. Ta tin là con không có ý hại đứa trẻ, nếu không ta đã từ chối tiếp tục dạy dỗ con. Nếu con thành thật với một tấm lòng trong sáng, có thể câu chúc của con sẽ không quá tác hại như ta đã lo ngại. Tuy nhiên điều đó sẽ vẫn là một nguyên nhân gây đau khổ nhiều hơn chúng ta tưởng. Toàn thân Eragon run bần bật vì những gì đã gây ra. Cố nuôi chút hy vọng, nó nói: - Thưa sư phụ, có lẽ tình trạng sẽ không đến nỗi nghiêm trọng lắm, vì ngay sau đó Saphira đã ghi lại một dấu vết lên trán đứa trẻ, giống như dấu hiệu gedwey ignasia trên bàn tay con. Lần đầu tiên trong đời, Eragon mới thấy một vị tiên sững sờ đến thế. Hai mắt Oromis trợn trừng, miệng há hốc, hai tay xiết chặt thành ghế: - Mang dấu hiệu của kỵ sĩ, vẫn chưa phải là một kỵ sĩ. Suốt bấy nhiêu năm sống trên đời, ta chưa từng thấy ai giống như hai con. Tát cả những việc các con làm đều dẫn đến kết quả không ai tưởng tượng nổi. Các con làm đảo lộn thế giới như một trò đùa. Đứa trẻ đó bây giờ ở đâu? - Ở với Varden, tại Farthen Dur hoặc Surda. Sư phụ nghĩ dấu hiệu của Saphira có giúp gì cho đứa trẻ đó không? - Ta không biết. Trước đây chưa hề xảy ra chuyện đó bao giờ. - Phải có cách nào hủy bỏ, vô hiệu hóa lời chúc đó chứ ạ? - Có đấy. Nhưng muốn đạt kết quả hữu hiệu nhất, con phải đích thân làm chuyện đó. Tuy nhiên, trong tình trạng khả quan nhất, thì phần phép thuật còn sót lại của con cũng vẫn sẽ ám theo cô gái nhỏ mãi sau này. Đó là sức mạnh của cổ ngữ. Ta thấy con đã hiểu vấn đề nghiêm trọng đến thế nào, vì vậy ta phải nói cho con biết: con hoàn toàn lãnh trách nhiệm về số mạng của cô bé này. Và vì những gì con đã gây ra, con phải có bổn phận giúp đỡ cô ta trong mọi trường hợp. Theo luật kỵ sĩ, đứa trẻ đó là một điều hổ thẹn của con, nó như một đứa con ngoại hôn của con vậy. Eragon thì thầm: - Con hiểu. Con hiểu là đã đẩy đứa trẻ tội nghiệp vào một định mệnh nghiệt ngã. Con người không thể thật sự có thiện tâm, khi không hề biết cái ác là gì. Con đã làm đứa trẻ trở thành một nô lệ mù quáng, chỉ biết hy sinh. - Con đã hiểu, vậy chúng ta sẽ không nhắc lại chuyện này nữa. - Vâng, thưa thầy. Trong lòng nặng trĩu u buồn khi Eragon theo thầy ra ngoài đón Glaedr và Saphira trở về. Cây cối ngả nghiêng khi hai con rồng vỗ cánh là là hạ xuống. Saphira phởn phơ hãnh diện ra mặt. Cô ả vươn cổ, nhe hàm răng nhọn hoắt, ngoác miệng ra thành một nụ cười với ông anh. Tiếng đá dập vỡ dưới sức nặng của anh rồng vàng khi quay hỏi Eragon: - Quy luật thứ ba để phát hiện gió xoáy là gì? Quy luật năm, phòng tránh cách nào? Eragon ngẩn người, chớp mắt lia lịa: - Không biết. Oromis hỏi Saphira: - Kiến chăn nuôi con gì và vắt sữa chúng ra sao? Saphira lí nhí trả lời: - Con không biết. Oromis khoanh tay, dù giọng nói vẫn trầm tĩnh, nhưng mắt thoáng vẻ giận dữ: - Ta tưởng hai con phải biết bài học căn bản nhất khi trở thành Shur’tugal - Kỵ sĩ rồng: đó là chia sẻ tất cả những hiểu biết cho nhau. Con có thể cắt đứt tay phải của mình được không, Eragon? Con có thể bay một cánh không, Saphira? Không bao giờ. Vậy thì, tại sao các con không giữ dây liên lạc? Các con không thèm sử dụng đến khả năng và lợi thế lớn nhất đó để thắng bất kỳ đối thủ nào sao? Không chỉ chuyện trò với nhau bằng ý nghĩ, mà còn phải hòa hợp ý thức vào nhau, để từ hành động, suy nghĩ chỉ là một. Ta hy vọng từ nay, điều gì đứa này học được, thì đứa kia phải biết. Eragon nhăn nhó: - Nhưng… còn những chuyện riêng tư của hcúng con? Rồng vàng có ý kiến ngay: “Riêng tư gì? Bao giờ đi khỏi đây, nếu thích, hãy nói đến chuyện riêng tư. Trong thời gian huấn luyện không riêng tư gì hết.” Eragon nhìn Saphira mà phát rầu. Cô ả né cái nhìn của nó, rồi chợt nhịp chân kênh kênh, hỏi: “Cái gì?” “Họ nói đúng. Chúng mình lơ đãng quá.” “Đâu phải lỗi em.” Hừ, nó đoán được ý mình, thấy nó xoắn xuýt lấy con rồng vàng mà phát ghét. Nhưng Eragon vẫn nói: “Anh em mình phải cố tiến bộ hơn. Đồng ý?” “Tất nhiên.” Vênh váo trả lời Eragon xong, ả rồng ngoan ngoãn cúi đầu xin lỗi Oromis và anh rồng vàng. Eragon cũng cúi đầu nói: - Con hứa sẽ không để sư phụ thất vọng nữa. - Nếu vậy, ngày mai ta sẽ lần lượt kiểm tra, xem đứa này có hiểu bài học của đứa kia không. Ông đưa ra một vật tròn bằng gỗ, nói: - Hãy nhớ lên dây đều đặn, vật này sẽ đánh thức các con đúng giờ mỗi buổi sáng. Sau khi tắm và ăn điểm tâm, trở lại đây ngay. Eragon không ngờ món đồ chơi nhỏ xíu lại nặng thế. Hình dáng và kích cỡ nhỏ như một trái bồ đào với những đường trổ xoắn ốc quanh một cái núm. Eragon xoay thử cái núm và nghe ba tiếng lách cách nhỏ, như những đường khớp răng cưa bắt đầu chuyển động. Nó cúi đầu nói: - Đa tạ sư phụ. Sau khi cúi đầu chào, Eragon và Saphira cùng bay về ngôi nhà cây. Bộ yên cương mới lủng lẳng dưới móng hai chân trước của Saphira. Dù không đứa nào nhận lỗi, nhưng dần dần cả hai đều cởi mở tri giác để có thể giao tiếp dễ dàng cùng nhau. Cảm xúc sôi nổi trong Eragon làm Saphira chú ý, nó vội hỏi: “Eragon, chuyện gì vậy?” Eragon kể lại sai lầm khủng khiếp đã gây ra cho đứa nhỏ tại Farthen Dur làm Saphira hoảng hốt không kém. Nhưng Eragon bảo: “Món quà em ghi dấu trên trán, có thể giúp đứa trẻ phần nào, nhưng chuyện sanh làm thật khó mà tha thứ.” “Không thể đổ hết lỗi cho anh được. Em chia sẻ sự hiểu biết cổ ngữ cùng anh, em cũng đâu phát hiện ra sai sót đâu.” Eragon im lặng. Saphira an ủi nói: “Điều đáng mừng là lưng anh hôm nay không còn đau nữa. Vậy là tốt rồi.” Eragon đổi đề tài: “Hôm nay em học được những gì?” “Phát hiện và tránh thời tiết nguy hiểm.” Thấy Eragon vẫn bận tâm vì chuyện chúc phúc lầm, chẳng để ý gì đến những gì nó kể, Saphira lại lẳng lặng tiếp tục bay. Về tới phòng ngủ, Eragon thấy một khay thức ăn đã để sẵn bên cửa như đêm qua. Cầm khay vào giường, nó vừa lèm bèm rủa thầm vì thiết thịt, vừa kề gối sau lưng để ngồi. Giữa lúc đó có tiéng gõ bên ngoài. Eragon lên tiếng: - Cứ vào. Eragon suýt sặc miệng nước vừa uống khi Arya bước qua ngưỡng cửa. Thay vì áo da như thường ngày, Arya mặc áo vải mềm màu xanh lục, thắt một cái đai đính đá trăng. Giải băng cố hữu trên đầu cũng không còn, mái tóc óng ả phủ quanh mặt, buông xuống hai vai. Nhưng sự đổi thay lớn nhất không chỉ do trang phục. Vẻ cứng rắn, xa cách trong thái độ từ lần đầu gặp cô, giờ hoàn toàn biến mất. Trông Arya thật thoải mái, dịu dàng. - Arya, nàng tới đây có việc gì? Nhẹ đặt hai ngón tay lên môi, Arya nói: - Chàng định ở trong nhà suốt buổi chiều sao? - Tôi… - Chàng đã tới Ellesméra được ba ngày rồi, mà vẫn chưa biết gì về kinh thành của chúng tôi. Biết chàng rất muốn được khám phá nơi này, vậy hãy gác những lo nghĩ sang một bên. Đi theo tôi. Vừa nói Arya vừa tiến lại cầm thanh Zar’roc, rồi ra dấu cho Eragon đi theo. Eragon cùng cô tiến qua tiền sảnh, theo cầu thang cuốn vòng quanh một thân cây xuống đất. Trên đầu họ những cụm mây rực sáng trong ánh nắng cuối ngày. Một mảnh vỏ cây rơi trúng đầu làm Eragon ngẩng nhìn lên: Saphira vươn ra từ phòng ngủ. Không cần mở cánh nó phóng thân hình đồ sộ từ độ cao mấy chục mét xuống. Một tiếng uỵch nặng nề vang trên mặt đất: “Em cũng đi.” - Tất nhiên. Arya thản nhiên nói trong khi Eragon rủa thầm, vì nó chỉ mong được một mình bên nàg. Họ đi dưới những tàn cây rậm rạp che phủ ánh mặt trời. Lác đác trong cành lá, những ngọn đèn xanh ngọc tỏa ánh sáng dịu dàng xuống lối đi. Rải rác trong vùng sáng và bóng tối, các thần tiên say sưa làm việc đơn lẻ, thỉnh thoảng mới có một nhóm chỉ hai người. Nhiều vị vắt vẻo trên cành cao, véo von thổi sáo. Lại có những vị mơ màng, thanh thản nhìn trời. Một vị khoanh chân bên một bàn xoay nặn gốm; dưới tay ông, một chiếc bình tinh xảo đã thành hình. Kế bên, mèo ma Maud ẩn mình trong tối chưm chú nhìn ông làm việc. Dôi mắt nó rực sáng khi thấy Eragon và Saphira bước qua. Vị tiên ông, nhìn theo hướng mắt ma mèo, rồi gật đầu chào. Eragon thấy một thần tiên – không rõ nam hay nữ - ngồi trên một tảng đá giữa dòng suối, lẩm nhẩm niệm chú lên một quả cầu thủy tinh trên bàn tay. Quả cầu chợt biến mất. Để không làm phiền ai, Eragon thì thầm thật nhỏ, hỏi Arya: - Thần tiên làm gì để kiếm sống. - Khả năng phép thuật ban cho chúng tôi sự nhàn hạ thảnh thơi. Chúng tôi không săn mồi, không trồng tỉa; vì vậy thời gian chỉ dành để tu luyện hòng chế ngự những gì chúng tôi quan tâm. Qua một đường hầm bằng cây dương đào phủ đầy dây leo, họ tiến vào một mảnh sân vây quanh bởi một vòng cây. Dưới mái lều giữa sân cỏ một lò rèn và những dụng cụ mà Eragon biết chắc chú Horst hằng mơ ước. oMotj tiên nữ tay trái cầm cây kẹp sắt hơ trên lò than, tay phải đẩy bễ. Bà ta thoăn thoắt gần cái khoen nhỏ đỏ rực trên đầu kẹp vào một tấm áo giáp còn dang dở, đặt trên cái đe. Nắm chặt cây búa, bà đập mạnh lên cái khoen làm tung ttóe những đốm lửa sáng rực. Arya tiến vào lên tiếng: - Atra seterní ono thelduin. Bà ta ngẩng nhìn. Ánh than hồng rọi lên làn da mặt và cổ nhăn nheo. Lần đầu tiên Eragon nhìn thấy biểu hiện tuổi già của một thần tiên. Bà không trả lời Arya - một thái độ chống đối và không lịch sự, nhất là với Arya, một vị công chúa, con gái của nữ hoàng, trong khi nàng đã lên tiếng chào hỏi trước. Arya vẫn bình thản nói: - Rhunon tiền bối, tôi đưa đến một kỵ sĩ mới, Eragon Khắc-Tinh của Tà-Thần. Rhunon nói với Arya: - Ta nghe đồn công nương chết rồi mà. Không giống những thần tiên khác, giọng bà ta cắm cẳn ồ ề, làm Eragon nhớ lại mấy ông già dân làng Carvahall, chiều chiều ngồi ngoài hiên phì phèo tẩu thuốc, kể chuyện ngày xưa. Arya mỉm cười hỏi: - Bao lâu rồi tiền bối không ra khỏi nàh? - Công nương phải biết chứ. Đó là lần công nương ép tôi đến Hội Mừng Hè. - Ba năm qua rồi. - Vậy sao? Hừ, hội với hè, toàn đám đàn bà ngồi lê đôi mách. Nhưng thôi, công nương tới đây làm gì? Chắc không ngoài ý định nhờ tôi rèn một thanh kiếm cho con người này? Công nương biết rõ, từ sau ngày tên kỵ sĩ phản bội đó dùng gươm của tôi để hủy hoài, giết chóc, tôi đã thề không bao giờ làm ra những vật giết người như thế nữa rồi mà. - Không. Eragon đã có kiếm rồi. Arya nâng thanh Zar’roc trước mặt bà ta. Rhunon đón thanh kiếm với ánh mắt đầy kinh ngạc. Bà vuốt ve chuôi thanh kiếm đỏ rực, ngón tay ngập ngừng trên dấu khắc màu đen, rồi nắm tay rút kiếm ra khỏi vỏ uy nghi như một chiến binh dũng mãnh. Vung kiếm khỏi đầu, Rhunon chém mạnh một nhát, xẻ cái kẹp sắt trên đe đứt làm hai. Ômg Zar’roc trong tay, Rhunon đong đưa như mẹ ru con: - Ôi, Zar’roc, ta nhận ra mi rồi. Mi hoàn hảo như ngày mi mới ra lò. Suốt đời, ta đã rèn ra những thanh gươm quý như thế này từ quặng sắt. Thế rồi hắn đến, hủy hoại tất cả. Bao thế kỷ nhọc công tan tành trong thoáng chốc. Cho đến lúc này ta được biết, chỉ còn bốn tác phẩm của ta tồn tại. Một thanh của hắn, một của Oromis, còn hai thanh do hai gia đình cất giữ sau khi giải cứu chúng khỏi tay Wyrdfell. - Wyrdfell là gì? - Là phản đồ. Rhunon quay lại Eragon: - Giờ thì Zar’roc đã trở về. Trong tất cả những thanh kiếm ta tạo ra, ta ít có hy vọng được ôm lại Zar’roc trong tay nhất. Làm sao mi có được thanh kiếm này của Morzan? - Ông Brom đã cho cháu. - Brom? Brom… Ta nhớ rồi. Hắn đã nài nỉ ta làm một thanh để thay thế thanh bị mất. Thật tình ta rất muốn giúp hắn, nhưng ta đã phát thệ rồi. Hắn giận điên lên vì bị ta từ chối. Oromis phải đánh cho hắn ngất đi, mới đưa được hắn ra khỏi nơi này. - Tiền bối Rhunon, thanh kiếm của bà đã cứu cháu. Nếu không có Zar’roc, cháu chết từ lâu rồi. Cháu đã giết Tà Thần Durza bằng thanh kiếm này. - Thật sao? Vậy là Zar’roc đã làm được điều tốt. Rhunon gần như miễn cưỡng khi phải trao trả thanh Zar’roc cho Eragon, rồi quay sang Saphira: - A, chào mi, Skulblaka. Saphira biết Skulblaka nghĩa là rồng trong cổ ngữ. Nó cúi đầu: “Xin chào tiền bối Rhunon.” Không hề xin phép, bà tiên già leo lên cổ Saphira, vỗ vỗ móng tay cụt ngủn lên một cái vảy rồng: - Đẹp, đẹp lắm. Không lấm lem bùn đất như những con rồng khác. Nói một cách chính xác thì kiếm của một kỵ sĩ phải xứng hợp với màu sắc của rồng. Màu xanh này phải đi với một lưỡi gươm rực rỡ… Ý nghĩ đó dường như vắt cạn hết sức lực, Rhunon nhìn hai mảnh kẹp, như không còn ý chí hàn lại nữa. Eragon muốn tìm một câu để làm cho bà khuây khỏa nỗi buồn vì đã trót thề không bao giờ tôi rèn kiếm nữa, nhưng chưa biết nói gì. Nó chợt chú ý đến thân trên chiếc giáp và càng quan sát nó càng thêm kinh ngạc: mỗi chiếc khoen nhỏ li ti đều được hàn kín. Eragon trầm trồ: - Chưa bao giờ cháu thấy một áo giáp của người lùn. Làm cách nào bà có thể kiến nhẫn hàn từng mối nhỏ xíu như vậy được? Sao không dùng phép thuật cho công việc được nhẹ nhàng hơn? Không ngờ nó đã làm bà tiên già sôi nổi hẳn lên: - Phép thuật? Để chiếm đoạt hết niềm vui trong lao động của ta sao? Nếu muốn, thần tiên nào cũng có thể nhờ phép thuật để có được những gì mình muốn. Nhưng… như thế đời sống còn ý nghĩa gì? Cho ta biết, thời gian mi dùng làm gì? Eragon thú thật: - Cháu không biết. - Để theo đuổi những gì mi yêu thích nhất. Cần gì, chỉ niệm mấy câu thần chú là có ngay, mục đích sẽ trở thành vô giá trị. Hãy nhớ bài học đó. Sẽ có ngày mi phải lựa chọn giữa phép thuật và chính sức mình… Bây giờ thì đi đi, ta chán những chuyện tào lao này lắm rồi. Nói xong, Rhunon trở lại cùng cái bễ và lò than. Arya nói: - Rhunon tiền bối, hãy nhớ là tôi sẽ trở lại đón tiền bối vào chiều tối Agaetí Blodhren. Rhunon không ngẩng lên, chỉ ậm ừ trả lời. Tiếng đe búa chan chát và hình bóng bà tiên già bên lò than theo Eragon suốt đoạn đường hầm ra tới đường. Nó hỏi Arya: - Tất cả kiếm của các kỵ sĩ đều do tay bà tạo ra sao? - Bà là một nhà luyện kiếm tài năng nhất của chúng tôi. Tôi nghĩ chàng nên gặp bà, vì bà và vì lợi ích của chúng chàng. - Cám ơn lời khuyên của nàng. Saphira chợt hỏi: “Lúc nào bà ta cũng cộc cằn dữ vậy sao?” Arya cười lớn: - Suốt bốn mùa. Bà không quan tâm tới gì khác ngoài công việc thủ công, bà còn nổi tiếng là người rất khó chịu với kẻ nào đến quấy rầy. Tuy nhiên, tính nết kỳ cục đó không làm ai giận, vì… tài năng và những sản phẩm tuyệt vời của bà. Vừa nghe Arya nói, Eragon vừa cố đoán Agaetí Blodhren nghĩa là gì. Blodh chắc chắn là máu rồi, nhưng còn agaetí? Nó chưa từng nghe bao giờ. Đáp lại câu hỏi của Eragon, Arya cắt nghĩa: - Agaetí là lễ hội. Chúng tôi tổ chức lễ hội mừng Huyết Thệ mỗi thế kỉ một lần. Chàng và Saphira đều may mắn khi có mặt tại đây… Số mệnh đã thu xếp cho sự ngẫu nhiên tốt lành này. Arya làm Eragon ngạc nhiên khi hướng dẫ nó đi sâu vào Du Weldenvarden, bước xuống những lối đi rắc rối, dưới những cành lá chi chít đan xen không để chút kẽ hở cho ánh sáng xuyên qua. Eragon lần mò trong tối, đi theo đôi mắt tinh tường của Saphira. Những thân cây cao lớn xù xì càng lúc càng như mọc sát nhau hơn. Ngay khi cây cối ken nhau nhơ một tấm rào chắn cuối rừng, tất cả tiến vào một hoảng trống chan hòa ánh trăng. Chính giữa khoảng trống là một cây thông đơn lẻ, không cao hơn những cây anh em chung quanh nó, nhưng thân lớn hơn gấp trăm lần. Từ thân cây khổng lồ, cả một tấm thảm rễ - to lớn khỏe mạnh – bao phủ mặt đất như những mạch máu nuôi sống toàn thể khu rừng, như chính nó là trái tim của Du Weldenvarden. Sừng sững giữa rừng, cây thông đơn lẻ giống như bà mẹ hiền che chở đàn con dưới những cành lá vươn dài. Arya thì thầm: - Hãy chiêm ngưỡng cây Menoa. Chúng tôi tuân thủ lời huyết thệ dưới bóng râm của bà. Eragon lạnh người khi nghe Arya nói lên tên cây. Tại thành Teirm, sau khi bà phù thủy Angela đoán vận mệnh cho nó, mèo ma Solembum đã căn dặn thêm: “Tới thời điểm mi cần một vũ khí, hãy nhìn xuống gốc cây Menoa. Sau đó, khi gần như tuyệt vọng, sức tàn lực kiệt, mi hãy tới trước tảng đá Kuthian, tự xưng tên và Cửa Linh Hồn sẽ mở.” Eragon không tưởng tượng nổi loại vũ khí nào mà lại ở dưới gốc cây này và làm cách nào để tìm ra. Saphira hỏi: “Anh có thấy gì không?” ”Không. Nhưng anh tin những lời nói của Solembum sẽ sáng tỏ khi chúng ta thật sự cần đến.” Eragon kể cho Arya nghe hai lời tiên tri của ma mèo. Tuy nhiên, nó không thuật lại những lời của bà Angela, vì ngại Arya đoán ra nỗi lòng của nó. Arya nói: - Ma mèo ít khi giúp ai, nhưng khi chúng đã giúp, chàng nên lưu tâm. Nhưng theo tôi biết, không có vũ khí nào chôn giấu tại đây, kể cả trong những bài ca và truyền thuyết cũng không thấy nhắc đến chuyện này. Còn tảng đá, hay núi đá Kuthian… cái tên nghe mơ hồ trong đầu như một giấc mơ, vừa quen vừa lạ. Hình như tôi đã nghe tên này, nhưng không nhớ ở đâu. Tiến gần cây Menoa, Eragon chợt chú ý tới bầy kiến đang bò trên gốc cây, tuy nhiên nó chỉ thấy những đốm đen lờ mờ; nhưng theo hướng dẫn của sư phụ, nó dễ dàng cảm nhận cuộc sống đang xảy ra chung quanh và có thể tiếp xúc với ý thức thô thiển của bầy kiến. Nó phóng tư tưởng mạnh hơn để tìm hiểu những đời sống khác trong khoảng đất này. Hoàn toàn bất ngờ, Eragon bắt gặp một thực thể bao la, một cảm giác sống động bao trùm cảnh vật, mà nó không thể biết giới hạn tới đâu. So sánh với trí năng của sư phụ Oromis – khi nó được giao tiếp tại Farthen Dur – thì cái tinh thần này mạnh mẽ gấp bội lần. Ngay cả không gian dường như cũng bị chao đảo vì năng lực phát ra từ… cây Menoa. Thong th, bình thản, ý nghĩ của cây tính toán từng bước, như đang chậm rãi trườn mình trên mặt đá. Tư tưởng đó không quan tâm tới Eragon, hay bất cứ cá nhân nào, mà chỉ hoàn toàn chú tâm trong việc làm cho cây cối cỏ hoa phát triển xanh tươi: hồng thắm, ngọc trâm, cúc quỳ, thược dược… đua nhau nở rộ. Eragon bàng hoàng reo lên: - Nó thức dậy! Tôi muốn nói là… nó có… trí khôn! Chắc chắn Saphira cũng cảm thấy điều đó. Nó vươn cổ lắng nghe, rồi bay lên một cành cây. Đậu trên cành cây lớn như con đường từ làng Carvahall tới Therinsford, Saphira khoan khoái ve vẩy cái đuôi to đùng. Nhìn cảnh một con rồng đậu trên cành cây, Eragon suýt phì cười. Giọng Arya nho nhỏ hòa vào bóng đêm: - Đúng là bà ấy đã thức dậy. Càng có muốn nghe kể chuyện về cây Menoa không? - Tôi rất thích nghe. Một vệt sáng trắng thoáng qua bầu trời, rồi hiện lên nguyên hình kế bên Saphira: con quạ Blagden vươn đầu, the thé kêu lên: “Wyrda”. - Ngày xưa, trong thời kỳ tràn ngập hương liệu và rượu nho, trước khi chiến tranh với loài rồng xảy ra… Một phụ nữ tên là Linnea sống một mình và hiến cả cuộc đời cho nghệ thuật ca hát để cây cối lớn lên. Bà không tha thiết đến chuyện chồng con. Thế rồi, một ngày kia có chàng trai trẻ đến ngỏ lời yêu thương. Tình cảm của chàng đánh thức trong lòng Linnea cảm giác mà bà tưởng không bao giờ có thật: niềm khao khát được yêu thương và được hy sinh cho người mình yêu. Vì vậy, lần chàng ngỏ lời lần sau, Linnea đã không thể cầm lòng. Bf rời bỏ công việc, sống hạnh phúc với người yêu… được một thời gian. Nhưng vì còn trẻ, chàng lại tìm thấy tình yêu mới với một cô gái ít tuổi hơn mình. Đôi mắt chàng luôn tràn ngập hình ảnh cô ta. Chàng chinh phục và sống hạnh phúc với người con gái đó. Khi Linnea khám phá ra sự phản bội, bà như phát điên vì đau khổ. Chàng tuổi trẻ đã gây nên một sai lầm tệ hại: đã cho Linnea tận hưởng hạnh phúc trong đời, rồi rũ bỏ bà không hề áy náy. Bà tìm gặp anh ta và cô gái kia. Trong một cơn phẫn nộ, Linnea đã đâm chết người tình cũ. Linnea biết mình đã gây ra tội ác và dù có được tha thứ, bà cũng không thể trở lại như xưa. Đời bà đã mất hết niềm vui sống. Vì vậy, bà tìm đến một cây cổ thụ tại Du Weldenvarden, ép mình vào cây, thề tuyệt đối trung thành cùng nòi giống. Bà đã hát suốt ba ngày cho đến khi bà và cây hòa vào nhau làm một. Từ đó, qua nhiều thiên niên kỷ, Linnea săn sóc và bảo vệ rừng cây. Cây Menoa đã được sinh ra như vậy đó. Eragon lặng lẽ ngồi bên Arya trên một rễ cây khổng lồ. Nó tự hỏi, không hiểu Arya vô tình, hay cố ý kể chuyện này để cảnh cáo nó. Sự nghi ngờ càng mạnh khi nó nghe nàng hỏi: - Theo chàng, trong thảm kịch này, chàng thanh niên có đáng trách không? Eragon ngập ngừng lựa lời: - Theo tôi… anh ta tỏ ra tàn nhẫn quá, còn phản ứng của Linnea lại thái quá…Cả hai đều có lỗi. Arya trừng trừng nhìn cho đến khi Eragon phải quay qua hướng khác. Cô nói rành mạch từng tiếng. - Họ không xứng đôi. Chỉ có vậy thôi. Eragon định cãi lại, nhưng rồi lại nghĩ: Cô ta nói đúng. Arya tiếp tục nhìn làm nó phải nói ra lời: - Có thể là vậy. Sự yên lặng giữa hai người càng nặng nề hơn. Tiếng một con dế gáy vang đâu đó. Sau cùng, Arya lên tiếng hỏi: - Chắc chàng muốn trở về rồi. Eragon lặng lẽ gật đầu. Arya cúi nhặt mấy nhánh Menoa trên mặt đất và bắt đầu đan một cái giỏ nho nhỏ. Cảm thấy mặt nóng bừng bừng khi ngắm nhìn Arya, Eragon mong ánh trăng không đủ sáng để cô không thể nhìn thấy màu đỏ trên hai má nó. - Nàng… sống ở đâu? Trong cung hay lâu đài? - Nữ hoàng và tôi sống trong cung điện Tialdarí, phía bắc Ellesméra. Mong có ngày chúng tôi sẽ tiếp chàng tại đó. - A… ư… Arya, nàng có anh chị em ruột chứ? Cô lắc đầu, Eragon hỏi tiếp: - Vậy, nàng là người kế vị ngai vàng duy nhất của thần tiên? Arya có vẻ thú vị vì sự hiếu kỳ của Eragon: - Đúng vậy, nhưng chàng hỏi làm gì? - Vì tôi không hiểu tại sao nàng lại được phép trở thành sứ thần tại nơi Varden và người lùn, cũng như lãnh nhiệm vụ luân chuyển trứng Saphira từ đây tới Tronjiheim. Đó là một công tác quá nguy hiểm cho một công chúa, chưa nói đến một bà hoàng tương lai. - Chàng đang nói đến vấn đề… quá nguy hiểm đối với một cô gái của loài người. Trước đây tôi đã từng nói, tôi không phải là một trong số những con người yếu đuối đó. Chàng phải hiểu rằng, quan điểm của chúng tôi về chế độ quân chủ khác với loài người và người lùn. Với chúng tôi, nhiệm vụ cao quý nhất của một ông vua hay một bà hoàng là phục vụ thần dân khi có thể, bằng mọi cách, ở mọi nơi. Điều đó có nghĩa là, dù phải hy sinh mạng sống, chúng tôi sẵn sàng chứng tỏ tấm lòng tận tụy với… nói theo kiểu của người lùn… thì là: gia đình, vương triều và danh dự. Nếu tôi bị chết trong lúc thi hành nhiệm vụ, sẽ có người kế nhiệm được tuyển chọn trong những dòng tộc của hoàng gia. Chúng tôi không chọn người lãnh đạo thiếu nhiệt huyết cùng bổn phận. Arya co chân trước ngực, dựa cằm lên đầu gối, ngập ngừng nói: - Phải mất nhiều năm, mẹ con tôi mới hòa giải được vì những tranh cãi trong vấn đề này. Sao, việc học của chàng với Oromis tới đâu rồi? Câu hỏi làm Eragon cảm thấy giây phút bên nàng chợt kém vui: - Tiền bối Oromis… rât uyên thâm… Eragon nhăn mặt vì bị Arya xiết chặt cánh tay, hỏi: - Chuyện gì làm chàng không vừa ý vậy? Cố kéo tay về, Eragon nói ngay: - Không có gì. - Tôi cùng đi với chàng đủ lâu để hiểu, khi nào chàng vui vẻ, giận hờn hoặc… đau khổ. Chuyện gì đã xảy ra giữa chàng và Oromis? Hay vì vết thương đau lại? Chúng ta có thể… - Không phải vì chuyện huấn luyện. Thôi, hỏi Saphira đi, nó sẽ kể cho nghe. - Tôi muốn nghe chính chàng nói ra. Eragon thì thầm kể lại chuyện làm nó đau khổ như đang có một con rắn độc cuộn mình trong lồng ngực: vụ chúc phúc cho đứa trẻ tại Farthen Dur. Arya buông cánh tay Eragon, nắm lấy rễ cây Menoa như cố ngồi cho vững vàng hơn. - Barzul! Lời nguyền rủa bằng ngôn ngữ người lùn làm Eragon giật mình. Chưa bao giờ Arya mở miệng rủa một câu nào. - Tôi có biết hành động đó của chàng tại Farthen Dur, nhưng không bao giờ tôi tưởng… Không bao giờ ngờ cớ sự lại xảy ra như vậy. Eragon, tha lỗi cho tôi vì đã bắt chàng ra khỏi phòng tối nay. Đáng lẽ nên để chàng yên tĩnh nghỉ ngơi. - Không đâu, trái lại, tôi rất sung sướng được đi cùng nàng, rất cám ơn nàng vì những hiểu biết hôm nay. Eragon mỉm cười nhìn Arya. Cô lặng lẽ nhìn lại rồi cũng nhoản miệng cười. Hai chiếc bóng nhỏ bé ngồi kề bên nhau dưới gốc cây khổng lồ, cùng ngước nhìn vầng trăng lấp ló sau màn mây. Eragon thì thầm: - Tôi chỉ tự hỏi rồi đây chuyện gì sẽ xảy ra cho em nhỏ đó. Tuốt trên cao, con quạ Blagden vỗ đôi cánh trắng, choe chóe kêu vang: “Wyrda!” Nasuada khoanh tay trước ngực, không giấu vẻ nóng nảy, khi chăm chăm nhìn hai gã đàn ông đang đứng trước mặt. Gã bên phải đầu to cổ rụt, tóc sùm sụp gần phủ kín mắt, đôi môi dày đỏ chon chót, vẻ mặt vừa ương bướng vừa đần độn. Tuy nhiên cô biết, bề ngoài ngu ngơ vậy, nhưng miệng lưỡi gã trơn tru như bôi mỡ. Gã thứ hia chỉ có một điểm nổi bật: nắng gió Surda không làm làn da trắng xanh của gã sậm thêm một chút nào, dù Varden đã di chuyển tới thủ phủ Aberon của Surda được mấy tuần rồi. Nasuada đoán sinh quán của tên này ở miền bắc đế quốc Alagaesia. Hai tay gã luôn xoắn vặn cái mũ len đan. Nasuada chỉ gã mặt trắng hỏi: - Hắn làm thịt bao nhiêu con gà của ngươi? - Mười ba, thưa tiểu thư. Quay lại gã vai so cổ rụt: - Mười ba là con số xui đấy, ông Láu Cá ạ. Ngươi phạm cả hai tội: trộm cắp và phá hoại tài sản của người khác. - Tôi có chối đâu. - Ta chỉ tự hỏi vì sao ngươi có thể nuốt trôi mười ba con gà trong vòng bốn ngày? Không bao giờ ngươi cảm thấy no sao? Hắn gãi gãi bên má, cười nham nhở như làm trò hề: - Thật tình tôi không dám tỏ ra bất kính, nhưng phải phải chi tiểu thư nuôi ăn chúng tôi đầy đủ thì đâu nên nỗi. Thân hình tôi to béo thế này mà quần quật đập đá suốt ngày, không có được một miếng thịt cho vào bụng, làm sao chịu nổi. Tôi cũng đã cố nhịn thèm đấy chứ. Nhưng ba tuần ăn uống kham khổ thiếu thốn, mà cứ phải ngó cả bầy gà vịt mập ú ù lướt qua mắt, trong khi bụng sôi lên vì đói… Thú thật là… tôi không chịu nổi. Đối với vấn đề ăn uống, tôi vốn là kẻ yếu đuối. Tôi khoái đồ ăn ê hề nóng sốt, thưa tiểu thư. Vấn đề là ở đó, Nasuada thầm nhủ. Varden không đủ khả năng nuôi quân, dù có thêm sự giúp đỡ của Orrin, vua Surda. Nhà vua đã mở kho để giúp, nhưng từ chối hành động theo kiểu của bạo của Galbatorix quen làm: chiếm đoạt lương thực của dân để tiếp tế ra mặt trận. Cách hành xử của vua Orrin là thái độ của một quân vương, nhưng càng đẩy Nasuada vào khó khăn hơn. Dù cô biết, những hành động như thế giúp người dân nhận rõ sự khác biệt giữa những người như cô, vua Orrin, vua Hrothgar và nữ hoàng Islanzadí với chế độ chuyên chế của Galbatorix. - Ta thông cảm những lý do ngươi nêu ra. Tuy nhiên, dù Varden không phải là một nhà nước, nhưng chúng ta cũng có quy luật do các vị tiền nhiệm của hcúng ta đã đặt ra. Quy luật đó không cho phép ngươi hay bất kỳ kẻ nào sai phạm. Do đó, ta ra lệnh mi phải bồi thường mỗi con gà một xu. Cô ngạc nhiên thấy hắn hớn hở chấp nhận ngay. - Tuân lệnh tiểu thư. Nhưng gã mặt trắng lại hốt hoảng kêu lên: - Không. Bất công quá! Nếu tôi bán tại chợ, giá sẽ là… - Đúng. Ngươi sẽ bán được giá cao hơn. Nhưng ta là người trả lương, ta biết hắn sẽ không đủ khả năng trả người nhiều hơn nữa. Ngươi quên rằng nếu ta quyết định xung công đàn gia cầm của người vì lợi ích của Varden, thì ngươi sẽ không được xu nào. Hiểu ý ta rồi chứ? - Nhưng anh ta không thể… - Hiểu ý ta rồi chứ? Ngần ngừ một lúc, hắn đành gật đầu lẩm bẩm: - Tôi hiểu, thưa tiểu thư. - Tốt. Bây giờ cả hai hãy lui ra. Nasuada ra lệnh cho mấy tên lính bảo vệ: - Các ngươi cũng ra ngoài hết đi. Còn lại một mình, cô ngả mình trên ghế, mệt mỏi, thở dài, với tay cầm quạt phe phẩy cho ráo mồ hôi lấm tấm trên trán. Cái nóng dai dẳng của vùng này như rút cạn sinh lực của cô và khiến những việc nhỏ nhặt nhất cũng trở thành khó khăn. Từng quen thuộc với những công việc nội bộ của Varden, Nasuada cũng không thể ngờ chuyện di chuyển toàn bộ đội ngũ từ Farthen Dur, qua núi Beor để tới Surda và Aberon lại phát sinh nhiều việc đến như vậy. Cô rùng mình nhớ lại những ngày dài rong ruổi lưng ngựa. Vượt qua những khó khăn từ lên kế hoạch di dời, lo thu xếp chỗ ở mới, đồng thời vừa phải sửa soạn chương trình tấn công triều đình. Nasuada thầm than: “Mình đâu còn đủ thời gian để ngày nào cũng phải giải quyết những chuyện vặt vãnh như thế này!” Cô buông quạt, kéo dây chuông gọi Farica, người tỳ nữ thân cận. Farica xuất hiện từ sau cánh cửa ẩn sau bức rèm bên phải bàn làm việc. Nasuada hỏi: - Còn ai nữa không? - Không, thưa tiểu thư. Nasuada không để lộ vẻ khoan khoái ra mặt. Mỗi tuần, cô mở một tòa án công khai để giải quyết những vụ xung đột trong nội bộ Varden. Kẻ nào cảm thấy có điều bị oan sai đều có quyền xin được xét xử. Nhưng Nasuada không ngờ giải quyết những chuyện vặt đó lại quá khó khăn, vì dương như chẳng ai vừa lòng. Có lẽ giống như cha cô đã nói sau lần thương thuyết với vua Hrothgar: “Một cuộc hòa giải tốt đẹp khiến cho mọi người đều tức giận.” Trở lại chuyện trước mắt, Nasuada bảo Farica: - Tôi muốn phần công cho gã Láu Cá một việc khác. Hãy giao một công việc thích hợp với miệng lưỡi dẻo quẹo của hắn. Quản lý hầm đá chẳng hạn, để hắn có đủ khẩu phần ăn. Đừng để hắn lại bị dẫn đến trước mặt tôi vì tội trộm cắp nữa. Farica cúi đầu bước tới bàn, ghi lại chỉ thị của Nasuada, sự nghiêm túc trong công việc là một trong những điều làm cô ta được tin cậy. Quay lại Nasuada, Farica hỏi: - Tôi có thể kiếm hắn ở đâu? - Trong mấy nhóm làm hầm đá. - À, trong khi tiểu thư bận xử vụ này, vua Orrin có cho mời tiêu thư đến gặp ngài tại phòng thí nghiệm. - Ông ta lại bày trò gì trong phòng thí nghiệm nữa? Hết làm cho tai điếc, bây giờ lại muốn mù cả hai mắt sao? Vừa nói Nasuada vừa rửa tay và cổ bằng nước thơm, ngắm lại mái tóc trong chiếc gương bằng bạc của vua Orrin đã tặng cô, rồi kéo tay áo choàng ngay ngắn lại. Farica theo nữ chủ ra khỏi phòng. Ánh nắng choi chang rọi vào hành lang lâu đài Borromeo. Nasuada nhìn qua khoảng sân quanh lâu đài: chừng ba chục kỵ binh áo màu cam không ngừng lui tới tuần tra. Cô chua chát nghĩ: “Bấy nhiêu đó ăn thua gì nếu đích thân Galbatorix mở cuộc tấn công.” Galbatorix chưa mở cuộc tấn công là vì lão quá cao ngạo, và vì – cô hy vọng – lão còn e ngại Eragon. Tất cả vua chúa đều cảnh giác với nguy cơ bị tiếm ngôi, nhưng những kẻ tiếm ngôi lại rất sợ mối hiểm họa có thể gây ra bởi những kẻ đơn thương độc mã. Nasuada biết cô đang chơi ván cờ nguy hiểm quá sức mình, khi đối đầu với một lão điên loạn uy quyền nhất Alagaesia. Nếu phán đoán sai lầm khả năng của mình, thì công chỉ cô và toàn thể tổ chức Varden bị tiêu diệt, mà hy vọng chấm dứt triều đại Galbatorix cũng sẽ tiêu tan. Hương thơm tinh khiết trong lâu đài nhắc cô nhớ thời thơ ấy ở đây. Khi đó, tiên vương Larkin là phụ hoàng của Orrin còn đang trị vì. Orrin lớn hơn cô năm tuổi, nhưng hiếm khi hai người gặp nhau, vì anh ta luôn bận bịu với những bổn phận của một hoàng tử nhỏ. Tuy nhiên cho đến bây giờ, cô vẫn luôn cảm thấy, dường như cô mới là người lớn tuổi hơn. Nasuada dừng bước trước cửa phòng thí nghiệm, chờ lính ngự lâm vào tấu trình. Tiếng nhà vua sang sảng vang ra: - Tiểu thư Nasuada, tôi đang nóng lòng khoe cô một chuyện đây. Nasuada cùng Farica bước vào. Căn phòng ngổn ngang những cái bàn chất đầy từ nồi chưng cất, tới những cốc lớn, bình thí nghiệm thủy tinh vươn cổ ra cả lối đi như chực chờ va quẹt vào tà áo hai người. Hơi kim loại bồng nặc làm Nasuada ứa nước mắt. Cô cùng người tì nữ lách mình qua lối đi nhỏ hẹp, cố tránh đụng phải những ly đồng hồ cát, những kính thiên văn của người lùn, những bình pha lê chứa lân tinh tỏa ánh sáng xanh lè. Vua Orrin ngồi bên cái bàn đá, đang ngoáy thủy ngân trong nồi bằng một ống thủy tinh - một đầu hở một đầu kín -, dài chừng một thước, nhưng đường kính chỉ vài ly. Trong khi Farica nghiêng mình chào, Nasuada vẫn đứng thẳng để chứng tỏ địa vị của cô ngang bằng nhà vua. Cô hỏi: - Hình như bệ hạ đã hồi phục sau vụ nổ tuần trước? - Trẫm học được một điều, đừng bao giờ dại dột hòa phốt pho vào nước trong một không gian khép kín. Hậu quả sẽ ghê gớm lắm. - Thính giác của bệ hạ cũng bình thường lại rồi chứ? - Chưa hoàn toàn, nhưng… Hí hởn cười như đứa trẻ được quà, nhà vua gắp cục than trong lò, châm cây đèn nhỏ, rồi mồi tẩu thuộc nhồi lá cỏ cardus. Cô không hiểu vì sao nhà vua chịu nổi không khí quá ngột ngạt trong phòng này, nhưung chỉ hỏi: - Tôi không biết bệ hạ cũng hút thuộc. - Không đâu. Nhưng vì tai chưa hồi phục hẳn, trẫm dùng thứ này… Cầm tẩu thuốc, hít mạnh một hơi, rồi Orrin phùng má cho đến khi một làn khói uốn éo tuôn ra từ tai trái như một con rắn trườn ra khỏi tổ. Nhà vua lại cười hí hởn khoe: - Cảm giác hay lắm. Như có ai cù trong tai vậy. Nasuada nghiêm mặt hỏi: - Bệ hạ còn gì khác cần bàn không? Orrin búng ngón tay: - Có, tất nhiên là có chứ. Tiểu thư nhìn kỹ nhé. Orrin nhúng ống thủy tinh vào nồi, đổ thủy ngân vào ống, rồi bịt đầu hở bằng ngón tay. Đưa ống thủy ngân lên trước mắt Nasuada, nhà vua hỏi: - Tiểu thư đồng ý trong ống này chỉ có thủy ngân chứ? - Tôi đồng ý. Vừa trả lời, cô vừa tự hỏi: “Chẳng lẽ gã vua này gọi mình đến chỉ để khoe trò lẩm cẩm này thôi sao?” Với một động tác thật lẹ làng, Orrin quay ngược ống vào nồi, rồi rút ngón tay ra. Thay vì tuôn hết ra ngoài, như Nasuada tưởng, chất thủy tinh chỉ trôi xuống lưng chừng ống rồi ngừng lại. Chỉ khoảng trống bên trên lớp thủy ngân, Orrin bảo: - Nào, bây giờ tiểu thư thấy gì? Khoảng trống này chứa chất gì? - Chắc phải là không khí. Nhà vua cười cười lắc đầu: - Nếu là không khí, sao không thoát ra ngoài. Không có đường nào để áp lực không khí có thể chen chân vào đây được. Quay sang Farica, Orrin hỏi: - Ý ngươi thì sao, tỳ nữ? Farica lom lom nhìn rồi bảo: - Chẳng lẽ lại… không có gì? - Ha ha, nhưng chính xác là vậy đó. Trẫm tin là mình đã giải được bài toán hóc hiểm và lâu đời nhất về thiên nhiên. Trẫm đã chứng minh khoảng chân không là có thật. Điều này hoàn toàn đánh đổ lý thuyết của Vacher và cũng có nghĩa, Ládin thật sự là một thiên tài. Phải công nhận thần tiên dường như luôn luôn có lý. Nasuada cố bình tĩnh hỏi: - Nhưng mục đích của khám phá này là gì? - Mục đích? Tất nhiên là chẳng có mục đích gì, ít ra là ngay lúc này. Tuy nhiên nó giúp chúng ta hiểu sự hình thành của thế giới. Vì sao, bằng cách nào? Đó là một khám phá thật diệu kỳ. Ai có thể biết trước khám phá này sẽ dẫn tới đâu. Vừa nói, Orrin vừa trút hết thủy ngân ra khỏi ống, rồi nhẹ nhàng đặt vào một hộp lót nhung. - Tuy nhiên mong ước thật sự của trẫm là sử dụng phép thuật để khám phá những bí ấn của thiên nhiên. Chẳng hạn như mới hôm qua, vì sao mà chỉ với một câu thần chú, Triana đã giúp trẫm phát hiện hai khí hơi hoàn toàn mới. Trẫm đang có ý định học phép thuật, nếu có thể thuyết phục được một pháp sư nào đồng ý chia sẻ kiến thức đó. Tiếc là kỵ sĩ Eragon đã không cùng đến đây với tiểu thư. Ta tin là Eragon sẽ đồng ý giúp. Nasuada ra lệnh cho Farica: - Ra ngoài chờ ta. Farica cúi đầu chào rồi lui ra. Cánh cửa vừa khép lại, Nasuada lên tiếng: - Bệ hạ có tỉnh táo không? - Ý tiểu thư định nói gì? - Trong khi bệ hạ giam mình trong phòng, làm những thí nghiệm vô bổ, lại có thể gây bao nhiêu nguy hiểm cho ngọc thể, thì bên ngoài đất nước ngài đang mấp mé bờ vực chiến tranh. Vô số vấn đề chờ đợi quyết định của ngài, vậy mà ngài đứng đây phì phà tẩu thuốc và đùa chơi với ông thủy ngân sao? Orrin sa sầm mặt: - Trẫm biết rất rõ bổn phận của mình, tiểu thư Nasuada. Tiểu thư là lãnh đạo của Varden, nhưng ta là vua của nước Surda. Phải nhớ điều đó trước khi nói lên những lời bất kính như thế. Có cần trẫm nhắc tiểu thư, nơi trú ẩn này của tiểu thư còn tùy vào thiện ý của ta kéo dài được bao lâu? Nasuada biết, đó chỉ là một lời đe dọa vu vơ; vì nhiều người Surda có họ hàng trong tổ chức Varden và ngược lại. Họ không bao giờ có thể bỏ rơi nhau vì mối ràng buộc họ hàng rất thân thiết đó. Không, lý do thật sự làm Orrin tức bực là vấn đề quyền lực. Vì gần như không thể giữ cả một đoàn chiến binh ăn không ngồi rồi suốt một thời gian dài, nên những người Vattden phải kiếm việc làm, phải trồng trọt, và do đó hòa nhập vào nơi đất khách này. “Sau cùng thì mình sẽ ra sao? Lãnh đạo một đoàn quân hữu danh vô thực? Hay trở thành một cấp chỉ huy dưới trướng Orrin?” Vị thế của Nasuada thật bấp bênh. Nếu hành động quá hấp tấp hay đưa ra quá nhiều đề nghị, sẽ gây cho Orrin cảm giác bị áp chế; nhất là cô lại đang được toàn dân Surda nể trọng vì chiến thắng của Varden tại Farthen Dur. Nhưng nếu phải chờ đợi quá lâu, cô sẽ vuột mất dịp may khai thác yếu điểm tạm thời lúc này của Galbatorix. Lợi thế duy nhất để vượt qua sự đối kháng ngấm ngầm này, chính là cô đang nắm trong tay yếu tố có thể thúc đẩy mọi hành động: Eragon và Saphira. Cô nói: - Tôi không hề tìm cách ngấm ngầm làm hại đến quyền uy của bệ hạ. Vì đó không phải là mục đích của tôi. Nhưng tôi xin lỗi, nếu đã gây ra ngộ nhận. Tất cả chỉ vì… công việc bề bộn quá. Tôi đã phải để một cuốn sổ bên giường như để ghi nhớ, vậy mà vẫn không làm hết việc. Tôi luôn cảm thấy như… chúng ta đang mấp mé bên bờ đại họa. - Trước khi tiểu thư tới đây… Không, không phải vậy. Phải nói là trước khi vị kỵ sĩ của tiểu thư xuất hiện một cách hoàn toàn cụ thể, ta đã mong ước được sống một cuộc đời giống cá đấng tiên vương: Đó là, chỉ âm thầm chống đối Galbatorix trong bí mật. Vì vậy tiểu thư phải cho trẫm một thời gian để quen dần với thực tế mới này. - Tôi hiểu, thưa bệ hạ. - Nasuada, cô chỉ là một nhà lãnh đạo mới, còn trẫm đã nắm quyền nhiều năm rồi. Trẫm thành thật khuyên cô hãy tìm một thú tiêu khiển như ta cho đầu óc bớt căng thẳng. - Tôi không thể. Mỗi khoảng khắc của tôi là cố gắng tìm cách hạ gục Galbatorix. - Sẽ có hại cho Varden, nếu cô khăng khăng tiếp tục vắt kiệt sức mình cho công việc. Không cho đầu óc nghỉ ngơi thư giãn, thì không ai có thể làm việc hiệu quả được. Không cần nhiều, chỉ là năm mười phút thôi cũng đủ. Tập luyện cùng các xạ thủ chẳng hạn… Đó là lý do chính để trẫm thiết lậo phòng thí nghiệm này. Đó là vì sao trẫm phì phà tẩu thuốc và chơi đùa với thủy ngân, như cô nói. Và nhờ vậy ta đã không bực tức la hét cả ngày. Dù không đồng ý với quan điểm của nhà vua, Nasuada vẫn nói: - Tôi xin ghi nhớ lời khuyên của bệ hạ. Orrin lại cười hồn nhiên như đứa trẻ: - Trẫm rất hài lòng. Nasuada tiến tới cửa sổ, nhìn xuống đường phố Aberon. Cô lắng nghe tiếng hàng rong í ới rao, nhìn đám bụi bàng tung bay khi chiếc xe ngựa đang từ hướng tây tiến vào cổng thành; không khí thoảng thoảng mùi cỏ cardus và hương nhang tỏa ra từ ngôi đền bằng đá hoa cương. Không quay lại, Nasuada hỏi: - Bệ hạ đã nhận bản báo cáo mới nhất của chúng tôi từ Alagaesia gửi qua chưa? Orrin cũng đến bên cửa sổ: - Trẫm đã nhận. - Ý kiến bệ hạ thế nào? - Quá sơ sài, không đủ để rút ra một kết luận chính xác nào. - Nhưng đó là những tin tức tốt nhất mà chúng tôi có thể nhận được. Xin bệ hạ cứ cho ý kiến. Nếu rút ra từ những chi tiết của bản báo cáo, bệ hạ có đặt dấu nghi ngờ nào không? Ngẫm nghĩ một lúc lâu nhà vua mới lên tiếng, và những lời nói của ông như những lời tiên tri i ám báo ngày tận thế: - Tăng thuế, rút hết quân trú phòng về, sung công bò và ngựa khắp nước… Có vẻ như Galbatorix đang tập trung lực lượng để sửa soạn đương đầu với chúng ta. Nhưng trẫm chưa thể nói, lão mưu tính phòng thủ hay tấn công đây. Điều trẫm bận tâm nhất bây giờ là bao lâu nữa hắn mới ban lệnh động viên? VÌ điều đó sẽ quyết định đường lối chiến lược của ta. - Mấy tuần, mấy tháng, mấy năm. Không thể đoán được hành động của lão. - Gián điệp của tiểu thư vẫn tiếp tục phao tin rộng rãi về Eragon chứ? - Việc làm đó mỗi lúc mỗi nguy hiểm, nhưng chúng tôi vẫn cố gắng thi hành. Hy vọng của tôi là, những thành phố như Dras-Leona sẽ tràn ngập tin đồn về sự dũng cảm của Eragon. Như vậy, khi chúng ta tiến vào thành phố và dân chúng được thật sự nhìn thấy kỵ sĩ rồng, họ sẽ tự nguyện theo chúng ta, tránh được việc vây đánh thành. - Chiến tranh hiếm khi nào quá dễ dàng đến thế đâu. Nasuada không phản đối lời phê phán của nhà vua. Cô hỏi: - Như thường khi, lúc nào Varden cũng sẵn sàng. Còn quân của bệ hạ thì sao? Orrin xòe hai bàn tay như phân trần: - Đánh thức một quốc gia là một điều rất khó khăn, Nasuada. Phải thuyết phục những nhà quý tộc, rồi trang bị áo giáp, vũ khí; tập trung lương thực… - Suốt thời gian kéo dài đó, tôi lấy gì để nuôi quân? Chúng tôi cần nhiều đất hơn số bệ hạ đã cấp cho… - Biết, trẫm biết… - … vì vậy chúng tôi chỉ còn cách phải chiếm được Alagaesia, trừ khi bệ hạ muốn sáp nhập Varden vào hẳn Surda. Nhưng như vậy, bệ hạ phải cung cấp nhà cho hàng mấy ngàn con người đã theo tôi từ Farthen Dur tới đây. Điều đó chắc sẽ không làm vui lòng thần dân của bệ hạ. Dù chọn lựa phương án nào, xin bệ hạ quyết định ngay. Vì tôi e nếu bệ hạ tiếp tục trì hoãn, Varden sẽ phân tán thành những toán nhỏ, không thể kiểm soát nổi. Cô cố dịu giọng để không giống như một lời hăm dọa. Tuy nhiên rõ ràng nhà vua không hiểu ẩn ý của Nasuada. Ông ta bảo cô: - Thân phụ tiểu thư không bao giờ để cấp dưới vượt khỏi vòng kiểm soát của ông. Nếu muốn tồn tại trong địa vị lãnh đạo Varden, tôi tin là tiểu thư cũng sẽ làm được như vậy. Còn việc thu xếp của chúng tôi, không thể làm gấp rút được. Tiểu thư ráng đợi khi nào chúng tôi sẵn sàng. Nasuada nắm chặt thành cửa sổ, mạch máu trên lưng bàn tay nổi phồng lên, nhưng cô không để giọng nói biểu lộ chút tức giận nào: - Nếu vậy… bệ hạ có thể cho Varden vay thêm vàng để mua lương thực không? - Không. Tôi đã đưa cho tiểu thư tất cả tiền bạc của tôi rồi. - Vậy thì… chúng tôi sẽ ăn bằng gì đây? - Tôi đề nghị, tiểu thư phải tự xoay sở thôi. Phẫn nộ, nhưng Nasuada nở nụ cười rạng rỡ nhất và vừa giữ nguyên nụ cười vừa trừng trừng nhìn cho đến khi Orrin phải cảm thấy bối rồi. Lúc đó cô mới cúi mình chào như một tì nữ: - Tiện nữ xin cáo lui. Hy vọng cho đến cuối ngày hôm nay, bệ hạ sẽ vẫn còn cảm thấy thú vị về buổi chuyện trò này. Orrin lúng búng trả lời, nhưng Nasuada đã lách qua mấy cái bàn bước ra phía cửa. Cánh tay áo của cô vướng vào một bình ngọc, làm cái bình đổ vỡ, chất lỏng màu vàng tràn lan trên mặt bàn đá. Tay áo phải và váy của cô bị ướt sũng. Farica hấp tấp bước theo nữ chủ về phòng. Mở tung cửa phòng, Nasuada chạy tới bàn làm việc, buông mình xuống ghế. Mắt cô như mờ đi không nhìn thấy gì chung quanh. Nhịp thở dồn dập, trong đầu cô chỉ vang lên một ý nghĩ: “Mình thất bại rồi.” - Tiểu thư, coi chừng tay áo. Nasuada giật mình nhìn xuống.Farica rối rít dùng giẻ lau phủi mạnh lên cánh tay phải của chủ nhân. Một luồn khói khét lẹt bốc ra từ ống tay áo. Hốt hoảng, cô đứng bật khỏi ghế, xoay tay tìm chỗ cháy. Cánh tay áo và một góc váy của cô đang mủn ra thành tro trắng. - Cởi lẹ cho ta. Vừa nói, Nasuada vừa giang tay, cô sđứng vững để Farica tháo giải đai và cởi từng nút áo choàng. Chỉ còn đôi dép và bộ áo lụa trên mình, Nasuada đứng bên bàn thở dồn dập vì hốt hoảng, tuy nhiên cô cũng mừng vì giải đai áo đắt tiền dù bốc mùi khét nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Farica hất cái áo dưới đất bằng mũi giày, lèm bèm hỏi: - Thứ quỷ quái gì mà lại bốc cháy thế này? - Ta đã làm đổ bình nước thuốc của Orrin trong phòng phí nghiệm. Nasuada bàng hoàng nhìn tấm áo do những người đàn bà lùn trong hoàng gia Ingeitum đã dệt tặng riêng cô nhân ngày sinh nhật. Đây cỹng là cái áo đẹp nhết để cô có thể mặc mỗi khi xuất hiện trước mọi người. Với tình hình tài chính eo hẹp của Varden hiện nay, Nasuada không đủ khả năng mua một cái áo khác được. Farica lục trong giỏ may, lấy cái kéo, lắc đầu nói: - Cái áo này vải đẹp quá, để tôi cắt bỏ những chỗ bị cháy thôi. Chưa hết khó khăn này, lại dồn dập thêm khó khăn khác làm Nasuada tức bực đến nghẹn lời: - Lấy gì để mặc khi vào triều đây? - Hay là tiểu thư mặc cái áo bằng lụa vậy. - Xuất hiện trước vua Orrin và đám quý tộc của ông ta bằng cái áo tầm thường như vậy sao? - Tiểu thư cứ để tôi thử xem. Tôi đảm bảo sẽ sửa chữa thành một cái áo sang trọng gấp đôi áo cũ. - Ôi! Không được đâu! Đừng bắt ta làm trò hề trước mặt họ. Còn kẻ nào nể trọng, khi thấy ta mặc một cái áo vá víu như thế chứ. Người tì nữ nghiêm nghị nhìn Nasuada: - Tiểu thư yên tâm. Tôi bảo đảm khi tôi sửa xong, tiểu thư sẽ có một cái áo làm các vị phu nhân phải giật mình và bắt chước kiểu mẫu. Mở hé cửa, Farica đưa những mảnh vải bị cháy cho một người lính gác: - Tiểu thư ra lệnh đốt ngay những thứ này. Không được hé răng cho ai biết. Rõ chưa? Khi Farica quay vào, Nasuada mỉm cười bảo: - Không có em, ta thật tình không bếit xoay trở thế nào. - Đa tạ tiểu thư quá khen. Tiểu thư vẫn giải quyết nhiều việc khó khăn hơn việc vặt này gấp ngàn lần. Sau khi mặc bộ áo săn màu xanh, dù phát ngấy những lời khuyên của nhà vua, Nasuada cũng đành tạm gác công việc thường ngày để phụ cùng người tì nữ gỡ từng đường chỉ của thân áo còn lại. Vừa làm Nasuada vừa tâm sự cùng Farica về vấn đề tài chính bế tắc của Varden, hy vọng người tì nữ có thể đưa ra giải pháp nào không. Nhưng nghe xong, Farica chỉ biết chép miệng thở dài: - Chung quy mọi vẫn đề trên đời muốn giải quyết thì cần phải có tiền. Nếu có tiền, có lẽ chúng ta không cần phải đánh cũng có thể lật Galbatorix khỏi ngai vàng của lão. Nasuada cầm chiếc đai áo lên ngắm nghía. Đây là phần đáng giá nhất của cái áo. Không chỉ đòi hỏi sự khéo léo, mà còn cần thời gian và kiên nhẫn. Một cái đai rua cần phải rút từng sợi chỉ, rồi kết thành từng hoa văn. Tốn rất nhiều thời gian. Mấy tháng trời mới có thể hoàn thành một dải đai như thế này. Vì vậy, chúng được bán theo cân lượng, giá trị ngang ngửa với bạc vàng. Cô chợt nhớ tới những lời nói của vua Orrin, mong có phép thuật để nghiên cứu về thiên nhiên; cô cũng nhớ tới Triana, người phụ nữ chỉ huy Con-đường Lãng-du từ sau khi cặp sinh đỗi chết, và cô nhớ lại những lời cắt nghĩa về nguyên tắc phép thuật của một vài pháp sư nói với cô, năm cô mới lên năm sáu tuổi. Nasuada chợt đứng dậy, vải áo từ trên đùi rơi lả tả xuống sàn. Cô bảo Farica: - Gọi ngay Trianna đến đây. Dù cô ta đang làm gì, cũng bảo tới gặp ta ngay. Farica nhíu mày thắc mắc, nhưng vẫn cúi đầu, ra khỏi phòng. - Cám ơn, Farica. Nasuada lẩm bẩm với căn phòng trống. Cô biết người tì nữ miễn cưỡng tuân lệnh, vì chính cô cũng cảm thấy không thoải mái mỗi khi tiếp xúc với những kẻ sử dụng phép thuật.Thật ra, cô chỉ tin cậy một mình Eragon, vì đó là một kỵ sĩ (dù điều đó cũng chưa hẳn là bằng chứng của sự trung thành, chẳng hạn như trường hợp Galbatorix), và vì Eragon đã tuyên thệ với cô. Quyền lực của pháp sư và phù thủy luôn làm cô e ngại. Cứ nghĩ đến chuyện, chỉ với một lời nói đủ để giết chết một con người, đủ để xâm chiếm tư tưởng người khác; và những trò gian ngoan, lừa lọc, trộm cắp do họ gây ra gần như thách thức xã hội mà không có cách nào bắt tội được họ, làm Nasuada khiếp sợ. Làm sao ổn định luật pháp, khi sống trà trộn với những thành phần có thứ uy quyền đặc biệt như thế? Trong khi nền tảng của tổ chức cách mạng Varden là chống đối triều đình, để xử tội một con người đã lạm dụng khả năng phép thuật mà gây ra biết bao nhiêu tội ác. Những đau khổ mà dân chúng đang phải hứng chịu, chỉ vì không có ai đủ sức mạnh để hạ gục Galbatorix. Lão còn dai dẳng sống thêm nhiều năm nữa! Nhưng dù không ưa phép thuật, Nasuada biết mình vẫn phải đóng vai trò quyết định trong việc trừ khử Galbatorix, vì vậy vẫn phải nhân nhượng mọi thành phần cho đến khi bảo đảm được thắng lợi sau cùng. Tới lúc đó cô mới có thể giải quyết được những vấn đề họ gây ra. Nghe tiếng gõ cửa, Nasuada vội sửa soạn mọt nụ cười hòa nhã và bình tĩnh thủ thê,s giữ vững tinh thần như cô đã từng được huấn luyện. - Mời vào. Cánh cửa mở rộng và cô gái phù thủy bước vào phòng., Mái tóc nâu rối bù chứng tỏ cô ta vừa ra khỏi giường. Trianna cúi chào theo kiểu người lùn: - Tiểu thư cho gọi tôi? - Phải, Ta muốn biết quy tắc quan trọng nhất của phép thuật là gì? Trianna ngẩng cao đầu trước cái nhìn của Nasuada: - Đó là, muốn làm bất cứ điều gì bằng phép thuật, phải tùy thuộc vào nội lực. - Vậy thì cô có thể làm được những gì trong khả năng cổ ngữ của mình? - Tiểu thư hỏi làm gì? Tôi tin chắc, đó là những điều căn bản mà tiểu thư đã từng biết. - Đúng vậy. Nhưng ta muốn biết chắc là ta đã hiểu một cách tường tận vấn đề. Vẫn ngồi trên ghế, Nasuada nghiêng mình nhặt lên cái áo đã bị cắt một phần, để Trianna nhìn thấy dải đai bị hỏng: - Vậy với khả năng của mình, cô có thể niệm chú để tạo ra một dải đai rua được chứ? Vành môi thâm của ả phù thủy nhếch một nụ cười ngạo nghễ: - Con-đường Lãng-du có nhiều chuyện phải làm hơn là sửa chữa quần áo cho tiểu thư. Phép thuật của chúng tôi không đến nỗi quá tầm thường để làm những chuyện vặt vãnh này. Tôi tin rằng tiêu thư sẽ kiếm được một cô thợ may nào đó để đáp ứng đòi hỏi của tiểu thư… - Im ngay. Ta thấy cần phải cho Con-đường Lãng-du một bài học như Hội-đồng Tiền-bối. Ta tuy còn trẻ, nhưng không phải là đứa con nít đòi hỏi được nuông chiều. Ta hỏi về đai rua là vì muốn sản xuất cấp kỳ hàng loạt bằng phép thuật, để ủng hộ Varden, bằng cách bán giá rẻ trên toàn lãnh thổ Alagaesia. Thần dân của Galbatorix sẽ đổ tiền bạc ra mua, và chúng ta sẽ dùng đồng tiền đó để sống còn. - Nhưng nghe vô lý quá. Tiểu thư không thể trang trải phí tổn chiến tranh bằng mấy cái đai áo được. Trianna phản đối, ngay cả Farica cũng tỏ ra nghi ngờ. Nasuada nhướng cao mày, hỏi: - Tại sao không? Trái lại, những phụ nữ chưa từng có khả năng mua một dải đai, sẽ vui mừng nhảy lên vì những cái đai giá rẻ. Vợ của những nông dân, ước ao được xuất hiện trước mọi người như một người giàu có, sẽ sẵn sàng bỏ chút tiền ra mua ngay. Kể cả những nhà quý tộc, những thương gia cũng sẽ đổ tiền bạc ra, vì đai của chúng ta đẹp hơn, tinh xảo hơn những cái đai được làm ra từ những con người bình thường. Ta mong cô có đủ tài nghệ để làm điều đó. Trianna vò tóc, nhăn nhó hỏi: - Tiểu thư nghi ngờ khả năng tôi? - Cô làm được chứ? Trianna cầm dải đai quan sát, rồi bảo: - Rất có thể. Nhưng để tôi thử trước rồi sẽ trả lời tiểu thư. - Tiến hành ngay đi. Từ nay, đó là phần hành quan trọng nhất của cô. Hãy tìm một thợ làm rua giỏi nhất làm cố vấn cho cô từng chi tiết. - Tôi hiểu, thưa tiểu thư. Nasuada dịu giọng: - Rất tốt. Tôi cũng muốn cô tuyển chọn những phần tử tài năng nhất trong Con-đường Lãng-du và cùng họ phát minh ra những phương pháp phép thuật hữu hiệu nhất để giúp Varden. Đó là trách nhiệm của cô. - Xin tuân lệnh. - Giờ cô có thể lui ra. Báo cáo cho tôi vào sáng mai. Sau khi Trianna cúi chào, ra khỏi phòng, Nasuada nhắm mắt khoan khoái tận hưởng niềm hãnh diện về những gì cô vừa hoàn tất. Cô biết không ai, kể cả cha cô, lại nghĩ ra giải pháp này. Nasuada thầm nhủ: “Đây là đóng góp của mình cho Varden. Ước gì cha biết điều này”, rồi cô nói lớn thành lời: - Tôi làm em ngạc nhiên, phải không, Farica? - Tiểu thư luôn làm em kinh ngạc. - Tiểu thư… Tiểu thư… Mời tiểu thư đi ngay… Nasuada choàng mở mắt để thấy Jormundur, tay ôm mũ sắt, tay nắm chuôi kiếm bên sườn, hấp tấp chạy vào phòng. Áo giáp đan bằng chỉ sắt loảng xoảng khi ông cúi đầu chào: - Chào ông, Jormundur, sức khỏe con trai ông sao rồi? Nasuada vui vẻ chào hỏi. Trong tất cả thành viên của Hội-đồng Tiền-bối, ông là người duy nhất chấp nhận việc lãnh đạo của cô một cách thoải mái nhất, và ông cũng là người duy nhất tỏ ra rất trung thành với cô, như từng đối với vị thủ lãnh quá cố Ajihad. Nhìn ông, cô thầm ước: “Phải chi tất cả chiến binh của ta đều được như ông…” - Nó đã giảm ho nhiều rồi. - Tốt quá. Nào, ông gặp tôi có chuyện gì? Trán hằn những vết nhăn, Jormundur đưa tay vuốt mái tóc buộc túm sau gáy như chùm đuôi ngựa: - Ma thuật! Kỳ lạ lắm. - Hả? Ông nói sao? - Tiểu thư còn nhớ đứa nhỏ được Eragon chúc phúc chứ? - À.. Nasuada đã thấy đứa bé gái đó một lần, nhưng cô nghe rất nhiều chuyện thêu dệt quá đáng về nó trong những người Varden và những kỳ vọng họ tin con bé sẽ đạt được khi khôn lớn. Nhưng cô bận tâm vấn đề thực tại hơn. Cho dù con bé trở nên cái gì thì cũng phải chờ nhiều năm nữa, đến lúc đó cuộc chiến với Galbatorix, thắng hay bại, cũng đã kết thúc rồi. Jormundur tha thiết nói: - Tôi được yêu cầu đưa tiểu thư tới gặp đứa trẻ đó. - Yêu cầu? Ai yêu cầu? Và vì sao? - Một đứa con trai ngoài bãi tập bảo tiểu thư nên tới thăm con nhỏ. Nó bảo tiểu thư sẽ rất quan tâm. Dù nó không chịu nói tên, nhưng tôi thấy nó giống như một ma mèo thay hình đổi dang. Vì vậy… tôi đến báo ngay với tiểu thư. Ông ngập ngừng nói thêm: - Tôi dò hỏi đám bộ hạ về đứa bé gái, và tôi được biết… nó đã… khác lắm. - Khác thế nào? - Khác… đủ để tiểu thư nên làm theo lời khuyên của ma mèo. Nasuada nhíu mày suynghĩ. Từ những chuyện xưa, cô biết bỏ qua lời khuyên của ma mèo, có thể dẫn đến cái chết. - Được, chúng ta hãy đi thăm nó. Nó vẫn còn ở trong lâu đài chứ? - Nhà vua ban cho nó và bà vú nuôi mấy phòng cánh tây của lâu đài. - Ông dẫn tôi tới đó. Nasuada ra lệnh cho Farica hủy tất cả những cuộc hẹn còn lại trong ngày, rồi ra khỏi phòng. Phía sau, cô nghe tiếng Jormundur búng tay, điều khiển bốn gã lính gác tiến lên hai bên cô để bảo vệ. Hơi nóng trong lâu đài lúc này lên tới mức mọi người cảm thấy như mình đang ở trong một lò bánh khổng lồ. Dù cũng ngột ngạt, nhưng Nasuada biết cô có thể chịu nóng khá hơn những người khác, nhờ màu da sậm. Khốn khổ vì cái nóng nhiều nhất, là những người như Jormundur và các lính gác. Vì suốt ngày, kể cả khi đứng nghiêm ngoài nắng chói chang, họ vẫn phải mặc những bộ giáp nặng nề. Kể từ khi tới Aberon, đã có năm người Varden bị ngất vì trúng nắng - mấy tiếng sau hai người bị chết. Vì vậy Nasuada không muốn người của cô bỏ mạng vì quá sức chịu đựng nhiệt độ nơi này. Nhìn mồ hôi đầm đìa trên mặt năm người đàn ông và nghe nhịp thở hổn hển của họ. Dù họ từ chối, cô bắt buộc tất cả dừng chân nghỉ ngơi, uống chút nước. Thêm hai lần nghỉ nữa, tất cả mới tới trước một cánh cửa khép kín. Trước cửa, bừa bãi quà tặng đầy mặt sàn. Đáp lại tiếng gõ cửa của Jormundur là một giọng run rẩy: - Ai đó? - Tiểu thư Nasuada tới thăm đứa nhỏ. - Có phải là người từ tâm và quả cảm không? Nasuada lên tiếng: - Trái tim ta trong sáng và nghị lực ta cứng như sắt thép. - Vậy thì hãy tự mở cửa mà vào. Lối vào lù mù ngọn đèn đỏ của người lùn. Tiến thêm mấy bước, Nasuada thấy từ tường tới trần phủ nhiều lớp vải đen, làm nơi này giống như một cái hang. Cô ngạc nhiên nhận thấy không khí mát lạnh như thời tiết một đêm thu. Một mối lo ngại làm ruột cô thắt lại. Có phải ma thuật đây không? Gạt tấm màn đen dày cộm, Nasuada bước vào một gian phòng từng là phòng khách trước đây. Đồ đạc không còn gì, chỉ có hai hàng ghế kê sát tường. Một chùm đèn lồng của người lùn treo dưới những nếp vải đen gợn sóng trên đầu, tỏa đủ màu sắc xuống bốn phía. Từ trong góc phòng, lọt thỏm giữa bà lang, phù thủy Angela và con ma mèo, một bà già lom lom nhìn cô. Giữa phòng, một đứa con gái xanh xao – Nasuada đoán nó ba bốn tuổi – đang quỳ gối trên sàn, luôn tay bốc đồ ăn trong một cái đĩa đặt trên đùi. Cô bối rối hỏi: - Đứa trẻ đâu? Đứa con gái ngửa mặt lên nhìn cô. Nasuada nghẹn thở khi nhìn đôi mắt màu tím và dấu hiệu Saphira đã đóng trên trán con bé sáng rực. Đứa con gái nhếch mép thành một nụ cười vừa già dằn vừa ghê gớm. - Tôi là Elvà đây. Nasuada giật lùi, nắm chặt chuôi dao găm. Giọng nói rõ ràng là của một người lớn, từng trải, cay nghiệt. Và đầy vẻ xấc xược khi thoát ra từ miệng một đứa trẻ. - Đừng chạy. Tôi là bạn của tiểu thư. Vừa nói, Elva vừa đặt cái đĩa không sang một bên, rồi quay qua bà già, bảo: - Lấy thêm đồ ăn đi chứ. Bà lão hấp tấp ra khỏi phòng. Elva vỗ xuống sàn: - Mời tiểu thư ngồi. Tôi đã chờ đợi tiểu thư từ khi học nói. Vẫn nắm chặt chuôi dao, Nasuada ngồi xuống nền đa, hỏi: - Là từ khi nào? - Tuần trước. Elva xếp hai tay lên đùi, nhìn thẳng mắt Nasuada. Nó gắn chặt cô bất động trên sàn bằng sức mạnh như thôi miên của đôi mắt. Nasuada cảm thấy như có một lưỡi giáo màu tím xuyên qua đầu, xé tan ý nghĩ và ký ức của cô. Nhưng cô cố không bật kêu thành tiếng. Nghiêng mình, Elva áp hai bàn tay mềm mại lên má Nasuada: - Tiểu thư biết không, cố thủ lãnh Ajihad cũng không thể dẫn dắt Varden hơn những gì tiểu thư làm. Con đường tiểu thư đã chọn là rất chính xác. Nhiều thế kỷ sau tên tiểu thư vẫn còn được vinh danh vì sự can đảm và sáng suốt trong việc di chuyển Varden tới Surda để tấn công thẳng vào đế quốc Alagaesia, trong khi tất cả những kẻ khác đều cho rằng hành động đó là điên rồ. Nasuada trơn mắt, há miệng, sững sờ. Những lời nói của Elva điểm trúng yếu huyệt của cô, đó chính là mối lo ngại làm cô thức giấc mỗi đêm, toát mồ hôi trong bóng tối. Kể cả từ trước cái chết của cha, Nasuada chưa bao giờ cảm thấy tin tưởng và yên tâm như lúc này. Những giọt nước mắt trào ra như trút bỏ một gánh nặng canh cánh trong lòng. Dường như Elva biết chính xác phải nói gì để khích lệ cô. Nhưng không muốn tỏ ra yếu mềm trước bất cứ ai, Nasuada bình tĩnh hỏi: - Mi là… gì? - Là kết quả việc làm của Eragon. - Eragon đã chúc phúc cho mi. Đôi mắt già dặn của Elva thoáng mờ đi một lát: - Anh ta không hiểu hành động của mình. Từ khi Eragon yểm bùa tôi, bất cứ khi nào nhìn thấy ai, tôi đều cảm thấy nỗi khổ đau đang, hoặc sẽ, ập tới với người đó. Khi còn nhỏ hơn bây giờ, tôi không thể làm gì cho họ, vì vậy tôi phải lớn lên. - Vì sao… - Vì phép thuật trong máu điều khiển tôi phải bảo vệ mọi người khỏi đau đớn… dù tôi sẽ bị thương tổn, dù tôi muốn giúp họ hay không… Vừa phân tích những lời nói của Elva, Nasuada vừa nhận rõ thần sắc con nhỏ luôn đổi thay vì những khổ đau của những người kế cận. Cô rùng mình nghĩ đến sự chịu đựng một cách bắt buộc những khổ đau của người khác, mà nó không cách nào gạt bỏ được. - Vì sao… em nói với ta chuyện này? - Tôi nghĩ nếu tiểu thư nên biết tôi là ai, là cái gì. Và tôi nghĩ, bằng cách nào đó, tôi có thể chiến đầu vì tiểu thư. Hãy sử dụng tôi như… một sát thủ ẩn mình trong bóng tối. Vì sao tôi giúp tiểu thư ư? Vì nếu cuộc chiến này không sớm kết thúc, tôi sẽ hóa điên. Không phải đối diện với sự tàn bạo của chiến tranh, tôi đã kiệt sức vì phải hứng chịu sự tàn bạo của chiến tranh, tôi đã kiệt sức vì phải gánh chịu những khổ đau trong cuộc sống hàng ngày của con người rồi. Hãy sử dụng tôi để kết thúc cuộc chiến này càng sớm càng tốt. Tôi bảo đảm, sai đó tiểu thư sẽ sống một cuộc đời hạnh phúc như những người khác. Ngay lúc đó bà già trở lại với một khay đồ ăn, cúi đầu, đặt vào tay Elva. Nasuada như trút được gánh nặng khi con bé rời mắt khỏi cô. Nó hăm hở cúi đầu ngồm ngoàm cắn, nhai, nuốt cái đùi trừu nóng hổi. Đôi mắt màu tím và dấu rồng in trên trán khuất sau mớ tóc lòa xòa trước mặt, làm Elva lại trở về là một đứa trẻ hồn nhiên vô tội Nasuada chờ cho đến khi không thấy Elva nói gì thêm nữa, rồi theo cái ngoắt tay của bà Angela, cô đứng dậy theo bà phù thủy tiến qua một cửa hông. Angela thận trọng khép chặt cửa rồi thì thầm: - Nó ăn suốt ngày. Gần như nó ăn liên tục mà không hề biết chán. Cô có thể… - Bà đừng lo. Nhưng… bà đã từng thấy trường hợp này bao giờ chưa? - Suốt lịch sử phép thuật chưa hề xảy ra chuyện này. Tôi cố soi hậu vận nó mà… mù mịt như mình bị sa lầy, vì… vận mạng nó tác động với quá nhiều người khác. - Nó… có nguy hiểm không? - Tất cả chúng ta đều nguy hiểm. Nó nguy hiểm hơn một số người, và vô hại hơn một số người khác. Kẻ nó muốn giết nhất lại chính là nó. Vì nếu nó gặp ai sắp gặp tai họa, tác dụng thần chú của Eragon lại làm nó tự động gánh vác số phận đau khổ thay kẻ đó. Vì vậy nó phải ở trong phòng kín suốt, không dám gặp ai. - Nó có khả năng tiên đoán trước khi việc xảy ra bao lâu? - Sớm nhất là hai ba tiếng. Nasuada dựa tường cân nhắc: “Nếu đặt đúng vị trí, Elva sẽ là một vũ khí rất hiệu quả. Qua nó, mình có thể biết những khó khăn, trở ngại và nhược điểm của đối thủ, cũng như sẽ biết cả điều gì làm địch thủ hài lòng, để bắt chúng phải phục tùng theo ý nguyện của mình. Gặp chuyện nguy cấp, Elva còn có thể đóng vai trò bảo vệ hữu hiệu cho thành viên Varden – như Eragon và Saphira – khi cần thuết. Nhưng trước mắt, cần phải có một người giám thị sát bên nó. Một người hiểu biết về phép thuật, đủ khả năng chịu đựng sức ép những ảnh hưởng từ Elva. Và nhất là, phải là người trung thực, tin cậy được. Người đó chắc chắn không thể là Trianna.” Cô nhìn Angela. Dù vẫn đề phòng bà phù thủy này, nhưng cô cũng biết, bà là người từng giúp Varden những việc tế nhị và quan trọng nhất – trong đó phải kể đến việc chữa trị cho Eragon – mà không hề đòi hỏi được đáp lại điều gì. Để săn sóc Elva, không thể tìm ra ai khác có đầu đủ thời gian, kinh nghiệm như bà. Nasuada nhẹ nhàng nói: - Tôi thấy thật là vô phép, vì bà không phải là thuộc hạ của tôi và tôi lại biết quá ít về những gì bà đang phải làm, nhưng tôi mạo muội xin bà một đặc ân… - Tiểu thư cứ nói. - Bà có sẵn lòng giúp Elva một tay không? Tôi cần… - Sẵn lòng chứ. Tôi sẽ giúp cả hai tay nếu có thể. Tôi còn mừng là có cơ hội nghiên cứu về nó. - Nhưng bà phải nhớ báo cáo cho tôi. - A, cái gì cũng có giá của nó, phải không? - Bà hứa chứ? - Tôi hứa. Nasuada gieo mình xuống cái ghế kế bên, rên lên: - Ôi, đúng như bà nói, bị sa lầy. Là bề trên của Eragon, tôi phải chịu trách nhiệm về những hành động của anh ta. Nhưng khôn gbao giờ tôi tưởng tượng Eragon lại làm một chuyện ghê sợ thế. Tai nạn này là một vết nhơ cho danh dự của cả tôi và Eragon. Tiếng bẻ đốt tay của Angela răng rắc vang khắp căn phòng nhỏ: - Đúng. Tôi cũng đang chờ cậu ta ở Ellesméra về, sẽ cho một trận. Mặt bà phù thủy hung dữ tới nối làm Nasuada phát hoảng: - Ôi, đừng làm Eragon bị thương, chúng tôi rất cần anh ta. - Yên tâm. Tôi không làm cho hắn bị bại liệt đâu. Một cơn gió mạnh thốc vào phòng làm Eragon choàng tỉnh ngủ. Chăn mền, quần áo bay phấp phới, quất những ngọn đèn lồng chan chát đập vào tường. Ngoài trời, mây đen vần vũ báo hiệu cơn giông đang ập tới. Saphira trợn mắt nhìn Eragon đang cố đứng dậy, trong khi thân cây ngả nghiêng như con tàu chao đảo trên mặt biển. Lom khom tránh luồng gió mạnh, Eragon vịn vách cây, men quanh phòng cho đến khi tiến sát ô cửa tròn dẫn xuống dưới. Gió hun hút quay cuồng thốc lên từ khoảng trống này. Nhìn xuống qua lỗ hổng, mặt đất đong đưa như võng, Eragon phải nuốt nước bọt, cố chống lại cơn buồn nôn.Nó rờ rẫm được mép miếng vải mỏng bằng nhựa cây, có thể rút ra, để che ngang khoảng trống đó. Eragon tìm cách phóng qua bên kia lỗ hổng, nếu trượt chân, không có gì có thể ngăn nó lăn tòm xuống tận gốc cây. “Khoan”. Saphira la lên. Dựa lưng vào bục nằm, nó vắt cái đuôi dài thòng song song bên Eragon, để Eragon có thể dùng như một hành lang. Tay phải ôm đầu tấm vải nặng trịch, tay trái Eragon nắm từng cái gai trên đuôi Saphira, trườn dần qua ô cửa trống hốc. Sang tới bên kia, nó dùng cả hai tay nhét chặt đầu vải vào hốc cây, che ngang ô cửa. Căn phòng yên ắng lại. Tấm vải căng phồng, nhưng không bị bung ra. Eragon thử chọc ngón tay, mặt vải cứng như mặt trống. Nó lẩm bẩm: “Khả năng của thần tiên đáng nể thật.” Saphira vừa vương đầu chạm tới trần vừa nghe ngóng: “Trên văn phòng chắc cũng bị hư hại, anh cố ngăn gió lại đi.” Eragon vừa tiến bước về phía cầu thang, thân cây bỗng lắc mạnh, làm một chân nó khụy xuống sàn. - Mẹ kiếp! Eragon làu bàu rủa, cố đứng dậy, tiến lên thang. Hai tay ôm quanh đầu, nó nhào vào văn phòng đầy giấy, bút điên loạn quay vòng như cơn trốt. Những đầu bút rào rào đập vào thân thể, làm cho nó cảm thấy như đang bị tấn công bằng sỏi đá. Nó ráng sức đống khoảng trống trên cao mà không có sự trợ giúp của Saphira. Suốt thời gian đó, lưng nó liên tục đau như bị xé toạc ra. Eragon gào tới khản cổ, loáng nhoáng trước mắt hai màu đỏ và vàng, rồi mờ dần thành một màn đen thẫm khi nó ngã vật xuống. Bên dưới, tiếng Saphira điên cuồng gầm thét; cầu thang quá nhỏ, còn bên ngoài gió quá dữ dội, nó không có cách nào tiếp cận được với Eragon. Mối tiếp nối qua tư tưởng giữa hai đứa sa sút hẳn. Trong bóng đêm mịt mù, Eragon đành nằm chờ cho cơn đau thuyên giảm. Tỉnh dậy, miệng đắng chát, Eragon không biết mình đã lịm đi bao lâu trên sàn. Cơn giông tố vẫn tiếp tục tấn công căn nhà cây, cộng thêm tiếng mưa xối xả rầm rầm hòa nhịp với tiếng đập thình thịch trong đầu nó. “Saphira…?” “Em đây. Anh xuống được không?” ” Để anh cố thử xem.” Nó quá yếu, không thể đứng vững trên cái sàn chòng chành, nên phải bò ra cầu thang, rồi lết xuống từng bậc. Tới nửa cầu thang, nó bắt gặp cái đầu của Saphira cố vươn lên. Cô rồng cái bực tức táp lên cầu thang gỗ chật hẹp. Nó cố thè đầu lưỡi liếm nhẹ lên bàn tay Eragon, gọi: “Anh bé nhỏ!” Eragon mỉm cười cho cô em yên lòng. Saphira lùi lại ráng kéo đầu và cổ khỏi cầu thang, nhưng không thể. Eragon vội hỏi: “Sao vậy? “Em bị kẹt rồi.” “Hả?” Dù đau, nhưng Eragon không thể khỏi bật lên cười ha hả. Cảnh ngộ quá khôi hài. Nó đang phải cố lết xuống từng bậc, còn cô em “bé nhỏ” lại không rút đầu ra được ngay giữa cầu thang. Saphira gồng mình lắc mạnh thân cây, làm Eragon bật ngửa ra sau. Nằm đờ người, vừa thở hồng hộc, ả rồng vừa gắt: “Ngồi đó mà cười sao? Giúp một tay đi chứ.” Cố nín cười. Eragon đặt bàn chân lên mũi Saphira, hết sức bình sinh, đạp mạnh. Trong khi đó cô em rồng vặn vẹo toàn thân đến mười phút sau mới thoát khoỉa cầu thang. Đến lúc đó Eragon mới thấy hết thành quả do Saphira gây ra. Những cái vảy rồng cứng như thép đã cắt sâu qua lớp vỏ và làm tan nát hết những hình vẽ tinh xảo mọc ra từ cây. “Chết cha rồi!” Saphira than thở. “Cũng may là do em gây ra, không phải anh. Thần tiên dễ dàng bỏ qua cho em. Nếu em lên tiếng yêu cầu, họ sẽ ca hát suốt ngày đêm để những hình vẽ này mọc ra lại.” Eragon ngồi bên Saphira, lắng nghe tiếng bão giông gầm thét chung quanh. Tấm vải nhựa cây trong suốt mỗi khi có tia chớp rọi qua. “Em đoán bây giờ là mấy giờ rồi?” “Còn mấy tiếng nữa chúng ta mới phải tới gặp sư phụ. Ngủ đi cho lại sức. Em canh cho.” Dù cây vẫn chao đảo bồng bềnh, nhưng Eragon đi ngay vào giấc ngủ. Tiếng vo vo phát ra từ cái dụng cụ báo giờ của Oromis như một con ong khổng lồ vang rền trong tai Eragon, cho đến khi nó với tay tắt. Đầu gối thâm tím, Eragon vừa đau nhức vì buổi tập Xà-Hạc-quyền, vừa vì cuộc vật lộn đêm qua với cơn giông bão. Giọng nó khản đặc, cổ họng như bị rách. Tuy vậy, vết thương nặng nhất là trong đầu nó luôn mang ý nghĩ: đây không phải lần cuối cùng nó bị hành hạ bởi chấn thương tà thần đã gây ra.Viễn cảnh đó làm nó chán nản, cạn kiệt sức lực và ý chí. Eragon than thở cùng Saphira: “Đã nhiều tuần trôi qua, anh đã bắt đầu hy vọng có thể, chỉ có thể thôi, là mình sẽ hồi phuc… Lý do duy nhất anh còn sống sót lâu đến thế chỉ là nhờ may mắn.” Saphira vươn cổ vỗ về: “Tiểu huynh, anh biết là anh không đơn độc. Em sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp anh. Mình sửa soạn đi thôi.” “Anh hiểu.” Eragon gượng cười, uể oải đứng dậy, vào phòng tắm cạo râu bằng phép thuật, rồi tắm rửa. Đang lau mình, chợt cảm thấy có người định tiếp xúc với tâm trí mình, Eragon vội tăng cười trí lực, tập trung nhìn xuống ngón chân cái, không nghĩ đến bất kỳ vấn đề gì. Bỗng tiếng nói của sư phụ nó vang lên: “Giỏi lắm. Nhưng không cần thiết. Hôm nay con nhớ đem theo thanh Zar’roc nhé.” Eragon run rẩy thở ra, bảo Saphira: “Anh phải cảnh giác hơn. Nếu chẳng may đó là kẻ thù, coi như mình nằm gọn trong bàn tay chúng rồi.” “Còn có em, chuyện đó đừng hòng xảy ra.” Eragon tháo tấm vải nhựa cây trên tường xuống, rồi cắp thanh Zar’roc, leo lên lưng rồng. Saphira bay vút lên, quay đầu thẳng tiến về bờ vực Tel’naeir. Từ cao nhìn xuống, chúng thấy rõ cảnh Du Weldenvarden bị cơn giông tàn phá. Không cây nào bị ngã đổ trong chu vi Ellesméra, nhưng bên ngoài – nơi phép thuật của thần tiên suy giảm - rất nhiều cây thông ngổn ngang, trốc gốc. Những ngọn gió còn sót lại của cơn giông đêm qua kẽo kẹt, rên xiết qua những cành lá chà xát vào nhau. Những làn mây phấn hoa vàng rực bốc lên từ vô vàn đóa hoa, làm thành một lớp bụi dày. Vừa bay Saphira và Eragon vừa trao đổi những gì đã học hôm trước, những tìm hiểu về loài kiến và cổ ngữ của Eragon, kỹ thuật bay tránh thời tiết nguy hiểm của Saphira… Nhờ vậy Eragon đã trả lời trôi chảy, khi sư phụ truy bài của Saphira. Cô rồng cái cũng trả lời trót lọt trước những câu hỏi của rồng vàng Glaedr về những gì Eragon đa xhọ. Oromis khoe: - Giỏi lắm, Eragon công tử. Glaedr nói thêm: “Khá lắm, Saphira.” Như lần trước, Saphira theo Glaedr, còn Eragon ở lại cùng sư phụ, tuy nhiên hai đứa phải giữ liên lạc để kịp thời nắm bắt những gì cả hai được chỉ dạy. Chờ hai con rồng bay đi, Oromis hỏi: - Eragon, con bệnh hay sao mà giọng khàn vậy? - Sáng nay lưng con bị đau lại. - A, vậy thì chờ ta một lát. Ông quay vào lều, khi trở lại trông ông hăng hái như sắp ra trận với mái tóc bạc tung bay trong gió và thanh kiếm đồng trong tay. - Hôm nay ch ta tạm nghỉ luyện Xà-Hạc-quyền, để thử tập giao đấu bằng thanh Naegling của ta cùng thanh Zar’roc của con. Rút kiếm ra, thủ thế như người thày đầu tiên đã dạy con. Eragon không mong gì hơn là được từ chối, nhưng nó cũng không muốn để sự phụ nghĩ nó đã quên lời thề quyết tâm học tập. “Đây là những gì phải trải qua để trở thành một kỵ sĩ rồng.” Nó thầm nhủ. Thu hết sức lực, Eragon xác đ tâm điểm sâu thẳm của ý thức, để liên kết với dòng chảy dào dạt của phép thuật, cho đến khi toàn thân nó tràn trề năng lượng. - Geuloth du kníft. Sau câu thần chú “Hãy bao phủ kiếm”, một ngôi sao xanh lóng lánh xuất hiện, nhảy nhót từ ngón tay cái sang ngón trỏ, trong khi nó vuốt ngôi sao suốt chiều dài thanh Zar’roc. Hai lưỡi kiếm vừa chạm nhau, Eragon đã biết bị sư phụ áp đảo, như trước đây nó từng thua kém Tà Thần và Arya. Eragon là một tay kiếm gương mẫu của loài người, nhưng không thể đối đầu với những kiếm sĩ mang đầy dòng máu phép thuật. Tay quá yếu, phản ứng quá chậm. Nhưng điều đó vẫn không thể ngăn cản nó cố tìm bằng được chiến thắng. Nó đánh bằng tất cả khả năng, cho dù kết quả thế nào. Oromis thử tài học trò với đủ mọi thế đánh, bắt buộc Eragon phải dốc toàn bộ chiêu thức đã học, từ công tới thủ. Nhưng mũi kiếm của Eragon vẫn không chạm được tới ông. Như một cố gắng cuối cùng, Eragon biến đổi đường kiếm, tung ra những chiêu biến ảo có thể làm một tay kiếm lão luyện nhất phải bối rối. Nhưng tất cả cố gắng đó chỉ đem lại cho nó một cú đập trúng đùi. Oromis la lớn: - Di chuyển chân nhanh nữa lên. Kẻ nào đứng đờ như cây trụ đá, sẽ chết trong trận chiến. Kẻ nào mềm dẻo như cậy sậy sẽ là người chiến thắng. Sự vận chuyển toàn thân của vị lão tiên vô cùng uyển chuyển, một sự kết hợp hoàn hảo vừa tự chủ vừa hũng mãnh. Vồ chụp như một con mèo, tấn công như con ó. Tiến lui duyên dáng như một con chồn. Được gần hai mươi phút, Oromis chợt thu hồi kiếm, mặt thoáng nhăn lại. Eragon nhận ra triệu chứng căn bệnh lạ lùng của sư phụ, vội phóng thanh Zar’roc. Đó là một hành động không cao thượng, nhưng Eragon quá tuyệt vọng, đang khao khát một sơ hở để được chạm kiếm vào sư phụ, dù chỉ một lần, cho hả. Nhưng thanh Zar’roc không bao giờ đụng đến mục tiêu. Vì ngay khi Eragon vặn mình, vươn tay quá đà, lưng bị căng ra, cơn đau bất ngờ ập đến. Âm thanh cuối cùng nó nghe được là tiếng kêu thảng thốt của Saphira: “Eragon!” Dù bị ngất, Eragon vẫn còn lơ mơ hiểu. Nó không nhận biết được những gì chung quanh, chỉ thấy thịt da như lửa đốt, mỗi giây đau đớn kéo dài như vô tận. Khốn khổ nhất là nó không còn có thể làm gì để chấm dứt cơn đau này, chỉ còn biết chờ đợi… và chờ đợi… Nằm thở dốc trong bùn lạnh giá, Eragon chớp mắt khi thị giác đủ sức tập trung để nhìn rõ sư phụ Oromis ngồi trên một chiếc ghế đẩu kế bên. Nó quỳ lên, nhìn bộ quần áo mới vừa tiếc của vừa gớm ghiếc. Bùn đất phủ từ đầu tóc xuống khắp người. Saphira đang nóng lòng chờ Eragon tỉnh lại. Cô ả giận dữ hỏi dồn: “Sao anh cứ tiếp tục làm liều như vậy? Muốn chết à?” Sự lo ngại của Saphira làm tiêu tan chút nghị lực còn lại trong Eragon. Vì chưa bao giờ Saphira tỏ ra hồ nghi phần thắng sẽ thuộc về Eragon. Từ những đụng độ tại Drass-Leona, Gil’ead hay Farthen Dur, hoặc trong bất kỳ tình huống nguy hiểm nào nó đã trải qua, niềm in của Saphira đã truyền thêm can đảm cho Eragon. Nó thật sự sợ hãi khi không được tiếp sức bằng niềm tin đó. “Em nên tập trung vào bài học của mình đi.” “Em nên tập trung vào anh thì đúng hơn.” Eragon gắt: “Thây kệ anh.” Nó như con thú bị thương, chỉ muốn một mình lặng lẽ liếm láp vết thương trong bóng tối. Saphira im lặng, chỉ để sự liên lạc đủ cho Eragon lờ mờ đoán biết ah rồng vàng Glaedr đang chỉ dẫn cho Saphira về một loài cỏ độc, nhưng có thể nhai để chữa bệnh tiêu hóa. Vuốt bùn dính đày tóc, Eragon nhổ ra một giọt máu, lẩm bẩm: - Mình cắn phải lưỡi rồi. Oromis hỏi: - Con có cần ta chữa trị không? - Dạ, không sao đâu, thưa sư phụ. - Tốt. Vậy lau chìu kiếm rồi tắm rửa đi. Sau đó, trở lại thân cây ngồi suy tưởng, lắng nghe những ý nghĩa của rừng. Lắng nghe cho đến khi không còn gì để nghe nữa, rồi đến cho ta biết con học được những gì. - Dạ. Nhưng ngồi lên thân cây, những ý nghĩ và xúc cảm rối bời trong đầu làm nó không thể tập trung để mở trí, lắng nghe những sinh vật chung quanh. Hơn nữa, nó cũng không hứng thú làm chuyện này. Dần dần sự tính lặng của khu rừng làm nó cảm thấy bớt bực dọc. Tuy chưa hoàn toàn thoải mái vui vẻ, nhưng đủ để nó chấp nhận số phận an bài, muốn hay không vẫn phải làm. Eragon thầm nhủ: “Số của mình đã vậy rồi, trước sau gì cũng phải tập làm quen với nó thôi.” Chừng mười lăm phút sau, tâm trí Eragon minh mẫn bình thường trở lại, bắt đầu quan sát bầy kiến nó đã phát hiện hôm qua và cố gắng tìm hiểu tất cả những gì đang xảy ra chung quanh, theo lời sư phụ. Nhưng nếu nó thả lỏng để những tư tưởng chung quanh thâm nhập vào trí não, ngay lập tức ngàn ngàn hình ảnh, âm thanh, màu sắc, mùi vị, sự đau đớn, niềm hoan lạc, loáng thoáng chồng chất lên nhau trong đầu nó. Lượng thông tin tràn ngập, nặng nề không chịu nổi. Dù vậy, sự hiểu biết của Eragon về thế giới loài kiến cũng tiến bộ hơn. Nó đã có được bằng chứng đầu tiên về giới tính của loài này: con kiến khổng lồ nằm giữa tổ đang đẻ trứng. Như vậy đây là một chị kiến cái. Rồi khi theo bầy kiến đỏ bò lên thân cây hoa hồng dại, Eragon bắt gặp cảnh rộn ràng như đang có cuộcbiểu dương lực lượng trước kẻ thù: có một vật gì đó phóng ra từ dưới chiếc lá giết con kiến mà Eragon đang gắn bó. Rất khó đoán kẻ thù đó là gì. Vì bầy kiến đỏ bò lên thân cây hoa hồng dại, Eragon bắt gặp cảnh rộn ràng như đang có cuộc biểu dương lực lượng trước kẻ thù: có một vật gì đó phóng ra từ dưới chiếc lá, giết con kiến mà Eragon đang gắn bó. Rất khó đoán kẻ thù đó là gì. Vì bầy kiến chỉ thấy từng phần của kẻ thù, nếu chúng là người, Eragon có thể nói, chúng đang bị tấn công bởi một con quái vật khổng lồ, to lớn như một con rồng, với cái hàm cứng như thép và tốc độ phóng ra bắt mồi chớp nhoáng như đầu một ngọn roi. Bầy kiến vây quanh quái vật như một bầy mã phu vây bắt con ngựa xổng chuồng. Chúng nhào vào kẻ thù không hề sợ hãi. Xông lên, ngoạm một miếng vào chân, rồi rút lui ngay, cho tới khi chúng túm được mấy cái càng rắn như sắt của đối phương. Tất cả cùng nhau hiệp lực liên tục khống chế kẻ xâm lăng. Chúng không hề ngưng tấn công, cho dù đã có hai chiến sĩ kiến hy sinh và nhiều thương binh rụng lả tả xuống đất. Trận chiến thật quyết liệt. Chỉ có chiến thắng hay tháo chạy mới tránh được cái chết thảm khốc cho các chiến binh. Eragon nín thở theo dõi, kinh ngạc vì sự dũng cảm của bầy kếin và tự hỏi làm sao chúng có thể tiếp tục chiến đấu với những thương tích mà nếu một con người cũng sẽ phải xuôi tay. Sự hào hùng của chúng xứng đáng để thi nhân phải hát ca tán tụng. Eragon say mê tới nỗi, khi trận chiến kết thúc, phần thắng thuộc về bầy kiến, nó la lớn làm những con chim ngủ trên cành choàng tỉnh giấc. Thỏa mãn tò mò, Eragon thu hồi trí tưởng, bước lại cây hồng để nhìn tận mắt con quái vật vừa bị hạ. Thì ra đó chỉ là một con nhện bình thường màu nâu, mấy chân co quắp, đang bị lũ kiến kéo về hang làm lương thực. Vừa định quay về, Eragon mới nhớ là vẫn chưa quan sát côn trùng, muông thú chung quanh. Nó nhắm mắt, bay bổng qua tâm trí những sinh vật khác nhau, cố gắng ghi nhớ những chi tiết thú vị nhất. Nhưng vì đã đói bụng và mệt mỏi sau cả giờ quan sát, Eragon trở về lều gặp sư phụ. Oromis hỏi: - Con học được những gì? - Thưa thầy, dù con lắng nghe suốt đêm ngày trong vòng hai mươi năm, con vẫn không thể hiểu biết hết tất cả những gì xảy ra trong rừng. Oromis nhướng mày nói: - Con đã tiến bộ rồi đó. Sau khi nghe Eragon kể lại những gì đã thấy, ông bảo: - Như vậy ta e là chưa đủ. Con cần cố gắng hơn nữa. Thầy biết con có thể làm được, vì con thông minh, có ý chí và con có tiềm năng để trở thành một kỵ sĩ tài ba. Xâm nhập vào tâm trí những sinh vật khác là điều rất khó khăn, do vậy con phải dẹp tất cả buồn bực, lo âu sang một bên, tập trung hoàn toàn vào việc trước mắt. Tâm phải an, mới có thể chỉ huy hành động được. - Con đang cố gắng hết sức mình. - Chưa đâu. Có lẽ cần phải có một đồng môn để cùng con thử tài cao thấp. Lúc đó, có thể con mới thi thố hết khả năng của mình. Ông lấy từ trên kệ xuống một ổ bánh mì mới nướng, một lọ bơ hạt dẻ - thần tiên dùng thay bơ đvộng ật – và hai cái bát. Trên lò than hồng, một nồi hầm rau củ đang sôi. Eragon gớm ghiếc nhìn nồi rau hầm; nó phát bệnh vì món ăn của thần tiên. Ước gì có một miếng thịt thay vì triền miên rau củ thế này. Để quên cơn thèm thịt, Eragon lên tiếng hỏi: - Thưa thầy, vì sao con cứ phải tĩnh tọa để suy tưỡng mãi? Chỉ để tìm hiểu hành động của côn trùng, động vật, hay có một mục đích nào khác nữa không? - Con không nghĩ ra được một động lực nào khác nữa sao? Ông thở dài khi thấy Eragon lắc đầu: - Hừ, đệ tử mới nào của ta cũng đều vậy cả, nhất là những kẻ thuộc loài người như con: tư tưởng là sức mạnh cuối cùng chúng tập luyện hoặc sử dụng, và cũng là sức mạnh chúng ít quan tâm nhất. Hỏi chúng về kiếm thuật chúng vanh vách kể ra hàng trăm chiêu thức. Nhưng bảo chúng giải quyết một vấn đề hay liên kết những ý kiến để tìm hiểu một sự kiện thì… chúng ngẩn ra nhìn. Con vẫn còn là một kẻ mới bước vào thế giới ma thuật – tên gọi chính xác của phép thuật là vậy – nhưng con phải bắt đầu tìm hiểu mối liên quan dày đặc của tư tưởng khi hành động. - Là sao ạ? - Hãy tưởng tượng con là Galbatorix với tất cả những thủ đoạn toan tính của lão. Varden hủy diệt đội quân Urgal của con với sự giúp sức của một kỵ sĩ rồng - một kẻ con biết đã từng được huấn luyện bởi một kẻ thù không đội trời chung nguy hiểm nhất, là Brom. Con cũng biết kẻ thù ồ ạt chuyển đến Surda, rất có thể để tấn công mình. Hãy thử đặt con vào địa vị Galbatorix, cách nào đơn giản nhất để giải quyết vấn đề? Tự mình cưỡi rồng bay vào cuộc chiến ư? Eragon quậy bát súp rau tới nguội lạnh, mới chậm rãi trả lời: - Theo con, dường như cách tốt nhất là: huấn luyện phép thuật cho một đội quân, bắt chúng thề trung thành bằng cổ ngữ, rồi cho chúng lén lút xâm nhập vào Surda, âm thầm phá hủy những nỗ lực của họ, bỏ thuốc độc xuống giếng nước, ám sát Nasuada, đức vua Orrin và những người chủ chốt khác. - Vậy thì vì sao Galbatorix chưa làm chuyện này? - Vì… cho đến bây giờ, Galbatorix vẫn cho rằng Surda không đáng quan tâm, và vì mấy chục năm nay Varden ẩn cư trong lòng Farthen Dur, một nơi họ có thể kiểm tra tư tưởng những kẻ mới tới, để phát hiện quân gian. Điều này không thể thực hành tại Surda vì biên giới rộng và dân số quá đông. - Những gì con nói rất gần với ý ta. Vậy thì trừ khi Galbatorix ra khỏi hang ổ Uru’baen của lão, mối nguy hiểm nhất con phải đương đầu trong thời gian chiến đấu trong hàng ngũ Varden, chính là những kẻ biết phép thuật. Con cũng biết rõ như ta, chống lại những kẻ có khả năng xâm nhập vào tâm trí mình là điều khó khăn vô cùng. Nhất là nếu đối thủ của con đã tuyên thệ bằng cổ ngữ sẽ giết con bằng bất cứ giá nào. Những đối thủ này chỉ niệm một câu thần chú là tâm trí con rối loạn. Tuy nhiên trong thoáng giây trước khi con bị hủy diệt, con vẫn còn có thể chống trả. Nhưng làm sao con hạ được kẻ thù nếu không biết kẻ đó ở đâu, là ai? Bây giờ là cốt lõi của vấn đề: làm cách nào để tự vệ trước những kẻ thù vô danh, những kẻ có khả năng vô hiệu hóa bất cứ sự đề phòng vật chất nào và giết ta chỉ bằng một câu thần chú? Eragon bối rối mỉm cười: - Con không biết… trừ khi, trừ khi con đọc được tư tưởng tất cả người chung quanh mới có thể biết kẻ nào định hãm hại mình. Mặ sư phụ nó rạng rỡ hẳn: - Vậy đó, Eragon thiếu hiệp. Đó là câu trả lời cho câu hỏi của con. Những buổi ngồi tĩnh tọa suy ngẫm sẽ thay đổi tâm trí con, để con có thể phát hiện và khai thác những nhược điểm nhỏ bé nhất của kẻ thù. - Nhưng khi bị con xâm nhập vào tâm trí, những người biết phép thuật không phát hiện ra sao? - Có chứ, nhưng không phải tất cả mọi người đều có thể phát hiện ra điều đó. Còn những người biết phép thuật, họ biết và họ sẽ sợ hãi. Vì sợ hãi, họ sẽ bảo vệ tâm trí họ, không để con xâm nhập. Chính vì vậy con sẽ phát hiện ra họ là ai. - Mở ngỏ ý thức có nguy hiểm không? Vì khi ta bị tấn công tinh thần, rất dễ bị đối phương áp đảo. - Nhưng còn ít nguy hiểm hơn là mù tịt với thế giới chung quanh. Eragon gật đầu, gõ nhịp lên thành bát, trầm ngâm một lúc lâu rồi lẩm bẩm: - Nhưng… dường như có điều không đúng. - Hả? Con nói thử xem. - Còn sự riêng tư của con người? Ông Brom dạy con không bao giờ được phép can thiệp vào tâm trí ai, nếu không thật sự cần thiết… Con thấy áy náy khi lén lút xâm phạm những bí mật của người khác… những bí mật họ có quyền được giữ kín. Sao ông Brom không cho con biết về bài học này, nếu thật sự nó quan trọng đến thế chứ? Sao ông Brom không dạy con về phép tĩnh tọa và suy tưởng? - Brom nói với con những điều thích đáng trong tình thế lúc đó. Hiểu biết quá nhiều một lúc, có thể làm hỏng một nhân cách hay có thể làm người ta ham mê quyền lực. Tất cả các đệ tử đều phải tĩnh tọa suy ngẫm như con, trong thời gian huấn luyện. Chỉ khi nào chúng ta biết chắc đệ tử đó đủ chín chắn, để chống lại sự cám dỗ, bài học này mới được truyền dạy. Đó là sự đột nhập vào những bí mật riêng tư, một điều con không hề muốn làm, nhưng nhờ đó con sẽ tìm hiểu được rất nhiều điều có ích cho chính bản thân con và cho cả Varden. Những gì thầy sắp nói đều rút ra từ kinh nghiệm của chính thầy và từ kinh nghiệm của các kỵ sĩ khác: đó là, trên hết tất cả, phương pháp này sẽ giúp con hiểu rõ những gì tạo nên hoàn cảnh của mỗi người. Từ đó sẽ làm nẩy sinh trong con sự đồng cảm và lòng nhân ái, kể cả đối với một hành khất khốn khổ nhất trong một thành phố tồi tàn nhất nước Alagaesia. Hai thầy trò lẳng lặng ăn, một lúc sau, ông hỏi: - Eragon, con có thể cho thầy biết, phương tiện tinh thần quan trọng nhất con người có được, là gì không? Đắn đo một lúc Eragon mới trả lời: - Tính quả quyết. - Ta hiểu vì sao con đi đến kết luận như vậy. Vì sự quả quyết đã giúp con rất nhiều trong chuyến phiêu lưu này. Nhưng không. Ý thầy muốn biết phương tiện nào cần thiết nhất, để có thể lựa chọn ra một phương pháp tối ưu trong bất kỳ tình huống nào ta gặp phải. Những kẻ khù khờ cũng như những nàh thông thái đều có thể tỏ ra quả quyết như nhau. Vì vậy, quả quyết không phải là câu trả lời ta mong đợi. Eragon thấy đây như là một câu đó. Nó thì thầm đếm từng số câu, cố sắp đặt cho khớp nhau và tìm hiểu ngụ ý ẩn sau từ đó. Khổ nỗi, chưa bao giờ nó đạt được thứ hạng cao trong những lần thi giải câu đố hàng năm tại làng Carvahall. Chưa bao giờ nó giải được những câu đố mới nghe lần đầu. Nhưng rồi một câu nói của cậu Garrow chợt lóe lên trong đầu nó: - Sự khôn ngoan. Khôn ngoan là phương tiện con người sở hữu được. - Khá lắm, rất có lý, nhưng vẫn chưa đúng. Câu trả lời chính xác là: lý luận. Nói rõ hơn là khả năng phân tích một cách hợp lý nhất. Điều này chỉ có thể đạt được qua thời gian và kinh nghiệm. - Nhưng thưa thầy, chẳng lẽ lòng tốt lại không quan trọng hơn lý trí sao? Nếu chỉ thuần lý trí, có thể đưa người ta đến những kết luận thiếu đạo đức. Trái lại, nếu có lưong tâm và chính trực, chắc chắn người ta sẽ không gây nên những điều ô nhục. Oromis nhếch môi cười: - Con hiểu sai vấn đề rồi. Ta chỉ muốn biết phương tiện hữu hiệu nhất con người có được, bất kể kẻ đó là người tốt hay kẻ xấu. Ta đồng ý, trở thành một người đạo đứa là điều quan trọng, nhưng ta cũng rất hài lòng nếu khi con phải chọn lựa: ban cho một người tính cao thượng, hay dạy cho anh ta biết suy nghĩ một cách sáng suốt, con nên dạy cho hắn biết suy nghĩ sáng suốt thì tốt hơn. Trên đời này có quá nhiều vấn đề gây ra bởi những con người cao thượng nhưng đầu óc tối tăm. Lịch sử đã cung cấp cho chúng ta rất nhiều thí dụ về những con người tin là mình làm điều tốt, nhưng chính họ là những kẻ đã phạm vào những tội ác thật khủng khiếp, chỉ vì thiếu sáng suốt. Hãy nhớ điều này: không kẻ nào nghĩ mình là kẻ ác. Rất hiểm kẻ cho rằng mình đã có những quyết định sai lầm. Một con người có thể không thích sự chọn lựa của hắn, nhưng hắn vẫn sẵn sàng hành động - kể cả trong những tình huống xấu nhất – vì hắn tin rằng đó là sự chọn lựa thích hợp nhất trong thời điểm ấy. Trên lập trường đó, chúng ta thấy: là một người đàng hoàng chưa hẳn bảo đảm những hành động của ta đều tốt. Chúng ta vẫn hải tìm cách tự vệ để chống lại những kẻ mị dân, lừa bịp và đám đông điên rồ. Chúng ta cần phải có được sự hướng dẫn chính xác nhất để vượt qua cuộc đời ẩn chứa đầy bất trắc. Sự hướng dẫn đó là: Suy nghĩ hợp lý và sáng suốt. Suy luận không bao giờ phản lại con, trừ khi con không biết hay không thèm quan tâm tới kết quả việc mình làm. - Nếu thần tiên suy luận sáng suốt như vậy, chắc các vị đều nhất trí trong hành động? - Hầu như không bao giờ. Giống như những loài khác, chúng ta gắn bó trong một phạm vi rộng lớn của những giáo điều; và kết quả là: dù trong một tình huống giống nhau, mỗi người lại đưa ra một kết luận khác nhau. Ta có thể nói thêm, đó là những kết luận tùy tinh thần suy luận theo quan điểm của mỗi cá nhân. Vả lại, đâu phải tất cả thần tiên đều được rèn luyện tinh thần suy luận một cách chính xác. - Thầy định dạy con phương pháp này bằng cách nào? Oromis cười tươi tỉnh: - Bằng một phương pháp xưa nhất và cũng hiệu quả nhất: Tranh luận. Thầy sẽ đặt câu hỏi, con sẽ trả lời và được quyền bảo vệ ý kiến của riêng con. Thí dụ… vì sao con chống lại triều đình? Câu hỏi làm Eragon bị bất ngờ: - Như con đã từng nói, con chống triều đình để giúp những người đang phải chịu đựng ách thống trị của Galbatorix, và… lý do nhỏ bé hơn là… để trả mối tư thù. - Như vậy là con tranh đấu vì lý do nhân đạo. - Thưa thầy, nghĩa là sao? - Là con tranh đấu để cứu giúp những người bị Galbatorix hãm hại và ngăn chặn lão gây đau khổ thêm nữa. - Dạ, chính xác. - A, vậy thì hãy trả lời ta, chàng kỵ sĩ trẻ: cuộc chiến của con với Galbatorix sẽ không là nguyên nhân gây thêm đau khổ cho nhân dân sao? Đa số dân chúng sống, sản xuất bình thường, không bị sự điên khùng của nhà vua đụng chạm tới. Con chứng minh sự xâm phạmd dất đai, đốt phá cửa nhà, giết hại con cái họ bằng cách nào? Eragon sững sờ, không ngờ sư phụ lại có thể đặt một câu hỏi như thế. Nó biết mình có lý, nhưng làm sao chứng minh được điều đó? - Thầy không tin là Galbatorix phải bị lật đổ sao? - Đó không phải là vấn đề ta đang hỏi con. - Nhưng thầy phải tin, hãy nhìn những gì lão đã làm với các kỵ sĩ. Nhúng mẩu bánh vào bát rau hầm, Oromis tiếp tục ăn, mặc Eragon hầm hầm tức giận. Ăn xong, ông khoanh tay, hỏi: - Thầy làm con bị bất ngờ? - Dạ, đúng vậy. - Thầy hiểu. Nhưng hãy suy nghĩ kỹ về vấn đề này cho đến khi tìm ra câu trả lời. Thầy mong sẽ nhận được một câu trả lời thuyết phục. Hai thầy trò dọn bàn, đem bát đĩa ra ngoài lau chùi bằng cát. Oromis bẻ vụn phần bánh còn lại, rải quanh nhà cho chim. Trở vào trong, Oromis lấy giấy bút cho Eragon, rồi dạy nó về Liduen Kvaedhí, một lối chữ viết của ngôn ngữ cổ, cao quý hơn chữ viết cổ của loài người và người lùn nhiều. Eragon đặt hết tâm trí vào những con chữ tượng hình đầy bí ẩn, vui mừng vì có việc không đòi hỏi gì ngoài sự chăm chú học thuộc lòng nết chữ. Một tiếng sau, Oromis ngoắt tay bảo: - Đủ rồi, mai học tiếp. Trong khi Eragon vươn vai, dựa ghế, ông với tay lấy từ trên tường xuống năm cuộn giấy: - Hai cuộn này là ngôn ngữ cổ, còn ba cuốn là chữ viết loài người của con. Chúng sẽ giúp con hiểu biết cả hai ngôn ngữ. Lấy xuống cuộn thứ sáu dày cộm, ông đặt lên đống giấy đã chất đầy trên tay Eragon: - Đây là một cuốn tự điển. Hãy cố gắng đọc tất cả đi. Khi sư phụ mở cửa cho nó, Eragon lên tiếng: - Thưa sư phụ… - Chuyện gì, Eragon? - Bao giờ con bắt đầu luyện phép thuật? - Phải tin tưởng vào thầy, thầy không trì hoãn việc rèn luyện con lâu đâu. Nào, bỏ mấy cuộn giấy lại bàn, thầy trò ta cùng đi khám phá những bí ẩn của ma thuật. Trên bãi cỏ trước lều, Oromis đứng nhìn vực Tel’naer, quay lưng lại Eragon. Hai chân cân bằng với vai, hai tay chắp sau lưng, ông hỏi: - Phép thuật là gì? - Sử dụng cổ ngữ để điều khiển nội lực. Im lặng một lúc, Oromis trả lời: - Về căn bản thì con nói đúng đó. Nhiều người sử dụng phép thuật cũng không biết hơn vậy đâu. Tuy nhiên diễn tả như thế là con đã thất bại trong việc nắm bắt cái tinh hoa của phép thuật. Phép thuật là nghệ thuật tư tưởng, chứ không là sức mạnh hay ngôn ngữ. Như con đã biết, giới hạn ngôn ngữ không cản trở việc con sử dụng phép thuật. Phép thuật tùy thuộc vào sự rèn luyện trí năng. Để bảo đảm cho con có đủ khả năng sống còn, nên Brom đã không dạy cho con theo đúng bài bản, đã bỏ qua phần tinh túy của phép thuật. Thầy cũng sẽ chỉ tập trung dạy con những kỹ năng, rất có thể, con cần đến trong những trận chiến sắp tới. Tuy nhiên, trái với những kỹ năng thô thiển Brom đã truyền cho con, thầy sẽ dạy con những ứng dụng hoàn hảo hơn, những bí kíp dành riêng cho các bậc đại cao thủ trong hàng ngũ kỵ sĩ: như bằng cách nào, chỉ với một ngón tay, con có thể hạ gục kẻ thù, phương pháp di chuyển tức thì một vật từ nơi này tới nơi khác, chỉ với một câu thần chú đủ để con phát hiện độc dược trong món ăn thức uống, những cách thức khác nhau để con có thể thu hút công lực của kẻ khác để tăng cường nội lực của chính con; và bằng cách nào con có thể tăng cường nội lực tối đa khi cần thiết. Đây là những phương pháp rất hiệu nghiệm nhưng cũng tối nguy hiểm, không bao giờ được truyền cho các kỵ sĩ tập sự, nhưng trong hoàn cảnh này thầy phải truyền dạy cho con. Thầy tin tưởng con sẽ không lạm dụng chúng. Rồi ông đưa cánh tay phải lên ngang vai, năm ngón tay cong lên như những cái vuốt. - Aduma! Eragon lom lom nhìn, từ dòng suối nhỏ bên lều, mặt nước xao động, kết thành một quả cầu, bồng bềnh trên không, rồi bay liệng qua những ngón tay của Oromis. Dưới những tán cây rậm rạp, mặt suối thẫm đen, nhưng quả cầu nước trong suốt như thủy tinh, với những mảnh rêu, bụi đất trôi nổi bên trong. Vẫn hướng mắt về chân trời, Oromis bật nói: - Bắt lấy. Ông ném quả cầu nước qua vai, về phía Eragon. Eragon đón bắt, nhưng làn da tay vừa chạm quả cầu, nước vỡ ra tung tóe đầy ngực nó. - Bắt bằng phép thuật chứ. Bảo Eragon xong, ông lại niệm chú: - Aduma! Từ mặt suối, một quả cầu nước khác nhẹ nhàng bay lên tay ông, như một con chim ưng đã thuần thục vâng lời chú. Lần này ông ném quả cầu không báo trước. Nhưng Eragon đã kịp sửa soạn, tay đón quả cầu, miệng la lên: - Reisa du adurna. Quả cầu ngập ngừng đứng lại trên bàn tay, nhưng cách làn da nó khoảng một ly. Oromis gật gù: - Không đúng cách, nhưng cũng có tác dụng. Eragon tủm tỉm cười lẩm bẩm: - Thrysta. Quả cầu bay ngược về đường cũ, phóng thẳng tới mái tóc bạc của Oromis, nhưng nó không hạ đúng điểm theo ý định của Eragon, mà bay qua ông, quay vòng vòng rồi tăng tốc, lộn ngược về phía Eragon. Quả cầu nước rắn chắc như một khối đá hoa cương, đập mạnh lên đầu nó, vang lên một tiếng “thịch”. Cú va chạm đẩy Eragon lăn đùng trên mặt cỏ, mắt nổ đom đóm. Oromis lên tiếng: - Câu thần chú chính xác hơn phải là letta hoặc kogthr. Lúc này ông mới quay lại nhìn đệ tử, nhướng một bên mày, kinh ngạc: - Con làm trò gì vậy? Đứng lên. Định nằm vạ cả ngày sao? Eragon cố đứng dậy, rên rẩm: - Vâng, thưa thầy. Ông bắt đầu dạy Eragon những cách điều khiển nước khác nhau: tạo nước thành những nút thắt, thay đổi màu sắc ánh sáng phản chiếu, đông đặc nước thành hàng loạt hình thù theo ý muốn… Eragon thực hành tất cả những động tác đó không khó khăn chút nào. Nhưng rồi buổi học kéo dài quá lâu làm Eragon đã có dấu hiệu lơ là thiếu tập trung. Nó cố không làm sư phụ nổi giận, nhưng chẳng hiểu mục đích của ông đang làm gì - dường như Oromis đang né tránh bất cứ câu thần chú nào đòi hỏi ông phải dùng đến chút sức lực. “Mình đã chứng tỏ hết khả năng rồi, sao sư phụ cứ bắt lập đi lập lại những điều căn bản?” Nghĩ vậy, Eragon lên tiếng hỏi: - Sư phụ, con đã thuộc hết rồi, mình qua bài mới được chưa ạ? Bắp cổ vị tiên ông cứng lại, hai vai gồng lên, thậm chí ông như nín thở trước khi bật ra câu hỏi: - Có biết lễ độ là gì không, Eragon công tư? Hãy coi đây. Nói xong ông lẩm nhẩm bốn câu cổ ngữ bằng một giọng quá trầm làm Eragon không hiểu nổi. Nó chợt ú ớ kêu lên, vì cảm thấy từ bàn chân lên tận đầu gối bị bao bọc bằng một áp lực đang vặn, xiết chặt bắp chân, làm cho nó bất động, không thể di chuyển được. Hơn thế nữa, dường như nó đang bị gói trong một lớp vôi tôi. Oromis bảo: - Tự giải thoát đi. Đây là một thử thách Eragon chưa từng trải qua bao giờ: làm cách nào phản công lại những câu thần chú của thần tiên. Nó có thể sử dụng một trong hai phương án để tháo gỡ sợi dây vô hình này. Để đạt hiệu quả cao nhất là phải biết, bằng cách nào Oromis đã làm nó thành bất động - sử dụng trực tiếp ảnh hưởng thân thể nó hay một nguồn lực từ bên ngoài -, lúc đó nó mới có thể chuyển ngượic nguồn lực đó, tấn công lại để hóa giải. Hoặc nó có thể sử dụng một câu thần chú chung chung trong mọi trường hợp để ngăn chặn phép thuật của sư phụ. Nhưng chiến thuật này sẽ dẫn đến một cuộc đấu sức trực tiếp giữa hai thầy trò. Nó tự nhủ: “Sẽ có lúc xảy ra chuyện đó và mình chẳng hy vọng gì thắng nổi một thần tiên.” Kết nối những câu cần thiết, Eragon lẩm bẩm: - Losna kalfya iet. Hãy buông chân ta ra. Nội lực ào ào thoát ra nhiều hơn nó tưởng. Sự ê ẩm toàn thân suốt ngày nay, chuyển thành cảm giác rã rượi như vừa phải đi bộ qua một con đường dài từ sáng sớm. Rồi áp lực quanh chân nó biến mất, làm nó đứng lảo đảo khi ráng lấy lại thăng bằng. Oromis lắc đầu: - Ngốc! Đại ngu ngốc! Nếu thầy không kịp rút lại thần chú thì con đã chết rồi. Đừng bao giờ dốc toàn lực ra như thế. - Dốc toàn lực? - Không bao giờ được sử dụng một câu thần chú chỉ có thể đem lại hai hậy quả: thành công hay chết. Nếu con bị kẻ thù trói chân và kẻ thù đó lại mạnh hơn con, nếu con dốc toàn lực để bẻ gãy phép thuật của hắn, con sẽ chết ngay. - Vậy con phải làm sao? - Để an toàn hơn, con phải sử dụng câu thần chú theo một quy trình, giúp con kết liễu sự việc một cách thận trọng theo đúng ý mình. Thay vì nói “buông chân ta ra”, đó là con đã dốc hết nội lực, con nên nói “giảm phép thuật đang trói chân ta xuống”. Hơi rườm rà, nhưng con có thể thăm dò được sức lực của đối thủ, và khi cảm thấy an toàn hãy tiếp tục. Nào, thử lại lần nữa. Oromis vừa lẩm nhẩm mấy câu thần chú, chân Eragon lại bị một áp lực vô hình trói chặt. Nó mệt tới nỗi không chắc mình có thể chống chọi nổi với lần thử thách này. Tuy vậy, Eragon vẫn phải gom nội lực niệm chú. Chưa nói hết mấy câu cổ ngữ, Eragon đã nhận biết một cảm giác kỳ lạ khi áp lực nặng nề gò bó đôi chân nó nới lỏng dần. Cảm giác đó mơn trớn hai chân như nó đang được kéo khỏi một bãi bùn trơn và lạnh. Liếc nhìn sư phụ, nó thấy mặt ông căng thẳng như đang cố níu kéo một vật quý giá, không thể để mất. Một đường gân máu bên thái dương ông phập phồng đập mạnh. Khi sợi dây kỳ bí trói chân Eragon không còn nữa, Oromis bật lùi ra sau như bị ong chích. Ông trừng trừng nhìn hay bàn tay, khung ngực gầy gò phồng lên. Ông cứ đứng như vậy chừng mấy phút, rồi lặng lẽ tới sát bờ vực. Hình ảnh đơn lẻ của vị tiên ông nổi bật trên nền trời nhợt nhạt. Trong lòng Eragon đầy ân hận và thương cảm, giống như những cảm xúc lần đầu nó nhìn thấy cái chân tàn phế của rồng vàng Glaedr. Nó thầm rủa mình vì đã quá xấc xược với sư phụ, đã quá ơ hờ với sức khỏe suy yếu của ông, và đã thiếu niềm tin vào những lời ông đã phán đoán. Nó thầm nhủ: “Mình đâu phải là kẻ duy nhất phải chịu đựng những thương tích từ quá khứ.” Eragon đã không hiểu đầy đủ câu nói của ông: “Trong thầy chẳng còn bao nhiêu phép thuật và khí lực.” Lúc này nó mới nhận ra một cách sâu sắc tình trạng và nỗi đau khổ của ông, nhất là đối với một thần tiên, đã được sinh ra và nuôi nấng bằng phép thuật. Tiến tới trước sư phụ, Eragon quỳ gối, và theo đúng phong tục của người lùn, nó áp cái trán trầy trụa sát mặt đất nói: - Ebrithil, con xin thầy tha thứ. Vị lão tiên không tỏ dấu hiệu nào là đã nghe những lời nói của đệ tử. Hai thầy trò lặng lẽ giữ yên vị thế cho đến khi mặt trời lặn, tiếng chim ca hót những bản nhạc chiều, và không khí lạnh dần trong hơi sương. Từ phương bắc, tiếng vỗ cánh trở về của Saphira và Glaedr thoáng vọng lại. Bằng giọng trầm lắng xa xôi, Oromis lên tiếng nói: - Ngày mai chúng ta sẽ trở lịa bài tập này và một số bài khác nữa. Con đồng ý chứ? - Dạ, thưa thầy. - Theo ta, tốt nhất là từ nay con nên cố gắng chỉ sử dụng cổ ngữ thôi. Đó là cách học nhanh nhất, vì chúng ta không còn bao nhiều thời gian nữa. - Kể cả khi con nói chuyện với Saphira. - Đúng vậy. Eragon hứa: - Vậy thì con sẽ ngưng giảm mọi chuyện, cho đến khi không chỉ suy nghĩ, mà thậm chí cả khi nằm mơ, cũng bằng ngôn ngữ của sư phụ. - Nếu con đạt tới được trình độ đó, công việc của chúng ta sẽ sớm thành công. Ngừng một lúc, ông tiếp: - Từ sáng mai, thay vì bay thẳng tới đây, thầy sẽ cử một thần tiên hướng dẫn con tới địa điểm luyện kiếm của hoàng cung Ellesméra. Con sẽ tập luyện tạo đó một tiếng rồi trở về đây như thường lệ. - Thầy không dạy con sao? - Ta không còn gì để dạy con nữa. Tài nghệ con ngang ngửa những kiếm sĩ cao thủ ta từng gặp. Việc còn lại bây giờ là con phải duy trì tài năng đã có. - Tại sao con không thể rèn luyện với thầy, thưa sư phụ? - Vì ta không hào hứng bắt đầu một ngày bằng đối đầu, xung khắc. Ông nhìn thẳng Eragon, rồi dịu giọng tiếp: - Và cũng vì đó là dịp tốt để con làm quen với những thần tiên sống tịa nơi này. A, nhìn kìa, chúng đã trở về. Hai con rồng lướt qua mặt trời bằng phẳng như một cái dĩa. Glaedr bay trước với tiếng vỗ cánh rào rào và thân hình đồ sộ in trên nền trời trước khi đáp xuống bãi cỏ, xếp gọn đôi cánh vàng, Saphira lẹ làng như một con én kế bên con đại bàng. Để đảm bảo Eragon và Saphira quan tâm tới bài học của nhau, Oromis và Glaedr đăt hàng loạt câu hỏi. Bằng mối hợp tác và chia sẻ thông tin, Eragon và cô em rồng trả lời trôi chảy, chỉ hơi ngạp ngừng khi phải sử dụng cổ ngữ. Tư tưởng Glaedr rầm rầm như sấm: “Khá lắm. Khá hơn nhiều rồi.” Cúi nhìn Eragon, anh rồng vàng tiếp: “Ta và kỵ sĩ phải mau chóng cùng nhau tập luyện.” ‘Đúng vậy, Skulblaka.” Glaedr thở khì một tiếng rồi lò cò chân trước còn lại, bò tới bên Oromis. Saphira nhào lại, cắn đuôi anh rồng già, lắc mạnh đầu như đang cố vặn cổ một con nai. Cô ả rúm mình khi bị Glaedr quay phắt lại, nhe nanh ngoạm một miếng ngay cổ. Eragon nhăn nhó vì không kịp bịt tai khi tiếng gầm vang lồng lộng của rồng vàng cất lên. Phản ứng cấp kỳ của Glaedr đủ để Eragon đoán biết, đây không phải lần đầu trong ngày Saphira chọc ghẹo và làm Glaedr nổi sùng. Nó phát hiện một cảm giác sôi nổi thích thú trong Saphira – như đứa trẻ có món đồ chơi mới – và cô ả còn tỏ ra say mê, gần như mù quáng, đối với anh rồng kia. “Bình tĩnh nào, Saphira.” Nghe Oromis nói, Saphira lùi lại, tuy nhiên thái độ nó không hề tỏ ra ân hận. Eragon lắp bắp nói lời xin lỗi, nhưng Oromis chỉ bảo: - Hai con đi đi. Eragon lẳng lặng leo lên con rồng. Nó phải thúc dục cô nàng mới chịu cất cánh và trước khi bay về Ellesméra. ả còn đỏng đảnh lượn mấy vòng. - Mắc chứng gì em cắn người ta vậy? - Em chỉ giỡn thôi mà. Đó là sự thật, vì cả hai đang trao đổi bằng cổ ngữ, tuy nhiên Eragon nghi hoặc còn một sự thật lớn hơn: “Đùa giỡn gì kỳ vậy. Em không nhớ bổn phận mình sao? Với…”. Cố tìm một từ chính xác nhưng không ra, Eragon đành phải sử dụng ngôn ngữ của loài người “… với kiểu khiêu khích như vậy, không chỉ Glaedr mà đến cả anh và sư phụ cũng phải tức điên lên. Em làm trở ngại công việc của chúng mình, em biết không? Trước kia em có bao giờ quá dở hơi như vậy đây.” “Đừng lên mặt dạy đời với tôi.” Eragon cười sằng sặc, quên là đang lơ lửng trên mây, thân mình nó suýt nhào khỏi vai Saphira: “Ôi! Làm gì mà ngoa ngoắt quá vậy cô em? Sau những lần em khuyên anh phải làm gì, anh chính là lương tâm của em, Saphira. Cũng như em là lương tâm của anh. Và bây giờ anh phải nhắc nhở em như em từng nhắc nhở anh: Đừng quấy rầy Glaedr nữa.” Ả rồng im thin thít. “Saphira?” “Nghe rồi.” “Tưởng điếc.” Lẳng lặng bay cả phút sau Saphira mới lên tiếng hỏi: “Bị hai cú choáng váng trong một ngày, anh sao rồi?” Eragon nhăn nhó: “Ê ẩm và mệt đừ. Vừa vì tập quyền, vừa vì tập kiếm. Nhưng nhất là vì hậu quả của vết thương. Cứ như bị bao bọc trong mây mù. Hy vọng anh còn đủ tỉnh táo cho đến hết khóa huấn luyện này. Nhưng sau đó… anh không biết sẽ làm được gì. Với tình trạng này làm sao giúp Varden chiến đấu?” “Đừng nghĩ đến chuyện đó nữa. Anh không thể làm gì cho tình trạng sức khỏe của mình, mà càng nghĩ đến càng chỉ có hại thêm. Hãy cứ sống với hiện tại, nhớ về quá khứ và đừng sợ tương lai. Vì tương lai không tồn tại và có thể chẳng bao giờ xảy ra. Chỉ có hiện tại thôi.” Eragon vỗ vai cô em rồng, mỉm cười biết ơn. Bên phải nó, một con ó lượn vòng trên khoảng rừng thưa tìm mồi. Nhìn con chim, Eragon ngẫm nghĩ câu hỏi của thầy: “Con biện minh thế nào, khi cuộc chiến với Galbatorix sẽ là nguyên nhân gây ra bao tai ương, đau khổ?” Saphira bỗng góp ý: “Em có câu trả lời rồi.” “Sao?” “Là Galbatorix có…” Nó ngập ngừng rồi bảo: “Thôi, em không nói đâu. Anh phải tự tìm ra câu trả lời.” “Saphira, biết điều một chút coi.” “Em rất biết điều. VÌ nếu anh không biết vì sao những gì chúng ta làm là đúng, chẳng lẽ anh chấp nhận đầu hàng Galbatorix vì những việc tốt chúng ta sẽ làm sao?” Dù hết lời năn nỉ, Eragon không thể moi thêm được gì từ cô em bướng bỉnh. Saphira đã phong tỏa tư tưởng trong vấn đề này. Trở lại nơi nghỉ, Eragon ăn nhẹ xong, vừa định mở một trong mấy cuốn bài học sư phụ mới đưa, thì có tiếng gõ cửa. - Mời vào. Eragon nói, lòng hy vọng Arya trở lại. Đúng là nàng. Arya chào Eragon và Saphira rồi nói: - Hôm qua chàng tỏ ra quan tâm tới cung điện Tialdarí và những khu vườn phụ cận, tôi nghĩ chàng muốn có dịp tới thăm, nếu hôm nay chàng không quá mệt. Nhìn Arya trong bộ váy dài màu đỏ thêu những hoa văn bằng chỉ đen, màu sắc hài hòa làm gợi nhớ đến bộ áo của nữ hoàng và càng làm hai mẹ con giống nhau hơn. Eragon gạt mấy cuốn giấy sang một bên: - Tôi rất vui mừng được ngắm nhìn nơi ấy. Saphira hấp tấp nói ngay: “Ý anh ấy muốn nói là: chúng tôi rất vui mừng.” Arya có vẻ ngạc nhiên khi thấy cả hai đều nói bằng cổ ngữ. Eragon vội cắt nghĩa đó là theo đề nghị của Oromis. Arya cũng nói bằng cổ ngữ: - Một ý kiến rất tuyệt. Như vậy sẽ thích hợp hơn trong thời gian chàng sống tại đây. Khi cả ba xuống tới gốc cây, Arya hướng dẫn Eragon và Saphira tiến về phía tây, tới một vành đai khác biệt của Ellesméra. Trên đường đi, họ gặp nhiều thần tiên và tất cả đều ngừng lại cúi đầu chào Saphira. Một lần nữa Eragon lại nhận thấy: tuyệt nhiên không thấy bóng dáng tiên đồng ngọc nữ nào. Nó hỏi Arya. Cô nói: - À, chúng tôi chỉ có vài trẻ em thôi. Hiện nay tại Ellesméra chỉ có Dusan và Alanna. Vì trẻ em rất hiếm, nên được chúng tôi coi như là những gì quí giá nhất trên đời. Có một đứa con chính là được ban tặng món quà đầy trách nhiệm và vinh hạnh cao quý nhất. Sau cùng, họ tới trước một cửa vòm mọc ra giữa hai thân cây.Vẫn bằng cổ ngữ, Arya ngâm nga: - Rễ cây, chùm nho, hãy để ta qua bằng chính máu này của ta. Hai cánh cửa rung lên rồi bật mở. Năm con bướm lớn từ trong vỗ cánh bay lên bầu trời chạng vạng. Qua khỏi cửa là một vườn hoa rộng lớn được sắp đặt một cách tự nhiên, hoang sơ như một cánh đồng cỏ dại. Chỉ một chi tiết làm hé lộ sự tham gia của kỹ xảo: tràn ngập những loài cây khác nhau, rất nhiều loài hoa nở trái mùa, hoặc những loài tới từ những xứ có thời tiết nóng hơn hay lạnh hơn nơi này, những loài cây không thể phát triển nếu không có phép thuật của thần tiên. Toàn bộ khung cảnh được chiếu sáng bằng những ngọn đèn xanh ngọc không có lửa, tăng cường thêm bởi những bầy đom đóm nhào lộn trên không. Arya nhắc nhở Saphira: - Coi chừng, đừng để đuôi quét qua những luống hoa. Qua khu vườn tới những hàng cây rải rác, rồi cây cối dày đặc hơn, mọc sát nhau thành một bức tường. Eragon nhận ra nó đang đứng trước một ngưỡng cửa, nếu không bước vào thì không thể ngờ bên trong là một đại sảnh bằng những thân cây bóng lộn. Đại sảnh toát ra một không khí ấm áp, thân mật, vừa tĩnh lặng vừa thoải mái êm đềm. Tạo nên bằng ba thân cây, phía trong được lột vỏ và đánh bóng bằng dầu làm mặt gỗ sáng ngời như mã não. Giữa những thân cây là những lỗ hổng đều đặn dùng như ô cửa sổ. Hương lá thông nghiền vụn thơm lừng trong không khí. Tất cả những thần tiên có mặt trong đại sảnh - vị viết, vị đang đọc và trong một góc tối mấy vị đang thổi sáo trúc - đều ngừng lại, cúi đầu khi thấy Saphira. Arya nói với Eragon: - Nếu không phải là rồng và kỵ sĩ, thì chàng và Saphira đã ngụ tại nơi này. - Ở đây tuyệt quá. Arya hướng dẫn Eragon và Saphira tới tất cả những nơi trong khu vực đủ rộng cho Saphira có thể tiến qua. Mỗi căn phòng là một ngạc nhiên thú vị, không căn nào giống căn nào. Nhưng tất cả đều có một cách thiết kế khác nhau để hài hòa cùng với rừng cây. Trong một phòng, một dòng suối bạc róc rách tuôn xuống từ những bức tường cây, êm đềm chảy qua mạch đá cuội trên sàn, rồi đổ ra ngoài trời. Phòng khác, chung quanh vách tràn ngập màu xanh của cây leo và những bông hoa loa kèn hai màu hồng và trắng. Rất nhiều tác phẩm nghệ thuật từ những bức fairth (tác phẩm tạo ra bằng phép thuật) tới tranh vẽ, tượng điêu khắc, tranh kính nhuộm màu rực rỡ. Trong ngôi lều vải nối liền hai ngôi nhà, họ gặp nữ hoàng Islanzadí. Bà hỏi thăm về chuyện học và tình trạng chấn thương trên lưng của Eragon. Nó lễ phép trả lời. Nữ hoàng có vẻ hài lòng, bà hỏi han Saphira vài câu rồi quay đi. Sau cùng khi trở lại khu vườn, Eragon ngơ ngẩn lắng nghe giọng Arya bổng trầm cắt nghĩa sự khác nhau của đủ loài hoa muôn màu muôn vẻ: xuất xứ của chúng, chúng được bảo quản và biến đổi bằng phép thuật như thế nào. Cô chỉ một loại hoa giống như hoa độc dược trắng, bảo: - Những cánh hoa này chỉ nở ra vào ban đêm. Eragon hỏi: - Nàng thích loài hoa nào nhất? Arya mỉm cười, dẫn Eragon tiến tới một cây sát mé vườn, bên hàng sậy mọc quanh bờ ao. Cuốn quanh những cành thấp của cây là một dây khêu-ngưu-hoa với ba chiếc nụ đen mượt như nhung. Cúi mình thổi nhẹ lên mấy nụ hoa, Arya thì thầm: - Nở ra! Những cánh hoa đen mun xào xạc xòe ra, để lộ lớp phấn ngay chính giữa. Một màu xanh vương giả lóng lánh tỏa từ đài hoa lên những cánh hoa u tối, như dấu hiệu của sự chuyển tiếp từ ngày qua đêm. Arya hỏi: - Đây không phải là những bông hoa đáng yêu và hoàn hảo nhất sao? Eragon ngẩn nhìn, hoa và người giống nhau làm sao? - Vâng… đúng vậy… rất đáng yêu… Nó vụt nói thật nhanh: - … như nàng vậy. Saphira kêu lên cảnh giác: “Eragon!” Arya nhìn thẳng Eragon cho đến khi nó phải quay nhìn hướng khác. Khi lấy hết can đảm nhìn lại, nó bỗng ngượng chín người thấy nụ cười còn phảng phất trên môi Arya. Dường như nàng thích thú vì phản ứng của nó. - Vì chàng quá tốt nên nói vậy đó thôi. Arya nói nhỏ. Vuốt ve cánh hoa, cô ngước nhìn Eragon, tiếp: - Vào một ngày hạ chí, cách nay đã lâu rồi, Faolin tạo ra loài hoa này dành cho riêng tôi. Vừa nặng nề lê bước, Eragon vừa lẩm bẩm trả lời mấy câu vô nghĩa. Cảm thấy buồn bực, đau xót vì cô ta coi lời khen của nó chẳng là gì, Eragon chỉ muốn niệm một câu thần chú để biến khỏi đây ngay. Nó ráng bình tĩnh nói: - Xin lỗi Arya Svit-kona, muộn rồi, chúng tôi phải về thôi. Nụ cười cô càng tươi hơn: - Tôi hiểu mà, Eragon. Tiễn khách tới vòm cửa chính, Arya nói: - Chúc ngủ ngon, Saphira. Ngủ ngon nhé Eragon. Saphira cũng nói: “Chúc ngủ ngon, công nương Arya.” Dù đang rất ngượng ngùng, Eragon cố hỏi: - Chúng ta sẽ gặp lại ngày mai chứ? Arya nghiêng đầu: - Chắc là ngày mai tôi bận lắm. Rồi cánh cửa khép lại, không để Eragon nhìn thấy Arya nữa. Cúi gập mình trên lối đi, Saphira chúi mũi vào sườn Eragon: “Leo lên đi, đừng mơ mộng nữa.” Khi Eragon yên vị, Saphira vươn người đứng dậy. Bước được vài bước, cô rồng đủng đỉnh hỏi: “Anh phê phán thái độ của em đối với Glaedr, rồi anh lại hành động y như vậy. Anh nghĩ sao?” “Em biết tình cảm của anh đối với Arya mà.” “Xì! Nếu lương tâm anh là của em, và lương tâm em là của anh, em phải có bổn phận nhắc nhở khi anh hành động như một con rối. Anh không sử dụng phương pháp lý luận sao cho hợp lý, như lời sư phụ vẫn dạy chúng ta. Anh mong chuyện gì xảy ra giữa anh và cô ta. Hãy nhớ Arya là một công chúa.” “Thì sao nào? Anh là một kỵ sĩ.” “Cô ta là thần tiên, anh là một con người.” “Càng ngày trông anh càng giống thần tiên đó thôi.” “Ôi trời, Eragon, cô ta hơn một trăm tuổi rồi đấy.” “Anh cũng sẽ sống lâu như nàng và bất cứ thần tiên nào khác.” “A, nhưng lúc này thì chưa. Vấn đề là ở đó. Anh không thể vượt qua được khoảng cách biệt lớn như vậy. Cô ta là một người đàn bà đã trưởng thành, còn anh…” “Cái gì? Anh thì sao? Là một thằng nhóc? Em định nói vậy chứ gì?” ”Không. Sau những gì anh em ta đã thấy, đã làm, anh đâu còn là một chú nhóc nữa. Ý em là anh còn trẻ, kể cả so sánh với đời sống ngắn ngủi của loài người, chứ đừng nói chi tới người lùn, thần tiên hay loài rồng.” “Như em chứ gì?” Câu bắt bẻ làm Saphira nín lặng một lúc, nhưng rồi nó lại tiếp: “Eragon, em chỉ muốn bảo vệ anh. Thật tình chỉ có vậy thôi. Em mong anh có hạnh phúc, nên em sợ anh sẽ không được hạnh phúc nếu cứ khăng khăng theo đuổi Arya.” Cả hai vừa sửa soạn đi nghỉ, chợt nghe tiếng cửa chớp ngoài tiền sảnh bật mở và tiếng áo giáp lẻng kẻng như có người đang leo lên. Chụp thanh Zar’roc, Eragon nhảy tới sau cửa lưới, sẵn sàng nghênh chiến kẻ đột nhập. Nhưng nó buông thõng tay khi thấy Orik đứng dưới sàn. Ông lùn nâng chai tu ừng ực, rồi lườm Eragon: - Cậu trốn đâu mất tăm vậy? Chẳng biết cậu ở đâu mà tìm, tôi phải lấy rượu giải sầu đây. Bây giờ vớ được cậu rồi, chúng ta sẽ nói gì đây, khi cả hai ta đều ở trong cái tổ chim quý hóa này. Eragon nắm cánh tay Orik kéo lên, kinh ngạc vì ông lùn cứng rắn như một tảng đá thu nhỏ. Khi Eragon buông tay, Orik lảo đảo như chỉ chờ một khiêu khích nhỏ là lộn nhào ngay xuống dưới. Nó bảo: - Vào đi, ở ngoài này ông bị cảm mất thôi. Hấp háy đôi mắt tròn xoe, sâu hoắm, ông lùn lom lom nhìn Eragon: - Khắp cái nơi lưu đầy toàn cây với lá này, tôi chẳng thấy cậu đâu. Cậu bỏ tôi với đám thần tiên. Khốn khổ! Toàn là lũ dở hơi. Chán không chịu nổi. Eragon gường cười ân hận: - Tôi xin lỗi không đến thăm ông, Orik. Nhưng tôi bận học quá. Nào, đưa áo khoác cho tôi. Ông uống gì vậy? - Faelnirv. Sáng chế tuyệt vời nhất mà thần tiên làm được. Cái này hay lắm, nó làm mình ba hoa thoải mái. Những lời nói tuôn ra ào ào như tôm cá lách tách nhảy trên nước, cuồn cuộn như dòng sông… Ông lùn có vẻ khoái trá vì những lời ví von độc đáo, để mặc cho Eragon đẩy vào phòng ngủ. Thấy Saphira, ông đưa cao chai rượu: - Chào răng thép. Chúc mi rực sáng như than hồng trong lò rèn của Morgothal. Saphira gối đầu lên thành giường nói: “Chào ông Orik. Chuyện gì làm ông ra nông nỗi này? Chẳng giống ông chút nào.” Eragon nói lại lời cô rồng. Orik hỏi lại: - Chuyện gì ư? Ngồi phịch xuống cái ghế Eragon mới đưa, hai chân đòng đưa cách mặt sàn mấy phân, Orik lắc đầu lia lịa. - Thần tiên chỗ này, thần tiên chỗ kia. Tôi chết chìm trong đám thần tiên và những lễ nghi dở hơi của họ. Đúng là một đám lầm lì, tàn nhẫn. Suốt ngày chỉ toàn những kính thưa ngài có, bẩm thưa ngài không. Ông rầu rĩ hỏi Eragon: - Tôi biết làm gì trong suốt thời gian cậu bay bổng học tập lung tung khắp nơi? Ngồi lẩn thẩn bẻ ngón tay rồi hóa đá để theo về với tổ tiên ông bà sao? Nói đi, chàng kỵ sĩ tài ba. - Ông không có công việc hay trò giải trí gì để giết thì giờ sao? - A ha, có chứ, tôi là một tay thợ rèn đâu đến nỗi tồi. Nhưng vì sao tôi lại phải tạo ra những áo giáp, vũ khí sáng ngời cho những kẻ không biết quý trọng những thứ đó chứ? Ở đây tôi là một tên vô dụng. Vô dụng như một con dê Feldunost ba chân vậy. Eragon đưa tay về phía chai rượu, nói: - Tôi được phép chứ? Orik hết nhìn chai rượu lại nhìn Eragon, rồi nhăn mặt, trao cho nó. Rượu faelnirv trôi qua họng, lạnh buốt như nước đá. Uống hai ngụm lớn, Eragon trao chai lại cho Orik. Ông lùn tiếc rẻ nhìn chút xíu rượu còn lại, hỏi Eragon: - Nào, cậu và Saphira moi được những gì từ ông tiên già Oromis? Hết chặc lưỡi lại hít hà, ông lùn lắng nghe Eragon thuật lại việc huấn luyện, chuyện nó chúc phúc lầm cho đứa trẻ ở Farthen Dur, chuyện về cây Menoa và tất cả những gì xảy ra trong mấy ngày qua. Sau cùng kết thúc bằng đề tài nó đang tha thiết nhất lúc này: Arya. Thêm can đảm nhờ rượu, Eragon thổ lộ tình cảm của nó đối với Arya và cô nàng đã hờ hững với tấm lòng của nó như thế nào. Orik xua xua ngón tay: - Eragon, đừng đùa với số mệnh… Uống thêm ngụm rượu, ông ậm ừ: - Arya… Nhưng thôi, tôi là ai mà dám phê phán đúng sai chứ? Saphira đang lim dim, chợt hỏi: - Ông có vợ chưa, Orik? Câu hỏi làm Eragon ngạc nhiên, vì nó cũng vẫn luôn thắc mắc về đời tư của ông lùn. Orik nói ngay: - Eta. Chưa. Nhưng tôi đã hứa hôn với Hvedra, con gái của Thorgerd Một-Mắt và Himinglada. Chúng tôi định cưới mùa xuân này, thế rồi Urgal tấn công, sau đó đức vua Hrothgar phái tôi theo chuyến đi đáng nguyền rủa này. - Cô ta thuộc dòng tộc Ingeitum? - Tất nhiên. Tưởng tôi có thể cưới một cô gái ngoài dòng tộc sao? Cô ấy là cháu nội của bà dì Vardrun, họ hai đời của đức vua. Bắp chân cô ấy tròn và trắng mịn như sa tanh, má hồng như táo chín. Tôi chưa hề thấy cô gái lùn nào đẹp hơn Hvedra. Eragon bảo: - Tôi tin chắc, ông sẽ gặp lại nàng không lâu nữa đâu. - Hừ, cậu tin có người khổng lồ không? Những người khổng lồ cao lớn, dũng mãnh, râu rìa, ngón tay to đùng như cán cuốc ấy. - Tôi chưa bao giờ thấy, cũng chẳng hề nghe nói đến người khổng lồ như thế… ngoài chuyện cổ tích. Nếu có thật thì cũng ở đâu đó, làm gì có ở Alagaesia. - A ha ha, vậy mà có đấy. Ve vẩy cái chai trên đầu, Orik nói: - Nào, kỵ sĩ, cho tôi biết, nếu thình lình một người khổng lồ đáng sợ như thế gặp cậu ngoài vườn, hắn sẽ gọi cậu là gì? - Eragon, tôi đoán thế. Thúc khuỷu tay lên mạn sườn Eragon, ông lùn cười ha hả: - Không không. Hắn sẽ gọi cậu là thằng lùn. Vì với hắn cậu chỉ là một thằng lùn. Hiểu chưa? Thần tiên và loài người là những gã khổng lồ. Họ tràn lan trên mặt đất này. Họ nện chân thình thịch và phủ bóng lên chúng tôi. Ha ha ha… Orik cười nghiêng ngả làm cái ghế lật ngửa ra sau, quăng ông lăn đùng xuống sàn. Eragon nâng ông ta dậy, nói: - Tôi nghĩ, tối nay ông nên ngủ lại đây. Tình hình này ông không lần mò xuống những bậc thang tối thui kia được đâu. Ông lùn hoan hỉ đồng ý ngay, để Eragon cởi giáp, đẩy ông xuống giường. Sau đó nó thở dài, che đèn, rồi nằm ghé xuống đệm. Lơ mơ ngủ, Eragon còn nghe tiếng ông lùn lảm nhảm: - Hvedra… Hvedra… Hvedra của ta… Ngồi bật dậy vì tiếng rung của cái dụng cụ báo giờ, Eragon vơ vội con dao săn, nhảy khỏi giường, đề phòng bị tấn công. Nó há hộc mồm thở, toàn thân như kêu thét lên phản đối vì những lạm dụng quá sức trong hai ngày vừa qua. Eragon chớp mắt nhìn quanh, trời đã sáng bạch, Orik có lẽ đã ra đi từ lúc tinh mơ. Nó rên lên một tiếng rồi tập tễnh như ông già bị thấp khớp, bước vào phòng tắm. Sau mười phút cùng Saphira đứng chờ dưới gốc cây, Eragon mới thấy một thần tiên tóc đen, vẻ đạo mạo tiến lại, hai ngón tay chạm môi, cúi đầu rồi giành phần nói trước nó: - Cầu xin số phận tốt lành đến với người. Eragon cũng đặt ngón tay lên môi, cúi đầu đáp lễ: - Cầu xin các vì sao bảo vệ người. Sư phụ Oromis phái người tới, phải không? Không thèm nhìn lại và trả lời Eragon, vị tiên tóc đen quay sang Saphira: - Xin chào, ta là Vanir thuộc tộc Halbthin. Eragon bực tức rủa thầm trong khi Saphira cúi đầu chào lại. Lúc đó Vanir mới lên tiếng bảo Eragon: - Ta sẽ hướng dẫn mi tới nơi luyện kiếm. Hắn quay đi ngay không đợi Eragon kịp trả lời. Rải rác trong sân luyện kiếm đã có những cặp hoặc từng nhóm thần tiên đang tập luyện. Với sức mạnh thiên phú, những đường kiếm của họ ào ào như vũ bão, lanh lẹ như tia chớp. Hàng loạt tiếng vũ khí va chạm rung lên như chuông ngân. Dưới những tán cây quanh sân, một số thần tiên tách riêng lẻ, đang luyện Xà-Hạc quyền với những chiêu thức biến ảo, duyên dáng và phức tạp. Eragon tự nhủ mình không bao giờ đạt đến mức tuyệt chiêu như vậy được. Sau khi tất cả ngừng tay, cúi chào Saphira, Vanir rút khỏi bao thanh kiếm mảnh mai, bảo Eragon: - Bàn-tay-bạc, nếu bảo vệ được kiếm mình, chúng ta có thể bắt đầu. Eragon lo lắng nhìn những kiếm khách thần tiên phi phàm chung quanh, tự nhủ: “Mình chỉ sẽ làm trò cười cho họ mà thôi.” “Anh sẽ không sao đâu, đừng lo.” Tuy Saphira nói vậy, nhưng Eragon cảm thấy chính cô em rồng cũng đang lo lắng cho ông anh. Hai tay Eragon run lên vì sợ khi cầm thanh Zar’roc thủ thế. Thay vì xông lên tấn công, nó đảo bước, né tránh từ xa, ráng không để bất cứ điều gì có thể gây thêm một lần bị choáng ngất nữa. Nhưng dù cố gắng thoát khỏi những đường kiếm của đối phương, Eragon vẫn bị bốn chiêu chớp nhoáng của Vanir đánh trúng mạn sườn, ống quyển, hai vai. Vẻ mặt đạo mạo trầm tĩnh của Vanir lúc bắt đầu thoắt trở thành vẻ giễu cợt khinh khi. Phóng mình nhảy tới, hắn lướt nhẹ kiếm suốt chiều dài thanh Zar’roc, đồng thời xoay vòng Zar’roc, xoắn mạnh cườm tay Eragon. Không chịu nổi sức mạnh của thần tiên, Eragon buông thanh kiếm bay vọt khỏi tay. Vanir dí mũi kiếm ngay cổ Eragon, nói: - Chết. Gạt lưỡi kiếm của Vanir, Eragon lê chân, cúi nhặt thanh Zar’roc. Vanir lại nói: - Như vậy là chết rồi. Đánh đấm thế này, sao mi có thể mong hạ được Galbatorix? Dù biết mi là một con người yếu ớt, ta cứ tưởng mi khá hơn nhiều. - Vậy sao mi không tự đi mà đánh với Galbatorix, thay vì trốn chui nhủi trong đất Du Weldenvarden này? Vanir giận sôi gan, nhưng giọng nói vẫn lạnh lùng đầy ngạo mạn: - Vì ta không phải là một kỵ sĩ rồng. Nếu là kỵ sĩ, chắc chắn ta sẽ không là một kỵ sĩ hèn nhát như mi. Khắp bãi tập bỗng im lặng như tờ. Quay lưng lại Vanir, Eragon ngửa mặt nhìn trời, thầm rít lên: “Đây là một thử thách nữa mình phải vượt qua.” Vanir vẫn tiếp tục: - Ta nhắc lại: đồ hèn. Máu mi loãng như tất cả dòng giống loài người của mi. Ta nghĩ chắc Saphira đã mắc mưu Galbatorix, nên đã bối rối chọn lầm mi làm kỵ sĩ. Các thần tiên chung quanh sững sờ trước những lời nói của Vanir, họ râm ran với nhau, công khai phản đối thái độ vi phạm thô bạo nghi thức xã giao của hắn. Eragon nghiến răng. Nhục mạ nó, nó còn chịu nổi, nhưng không được đụng tới Saphira. Saphira lập tức chuyển động khi cảm thấy sự giận dữ, đau đớn, sợ hãi bùng lên trong lòng ông anh. Eragon quay phắt lại, mũi kiếm rít lên trong không khí. Đường kiếm đó có thể giết chết Vanir, nếu hắn không kịp chống đỡ. Hắn kinh ngạc vì chiêu kiếm cực kỳ hung hãn của Eragon. Không trì hoãn một giây, Eragon đẩy lùi Vanir vào giữa sân, với những đường kiếm đâm, chém tới tấp; quyết tâm làm hắn phải bị thương. Nó rạch mạnh một đường trên hông Vanir đủ có thể làm tóe máu, dù thanh kiếm đã được bao phủ, làm cùn bằng phép thuật. Nhưng ngay lúc đó, cơn đau như bẻ gãy lưng, Eragon nhận biết sự đau đớn bằng cả năm giác quan: tai nó ù lên như ào ào toàn tiếng thác đổ, lưỡi tanh mùi kim loại, nước mắt cay sè, hai lỗ mũi nồng nặc mùi chua như giấm; và trên tất cả là cảm giác. Tà Thần vừa xé banh lưng nó ra. Nó còn có thể thấy Vanir đứng nhìn xuống nó với nụ cười nhạo báng. Lúc đó nó mới nhận ra Vanir còn rất trẻ. Sau cơn choáng váng, Eragon chùi máu trên miệng, rồi xòe tay trước mắt Vanir, hỏi: - Loãng lắm không? Thay vì trả lời, Vanir tra kiếm vào bao, quay bước. Eragon hỏi lớn: - Đi đâu? Việc chúng ta chưa xong mà. - Sức khỏe mi không thể đấu được nữa. - Cứ thử coi. Dù thua sút thần tiên, nhưng nó không để cho họ có dịp coi thường. Nó sẽ làm họ phải nể phục, quyết đấu cho đến phút cuối cùng. Sau khi Eragon hoàn tất luyện kiếm cùng Vanir đúng thời gian Oromis đã quy định, Saphira tiến tới, đặt cái móng to đùng lên ngực Vanir, nói: “Chết.” Các thần tiên vội lảng ra xa. Mặt Vanir xanh nhợt như tàu lá. Vừa cất cánh lên cao, Saphira nói ngay: “Sư phụ nói đúng.” “Đúng chuyện gì?” “Anh ráng sức hơn khi có đối thủ.” Trở về lều sư phụ, thời gian còn lại trong ngày tiếp tục như thường lệ: Eragon ở lại, còn Saphira bay theo Glaedr để học tập. Hốt hoảng vì sư phụ ra lệnh luyện thêm mấy đường Xà-Hạc quyền mới, nhưng Eragon vẫn cố lấy can đảm tuân theo. Tuy nhiên mấy chiêu thức nhẹ nhàng không làm nó bị chấn thương. Điều đó, cùng với sự tĩnh tọa trong trảng trống, cho nó cơ hội suy ngẫm câu hỏi sư phụ đã đưa ra ngày hôm trước. Trong lúc suy ngẫm, Eragon quan sát bầy kiến đỏ của nó đang ào ạt xâm lăng và cướp lương thực của một tổ kiến nhỏ hơn. Kết thúc cuộc tàn sát, đối phương chỉ còn lại ít con sống sót – bơ vơ vô vọng – trêng khoảng trống đầy lá thông cằn cỗi. “Giống như những con rồng ở Alagaesia”, Eragon thầm nghĩ. Liên tưởng từ những con kiến vừa biến mất, nó so sánh với số phận hẩm hiu của rồng. Dần dần câu trả lời cho vấn đề của nó hé lộ. Một giải pháp làm nó có thể tin và ứng dụng vào cuộc sống. Chấm dứt buổi tĩnh tọa, Eragon trở về lều. Khi Oromis đang dọn ăn trưa, Eragon lên tiếng nói: - Con hiểu vì sao dù hàng ngàn người có thể chết, việc chiến đấu cùng Galbatorix vẫn là điều đáng phải làm. - Vậy sao? Hãy nói cho thầy biết. - Vì suốt mấy trăm năm qua, sự đau khổ do Galbatorix đã gây ra, lớn hơn rất nhiều những gì chúng ta có thể gây ra trong một thế hệ. Chúng ta cũng không thể đợi chờ lão chết, vì lão không giống một bạo chúa bình thường. Lão còn có thể thống trị nhiều thế kỷ, thậm chí cả thiên niên kỷ - và suốt thời gian đó lão vẫn tiếp tục hành hạ, đày ải nhân dân - trừ khi chúng ta… bắt lão ngừng lại. Nếu lão trở nên mạnh hơn, lão sẽ tiến tới tàn sát và bắt làm nô lệ cả người lùn và thần tiên tại Du Weldenvarden này. Và… Nó ngập ngừng tiếp: - …và vì việc giải thoát hai trứng rồng khỏi tay Galbatorix là cách duy nhất để cứu loài rồng. Ấm nước trên lò than réo sôi sùng sục. Oromis đứng dậy, lấy ấm khỏi bếp, pha trà. Ông hỏi: - Vậy là con đã hiểu? - Con hiểu nhưng không được vui. - Đúng là không vui. Nhưng bây giờ chúng ta có thể tin tưởng là con sẽ không chùn bước khi phải đối đầu với những bất công và tàn bạo mà Varden sẽ khó tránh không phạm phải. Chúng ta không muốn con bận trí vì những hoài nghi, thắc mắc; trong khi sức lực và sự tập trung của con là điều vô cùng cần thiết. Con có tin Galbatorix là kẻ độc ác không? - Tất nhiên con tin. - Con có tin là hắn cho mình là kẻ có tội không? - Không, con không tin. - Vậy thì chắc con tin Tà Thần Durza là quỷ dữ? Những mảnh vụn quá khứ Eragon đã moi được từ Durza trong cuộc đấu tại Tronjheim trở lại trong tâm trí, gợi Eragon nhớ lại thời trai trẻ của Tà Thần – khi đó là chàng trai Carsaib, rồi khi hắn trở thành nô lệ của đám âm binh do chính hắn chiêu hồn, để trả thù cho cái chết của Haeg, sư phụ hắn. - Bản thân hắn không là quỷ dữ, chính những âm binh điều khiển hắn mới là quỷ dữ. Oromis nhấp ngụm trà, hỏi tiếp: - Còn Urgal, chúng có phải là ác quỷ không? Eragon nắm chặt cái muỗng đến nỗi làm những lóng tay nhợt hẳn ra: - Mỗi khi nghĩ đến cái chết, mặt của một tên Urgal lại hiển hiện trước mắt con. Chúng xấu xa ghê tởm hơn cả loài ác thú. Những gì chúng đã làm… Nó lắc đầu không thể nói tiếp nổi. - Eragon, con sẽ nói sao về loài người, nếu tất cả những gì con biết, đều là những hành động của họ ngoài chiến địa. - Điều đó không là… Không, đó lại là chuyện khác. Tụi Urgal đáng quét sạch không còn một mống. - Kể cả đàn bà trẻ con? Những kẻ vô tội không – và có lẽ họ không bao giờ - muốn làm hại con? Con cũng sẽ giết họ và đày đọa tất cả dòng giống họ xuống đáy hỏa ngục sao? - Nếu có dịp, chúng chẳng tha ta đâu. - Eragon, thầy không bao giờ muốn nghe con bào chữa kiểu đó nữa. Không phải những gì kẻ khác làm, thì con cũng sẽ làm. Đó là sự nhỏ nhen, đố kỵ, thành kiến và là những biểu hiện của một tâm trí thấp kém, không sáng suốt. Con rõ chưa? - Dạ, thưa thầy. Suốt thời gian đưa cốc trà lên môi uống, mắt Oromis không rời Eragon: - Thật sự con biết những gì về Urgal? - Con biết sức mạnh và yếu điểm của chúng. Con biết phải giết chúng cách nào. Con chỉ cần biết bấy nhiêu thôi. - Vì sao chúng căm hận và gây chiến với loài người? Lịch sử và truyền thuyết về chúng, hay chúng sinh hoạt ra sao? Con biết không? - Chuyện đó có quan trọng không ạ? Oromis thở dài, nhẹ nhàng nói: - Hãy nhớ rằng, trên một phương diện nào đó, kẻ thù của con cũng có thể trở thành một đồng minh. Đó là chuyện rất tự nhiên trong đời. Cố không cãi lại thầy, Eragon quậy cốc trà đến sủi bọt. Sau cùng nó lên tiếng hỏi: - Có phải đó là lý do Galbatorix kết nạp Urgal? - Đó không phải thí dụ ta định đưa ra, nhưng cũng đúng. - Lão thỏa hiệp với Urgal dường như là một chuyện lạ lùng. Vì chính chúng là những kẻ đã giết con rồng của lão. Hãy nhớ lại những gì lão đã ra tay với các kỵ sĩ, mà kỵ sĩ có trách nhiệm gì với sự mất mát của lão đâu. - A, có thể hắn điên, nhưng hắn vẫn cứ là một con chồn tinh quái. Ta đoán hắn có ý định sử dụng Urgal để tiêu diệt Varden và người lùn, và… cả các phe phái khác nữa. Nếu cuộc tấn công Farthen Dur vừa qua thành công, hắn trừ khử được hai kẻ thù, đồng thời làm suy kiệt Urgal, như vậy lão sẽ ung dung rảnh tay sai khiến chúng. Buổi chiều, sau khi học cổ ngữ, hai thầy trò luyện phép thuật. Hầu hết bài giảng của Oromis hôm nay chú trọng vào phương pháp điều khiển những hình thức khác nhau của năng lượng như: ánh sáng, hơn nóng, điện năng… kể cả trọng lực. Ông cắt nghĩa, vì sức phá hủy của những nguồn lực này mạnh hơn bất cứ loại thần chú nào, chúng lại có sẵn trong thiên nhiên. Chỉ cần định hình chúng bằng phép thuật, thay vì phải cố gắng tạo ra từ cái không có. Oromis bỗng chuyển đề tài, hỏi Eragon: - Con sử dụng phép thuật để sát thủ như thế nào? - Con sử dụng nhiều cách. Con đi săn với một viên đá cuội – di chuyển, nhắm con mồi, rồi phóng - giống như con niệm chú câu jierda để bẻ cổ vặn chân Urgal. Có lần, với câu thrysta, con đã lấy mạng một người. - Còn nhiều phương pháp hiệu quả hơn. Eragon, điều gì gây nên cái chết của một con người? Một lưỡi gươm xuyên qua ngực? Một cú bẻ cổ? Sự thất thoát máu? Tất cả chỉ là làm cho một động mạch não nghẽn lại, hay nói rõ hơn là cắt đứt một vài dây thần kinh. Với một câu thần chú chính xác, con có thể xóa sổ một đoàn quân. - Đáng lẽ con phải biết điều này từ khi ở Farthen Dur. Sư phụ, cho con hỏi lần nữa, vì sao ông Brom không dạy con phương pháp này? - Vì hắn tưởng phải nhiều tháng, nhiều năm nữa con mới phải đối mặt kẻ thù. Hơn nữa, phương pháp này không dành cho những kỵ sĩ chưa qua kiểm tra năng lực. - Nếu giết người dễ dàng như vậy, lý do gì chúng ta và Galbatorix phải thành lập quân đội? - Nói ngắn gọn, đó là chiến thuật. Các pháp sư có những yếu điểm thể chất khi bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tinh thần. Do đó cần phải có những chiến binh để bảo vệ họ. Còn các chiến chiến binh cũng cần được bảo vệ, dù chỉ một phần, những khi bị tấn công bằng phép thuật, nếu không họ sẽ bị giết ngay. Những giới hạn này có nghĩa: khi hai đoàn quân đương đầu với nhau, pháp sư của họ được rải khắp trong hàng ngũ, gần giới tuyến, nhưng không gần quá để tránh nguy hiểm. Pháp sư của cả hai phe đều mở tâm tưởng để dò la đối phương có đang, hay sắp, sử dụng phép thuật không. Đề phòng địch thủ có thể là những tay cao thủ hơn, các sư còn tạo nên một rào cản quanh họ và các chiến binh, để ngăn chặn hoặc giảm thiểu sự tấn công từ xa, chẳng hạn như một hòn đá phóng từ cả dặm tới, trúng ngay đầu. - Nhưng một con người chắc chắn không thể bảo vệ cho cả một đoàn quân. - Một mình thì không. Nhưng có đầy đủ pháp sư, con có thể bố trí một lượng lớn bảo vệ hợp lý. Điều nguy hiểm nhất trong chiến thuật này là, một pháp sư cao tay có thể tìm ra cách tấn công độc đáo: lách qua rào cản phép thuật mà không bị phát hiện. Chính điều đó, có thể, đủ để quyết định trận chiến rồi. Ngoài ra, con nên nhớ một điều, dù trong loài nào cũng hiếm có kẻ vượt trội về khả năng sử dụng phép thuật. Thần tiên chúng ta cũng không ngoại lệ, mặc dù chúng ta là mảnh đất sản sinh ra nhiều cao thủ sử dụng phép thuật hơn bất cứ loài nào. Có dược kết quả đó là nhờ chúng ta đã sống khép kín từ bao nhiêu thế kỷ nay. Đa số những kẻ được ca tụng, phép thuật rất tầm thường, thậm chí không có chút tài năng nào. Chúng chỉ có khả năng chữa lành một vết thương nho nhỏ. Eragon gật đầu. Nó đã từng gặp loại pháp sư này trong đoàn thể Varden. - Thưa thầy, nhưng họ cũng cần một lượng nội lực tương đương để hoàn tất một công việc chứ ạ? - Đúng vậy. Nhưng, những pháp sư yếu kém không dễ gì cảm nhận được dòng luân lưu của phép thuật. Họ bị phép thuật nhận chìm. Cũng có một vài pháp sư đủ mạnh để tạo ra mối đe dọa, uy hiếp cả một đoàn quân. Những người này thường sử dụng phần lớn thời gian ngoài mặt trận để theo dõi, lẩn tránh và chiến đấu với đối phương. Với người lính, đó là điều may mắn, vì nếu không nhờ vậy họ sẽ sớm bị mất mạng rồi. Eragon áy náy nói: - Varden ko có nhiều pháp sư. - Đó là một lý do vì sao con quan trọng đến thế. Một lát sau Eragon nhớ lại lời sư phụ nói về những “rào cản”! - Những rào cản chỉ làm hao tổn nội lực của ta khi chúng hoạt động, phải không ạ? - Phải. - Vậy thì, nếu có đủ thời gian, ta có thể tạo ra vô vàn lớp rào cản thì… không có gì đụng được tới ta nữa, ta sẽ thành người bất khả xâm phạm sao?... Bất khả xâm phạm ngay cả với bất kỳ cuộc tấn công nào, dù là phép thuật hay con người? - Rào cản tùy thuộc vào nội lực. Nếu sử dụng nội lực quá giới hạn, con sẽ chết. Bao nhiêu lớp rào cản không là vấn đề, vấn đề là con chỉ có thể ngăn được sự tấn công lâu chừng nào cơ thể con còn duy trì được việc tạo ra nội lực. - Nội lực của Galbatorix mỗi năm mỗi mạnh hơn. Vì sao lão không thể làm được điều đó? Oromis im lặng. Đôi mắt hình trái hạnh của ông chăm chú theo dõi ba con chim én bay vòng trên đầu. Eragon thấy ông đang cân nhắc cách tốt nhất để trả lời nó. Mấy con chim rượt đuổi nhau mấy phtú rồi bay vụt đi. Lúc đó Oromis lên tiếng: - Lúc này chưa thích hợp để bàn luận vấn đề này. Eragon kêu lên: - Như vậy là sư phụ biết? - Ta biết. Nhưng phải đợi tới sau này, khi con đã được huấn luyện thêm. Bây giờ con chưa được trang bị để sẵn sàng lãnh hội những điều này đâu. Vừa nói ông vừa lom lom nhìn Eragon, như chờ nó phản đối. Nhưng Eragon chỉ cúi đầu nói: - Tùy ý sư phụ. Nó biết ông chỉ nói khi nào muốn, có năn nỉ cũng vô ích mà thôi. Tuy nhiên, nó vẫn tự hỏi, điều gì nguy hiểm tới nỗi Oromis không dám nói cho nó biết và giữ bí mật luôn cả với quân cách mạng Varden? Một ý tưởng chợt lóe trong đầu làm Eragon bật hỏi: - Nếu những trận đánh được điều khiển bởi các pháp sư như thầy nói, vì sao thủ lãnh Ajihad để con chiến đấu tại Farthen Dur mà không có rào chắn phép thuật nào? Thậm chí con cũng không biết là phải mở tâm tưởng cho kẻ thù dò la, để mình phát hiện ra chúng; và tại sao Arya đã không giết nhiều, thậm chí tất cả tụi Urgal? Vì ngoài Tà Thần Durza, không có một pháp sư nào chống lại cô ta. Tà thần cũng đã không thể bảo vệ cho quân của hắn khi ở dưới đường hầm. - Ajihad đã không bảo Arya hay một người trong nhóm Con đường Lãng du làm hàng rào bảo vệ con sao? - Không, thưa sư phụ. - Nhưng con vẫn chiến đấuu? - Thưa vâng. Đứng trầm ngâm trên bãi cỏ, một lúc sau sư phụ bỗng thốt lên: - Ta đã lưu ý Arya chuyện này, và cô ấy bảo cặp sinh đôi đã được lệnh đánh giá khả năng của con. Chúng báo cáo lại với Ajihad là con đầy đủ khả năng trên mọi lãnh vực, kể cả rào chắn phép thuật. Cả Ajihad lẫn Arya đều không hề tỏ ra nghi ngờ nhận xét của chúng. Eragon nghiến răng nguyền rủa: - Hai thằng miệng trơn như bôi mỡ, đồ dòi bọ, đồ chó má xảo quyệt đó đã định làm con phải chết. - Đừng làm ô uế không khí như thế chứ… Tuy nhiên, ta ngờ rằng cặp sinh đôi để con lâm trận không có rào chắn, không có ý định để con phải chết đâu, mà để Tà Thần Durza bắt được con. - Sao ạ? - Theo những gì con kể lại, thì khi Galbatorix khởi sự khủng bố các đồng minh của Varden một cách gần như chính xác, Ajihad đã nghi ngờ trong hàng ngũ Varden có kẻ phản bội. Anh em sinh đôi đã bị âm thầm theo dõi và bị phát hiện là những kẻ cộng tác với địch. Ngoài ra, chúng còn lùa con vào trung tâm Tronjheim; bằng cách đó chúng cách ly con khỏi Saphira và đặt con trong vòng tiếp cận của Tà Thần. Những điều đó cắt nghĩa rất logic, chúng là những kẻ phản bội. - Nếu chúng thật sự phản bội cũng không thành vấn đề nữa. Anh em sinh đôi chết lâu rồi. Oromis gật gù: - Arya cho biết trong hàng ngũ Urgal có nhiều pháp sư trong trận Farthen Dur và chính cô đã từng chiến đấu với họ. Không pháp sư nào tấn công con sao? - Thưa không. - Càng thêm bằng chứng là con và Saphira không bị giết là để Tà Thần Durza bắt về cho Galbatorix. Một cái bẫy rất tinh vi. Suốt một tiếng sau, Oromis dạy Eragon mười hai phương pháp sát thủ, phương pháp nào cũng nhẹ nhàng như việc cầm lên cây bút, không hề tốn hao công lực. Vừa thuộc lòng chiêu cuối xong, Eragon chợt tủm tỉm cười: - Lần sau gặp lại, tụi Ra’zac đừng hòng thoát khỏi tay con. Oromis cảnh giác đệ tử: - Đối với chúng, con vẫn phải hết sức thận trọng. - Vì sao ạ? Con chỉ lẩm bẩm ba câu là chúng hết ngáp. - Hải âu ăn gì? - Tất nhiên là cá rồi, thưa sư phụ. - Vậy nếu một con cá nhanh hơn, thông minh hơn anh em nó, liệu nó có thoát khỏi cuộc săn đuổi của hải âu không? - Khó lắm. - Đó là vì hải âu được tạo ra để trở thành những thợ săn cá đại tài, cũng như sói là thợ săn trừu. Tất cả loài vật đều được phú cho một khả năng thích hợp. Cũng như Ra’zac được tạo ra để săn mồi là con người. Chúng là quái vật của bóng tối, là cơn ác mộng ám ảnh đồng loại của con. Tóc gáy Eragon dựng lên vì khiếp đảm: - Thật ra là chúng là sinh vật thuộc loài gì? - Chẳng là thần tiên, không là người, người lùn hay rồng. Chúng không thuộc loài thú lông mao, lông vũ, bò sát hay côn trùng; chúng không thuộc bất kỳ loài sinh vật nào. Eragon phì cười: - Chẳng lẽ chúng là thực vật. - Cũng chẳng phải là cây cối. Chúng sản sinh bằng cách đẻ trứng, giống như rồng. Khi mới nở, con nhỏ - hay có thể gọi là nhộng có lớp vỏ cứng bên ngoài giống hình dạng của người. Sự mô phỏng có vẻ kỳ dị, nhưng vẫn đủ để cho phép Ra’zac tiếp cận nạn nhân mà không gây nghi ngờ, cảnh giác nào. Nơi nào con người yếu đuối, thì Ra’zac mạnh mẽ. Chúng có thể nhìn trong đêm tối; đánh hơi thính hơn, nhảy cao hơn, di động lẹ làng hơn chó săn. Tuy nhiên ánh sáng chói chang làm chúng đau đớn và chúng sợ nước sâu đến bệnh hoạn, vì không biết bơi. Vũ khí lợi hại nhất của húng là hơi thở nồng nặc mùi xú uế, làm u mê đầu óc con người. Nhưng hơi thở ma quỷ đó lại kém tác dụng với người lùn và hoàn toàn miễn nhiễm đối với thần tiên. Eragon rùng mình nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy Ra’zac, chân nó tê dại không thể nào bỏ chạy được. - Vừa thấy chúng con tưởng như đang ở trong một giấc mơ, cố chạy nhưng không thể nào chạy được. - Con diễn tả rất chính xác. Dù Ra’zac không thể sử dụng phép thuật, nhưng đừng bao giờ đánh giá thấp chúng. Nếu biết đang bị săn lùng, chúng sẽ lẩn ngay vào bóng tối – vì trong bóng tối chúng rất mạnh - rồi bày mưu phục kích, như chúng đã làm tại Dras-Leona. Kinh nghiệm như Brom còn bị sa vào bẫy chúng. Đừng bao giờ quá tự kiêu, vì sự cao ngạo sẽ làm con bất cẩn và kẻ thù sẽ lợi dụng yếu điểm đó của con. - Con hiểu rồi, thưa thầy. - Ra’zac lớn lên trong thân xác nhộng suốt hai mươi năm. Đêm trăng tròn thứ nhất của năm thứ hai mươi mốt, chúng lột bỏ vỏ ngoài, xòe cánh, hoàn toàn trưởng thành, sẵn sàng bay đi săn tất cả sinh vật khác, chứ không chỉ riêng loài người đâu. - Còn vật mà chúng cưỡi, có thật là… - À, đó là cha mẹ chúng. Eragon nghĩ: “Cuối cùng thì ta cũng đã hiểu được bản chất của kẻ thù.” Từ lần đầu chúng xuất hiện tại làng Carvahall, Eragon đã sợ đến phát khiếp, không chỉ vì những hành vi tàn ác của chúng, mà còn vì nó biết quá ít về sinh vật này. Thiểu hiểu biết, nên Eragon đã tưởng Ra’zac đầy quyền lực phi phàm hơn là chúng thực có. Đối với Eragon, Ra’zac thực sự như những cơn ác mộng. Nhưng bây giờ, những lời dẫn giải của sư phụ đã lột hết hào quang kỳ bí của chúng. Ra’zac không còn quá khủng khiếp nữa. Chúng cũng có những nhược điểm, sợ ánh sáng, sợ nước sâu. Điều đó làm Eragon cảm thấy vững niềm tin: lần sau gặp lại, nhất định nó sẽ tiêu tiệt những con quái vật đã sát hại ông Brom và cậu Garrow của nó. Eragon hỏi: - Thưa thầy, cha mẹ chúng cũng được gọi là Razac ạ? - Không. Chúng ta gọi chúng là Lethrblaka. Trái với đầu óc tăm tối của những đứa con, Lethrblaka có đầy đủ trí khôn của một con rồng. Một con rồng thân hình xoắn vặn, xấu xa, tàn ác. - Thưa thầy, chúng từ đâu tới? - Từ những mảnh đất tổ tiên của con bỏ hoang. Có thể chính vì sự phá phách của những là nguyên nhân bắt buộc vua Palancar phảo di tản. Khi chúng ta và các kỵ sĩ phát hiện ra sự hiện diện đầy ghê tởm của Ra’zac tại Alagaesia, chúng ta đã cùng nhau, bằng mọi cách tiêu diệt chúng như diệt loài sâu ăn lá vậy. Bất hạnh là chúng ta chỉ thành công một phần. Hai Lethrblaka đã trốn thoát cùng với ấu trùng của chúng. Hai ấu trùng đó chính là hai Ra’zac đã gây cho con quá nhiều đau khổ trong thời gian qua. Sau khi giết thủ lãnh kị sĩ rồng Vrael, Galbatorix đã tìm bằng được chúng, thương lượng để chúng phục vụ lão, đáp lại lão sẽ bảo vệ và cung cấp những món ăn khoái khẩu cho chúng. Đó là lý do Galbatorix để cho chúng sống gần Dras-Leona, một thành phố lớn nhất của đế quốc. - Chúng sẽ phải trả giá vì những gì đã gây ra. Oromis gật đầu đồng ý, rồi vào lều, ôm ra sáu phiến đá khổ chừng 15x30 cm: - Thôi, hãy tạm dẹp đề tài không vui đó sang một bên. Ta nghĩ con sẽ thích học cách tạo nên một bức fairth. Đây là một phương pháp tuyệt vời để con tập trung tư tưởng. Những phiến đã này đã được phủ đẫm hỗn hợp nhiều màu mực khác nhau. Chỉ cần tập trung vào hình ảnh muốn ghi lại, rồi nói: “Hãy sao lại chính xác những gì ta thấy bằng tâm tưởng lên mặt phiến đá này.” Eragon vuốt ve bề mặt trơn bóng của phiến đá. Oromis chỉ ra khoảng trống nói: - Eragon, hãy nhìn quanh và tìm một thứ gì đó đáng để con lưu giữ. Vật đầu tiên Eragon nhìn thấy, một bông cúc vàng ngay dưới chân, lại quá đơn giản tầm thường. Ngôi lều của sư phụ, dòng suối trắng đều chẳng có gì độc đáo. Chẳng có gì gây ấn tượng cho người ngắm về chủ đề của bức fairth và người sáng tạo. Phải tìm một chủ đề mong manh, thay đổi, dễ mất mới đáng để lưu lại. Mắt nó chợt sáng lên khi phát hiện một bướu cây màu xanh, kế bên là một cành cây bị gió giông đánh gãy, nhựa cây ứa ra thành những quả cầu nho nhỏ long lanh ánh sáng, bao phủ quanh vết thương của cành cây. Eragon ngồi sát thân cây, để những viên nhựa cây ngược sáng đó đóng khung giữa những chồi lá non rực rỡ. In sâu hình ảnh đó vào tâm tưởng, Eragon lẩm nhẩm thần chú. Mặt phiến đá bừng sáng, những đốm màu xuất hiện, trộn vào nhau tạo lên một sự hài hòa của sắc màu. Sau cùng, khi màu sắc ngừng di chuyển, Eragon ngẩn người nhìn bản sao kỳ lạ của những gì nó muốn ghi lại bằng tâm tưởng. Nhựa cây và những mầm lá non sống động, sắc sảo; còn tất cả những gì chung quanh đều lờ mờ như được nhìn qua một đôi mắt khép hờ. Bức fairth này khác xa toàn cảnh trong sáng trên bức của Oromis ghi lại cảnh Ilirea. Nhận phiến đá từ tay đệ tử, Oromis quan sát mấy phút rồi nói: - Cách suy nghĩ của con không bình thường. Nhiều người phải tập trung một cách khó khăn để có thể tạo ra một hình ảnh họ nhận thức được. Trái lại, dường như con qua sát hầu hết những gì con quan tâm. Vấn đề giống như khi con ngồi tĩnh tọa. Con phải thư giãn, mở rộng tầm mắt, thấm nhuần cảnh vật chung quanh, đừng cân nhắc những cảnh vật đó có quan trọng hay không với con. Đặt bức tranh sang một bên, ông cầm phiến đá thứ hai, đưa cho Eragon: - Thử lại lần nữa, nhớ những gì thầy đã… - Khoan, kỵ sĩ! Giật mình, Eragon quay lại. Orik và Arya đang cùng từ trong rừng chạy ra. Ông lùn vẫy tay chào. Hàm râu cắt tỉa gọn gàng, tóc chải ra sau, buộc thành đuôi ngựa. Ông mặc một áo mới màu nâu và đỏ, thêu chỉ vàng đàng hoàng; trông Orik không còn chút giấu vết nào của tình trạng bét nhè đêm qua. Tất cả chào nhau theo đúng lễ nghi, rồi không dùng cổ ngữ, Oromis lên tiếng: - Xin phép hỏi lý do cuộc thăm viếng này là gì đây? Rất hân hạnh đón mừng quý vị tới túp lều này, nhưng quý vị thấy đó, tôi đang bận việc với Eragon, và đây là một việc tối quan trọng. Arya vội nói: - Xin lỗi đã làm phiền tiền bối, nhưng… Orik lên tiếng: - Lỗi tại tôi. Tôi được đức vua Hrothgar phái tới đây là để bảo đảm Eragon được huấn luyện đúng quy cách. Tôi không dám nghi ngờ gì điều này, nhưng tôi bắt buộc phải đích thân thấy Eragon học tập, để khi trở về Tronjheim, mới có thể trình lên đức vua một cách trung thực những gì tai nghe mắt thấy. - Nhưng những gì tôi dạy Eragon lại không thể chia sẻ được với bất kỳ ai. Những bí mật của kỵ sĩ chỉ dành riêng cho nó thôi. - Tôi hiểu. Tuy nhiên, chúng ta sống trong một thời đại bất an. Những gì rắn chắc, vững vàng như đá, bây giờ cũng có thể ngả nghiêng, đổ vỡ. Chúng ta phải thích nghi để sống còn chứ. Quá lệ thuộc vào Eragon, nên người lùn chúng tôi có quyền xác minh sự huấn luyện cậu ấy có tiến triển như hứa hẹn hay không. Ngài có nghĩ là đòi hỏi của chúng tôi… vô lý không? - Nói năng giảo hoạt lắm. Tóm lại, đây là một phần trách nhiệm của ông? - Trách nhiệm và danh dự. - Không gì làm ông lùi bước? - Tôi e là không, thưa Oromis tiền bối. - Khá lắm. Ông được phép ở lại cho đến hết buổi tập. Ông hài lòng rồi chứ? Orik nhăn mặt: - Buổi học sắp xong rồi sao? - Chúng tôi mới bắt đầu. - Vậy thì được, tôi rất hài lòng. Ít ra là trong lúc này. Trong khi sư phụ và ông lùn trao đổi, Eragon cố đón ánh mắt của Arya, nhưng cô chỉ chăm chăm nhìn vị tiên sinh già. - …Eragon! - Dạ, thưa sư phụ? - Đừng lơ đãng nữa. Thầy muốn con tạo một bức fairth khác. Khai triển tâm tưởng như thầy đã dạy. - Vâng. Eragon ngập ngừng nâng phiến đá, thoang lo âu trước con mắt quan sát của ông lùn và nàng tiên Arya. Nó muốn hoàn thành việc này thật hoàn hảo, để chứng tỏ Oromis là một ông thầy giỏi, nhưng nó không thể tập trung vào những cọng lá non và những hạt nhựa cây được nữa. Arya – như một miếng nam châm – níu kéo tâm trí nó về phía nàng mỗi khi nó tập trung nghĩ về một điều gì khác. Sau cùng, đành tự thú nhận, không thể nào chống lại lực hấp dẫn đó, Eragon tạo một hình ảnh nàng trong tâm tưởng. Miệng lẩm bẩm cổ ngữ, nó trút tất cả say đắm, yêu thương, sợ hãi nàng vào câu thần chú. Kết quả làm nó sững sờ. Trên phiến đá, đầu và hai vai Arya nổi bật trên một hậu cảnh mơ hồ. Bên phải nàng ánh lửa ngời sáng, đôi mắt lịch lãm của nàng nhìn thẳng người đang ngắm tranh. Hình ảnh đó không thể hiện chính nàng, mà thể hiện những gì Eragon đã nghĩ về nàng: bí ẩn, xa cách và là một người đẹp tuyệt trần. Một chân dung không hoàn hảo, không giống hệt nguyên mẫu, nhưng chứa đựng tất cả những gì đầy khát khao, xúc động trong lòng Eragon. Tiếng Saphira xa xôi thì thầm, cảnh giác: “Thận trọng…” Oromis hỏi: - Con dã ghi lại gì vậy? - Con… con không biết… Bối rối khi sư phụ đưa tay đón bức fairth, miễn cưỡng để mọi người quan sát “tác phẩm” mới hoàn thành, nhất là Arya, một lúc sau Eragon mới rời những ngón tay che trên mặt đá, trao bức tranh cho Oromis. Thoáng nhìn, vị lão tiên nghiêm mặt quay lại Eragon làm cho nó sợ rúm người. Ông lẳng lặng trao phiến đá cho Arya. Dù tóc phủ kín mặt, khi nàng cúi nhìn bức tranh, nhưng Eragon thấy những đường gân tay nàng phồng lên, nắm chặt phiến đá. Ông lùn thắc mắc: - Này này, cái gì vậy? Vung cao tấm fairth khỏi đầu, Arya quăng mạnh xuống đất, làm phiến đá vỡ tan tành thành ngàn mảnh. Rồi, nàng thẳng người, nghiêm trang bước qua mặt Eragon, băng qua trảng trống, tiến vào khu rừng chằng chịt của Du Weldenvarden. Ông lùn cúi nhặt một mảnh đá. Mảnh đá trống trơn. Hình ảnh đã tan biến khi phiến đá bị vỡ. Tay rờ rờ chòm râu, ông lẩm bẩm: - Suốt mấy chục năm qua, chưa bao giờ tôi thấy Arya tức giận đến thế. Cậu đã làm gì vậy, Eragon? Eragon thẫn thờ nói: - Một bức chân dung cô ấy. Orik nhăn mặt, thật sự bối rối: - Chân dung? Vậy thì có gì mà… Oromis nói: - Tôi nghĩ tốt nhất là ông nên đi khỏi đây lúc này. Dù sao bài học cũng đã kết thúc, nếu muốn biết thêm về sự tiến bộ của Eragon, hãy trở lại ngày mai. Liếc nhìn Eragon, ông lùn phủi bụi hai tay, nói: - Phải, có lẽ tôi nên đi. Cám ơn tiền bối đã mất thời giờ với tôi. Tiến về Ellesméra, ông ngoái lại bảo Eragon: - Tôi ở một phòng trong điện Tialdarí, nếu thích chuyện trò, cứ đến. Ông lùn đi khỏi, Oromis vén vạt áo, quỳ xuống gom góp những mảnh đã vụn. Eragon hỏi bằng cổ ngữ: - Vì sao vậy, thưa sư phụ? - Có lẽ… con đã làm Arya sợ. - Sợ? Cô ấy chưa biết sợ bao giờ Tuy nói vậy, nhưng thâm tâm Eragon biết điều đó không đúng. Arya rất có tài che dấu nỗi sợ thì đúng hơn. Quỳ một chân, nó nhặt mảnh đá đặt vào tay sư phụ, hỏi: - Xin sư phụ cho con biết, con đã làm gì để Arya sợ? Oromis đứng dậy, tiến tới dòng suối, rải những mảnh đá lên bờ. - Những bức fairth chỉ trình bày những gì con muốn thể hiện. Nghệ thuật ghi hình đó không lừa dối được. Để tạo ra những hình ảnh giả, đòi hỏi tài năng hơn con có hiện nay rất nhiều. Arya biết điều đó. Cô ta cũng biết hình ảnh trong bức fairth là một biểu hiện chính xác tình cảm của con đối với cô. - Nhưng vì sao Arya lại sợ? Oromis buồn rầu mỉm cười: - Vì… điều đó tiết lộ sự mê cuồng đắm đuối của con. Eragon, ta thử phân tích vấn đề nhé. Trong khi con đủ khôn lớn để được coi như một người đàn ông trong xã hội loài người, thì trong con mắt chúng ta, con chẳng hơn gì một đứa trẻ. Eragon nhíu mày, nhớ lại lời nói của Saphira đêm qua. - Thường thì ta không so sánh tuổi tác giữa loài người và thần tiên, nhưng vì con chia sẻ tuổi thọ cùng chúng ta, con phải được xét đoán theo tiêu chuẩn của chúng ta. Con là một kỵ sĩ. Chúng ta tùy thuộc vào sự giúp sức của con để triệt hạ Galbatorix. Nếu con xao lãng việc học tập, sẽ là một thảm họa đối với tất cả mọi người đang sống trên nước Alagaesia. Vậy thì Arya đáp lại bức fairth của con bằng cách nào đây? Rõ ràng con đã nhìn cô ấy qua một lăng kính lãng mạn. Và thầy cũng không nghi ngờ tình cảm cô ấy dành cho con. Nhưng sự kết hợp đó không thể tránh khỏi tuổi trẻ, văn hóa, dòng giống và nhiệm vụ của con. Mối quan tâm của con chỉ đặt Arya vào một hoàn cảnh khó xử. Cô ấy không dám phản đối con, vì sợ con rối trí trong việc học. Là con gái của nữ hoàng, cô ta không thể liều lĩnh làm mất lòng một kỵ sĩ, nhất là một người đang gánh vác rất nhiều trách nhiệm… Kể cả nếu con là một vị hôn phu tương xứng, Arya vẫn phải nén lòng, để con có thể dâng hiến tất cả sức lực, tâm trí cho công việc trước mắt. Cô ta sẽ hy sinh hạnh phúc vì đại sự. Giọng ông trầm hẳn xuống: - Eragon, con phải hiểu rằng, việc giết Galbatorix quan trọng hơn bất cứ chuyện cá nhân nào. Ông ngừng lại, dịu dàng nhìn Eragon: - Bây giờ con còn thấy Arya tỏ ra quá lo sợ, vì e tình cảm của con dành cho cô ấy sẽ làm hỏng mưu đồ của chúng ta, là lạ lùng nữa không? Eragon lắc đầu. Cảm thấy xấu hổ vì thái độ của nó là nguyên nhân làm Arya đau khổ, Eragon tự trách mình đã quá vụng về, non nớt. Nó tự nhủ: “Mình đã có thể tránh được tất cả những rắc rối này, nếu đủ bình tĩnh hơn.” Vỗ vai đệ tử, Oromis đưa nó trở vào lều: Đừng nghĩ thầy là người vô tình. Eragon, bằng cách này hay cách khác, ai cũng có thời sôi nổi như con. Đó là một phần đời khi khôn lớn. Ta cũng biết con cảm thấy khó khăn ra sao. Nhưng đó là điều cần thiết để chúng ta đi đến chiến thắng. - Con hiểu, thưa sư phụ. Hai thầy trò ngồi bên bàn bếp, Oromis vừa bày bút giấy để dạy cổ ngữ cho Eragon, vừa nói: - Thật vô lý nếu thầy mong con quên tình cảm với Arya, nhưng thầy rất mong con tạm quên để đừng xao lãng khi nghe thầy giảng dạy. Con hứa chứ? - Vâng, thưa thầy, con xin hứa. - Còn Arya? Con sẽ có hành động cao cả nào để giúp cô ấy trong tình trạng khó khăn này? Eragon ngập ngừng: - Con không muốn mất tình bạn của Arya. - Đúng vậy. - Vì vậy… con sẽ tìm Arya để xin lỗi và bảo đảm là sẽ không bao giờ làm nàng phải khó xử như thế nữa. Rất khó thốt ra lời hứa đó, nhưng nói xong, Eragon thấy nhẹ hẳn lòng. Mặt sư phụ rạng rỡ khi cất tiếng vui vẻ nói: - Chỉ riêng hành động đó thôi, đủ chúng tỏ con đã trưởng thành. Vuốt tấm giấy phẳng phiu trên mặt bàn, Eragon lặng nhìn màu trắng trải rộng trước mắt, rồi chấm ngọn bút lông vào bình mực, bắt đầu sao chép một hàng cổ ngữ. Mỗi nét móc sổ của mỗi con chữ nổi bật trên giấy trắng như những nét vạch của bóng đêm. Eragon chăm chú viết, để cố quên đi những cảm xúc đang rối bời trong lòng. The End (Convert by : cancer84 Of http://sl4x.com)